You are on page 1of 106

ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.

HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TÀI LIỆU HỌC TẬP


PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
(CHƯƠNG TRÌNH CỬ NHÂN
LƯU HÀNH NỘI BỘ)

TPHCM - 2018
GIỚI THIỆU

Pháp luật đại cương là học phần cung cấp những kiến thức cơ bản nhất về
nhà nước và pháp luật: nguồn gốc, bản chất, vai trò xã hội, những quy luật đặc
thù của sự xuất hiện, tồn tại của nhà nước và pháp luật; đồng thời cung cấp
những kiến thức khái quát, cơ bản nhất về bản chất, nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
ngành luật cơ bản trong hệ thống pháp luật Việt Nam, học phần bao gồm những
nội dung cơ bản sau:
- Một số vấn đề chung về nhà nước và nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam - đề cập đến một số vấn đề chung, cơ bản về nhà nước như:
nguồn gốc, bản chất, vai trò, chức năng của nhà nước, hình thức, kiểu nhà nước,
bộ máy nhà nước nói chung và nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
nói riêng.
- Một số vấn đề chung về pháp luật và pháp luật Việt Nam - đề cập đến
một số vấn đề cơ bản về pháp luật và pháp luật Việt nam hiện nay: sự ra đời, bản
chất, chức năng, thuộc tính, quy phạm pháp luật nói chung và hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Một số ngành luật cơ bản trong hệ thống pháp luật Việt Nam - giới thiệu
một cách khái quát một số ngành luật cơ bản trong hệ thống pháp luật Việt Nam:
luật Dân sự; luật Hình sự; luật đất đai và pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Đây được xem là một học phần có khả năng trang bị cho sinh viên không
chuyên ngành luật những kiến thức cơ bản, phổ thông, thiết thực về nhà nước và
pháp luật, làm cơ sở cho sinh viên có thể tìm hiểu và nhận thức đúng các quy
định của pháp luật liên quan trực tiếp đến hoạt động hàng ngày. Vì vậy, pháp
luật đại cương là một học phần bắt buộc và không thể thiếu đối với sinh viên của
tất cả các cơ sở giáo dục đại học không chuyên luật trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền hiện nay.

1
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC

I. KHÁI QUÁT VỀ NHÀ NƯỚC


1. Nguồn gốc của nhà nước
a. Một số quan điểm phi mác xít về nguồn gốc nhà nước
Nhà nước là một hiện tượng xã hội đa dạng và phức tạp, liên quan chặt
chẽ đến lợi ích của các giai cấp, tầng lớp, dân tộc. Để nhận thức đúng đắn về
nhà nước, cần làm sáng tỏ về sự xuất hiện của nhà nước.
Có nhiều lý thuyết về sự xuất hiện của nhà nước. Một trong những thuyết
cổ điển nhất về nhà nước là thuyết thần học. Những người theo thuyết này cho
rằng thượng đế là người sáng lập, sắp đặt mọi trật tự xã hội trong đó có nhà
nước. Nhà nước là do đấng tối cao sáng tạo thể hiện ý chúa. Do vậy, nhà nước
tồn tại vĩnh cửu, tuân theo quyền lực nhà nước là tuân theo ý chúa.
Những người theo thuyết gia trưởng cho rằng nhà nước ra đời từ gia đình,
là hình thức tổ chức tự nhiên của đời sống con người, vì vậy, cũng như gia đình,
nhà nước tồn tại ở mọi xã hội, quyền lực nhà nước cũng giống như quyền lực
gia đình.
Thuyết khế ước xã hội cho rằng sự ra đời của nhà nước là kết quả của một
khế ước được ký kết giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên không
có nhà nước.
b. Quan điểm mác xít về sự ra đời của nhà nước
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước” của Ph.Ăngghen và được V.I.Lênin phát triển trong tác phẩm “Nhà nước
và cách mạng” đã khẳng định: Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nhà nước
không phải là một hiện tượng vĩnh cửu và bất biến, nó xuất hiện, phát triển và
tiêu vong khi có những điều kiện nhất định, nhà nước là lực lượng nảy sinh từ xã
hội, là sản phẩm của xã hội loài người. Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội phát
triển đến một trình độ nhất định và tiêu vong khi có những điều kiện khách quan
cho sự tồn tại và tiêu vong của nó.
Muốn hiểu rõ nguồn gốc của nhà nước, cần tìm hiểu các điều kiện, hoàn
cảnh của xã hội cộng sản nguyên thủy - chế độ dân chủ sơ khai của xã hội loài
người khi chưa có nhà nước.
- Cơ sở kinh tế, xã hội và quyền lực trong xã hội cộng sản nguyên thủy
Chế độ cộng sản nguyên thủy là hình thái kinh tế - xã hội đầu tiên của xã
hội loài người. Trong xã hội đó mọi người đều bình đẳng trong lao động sản
xuất và hưởng thụ dựa trên chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất: Trình độ
lực lượng sản xuất thấp kém, công cụ lao động thô sơ, năng xuất lao động thấp,
con người chưa có hiểu biết về thiên nhiên và bản thân mình nên họ luôn hoảng
2
sợ và bất lực khi thiên tai xảy ra. Điều đó làm cho họ không thể sống riêng biệt
mà phải dựa vào nhau, cùng chung sống, cùng lao động và cùng hưởng thụ
những thành quả lao động chung. Trong giai đoạn này xã hội đã có sự phân công
lao động nhưng là sự phân công lao động tự nhiên giữa đàn ông và đàn bà, giữa
người già và trẻ em để thực hiện những loại công việc khác nhau chứ không
phải là phân công lao động xã hội xuất phát từ sự chuyên môn hóa lao động và
sự khác biệt về địa vị xã hội.
Hình thức tổ chức xã hội của chế độ Cộng sản nguyên thủy là thị tộc và
bộ lạc, thực hiện quyền lực xã hội, phục vụ lợi ích chung của xã hội với hệ
thống quản lý là hội đồng thị tộc, tù trưởng và thủ lĩnh quân sự, trong đó hội
đồng thị tộc bao gồm tất cả các thành viên đã trưởng thành trong thị tộc, hội
đồng bàn bạc dân chủ và quyết định tất cả những vấn đề quan trọng nhất của thị
tộc. Tù trưởng và thủ lĩnh quân sự là những người đứng đầu thị tộc do toàn thể
thị tộc bầu ra, họ không có bất cứ đặc quyền riêng nào so với những người khác
trong thị tộc, họ có thể bị bãi miễn nếu không được cộng đồng tín nhiệm.
Sự phát triển của xã hội cùng với các yếu tố tác động khác đòi hỏi thị tộc
phải mở rộng quan hệ với các thị tộc khác, dẫn đến sự xuất hiện các bào tộc và
bộ lạc. Bào tộc là một liên minh gồm nhiều thị tộc hợp lại, nhiều bào tộc hợp lại
hình thành bộ lạc. Tổ chức quyền lực của bào tộc, bộ lạc cũng giống như trong
thị tộc, nhưng có mức độ tập trung quyền lực cao hơn. Ở bào tộc có hội đồng
bào tộc bao gồm thủ lĩnh quân sự, tù trưởng của các thị tộc; ở bộ lạc thì có hội
đồng bộ lạc.
- Sự tan rã chế độ cộng sản nguyên thủy và sự xuất hiện nhà nước
Chế độ cộng sản nguyên thủy không có nhà nước nhưng chính trong lòng
nó đã nảy sinh những tiền đề kinh tế - xã hội cho sự xuất hiện nhà nước, nguyên
nhân làm cho chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã cũng đồng thời là nguyên
nhân làm xuất hiện nhà nước.
Về mặt kinh tế: lực lượng sản xuất phát triển, năng xuất lao động tăng,
các hoạt động kinh tế, xã hội ngày càng đa dạng, phong phú, đòi hỏi có sự phân
công lao động theo hướng chuyên môn hóa. Cuối chế độ cộng sản nguyên thủy
xuất hiện lần lượt ba lần phân công lao động xã hội lớn: một là chăn nuôi tách ra
khỏi trồng trọt; hai là thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp; ba là buôn bán
phát triển, thương nghiệp xuất hiện cùng với nó là sự xuất hiện của chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất.
Về mặt xã hội: Trong xã hội xuất hiện quá trình phân hóa kẻ giầu người
nghèo, xuất hiện sự phân chia giai cấp. Giữa các tầng lớp, giai cấp mới có sự
xung đột về lợi ích ngày càng gay gắt làm cho các cộng đồng thị tộc không thể
đứng vững được và trở nên bất lực. Một xã hội mới như vậy đòi hỏi phải có một
tổ chức quyền lực mới, đủ sức dập tắt các cuộc xung đột công khai giữa các giai

3
cấp, hoặc để những cuộc đấu tranh đó diễn ra trong một trật tự nhất định. Tổ
chức quyền lực đó là nhà nước.
Như vậy, Nhà nước đã xuất hiện một cách khách quan, là sản phẩm của
sự phát triển lịch sử loài người, nhà nước là “một lực lượng nảy sinh từ xã hội,
một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột
và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự”1
2. Bản chất của nhà nước
Trên cơ sở giải thích đúng đắn và khoa học về sự ra đời của nhà nước, các
nhà tư tưởng của Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra bản chất của nhà nước là một
thể thống nhất mang tính giai cấp và tính xã hội. Tuy nhiên cách thức thể hiện
bản chất giai cấp và xã hội ở mỗi nhà nước và trong từng thời kỳ phát triển của
xã hội là khác nhau.
a. Tính giai cấp của nhà nước
Nhà nước là sản phẩm của xã hội có giai cấp, do đó nhà nước mang tính
giai cấp sâu sắc. Bản chất giai cấp của nhà nước thể hiện ở các đặc điểm:
- Nhà nước là bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay giai cấp thống trị,
là công cụ sắc bén để duy trì sự thống trị giai cấp về kinh tế, chính trị và tư
tưởng.
- Trong các nhà nước bóc lột, nhà nước của giai cấp bóc lột đều có bản
chất chung là bộ máy thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột là giai cấp
chiếm thiểu số so với giai cấp bị bóc lột chiếm đa số trong xã hội.
- Ngược lại, các nhà nước xã hội chủ nghĩa là bộ máy củng cố địa vị lãnh
đạo và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, lực lượng
chiếm đa số trong xã hội, trấn áp lực lượng thống trị cũ đã bị lật đổ và những
phần tử chống đối, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và bình đẳng.
Các nhà nước tuy khác nhau về bản chất giai cấp nhưng đều có đặc điểm
chung, theo V.I.Lênin: Nhà nước là bộ máy để cho giai cấp này áp bức giai cấp
khác, một bộ máy để duy trì dưới sự thống trị của một giai cấp lên tất cả các giai
cấp bị lệ thuộc khác.
b. Tính xã hội của nhà nước
Nhà nước, một mặt là tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp thống trị,
mặt khác còn là tổ chức quyền lực công đại diện cho lợi ích chung của xã hội
nhằm duy trì và phát triển xã hội. Do vậy, bên cạnh bản chất giai cấp, nhà nước
còn mang tính xã hội. Tính xã hội là một thuộc tính tất yếu khách quan của bất
kỳ nhà nước nào, nhà nước sẽ không tồn tại được nếu không quan tâm đến
quyền lợi của các giai tầng khác trong xã hội, không giải quyết các vấn đề xã hội
nảy sinh. Điều này đặc biệt được thể hiện nõ nét trong xã hội hiện đại.
1
Mác-Ăngghen: Tuyển tập, tập VI,NXB sự thật, Hà Nội 1984, trang 260 - 261.

4
Mức độ thể hiện tính xã hội ở các nhà nước khác nhau và ngay cả trong
một nhà nước ở vào những giai đoạn lịch sử khác nhau cũng rất khác nhau, vì nó
phụ thuộc vào các yếu tố khách quan và chủ quan như: điều kiện kinh tế, văn
hóa, xã hội, bối cảnh quốc tế, trình độ nhận thức và quan điểm đạo đức, chính trị
của nhà cầm quyền và các cá nhân trong xã hội.
Từ sự phân tích bản chất của nhà nước, có thể khái niệm nhà nước như
sau:
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy
chuyên trách để cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý xã hội nhằm
thực hiện và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp đối
kháng, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản trong chủ nghĩa xã hội.
3. Đặc trưng cơ bản, chức năng và bộ máy nhà nước
a. Đặc trưng cơ bản của nhà nước
Nhà nước là tổ chức quyền lực mới, khác hẳn với tổ chức tự quản thị tộc -
bộ lạc trước đây, cũng như các tổ chức xã hội khác, sự khác biệt đó thể hiện ở
một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: Nhà nước thiết lập quyền lực công
Khác với quyền lực xã hội trong tổ chức thị tộc, bộ lạc, quyền lực của nhà
nước là quyền lực chính trị thể hiện ý chí, lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà
nước thiết lập bộ máy cưỡng chế, có đội ngũ công chức chuyên làm nhiệm vụ
quản lý xã hội, duy trì, củng cố địa vị và bảo vệ lợi ích của gia cấp thống trị.
Thứ hai: Nhà nước phân chia lãnh thổ quốc gia thành các đơn vị hành chính -
lãnh thổ và quản lý dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh thổ.
Lãnh thổ và dân cư là những yếu tố cấu thành quốc gia, quyền lực chính
trị của nhà nước được thực hiện trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Nhà nước thực
hiện sự quản lý dân cư theo lãnh thổ - theo các đơn vị hành chính, không phụ
thuộc chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp…Việc phân chia này đảm bảo cho
sự quản lý tập trung, thống nhất của nhà nước đối với mọi mặt của đời sống xã
hội từ trung ương đến địa phương.
Thứ ba: Nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật và thực hiện
sự quản lý xã hội bằng pháp luật.
Với tư cách là chủ thể đại diện chính thức cho xã hội, chỉ có nhà nước
mới có quyền ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý xã hội bằng pháp luật.
Pháp luật có tính bắt buộc chung, được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các
biện pháp giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế tùy theo bản chất nhà nước và các
điều kiện khách quan khác.
Thứ tư: Nhà nước quy định thuế và tiến hành thu thuế.

5
Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, nhà nước phải
tiêu dùng một lượng của cải vật chất nhất định, nhưng bản thân hoạt động của
nhà nước không tạo ra của cải vật chất để đảm bảo cho hoạt động của mình. Do
vậy, nhà nước phải huy động sự đóng góp tài chính từ xã hội để đảm bảo nguồn
tài chính cho hoạt động. Có nhiều hình thức huy động của cải vật chất của xã
hội, trong đó việc định ra và thu các loại thuế dưới hình thức bắt buộc là hình
thức huy động có tính ổn định thường xuyên và lâu dài hơn cả. Thuế là nguồn
thu chủ yếu và quan trọng của nhà nước, là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô và
phân phối lại thu nhập, thực hiện phúc lợi xã hội. Thuế là khoản thu bắt buộc mà
người dân phải nghiêm chỉnh chấp hành. Chỉ có nhà nước mới có quyền đặt ra
thuế và thu các loại thuế.
Thứ năm: Nhà nước có chủ quyền quốc gia.
Chủ quyền quốc gia là phạm trù mang tính chính trị- pháp lý. Chủ quyền
quốc gia thể hiện quyền tự quyết của nhà nước về đối nội và đối ngoại, mà
không phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. Nhà nước là người đại diện chính
thức (đại diện về mặt pháp lý) cho toàn xã hội về đối nội và đối ngoại. Mọi cá
nhân, tổ chức sống và hoạt động trên lãnh thổ quốc gia đều phải tuân thủ pháp
luật của nhà nước đó.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, quá trình hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ,
việc bảo vệ chủ quyền quốc gia càng có ý nghĩa quan trọng, do vậy, nguyên tắc
“tôn trọng, bảo vệ độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi” được áp dụng cho
tất cả các mối quan hệ của Việt Nam với các nước khác vừa khẳng định được
chủ quyền quốc gia, vừa thể hiện tinh thần hợp tác hòa bình của Việt Nam trong
các quan hệ quốc tế.
b. Chức năng của nhà nước
Chức năng của nhà nước là những phương diện (mặt) hoạt động chủ yếu
của nhà nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra cho nhà nước.
Chức năng của nhà nước xuất phát từ bản chất của nhà nước, do cơ sở
kinh tế và cơ cấu giai cấp của xã hội quyết định.
Căn cứ vào phạm vi hoạt động, chức năng của nhà nước được chia thành
chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng đối nội là những mặt hoạt
động chủ yếu trong nội bộ đất nước như: đảm bảo trật tự an toàn xã hội, trấn áp
những phần tử chống đối, xây dựng phát triển kinh tế - xã hội… Chức năng đối
ngoại là những mặt hoạt động của nhà nước trong quan hệ với các nhà nước và
các dân tộc khác trên thế giới như: phòng thủ đất nước, chống sự xâm lược từ
bên ngoài, thiết lập mối quan hệ giao bang với các nước khác…
Các chức năng đối nội và đối ngoại có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau
tạo thành một thể thống nhất. chức năng đối ngoại được xác định trên cơ sở tình

6
hình thực hiện các chức năng đối nội, kết quả thực hiện chức năng đối ngoại sẽ
tác động mạnh mẽ tới việc tiến hành các chức năng đối nội.
c. Bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến
địa phương, được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc chung thống nhất,
tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà
nước.
Cơ quan nhà nước là những bộ phận tạo thành bộ máy nhà nước, mỗi cơ
quan nhà nước có những chức năng, nhiệm vụ riêng phù hợp với phạm vi, quyền
hạn được giao. Ở đây cần phân biệt chức năng của nhà nước và chức năng của
các cơ quan nhà nước. Chức năng của nhà nước là phương diện hoạt động chủ
yếu của toàn thể bộ máy nhà nước, trong đó mỗi cơ quan nhà nước có tham gia
thực hiện theo sự phân công, phối hợp của nhà nước ở những mức độ khác
nhau. Còn chức năng của một cơ quan nhà nước là những hoạt động chủ yếu của
riêng cơ quan đó nhằm góp phần thực hiện những chức năng và nhiệm vụ chung
của nhà nước.
Các cơ quan nhà nước rất đa dạng, thông thường bộ máy nhà nước chia
thành ba loại cơ quan: cơ quan lập pháp (xây dựng, ban hành pháp luật), cơ quan
hành pháp (tổ chức thực hiện, thi hành pháp luật), cơ quan tư pháp (bảo vệ pháp
luật).
II. KIỂU NHÀ NƯỚC VÀ HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC
1. Kiểu nhà nước
Kiểu nhà nước là tổng thể các đặc trưng cơ bản (dấu hiệu) của nhà nước,
thể hiện bản chất giai cấp, vai trò xã hội và những điều kiện phát triển của nhà
nước trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù triết học dùng để chỉ xã hội ở
một giai đoạn nhất định được đặc trưng bởi một phương thức sản xuất nhất định
và một kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng của thời kỳ đó. Lịch sử
xã hội có giai cấp đã tồn tại bốn hình thái kinh tế - xã hội: chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, tư bản, xã hội chủ nghĩa. Tương ứng với bốn hình thái kinh tế - xã
hội đó là bốn kiểu nhà nước: kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ (kiểu nhà nước chủ
nô), kiểu nhà nước phong kiến, kiểu nhà nước tư sản, kiểu nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Đặc điểm chung của mỗi hình thái kinh tế - xã hội sẽ quyết định những
dấu hiệu cơ bản, đặc thù của một kiểu nhà nước tương ứng.
Sự thay thế kiểu nhà nước là do sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội
quyết định. Kiểu nhà nước mới thay thế cho kiểu nhà nước cũ thông qua cuộc
cách mạng xã hội. Kiểu nhà nước sau bao giờ cũng tiến bộ hơn kiểu nhà nước
trước, vì nó dựa trên phương thức sản xuất mới tiến bộ, đồng thời nó có khả
năng thúc đẩy sự phát triển của phương thức đó.
7
2. Hình thức nhà nước
Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, trình tự thành
lập các cơ quan nhà nước, xác định vị trí, vai trò của mỗi cơ quan nhà nước đối
với việc thực hiện quyền lực chính trị, quy định mối quan hệ giữa các cơ quan
nhà nước với nhau, mức độ tham gia của nhân dân vào việc thành lập các cơ
quan nhà nước đó.
Hình thức nhà nước do bản chất của nhà nước quy định, bao gồm hai hình
thức chủ yếu: hình thức chính thể và hình thức cấu trúc, ngoài ra chế độ chính trị
cũng là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới hình thức nhà nước.
a. Hình thức chính thể
Hình thức chính thể là cách thức tổ chức và trình tự thành lập các cơ
quan có quyền lực cao nhất của nhà nước cùng với mối quan hệ giữa các cơ
quan đó.
Hình thức chính thể có hai dạng cơ bản là chính thể quân chủ và chính thể cộng
hòa.
- Chính thể quân chủ: là hình thức chính thể trong đó quyền lực tối cao
của nhà nước tập trung toàn bộ hoặc một phần vào tay người đứng đầu nhà nước
là vua, hoàng đế, quốc vương theo nguyên tắc kế thừa (truyền ngôi).
Chính thể quân chủ được chia thành quân chủ tuyệt đối, quân chủ hạn chế.
+ Chính thể quân chủ tuyệt đối: là hình thức chính thể quân chủ, trong đó
nhà vua có quyền lực vô hạn. Dạng chính thể này tồn tại chủ yếu trong kiểu nhà
nước Phong kiến, tuy nhiên hiện nay trên thế giới còn tồn tại bốn quốc gia là
Vaticăng, Ả-rập xê-út, Brunây và Ôman có hình thức chính thể này, trong các
nhà nước này đã có một số cải cách dân chủ, nhưng mọi mặt của đất nước vẫn
phụ thuộc vào một người - Quốc vương hoặc Giáo hoàng - nắm trong tay quyền
lực tối cao của nhà nước. Trong bộ máy nhà nước, bên cạnh nhà vua còn có Hội
đồng lập pháp, nhưng chỉ là cơ quan tư vấn, không phải là cơ quan quyền lực
đối trọng với nhà vua.
+ Chính thể quân chủ hạn chế: là chính thể quân chủ mà nhà vua chỉ nắm
giữ một phần quyền lực nhà nước hoặc không có thực quyền chỉ là hình ảnh đại
diện cho quốc gia. Trong các nhà nước này, quyền lực nhà vua bị hạn chế bởi
Hiến pháp (chính thể quân chủ lập hiến). Bên cạnh nguyên thủ quốc gia là nhà
vua được hình thành bằng con đường truyền ngôi còn có các cơ quan nhà nước
quan trọng khác là nghị viện (quốc hội), chính phủ, tòa án do nhân dân trực tiếp
hoặc gián tiếp bầu ra và làm việc theo nhiệm kỳ. Dựa vào đặc điểm nhà vua có
nắm giữ một phần quyền lực nhà nước hay không mà loại chính thể này lại phân
chia thành hai biến dạng: quân chủ nhị nguyên và quân chủ đại nghị. Quân chủ
nhị nguyên là hình thức chính thể trong đó giữa nhà vua và nghị viện có sự phân
chia đều quyền lực, nghị viện nắm giữ quyền lập pháp, nhà vua nắm giữ quyền

8
hành pháp, quyền tư pháp giao cho tòa án thực hiện. Chính thể này tồn tại ở các
nước: Monaco, Marốc, Butan, Cô-oét, Quata, Tôngga… Quân chủ đại nghị là
hình thức chính thể trong đó nhà vua không nắm giữ quyền lực nhà nước mà chỉ
tượng trưng đại diện cho quốc gia, còn nghị viện nắm quyền lập pháp, chính phủ
nắm quyền hành pháp, tòa án nắm quyền tư pháp. Chính thể quân chủ đại nghị
đang tồn tại ở nhiều nước tư sản hiện nay: Vương quốc Anh, Nhật Bản, Thụy
Điển, Đan Mạch…
- Chính thể cộng hòa: Là hình thức chính thể trong đó quyền lực tối cao
của nhà nước thuộc về các cơ quan nhà nước do nhân dân trực tiếp hoặc gián
tiếp bầu ra và làm việc trong một thời hạn nhất định. Chính thể cộng hòa có hai
hình thức chủ yếu là cộng hòa quý tộc và cộng hòa dân chủ.
+ Cộng hòa quý tộc: là hình thức chính thể, trong đó cơ quan đại diện do
giới quý tộc bầu ra. Chính thể này chỉ tồn tại ở nhà nước chủ nô và nhà nước
phong kiến.
+ Cộng hòa dân chủ: là hình thức chính thể trong đó cơ quan đại diện do
nhân dân bầu ra. Chính thể này tồn tại ở cả bốn kiểu nhà nước, hiện nay nó là
hình thức nhà nước phổ biến nhất ở các nước tư sản với các biến dạng: Cộng
hòa tổng thống (tổng thống có vai trò quan trọng vừa là nguyên thủ quốc gia vừa
là người đứng đầu chính phủ, do nhân dân bầu ra, tổng thống có toàn quyền
trong lĩnh vực hành pháp, nghị viện có quyền lập pháp, nghị viện không có
quyền lật đổ chính phủ); cộng hòa đại nghị (Nghị viên có vai trò quan trọng,
nghị viện bầu ra tổng thống. Chính phủ do các đảng phái chính trị chiếm đa số
phiếu trong nghị viện thành lập và chịu trách nhiệm trước nghị viện, nghị viện
có thể bỏ phiếu không tán thành chính phủ - Cộng hòa liên bang Đức, cộng hòa
Áo, cộng hòa Italia); cộng hòa lưỡng tính (sự kết hợp cả hai hình thức cộng hòa
tổng thống, cộng hòa đại nghị: tổng thống là nguyên thủ quốc gia, nắm quyền
lập pháp có quyền giải tán nghị viện, thành lập chính phủ, chính phủ gồm thủ
tướng và các bộ trưởng do tổng thống bổ nhiệm - Cộng hòa Pháp, các nước
thuộc Liên Xô cũ, Đông Âu, Châu Phi).
Chính thể cộng hòa cũng tồn tại ở một số nước: Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Cu Ba, Trung Quốc, Lào…
b. Hình thức cấu trúc nhà nước
Hình thức cấu trúc nhà nước là sự cấu tạo nhà nước thành các đơn vị
hành chính - lãnh thổ và xác lập các mối quan hệ giữa các đơn vị ấy với nhau
cũng như giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với các cơ quan nhà nước ở
địa phương.
Có hai hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu là hình thức nhà nước đơn
nhất và hình thức nhà nước liên bang.

