You are on page 1of 15

I.

MỞ ĐẦU
II. LÝ LUẬN VỀ QUÁ TRÌNH TUẦN HOÀN VÀ CHU CHUYỂN TƯ BẢN
1. Quá trình tuần hoàn tư bản
1.1. khái niệm, mô hình
* Khái niệm:
Tuần hoàn tư bản là sự vận động của tư bản lần lượt trải qua ba giai đoạn
mang ba hình thái (tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa), thực hiện
ba chức năng (chuẩn bị sản xuất giá trị thặng dư, sản xuất giá trị thặng dư, thực
hiện giá trị thặng dư) và quay trở về hình thái ban đầu cùng với giá trị thặng dư.

Mô hình của tuần hoàn tư bản được thể hiện như sau:
SLĐ

T-H ……SX…… H’ - T’

TLSX
Qua mô hình này càng thấy rõ hơn nguồn gốc của gia trị thặng dư được tạo
ra trong sản xuất (giai đoạn 2) và do sức lao động tạo ra chứ không phải mua rẻ
bán đắt mà có.

1.2. Ba giai đoạn, hình thái và chức năng của tuần hoàn tư bản

Tư bản công nghiệp (với nghĩa các ngành sản xuất vật chất), trong quá trình
tuần hoàn đều vận động theo công thức:
Tuần hoàn tư bản bao gồm 3 giai đoạn gồm hai giai đoạn lưu thông và một
giai đoạn sản xuất:

1.2.1. Giai đoạn lưu thông:

Ở giai đoạn lưu thông, nhà tư bản xuất hiện trên thị trường với tư cách là
người mua, dùng tiền để mua sức lao động và tư liệu sản xuất. Tư bản tồn tại
dưới hình thái là tư bản tiền tệ. Với chức năng chính của giai đoạn này là nhà tư
bản mua các yếu tố sản xuất cho quá trình sản xuất. Kết quả là tư bản tiền tệ trở
thành hàng hóa dưới dạng tư liệu sản xuất và sức lao động để đưa vào sản xuất,
trở thành tư bản sản xuất.

1.2.2. Giai đoạn sản xuất:

Tại giai đoạn sản xuất, nhà tư bản tiêu thụ những hàng hóa đã mua vào
việc sản xuất. Trong quá trình sản xuất, công nhân đóng góp sức lao động của
mình để tạo ra giá trị mới cho nhà tư bản, còn tư liệu sản xuất được trưng dụng,
chế biến, khấu hao máy móc được giữ nguyên và chuyển hóa toàn bộ vào giá trị
thành phẩm cuối cùng.

Ở cuối quá trình sản xuất, bằng sức lao động của mình, người lao động đã
tạo ra những hàng hóa mới mà giá trị của nó dôi ra so với các chi phí mua các yếu
tố sản xuất mà nhà tư bản đã bỏ ra ban đầu. Phần dôi ra đó chính là giá trị thặng
dư do công nhân tạo ra.
Tại giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản sản xuất. Có chức
năng kết hợp hai yếu tố là tư liệu sản xuất và sức lao động của con người để tạo
ra hàng hóa mà giá trị của chúng bao hàm cả giá trị thặng dư. Trong các giai đoạn
tuần hoàn tư bản thì giai đoạn sản xuất có ý nghĩa quan trọng nhất, vì nó gắn liền
với mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Cuối giai đoạn sản xuất, tư bản sản xuất chuyển hóa thành tư bản hàng hóa
lưu thông trên thị trường. Trong công thức này H' chỉ tư bản dưới hình thái hàng
hóa mà giá trị của nó bằng phần giá trị mà nhà tư bản đã hao phí để sản xuất ra
nó cộng với giá trị thặng dư.

1.2.3. Giai đoạn lưu thông:

Đây là lúc nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán sản phẩm,
dịch vụ. Họ bán thành phẩm làm ra để thu tiền về. Trong giai đoạn này tư bản tồn
tại dưới hình thái tư bản hàng hóa, chức năng là thực hiện giá trị của khối lượng
hàng hóa đã sản xuất ra trong đó đã bao hàm một lượng giá trị thặng dư.

