Professional Documents
Culture Documents
Câu Cá Mùa Thu
Câu Cá Mùa Thu
(Thu điếu)
NGUYỄN KHUYẾN
I. GIỚI THIỆU
1. Tác giả
- Tiểu sử, cuộc đời, con người:
+ Xuất thân
+ Con đường khoa cử: Đỗ đầu cả 3 kì thi (Hương, Hội, Đình -> Tam Nguyên
Yên Đổ.
+ Con đường làm quan
+ Con người Nguyễn Khuyến
- Sáng tác:
+ Cả chữ Hán lẫn chữ Nôm. Hiện còn trên 800 bài, gồm nhiều thể loại khác
nhau.
+ Nội dung thơ Nguyễn Khuyến
+ Đóng góp của Nguyễn Khuyến cho nền văn học dân tộc
2. Giới thiệu về bài thơ
- Là bài thơ tiêu biểu trong chùm thơ thu
- Nhận xét của Xuân Diệu về thơ của Nguyễn Khuyến
II. ĐỌC HIỂU
Bài thơ có hai bức tranh: bức tranh thiên nhiên (cảnh thu) và bức tranh tâm
trạng (tình thu), qua cảnh thu mà thấy được tình thu của thi nhân.
1. Bức tranh cảnh vật mùa thu (cảnh thu)
- Điểm nhìn để cảm nhận cảnh thu của tác giả: Cảnh thu được quan sát và cảm
nhận từ gần đến cao xa rồi từ cao xa trở lại gần: từ chiếc thuyền câu nhìn ra mặt
ao, nhìn lên bầu trời, nhìn ra ngõ trúc rồi lại trở về với ao thu, với thuyền câu. Từ
một khung ao hẹp, không gian mùa thu và cảnh sắc mùa thu được mở ra nhiều
hướng khác nhau thật sinh động (khác với “Vịnh mùa thu”, cảnh lại được cảm
nhận từ cao xa tới gần rồi từ gần tới cao xa).
- Không khí mùa thu được gợi lên từ sự dịu nhẹ, thanh sơ của cảnh vật, qua
màu sắc, đường nét, chuyển động và sự hòa sắc tạo hình:
+ Màu sắc: nước trong veo, sóng biếc, trời xanh ngắt
+ Đường nét, chuyển động: sóng “hơi gợn tí”, lá vàng “khẽ đưa vèo”, tầng mây
“lơ lửng”
+ Sự hòa sắc tạo hình:
++ Sự hòa sắc: Đó là sự hòa điệu giữa sắc xanh và sắc vàng. Sắc xanh mênh
mông bởi màu xanh của sóng nước ao thu, màu xanh của bầu trời thu, màu xanh
của tre, của bèo trong ao thu hòa với một thoáng sắc vàng của chiếc lá thu rơi. Sự
hòa sắc này đã từng được nhà thơ Xuân Diệu nhận xét: “Cái thú vị của bài Thu
điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo,
có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi”.
++ Tạo hình: hình ảnh ao thu nhỏ, chiếc thuyền câu bé tẻo teo và dáng người
cũng như thu nhỏ lại.
Nét riêng của làng quê Bắc Bộ, cái hồn dân dã được gợi lên từ khung ao hẹp, từ
cánh bèo, từ ngõ trúc quanh co.
- Cảnh thu đẹp nhưng tĩnh lặng và đượm buồn:
+ Không gian: tĩnh, vắng vẻ bởi vắng người, vắng tiếng “Ngõ trúc quanh co
khách vắng teo”.
+ Nếu có các chuyển động thì các chuyển động ấy rất nhẹ, rất khẽ, không đủ tạo
ra âm thanh: sóng “hơi gợn tí”, mây “lơ lửng”, lá “khẽ đưa”. Tiếng cá đớp mồi dù
có phát ra âm thanh thì đó cũng là một âm thanh rất nhỏ, càng làm tăng thêm sự
yên ắng, tĩnh mịch của cảnh vật (nghệ thuật dùng “động” để nói “tĩnh”, vốn là thủ
pháp quen thuộc của thơ cổ phương Đông)