9
- Nhà nước đơn nhất: là nhà nước có chủ quyền lãnh thổ, có hệ thống
pháp luật thống nhất, có hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa
phương. Các đơn vị hành chính - lãnh thổ bao gồm tỉnh (thành phố, huyện
(quận), xã (phường) hoạt động trên cơ sở các quy định của chính quyền trung
ương. Những nước có hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất như: Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp…
- Nhà nước liên bang: là nhà nước được hình thành từ hai hay nhiều nhà
nước thành viên hợp lại, trong nhà nước này có các cơ quan nhà nước, hệ thống
pháp luật chung cho toàn liên bang và mỗi nhà nước thành viên còn có hệ thống
các cơ quan nhà nước, hệ thống pháp luật riêng của mỗi nhà nước thành viên.
Những nước có hình thức cấu trúc nhà nước liên bang gồm: Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ, Cộng hòa liên bang Đức, Cộng hòa liên bang Nga…
c. Chế độ chính trị
Chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp, cách thức, phương tiện mà
các cơ quan nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước. Những phương
pháp và cách thức này phụ thuộc vào bản chất nhà nước cũng như các yếu tố
khác của mỗi giai đoạn ở mỗi nhà nước cụ thể. Nhìn chung những phương pháp,
biện pháp được phân ra hai loại chính: dân chủ và phản dân chủ.
- Phương pháp dân chủ: là phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước
mà người dân được tham gia vào việc giải quyết các công việc của nhà nước.
- Phương pháp phản dân chủ: là phương pháp người dân không được
tham gia giải quyết các công việc của nhà nước, là phương pháp được dùng
trong nhà nước chủ nô, phong kiến.
Tóm lại, hình thức nhà nước có thể được phản ánh qua sơ đồ sau:

Hình thức nhà nước

Hình thức Hình thức Chế độ


chính thể cấu trúc chính trị

Quân Cộng Nhà Nhà Dân Phản


chủ hòa nước nước chủ dân
đơn liên chủ
nhất bang

10
III. BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Bản chất của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc kiểu nhà nước xã
hội chủ nghĩa, hình thức chính thể cộng hòa dân chủ thuộc cấu trúc nhà nước
đơn nhất. Bản chất của nhà nước do cơ sở kinh tế - xã hội và đặc điểm của
quyền lực chính trị quy định. Ngay từ khi ra đời nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã thể hiện bản chất của một nhà nước gắn bó chặt chẽ và phục
vụ lợi ích của nhân dân, của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Bản chất của Nhà nước được khẳng định trong Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 tại Khoản 1, Khoản 2, Điều 2: “Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức”.
Như vậy cũng như các nhà nước khác, nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam cũng mang bản chất giai cấp và thực hiện chức năng xã hội, do
giai cấp công nhân thiết lập, thực hiện mục tiêu và thể hiện ý chí, lợi ích của giai
cấp công nhân. Tuy nhiên, lợi ích của giai cấp công nhân về cơ bản và lâu dài
thống nhất với lợi ích của các giai tầng khác trong xã hội, thống nhất với lợi ích
của dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Tất cả các hoạt
động quản lý nhà nước đề nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân
về mọi mặt: đảm bảo an toàn tính mạng, thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tài sản của Nhân dân. Như vậy có thể nói, bản chất của nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là: tính giai cấp sâu sắc kết hợp với tính Nhân
dân rộng rãi.
Bản chất nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân được thể
hiện qua các đặc điểm sau:
- Nhân dân thiết lập nên nhà nước bằng quyền bầu cử, ứng cử vào Quốc
Hội và Hội đồng nhân dân các cấp, sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc
hội và Hội đồng nhân dân các cấp;
- Nhân dân thực hiện quyền lực thông qua quyền giám sát, kiểm tra, khiếu
nại, tố cáo;
- Nhân dân tham gia thảo luận các vấn đề của nhà nước và xã hội;
- Nhà nước ta là nhà nước của tất cả các dân tộc trong quốc gia Việt Nam;
- Nhà nước ta là thiết chế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa;

11
- Bản chất của nhà nước thể hiện qua các chính sách đối nội và đối ngoại
của nhà nước.
2. Chức năng của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Cũng như các nhà nước khác, nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có hai chức năng cơ bản: chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Các
chức năng của nhà nước gắn liền với hai nhiệm vụ chiến lược hiện nay là xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
a. Các chức năng đối nội
Chức năng đối nội được chia làm ba nhóm: nhóm các chức năng tổ chức
và quản lý kinh tế; nhóm chức năng quản lý xã hội về các mặt kinh tế, văn hóa,
giáo dục, y tế, việc làm và chăm lo đời sống Nhân dân; nhóm chức năng đảm
bảo trật tự ổn định an ninh chính trị, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của nhân
dân, bảo vệ trật tự an toàn xã hội.
- Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế
Đây là chức năng cơ bản, quan trọng có ý nghĩa quyết định sự phát triển
đất nước. Ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, chức năng này có những đặc điểm
và nội dung chủ yếu khác nhau. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng tổ chức và quản lý kinh tế có những nội
dung chủ yếu sau:
+ Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, hướng vào chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
+ Không ngừng đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước đối với
nền kinh tế, đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của các thành phần kinh tế;
+ Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể phát triển với
nhiều hình thức hợp tác đa dạng trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Đồng thời tạo
ra môi trường kinh doanh cho kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân
phát triển; phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi
cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam nhằm tranh thủ học hỏi
kinh nghiệm tổ chức quản lý và khả năng công nghệ của họ để phát triển kinh tế;
+ Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, áp dụng khoa học công nghệ trong tất
cả các khâu của thị trường, đặc biệt là công nghệ thông tin.
- Chức năng quản lý xã hội về các mặt văn hóa, giáo dục, khoa học công
nghệ, y tế, việc làm và chăm lo đời sống Nhân dân:
Cùng với mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường, nhà nước phải đảm
bảo những mục tiêu xã hội cơ bản như sau:

12
+ Nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của Nhân dân, xây dựng nền văn
hóa mới, lối sống mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Chọn lọc, giữ gìn và
nâng cao tinh hoa văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đồng thời tiếp
thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Khuyến khích tự do sáng tạo các giá
trị văn hóa, vun đắp tài năng.
+ Hiện đại hóa và nâng cao chất lượng thông tin đại chúng để thỏa mãn
nhu cầu thông tin và nâng cao sự hiểu biết của Nhân dân.
+ Xác định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và
động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhà nước coi trọng
việc phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài.
+ Xây dựng và thực hiện chính sách khoa học công nghệ, xây dựng nền
khoa học công nghệ tiên tiến, phát triển đồng bộ các ngành khoa học, trên cơ sở
tận dụng tiến bộ khoa học công nghệ của nhân loại, đi tắt đón đầu. Khuyến
khích áp dụng các thành tựu khoa học, công nghệ để phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội phục vụ đời sống vật chất tinh thần của Nhân dân.
+ Giải quyết việc làm, cải cách chế độ tiền lương, chăm lo cải thiện điều
kiện làm việc cho người lao động.
+ Thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo; thực hiện các chính sách
xã hội; chính sách ưu đãi đối với người có công; chính sách cứu trợ xã hội;
chính sách bảo vệ, chăm sóc sức khỏe Nhân dân, chăm sóc, bảo vệ trẻ em.
- Chức năng đảm bảo sự ổn định an ninh - chính trị, bảo vệ các quyền tự
do dân chủ của Nhân dân, bảo vệ trật tự an toàn xã hội.
Nội dung cơ bản của chức năng này cụ thể như sau:
+ Phòng ngừa, ngăn chặn mọi âm mưu xâm phạm nền an ninh quốc gia,
kiên quyết trấn áp mọi hành động chống phá của các lực lượng thù địch để bảo
vệ sự nghiệp cách mạng của Nhân dân.
+ Đảm bảo các quyền tự do dân chủ của Nhân dân, xác lập cơ chế bảo vệ
và bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo ra các điều kiện về
chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội để công dân thực hiện đầy đủ, có hiệu quả các
quyền tự do, dân chủ của mình; kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm minh mọi
hành vi xâm phạm đến các quyền tự do, dân chủ của nhân dân.
+ Đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tổ chức, nâng cao
chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật; tiến hành các biện pháp
cần thiết ngăn ngừa tội phạm, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật.
b. Các chức năng đối ngoại
Chức năng đối ngoại chia làm hai nhóm: nhóm chức năng bảo vệ tổ quốc
xã hội chủ nghĩa; nhóm chức năng mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, các tổ
chức quốc tế và khu vực trên thế giới.

13
- Chức năng bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa là vấn đề có tính quy luật, vì trong suốt
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội sẽ luôn luôn tồn tại
những lực lượng chống đối. Do vậy, các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều phải chú
trọng thực hiện chức năng này. Trong thời kỳ hiện nay, nội dung cụ thể của chức
năng này là:
+ Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng chính quy, tinh nhuệ từng bước
hiện đại; xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu; xây
dựng công nghiệp quốc phòng, tăng cường khả năng bảo vệ tổ quốc; tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang.
+ Xây dựng, củng cố và tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp
sức mạnh của toàn dân với sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân nhằm bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ chế độ
xã hội xã hội chủ nghĩa.
+ Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, thể chế hóa các chủ
trương, chính sách của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh
Nhân dân. Tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng an ninh.
- Chức năng mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế
và khu vực trên thế giới
+ Thiết lập, củng cố và phát triển các mối quan hệ hữu nghị hợp tác với
tất cả các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên nguyên tắc cùng tồn
tại hòa bình, tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
+ Mở rộng quan hệ và hợp tác với các tổ chức quốc tế; tăng cường hoạt
động ở Liên hợp quốc; tích cực tham gia các tổ chức tài chính, thương mại và
các diễn đàn quốc tế; mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân với các tổ chức phi
chính phủ.
+ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy
tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và
định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia.
+ Ủng hộ tích cực, tham gia các phong trào đấu tranh của nhân dân thể
giới vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.
IV. BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
1. Khái niệm
Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống cơ
quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, được tổ chức và hoạt động theo
những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện
những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. Mỗi cơ quan nhà nước có những
nhiệm vụ, chức năng riêng do pháp luật quy định.
14
2. Phân loại các cơ quan trong bộ máy nhà nước
a. Căn cứ vào cấu trúc hành chính lãnh thổ và phạm vi thẩm quyền
Bộ máy nhà nước chia thành hai loại cơ quan:
- Các cơ quan nhà nước ở trung ương: Quốc Hội, Chính Phủ…
- Các cơ quan nhà nước ở địa phương: Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân…
b. Căn cứ vào chức năng, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước
Bộ máy nhà nước chia thành các loại cơ quan sau:
- Các cơ quan quyền lực nhà nước (cơ quan đại biểu, đại diện, dân cử) bao
gồm Quốc Hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Đây là những cơ quan đại diện cho
ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do cử tri cả nước hoặc từng
địa phương trực tiếp bầu ra thông qua tuyển cử phổ thông đầu phiếu. Các cơ
quan quyền lực có quyền bầu ra, kiểm tra giám sát hoạt động của các cơ quan
nhà nước khác.
- Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, đại diện chính thức cho nhà
nước trong quan hệ đối nội, đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong
số đại biểu Quốc hội và có thể bị Quốc hội bãi miễn. Chủ tịch nước được Hiến
pháp quy định nhiều quyền trong cả 3 lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp,
song đó chủ yếu là những quyền có tính chất đại diện cho nhà nước.
- Các cơ quan quản lý nhà nước (cơ quan chấp hành, cơ quan hành chính
nhà nước), bao gồm Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp. Đây là những cơ
quan có chức năng trực tiếp quản lý các lĩnh vực hoạt động cơ bản của đời sống
xã hội, do các cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp bầu ra, chấp hành và tổ
chức thực hiện các quy định của cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp; chịu
trách nhiệm, báo cáo công tác, chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
cùng cấp.
- Các cơ quan Tòa án: Bao gồm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân
địa phương và Tòa án quân sự các cấp. Là các cơ quan có chức năng xét xử các
vụ án hình sự, dân sự, hành chính… và giải quyết các tranh chấp khác theo quy
định của pháp luật. Hệ thống cơ quan này được hình thành do Hiến pháp và
pháp luật quy định.
- Các cơ quan kiểm sát, bao gồm Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát Nhân dân các địa phương và Viện kiểm sát quân sự các cấp, là những
cơ quan chức năng thực hành quyền công tố nhà nước và kiểm sát các hoạt động
tư pháp. Hệ thống cơ quan này được hoạt động theo nguyên tắc phụ thuộc ngành
dọc một chiều, chỉ phụ thuộc vào cơ quan cấp trên trực tiếp.

15
3. Các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
Các nguyên tắc cơ bản là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo, là cơ
sở cho toàn bộ quá trình tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà
nước.
Các nguyên tắc này đều có cơ sở pháp lý là nguyên tắc Hiến định (được
ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam).
a. Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng (Điều 4 - Hiến pháp 2013).
Nội dung của nguyên tắc:
- Đảng đề ra đường lối, chính sách có tính chất định hướng cho sự phát
triển của nhà nước trong từng giai đoạn nên cũng là sự định hướng cho việc tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong mỗi giai đoạn đó, để nhà nước cụ
thể hóa thành pháp luật và tổ chức thực hiện.
- Đảng hướng dẫn và kiểm tra các hoạt động của nhà nước nhằm kịp thời
phát hiện và uốn nắn những sai sót, lệch lạc trong hoạt động của nhà nước để
vừa đảm bảo cho Nhà nước hoạt động theo đúng hướng Đảng vạch ra, vừa có
thể phát hiện ra những thiếu sót, bất hợp lý trong đường lối, chính sách mà sửa
đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn của đất nước.
- Đảng lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để giới thiệu cho Nhà nước,
những cán bộ đó có thể được đảm nhiệm những nhiệm vụ nhất định trong bộ
máy nhà nước thông qua bầu cử, ứng cử hoặc bổ nhiệm.
- Đảng thực hiện sự lãnh đạo đối với nhà nước bằng phương pháp tuyên
truyền, vận động, thuyết phục quần chúng, bằng chính vai trò tiên phong, gương
mẫu của các đảng viên trong việc thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật.
b. Nguyên tắc đảm bảo sự tham gia đông đảo của Nhân dân lao động vào tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước (Được thể hiện trong Điều 3 - Hiến
pháp 2013).
Nội dung của nguyên tắc:
- Nhân dân thành lập các cơ quan đại diện từ trung ương tới địa phương
thông qua việc thực hiện quyền bầu cử và ứng cử, đồng thời, thông qua các cơ
quan đại diện để bầu ra các cơ quan nhà nước khác.
- Nhân dân trực tiếp thực hiện các hoạt động của nhà nước khi được bầu
cử, bổ nhiệm hoặc tuyển dụng vào các cơ quan nhà nước hoặc thông qua các đại
biểu của họ để thực hiện các hoạt động của nhà nước.
- Nhân dân trực tiếp tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của nhà
nước khi được nhà nước trưng cầu ý dân hoặc có thể thông qua các đại biểu
trong các cơ quan dân cử để bàn bạc và quyết định những vấn đề quan trọng của
đất nước hoặc từng địa phương.

16
- Nhân dân trực tiếp đóng góp ý kiến vào các văn kiện quan trọng của nhà
nước: chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, dự án hiến pháp, dự án
luật…
- Nhân dân có thể trực tiếp hoặc gián tiếp giám sát các hoạt động của cán
bộ, công chức, viên chức và các cơ quan nhà nước.
- Nhân dân có thể tham gia vào tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội mà họ là hội viên,
thông qua các tổ chức tự quản ở địa phương nơi họ cư trú.
c. Nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất của quyền lực nhà nước nhưng có sự
phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (Được thể hiện ở khoản 2, Điều 2 - Hiến
pháp 2013).
Nội dung của nguyên tắc:
- Quyền lực nhà nước là thống nhất, không có sự phân chia. Việc giao cho
các cơ quan riêng biệt thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp là sự
phân công lao động quyền lực, phân công thực hiện chức năng của nhà nước.
- Giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước không có sự đối trọng với
nhau, nhưng phải có sự giám sát lẫn nhau, đồng thời phải có sự phối hợp chặt
chẽ trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Quốc hội là cơ quan duy nhất có
quyền lập pháp đồng thời cũng có thẩm quyền trong lĩnh vực hành pháp và tư
pháp; Chính phủ giữ quyền hành pháp nhưng cũng có vai trò quan trọng trong
lĩnh vực lập pháp và tư pháp. Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân giữ
quyền tư pháp đồng thời cũng có thẩm quyền nhất định trong lĩnh vực lập pháp
và hành pháp. Hoạt động của các cơ quan hành pháp, tư pháp đều phải báo cáo
trước Quốc hội và chịu sự giám sát của Quốc hội.
d. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước (Điều 6,7 - Hiến pháp 2013).
- Về mặt tổ chức, nguyên tắc này thể hiện ở những điểm sau:
+ Nhân dân trực tiếp bầu ra các cơ quan đại diện hay cơ quan quyền lực
nhà nước rồi ủy quyền cho các cơ quan này bầu ra hoặc phê chuẩn các chức vụ
lãnh đạo của cơ quan đại diện và các cơ quan nhà nước khác.
+ Các cơ quan nhà nước khác phải chịu trách nhiệm, báo cáo công tác,
chịu sự kiểm tra, giám sát trước cơ quan đại diện.
+ Các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước phải chịu trách nhiệm trước
nhân dân, báo cáo hoạt động và chịu sự giám sát của nhân dân.
- Về mặt hoạt động:
+ Các cơ quan nhà nước trung ương có quyền quyết định các vấn đề cơ
bản, quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… trên phạm vi toàn quốc.

17
Các cơ quan nhà nước ở địa phương quyết định những vấn đề thuộc phạm vi địa
phương mình.
+ Quan hệ giữa các cơ quan nhà nước phải dựa trên nguyên tắc cấp dưới
phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng trung ương, cơ quan quản lý phục
tùng cơ quan quyền lực cùng cấp.
+ Khi quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền của mình, các cơ quan
trung ương và cấp trên phải lắng nghe, cân nhắc ý kiến và điều kiện của cấp
dưới và địa phương.
+ Các cơ quan nhà nước ở địa phương trong phạm vi thẩm quyền luật
định, có quyền tự quyết định và chịu trách nhiệm về những vấn đề cụ thể ở địa
phương.
+ Các cơ quan nhà nước ở trung ương và cấp trên có quyền kiểm tra, giám
sát hoạt động của các cơ quan nhà nước ở địa phương, cấp dưới; có thể đình chỉ
thi hành, bãi bỏ hoặc hủy bỏ những quyết định trái pháp luật của các cơ quan địa
phương, cấp dưới; tạo điều kiện cho các cơ quan địa phương, cấp dưới chủ
động, sáng tạo trong việc giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền địa
phương.
e. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa (Được thể hiện trong Điều 8 - Hiến
pháp 2013).
Nội dung nguyên tắc:
- Trong tổ chức bộ máy nhà nước, các cơ quan nhà nước phải theo đúng
trình tự thành lập, cơ cấu tổ chức mà pháp luật đã quy định. Việc chia, tách, sát
nhập cơ quan nhà nước phải theo đúng quy định của pháp luật.
- Trong hoạt động cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước phải thực hiện
đúng chức năng, thẩm quyền do pháp luật quy định, phải hoạt động trong khuôn
khổ pháp luật.
- Mọi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước phải
được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật.
- Quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với nhau và quan hệ trong nội bộ
của một cơ quan phải được diễn ra theo đúng trật tự mà pháp luật đã quy định.
- Trong quá trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phải đảm bảo
sự phù hợp, không trái Hiến pháp, quy định của văn bản cấp dưới phải phù hợp
quy định trong văn bản của cấp trên, văn bản của địa phương phải phù hợp với
văn bản của trung ương; văn bản của cơ quan quản lý nhà nước phải phù hợp
với văn bản của cơ quan quyền lực nhà nước.
V. NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
1. Khái niệm, đặc điểm hệ thống chính trị
a. Khái niệm

18
Hệ thống chính trị nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tổng thể
các thiết chế chính trị tồn tại và hoạt động trong mối liên hệ hữu cơ với nhau
nhằm tạo ra một cơ chế thực hiện quyền lực của Nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam
Hệ thống chính trị nước ta bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam; nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị
- xã hội.
b. Đặc điểm
- Có tính dân tộc: hệ thống chính trị là sự thể hiện khối đại đoàn kết dân
tộc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tạo nên cơ cấu chính trị - xã hội, tăng
cường sức mạnh của tất cả các dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội.
- Có tính nhân dân sâu sắc: tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị đều
do Nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp tổ chức ra để đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và thực hiện quyền lực của Nhân dân; đều được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc do dân, vì dân.
- Có tính nhất nguyên chính trị: trong hệ thống chính trị không có sự tồn
tại của các đảng phái chính trị đối lập, ngay từ khi mới ra đời đến này đều chịu
sự lãnh đạo của một đảng duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Cả hệ thống chính trị và từng bộ phận trong hệ thống không ngừng hoàn
thiện và phát triển vì các mục tiêu dân chủ, văn minh, vì hạnh phúc của con
người, nhằm phục vụ con người.
2. Vị trí, vai trò của nhà nước trong hệ thống chính trị
a. Vị trí
Nhà nước ở vị trí trung tâm của hệ thống chính trị, là nơi hội tụ của đời
sống chính trị xã hội. Nhà nước có quan hệ với tất cả các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị, thu hút các tổ chức đó về phía mình. Các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị là lực lượng hỗ trợ nhà nước.
b. Vai trò
Nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng mang tính quyết định trong hệ
thống chính trị. Nhà nước quyết định sự ra đời, tồn tại, phát triển của hệ thống
chính trị; quyết định bản chất, đặc trưng, vai trò của hệ thống chính trị. Nhà
nước là công cụ hữu hiệu nhất để thực hiện quyền lực của Nhân dân, Nhà nước
chi phối tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị, nó có thể cho phép thành lập
hoặc làm mất đi một thành tố nào đó trong hệ thống chính trị, nó có thể điều hòa
được các quan hệ giữa các lực lượng chính trị trong xã hội, nó là biểu hiện tập
trung nhất của quyền lực Nhân dân và là công cụ hữu hiệu nhất để thực hiện
quyền lực nhân dân.
Sở dĩ nhà nước có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính
trị, vì:

19
- Nhà nước là tổ chức có cơ sở xã hội và phạm vi tác động rộng lớn nhất;
- Nhà nước có hệ thống các cơ quan đại diện, cơ quan quản lý và cưỡng
chế từ trung ương đến địa phương để đảm bảo cho việc thực hiện quyền lực nhà
nước;
- Nhà nước có hệ thống pháp luật có giá trị bắt buộc phải thực hiện đối
với mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội;
- Nhà nước được đại diện chính thức cho toàn xã hội thực hiện chủ quyền
quốc gia có quyền huy động mọi tiềm năng trong và ngoài nước để đảm bảo đáp
ứng tốt nhất cho việc thực hiện quyền lực Nhân dân;
- Nhà nước có sức mạnh vật chất to lớn, có thể trang trải cho các hoạt
động của nhà nước và toàn xã hội.
3. Quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị
a. Quan hệ giữa nhà nước với Đảng Cộng sản
- Tác động của nhà nước đối với Đảng
+ Nhà nước ghi nhận sự lãnh đạo của Đảng trong pháp luật, tạo ra cơ sở
pháp lý vững chắc cho sự tồn tại, hoạt động và lãnh đạo của Đảng đối với xã
hội.
+ Nhà nước thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật
và đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, nhờ đó, Nhà nước đảm
bảo cho đường lối chính sách được triển khai và thực hiện đồng bộ trên toàn xã
hội, giúp cho Đảng thực hiện được quyền lãnh đạo của nó đối với xã hội.
+ Thông qua hoạt động thực tiễn, Nhà nước kiểm nghiệm tính đúng đắn
trong đường lối, chính sách của Đảng từ đó có cơ sở đóng góp cho Đảng hoạch
định đường lối chính sách phù hợp hơn với hoàn cảnh của đất nước.
+ Nhà nước bảo vệ đường lối, chính sách cũng như các tổ chức và hoạt
động của Đảng, tạo điều kiện về cơ sở vật chất và các điều kiện khác cho Đảng
hoạt động.
+ Các tổ chức đảng, các Đảng viên là cán bộ, công chức, viên chức trong
các cơ quan chịu sự quản lý của nhà nước theo pháp luật.
- Tác động của Đảng đối với Nhà nước
+ Đảng đề ra đường lối định hướng cho sự phát triển của Nhà nước
+ Đảng hướng dẫn kiểm tra, giám sát các hoạt động của nhà nước nhằm
kịp thời phát hiện và uốn nắn những sai sót, lệch lạc trong hoạt động của nhà
nước
+ Đảng lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để giới thiệu cho Nhà nước…
b. Quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội
- Tác động của Nhà nước đối với các tổ chức chính trị - xã hội

20
+ Nhà nước cho phép các tổ chức chính trị được thành lập, tồn tại và hoạt
động một cách hợp pháp, tạo ra cơ sở pháp lý cho sự tồn tại và hoạt động của
các tổ chức chính trị - xã hội.
+ Nhà nước thu hút các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động để làm chỗ
dựa về chính trị.
+ Nhà nước tôn trọng, lắng nghe ý kiến và có thể ủy quyền quản lý nhà
nước cho các tổ chức đó trong một số trường hợp nhất định.
+ Nhà nước bảo vệ, tạo điều kiện về cơ sở vật chất cho các tổ chức chính
trị - xã hội hoạt động; kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức đó.
+ Nhà nước quản lý tổ chức và hội viên của các tổ chức chính trị - xã hội.
- Tác động của các tổ chức chính trị - xã hội đối với Nhà nước
+ Kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và cán bộ công
chức nhà nước.
+ Đóng góp ý kiến vào các hoạt động của Nhà nước.
+ Quản lý Nhà nước trong những trường hợp được pháp luật quy định.
+ Tuyên truyền giáo dục, vận động hội viên của tổ chức mình nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật.
+ Có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật, thực hiện pháp luật, hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật của nhà nước.