Công thức vận động của tư bản ở giai đoạn thứ ba biểu thị như sau:

H' - T'

Kết thúc giai đoạn ba, tư bản hàng hóa chuyển hóa và tồn tại dưới hình thái là
tư bản tiền tệ. Đến đây mục đích của nhà tư bản đã được thực hiện, tư bản tiếp
tục quay lại hình thái ban đầu trong tay chủ của nó, nhưng với lượng lớn hơn
trước do sự sinh ra của giá trị thặng dư. Số tiền bán hàng hóa đó, nhà tư bản lại
đem dùng vào việc mua tư liệu sản xuất và sức lao động cần thiết để tiếp tục sản
xuất và toàn bộ quá trình trên được tuần hoàn trở lại.

* Kết lại:

Vậy, tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục của tư bản trải qua ba
giai đoạn, lần lượt mang ba hình thái khác nhau, thực hiện ba chức năng khác
nhau để rồi lại quay trở về hình thái ban đầu với giá trị không chỉ được bảo tồn
mà còn tăng lên.

Với tư cách là một giá trị, tư bản đã trải qua một chuỗi biến hoá hình thái
có quan hệ với nhau, quy định lẫn nhau. Trong các giai đoạn đó, có hai giai đoạn
thuộc lĩnh vực lưu thông và một giai đoạn thuộc lĩnh vực sản xuất.

1.3. Ý nghĩa của quá trình tuần hoàn tư bản:


Nghiên cứu sự biến hóa từ tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất rồi đến tư
bản hàng hóa, mà sự vận động của chúng như một chuỗi biến hóa hình thái của
tư bản cho thấy tư bản không phải là vật ở trại thái tĩnh mà nó luôn tồn trong quá
trình vận động không ngừng.
Thực tiễn quá trình sản xuất và lưu thông cho thấy không phải lúc nào các
giai đoạn và hình thái tư bản trong quá trình tuần hoàn đều ăn khớp với nhau mà
không có sự ách tắc và gián đoạn. Mỗi sự ách tắc, gián đoạn nào đó đều gây rối
loạn hay đình trệ cho sự tuần hoàn của tư bản. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến
thơi gian tư bản nằm lại ở mỗi giai đoạn. Do vậy thu hẹp hay kéo dài các thời gian
đó đều ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của tư bản.
Tuần hoàn của tư bản chỉ tiến hành một cách bình thường khi hai điều kiện
sau đây được thỏa mãn:
 Các giai đoạn của chúng được diễn ra liên tục
 Các hình thái tư bản cùng tồn tại và được chuyển hóa một cách đều
đặn
Tuần hoàn của tư bản qua ba giai đoạn, trong mỗi giai đoạn tư bản tồn tại
dưới hình thái và thực hện chức năng tương ứng điều đó chứa đựng khả năng
tách rời. Khả năng trên biến thành hiện thực khi tái sản xuất tư bản phát triển thì
những chức năng trên được chuyên môn hóa tách ra thành những ngành độc lập,
những thương nghiệp, công nghiệp, ngân hàng.
2. Quá Trình chu chuyển tư bản
*Khái niệm:
Chu chuyển tư bản là sự tuần hoàn của tư bản nếu xét nó là một quá trình
định kỳ đổi mới, diễn ra liên tục và lặp đi lặp lại không ngừng. Chu chuyển tư bản
phản ánh tốc độ vận động nhanh hay chậm của tư bản.
2.1. Thời gian chu chuyển của tư bản
Thời gian chu chuyển tư bản là thời gian tính từ khi tư bản ứng ra dưới một
hình thái nhất định cho đến khi thu về cũng dưới hình thái ban đầu, có kèm theo
giá trị thặng dư.
Thời gian chu chuyển của tư bản cũng là thời gian tư bản thực hiện được
một vòng tuần hoàn. Tuần hoàn tư bản bao gồm quá trình sản xuất và quá trình
lưu thông, nên thời gian chu chuyển tư bản cũng bao gồm thời gian sản xuất và
thời gian lưu thông.
2.1.1. Thời gian sản xuất (thời gian tư bản nằm ở trong lĩnh vực sản xuất)
Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất. Thời
gian sản xuất = thời gian lao động + thời gian gián đoạn lao động + thời gian dự
trữ sản suất.
* Thời gian sản xuất bao gồm:
 Thời gian lao động
 Thời gian gián đoạn lao động
 Thời gian dự trữ sản xuất.

* Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn là do tác động của các yếu tố:
 Tính chất của ngành sản xuất, ví dụ ngành đóng tàu thời gian sản
xuất thường dài hơn ngành dệt vải hay dệt thảm trơn thời gian
thường ngắn hơn dệt thảm trang trí hoa văn....
 Quy mô hoặc chất lượng các sản phẩm ví dụ như xây dựng một xí
nghiệp, công xưởng mất thời gian dài hơn xây dựng một nhà ở thông
thường.
 Thời gian vật sản xuất chịu tác động của quá trình tự nhiên dài hay
ngắn.
 Năng suất lao động.
 Dự trữ yếu tố sản xuất.
2.1.2. Thời gian lưu thông (thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông)
Trong thời gian lưu thông, tư bản không làm chức năng sản xuất, do đó
không sản xuất ra hàng hóa, cũng không sản xuất ra giá trị thặng dư. Thời gian lưu
thông gồm có thời gian mua và thời gian bán hàng hóa. Thời gian lưu thông dài
hay ngắn là do các nhân tố sau đây:
 Thị trường xa hay gần
 Tình hình thị trường xấu hay tốt
 Trình độ phát triển của ngành giao thông vận tải, bưu chín viễn
thông...
Thời gian chu chuyển của tư bản càng ngắn thì càng tạo điều kiện cho giá trị
thặng dư được sản xuất ra nhiều hơn, tư bản càng lớn nhanh hơn.
Các loại tư bản khác nhau hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau thì số
vòng chu chuyển không giống nhau. Để so sánh tốc độ vận động của các tư bản
khác nhau, người ta tính số vòng chu chuyển của các loại tư bản đó trong một
thời gian nhất định.
2.2. Tốc độ chu chuyển tư bản:
Tốc độ chu chuyển của tư bản là số lần mà một tư bản được ứng ra dưới
một hình thái nhất định quay trở về dưới hình thái đó cùng với giá trị thặng dư
tính trong một đơn vị thời gian nhất định. Thông thường tốc độ chu chuyển được
tính bằng số vòng chu chuyển của tư bản trong một năm.
Các tư bản khác nhau hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau thì số lần
chu chuyển trong một đơn vị thời gian (một năm) không giống nhau, nói cách
khác, tốc độ chu chuyển của chúng khác nhau.
Tốc độ chu chuyển của tư bản đo bằng số lần (vòng) chu chuyển của tư bản
trong một năm.Ta có công thức tính tốc độ chu chuyển của tư bản như sau:
n= CH/ch
* Trong đó:
 n: Số lần chu chuyển của tư bản trong 1 năm.
 CH: Thời gian trong năm.
 ch: Thời gian chu chuyển của một tư bản nhất định
Như vậy, tốc độ chu chuyển của tư bản tỉ lệ nghịch với thời gian chu chuyển
của tư bản. Muốn tăng tốc độ chu chuyển của tư bản phải giảm thời gian sản xuất
và thời gian lưu thông của nó.
*Ví dụ: một nhà tư bản chu chuyển 1 vòng mất 4 tháng thì tốc độ chu
chuyển trong năm sẽ là:
n = 12/4 = 3 (vòng/ 1 năm)
Trên thực tế, để tăng thêm nhiều giá trị thặng dư hơn, chủ tư bản sẽ tìm
cách đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản hay đẩy nhanh quá trình xoay vòng
vốn, tăng được tốc độ chu chuyển của tư bản. Muốn vậy phải rút ngắn thời gian
một vòng chu chuyển của tư bản xuống.
Lực lượng sản xuất phát triển, kỹ thuật tiến bộ, những tiến bộ về mặt tổ
chức sản xuất, việc áp dụng những thành tựu của hoá học, sinh học hiện đại vào
sản xuất, phương tiện vận tải và bưu điện phát triển, tổ chức mậu dịch được cải
tiến... cho phép rút ngắn thời gian chu chuyển của tư bản, do đó, tăng tốc độ chu
chuyển của tư bản.
* Ví dụ: Tư bản đầu tư 5tr.USD, trong đó: máy móc thiết bị 3trUSD. Khấu
hao 10 năm; tiền lương 200.000 USD, quay 5 vòng/năm; nguyên vật liệu 3 tháng
mua 1 lần. Tính tốc độ chu chuyển của tư bản?
- Giá trị máy móc, thiết bị tiêu dùng trong 1 năm:
3tr : 10 năm = 0,3tr / năm
- TB khả biến chu chuyển trong năm:
200.000 USD x 5 = 1tr.USD.
- Nguyên vật liệu
(C2) = K – ( C1 + V) = 5tr –( 3tr + 0,2tr) = 1,8tr.
- Nguyên vật liệu chu chuyển trong năm:
1,8tr. x 4 = 7,2tr
- Tổng TB chu chuyển trong năm:
0,3tr.(C1)+ 7,2tr. (C2)+ 1tr( v) = 8,5tr USD/ năm
- Tốc độ chu chuyển TB:
8,5tr: 5tr/năm= 1,7 vòng/ năm
*Ý nghĩa: Để nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản, thu hồi vốn nhanh cần
phải tăng tốc độ chu chuyển tư bản cố định, tận dụng tối đa công suất máy móc
thiết bị. Phải đẩy nhanh tốc độ xây dựng để đưa công trình, máy móc vào sản xuất
càng sớm càng tốt.
Quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn nhanh sẽ góp phần phát triển kinh
doanh của doanh nghiệp. Nghiên cứu tuần hoàn và chu chuyển tư bản sẽ giúp các
doanh nghiệp tìm ra các biện pháp phù hợp để tăng tốc độ chu chuyển vốn và đó
chính là quá trình tái sản xuất vốn. Tái sản xuất vốn mở rộng dẫn đến lợi nhuận
doanh nghiệp tăng từ đó tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trường. Từ đó góp phần tích cực đến sự phát triển của doanh nghiệp cũng như
của nền kinh tế đất nước.
3. Tư bản cố định và tư bản lưu động:
Tư bản sản xuất gồm nhiều bộ phận và có thời gian chu chuyển khác nhau
về mặt giá trị, do đó ảnh hưởng đến thời gian chu chuyển của toàn bộ tư bản. Căn
cứ vào sự khác nhau trong phương thức (đặc điểm) chu chuyển về mặt giá trị