Định hướng nghiên cứu bài


Định hướng nghiên cứu bài
1. Quá trình hình thành Nhà nước theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin.
2. Phân biệt nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội, lấy ví dụ minh họa.
3. Tại sao nhà nước có tính giai cấp, tính xã hội? Biểu hiện. lấy ví dụ minh họa.
4. Chức năng, hình thức và phương pháp thực hiện chức năng của nhà nước.
5. Khái niệm và đặc trưng của từng hình thức chính thể nhà nước, lấy ví dụ minh
họa.
6. Khái niệm và đặc trưng của từng hình thức cấu trúc nhà nước, lấy ví dụ minh
họa.
7. Khái niệm và đặc trưng của từng dạng chế độ chính trị của nhà nước.
8. Bản chất, chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Liên hệ việc thực hiện các chức năng của Nhà nước .
9. Hình thức của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chứng minh.
10. Các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thực tế thực hiện nguyên tắc đó như thế
nào.
11. Vị trí, vai trò của nhà nước trong hệ thống chính trị. Mối quan hệ giữa nhà
nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.

21
Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT,
PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT, THUỘC TÍNH VÀ VAI TRÒ CỦA
PHÁP LUẬT
1. Nguồn gốc của pháp luật
Có nhiều quan niệm khác nhau về sự ra đời của pháp luật. Theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì pháp luật ra đời cùng với nhà nước nên

22
những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước cũng là những nguyên nhân
dẫn đến sự ra đời của pháp luật.
Trong xã hội Cộng sản nguyên thủy chưa có pháp luật nhưng đã có các
quy phạm xã hội tồn tại dưới dạng phong tục tập quán, đạo đức, các tín điều tôn
giáo để hướng dẫn cách xử sự cho mọi người. Khi nhà nước xuất hiện, trong xã
hội đã xuất hiện thêm một loại quy phạm xã hội mới do nhà nước đặt ra hoặc
thừa nhận và đảm bảo thực hiện - đó là pháp luật.
Pháp luật hình thành bằng các con đường sau:
- Nhà nước thừa nhận các quy phạm đã tồn tại trong xã hội như: phong
tục tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo nhưng phù hợp với ý chí của nhà nước
thành pháp luật, tức là thành các quy phạm hay quy tắc được nhà nước đảm bảo
thực hiện.
- Nhà nước đặt ra các quy phạm mới để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới
xuất hiện hoặc để thay thế các quy tắc cũ khi chúng không phù hợp với ý chí của
nhà nước, đồng thời đảm bảo cho các quy tắc đó được thực hiện.
- Nhà nước thừa nhận, thỏa thuận các quy định của pháp luật quốc tế hoặc
pháp luật liên quốc gia phù hợp với lợi ích của nhà nước.
2. Bản chất của pháp luật
Định nghĩa pháp luật
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin: Pháp luật là hệ thống các
quy phạm (quy tắc xử sự) có tính bắt buộc chung và được thực hiện lâu dài,
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể
hiện ý chí của nhà nước và được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện
pháp giáo dục, thuyết phục, tổ chức, cưỡng chế thông qua bộ máy nhà nước.
Pháp luật là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước và là cơ sở cho đời sống
xã hội có nhà nước.
Cũng như nhà nước, bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp của
pháp luật. Tính giai cấp của pháp luật thể hiện ở chỗ, pháp luật phản ánh ý chí
của giai cấp thống trị hay lực lượng cầm quyền trong xã hội, là công cụ điều
chỉnh quan hệ giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội theo chiều hướng bảo vệ
lợi ích, bảo vệ quyền và địa vị thống trị của lực lượng cầm quyền. Nói cách khác
pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị hay lực lượng cầm quyền được nâng lên
thành luật.
Ý chí được hiểu là “Khả năng tự xác định mục đích cho hành động và
hướng hoạt động của mình nhằm đạt mục đích đó” 2. Các giai cấp thống trị hay
lực lượng cầm quyền trong lịch sử đều theo đuổi mục đích củng cố và bảo vệ
quyền thống trị giai cấp, chúng tìm mọi cách để đạt mục đích đó. Một trong
những cách có hiệu quả nhất là biến ý chí của chúng thành ý chí của nhà nước
2
Viện ngôn ngữ học, từ điển tiếng việt, Nxb. Đà nẵng-2002, tr1167
23
và từ ý chí của nhà nước sẽ thể hiện ra thành các quy định cụ thể của pháp luật.
Làm như vậy giai cấp thống trị có thể hướng hoạt động của toàn xã hội vào việc
đạt mục đích của chúng.
Pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội và
các quan hệ xã hội khác nhau theo chiều hướng mà giai cấp thống trị mong
muốn, nhằm bảo vệ lợi ích, quyền và địa vị của giai cấp thống trị. Pháp luật là
sự thể chế hóa nhằm bảo đảm thực hiện các mục tiêu, chính sách, đường lối
chính trị của lực lượng cầm quyền giúp cho lực lượng này thực hiện được quyền
lãnh đạo của nó đối với toàn xã hội. Vì vậy, pháp luật có nhiều quy định thể hiện
tính giai cấp như: các quy định thừa nhận và bảo vệ quyền sở hữu tài sản; quyền
thống trị về chính trị và tư tưởng; quyền lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội; xác
lập hệ tư tưởng thống trị trong xã hội…
Bên cạnh tính giai cấp, pháp luật còn có tính xã hội. Tính xã hội của pháp
luật thể hiện ở chỗ pháp luật thể hiện ý chí chung của toàn xã hội và nhằm bảo
vệ lợi ích chung của tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
Kết cấu xã hội bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau nên pháp luật
không chỉ thể hiện ý chí của giai cấp thống trị mà còn phải thể hiện ý chí và
phản ánh lợi ích của các giai tầng khác ở một mức độ nhất định.
Trong đời sống của mỗi cộng đồng đều hình thành, tồn tại các thói quen,
các quy tắc, các chuẩn mực ứng xử có tính chất chân lý, thể hiện ý chí chung
của các thành viên trong cộng đồng, được sự chấp thuận và tuân thủ tự giác của
cả cộng đồng. Nhiều quy tắc chuẩn mực chung đó được nhà nước thừa nhận
thành pháp luật và góp phần tạo nên tính xã hội của pháp luật.
Pháp luật là một trong những công cụ có hiệu quả để huy động sức mạnh
chung của xã hội khi nó thể hiện ý chí chung, phản ánh nguyện vọng và bảo vệ
lợi ích chung của Nhân dân. Vì thế, khi ban hành pháp luật, để đảm bảo tính
hiệu quả của nó, giai cấp cầm quyền thường nhân danh ý chí và lợi ích chung
của quốc gia, dân tộc của Nhân dân. Do vậy, trong pháp luật hiện đại có nhiều
quy định thể hiện tính xã hội như: thừa nhận một cách rộng rãi các quyền cơ bản
của con người với tư cách là những quyền tự nhiên bẩm sinh của họ, quy định
các biện pháp bảo đảm thực hiện và bảo vệ các quyền đó; xác định các quyền và
nghĩa vụ cơ bản chung cho mọi công dân; quy định chế độ phổ cập giáo dục bắt
buộc cho công dân; quy định đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, an
toàn giao thông, bảo vệ môi trường, bảo vệ các danh lam thắng cảnh, di tích lịch
sử và các công trình văn hóa của đất nước; pháp luật thể chế hóa các quan niệm
về đạo đức truyền thống dân tộc, thừa nhận các quy tắc đạo đức và các phong
tục tập quán tốt đẹp của dân tộc.

24
Tóm lại, tính giai cấp và tính xã hội là bản chất chung của tất cả các kiểu
pháp luật, song các kiểu pháp luật khác nhau sẽ khác nhau ở những biểu hiện cụ
thể và tương quan giữa mức độ thể hiện của hai tính chất đó.
3. Thuộc tính của pháp luật
Trong đời sống xã hội tồn tại các loại quy phạm như quy phạm chính trị;
quy phạm đạo đức; quy phạm của các tổ chức chính trị - xã hội, quy phạm pháp
luật… Pháp luật khác các quy phạm khác ở các thuộc tính của nó.
- Pháp luật có tính quyền lực nhà nước: bởi vì pháp luật được hình thành
bằng con đường nhà nước, các quy định của pháp luật do nhà nước đặt ra hoặc
thừa nhận các quy tắc khác trong xã hội như phong tục tập quán, quy phạm đạo
đức, các tín điều tôn giáo… các quy định của pháp luật quốc tế. Pháp luật được
đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp mang tính quyền lực nhà nước từ tuyên
truyền phổ biến, giáo dục thuyết phục, động viên, khen thưởng, tổ chức thực
hiện đến áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Đây là thuộc tính riêng có
của pháp luật.
- Pháp luật có tính quy phạm phổ biến: các quy định của pháp luật là
những khuôn mẫu, chuẩn mực để định hướng cho nhận thức và hướng dẫn cách
xử sự cho mọi người trong xã hội, để bất kỳ ai khi ở vào điều kiện hoàn cảnh do
pháp luật dự liệu thì đều xử sự theo những cách thức mà pháp luật đã quy định.
Pháp luật là tiêu chuẩn để đánh giá hành vi của con người, căn cứ vào pháp luật
có thể xác định được hành vi nào là hợp pháp, hành vi nào trái pháp luật.
Tính quy phạm là thuộc tính chung của tất cả các loại quy phạm xã hội,
riêng pháp luật có tính quy phạm phổ biến, vì nó có giá trị bắt buộc phải tôn
trọng và thực hiện đối với mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội, có tác động
thường xuyên trên toàn lãnh thổ và trong nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội.
- Pháp luật có tính hệ thống: bản thân pháp luật là một hệ thống các quy
phạm bao gồm các quy tắc xử sự chung, các nguyên tắc, các định hướng… để
điều chỉnh nhiều loại quan hệ xã hội phát sinh trong nhiều lĩnh vực khác nhau
của đời sống như: dân sự, kinh tế, lao động… song các quy phạm của pháp luật
không tồn tại một cách biệt lập mà giữa chúng có mối liên hệ nội tại và thống
nhất với nhau để tạo nên một chỉnh thể là hệ thống pháp luật. Đây là một trong
những thuộc tính làm cho pháp luật khác với phong tục tập quán, đạo đức…
- Pháp luật có tính xác định về hình thức: pháp luật thường được thể hiện
trong những hình thức nhất định có thể là tập quán pháp, tiền lệ pháp hoặc văn
bản quy phạm pháp luật. Trong các văn bản quy phạm pháp luật, các quy định
của pháp luật được thể hiện thành văn nên thường rõ ràng, cụ thể, đảm bảo được
hiểu và thực hiện thống nhất trong một phạm vi rộng.

25
4. Vai trò của pháp luật
a. Pháp luật góp phần tích cực vào việc tổ chức quản lý và điều tiết nền kinh
tế
- Pháp luật xác định rõ chế độ kinh tế, các thành phần kinh tế, các hình
thức sở hữu, chính sách tài chính, thuế, tiền tệ, giá cả, đầu tư, thu nhập, cơ chế
kinh tế, các phương pháp quản lý kinh tế… qua đó tác động tới cơ cấu, sự tăng
trưởng và sự ổn định của nền kinh tế.
- Pháp luật thể chế hóa các chính sách kinh tế của nhà nước; quy định
trình tự, thủ tục ký kết các hợp đồng kinh tế; trình tự, thủ tục giải quyết các tranh
chấp kinh tế… Pháp luật có thể thúc đẩy kinh tế phát triển khi những quy định
của nó phù hợp, phản ánh đúng trình độ phát triển của nền kinh tế. Pháp luật góp
phần phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường, chống độc
quyền, chống bán phá giá, giảm bớt sự phân hóa giầu nghèo trong xã hội…
b. Pháp luật là cơ sở cho việc tổ chức, hoạt động và giám sát hoạt động của
bộ máy nhà nước
- Pháp luật quy định các loại cơ quan nhà nước, trình tự thành lập, cơ cấu
tổ chức của từng loại, từng cấp và từng cơ quan
- Pháp luật quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức và
phương pháp hoạt động của các cơ quan nhà nước; quy định mối quan hệ giữa
các cơ quan và giữa các nhân viên nhà nước. Những quy định đó trở thành cơ sở
cho hoạt động của bộ máy nhà nước, cho việc giám sát hoạt động của các nhân
viên nhà nước, góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước.
c. Pháp luật là cơ sở để giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
Phần lớn các quy định của pháp luật được ban hành là để hướng dẫn cách
xử sự cho mọi người khi tham gia vào các quan hệ xã hội nhằm thiết lập trật tự
xã hội trong những lĩnh vực nhất định, thiết lập an ninh, an toàn xã hội. Pháp
luật cấm những hành vi gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và quy
định các biện pháp trừng phạt đối với những chủ thể có hành vi đó, qua đó mà
bảo đảm được trật tự an ninh, an toàn xã hội.
d. Pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập, phát triển các mối quan
hệ ngoại giao, hữu nghị và hợp tác quốc tế
Pháp luật thừa nhận các tập quán quốc tế, quy định trình tự, thủ tục ký
kết, phê chuẩn, gia nhập điều ước quốc tế; trình tự, thủ tục thiết lập quan hệ
ngoại giao với các nước khác. Các quy định đó là cơ sở cho việc thiết lập và
phát triển các quan hệ ngoại giao, hữu nghị và hợp tác quốc tế, thúc đẩy quá
trình hội nhập. Ngoài ra pháp luật còn nội luật hóa các quy định của pháp luật
quốc tế góp phần hiện thực hóa các cam kết quốc tế của nhà nước, thúc đẩy sự
phát triển các quan hệ quốc tế.

26
II. QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP
LUẬT
1. Khái niệm, đặc điểm
a. Khái niệm
Quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do
nhà nước đặt ra, thừa nhận và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp
thống trị và nhu cầu tồn tại của xã hội nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo
điều kiện cho xã hội tồn tại và phát triển
b. Đặc điểm
- Quy phạm pháp luật là quy phạm xã hội nên có tất cả các đặc điểm của
quy phạm xã hội;
- Quy phạm pháp luật do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và đảm bảo thực
hiện nên luôn thể hiện ý chí của nhà nước;
- Nội dung của quy phạm pháp luật thường thể hiện 2 mặt: cho phép và
bắt buộc, tức là quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể tham gia
vào quan hệ xã hội do nó điều chỉnh;
- Quy phạm pháp luật có tính giai cấp có tính xã hội và tính hệ thống. Ở
Việt Nam hiện tại chủ yếu là những quy phạm thành văn.
2. Cấu trúc của quy phạm pháp luật
Có nhiều quan niệm khác nhau về cấu trúc của quy phạm pháp luật, có
người cho rằng quy phạm pháp luật gồm 2 bộ phận là giả định và chỉ dẫn; người
khác cho rằng quy phạm pháp luật có 2 bộ phận là quy tắc và bảo đảm. Tuy
nhiên, quan niệm có tính chất truyền thống và phổ biến thì cho rằng quy phạm
pháp luật gồm 3 bộ phận là giả định, quy định và chế tài.
a. Giả định
Là bộ phận của quy phạm pháp luật trong đó nêu rõ chủ thể nào, trong
điệu kiện, hoàn cảnh nào thì thuộc phạm vi điều chỉnh của quy phạm pháp luật
đó. Nói cách khác giả định là bộ phận dự kiến về chủ thể, điều kiện tình tiết xảy
ra trong thực tế thì chủ thể phải xử sự theo yêu cầu ở phần quy định (thường trả
lời cho câu hỏi ai? Khi nào? Trong điều kiện hoàn cảnh nào?
Ví dụ: Khoản 1 điều 87 Luật giáo dục năm 2005 quy định:
“Người học các chương trình giáo dục đại học nếu được hưởng học bổng, chi
phí đào tạo do nhà nước cấp hoặc do nước ngoài tài trợ theo hiệp định ký kết với
nhà nước thì sau khi tốt nghiệp phải chấp hành sự điều động làm việc có thời
hạn của nhà nước; trường hợp không chấp hành thì phải bồi hoàn học bổng, chi
phí đào tạo”
b. Quy định
Là bộ phận của quy phạm pháp luật trong đó nêu lên cách xử sự hay quy
tắc xử sự cho chủ thể khi ở vào điều kiện hoàn cảnh đã nêu trong phần giả định
27
của quy phạm. Đây là phần trực tiếp thể hiện ý chí, mong muốn của nhà nước, là
mệnh lệnh của nhà nước đối với các chủ thể, chỉ rõ quyền và nghĩa vụ pháp lý
cho các chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội do nó điều chỉnh, thường trả lời cho
các câu hỏi: được làm gì? không được làm gì? phải làm gì và làm như thế nào?
Quy định của quy phạm có thể nêu lên một cách xử sự rõ ràng, dứt khoát
cho một chủ thể, song cũng có thể là tùy nghi nêu lên nhiều cách xử sự cho phép
chủ thể lựa chọn và thực hiện một trong các cách đó.
Ví dụ: Điều 32 luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
“ Vợ chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản
chung”
c. Chế tài
Là bộ phận của quy phạm pháp luật, trong đó nêu lên nếu làm hay không
làm như phần quy định thì sẽ phải chịu hậu quả như thế nào. Chế tài là bộ phận
đảm bảo trên thực tế tính cưỡng chế của pháp luật.
Chế tài thường được ghi ở cuối điều luật hoặc cuối văn bản quy phạm
pháp luật. Ví dụ: Người nào có hành vi vi phạm các quy định của luật này thì
tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành
chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; trường hợp gây thiệt hại thì phải bồi
thường theo quy định của pháp luật.
Về cơ bản, chế tài được chia thành: chế tài hình sự, chế tài hành chính,
chế tài kỷ luật, chế tài dân sự.
Tuy nhiên trên thực tế, không phải bao giờ một quy phạm pháp luật cũng
phải cơ cấu đủ 3 bộ phận nêu trên. Để việc thực hiện được ngắn gọn, thuận tiện
cho việc áp dụng, các quy phạm pháp luật thường chỉ bao gồm 2 bộ phận: giả
định và quy định hoặc giả định và chế tài. Những quy phạm không có chế tài đi
kèm thì phần chế tài tương ứng nằm trong điều luật khác. Vì vậy, trong thực tế
áp dụng pháp luật, phải vận dụng đồng thời một số quy phạm pháp luật liên
quan với nhau.
3. Văn bản quy phạm pháp luật
a. Khái niệm và đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành theo trình tự, thủ tục được pháp luật quy định, có các quy tắc xử sự mang tính bắt
buộc chung, được nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật:
- Phải do các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành hoặc phối hợp
ban hành với những hình thức do pháp luật quy định.
- Trình tự, thủ tục ban hành văn bản được quy định chặt chẽ trong luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

28
- Nội dung của văn bản có chứa đựng các quy tắc xử sự chung, được áp dụng
nhiều lần đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng, có hiệu lực về thời gian và
không gian nhất định.
- Nhà nước bảo đảm thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật bằng các biện
pháp thích hợp như: tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, hành chính, kinh tế, trong
trường hợp cần thiết áp dụng cưỡng chế bắt buộc phải thi hành.
b. Thẩm quyền ban hành
- Quốc hội ban hành: Hiến pháp, Luật , Nghị quyết
- Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành: Pháp lệnh, Nghị quyết
- Chủ tịch nước ban hành: Lệnh, Quyết định
- Chính phủ ban hành: Quyết định, Chỉ thị
- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành: Quyết định, Chỉ thị, Thông tư.
- Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành: Nghị quyết
- Các Nghị quyết, Thông tư liên tịch được ban hành giữa các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức chính trị - xã hội.
- Hội đồng nhân dân ban hành Nghị quyết, Ủy ban nhân dân ban hành Quyết
định, Chỉ thị
III. QUAN HỆ PHÁP LUẬT VÀ SỰ KIỆN PHÁP LÝ
1. Khái niệm
Quan hệ pháp luật là quan hệ giữa người với người (quan hệ xã hội) do
một quy phạm pháp luật điều chỉnh, biểu hiện thành quyền và nghĩa vụ pháp lý
cụ thể của các bên, được đảm bảo bằng cưỡng chế nhà nước.
Đặc điểm của quan hệ pháp luật
- Là quan hệ xã hội có ý chí, bởi vì nó được hình thành và được điều
chỉnh theo ý chí của con người.
- Quan hệ pháp luật có tính giai cấp vì quyền và nghĩa vụ pháp lý của các
chủ thể tham gia quan hệ được nhà nước quy định hoặc thừa nhận và bảo đảm
thực hiện theo chiều hướng phù hợp với mục đích của giai cấp thống trị.
- Nội dung của quan hệ pháp luật bao gồm quyền, nghĩa vụ của các chủ
thể do nhà nước quy định hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện.
2. Thành phần của quan hệ pháp luật
Thành phần của quan hệ pháp luật gồm 3 bộ phận: Chủ thể, nội dung và
khách thể
a. Chủ thể của quan hệ pháp luật
- Chủ thể của quan hệ pháp luật là cá nhân hoặc tổ chức tham gia vào
quan hệ pháp luật, có quyền và nghĩa vụ pháp lý trong quan hệ pháp luật.

29
+ Chủ thể là cá nhân gồm: công dân, người nước ngoài, người không
quốc tịch cư trú ở Việt Nam; chủ thể trực tiếp trong một quan hệ pháp luật luôn
có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Năng lực pháp luật là khả năng của một chủ thể được hưởng quyền và
làm nghĩa vụ trong một quan hệ pháp luật nhất định. Về nguyên tắc mọi cá nhân
đều có năng lực pháp luật, trừ trường hợp bị pháp luật hạn chế hoặc tòa án tước
đoạt. Trong nhiều quan hệ pháp luật năng lực pháp luật của cá nhân phát sinh từ
khi họ sinh ra và chấm dứt khi họ chết (trong quan hệ dân sự, quan hệ học tập,
lao động…), song cũng có những quan hệ năng lực pháp luật của cá nhân chỉ
phát sinh khi họ đạt đến một độ tuổi nhất định (quan hệ hôn nhân, quan hệ bầu
cử, ứng cử, thành lập doanh nghiệp…).
Năng lực hành vi là khả năng của một chủ thể có thể bằng hành vi của
mình tham gia vào một quan hệ pháp luật để hưởng quyền và làm nghĩa vụ.
Người có năng lực hành vi là người hiểu rõ ý nghĩa và kết quả hành vi mà mình
thực hiện và phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Những người chưa đến
một độ tuổi nhất định, người mắc các bệnh không nhận thức và điều khiển được
hành vi là người không có năng lực hành vi. Độ tuổi cụ thể được coi là có năng
lực hành vi được xác định khác nhau tùy theo từng loại quan hệ pháp luật.
+ Chủ thể là tổ chức: một tổ chức có thể là chủ thể của nhiều quan hệ
pháp luật khác nhau. Đó là một tập hợp người theo một cơ cấu, tổ chức nhất
định nhằm những mục tiêu kinh tế, chính trị xã hội cụ thể. Một tổ chức có đủ
năng lực pháp luật và năng lực hành vi để tham gia vào một quan hệ pháp luật
cụ thể là một pháp nhân.
Một tổ chức được công nhận là một pháp nhân khi có đủ các điều kiện:
Được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với các
cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình
tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Các loại pháp nhân bao gồm: Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ
trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp, tổ
chức kinh tế, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, các tổ chức khác có đủ điều kiện.
b. Nội dung của quan hệ pháp luật
Nội dung của quan hệ pháp luật bao gồm các quyền và nghĩa vụ pháp lý
của các chủ thể
- Quyền chủ thể là cách xử sự mà chủ thể có thể tiến hành theo quy định
của pháp luật, quyền chủ thể bao gồm các khả năng sau:
+ Xử sự theo một khuôn khổ nhất định phù hợp với quy định của pháp
luật.
+ Yêu cầu các chủ thể khác chấm dứt các hành động cản trở mình thực
hiện quyền phù hợp với quy định của pháp luật.

30
+ Yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
- Nghĩa vụ chủ thể là cách xử sự mà chủ thể buộc phải thực hiện theo quy
định của pháp luật nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền của các chủ thể khác.
Nghĩa vụ chủ thể được hiểu theo hai phương diện:
+ Phải tiến hành các xử sự bắt buộc, nghĩa là phải thực hiện hoặc không
được thực hiện những hành vi nhất định.
+ Phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý khi không thực hiện các xử sự bắt
buộc.
Có những quyền và nghĩa vụ pháp lý chủ thể có thể ủy quyền cho người
khác thực hiện thay, song cũng có những quyền và nghĩa vụ pháp lý không thể
ủy quyền.
c. Khách thể của quan hệ pháp luật
Khách thể của quan hệ pháp luật là những gì mà các chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật cùng hướng tới mà nhờ đó các chủ thể có thể đạt được những
lợi ích vật chất hoặc tinh thần của mình.
Khách thể của quan hệ pháp luật rất đa dạng tùy thuộc vào từng loại quan
hệ pháp luật, đó có thể là kết quả của công việc trong hợp đồng khoán việc; là
quyền sở hữu tài sản trong quan hệ mua bán, tặng cho; là quyền sử dụng trong
quan hệ thuê mượn tài sản; là giá trị sức lao động trong quan hệ lao động…
3. Sự kiện pháp lý
Một quan hệ pháp luật cụ thể sẽ phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt khi có
các sự kiện pháp lý, vì vậy, sự kiện pháp lý được coi là căn cứ làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật.
Sự kiện pháp lý là sự kiện, sự việc thực tế xảy ra trong cuộc sống được
pháp luật gắn với việc làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật.
Các sự kiện pháp lý thường rất đa dạng, một sự kiện pháp lý có thể làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nhiều quan hệ pháp luật và ngược lại, một
quan hệ pháp luật có thể làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt do tác động của một
sự kiện pháp lý. Ví dụ: Một cái chết của một công dân là một sự kiện pháp lý
làm chấm dứt quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý của người này, nhưng lại làm
phát sinh quyền thừa kế tài sản của người chết đối với những người được thừa
kế…
IV. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
Thực hiện pháp luật là một hiện tượng, quá trình có mục đích làm cho
các quy định của pháp luật trở thành hành động thực tế của các chủ thể pháp
luật.

31
1. Các hình thức thực hiện pháp luật
Tùy theo yêu cầu của các quy phạm pháp luật mà thực hiện pháp luật bao
gồm các hình thức sau:
a.Tuân theo (tuân thủ) pháp luật
Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể kiềm chế, giữ mình
để không thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm. Ví dụ, chủ thể không vượt
đèn đỏ hoặc đi ngược chiều khi tham gia giao thông. Đây là hình thức thực hiện
pháp luật bằng không hành động, là hình thức thực hiện các quy phạm cấm đoán
trong thực tế.
b. Thi hành (chấp hành) pháp luật
Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể thực hiện các
nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Ví dụ, chủ thể thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế. Đây là hình thức thực hiện pháp luật bằng hành động và hình
thức thực hiện các quy phạm bắt buộc.
c. Sử dụng (vận dụng) pháp luật
Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể thực hiện quyền
chủ thể của mình, tức là thực hiện các hành vi mà pháp luật cho phép. Ví dụ,
việc thực hiện quyền học tập bằng cách đăng ký dự thi và làm thủ tục nhập học
tại các cơ sở đào tạo của người học. Đây là hình thức thực hiện các quy phạm
cho phép, chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền của mình.
d. Áp dụng pháp luật
Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó nhà nước (thông qua các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền) tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện
các quy định của pháp luật. Ví dụ, Ủy ban nhân dân cấp xã/phường/thị trấn căn
cứ vào các quy định của nhà nước cấp giấy khai sinh cho trẻ em. Đây là hình
thức thực hiện pháp luật có sự can thiệp của nhà nước.
Trên đây là sự phân chia các hình thức thực hiện pháp luật chủ yếu phục
vụ cho mục đích nghiên cứu, còn trong thực tế, nhiều khi các cụm từ “tuân theo
pháp luật” và “chấp hành pháp luật” được sử dụng đồng nghĩa với nhau và dùng
để chỉ tất cả các hình thức thực hiện pháp luật.
2. Áp dụng pháp luật
a. Khái niệm
Áp dụng pháp luật là hành động có tính tổ chức, tính quyền lực nhà nước,
do cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
tiến hành nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật hiện hành vào những
trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
b. Các trường hợp cần áp dụng pháp luật
Hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành trong các trường hợp sau:
- Khi quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt. Điều đó có nghĩa, mặc dù pháp luật đã quy định rõ

32
quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể, song quan hệ pháp luật cụ thể vẫn
không thể phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của một cơ
quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền. Hoạt động áp dụng pháp luật của
chủ thể có thẩm quyền sẽ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp
luật. Ví dụ, quyền và nghĩa vụ học tập của công dân sẽ không thể phát sinh nếu
thiếu hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ sở giáo dục và đào tạo.
- Khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể mà
họ không tự giải quyết được với nhau và yêu cầu có sự can thiệp của một cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Chủ thể có thẩm quyền áp dụng sẽ đóng vai trò
là trọng tài để giải quyết tranh chấp đó. Ví dụ, Tòa án giải quyết tranh chấp giữa
người cho thuê nhà với người thuê nhà.
- Khi cần truy cứu trách nhiệm pháp lý, tức là áp dụng các biện pháp
cưỡng chế nhà nước đối với các chủ thể vi phạm pháp luật. Ví dụ, cảnh sát giao
thông xử lý người vi phạm pháp luật giao thông, ra quyết định xử phạt đối với
họ.
- Khi cần áp dụng sự cưỡng chế của nhà nước đối với các chủ thể không
vi phạm pháp luật mà chỉ vì lợi ích chung của xã hội. Ví dụ, thu hồi đất để giải
phóng mặt bằng, bắt buộc phải chữa bệnh…
- Khi cần áp dụng các hình thức khen thưởng đối với các chủ thể có thành
tích theo quy định của pháp luật. Ví dụ, chủ thể có thẩm quyền xét và trao tặng
bằng khen, danh hiệu vinh dự nhà nước… cho một cá nhân, tổ chức nào đó.
- Khi cần kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của
các chủ thể trong một số quan hệ pháp luật nhất định theo quy định của pháp
luật. Ví dụ, hoạt động của các cơ quan kiểm sát, thanh tra, hoạt động giám sát
của Quốc hội, Hội đồng nhân dân…
- Khi cần phải xác nhận sự tồn tại của một sự kiện thực tế cụ thể nào đó
theo quy định của pháp luật. Ví dụ, hoạt động xác nhận của Ủy ban nhân dân, cơ
quan công chứng….
V. VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
1. Vi phạm pháp luật
a. Khái niệm
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật và có lỗi, do chủ thể có năng
lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ.
b. Các dấu hiệu của vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật phải là hành vi xác định của con người, tức là xử sự
thực tế, cụ thể, của cá nhân, tổ chức nhất định. Bởi vì, pháp luật được ban hành
để điều chỉnh các hành vi của các chủ thể mà không điều chỉnh suy nghĩ của họ.
Do vậy, phải căn cứ vào hành vi thực tế của chủ thể mới có thể xác nhận được là
họ thực hiện pháp luật hay vi phạm pháp luật.

33
Hành vi xác định này có thể được thực hiện bằng hành động hoặc bằng
không hành động.
- Vi phạm pháp luật phải là hành vi trái pháp luật, tức là xử sự trái với các
yêu cầu của pháp luật. Hành vi này được thể hiện dưới các hình thức sau:
+ Chủ thể thực hiện những hành vi bị pháp luật cấm.
+ Chủ thể không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật bắt buộc phải
thực hiện
+ Chủ thể sử dụng quyền hạn vượt quá giới hạn cho phép
- Vi phạm pháp luật phải là hành vi của chủ thể có năng lực trách nhiệm
pháp lý. Năng lực trách nhiệm pháp lý của chủ thể là khả năng mà pháp luật quy
định cho chủ thể phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Chủ thể là cá nhân
sẽ có năng lực pháp lý khi đạt đến một độ tuổi nhất định và trí tuệ phát triển
bình thường. Chủ thể là tổ chức có năng lực pháp lý khi được thành lập hoặc
được công nhận.
- Vi phạm pháp luật phải là hành vi có lỗi của chủ thể, tức là khi thực hiện
hành vi trái pháp luật, chủ thể có thể nhận thức được hành vi của mình và hậu
quả của hành vi đó, đồng thời điều khiển được hành vi của mình.
Như vậy, chỉ những hành vi trái pháp luật mà có lỗi của chủ thể thì mới bị
coi là vi phạm pháp luật. Còn trong những trường hợp chủ thể thực hiện một xử
sự có tính chất trái pháp luật nhưng chủ thể không nhận thức được hành vi của
mình và hậu quả của hành vi đó gây ra cho xã hội hoặc nhận thức được hành vi
và hậu quả của hành vi nhưng không điều khiển được hành vi thì không bị coi là
có lỗi và không phải là vi phạm pháp luật.
- Vi phạm pháp luật là hành vi xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp
luật xác lập và bảo vệ. Một hành vi thực tế bị coi là vi phạm pháp luật khi chứa
đựng đầy đủ các dấu hiệu trên.
c. Cấu thành của vi phạm pháp luật
Cấu thành của vi phạm pháp luật là những yếu tố hợp thành vi phạm pháp
luật hoặc những dấu hiệu đặc trưng của một vi phạm pháp luật cụ thể. Mỗi vi
phạm pháp luật sẽ có cấu thành riêng, song trong cấu thành của mọi vi phạm
pháp luật đều có 4 yếu tố là mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách
thể.
- Mặt khách quan của hành vi vi phạm pháp luật: là những dấu hiệu biểu
hiện ra bên ngoài thế giới khách quan của hành vi vi phạm pháp luật. Nó bao
gồm các yếu tố:
+ Hành vi trái pháp luật hay còn gọi là hành vi nguy hiểm cho xã hội: là
hành vi trái với các yêu cầu của pháp luật, nó gây ra hoặc đe dọa gây ra những
thiệt hại hay những hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
+ Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: là những thiệt hại về người và của hoặc
những thiệt hại phi vật chất khác do hành vi trái pháp luật gây ra

34
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội,
giữa chúng phải có mối quan hệ nội tại và tất yếu với nhau. Hành vi đã chứa
đựng mầm mống gây ra hậu quả hoặc là nguyên nhân trực tiếp của hậu quả nên
nó phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian; còn hậu quả phải là kết quả tất
yếu của chính hành vi đó mà không phải là của một nguyên nhân khác.
+ Thời gian vi phạm pháp luật là giờ, ngày, tháng, năm xảy ra vi phạm
pháp luật.
+ Địa điểm vi phạm pháp luật là nơi xảy ra vi phạm pháp luật
+ Phương tiện vi phạm pháp luật là công cụ mà chủ thể sử dụng để thực
hiện hành vi trái pháp luật.
- Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật: Là trạng thái tâm lý bên trong của
chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật, bao gồm các yếu tố: lỗi, động cơ
mục đích vi phạm pháp luật.
+ Lỗi: là trạng thái tâm lý hay thái độ của chủ thể đối với hành vi và hậu
quả do hành vi trái pháp luật gây ra cho xã hội, được thể hiện dưới hai hình
thức: cố ý hoặc vô ý.
Lỗi cố ý gồm 2 loại: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp
Cố ý trực tiếp là lỗi của một chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật
nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của
hành vi đó và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
Cố ý gián tiếp là lỗi của một chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật
nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của
hành vi đó, tuy không mong muốn song có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
Lỗi vô ý bao gồm 2 loại: vô ý vì cẩu thả và vô ý quá tự tin
Vô ý vì cẩu thả là lỗi của chủ thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội
nhưng do cẩu thả nên không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả
đó, mặc dù có thể thấy trước và phải thấy trước hậu quả này.
Vô ý vì quá tự tin là lỗi của một chủ thể tuy thấy trước hành vi của mình
có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội song tin chắc rằng hậu quả đó sẽ
không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên mới thực hiện và có thể gây ra
hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
+ Động cơ vi phạm pháp luật: là động lực tâm lý bên trong thúc đẩy chủ
thể thực hiện hành vi trái pháp luật.
+ Mục đích vi phạm pháp luật: là cái đích trong tâm lý hay kết quả cuối
cùng mà chủ thể mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi trái pháp luật.
- Chủ thể của vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức, có năng lực trách
nhiệm pháp lý và đã thực hiện hành vi trái pháp luật, có lỗi.
- Khách thể của vi phạm pháp luật là quan hệ xã hội được pháp luật bảo
vệ nhưng bị hành vi trái pháp luật xâm hại.
d. Một số loại vi phạm pháp luật

35
- Vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm)
- Vi phạm pháp luật hành chính
- Vi phạm pháp luật dân sự
- Vi phạm kỷ luật
- Vi phạm Hiến pháp
- Vi phạm pháp luật Quốc tế của Quốc gia
2. Trách nhiệm pháp lý
a. Khái niệm
Trách nhiệm pháp lý của một chủ thể là sự bắt buộc chủ thể đó phải gánh
chịu những hậu quả pháp lý bất lợi thể hiện qua việc họ phải gánh chịu những
biện pháp cưỡng chế nhà nước được quy định trong phần chế tài của các quy
phạm pháp luật vì sự vi phạm pháp luật của họ.
b. Đặc điểm
- Cơ sở của trách nhiệm pháp lý là vi phạm pháp luật
- Trách nhiệm pháp lý luôn gắn liền với biện pháp cưỡng chế nhà nước
được quy định trong phần chế tài của các quy phạm pháp luật, nó thể hiện sự
trừng phạt của nhà nước đối với chủ thể vi phạm.
- Trách nhiệm pháp lý là hậu quả pháp lý bất lợi đối với chủ thể vi phạm
pháp luật, chủ thể vi phạm phải gánh chịu hậu quả bất lợi về tài sản, nhân thân,
tự do hoặc những hậu quả bất lợi khác do pháp luật quy định.
- Trách nhiệm pháp lý là một loại nghĩa vụ pháp lý đặc biệt, nghĩa vụ phát
sinh khi có vi phạm pháp luật: phải phạt tiền, phải bồi thường thiệt hại, phải
ngồi tù…
c. Phân loại trách nhiệm pháp lý
Căn cứ vào cách phân loại vi phạm pháp luật, có các loại trách nhiệm
pháp lý sau:
- Trách nhiệm hình sự
- Trách nhiệm dân sự
- Trách nhiệm hành chính
- Trách nhiệm kỷ luật
- Trách nhiệm vật chất
- Trách nhiệm hiến pháp
- Trách nhiệm pháp lý của quốc gia trong quan hệ quốc tế.
VI. PHÁP CHẾ
1. Khái niệm
Pháp chế là sự đòi hỏi mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội đều phải tôn
trọng và thực hiện pháp luật hiện hành một cách nghiêm chỉnh và triệt để nhằm
tạo ra trong xã hội một trật tự kỷ cương cần thiết.
Tùy theo mức độ tôn trọng và thực hiện pháp luật hiện hành trong thực tế
của các chủ thể trong xã hội mà nền pháp chế có các trình độ khác nhau. Nếu

36
pháp luật còn bị vi phạm nhiều có nghĩa là nền pháp chế có trình độ thấp, còn
nếu đa số các chủ thể trong xã hội đều tự giác tôn trọng và thực hiện pháp luật
thì pháp luật ít bị vi phạm và pháp chế có trình độ cao.
2. Những yêu cầu cơ bản của pháp chế
a. Tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp
Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật, nó quy định những vấn đề chung, cơ bản nhất của nhà nước
như: chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chế độ văn hóa, xã hội, quyền, nghĩa vụ cơ
bản của công dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Hiến pháp là đạo
luật gốc của nhà nước, những quy định của Hiến pháp là cơ sở để xây dựng và
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật khác.
Yêu cầu tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp đòi hỏi trong quá trình xây
dựng pháp luật phải đảm bảo cho các quy định trong các văn bản quy phạm
pháp luật được xây dựng và ban hành trên cơ sở các quy định của Hiến pháp,
nhằm cụ thể hóa để thực hiện Hiến pháp, trong thực tế các quy định trái Hiến
pháp đều bị vô hiệu hóa và hủy bỏ. Còn trong quá trình thực hiện pháp luật, nếu
về cùng một vấn đề, một mối quan hệ mà trong các văn bản khác và những quy
định trong Hiến pháp mâu thuẫn với nhau thì chỉ có các quy định trong Hiến
pháp mới có hiệu lực pháp lý, mới có giá trị bắt buộc phải tôn trọng và thực
hiện.
b. Pháp luật phải được ban hành, nhận thức và thực hiện thống nhất
Yêu cầu này đòi hỏi pháp luật phải được ban hành, nhận thức và thực hiện
thống nhất trong phạm vi cả nước để đảm bảo nguyên tắc mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật.
Đối với việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật: Luật phải phù
hợp, tuân thủ Hiến pháp, các văn bản dưới luật phải phù hợp, không trái luật;
quy định trong các văn bản của cơ quan trung ương phải đảm bảo thực hiện ở tất
cả các địa phương trong toàn quốc; văn bản của các cơ quan địa phương phải
phù hợp không trái với các quy định của các cơ quan nhà nước ở trung ương,
tránh tình trạng “cục bộ địa phương” hoặc “phép vua thua lệ làng”; quy định của
cơ quan quản lý phải phù hợp với quy định của cơ quan quyền lực cùng cấp. Có
như vậy mới tạo nên tính thống nhất của cả hệ thống pháp luật.
Đối với việc nhận thức và thực hiện pháp luật, yêu cầu này đòi hỏi với
cùng một điều luật, một quy định trong văn bản quy phạm pháp luật chung của
các cơ quan nhà nước ở trung ương phải được hiểu và thực hiện như nhau ở tất
cả các địa phương trong toàn quốc. Mọi vi phạm pháp luật đều phải bị phát hiện
và xử lý nghiêm minh, tránh tình trạng “ quan thì xử theo lệ còn dân thì xử theo
luật”.
c. Mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội đều phải tôn trọng và thực hiện pháp
luật hiện hành một cách nghiêm chỉnh.

37
Yêu cầu này đòi hỏi tất cả các tổ chức và cá nhân trong xã hội, kể cả cán
bộ, công chức, viên chức và cơ quan nhà nước đều có nghĩa vụ tôn trọng và thực
hiện pháp luật trong xử sự của mình, chỉ được sử dụng quyền của mình trong
phạm vi mà pháp luật cho phép và phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ pháp lý
của mình. Mặc dù pháp luật do nhà nước ban hành, song khi có hiệu lực pháp lý
thì nó lại quay trở lại ràng buộc ngay chính nhà nước, trở thành cơ sở pháp lý
cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, trở thành phương tiện để giới
hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước.
d. Các cơ quan xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ
pháp luật phải hoạt động một cách chủ động, tích cực và hiệu quả
Để có thể thiết lập và tăng cường pháp chế thì tất cả các cơ quan trong bộ
máy nhà nước đều phải hoạt động một cách tích cực và có hiệu quả nhằm bảo
đảm có thể xây dựng được một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện và có
tính khả thi cao; để có thể biến các quy định của pháp luật từ trong văn bản
thành cách xử sự thực tế hợp pháp của các chủ thể; để có thể phát hiện kịp thời
và xử lý nghiêm minh các chủ thể vi phạm pháp luật nhằm bảo vệ trật tự, kỷ
cương xã hội.

Định hướng nghiên cứu bài


1. Nguồn gốc, bản chất, vai trò và các thuộc tính của pháp luật.
2. Các đặc điểm, cấu trúc của quy phạm pháp luật, lấy ví dụ minh họa.
3. So sánh pháp luật với đạo đức và phân tích mối quan hệ giữa chúng.
4. Các đặc điểm, thành phần của quan hệ pháp luật, lấy ví dụ minh họa.
5. Các đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật. Hiệu lực về thời gian và
không gian của văn bản quy phạm pháp luật, chứng minh bằng ví dụ.
6. Các hình thức thực hiện pháp luật. Các trường hợp cần áp dụng pháp luật. Ví
dụ
7. Trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm pháp lý được áp dụng trong những trường
hợp nào? ví dụ?
8. Pháp chế. Các yêu cầu cơ bản của pháp chế XHCN trong giai đoạn hiện nay.
Liên hệ việc thực hiện pháp chế ở Việt Nam.

38
Chương 3
LUẬT DÂN SỰ

I. KHÁI NIỆM, ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH, PHƯƠNG PHÁP


ĐIỀU CHỈNH
1. Khái niệm
Luật Dân sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ tài sản và
quan hệ nhân thân trên cơ sở đảm bảo sự độc lập, bình đẳng và tự nguyện của
các chủ thể khi tham gia quan hệ đó.
2. Đối tượng điều chỉnh
Đối tượng điều chỉnh của luật Dân sự là các quan hệ về tài sản và quan hệ
nhân thân.
Quan hệ tài sản là những quan hệ xã hội gắn liền và thông qua một tài
sản. Tài sản bao gồm: các vật cụ thể (hữu hình) và những quyền, nghĩa vụ mang
nội dung tài sản (vô hình).
Quan hệ nhân thân là những quan hệ xã hội phát sinh từ một giá trị tinh
thần của một cá nhân hay một tổ chức và luôn luôn gắn liền với một chủ thể
nhất định. Bao gồm các quan hệ nhân thân không liên quan đến tài sản và quan
hệ nhân thân liên quan đến tài sản. Những quan hệ nhân thân không liên quan
đến tài sản là những quan hệ xã hội về lợi ích tinh thần, tồn tại một cách độc lập,
không liên quan đến tài sản, như: các quyền đối với họ tên, quyền được bảo vệ
danh dự, nhân phẩm, uy tín; các quan hệ nhân thân liên quan đến tài sản là
những quyền nhân thân có thể làm phát sinh những quyền tài sản, như quyền lao
động, quyền tự do kinh doanh, quyền tự do nghiên cứu, quyền sở hữu trí tuệ…
3. Phương pháp điều chỉnh
Phương pháp điều chỉnh của luật Dân sự là những biện pháp, cách thức
mà Nhà nước tác động lên các quan hệ tài sản, các quan hệ nhân thân làm cho
các quan hệ này phát sinh, thay đổi, chấm dứt theo ý chí của Nhà nước.
Phương pháp đặc trưng được sử dụng trong luật Dân sự là tôn trọng sự
bình đẳng, thỏa thuận của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật Dân sự. Sự
bình đẳng của các chủ thể dựa trên cơ sở sự độc lập về mặt tài sản và tổ chức.
Việc xác lập và giải quyết các quan hệ tài sản, quan hệ nhân nhân chủ yếu do ý
chí và lợi ích của chính các chủ thể là cá nhân và tổ chức tham gia vào các quan
hệ đó. Vì không có sự ràng buộc về tài sản và tổ chức nên các chủ thể đều có tư
cách pháp lý ngang nhau. Nhà nước khuyến khích sự thỏa thuận giữa các chủ
thể trong khuôn khổ quy định của pháp luật.