nhanh hay chậm của các bộ phận tư bản để phân chia tư bản sản xuất thành tư
bản cố định và tư bản lưu động.
3.1. Tư bản cố định
3.1.1. Khái niệm:
Tư bản cố định là một bộ phận của tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy
móc, thiết bị, nhà xưởng, … tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, những giá trị
của nó không chuyển hết một lần vào sản phẩm mà chuyển dần từng phần theo
mức độ hao mòn của nó trong thời gian sản xuất.
3.1.2 Đặc điểm:
* Có hai loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình:
Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất, hao mòn về cơ học có thể nhận
thấy. Hao mòn hữu hình do quá trình sử dụng và sự tác động của tự nhiên làm
cho các bộ phận của tư bản cố định dần dần hao mòn đi tới chỗ hỏng và phải
được thay thế.
Hao mòn vô hình là sự hao mòn thuần túy về mặt giá trị. Hao mòn vô hình
xảy ra ngay cả khi máy móc còn tốt nhưng bị mất giá vì xuất hiện các máy móc
hiện đại hơn, rẻ hơn hoặc có giá trị tương đương, nhưng công suất cao hơn. Để
tránh hao mòn vô hình, các nhà tư bản tìm cách kéo dài ngày lao động, tăng
cường độ lao động, tăng ca kíp làm việc,
Tư bản cố định tham gia nhiều chu kỳ kinh doanh và luân chuyển dần dần
từng phần vào trong giá trị sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của mỗi chu kỳ kinh
doanh. Hay nói cách khác, cứ sau mỗi chu kỳ kinh doanh vốn cố định được tách
thành 2 phần: một phần chuyển vào giá thành kinh doanh của chu kỳ kinh doanh
này, và phần còn lại sẽ được cố định chờ để luân chuyển cho các chu kỳ kinh
doanh tiếp theo. Cứ như thế cho đến khi nào tư bản cố định hết thời gian sử dụng
thì vốn cố định mới chấm dứt một vòng tuần hoàn lưu chuyển giá trị.
3.2. Tư bản lưu động
3.2.1 Khái niệm:
Tư bản lưu động là một bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên
liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ, sức lao động,… giá trị của nó lưu thông toàn bộ cùng
với sản phẩm và được hoàn lại toàn bộ cho các nhà tư bản sau mỗi quá trình sản
xuất.
3.2.2.Đặc điểm:
Tư bản lưu động là biểu hiện bằng tiền về toàn bộ tài sản lưu động của
doanh nghiệp để phục vụ cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Khi tham
gia vào kinh doanh, tài sản lưu động luôn vận hành, thay thế và chuyển hóa lẫn
nhau qua các công đoạn của quá trình kinh doanh.
Chỉ tham gia vào một chu kỳ kinh doanh. Với đặc điểm này, đòi hỏi doanh
nghiệp luôn phải duy trì một khối lượng vốn lưu động nhất định để đầu tư, mua
sắm tài sản lưu động, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh tiến hành liên tục.
Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Việc tăng tốc độ
chu chuyển của tư bản lưu động có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc độ chu
chuyển của tư bản lưu động tăng lên sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động được sử
dụng trong năm, do đó tiết kiệm được tư bản ứng trước; mặt khác, do tăng tốc độ
chu chuyển của tư bản lưu động khả biến làm cho tỷ suất giá trị thặng dư và khối
lượng giá trị thặng dư hằng năm tăng lên. Việc đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của
tư bản lưu động sẽ góp phần tăng hiệu quả sử dụng của vốn tư bản, tiết kiệm tư
bản ứng trước, đồng thời tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư cho nhà tư
bản.
3.3. Ý nghĩa của việc phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu
động.
Việc phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động chỉ diễn ra đối với tư bản
sản xuất, căn cứ vào tính chất chuyển giá trị vào trong sản phẩm mới. Tuy sự phân
chia tư bản cố định và tư bản lưu thông thật sự chưa làm rõ bản chất bóc lột của
tư bản nhưng có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động của doanh nghiệp trong việc
bảo tồn và tái sản xuất tư bản cố định và lưu động, xác định đúng những chi phí
hình thành sản phẩm hàng hóa. Trong quản lý kinh tế và trong sản xuất, doanh
nghiệp cần có cách thức tác động phù hợp với tính chất vận động của từng loại tư
bản để nâng cao
III. VẬN DỤNG LÝ THUYẾT CHU CHUYỂN HÀNG HÓA VÀO NỀ KINH TẾ NƯỚC TA
HIỆN NAY
1. vận dụng lý thuyết để nâng cao hiệu quả sản suất kinh doanh của
doanh nghiệp
Kể từ năm 1986, cùng với chích sách chuyển đổi nề kinh tế bao cấp sang
nền kinh tế thị trường theo đinh hướng tư bản chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta đã
từng bước khôi phục, tăng trưởng nhanh và ổn định. Cũng theo đó, nhà nước
không còn trực tiếp can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà chỉ
quản lý doanh nghiệp ở tầm vĩ mô. Các doanh nghiệp có trách nhiệm tự mình sản
xuất và tìm kiếm đường lối cho doanh nghiệp. Và để nâng cao hiệu quả sản suất
kinh doanh và gia tăng lợ nhuận, chúng ta có thể vận dụng những lý thuyết của tư
bản chu chuyển hàng hóa để cải thiện hoạt động của doanh nghiệp.

1.1. Xác định đường lối sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Có rất nhiều nhân tố chủ quan và khách quan dẫn đến sự thành công của
một doanh nghiệp. Song nhân tố then chốt quyết định sự thành công hay thất bại
của doanh nghiệp là dựa vào quyết định của nhà tư bản. Doanh nghiệp phải xác
định được đường lối và hướng đi của mình: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào?
sản xuất cho ai ?.
Muốn trả lời nghững câu hỏi trên, việc đầu tiên cần phải làm là nghiên cứu
thị trường để xác định xem thị trường đang thiếu cái gì, cần mặt hàng gì. Cần tìm
hiểu xác đối thủ cạnh tranh trong thị trường là ai, khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp cũng như khả năng sinh lời khi doanh nghiệp quyết định sản xuất kinh
doanh hàng hóa đó. Sau đó nhà tư bản sẽ bỏ vốn để mua tư liệu sản xuất như
nguyên vật liệu, sức lao động, máy móc... Để có thể tồn tại và phát triển, nhà lãnh
đạo cần có tầm nhìn đúng đắn và lâu dài, từ đó vạch ra chiến lược và kế hoạch
phù hợp. Dựa vào phân tích tốc độ chu chuyển của vốn, các doanh nghiệp không
chỉ lên kế hoạch sản xuất kinh doanh mà còn phải xây dựng chiến lược kinh doanh
dài hạn; dựng các quỹ như : quỹ đầu tư phát triển, quỹ khấu hao, quỹ phúc lợi;
cân đối và sử dụng nguồn vốn hợp lý.
1.2. Đưa ra các giải pháp tăng tốc độ chu chuyển vốn
Để rút ngắn chu kỳ sản xuất cần có những biện pháp để rút ngắn thời gian
sản suất và thời gian lưu thông hàng hóa, ta có thể kể đến những biện pháp sau:
1.2.1. Vận dụng các biện pháp rút nghắn thời gian sản suất:
 áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại để tăng năng suất lao động. Liên
tục cập nhập những phơng thức sản suất, những loại máy móc mới
 Quản lý, đầu tư nguồn vốn có hiệu quả, có mục đích tránh tinh trạng
đầu tư không trọng điểm, không đem lại kết quả gây ra thất thoát
nguồn vốn.
 Mở rộng quan hệ để liên doanh, liên kết.
 Cải tiến bộ máy tổ chức và quản lý lao động.
 Đổi mới và kiện toàn bộ máy quản lý từ trên xuống dưới, đầu tư chi
phí để đội ngũ quản lý có thể trau dồi thêm kiến thức. Chúng ta phải
thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng kiến thức mới cho họ, chỉ cólàm
như vậy mới đáp ứng được xu thế của thời đại.
 Nâng cao năng suất lao động của người lao động bằng cách nâng cao
tay nghề cho công nhân
 Trực tiếp phải bố trí thời gian làm việc hợp lý 40 giờ một tuần
 Trả lương và những phần thưởng xứng đáng cho người lao động để
họ có thời gian và vật chất để cải thiện đời sống, khiến họ làm việc có
năng suất và hiệu quả hơn.
1.2.2. Để rút ngắn thời gian lưu thông cần sử dụng các biện pháp sau :
 Ngiên cứu và hiểu rõ thị trường, nắm bắt được nhu cầu và mong
muốn của người tiêu dùng để đưa ra các quyết định một cách nhanh
chóng.
 Hoàn thiện cơ sở hạ tầng dẫn đến rút ngắn thời gian lưu thông. Xây
dựng các nhà máy gần thị trường tiêu thụ để rút ngắn thờigian lưu
thông hàng hóa
 Không ngừng cải tiến mặt hàng và chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa
sản phẩm để bắt kịp thị hiếu và thỏa mãn cầu của người tiêu dùng.
 áp dụng các hình thức thanh toán linh hoạt, xác định rõ các thị
trường để phân phối các hàng hoá sao cho thích hợp nhất, tranh lãng
phí thời gian
 Mở rộng quan hệ liên doanh, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm,
giúp sản phẩm lưu thông