39
Sự bình đẳng, thỏa thuận của các bên trong quan hệ pháp luật dân sự thể
hiện qua những nội dung sau:
- Các chủ thể đều có quyền tự định đoạt, quyết định trong việc xác lập
cũng như giải quyết quan hệ pháp luật dân sự. Trong quá trình bàn bạc, thương
lượng mỗi bên có quyền bày tỏ ý chí và bảo vệ lợi ích của mình. Mức độ quyền
và nghĩa vụ của mỗi bên được xác định trên cơ sở thỏa thuận. Với ý chí tự
nguyện và cùng có lợi, mỗi chủ thể được quyền lực chọn đối tác, cách thức tham
gia và thực hiện các quyền và nghĩa vụ, cùng nhau lựa chọn các biện pháp bảo
đảm, hình thức trách nhiệm và phương thức chấm dứt quan hệ.
- Trong việc giải quyết tranh chấp dân sự, cách thức thông thường và
trước hết là các chủ thể thực hiện tự hòa giải, thỏa thuận. Tòa án, trọng tài chỉ
can thiệp, giải quyết khi có yêu cầu và khi các bên không thể tự hòa giải. Ngay
cả khi Tòa án, trọng tài đã tham gia giải quyết tranh chấp, nếu các bên đạt được
sự thỏa thuận thì tòa án, trọng tài cũng chấp nhận sự thỏa thuận đó.
- Trong trách nhiệm dân sự, bên vi phạm chịu trách nhiệm đối với bên bị
vi phạm. Đó là trách nhiệm giữa các chủ thể đối với nhau. Mức độ cụ thể và
phương thức thực hiện trách nhiệm dân sự do chính các chủ thể thỏa thuận trên
cơ sở quy định của pháp luật
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT DÂN SỰ
1. Quyền sở hữu tài sản
a. Khái niệm tài sản, quyền sở hữu tài sản
Bộ luật Dân sự quy định: Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá trị và
các quyền tài sản. Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể
chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ. Như vậy, tài sản
bao gồm tài sản hữu hình và tài sản vô hình (hữu hình - vật: nhà cửa, máy móc
trang thiết bị, vàng bạc… vô hình - quyền tài sản: quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu công nghiệp, quyền đòi nợ, quyền sở hữu trí tuệ…
Sở hữu (quan hệ sở hữu) là mối quan hệ xã hội về việc chiếm hữu những
của cải vật chất trong xã hội. Đây là quan hệ giữa người với người mang nội
dung tài sản chứ không phải là quan hệ giữa người với tài sản. Tuy nhiên, quan
hệ sở hữu luôn luôn gắn liền với một tài sản nhất định và nó tồn tại trong mọi xã
hội có quan hệ xã hội và có tài sản. Mỗi chế độ xã hội có một chế độ sở hữu
tương ứng làm cơ sở cho nền sản xuất của một xã hội đó. Ở Việt Nam hiện nay,
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần với các hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn
dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể
là nền tảng.
Trong xã hội có giai cấp, có nhà nước, các quan hệ sở hữu được pháp luật
điều chỉnh, từ đó xuất hiện khái niệm quyền sở hữu. Quyền sở hữu là biểu hiện
40
về mặt pháp lý của các quan hệ sở hữu. Đó là các quyền và nghĩa vụ pháp lý
của các chủ sở hữu là các cá nhân, pháp nhân hay các chủ thể khác trong việc
chiến hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Giai cấp thống trị củng cố cơ sở kinh tế
của mình trước hết bằng cách luật hóa các quan hệ sở hữu. Pháp luật của nhà
nước xác nhận, củng cố và bảo vệ các hình thức sở hữu phù hợp với lợi ích của
giai cấp thống trị và những điều kiện kinh tế - xã hội của nhà nước trong mỗi
thời kỳ.
b. Nội dung quyền sở hữu tài sản
Nội dung quyền sở hữu bao gồm ba quyền: quyền chiếm hữu, quyền sử
dụng, quyền định đoạt tài sản.
Quyền chiếm hữu là quyền của chủ sở hữu tự mình nắm giữ, quản lý tài
sản thuộc sở hữu của mình. Thông thường quyền chiếm hữu được thực hiện bởi
chủ sở hữu. Những người không phải là chủ sở hữu cũng có quyền chiếm hữu
tài sản trong trường hợp được chủ sở hữu chuyển giao hoặc do pháp luật quy
định. Có hai loại chiếm hữu có căn cứ pháp luật và chiếm hữu không có căn cứ
pháp luật.
Quyền sử dụng là quyền của chủ sở hữu khai thác công dụng, hưởng hoa
lợi, lợi tức từ tài sản. Người chủ sở hữu trực tiếp thực hiện quyền sử dụng, được
thực hiện theo ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại và làm ảnh hưởng
đến lợi ích của người khác. Người không phải là chủ sở hữu cũng có quyền sử
dụng tài sản khi được chủ sở hữu chuyển giao quyền sử dụng thông qua hợp
đồng hoặc do pháp luật quy định.
Quyền định đoạt là quyền của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu của
mình cho người khác hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó. Các hình thức định đoạt
thông thường như: bán, cho, tặng, để thừa kế, từ bỏ tài sản… chủ sở hữu tự mình
hoặc ủy quyền cho người khác định đoạt tài sản của mình. Việc định đoạt tài sản
phải do người có năng lực hành vi dân sự thực hiện theo quy định của pháp luật.
Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân và các chủ sở hữu khác đều được pháp
luật quy định có đủ ba quyền trên trong quyền sở hữu của mình.
c. Các hình thức sở hữu
- Sở hữu nhà nước: tài sản thuộc sở hữu nhà nước bao gồm: đất đai, rừng
tự nhiên, rừng trồng từ nguồn ngân sách nhà nước, núi, sông hồ, nguồn nước, tài
nguyên trong lòng đất, nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng
trời; phần vốn và tài sản do nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp, công trình
cùng các tài sản khác do pháp luật quy định
- Sở hữu tập thể: là hình thức sở hữu của hợp tác xã hoặc các hình thức
kinh tế tập thể ổn định khác do cá nhân, hộ gia đình cùng góp vốn, góp sức hợp
tác sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện mục đích chung được quy định trong

41
điều lệ theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, dân chủ, cùng quản lý và cùng
hưởng lợi.
Tài sản thuộc sở hữu tập thể được hình thành từ các nguồn: vốn góp của
các thành viên; thu nhập hợp pháp từ sản xuất kinh doanh; được nhà nước hỗ trợ
hoặc từ các nguồn khác
- Sở hữu tư nhân: là sở hữu của một cá nhân đối với tài sản hợp pháp của
mình. Sở hữu tư nhân bao gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư
nhân.
Tài sản thuộc sở hữu tư nhân không bị hạn chế về số lượng, giá trị và bao
gồm: thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản
xuất, vốn, hoa lợi, lợi tức và các tài sản hợp pháp khác của cá nhân.
- Sở hữu chung: Là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản. tài sản
thuộc sở hữu chung là tài sản chung. Tài sản chung là một tài sản hoặc một tập
hợp tài sản không thể phân chia thành các phần khác nhau, các chủ sở hữu chỉ
có thể khai thác công dụng vốn có của tài sản nếu giữ nguyên kết cấu ban đầu
của nó.
Sở hữu chung chia làm hai loại: sở hữu chung theo phần (ví dụ, tài sản do
các chủ sở hữu góp vốn để sản xuất, kinh doanh); sở hữu chung hợp nhất, có thể
phân chia và không thể phân chia (ví dụ sở hữu chung của vợ, chồng; sở hữu
chung của cộng đồng…)
- Sở hữu của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp: là sở hữu của cả tổ chức đó
đối với một khối tài sản nhằm hực hiện mục đích chung quy định trong điều lệ
Tài sản của các tổ chức này được hình thành từ nhiều nguồn: sự đóng góp
của các thành viên, tài sản được tặng, cho chung, tài sản được nhà nước chuyển
giao quyền sở hữu hoặc từ các nguồn khác theo quy định của pháp luật.
2. Thừa kế
a. Các khái niệm và nguyên tắc về thừa kế
Thừa kế là quan hệ xã hội về việc chuyển giao di sản của người chết cho
những người còn sống.
Di sản bao gồm những tài sản riêng của người chết và phần tài sản của
người chết trong khối tài sản chung với người khác. Di sản phải là tài sản mà
người để lại di sản có quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp pháp. Người thừa
kế nhận di sản phải thực hiện những nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Nếu
di sản không có người thừa kế thì thuộc về nhà nước.
Người thừa kế có thể là cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức. Nếu là cá nhân thì
phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc đã thành thai trước khi
người để lại thừa kế chết. Nếu là cơ quan, tổ chức thì phải tồn tại vào thời điểm
mở thừa kế. Những người thừa kế có quyền từ chối việc nhận di sản, trừ trường

42
hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối
với người khác.
Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường
hợp tòa án tuyên bố một người là đã chết thì ngày chết của người đó do tòa án
xác định hoặc là ngày mà quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật. Kể từ thời
điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người
chết để lại.
Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản, nếu
không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn
bộ hoặc phần lớn tài sản.
Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền
thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ
thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện
nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm kể từ thời điểm mở thừa kế.
Nguyên tắc về thừa kế
- Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân. Công dân có quyền
lập di chúc để lại tài sản của mình cho người thừa kế, được nhận hoặc từ chối
nhận tài sản thừa kế.
- Cá nhân không phân biệt nam, nữ đều bình đẳng về quyền hưởng di sản,
quyền để lại tài sản của mình theo di chúc hoặc theo pháp luật.
- Tôn trọng quyền định đoạt bằng di chúc của người có di sản, bảo hộ
quyền lợi chính đáng của những người thừa kế theo pháp luật.
- Củng cố và phát triển tình đoàn kết, thương yêu trong nội bộ gia đình.
Có hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật
b. Thừa kế theo di chúc
- Thừa kế theo di chúc là việc chuyển di sản của người chết cho những
người còn sống theo sự định đoạt của người đó khi còn sống.
- Di chúc hợp pháp phải có đủ những điều kiện sau:
+ Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc, không bị
lừa dối, de dọa hoặc cưỡng ép.
+ Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di
chúc không trái quy định của pháp luật.
- Người lập di chúc chỉ có thể là cá nhân cụ thể, phải có tài sản thuộc
quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp pháp. Người đã thành niên có quyền lập
di chúc trừ trường hợp bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác không thể nhận
thức và điều khiển được hành vi của mình. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18
tuổi có thể lập di chúc nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Vợ chồng
có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung. Di chúc chung của vợ

43
chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng
chết.
- Quyền của người lập di chúc:
+ Chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
+ Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
+ Dành một phần di sản để di tặng, thờ cúng;
+ Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;
+ Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di
sản.
- Hình thức của di chúc phải được lập thành văn bản, trong một số trường
hợp đặc biệt có thể lập di chúc bằng miệng:
+ Di chúc bằng văn bản có các loại: di chúc bằng văn bản không có người
làm chứng; di chúc bằng văn bản có người làm chứng; di chúc bằng văn bản có
công chứng; di chúc bằng văn bản có chứng thực.
+ Di chúc bằng miệng được áp dụng trong trường hợp tính mạng một
người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể
lập di chúc bằng văn bản. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu có ít nhất hai
người làm chứng và ngay sau đó người làm chứng phải ghi chép lại, cùng ký tên
hoặc điểm chỉ. Sau 3 tháng kể từ ngày lập di chúc miệng mà người di chúc còn
sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng bị hủy bỏ.
- Người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc: Con chưa thành niên,
con đã thành niên mà không có khả năng lao động, vợ, chồng của người lập di
chúc, vẫn được hưởng di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật
nếu như di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người
lập di chúc cho hưởng di sản hoặc được hưởng phần ít hơn 2/3 xuất đó, trừ khi
họ từ chối hoặc không có quyền nhận di sản.
c. Thừa kế theo pháp luật
- Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình
tự thừa kế do pháp luật quy định, pháp luật quy định việc thừa kế dựa trên cơ sở
diện thừa kế và hàng thừa kế.
- Diện thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng thừa kế xác định
theo quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng giữa người
thừa kế với người để lại thừa kế. Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ
chăm sóc nuôi dưỡng như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau,
đồng thời vẫn được thừa kế đi sản theo quy định về hàng thừa kế.
- Hàng thừa kế thể hiện thứ tự được hưởng di sản của những người thừa
kế được pháp luật quy định thành ba hàng như sau:
+ Hàng thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, con đẻ con
nuôi của người chết.

44
+ Hàng thứ hai gồm: ông bà nội, ngoại; anh chị em ruột của người chết;
cháu ruột của người chết mà người chết là ông bà nội, ngoại.
+ Hàng thứ ba gồm: cụ nội, ngoại của người chết, bác, chú, cô, cậu, dì
ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác, chú, cô, cậu,
dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, ngoại.
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở
hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền
hoặc từ chối nhận di sản.
- Thừa kế thế vị được áp dụng trong trường hợp con của người để lại di
sản chết trước người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc
mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng đã chết trước người để
lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng
nếu còn sống.
- Những trường hợp áp dụng thừa kế theo pháp luật:
+ Không có di chúc;
+ Di chúc không hợp pháp;
+ Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời
điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc
không còn vào thời điểm mở thừa kế;
+ Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc không có
quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền hưởng di sản.
Ngoài ra, thừa kế theo pháp luật còn được áp dụng đối với phần di sản
không được định đoạt trong di chúc, phần di sản có liên quan đến phần di chúc
không có hiệu lực pháp luật, phần di sản có liên quan đến người được thừa kế
theo di chúc nhưng họ không nhận, không có quyền hưởng, chết trước hoặc chết
cùng thời điểm với người lập di chúc.
3. Nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự và sở hữu trí tuệ
a. Nghĩa vụ dân sự
Khái niệm nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể
(các bên có nghĩa vụ dân sự) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền
hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không thực hiện công việc
nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (bên có quyền).
Đối tượng của nghĩa vụ dân sự có thể là tài sản, công việc phải thực hiện
hoặc không được thực hiện được xác định cụ thể, phù hợp với pháp luật.
- Căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự:
+ Hợp đồng dân sự;
+ Hành vi pháp lý đơn phương;

45
+ Chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp
luật;
+ Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật;
+ Thực hiện công việc không có ủy quyền;
+ Những căn cứ khác do pháp luật quy định.
- Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự: để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự, theo quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm hoặc
theo thỏa thuận của các bên, có thể áp dụng những biện pháp như: Cầm cố tài
sản, thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh và tín chấp.
+ Cầm cố tài sản là việc bên cầm cố giao tài sản thuộc sở hữu của mình
cho bên nhận cầm cố để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự, việc cầm cố phải
được lập thành văn bản.
+ Thế chấp tài sản là việc một bên (bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở
hữu của mình để đảm bảo nghĩa vụ đối với bên kia (bên nhận thế chấp) và
không chuyển giao tài sản đó cho bên thế chấp. Thông thường bên nhận thế
chấp giữ giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu của bên thế chấp đối với tài sản thế
chấp.
+ Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền, kim khí quý,
đá quý hoặc các vật có giá trị khác trong một thời hạn để bảo đảm giao kết và
thực hiện hợp đồng dân sự. Nếu hợp đồng được thực hiện thì tài sản đặt cọc
được trả lại cho bên đặt cọc, nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc thực hiện hợp
đồng thì trả tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá
trị đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Việc đặt cọc phải được lập thành
văn bản.
+ Ký cược là việc bên thuê tài sản là động sản giao cho bên cho thuê một
khoản tiền hoặc kim khí, đá quý hoặc các vật có giá trị khác trong một thời hạn
để bảo đảm việc trả lại tài sản cho thuê.
+ Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đã
quý hoặc giấy tờ có giá khác vào tài khoản phong tỏa tại một ngân hàng để đảm
bảo việc thực hiện nghĩa vụ dân sự.
+ Bảo lãnh là việc người thứ ba (người bảo lãnh) cam kết với bên có
quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên
được bảo lãnh), nếu đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ.
+ Tín chấp là việc các tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở dùng uy tín của
mình để bảo lãnh cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại ngân
hành hoặc tổ chức tín dụng khác để sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp
luật.
b. Hợp đồng dân sự

46
- Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Hợp đồng dân sự là hình thức phổ biến
của các giao dịch dân sự và là căn cứ chủ yếu làm phát sinh nghĩa vụ dân sự.
- Chủ thể của hợp đồng dân sự có thể là cá nhân hoặc pháp nhân
+ Cá nhân là công dân Việt Nam, người nước ngoài đang công tác, học
tập tại Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi được tham gia
tất cả các hợp đồng dân sự và tự mình chịu trách nhiệm về việc thực hiện hợp
đồng đó.
+ Từ đủ 15 đến 18 tuổi được ký các hợp đồng nếu tự mình có tài sản để
thực hiện hợp đồng (trừ những trường hợp luật quy định loại hợp đồng đó chủ
thể phải từ 18 tuổi trở lên như hợp đồng mua bán nhà ở).
+ Cá nhân dưới 16 tuổi tham gia các hợp đồng có giá trị nhỏ phục vụ nhu
cầu tối thiểu của mình.
+ Pháp nhân là chủ thể của hợp đồng dân sự phải thông qua những người
đại diện hợp pháp
- Hình thức của hợp đồng dân sự: hợp đồng dân sự có thể được giao kết
bằng lời nói, văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Thông điệp dữ liệu là những
thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận, lưu giữ bằng phương tiện điện tử và những
hình thức khác do pháp luật quy định như: điện báo, telex, fax được xác định là
những hình thức có giá trị tương đương văn bản. Trong trường hợp pháp luật có
quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản, phải có công chứng, chứng
thực, đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định này. Các bên có thể
thỏa thuận giao kết hợp đồng theo mẫu., kèm theo hợp đồng có thể có phụ lục để
quy định chi tiết một số điều khoản của hợp đồng.
- Nội dung của hợp đồng: Tùy theo từng loại hợp đồng mà các bên có thể
thỏa thuận về các nội dung sau:
+ Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc
không được làm;
+ Số lượng, chất lượng;
+ Giá cả, phương thức thanh toán;
+ Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
+ Quyền, nghĩa vụ của các bên;
+ Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
+ Các nội dung khác không trái quy định.
- Hiệu lực của hợp đồng
+ Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
+ Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội;
+ Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện;

47
+ Hình thức hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật.
Nếu không đủ các điều kiện trên, hợp đồng dân sự sẽ vô hiệu. Việc tuyên
bố một hợp đồng dân sự vô hiệu do tòa án thực hiện. Có hai loại hợp đồng vô
hiệu: vô hiệu tuyệt đối, vô hiệu tương đối.
c. Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng
Khi hợp đồng được giao kết, các bên giao kết đều phải có nghĩa vụ thực
hiện đúng những thỏa thuận trong hợp đồng. Việc một bên không thực hiện hợp
đồng như tự ý bỏ dở không tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện
không đúng, đều bị coi là vi phạm hợp đồng và phải chịu trách nhiệm dân sự.
Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng là sự cưỡng chế của nhà nước
buộc bên vi phạm hợp đồng phải tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng hoặc phải bồi
thường thiệt hại do hành vi không chấp hành hợp đồng mà gây ra thiệt hại cho
bên kia.
Các loại trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng
- Trách nhiệm dân sự khi thực hiện không đúng hợp đồng: bên có quyền
được yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ và xử lý những hậu quả
phát sinh do vi phạm hợp đồng, nếu bên vi phạm vẫn không thực hiện, bên bị vi
phạm có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp cưỡng chế để bảo vệ
quyền lợi.
- Trách nhiệm do chậm thực hiện hợp đồng: thời hạn thực hiện hợp đồng
do các bên thỏa thuận theo quy định của pháp luật. Khi hết hạn hợp đồng, bên
nào chưa thực hiện xong phải tiếp tục thực hiện, nếu có thiệt hại xảy ra do một
bên thực hiện không đúng thì bên bị thiệt hại có quyền đơn phương đình chỉ hợp
đồng. Trường hợp thực hiện hợp đồng chậm do gặp sự kiện bất khả kháng mà
gây thiệt hại cho bên kia thì bên thực hiện chậm hợp đồng không phải bồi
thường thiệt hại, còn bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng.
- Trách nhiệm do thực hiện hợp đồng không đủ số lượng, không đúng
chất lượng, không đồng bộ, không đúng chủng loại:
+ Nếu bên thực hiện nghĩa vụ không đủ số lượng theo yêu cầu của bên có
quyền, thì bên có nghĩa vụ vẫn phải tiếp tục thực hiện đủ số lượng đã thỏa thuận
khi giao kết hợp đồng. Khi đã có yêu cầu mà bên có nghĩa vụ vẫn không đủ số
lượng thì bên có quyền có thể nhận hay không nhận số hàng hóa đó.
+ Nếu một bên không thực hiện đúng chất lượng đã thỏa thuận, không
đồng bộ, không đúng chủng loại, bên bị vi phạm có quyền không nhận, hủy bỏ
hợp đồng, nếu nhận thì có quyền yêu cầu giảm giá, sửa chữa sai sót và yêu cầu
bồi thường thiệt hại.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Khi một bên không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ đã quy định trong hợp đồng mà gây thiệt hại cho

48
bên kia thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại đã xảy ra. Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại chỉ phát sinh khi có đầy đủ các điều kiện:
+ Có thiệt hại thực tế xảy ra;
+ Có hành vi trái pháp luật;
+ Có lỗi;
+ Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.
Trong một số trường hợp bên vi phạm hợp đồng không phải bồi thường
thiệt hại: thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại; thiệt hại xảy ra
trong trường hợp bất khả kháng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng
cho phép nhưng không thể khắc phục được và thiệt hại vẫn xảy ra.
d. Quyền sở hữu trí tuệ
Khái niệm: Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài
sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền
sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
- Quyền tác giả là quyền của tổ chức và cá nhân đối với tác phẩm do mình
sản xuất ra hoặc sở hữu. Quyền liên quan đến tác giả là quyền của tổ chức, cá
nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín
hiệu, vệ tinh, chương trình được mã hóa.
- Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng
chế kiểu dáng công nghiệp, thiết kế, bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên
thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu
và quyền chống cạch tranh không lành mạnh.
- Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với
giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được
hưởng quyền sở hữu.
Quyền sở hữu trí tuệ bao gồm các quyền nhân thân và quyền tài sản của
các tác giả, chủ sở hữu.
Căn cứ phát sinh, xác lập quyền sở hữu trí tuệ
Tùy theo từng đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ mà căn cứ phát sinh, xác
lập quyền sở hữu trí tuệ được quy định khác nhau.
- Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể
hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng,
hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay
chưa đăng ký.
- Quyền liên quan đến quyền tác giả phát sinh kể từ khi cuộc biểu diễn,
bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương
trình được mã hóa được định hình hoặc thực hiện mà không gây phương hại đến
quyền tác giả.
- Quyền sở hữu công nghiệp được xác lập như sau:

49
+ Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,
thiết kế bố trí mạch tích hợp, nhãn hiệu chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở
quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy
định của Luật Sở hữu trí tuệ hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
+ Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được xác lập trên cơ
sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó.
+ Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên
cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật
bí mật kinh doanh đó.
- Quyền đối với giống cây trồng được xác lập trên cơ sở quyết định cấp
bằng bảo hộ giống cây trồng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục
đăng ký quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ. Bằng bảo vệ giống cây trồng ghi
nhận tên giống và loài cây trồng, tên chủ sở hữu quyền đối với giống cây trồng
(gọi là chủ bảo hộ), tên tác giả giống cây trồng và thời hạn bảo hộ quyền đối với
giống cây trồng.
Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Các chủ thể liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ có thể tự mình thực hiện
hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ, có quyền áp dụng các biện pháp sau để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của
mình:
- Áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ;
- Yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải
chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại;
- Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp
luật;
- Khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình.
Các biện pháp xử lý vi phạm quyền sở hữu trí tuệ
Tùy theo tính chất, mức độ xâm phạm, tổ chức, cá nhân có hành vi xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ có thể bị xử lý bằng biện pháp hành chính, dân sự,
hình sự:
- Biện pháp dân sự
+ Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm;
+ Buộc xin lỗi, cải chính công khai;
+ Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;
+ Buộc bồi thường thiệt hại;

50
+ Buộc tiêu hủy, phân phối, hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích
thương mại …
- Biện pháp hành chính
+ Áp dụng các biện pháp hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả;
+ Các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính;
+ Các biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến
sở hữu trí tuệ.
- Biện pháp hình sự
Cá nhân thực hiện hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuệ có yếu tố
cấu thành tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp
luật.

Định hướng nghiên cứu bài


1. Khái niệm, đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh của luật Dân sự.
2. Nội dung cơ bản của quy định về quyền sở hữu tài sản trong luật Dân sự. Liên
hệ việc thực hiện những quy định này trên thực tế.
3. Nội dung cơ bản của quy định về thừa kế trong luật Dân sự. Liên hệ việc
thực hiện những quy định này trên thực tế.
4. Nội dung cơ bản của quy định nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự và sở hữu trí
tuệ trong luật dân sự.