2. Vận dụng vào việc huy động vốn và sử dụng hợp lý nguồn vốn
2.1. Tìm nguồn vốn trên thị trường:
Một doanh nghiệp muốn sản xuất kinh doanh được thì phải có vốn. Nguồn
vốn đóng một vau trò hết sức quan trọng trong quá trình hoạt động của doanh
nghiệp. Vậy nên để doanh nghiệp hoạt động hiệu quả doanh nghiệp phải tìm cách
để có được nguồn vốn hợp lý từ thị trường và đồn thời sử dụng chúng một cách
hợp lý để đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp. Ngoài nguồn vốn trực tiếp từ nhà
nước (doanh nghiệp nhà nước) hay từ nguồn vốn cá nhân, thế chấp, vay tín dụng
(đối với doanh nghiệp tư nhân), các công ti có thể tìm đến các kênh dưới đây để
thu thập nguồn vốn:
 Cổ phần hoá doanh nghiệp là vấn đề huy động vốn rất phổ biến hiện nay.
Doanh nghiệp sẽ cung cấp chứng khoán cho thị trường chứng khoán và thị
trường cung cấp vốn dài hạn cho doanh nghiệp. Nhờ có thị trường chứng
khoán các doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu trái phiếu dễ dàng. khi
cần tăng vốn hoặc cần vốn thời gian dài đề đổi các máy móc thiết bị.
 Ngoài các nguồn vốn ở trên các doanh nghiệp của chúng ta có một phương
thức tạo vốn mới đó là phát hành trái phiếu của công ty.
 Ngoài ra các doanh nghiệp tư nhân còn có một hình thức tạo vốn và kỹ
thuật mới đó là liên doanh với các công ti nước ngoài. Hình thức liên doanh
có thể là một phần hoặc toàn phần.
 Ngoài ra còn có một số nguồn tìm vốn khác từ các tổ chức, quỹ hỗ trợ kinh
doanh hay là các nhà đầu tư mạo hiểm,…
* Tóm lại: Nguồn vốn của các doanh nghiệp có từ nhiều hướng khác nhau.
Vấn đề hiện nay là các doanh nghiệp phải quản lý như thế nào để sản xuất kinh
doanh tốt dựa trên nguồn vốn ấy.
2.2. Những tồn tại, hạn chế trong sử dụng vốn ở các doanh nghiệp:
Quy mô vốn của các doanh nghiệp còn nhỏ bé, chưa đáp ứng được nhu cầu
phát triển hiện nay. Không chỉ các doanh nghiệp lớn đang gặp vấn đề về hiệu quả
sử dụng vốn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đang có gặp khó khăn tương tự..
Quản lý tài chính của doanh nghiệp hiện nay không phải là dễ dàng, làm sao để
nguồn vốn của các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả là rất khó, điều này đòi
hỏi các chủ doanh nghiệp phải có phương hướng biện pháp thích hợp.

2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nước ta
2.3.1. Lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm:
Trong nền kinh tế thị trường, quy mô và tính chất sản suất kinh doanh
không phải là điều mà doanh nghiệp có thể tự mình quyết định được. Vì vậy, việc
lựa chọn phương án kinh doanh phù hợp với điều kiện thị trường sẽ giúp cho
doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh một cách hiệu quả. Việc đó sẽ giúp doanh
nghiệp tiếp cận được với khách hàng một cách nhanh chóng, giúp vốn lưu động
chu chuyển đều đặn.
2.2.2. Lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn vốn:
Cần xác định đúng nhu cầu vốn lưu động cần thiết cho từng thời kỳ sản
xuất, kinh doanh nhằm huy động hợp lý các nguồn vốn bổ sung; Tổ chức quản lý
vốn lưu động có kế hoạch và khoa học; Tổ chức quản lý vốn lưu động có kế hoạch
và khoa học.
2.2.3. Tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh:
Đây là một vấn đề quan trọng giúp quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành
thông suốt đều đặn, nhịp nhàng giữa các khâu dự trữ, sản xuất, tiêu thụ. Tổ chức
tốt quá trình thu mua, dự trữ vật tư nhằm đảm bảo hạ giá thành thu mua vật tư,
hạn chế tình trạng ứ đọng vật tư dự trữ, dẫn đến kém phẩm chất gây ứ đọng vốn
lưu động; Quản lý chặt chẽ việc tiêu dùng vật tư theo định mức nhằm giảm chi phí
nguyên, nhiên, vật liệu trong giá thành sản phẩm; Tổ chức tốt quá trình thanh
toán tránh và giảm các khoản nợ đến hạn hoặc quá hạn chưa đòi được; Rút ngắn
chu kỳ sản xuất, kinh doanh, giảm giá thành sản xuất thông qua việc áp dụng các
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
* Kết luận: Vấn đề cốt lõi để quản lý sử dụng tốt nguồn vốn là hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải thực sự hiệu quả, doanh nghiệp phải
làm ăn có lợi nhuận phải có tích luỹ. Muốn vậy, doanh nghiệp phải tự đánh giá lại
mình về khả năng cạnh tranh, nguồn lực của doanh nghiệp. Từ đó xây dựng kế
hoạch kinh doanh cho phù hợp, đảm bảo lợi nhuận lâu dài cho doanh nghiệp.

You might also like