Chương 7
LUẬT LAO ĐỘNG
I. TỔNG QUAN VỀ LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
1. Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Lao động
a. Khái niệm
51
Lao động là hoạt động có ý chí, có mục đích của của con người. Trong
quá trình lao động con người đã tạo ra cho mình mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên và mối quan hệ giữa con người với con người. Quan hệ giữa con người
với con người trong quá trình lao động được gọi quan hệ lao động.
Ở nước ta hiện nay, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, người lao
động có quyền xác lập quan hệ lao động với nhiều người sử dụng lao động khác
nhau, tạo thành những quan hệ lao động với tính chất, đặc điểm rất khác nhau và
được quy phạm pháp luật của các ngành luật khác nhau điều chỉnh.
Luật lao động là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các nhóm quan hệ
lao động và những quan hệ liên quan chặt chẽ đến quan hệ lao động.
b. Đối tượng điều chỉnh
Đối tượng điều chỉnh của luật Lao động là quan hệ xã hội về sử dụng lao
động (quan hệ lao động) và các quan hệ phát sinh trong quá trình sử dụng lao
động (quan hệ liên quan đến quan hệ lao động).
- Quan hệ lao động: là quan hệ giữa người lao động và người sử dụng
lao động trong quá trình lao động. Bao gồm, quan hệ lao động giữa người lao
động là cán bộ, công chức, viên chức với người sử dụng lao động là cơ quan nhà
nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị - xã hội. Quan hệ lao động này thuộc
đối tượng điều chỉnh của luật Hành chính; Quan hệ lao động giữa người lao
động là xã viên hợp tác xã hoặc các thành phần kinh tế tập thể với người sử
dụng lao động là hợp tác xã. Quan hệ lao động này thuộc đối tượng điều chỉnh
của luật Hợp tác xã; Quan hệ lao động giữa người lao động làm công ăn lương
với người sử dụng lao động là doanh nghiệp và các tổ chức, cá nhân sử dụng
lao động khác thuộc đối tượng điều chỉnh của luật lao động, quan hệ lao động
này có những đặc điểm cơ bản sau:
+ Người lao động là người làm công. Người lao động tự nguyện đưa ra
hoạt động lao động của mình phục vụ cho mục đích của người sử dụng lao động
để được trả tiền công, tiền lương.
+ Người sử dụng lao động là người chủ sở hữu tư liệu sản xuất và tài sản,
là người tổ chức mọi hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động khác phục vụ lợi ích
riêng của mình. Người sử dụng lao động có quyền tuyển dụng lao động, có
quyền điều hành các hoạt động lao động của người lao động, người lao động có
nghĩa vụ chấp hành sự điều động đó.
+ Quan hệ lao động do luật lao động điều chỉnh là một tổng thể các quan
hệ xã hội về tuyển dụng lao động, phân công hiệp tác trong lao động, kỷ luật lao
động, đảm bảo các điều kiện lao động và quan hệ về tái sản xuất sức lao động
cho người lao động

52
- Các quan hệ liên quan đến quan hệ lao động: để đảm bảo thực hiện đầy
đủ các nội dung của quan hệ lao động, một số quan hệ xã hội liên quan trực tiếp
với quan hệ lao động cũng được pháp luật lao động điều chỉnh. Các quan hệ xã
hội này hoặc phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động hoặc tạo ra những điều kiện
cho việc hình thành và phát triển quan hệ lao động. Bao gồm:
+ Quan hệ tạo việc làm và đào tạo nghề cho người lao động;
+ Quan hệ giữa người sử dụng lao động với tổ chức Công đoàn hay tổ
chức đại diện tập thể người lao động;
+ Quan hệ về bồi thường thiệt hại khi một bên trong quan hệ lao động gây
thiệt hại cho bên kia;
+ Quan hệ về bảo hiểm xã hội;
+ Quan hệ về giải quyết tranh chấp lao động;
+ Quan hệ về quản lý nhà nước, thanh tra nhà nước về lao động.
c. Phương pháp điều chỉnh của luật lao động
Phương pháp điều chỉnh của luật lao động là cách thức mà các quy phạm
pháp luật lao động tác động vào đối tượng điều chỉnh của luật lao động. Bao
gồm, phương pháp thỏa thuận, phương pháp mệnh lệnh.
- Phương pháp thỏa thuận: được sử dụng trong quan hệ về tuyển dụng, về
thiết lập các quan hệ lao động tập thể…
- Phương pháp mệnh lệnh: được sử dụng trong các quan hệ người sử dụng
lao động điều hành hoạt động của người lao động như quan hệ về kỷ luật lao
động, an toàn lao động, quản lý Nhà nước về lao động…
Ngoài ra, trong nhiều quan hệ lao động cụ thể có sự tham gia của tổ chức
công đoàn, như: công đoàn tham gia xây dựng một số quy phạm pháp luật lao
động, công đoàn tham gia giải quyết một số tranh chấp lao động…
2. Quan hệ pháp luật lao động
a. Khái niệm, đặc điểm
Quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động được
pháp luật lao động điều chỉnh trở thành quan hệ pháp luật lao động.
Do quan hệ lao động là một tổ hợp của nhiều quan hệ xã hội (đã đề cập
trong phần phương pháp điều chỉnh) nên quan hệ pháp luật lao động cũng là một
tổ hợp của nhiều quan hệ pháp luật tương ứng. Trong các quan hệ pháp luật lao
động thì quan hệ pháp luật về tuyển dụng lao động là quan hệ cơ bản, làm phát
sinh nhiều quan hệ pháp luật lao động khác.
Quan hệ pháp luật lao động có các đặc điểm sau:
- Được thiết lập chủ yếu trên cơ sở hợp đồng lao động đã giao kết;
- Trong quan hệ pháp luật lao động, người lao động phải chịu sự quản lý,
điều hành của người sử dụng lao động;

53
- Quá trình phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật lao động
thường có sự tham gia của tổ chức công đoàn.
Những đặc điểm trên của quan hệ pháp luật lao động giúp phân biệt pháp
luật lao động với quan hệ pháp luật về khoán việc, về dịch vụ trong luật Dân sự
và với quan hệ pháp luật hành chính trong luật hành chính.
b. Chủ thể của quan hệ pháp luật lao động
Chủ thể của quan hệ pháp luật lao động bao gồm người lao động và người
sử dụng lao động.
- Người lao động là chủ thể của quan hệ pháp luật lao động phải là người
có năng lực pháp luật lao động và năng lực hành vi lao động: “Người lao
động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp
đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng
lao động”. (điều 3 – Bộ luật lao động năm 2012).
- Người sử dụng lao động có thể là tổ chức, cá nhân. Người sử dụng lao
động là tổ chức thì phải là pháp nhân; nếu không là pháp nhân thì phải có đủ
điều kiện để sử dụng lao động và trả công cho người lao động; người sử dụng
lao động là cá nhân thì ít nhất phải đủ 18 tuổi, có thuê mướn, sử dụng và trả
công lao động.
c. Nội dung của quan hệ pháp luật lao động
Nội dung của quan hệ pháp luật lao động là quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể, quyền của chủ thể này sẽ là nghĩa vụ của chủ thể kia và ngược lại.
Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể được quy định trong bộ luật lao động. (Điều
5,6 – Bộ luật Lao động năm 2012).
d. Những căn cứ làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật lao
động
Căn cứ làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật lao động
là các sự kiện pháp lý.
Sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật lao động là việc các chủ
thể tiến hành giao kết hợp đồng lao động.
Sự kiện pháp lý làm thay đổi quan hệ pháp luật lao động là những sự kiện
làm thay đổi chủ thể hoặc làm thay đổi nội dung của quan hệ pháp luật lao động.
Các sự kiện này có thể xảy ra do ý chí thỏa thuận của hai bên, do ý chí đơn
phương của một bên hoặc do ý chí của người thứ ba
Sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ pháp luật lao động là những sự
kiện dẫn đến việc làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ của chủ thể.
3. Các quan hệ pháp luật liên quan trực tiếp với quan hệ lao động
Đây là các quan hệ pháp luật hình thành do sự điều chỉnh của pháp luật
lao động đối với các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp với quan hệ lao động,

54
như: quan hệ tạo việc làm, dạy nghề; quan hệ bảo hiểm; quan hệ giải quyết tranh
chấp lao động…
II. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA LUẬT LAO ĐỘNG
Luật lao động gồm hai phần: phần chung và phần riêng.
Phần chung gồm các quy phạm pháp luật quy định các vấn đề chung của
ngành luật như: khái niệm, phạm vi và đối tượng điều chỉnh, các nguyên tắc cơ
bản, chủ thể quan hệ pháp luật lao động…
Phân riêng gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh từng mặt, từng lĩnh
vực cụ thể. Các quy phạm pháp luật này hợp thành các chế định của luật lao
động như: chế định hợp đồng lao động, chế định tiền lương, chế định bảo hiểm,
chế định giải quyết tranh chấp lao động…
Nội dung chủ yếu của Luật Lao động bao gồm những chế định cơ bản
sau:
1. Hợp đồng lao động
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hình thức
tuyển dụng lao động bằng hợp đồng lao động được áp dụng đối với hầu hết các
quan hệ lao động trừ những người làm việc theo chế độ công vụ, các bộ, công
chức, theo chế độ bầu cử trong các cơ quan nhà nước hay những người làm việc
trong các cơ quan, đơn vị quân đội, cơ quan đơn vị công an.
a. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng lao động
Khái niệm:Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữa người lao động và
người sử dụng lao động về việc làm có trả lương, điều kiện làm việc, quyền và
nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động (điều 15 – Bộ Luật lao động năm
2012)
Đặc điểm:
- Là sự thỏa thuận tự nguyện, bình đẳng, không trái pháp luật của người
lao động và người sử dụng lao động;
- Làm phát sinh quan hệ lao động, theo đó người lao động đảm nhiệm một
công việc theo một nghề chuyên môn hoặc một chức trách nhất định, không phải
để làm một công việc cụ thể nhất thời;
- Hợp đồng lao động tạo ra sự phụ thuộc pháp lý giữa người lao động và
người sử dụng lao động. Người sử dụng lao động có quyền trực tiếp quản lý,
điều hành, kiểm tra, giám sát người lao động về địa điểm, thời giam làm việc,
định mức lao động…
- Hợp đồng lao động phải do chính người giao kết hợp đồng thực hiện.
Người lao động không được chuyển giao việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng cho
người khác nếu không được người sử dụng lao động chấp nhận.
b. Nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động

55
- Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và trung thực;
- Tự do giao kết hợp đồng lao động nhưng không được trái pháp luật, thỏa
ước lao động tập thể và đạo đức xã hội;
- Nhà nước khuyến kích những thỏa thuận đảm bảo cho người lao động có
những điều kiện thuận lợi hơn so với những quy định của pháp luật lao động.
c. Chủ thể giao kết hợp đồng lao động
Chủ thể giao kết hợp đồng là người lao động và người sử dụng lao động.
Người lao động phải đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động. Trong
những trường hợp người chưa đủ 15 tuổi giao kết hợp đồng thì phải có văn bản
đồng ý và theo dõi của cha mẹ hoặc người đỡ đầu.
Người sử dụng lao động có thể là tổ chức hoặc cá nhân. Nếu là tổ chức
thì phải có tư cách pháp nhân, trong trường hợp không có tư cách pháp nhân thì
phải có đủ điều kiện để thuê mướn, sử dụng lao động. Người sử dụng lao động
là cá nhân phải đủ 18 tuổi trở lên và có đủ các điều kiện để thuê mướn, sử dụng
lao động.
d. Các loại hợp đồng lao động
Pháp luật lao động quy định có các loại hợp đồng lao động cơ bản sau:
Hợp đồng lao động không xác định thời hạn là hợp đồng mà khi giao kết
hai bên không xác định thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng. Loại hợp
đồng này áp dụng cho những công việc không xác định thời điểm kết thúc hoặc
đối với những công việc có thời hạn trên 36 tháng.
Hợp đồng lao động không xác định thời hạn từ đủ 12 đến 36 tháng, áp
dụng cho những công việc xác định được thời điểm kết thúc trong khoảng thời
gian đó.
Hợp đồng lao động theo mùa, vụ hoặc theo một công việc nhất định có
thời hạn dưới 12 tháng, áp dụng cho những công việc có thể hoàn thành trong
một khoảng thời gian dưới 12 tháng hoặc để thay thế người lao động tạm thời
nghỉ việc vì những lý do nhất định.
 Không được giao kết hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công
việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng để làm những công việc có tính chất
thường xuyên từ 12 tháng trở lên, trừ trường hợp phải tạm thời thay thế người
lao động đi làm nghĩa vụ quân sự, nghỉ theo chế độ thai sản, ốm đau, tai nạn lao
động hoặc nghỉ việc có tính chất tạm thời khác.
đ. Hình thức hợp đồng
Việc giao kết hợp đồng lao động có thể thực hiện bằng hình thức văn bản
hoặc bằng miệng. Văn bản hợp đồng là hình thức phổ biến, phải tuân theo
những quy định mẫu của bộ Lao động - Thương binh và xã hội. Hình thức thỏa
thuận miệng chỉ áp dụng đối với một số công việc có tính chất tạm thời dưới 3
tháng.

56
e. Nội dung của hợp đồng lao động
Nội dung của hợp đồng bao gồm những điều khoản do hai bên thỏa thuận
nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ đối với nhau, bao gồm:
- Những điều khoản xác định nội dung chủ yếu của hợp đồng: công việc
phải làm; thời giờ lao động, thời giờ nghỉ ngơi; tiền lương, chế độ nâng bậc,
nâng lương; Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề; địa điểm làm
việc; thời hạn hợp đồng; điều kiện về an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo
hiểm xã hội đối với người lao động. Đây là những nội dung bắt buộc phải có
trong hợp đồng lao động.
- Điều khoản tùy nghi: những điều khoản đưa vào hợp đồng căn cứ vào
khả năng và nhu cầu của mỗi bên, ví dụ, phương tiện đưa đón người lao động đi
làm, việc gửi con ở nhà trẻ của doanh nghiệp…
Ngoài ra, có những vấn đề về quan hệ lao động được quy định trong pháp
luật lao động, các bên có thể đưa vào hoặc không đưa vào trong hợp đồng lao
động; nếu đưa vào thì nội dung của thỏa thuận phải phù hợp với quy định của
pháp luật, nếu không đưa vào thì có nghĩa là hai bên mặc nhiên thừa nhận trong
hợp đồng có thỏa thuận đó. Ví dụ, vấn đề nghỉ thai sản, chế độ trợ cấp nghề
nghiệp…
g. Vấn đề thử việc
Người sử dụng lao động và người lao động có thể thoả thuận về việc làm
thử, quyền, nghĩa vụ của hai bên trong thời gian thử việc. Nếu có thoả thuận về
việc làm thử thì các bên có thể giao kết hợp đồng thử việc. Pháp luật lao động
hiện hành quy định vấn đề làm thử như sau:
- Thời gian thử việc căn cứ vào tính chất và mức độ phức tạp của công
việc nhưng chỉ được thử việc 01 lần đối với một công việc và bảo đảm các điều
kiện:
+ Không quá 60 ngày đối với công việc có chức danh nghề cần trình độ
chuyên môn, kỹ thuật từ cao đẳng trở lên;
+ Không quá 30 ngày đối với công việc có chức danh nghề cần trình độ
chuyên môn kỹ thuật trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp, công nhân kỹ
thuật, nhân viên nghiệp vụ.
+ Không quá 6 ngày làm việc đối với công việc khác.
- Tiền lương của người lao động trong thời gian thử việc do hai bên thoả
thuận nhưng ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc đó.
- Khi việc làm thử đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động phải giao kết
hợp đồng lao động với người lao động.
- Trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền huỷ bỏ thoả thuận thử việc
mà không cần báo trước và không phải bồi thường nếu việc làm thử không đạt
yêu cầu mà hai bên đã thoả thuận.

57
h. Hiệu lực của hợp đồng lao động
Hợp đồng lao động có hiệu lực kể từ ngày giao kết, từ ngày do hai bên
thỏa thuận hoặc từ ngày người lao động bắt đầu làm việc.
Hợp đồng lao động có thể bị coi là vô hiệu trong trường hợp, hợp đồng có
một phần hoặc toàn bộ nội dung không đảm bảo các điều kiện do pháp luật quy
định.
l. Thực hiện, thay đổi, tạm hoãn, chấm dứt hợp đồng lao động
Thực hiện nghiêm chỉnh hợp đồng lao động là nghĩa vụ pháp lý của người
lao động và người sử dụng lao động. Mỗi bên phải tạo điều kiện cho bên kia
thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ. Người sử dụng lao động không
được đòi hỏi người lao động làm những công việc không có thỏa thuận trong
hợp đồng lao động hoặc bắt buộc họ làm việc trong điều kiện không an toàn.
Người lao động phải tự mình thực hiện các công việc, phải chấp hành sự điều
hành của người sử dụng lao động và các nội quy lao động của doanh nghiệp.
Trong trường hợp chia, tách, sát nhập, chuyển nhượng quyền sở hữu, quyền
quản lý doanh nghiệp thì người sử dụng lao động phải kế tiếp liên tục thực hiện
hợp đồng với người lao động, nếu không sử dụng hết số lao động hiện có thì
phải có phương án sử dụng lao động theo quy định của pháp luật.
Thay đổi hợp đồng lao động. Trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu một
bên có yêu cầu thay đổi nội dung của hợp đồng thì phải báo cho bên kia biết
trước ít nhất 3 ngày; việc thay đổi được tiến hành bằng cách, sửa đổi bổ sung
hợp đồng hoặc ký hợp đồng mới. Trong trường hợp gặp khó khăn đột xuất hoặc
do nhu cầu sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có quyền tạm thời chuyển người
lao động làm công việc khác trái nghề theo quy định của pháp luật.
Tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động. Hợp đồng lao động được tạm
hoãn trong một thời gian nhất định do người lao động đi làm nghĩa vụ quân sự;
bị tạm giữ, tạm giam, bị đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc; lao động nữ mang thai nếu có xác nhận của
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chứng nhận tiếp tục làm việc sẽ ảnh
hưởng xấu tới thai nhi hoặc do hai bên thỏa thuận.
Hậu quả của việc tạm hoãn thực hiện hợp đồng được quy định trong pháp
luật lao động.
Chấm dứt hợp đồng lao động. Việc chấm dứt hợp đồng lao động có thể do
ý chí thỏa thuận của hai bên, do một người thứ 3 hoặc một sự biến, cũng có thể
do ý chí của một bên.
 + Chấm dứt hợp đồng do ý chí của hai bên trong trường hợp hợp đồng lao

động hết hạn hoặc người lao động đã hoàn thành công việc theo hợp đồng hoặc
hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng.

58
+ Chấm dứt hợp đồng do người thứ 3 trong trường hợp người lao động bị
kết án tù giam hoặc bị cấm làm công việc cũ theo quyết định của tòa án.
+ Chấm dứt hợp đồng do sự biến trong trường hợp người lao động chết
hoặc mất tích theo tuyên bố của Tòa án.
+ Việc đơn phương chấm dứt hợp đồng có thể từ người lao động hoặc
người sử dụng lao động được pháp luật quy định chặt chẽ các trường hợp và
điều kiện nhằm bảo vệ các bên trong quan hệ lao động.
2. Thỏa ước lao động tập thể
a. Khái niệm, ý nghĩa của thỏa ước lao động tập thể
Thỏa ước lao động tập thể là văn bản thoả thuận giữa tập thể lao động và
người sử dụng lao động về các điều kiện lao động mà hai bên đã đạt được thông
qua thương lượng tập thể. (Điều 73- Bộ Luật lao động năm 2012)
Thỏa ước lao động tập thể gồm thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp,
thỏa ước lao động tập thể ngành và hình thức thỏa ước lao động tập thể khác do
Chính phủ quy định.
Nội dung thoả ước lao động tập thể không được trái với quy định của
pháp luật và phải có lợi hơn cho người lao động so với quy định của pháp luật.
Thực chất của thỏa ước lao động tập thể là những quy định nội bộ của
doanh nghiệp, bao gồm những thỏa thuận về những vấn đề có liên quan đến
quan hệ lao động trong doanh nghiệp. Tính chất pháp lý của thỏa ước tập thể:
một mặt, mang tính chất của một hợp đồng, thể hiện ý chí tự nguyện giữa hai
chủ thể của quan hệ lao động trong doanh nghiệp; mặt khác, được coi như một
hình thức văn bản pháp quy nội bộ của doanh nghiệp. Với bản chất pháp lý đó
thỏa ước tập thể là cơ sở chủ yếu phát sinh quan hệ lao động tập thể, góp phần
điều hòa lợi ích giữa các chủ thể của quan hệ lao động trong doanh nghiệp, ngăn
ngừa mâu thuẫn xung đột có thể xảy ra. Trong trường hợp xảy ra các tranh chấp
lao động tập thể, thỏa ước tập thể là cơ sở pháp lý quan trọng để xem xét giải
quyết các tranh chấp đó.
b. Nguyên tắc ký kết thỏa ước tập thể
Các nguyên tắc ký kết thỏa ước tập thể được quy định trong Bộ luật lao
động:
- Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, công khai;
- Nội dung của thỏa ước tập thể không trái với quy định của pháp luật;
- Khuyến khích việc ký kết thỏa ước tập thể với những thỏa thuận có lợi
hơn cho người lao động so với qui định của pháp luật lao động.

59
3. Tiền lương
Tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao
động để thực hiện công việc theo thỏa thuận.
Tiền lương bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp
lương và các khoản bổ sung khác. Mức lương của người lao động không được
thấp hơn mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định.
Tiền lương trả cho người lao động căn cứ vào năng suất lao động và chất
lượng công việc.
Người sử dụng lao động phải bảo đảm trả lương bình đẳng, không phân
biệt giới tính đối với người lao động làm công việc có giá trị như nhau.
- Nguyên tắc: để tiền lương thực sự là động lực thúc đẩy sự phát triển của
sản xuất kinh doanh đồng thời đảm bảo đời sống của người lao động và gia đình
họ, việc xây dựng và thực hiện chế độ tiền lương phải quán triệt các nguyên tắc
cơ bản sau:
+ Tiền lương được xác định trên cơ sở thỏa thuận giữa người lao động và
doanh nghiệp căn cứ vào năng suất, chất lượng, hiệu quả của công việc nhưng
không được thấp hơn mức lương tối thiểu và không trái pháp luật.
+ Tiền lương phải được trả trực tiếp, đầy đủ, đúng hạn và tại nơi làm việc.
+ Trong trường hợp doanh nghiệp khấu trừ tiền lương của người lao động
theo quy định của pháp luật thì người lao động phải được biết rõ nội dung của
các khoản khấu trừ đó.
+ Doanh nghiệp không được áp dụng việc xử phạt người lao động bằng
hình thức cắt lương của họ.
- Luật lao động quy định các chế định về tiền lương như: lương tối thiểu;
thang, bảng lương; hình thức trả lương; chế độ tiền lương; chế độ phụ cấp
lương; chế độ trả lương trong những trường hợp riêng biệt.
+ Lương tối thiểu là mức thấp nhất trả cho người lao động làm công việc
giản đơn nhất, trong điều kiện lao động bình thường và phải bảo đảm nhu cầu
sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ. Mức lương tối thiểu được sử
dụng làm căn cứ để tính mức lương cho các loại lao động khác.
+ Thang, bảng lương là hệ thống quy định về việc phân định các mức
lương tương ứng với các bậc ngành nghề, công việc hoặc chức danh nhất định
để đảm bảo việc trả lương theo chất lượng và hiệu quả của công việc.
+ Hình thức trả lương người sử dụng lao động có quyền lựa chọn hình
thức trả lương theo thời gian, sản phẩm hoặc khoán; Lương được trả bằng tiền
mặt hoặc trả qua tài khoản cá nhân của người lao động được mở tại ngân hàng.
Trường hợp trả qua tài khoản ngân hàng, thì người sử dụng lao động phải thỏa
thuận với người lao động về các loại phí liên quan đến việc mở, duy trì tài
khoản.

60
+ Chế độ tiền lương là hệ thống các quy định về các loại thù lao lao động
bổ sung cho chế độ tiền lương nhằm khuyến khích đối với những người lao
động có năng suất cao, chất lượng tốt và thực hiện công việc có hiệu quả hơn
những người khác.
+ Chế độ phụ cấp lương là hệ thống quy phạm pháp luật quy định các
khoản tiền nhằm bổ sung cho tiền lương có tính đến các nhân tố không ổn định
thường xuyên trong điều kiện lao động và điều kiện sinh hoạt của người lao
động mà khi xây dựng thang, bảng lương chưa đưa vào được, như phụ cấp khu
vực, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp độc hại…
+ Chế độ trả lương trong các trường hợp đặc biệt: làm đêm, làm thêm
giờ, trả lương trong trường hợp người lao động phải ngừng việc; làm không
đúng chất lượng sản phẩm; trả lương khi người lao động nghỉ theo chế độ thời
giờ nghỉ ngơi…
4. Thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi
Thời gian làm việc là độ dài thời gian mà người lao động phải có mặt tại
địa điểm làm việc để thực hiện công việc được giao trên cơ sở những quy định
của pháp luật, phù hợp với nội quy, thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao
động giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Thời giờ làm việc bình thường không quá 08 giờ trong 01 ngày và 48 giờ
trong 01 tuần, làm việc không quá 06 giờ trong 01 ngày đối với những người
làm các công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo danh mục do Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành;
Người sử dụng lao động có quyền quy định làm việc theo giờ hoặc ngày
hoặc tuần; trường hợp theo tuần thì thời giờ làm việc bình thường không quá 10
giờ trong 01 ngày, nhưng không quá 48 giờ trong 01 tuần. Nhà nước khuyến
khích người sử dụng lao động thực hiện tuần làm việc 40 giờ.
Đối với một số công việc đặc biệt như lãnh đạo, ngoại giao, nghiên cứu
khoa học, y tế, cứu hỏa… áp dụng ngày làm việc không tiêu chuẩn. Những công
việc này nói chung vẫn dựa trên cơ sở của ngày làm việc tiêu chuẩn, nhưng một
số trường hợp do tính chất công việc họ phải thực hiện nhiệm vụ lao động ngoài
giờ làm việc mà vẫn giữ nguyên lương.
Thời gian nghỉ ngơi là khoảng thời gian người lao động không phải thực
hiện nhiệm vụ lao động, có toàn quyền sử dụng thời gian theo yêu cầu của mình.
Pháp luật lao động quy định thời gian nghỉ ngơi gồm:
+ Nghỉ hàng tuần: Mỗi tuần người lao động được nghỉ ít nhất 24 giờ liên
tục
+ Nghỉ ngày lễ, tết trong năm, tết dương lịch 1 ngày, tết âm lịch 5 ngày,
chiến thắng 30-4: 1 ngày; Quốc tế lao động 1 ngày; Quốc khánh 1 ngày; Giỗ tổ

61
Hùng vương 1 ngày; nếu ngày nghỉ lễ, tết trùng vào ngày nghỉ hàng tuần thì
được nghỉ bù vào ngày kế tiếp;
+ Nghỉ hàng năm (áp dụng cho người làm việc liên tục 1 năm) từ 12-16
ngày tùy thuộc vào điều kiện làm việc theo quy định của luật Lao động;
+ Nghỉ việc riêng: kết hôn 3 ngày; con kết hôn 1 ngày; bố, mẹ, vợ, chồng,
con chết 3 ngày.
5. Kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất
Kỷ luật lao động là những quy định về việc tuân theo thời gian, công
nghệ và điều hành sản xuất, kinh doanh trong nội quy lao động (Điều 118- Bộ
Luật Lao động năm 2012)
Chế định kỷ luật động là cơ sở pháp lý để người lao động hoàn thành
nghĩa vụ lao động của mình đối với doanh nghiệp, là căn cứ để doanh nghiệp tổ
chức tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, kỷ luật lao động giữ vai trò
củng cố, ổn định quan hệ lao động trong doanh nghiệp.
Chế định kỷ luật lao động bao gồm: Nội quy lao động; trách nhiệm kỷ
luật của người lao động; trách nhiệm vật chất của người lao động trong trường
hợp gây thiệt hại về tài sản cho doanh nghiệp.
- Nội quy lao động của doanh nghiệp là văn bản cụ thể hóa các nội dung
kỷ luật lao động đã được pháp luật lao động quy định, bao gồm thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi; trật tự tại nơi làm việc; an toàn lao động, vệ sinh lao
động ở nơi làm việc; việc bảo vệ tài sản và bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ,
sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động; các hành vi vi phạm kỷ luật lao động
của người lao động và các hình thức xử lý kỷ luật lao động, trách nhiệm vật
chất.
 Người sử dụng lao động sử dụng từ 10 người lao động trở lên phải có nội
quy lao động bằng văn bản.
- Trách nhiệm kỷ luật là loại trách nhiệm pháp lý do người sử dụng lao
động áp dụng đối với người lao động trong trường hợp người lao động vi phạm
kỷ luật lao động, buộc họ phải chịu các hình thức kỷ luật do pháp luật lao động
quy định.
Pháp luật lao động quy định các hình thức kỷ luật sau:
+ Khiển trách: áp dụng đối với người lao động phạm lỗi lần đầu ở mức độ
nhẹ, có thể khiển trách bằng miệng hoặc bằng văn bản.
+ Kéo dài thời hạn nâng lương không quá 6 tháng hoặc chuyển làm công
việc khác có mức lương thấp hơn trong thời hạn tối đa là 6 tháng hoặc cách
chức: áp dụng đối với người lao động đã bị khiển trách bằng văn bản mà tái
phạm trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày bị khiển trách hoặc hành vi vi phạm đã
được quy định trong nội quy lao động của doanh nghiệp.

62
+ Sa thải: áp dụng trong những trường hợp: người lao động có hành vi
trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ kinh doanh, người lao động đang chịu
hình thức kỷ luật ở mức 2 (kéo dài thời gian nâng lương…) mà tái phạm; người
lao động tự ý bỏ việc 5 ngày cộng dồn trong một tháng hoặc 20 ngày cộng dồn
trong một năm mà không có lý do chính đáng.
- Trách nhiệm vật chất là một loại trách nhiệm pháp lý do doanh nghiệp
áp dụng đối với người lao động có quan hệ hợp đồng lao động với mình, thể
hiện ở việc buộc người lao động phải bồi thường những thiệt hại về vật chất do
hành vi vi phạm kỷ luật lao động của họ gây ra cho tài sản của doanh nghiệp.
Pháp luật lao động quy định các hình thức trách nhiệm vật chất đối với
người lao động như sau:
+ Người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây
thiệt hại tài sản của người sử dụng lao động thì phải bồi thường theo quy định
của pháp luật.
+ Trường hợp người lao động gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất
với giá trị không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố được
áp dụng tại nơi người lao động làm việc, thì người lao động phải bồi thường
nhiều nhất là 03 tháng tiền lương và bị khấu trừ hằng tháng vào lương. Mức
khấu trừ tiền lương hằng tháng không được quá 30% tiền lương hằng tháng của
người lao động sau khi trích nộp các khoản bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm
y tế, bảo hiểm thất nghiệp, thuế thu nhập.
+ Người lao động làm mất dụng cụ, thiết bị, tài sản của người sử dụng lao
động hoặc tài sản khác do người sử dụng lao động giao hoặc tiêu hao vật tư quá
định mức cho phép thì phải bồi thường thiệt hại một phần hoặc toàn bộ theo thời
giá thị trường; trường hợp có hợp đồng trách nhiệm thì phải bồi thường theo hợp
đồng trách nhiệm; trường hợp do thiên tai, hoả hoạn, địch họa, dịch bệnh, thảm
họa, sự kiện xảy ra khách quan không thể lường trước được và không thể khắc
phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép thì
không phải bồi thường.
6. Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần
thu nhập của người lao động khi bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi hoặc chết trên cơ
sở đóng vào quỹ BHXH
Nguyên tắc của BHXH
- Mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng
BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH.
- Mức đóng BHXH bắt buộc và bảo hiểm thất nghiệp được tính trên cơ
sở tiền lương, tiền công của người lao động tham gia BHXH bắt buộc. Mức

63
đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập do người lao động
lựa chọn nhưng mức thu nhập này không thấp hơn mức lương tối thiểu.
- Người lao động vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian
đóng BHXH tự nguyện thì được hưởng chế độ hưu trí và tử tuất trên cơ sở thời
gian đã đóng BHXH.
- Quỹ BHXH được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch;
được sử dụng đúng mục đích, được hoạch toán độc lập.
- Việc thực hiện BHXH phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện đảm bảo kịp
thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm.
- Nhà nước khuyến khích tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham
gia BHXH; nhà nước thống nhất quản lý và tổ chức thực hiện BHXH.
Các loại hình BHXH: pháp luật hiện hành quy định có các loại hình
BHXH sau:
- BHXH bắt buộc là loại hình mà người lao động và người sử dụng lao
động đều phải tham gia theo quy định của pháp luật, gồm sáu chế độ: ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất.
- BHXH tự nguyện là hoại hình bảo hiểm mà người lao động tự nguyện
tham gia, được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của
mình để hưởng BHXH, gồm hai chế độ: hưu trí, tử tuất.
- Bảo hiểm thất nghiệp là loại hình bảo hiểm bắt buộc áp dụng đối với
người lao động là công dân Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động không
xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng với người sử
dụng lao động có sử dụng từ 10 lao động trở lên, gồm ba chế độ: trợ cấp thất
nghiệp, hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm.
7. Tranh chấp lao động và giải quyết tranh chấp lao động
Tranh chấp lao động là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát
sinh giữa các bên trong quan hệ lao động.
Tranh chấp lao động bao gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao
động với người sử dụng lao động và tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao
động với người sử dụng lao động.
Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động
- Hội đồng hòa giải lao động cơ sở là một tổ chức được thành lập trong
các doanh nghiệp có tổ chức công đoàn cơ sở, bao gồm đại diện ngang nhau của
bên người lao động và bên người sử dụng lao động có chức năng hòa giải các
tranh chấp lao động theo quy định của pháp luật.
- Hòa giải viên lao động do cơ quan lao động cấp huyện cử ra để hòa giải
các tranh chấp lao động, các tranh chấp về hợp đồng học nghề và chi phí dạy
nghề.

64
- Hội đồng trọng tài lao động do ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập, bao
gồm các thành viên chuyên trách và kiêm nhiệm là đại diện của cơ quan lao
động, công đoàn, người sử dụng lao động và đại diện của hội luật gia hoặc
người có kinh nghiệp trong quản lý lao động lao động ở địa phương với chức
năng hòa giải các tranh chấp lao động tập thể.
- Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện và tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể theo quy định của pháp luật.
Thủ tục giải quyết tranh chấp
- Đối với tranh chấp lao động cá nhân: khi có bất đồng, các bên phải chủ
động thương lượng với nhau để giải quyết, nếu thương lượng không thành thì
các bên hoặc một bên có thể yêu cầu hội đồng hòa giải cơ sở hoặc hòa giải viên
lao động giải quyết, nếu hòa giải không thành các bên có quyền yêu cầu Tòa án
nhân dân cấp huyện xét xử tranh chấp. Hồ sơ gửi tòa án phải kèm theo biên bản
hòa giải không thành. Các bên có trách nhiệm thực hiện biên bản hòa giải thành
hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
- Đối với tranh chấp lao động tập thể, trước hết các bên phải trực tiếp
thương lượng, nếu thương lượng không thành thì các bên hoặc một bên có thể
yêu cầu hội đồng hòa giải cơ sở hoặc hòa giải viên lao động giải quyết. Nếu
không hòa giải được, các bên có thể gửi đơn lên hội đồng trọng tài cấp tỉnh giải
quyết, nếu tập thể lao động không đồng ý với quyết định của trọng tài thì có
quyền yêu cầu Tòa án nhân dân giải quyết hoặc đình công.

Định hướng nghiên cứu bài


1. Khái niệm, đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh của luật Lao động.
2. Chế định hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể.
3. Chế định tiền lương, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi của người lao
động. Liên hệ thực tế.
4. Quy định về kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất của người lao động
được quy định trong Bộ luật Lao động. Liên hệ thực tế.
5. Chế định bảo hiểm lao động được quy định trong Bộ luật lao động. Liên hệ
thực tế.
6. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp lao động.

65
66
Chương 5
LUẬT ĐẤT ĐAI VIỆT NAM

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT ĐẤT ĐAI


Luật đất đai là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao
gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành
trong quá trình quản lý và sử dụng đất.
1. Đối tượng điều chỉnh
Đất đai là tư liệu sản xuất cơ bản không thể thay thế trong một số ngành
nông nghiệp, lâm nghiệp, là nền tảng để xây dựng các ngành kinh tế quốc dân,
là địa bàn dân cư và địa bàn phát triển trong công nghiệp.
Với tính chất đặc biệt đó, việc quản lý và sử dụng đất đai được điều chỉnh
bằng nhiều văn bản quy phạm pháp luật, tạo thành một ngành luật độc lập trong
hệ thống pháp luật Việt Nam.
Đối tượng điều chỉnh của Luật Đất đai là những quan hệ xã hội liên quan
tới việc sở hữu, quản lý và sử dụng đất, các quan hệ phát sinh trong quá trình
bảo vệ, quản lý, khai thác các nguồn tài nguyên khác. Các quan hệ xã hội do
Luật Đất đai điều chỉnh được chia thành hai nhóm:
Một là: những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý đất đai của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hai là: những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình chiếm hữu và sử
dụng đất đai của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình.
Đối tượng điều chỉnh của Luật Đất đai có các đặc trưng sau:
- Là các quan hệ thuộc lĩnh vực kinh tế nhưng không thuộc phạm vi điều
chỉnh của các quy phạm pháp luật kinh tế;
- Là quan hệ tài sản, nhưng không thuộc sự điều chỉnh của các quy phạm
pháp luật dân sự;
- Là quan hệ mang tính chất hành chính nhà nước, vì quan hệ đất đai liên
quan đến quá trình quản lý của các cơ quan nhà nước, trong nhiều trường hợp
quan hệ đất đai phát sinh trên cơ sở quyết định hành chính, chẳng hạn quyết
định giao đất, quyết định thu hồi đất…
- Các quan hệ đất đai vận động không ngừng trong cơ chế thị trường, có
giá trị và là tài sản đặc biệt.
2. Phương pháp điều chỉnh
Phương pháp điều chỉnh của Luật Đất đai là cách thức mà nhà nước dùng
pháp luật để tác động lên đối tượng điều chỉnh của Luật Đất đai, bao gồm hai
phương pháp: mệnh lệnh và thỏa thuận

67
- Phương pháp mệnh lệnh (hành chính) được sử dụng trong quan hệ giữa
các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai với các chủ thể sử dụng đất. Đất đai
thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý thông qua công tác quy
hoạch, quyết định giao đất, thu hồi đất, đăng ký đất, cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, thanh tra, giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm luật đất đai. Trong
mối quan hệ này, các cơ quan nhà nước được quyền áp đặt ý chí lên các chủ thể
sử dụng đất.
- Phương pháp thỏa thuận (bình đẳng) được sử dụng trong các mối quan
hệ mà các chủ thể ở vị trí độc lập và bình đẳng với nhau. Đó là quan hệ giữa các
chủ thể sử dụng đất với nhau như các quan hệ về chuyển nhượng, chuyển đổi,
cho thuê, cho thuê lại, thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất.
3. Quan hệ pháp luật đất đai
a. Khái niệm, đặc điểm
Quan hệ pháp luật đất đai là quan hệ xã hội, được các quy phạm pháp luật
đất đai điều chỉnh, biểu hiện thành quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các
bên, được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.
Quan hệ pháp luật đất đai có những đặc điểm cơ bản sau:
- Quan hệ pháp luật đất đai là quan hệ giữa người với người (quan hệ xã
hội).
- Quan hệ pháp luật đất đai phải là loại quan hệ được các quy phạm pháp
luật đất đai điều chỉnh, các bên trong quan hệ đó có những quyền và nghĩa vụ
pháp lý nhất định.
- Quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên được đảm bảo thực hiện bằng
cưỡng chế nhà nước.
b. Các yếu tố cấu thành của quan hệ pháp luật đất đai
Một quan hệ pháp luật đất đai được cấu thành bởi các yếu tố: chủ thể, nội
dung, khách thể của quan hệ pháp luật đất đai.
- Chủ thể của quan hệ pháp luật đất đai: là các chủ thể dựa trên cơ sở các
quy phạm pháp luật mà tham gia vào một quan hệ pháp luật đất đai để hưởng
quyền và làm nghĩa vụ trong quan hệ đó. Chủ thể của quan hệ pháp luật đất đai
gồm có nhà nước và người sử dụng đất.
Nhà nước tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai với tư cách là đại diện
chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý nhà nước về đất đai. Nhà
nước tham gia vào quan hệ pháp luật này thông qua các cơ quan nhà nước.
Chủ thể sử dụng đất là người đang thực tế chiếm hữu đất đai do Nhà nước
giao, cho thuê, cho phép nhận quyền sử dụng đất hoặc được Nhà nước công
nhận quyền sử dụng đất. Các chủ thể sử dụng đất gồm: các tổ chức trong nước,
cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tổ chức nước ngoài có

68
chức năng ngoại giao, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân
nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Chủ thể đang thực tế chiếm hữu đất đai được phân chia thành: chủ thể đã
có giấy tờ hợp pháp về quyền sử dụng đất (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất);
chủ thể có giấy tờ hợp lệ về quyền sử dụng đất (chưa có giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, nhưng đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất);
chủ thể không có đủ giấy tờ theo quy định nhưng được công nhận quyền sử
dụng đất.
- Nội dung của quan hệ pháp luật đất đai: là tổng thể quyền hạn và nghĩa
vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai. Các quyền hạn, nghĩa vụ này
được pháp luật quy định và bảo vệ.
- Khách thể của quan hệ pháp luật đất đai: là cái mà các chủ thể nhằm
hướng tới, đạt được khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai.
4. Các nguyên tắc cơ bản của luật đất đai
a. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống
nhất quản lý
Luật Đất đai năm 2013 kế thừa, sửa đổi bổ sung luật Đất đai năm 1998,
2001, 2003, cụ thể hóa các quy định về đất đai trong Hiến pháp 1980, 1992, 2013
khẳng định: đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước là người đại diện và thống
nhất quản lý.
Nội dung của nguyên tắc được thể hiện:
- Đất đai thuộc sở hữu toàn dân không thuộc về bất kỳ cá nhân, tổ chức
nào;
- Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Với tư
cách là người đại diện, Nhà nước thực hiện quyền định đoạt đối với đất đai
thông qua những quyền năng cụ thể: quyết định mục đích sử dụng đất (thông
qua việc lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất); quy định thời hạn sử dụng đất;
giao đất; cho thuê đất; thu hồi đất; định giá đất.
- Các cá nhân, tổ chức không có quyền sở hữu đất mà chỉ có quyền sử
dụng đất. Quyền sử dụng đất của các chủ thể này được xác lập bằng việc Nhà
nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất. Người có quyền
sử dụng đất, tuy không có quyền sở hữu đối với đất nhưng có quyền chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử
dụng đất; quyền được bồi thường khi nhà nước thu hồi đất.
b. Ưu tiên bảo vệ người sử dụng đất nông nghiệp
Việt Nam là nước nông nghiệp, tỷ lệ người lao động làm nông nghiệp cao.
Nhà nước có chính sách tạo điều kiện cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, nuôi trồng thủy hải sản, làm muối có đất để sản xuất; đồng thời có
chính sách ưu đãi đầu tư, đào tạo nghề, phát triển ngành nghề, tạo việc làm cho

69
lao động ở nông thôn phù hợp với quá trình chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và
chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ loại đất nông nghiệp sang đất
phi nông nghiệp phải được sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
c. Khuyến khích đầu tư vào đất đai
Đất chưa sử dụng, đất hoang hóa còn chiếm tỷ lệ cao trong tổng số diện
tích đất đai của Nhà nước. Trong khi đó nhu cầu sử dụng đất ngày càng tăng
nhanh, vì vậy, Nhà nước khuyến khích người sử dụng đất đầu tư lao động, vật
tư, tiền vốn và áp dụng thành tựu khoa học công nghệ vào các việc: bảo vệ, cải
tạo, làm tăng độ màu mỡ của đất; khai hoang, phục hóa, lấn biển, đưa diện tích
đất trồng, núi đồi trọc, đất có mặt nước hoang hóa vào sử dụng; phát triển kết
cấu hạ tầng để làm tăng giá trị của đất.
d. Thường xuyên cải tạo, bồi bổ đất
Đất đai nếu không được khai thác sử dụng sẽ trở thành đất hoang hóa. Đất
bị khai thác một cách bừa bãi, thiếu ý thức thì giá trị của đất sẽ bị suy kiệt. Vì
vậy, người sử dụng đất phải thường xuyên có chế độ cải tạo đất, bồi bổ đất để
nâng cao giá trị của đất đai, nhằm phục vụ cho nhu cầu sử dụng đất lâu dài.
II. MỘT SỐ CHẾ ĐỊNH CƠ BẢN CỦA LUẬT ĐẤT ĐAI
Luật Đất đai được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2013 gồm 14 chương
212 điều, bao gồm những nội dung cơ bản sau:
1. Chế độ quản lý nhà nước về đất đai
a. Các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai
Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai bao gồm các cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền chung và các cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền chuyên môn.
- Các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chung quản lý nhà nước
về đất đai gồm: Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp. Chính phủ có trách
nhiệm thống nhất quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả nước, Ủy ban
nhân dân các cấp có trách nhiệm quản lý về đất đai trong phạm vi địa phương.
- Các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chuyên môn gồm: Ở trung
ương có Bộ Tài nguyên và Môi trường; ở tỉnh, thành phố có sở Tài nguyên và
Môi trường; ở quận, huyện, thị xã có phòng Tài nguyên và Môi trường. Ở xã,
phường, thị trấn không thành lập cơ quan quản lý có thẩm quyền chuyên môn về
đất đai mà chỉ có cán bộ địa chính. Cơ quan quản lý có thẩm quyền chuyên môn
về đất đai cấp nào trực thuộc cơ quan hành chính nhà nước cấp đó.
b. Quyền và trách nhiệm của Nhà nước đối với đất đai
- Quyền của Nhà nước đối với đất đai

70
+ Quyền của đại diện chủ sở hữu về đất đai: quyết định quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất; quyết định mục đích, hạn mức, thời hạn sử dụng đất; quyết
định thu hồi đất, trưng dụng đất, quyết định giá đất; quyết định trao quyền sử
dụng đất cho người sử dụng đất; quyết định chính sách tài chính về đất đai; quy
định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
+ Thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai
Quốc hội ban hành luật, nghị quyết về đất đai; quyết định quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất cấp quốc gia; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với việc
quản lý và sử dụng đất đai trong phạm vi cả nước.
Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền thông qua quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất của địa phương mình trước khi trình cơ quan có thẩm quyền
phê duyệt; thông qua bảng giá đất, việc thu hồi đất thực hiện các dự án phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng của địa phương theo thẩm quyền;
giám sát việc thi hành pháp luật về đất đai tại địa phương.
Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu
về đất đai theo thẩm quyền.
- Trách nhiệm của Nhà nước đối với đất đai
+ Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ
chức thực hiện văn bản đó.
+ Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính,
lập bản đồ hành chính.
+ Khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và
bản đồ quy hoạch sử dụng đất; điều tra, đánh giá tài nguyên đất; điều tra xây
dựng giá đất.
+ Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quản lý việc giao đất, cho
thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất; quản lý việc bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi thu hồi đất.
+ Đăng ký đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
+ Thống kê, kiểm kê đất đai; xây dựng hệ thống thông tin đất đai.
+ Quản lý tài chính về đất đai và giá đất.
+ Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất; thanh tra, kiểm tra, giám sát, theo dõi, đánh giá việc chấp hành quy định của
pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai; giải quyết tranh chấp
về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý và sử dụng đất đai.
+ Phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai.
+ Quản lý hoạt động dịch vụ về đất đai.
- Bảo đảm của Nhà nước đối với người sử dụng đất

71
+ Bảo hộ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất hợp pháp của
người sử dụng đất.
+ Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất cho người sử dụng đất khi có đủ điều kiện theo quy định
của pháp luật.
+ Khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng thì người sử dụng đất được Nhà
nước bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định của pháp luật.
+ Có chính sách tạo điều kiện cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối không có đất sản xuất do quá trình
chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và chuyển đổi cơ cấu kinh tế được đào tạo nghề,
chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm.
+ Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định
của Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất
đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
2. Chế độ sử dụng đất đai
a. Chủ thể sử dụng đất
Chủ thể sử dụng đất là người đang thực tế chiếm hữu đất đai được Nhà
nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền
sử dụng đất theo quy định của pháp luật, bao gồm:
- Tổ chức trong nước: cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị xã hội
- nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức sự nghiệp
công lập và tổ chức khác theo quy định của pháp luật về dân sự;
- Hộ gia đình, cá nhân trong nước;
- Cộng đồng dân cư: cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng địa
bàn thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố và điểm dân cư tương tự có
cùng phong tục, tập quán hoặc có chung dòng họ;
- Cơ sở tôn giáo: chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường,
niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức
tôn giáo và cơ sở khác của tôn giáo;
- Tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao gồm cơ quan đại diện
ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện khác của nước ngoài có chức năng
ngoại giao được Chính phủ Việt Nam thừa nhận; cơ quan đại diện của tổ chức
thuộc Liên hợp quốc, cơ quan hoặc tổ chức liên chính phủ, cơ quan đại diện của
tổ chức liên chính phủ;

72
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về
quốc tịch;
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm doanh nghiệp 100% vốn
đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp Việt Nam mà nhà
đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại theo quy định của pháp luật
về đầu tư.
b. Phân loại đất đai
Căn cứ vào mục đích sử dụng, đất đai được phân loại như sau:
- Nhóm đất nông nghiệp bao gồm: đất trồng cây hàng năm; đất trồng cây
lâu năm; đất rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; đất nuôi trồng thủy
sản; đất làm muối; đất nông nghiệp khác (đất sử dụng để xây dựng nhà kính và
các loại nhà khác phục vụ mục đích trồng trọt; xây dựng chuồng trại chăn nuôi
gia súc, gia cầm và các loại động vật khác được pháp luật cho phép; đất trồng
trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản cho mục đích học tập, nghiên cứu thí
nghiệm; đất ươm tạo cây giống, con giống và đất trồng hoa, cây cảnh)
- Nhóm đất phi nông nghiệp bao gồm: đất ở (tại nông thôn, tại đô thị); đất
xây dựng trụ sở cơ quan; đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; đất xây
dựng công trình sự nghiệp gồm đất xây dựng trụ sở của tổ chức sự nghiệp; đất
xây dựng cơ sở văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao, khoa
học và công nghệ, ngoại giao; đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp (đất khu
công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất; đất thương mại, dịch vụ); đất cơ
sở sản xuất phi nông nghiệp; đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản; đất sản
xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm; đất sử dụng vào mục đích công cộng gồm
đất giao thông (gồm cảng hàng không, sân bay, cảng đường thủy nội địa, cảng
hàng hải, hệ thống đường sắt, hệ thống đường bộ và công trình giao thông khác);
thủy lợi; đất có di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; đất sinh hoạt cộng
đồng, khu vui chơi, giải trí công cộng; đất công trình năng lượng; đất công trình
bưu chính, viễn thông; đất chợ; đất bãi thải, xử lý chất thải và đất công trình
công cộng khác; đất cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng; đất làm nghĩa trang, nghĩa địa,
nhà tang lễ, nhà hỏa táng; đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên
dùng.
- Nhóm đất chưa sử dụng gồm các loại đất chưa xác định mục đích sử
dụng.
c. Thời hạn sử dụng đất
Thời hạn sử dụng đất đai được chia thành: đất sử dụng ổn định lâu dài và
đất sử dụng có thời hạn.
- Đất sử dụng ổn định lâu dài: Người sử dụng đất được sử dụng đất ổn
định lâu dài trong các trường hợp:
+ Đất ở do hộ gia đình, cá nhân sử dụng;

73
+ Đất nông nghiệp
+ Đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất rừng sản xuất là rừng tự
nhiên;
+ Đất thương mại, dịch vụ, đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp của hộ gia
đình, cá nhân đang sử dụng ổn định mà không phải là đất được Nhà nước giao
có thời hạn, cho thuê;
+ Đất xây dựng trụ sở cơ quan; đất xây dựng công trình sự nghiệp của tổ
chức sự nghiệp công lập chưa tự chủ tài chính;
+ Đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh;
+ Đất cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng
+ Đất giao thông, thủy lợi, đất có di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng
cảnh, đất xây dựng các công trình công cộng khác không có mục đích kinh
doanh;
+ Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa;
- Đất sử dụng có thời hạn
+ Thời hạn giao đất, công nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp đối với hộ
gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp là 50 năm. Khi hết thời hạn, hộ
gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp nếu có nhu cầu thì được tiếp tục
sử dụng đất theo thời hạn quy định trên.
+Thời hạn cho thuê đất nông nghiệp đối với hộ gia đình, cá nhân không
quá 50 năm. Khi hết thời hạn thuê đất, hộ gia đình, cá nhân nếu có nhu cầu thì
được Nhà nước xem xét tiếp tục cho thuê đất.
+ Thời hạn giao đất, cho thuê đất đối với tổ chức để sử dụng vào mục đích
sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối; tổ chức, hộ
gia đình, cá nhân để sử dụng vào mục đích thương mại, dịch vụ, làm cơ sở sản
xuất phi nông nghiệp; tổ chức để thực hiện các dự án đầu tư; người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để thực hiện các
dự án đầu tư tại Việt Nam được xem xét, quyết định trên cơ sở dự án đầu tư
hoặc đơn xin giao đất, thuê đất nhưng không quá 50 năm.
Đối với dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm, dự án đầu tư
vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế -
xã hội đặc biệt khó khăn mà cần thời hạn dài hơn thì thời hạn giao đất, cho thuê
đất không quá 70 năm.
Đối với dự án kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp với cho thuê
hoặc để cho thuê mua thì thời hạn giao đất cho chủ đầu tư được xác định theo
thời hạn của dự án; người mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất được sử
dụng đất ổn định lâu dài. Khi hết thời hạn, người sử dụng đất nếu có nhu cầu
tiếp tục sử dụng thì được Nhà nước xem xét gia hạn sử dụng đất nhưng không
quá thời hạn quy định trên.

74
+ Thời hạn cho thuê đất để xây dựng trụ sở làm việc của tổ chức nước
ngoài có chức năng ngoại giao không quá 99 năm. Khi hết thời hạn, tổ chức
nước ngoài có chức năng ngoại giao nếu có nhu cầu sử dụng đất thì được Nhà
nước xem xét gia hạn hoặc cho thuê đất khác, mỗi lần gia hạn không quá thời
hạn quy định trên.
+ Thời hạn cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích
công ích của xã, phường, thị trấn là không quá 05 năm.
+ Đất xây dựng công trình sự nghiệp của tổ chức sự nghiệp công lập tự
chủ tài chính và các công trình công cộng có mục đích kinh doanh không quá 70
năm. Khi hết thời hạn, người sử dụng đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng thì
được Nhà nước xem xét gia hạn sử dụng đất nhưng không quá thời hạn quy định
trên.
d. Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất
- Quyền của người sử dụng đất
+ Được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất.
+ Hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất.
+ Hưởng các lợi ích do công trình của Nhà nước phục vụ việc bảo vệ, cải
tạo đất nông nghiệp.
+ Được Nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ trong việc cải tạo, bồi bổ đất
nông nghiệp.
+ Được Nhà nước bảo hộ khi người khác xâm phạm quyền, lợi ích hợp
pháp về đất đai của mình.
+ Được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định của pháp luật.
+ Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm quyền sử dụng
đất hợp pháp của mình và những hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai.
+ Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho,
thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất.
Ngoài các quyền chung cơ bản của các chủ thể sử dụng đất, luật đất đai
năm 2013 còn quy định chi tiết, cụ thể quyền sử dụng đất của các tổ chức được
nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, có thu tiền sử dụng đất; quyền của
các tổ chức kinh tế được nhà nước cho thuê đất; quyền của hộ gia đình, cá nhân,
cộng đồng dân cư sử dụng đất…
- Nghĩa vụ của người sử dụng đất
+ Sử dụng đất đúng mục đích, đúng ranh giới thửa đất, đúng quy định về
sử dụng độ sâu trong lòng đất và chiều cao trên không, bảo vệ các công trình
công cộng trong lòng đất và tuân theo các quy định khác của pháp luật có liên
quan.

75
+ Thực hiện kê khai đăng ký đất đai; làm đầy đủ thủ tục khi chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; thế
chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
+ Thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.
+ Thực hiện các biện pháp bảo vệ đất.
+ Tuân theo các quy định về bảo vệ môi trường, không làm tổn hại đến lợi
ích hợp pháp của người sử dụng đất có liên quan.
+ Tuân theo các quy định của pháp luật về việc tìm thấy vật trong lòng
đất.
+ Giao lại đất khi Nhà nước có quyết định thu hồi đất, khi hết thời hạn sử
dụng đất mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền gia hạn sử dụng.
Ngoài ra, luật đất đai năm 2013 còn quy định cụ thể nghĩa vụ của của
từng đối tượng sử dụng đất phù hợp với hình thức giao đất, thuê đất, công nhận
quyền sử dụng đất và quy định các điều kiện khi người sử dụng đất thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
III. GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO, TRANH CHẤP ĐẤT
ĐAI
1.Giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai
a. Quan niệm khiếu nại, tố cáo về đất đai
Khiếu nại về đất đai là một loại khiếu nại hành chính phát sinh trong lĩnh
vực quản lý và sử dụng đất đai. Khiếu nại về đất đai là việc đề nghị các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, người có thẩm quyền xem xét lại đối với quyết định
hành chính hoặc hành vi hành chính khi có căn cứ cho rằng quyết định đó hoặc
hành vi đó là trái pháp luật và xâm phạm đến các quyền, lợi ích hợp pháp của
người sử dụng đất.
Đối tượng của khiếu nại về đất đai là các quyết định hành chính của các
cơ quan về các vấn đề như: quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng
dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; quyết định bồi thường, giải
phóng mặt bằng, tái định cư; quyết định cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất; quyết định ra hạn thời hạn sử dụng đất… Đối tượng của
khiếu nại về đất đai cũng có thể là hành vi hành chính của cán bộ, công chức
nhà nước khi thực hiện các công việc liên quan đến các hoạt động nêu trên.
Tố cáo về đất đai là việc báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc
người có thẩm quyền biết về một hành vi vi phạm pháp luật về đất đai của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân gây thiệt hại hoặc de dọa gây thiệt hại đến lợi ích của
nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Đối tượng của tố cáo là hành vi vi phạm pháp luật đất đai của các cơ quan
nhà nước, tổ chức hay cá nhân, như: hành vi lấn chiếm đất đai, sử dụng đất đai
sai mục đích, chuyển mục đích sử dụng đất trái phép, hủy hoại đất, không thực

76
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ tài chính, các thủ tục hành chính,
các quyết định của cơ quan nhà nước trong quản lý đất đai được thực hiện trái
pháp luật, chuyển quyền sử dụng đất trái pháp luật.
b. Thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai
Việc giải quyết khiếu nại về đất đai được giải quyết như sau:
- Trước hết, người khiếu nại phải tiến hành khiếu nại đối với chính người
ra quyết định hoặc cơ quan có hành vi của cán bộ, công chức mà người khiếu
nại muốn khiếu nại. Thời hiệu khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành
chính về quản lý đất đai là 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính
hoặc biết được có hành vi hành chính đó.
- Trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền khiếu nại tiếp
đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân.
Trường hợp khiếu nại quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý
đất đai do Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc
tỉnh giải quyết lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền khởi kiện
tại Tòa án nhân dân hoặc tiếp tục khiếu nại lên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, trong trường hợp đó quyết định của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là quyết định cuối cùng;
trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất
đai do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải
quyết lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền khởi kiện tai Tòa
án nhân dân.
Việc giải quyết tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai
thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo.
2. Giải quyết tranh chấp đất đai
a. Quan niệm tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Tranh chấp đất đai bao gồm
các dạng tranh chấp như: tranh chấp về quyền sử dụng đất; tranh chấp về quyền
và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất; tranh chấp về mục đích sử
dụng đất.
b.Thủ tục giải quyết tranh chấp về đất đai
Thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện như sau:
Bước 1: Hòa giải tranh chấp đất đai
- Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải
quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.
- Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi
đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải.

77
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải
tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải
phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành
viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai
tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ
ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.
- Việc hòa giải phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có
xác nhận hòa giải thành hoặc hòa giải không thành của Ủy ban nhân dân cấp xã.
Biên bản hòa giải được gửi đến các bên tranh chấp, lưu tại Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi có đất tranh chấp.
- Đối với trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh
giới, người sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân cấp xã gửi biên bản hòa giải đến
Phòng Tài nguyên và Môi trường đối với trường hợp tranh chấp đất đai giữa hộ
gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau; Tranh chấp về các trường hợp
khác gửi đơn đến Sở Tài nguyên và Môi trường.
- Phòng Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường trình
Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới thửa đất
và cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất.
Bước 2: Tiến hành giải quyết đối với tranh chấp đất đai đã được hòa giải
tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:
- Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong
các loại giấy tờ xác định nguồn gốc hợp pháp và tranh chấp về tài sản gắn liền
với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;
Các trường hợp được coi là có giấy tờ xác định nguồn gốc hợp pháp gồm:
+ Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất trước ngày 15 tháng 10 năm
1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm
thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký
ruộng đất, sổ địa chính trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; giấy tờ hợp pháp về
thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình
thương gắn liền với đất; giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở; giấy
tờ mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật; giấy tờ về
quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử
dụng đất; các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15 tháng 10 năm 1993
theo quy định của Chính phủ.
+ Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ nêu
trên mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển
quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan; hộ gia đình, cá nhân
được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định
thi hành án của cơ quan thi hành án, văn bản công nhận kết quả hòa giải thành,

78
quyết định giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
- Tranh chấp đất đai mà đương sự không có giấy chứng nhận hoặc không
có một trong các loại giấy tờ xác định nguồn gốc hợp pháp nêu trên thì đương sự
chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy
định sau:
+ Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với
nhau thì nộp đơn lên Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; trường
hợp tranh chấp mà một bên là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì nộp đơn lên Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết.
+ Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật về tố tụng dân sự.
- Trường hợp đương sự lựa chọn giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân
dân cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện như
sau:
+ Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với
nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với
quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng
hành chính;
+ Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn
giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với
quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và
Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về
tố tụng hành chính;
- Người có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai phải ra quyết định
giải quyết tranh chấp. Quyết định giải quyết tranh chấp có hiệu lực thi hành phải
được các bên tranh chấp nghiêm chỉnh chấp hành. Trường hợp các bên không
chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi hành.

Định hướng nghiên cứu bài


1. Đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh và những nguyên tắc cơ bản
của luật đất đai.
2. Những quy định về chế độ quản lý Nhà nước về đất đai. Liên hệ.
3. Những quy định về chế độ sử dụng đất đai. Liên hệ
4. Thẩm quyền, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai.
5. Thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai.

79
Chương 6
LUẬT HÌNH SỰ

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT HÌNH SỰ


1. Khái niệm
Để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội, trật tự xã hội, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước dùng nhiều biện pháp khác nhau
vừa có tính giáo dục, thuyết phục, vừa có tính cưỡng chế để đấu tranh với những
vi phạm pháp luật. Đối với những hành vi vi phạm mà mức độ nguy hiểm cho xã
hội chưa cao thì chủ thể thực hiện hành vi đó có thể bị áp dụng những biện pháp
cưỡng chế hành chính, dân sự… đối với những hành vi mà mức độ nguy hiểm
cho xã hội cao hơn thì cần phải có những biện pháp cứng rắn hơn, nghiêm khắc
hơn thì mới đủ sức giáo dục, thuyết phục cũng như đấu tranh phòng chống vi
phạm - đó là biện pháp cưỡng chế hình sự.
Luật hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật do
nhà nước ban hành, xác định những hành vi nào nguy hiểm cho xã hội là tội
phạm,người phải chịu trách nhiệm hình sự đồng thời quy định hình phạt đối với
những tội phạm ấy.
Các quy phạm pháp luật hình sự được chia làm hai loại: phần chung quy
định những nguyên tắc, nhiệm vụ của luật hình sự, những vấn đề chung về tội
phạm và hình phạt; phần các tội phạm quy định những dấu hiệu pháp lý của
những tội phạm cụ thể, loại hình phạt và mức hình phạt có thể áp dụng đối với
các tội phạm.
2. Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh
Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự là những quan hệ xã hội phát sinh
giữa nhà nước với người phạm tội khi người này thực hiện một hành vi mà Nhà
nước quy định là tội phạm.
Phương pháp điều chỉnh của luật hình sự là phương pháp quyền uy. Đó là
phương pháp sử dụng quyền lực Nhà nước trong việc điều chỉnh các quan hệ
pháp luật hình sự giữa Nhà nước và người phạm tội. Nhà nước có quyền tối cao
trong việc định đoạt số phận của người phạm tội, buộc họ phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm mà họ gây ra. Trách nhiệm hình sự mà người phạm tội đã
gây ra là trách nhiệm thuộc về cá nhân người phạm tội, phải do chính người
phạm tội gánh chịu một cách trực tiếp.
3. Các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự
Các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam là các tư tưởng chỉ đạo,
là cơ sở cho hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự. Cụ thể là:

80
- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: nguyên tắc này thể hiện thông
qua việc chỉ có pháp luật hình sự mới quy định hành vi nào là tội phạm. Cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền phải tuyệt đối tuân thủ quy định này của pháp luật.
- Nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa: nguyên tắc này thể hiện thông qua
việc tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân. Mọi công dân
đều có quyền ngang nhau, không có sự phân biệt đối xử; phải tham gia tích cực
vào việc xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự; đấu tranh chống và phòng ngừa
tội phạm.
- Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa: nguyên tắc này thể hiện thông
qua việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội chủ yếu nhằm mục đích giáo
dục và cải tạo họ trở thành công dân có ích cho xã hội (ví dụ, quy định về khoan
hồng, miễn trách nhiệm hình sự, hình phạt, cho hưởng án treo…)
- Nguyên tắc kết hợp hài hòa chủ nghĩa yêu nước và tinh thần quốc tế thể
hiện thông qua việc quy định trong Bộ luật hình sự như: các tội phá hoại hòa
bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh.
II. TỘI PHẠM VÀ CẤU THÀNH TỘI PHẠM
1. Khái niệm tội phạm
Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, sửa
đổi bổ sung 2017 đã định nghĩa tội phạm như sau: “Tôi phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự; do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý; xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”.
2. Những dấu hiệu cơ bản của tội phạm
Theo Bộ luật hình sự, hành vi được coi là tội phạm được phân biệt với
những hành vi khác không phải là tội phạm qua bốn dấu hiệu sau:
- Tính nguy hiểm cho xã hội: đây là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất
quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Một hành vi được quy định trong
luật hình sự và phải chịu hình phạt bởi vì nó có tính nguy hiểm cho xã hội. Tính
nguy hiểm cho xã hội là thuộc tính khách quan, là dấu hiệu vật chất của tội
phạm. Hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là tội phạm phải là hành vi gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ.
- Tính có lỗi của tội phạm: lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với
hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra.
Trong Bộ luật hình sự nước ta, tính có lỗi được nêu trong định nghĩa về tội
81
phạm là một dấu hiệu độc lập với tính nguy hiểm cho xã hội để nhấn mạnh tầm
quan trọng của nguyên tắc lỗi.
- Tính trái pháp luật hình sự: Bộ luật hình sự quy định “Chỉ người nào
phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chụi trách nhiệm hình
sự”. Hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ được coi là tội phạm nếu nó được quy
định trong luật hình sự. Như vậy, dấu hiệu được quy định trong Bộ luật hình sự
hay tính trái pháp luật hình sự là dấu hiệu biểu hiện hình thức pháp lý của hành
vi, nó đòi hỏi phải có hành vi bị coi là tội phạm thì phải chịu trách nhiệm hình
sự. Trong đời sống xã hội nếu có hành vi gây thiệt hại cho xã hội nhưng chưa
được quy định trong Bộ luật hình sự thì hành vi đó cũng không bị coi là tội
phạm.
- Tính phải chịu hình phạt: tính phải chịu hình phạt có nghĩa là bất cứ một
hành vi phạm tội nào cũng đều bị đe dọa phải chịu một hình phạt. Chỉ có hành vi
phạm tội mới phải chịu hình phạt, tội càng nghiêm trọng thì hình phạt áp dụng
càng nghiêm khắc.
Bốn dấu hiệu của tội phạm nêu trên quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó
tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi là những dấu hiệu biểu hiện mặt nội dung,
còn tính trái pháp luật hình sự, tính phải chịu hình phạt là những dấu hiệu biểu
hiện mặt hình thức của tội phạm.
3. Phân loại tội phạm
Theo quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015, tội phạm được phân loại như
sau:
- Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã
hội, mức cao nhất của khung hình phạt là 3 năm tù;
- Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội, mức
cao nhất của khung hình phạt là đến 7 năm tù.
- Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội,
mức cao nhất của khung hình phạt là đến 15 năm tù.
- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn
cho xã hội, mức cao nhất của khung hình phạt là trên 15 năm tù, tù chung thân
hoặc tử hình.
Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm
cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các
biện pháp khác.
4. Cấu thành tội phạm
Cấu thành tội phạm là tổng thể những dấu hiệu chung có tính đặc trưng
cho một loại tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự. Cấu thành tội
phạm là cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự và là căn cứ pháp lý để định tội
danh, các yếu tố cấu thành tội phạm bao gồm:

82
- Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị
tội phạm gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại ở mức độ đáng kể. Không có sự
xâm hại đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thì không có tội phạm.
- Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm diễn ra
hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Những biểu hiện (dấu hiệu) thuộc về
khách quan của tội phạm gồm có: hành vi nguy hiểm cho xã hội (thể hiện bằng
hành động hoặc không hành động); tính trái pháp luật của hành vi, hậu quả nguy
hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và
hậu quả. Ngoài ra còn có các dấu hiệu khác như: phương tiện, công cụ phạm tội,
phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm thực hiện tội phạm. Trong các dấu
hiệu nêu trên thì hành vi (khách quan) của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc, không
thể thiếu được của mọi loại tội phạm. Còn các dấu hiệu khác là những dấu hiệu
bắt buộc nếu điều luật về tội phạm cụ thể có quy định.
- Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội được luật hình sự quy định là tội phạm, có năng lực trách nhiệm
hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của luật hình sự.
Người phạm tội là công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không có
quốc tịch thường trú tại Việt Nam.
Năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng nhận thức và điều khiển hành vi
của người phạm tội. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là trường
hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi đang mắc bệnh tâm thần
hoặc mắc bệnh làm mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình.
Người phạm tội thuộc trường hợp này không phải chịu trách nhiệm hình sự mà
phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể
phải chịu trách nhiệm hình sự. Phạm tội trong trường hợp dùng rượu hoặc các
chất kích thích khác thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự: người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải
chịu trách nhiệm hình sự với những tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội
đặc biệt nghiêm trọng; người từ đủ 16 tuổi trở lên chịu trách nhiệm hình sự với
mọi loại tội phạm. Ngoài các dấu hiệu nói trên, chủ thể của một số tội phạm đòi
hỏi phải có thêm một số dấu hiệu đặc biệt khác vì chỉ khi có những dấu hiệu đó
chủ thể mới có thể thực hiện hành vi phạm tội của những tội đó (gọi là chủ thể
đặc biệt, ví dụ; quân nhân, người có chức vụ, quyền hạn…)
- Mặt chủ quan của tội phạm là những diễn biến tâm lý bên trong của tội
phạm, bao gồm: lỗi, mục đích và động cơ phạm tội. Bất cứ tội phạm cụ thể nào
cũng là hành vi được thực hiện một cách có lỗi, còn động cơ và mục đích phạm
tội là nội dung thuộc mặt chủ quan của một số loại tội nhất định. Lỗi có hai loại:
lỗi cố ý và lỗi vô ý.
Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau:

83
+ Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội;
thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả xảy ra.
+ Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
hội; thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra; tuy không mong muốn
nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau:
+ Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây nguy hại
cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa
được;
+ Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây nguy hại
cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
5. Trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự là sự phản ứng của Nhà nước đối với người thực
hiện tội phạm, thể hiện tập trung ở sự áp dụng hình phạt với chủ thể đó. Người
phạm tội phải gánh chịu những hậu quả bất lợi nhất định.
Trách nhiệm hình sự có những đặc điểm riêng khác với những dạng trách
nhiệm pháp lý khác, đó là:
- Cơ sở của trách nhiệm hình sự là cấu thành tội phạm. Không có tội
phạm thì không có trách nhiệm hình sự.
- Trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam là trách nhiệm cá nhân.
- Trách nhiệm hình sự là dạng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất, bởi
phương tiện thực hiện trách nhiệm hình sự là hình phạt.
6. Các chế định khác trong bộ luật hình sự
a. Phòng vệ chính đáng
Phòng vệ chính đáng là hành vi của một người vì bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người
khác, mà chống trả lại một cách tương xứng người đang có hành vi xâm phạm
các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá
mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải
chịu trách nhiệm hình sự.
b. Tình thế cấp thiết
Tình thế cấp thiết là tình thế của một người vì muốn tránh một nguy cơ
đang thực tế đe dọa lợi ích của nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích chính
đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là gây một
thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế
cấp thiết không phải là tội phạm. Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng là

84
vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách
nhiệm hình sự.
c. Chuẩn bị phạm tội
Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra
những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm. Người chuẩn bị phạm một
tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội định thực hiện.
d. Phạm tội chưa đạt
Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được
đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Người phạm
tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.
đ. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội
phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người phạm tội được miễn trách
nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ dấu hiệu
cấu thành một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
III. HÌNH PHẠT VÀ CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP
1. Khái niệm
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khác nhất của nhà nước nhằm
tước bỏ hoặc hạn chế quyền và lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy
định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án quyết định.
2. Mục đích
Mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn
giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và
các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình
phạt còn nhằm giáo dục, cải tạo người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh
phòng, chống và ngăn ngừa tội phạm.
3. Đặc điểm
Hình phạt là một trong những chế định quan trọng của Bộ luật hình sự, là
công cụ thực hiện trách nhiệm hình sự. Hình phạt có những đặc điểm sau:
- Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất; nó có thể
tước bỏ những quyền và lợi ích thiết thân của người bị kết án như: quyền tự do,
quyền về tài sản, quyền về chính trị, thậm chí cả quyền sống.
- Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước được quy định trong Bộ luật
hình sự và chỉ được áp dụng cho chính cá nhân người đã thực hiện tội phạm.
- Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước do Tòa án nhân dân nhân
danh nhà nước áp dụng đối với người phạm tội. Hình phạt do Tòa án quyết định
phải được tuyên bố công khai bằng một bản án và là kết quả của một phiên tòa
hình sự với các thủ tục được quy định trong Bộ luật hình sự.
85
- Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước đặc biệt bảo đảm cho Bộ
luật hình sự có thể thực hiện được nhiệm vụ bảo vệ, giáo dục.
4. Hệ thống hình phạt
Hệ thống hình phạt là tổng thể các hình phạt do nhà nước quy định trong
luật hình sự và được sắp xếp theo một trình tự nhất định tùy thuộc vào mức độ
nghiêm khắc của mỗi hình phạt.
Hệ thống hình phạt trong Bộ luật hình sự được sắp xếp theo thứ tự từ nhẹ
đến nặng và có tính đa dạng, cho phép trong mọi trường hợp đều thực hiện được
nguyên tắc công bằng, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt. Hệ thống hình phạt có
nội dung rất rõ ràng, kết hợp hài hòa các yếu tố cưỡng chế, thuyết phục và cũng
thể hiện rõ tính nhân đạo sâu sắc. Bộ luật hình sự phân chia hệ thống hình phạt
thành hai nhóm: hình phạt chính và hình phạt bổ sung.
- Hình phạt chính là hình phạt cơ bản được áp dụng cho một tội phạm và
được tuyên độc lập. Với mỗi tội phạm, tòa án chỉ có thể áp dụng một hình phạt
chính. Các hình phạt chính gồm có: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ,
trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình.
- Hình phạt bổ sung là hình phạt không được tuyên độc lập mà chỉ có thể
tuyên kèm theo hình phạt chính. Đối với một tội phạm, tòa án có thể tuyên một
hoặc nhiều hình phạt bổ sung nếu điều luật về tội phạm có quy định các hình
phạt này. Các hình phạt bổ sung gồm: cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm
những nghề, công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công
dân; tịch thu tài sản; phạt tiền và trục xuất (khi không áp dụng hình phạt chính).
Khác với hình phạt chính, hình phạt bổ sung được áp dụng không phải đối
với tất cả các loại tội phạm mà chỉ riêng cho một số loại tội phạm nhất định và
cũng không phải là hình phạt bổ sung được áp dụng kèm theo với bất kỳ loại
hình phạt chính nào. Trong hệ thống hình phạt Việt Nam, phạt tiền và trục xuất
là loại hình phạt duy nhất vừa có thể áp dụng là hình phạt chính vừa có thể là
hình phạt bổ sung. Các hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự có chức năng hỗ
trợ hình phạt chính, giúp cho tòa án áp dụng những biện pháp xử lý triệt để và
công bằng đối với người phạm tội, đạt được mục đích tối đa của hình phạt.
5. Các biện pháp tư pháp
Các biện pháp tư pháp là những biện pháp cưỡng chế hình sự được quy
định trong Bộ luật hình sự do Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng đối với người
thực hiện hành vi phạm tội hoặc có dấu hiệu của tội phạm trong các giai đoạn tố
tụng hình sự.
Các biện pháp tư pháp không phải là hình phạt nhưng nó cũng là những
biện pháp quan trọng vì các biện pháp này khi áp dụng có khả năng tác động, hỗ
trợ cho hình phạt hoặc trong nhiều trường hợp có thể thay thế cho hình phạt,
giúp cho việc xử lý người phạm tội.

86
Các biện pháp tư pháp bao gồm: Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến
tội phạm; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin
lỗi; bắt buộc chữa bệnh; giáo dục tại xã, phường hoặc đưa vào trường giáo
dưỡng (áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội).
6. Quyết định hình phạt
Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn một hình phạt cụ thể để áp
dụng đối với người phạm tội.
Việc Tòa án quyết định hình phạt đối với người phạm tội phải công minh
có căn cứ và đúng pháp luật. Điều này có ý nghĩa chính trị, xã hội và pháp lý rất
quan trọng, đồng thời là cơ sở pháp lý để thực hiện mục đích của hình phạt.
Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án
phải căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, căn cứ vào tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình
tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”.
Như vậy, theo quy định trên khi quyết định hình phạt, Tòa án bắt buộc
phải dựa vào các căn cứ sau:
- Các quy định trong phần chung và phần các tội phạm cụ thể của Bộ luật
hình sự;
- Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi;
- Nhân thân người phạm tội;
- Những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự;
- Những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
7. Các chế định liên quan đến chấp hành hình phạt
a. Thời hiệu thi hành bản án :
Thời hiệu thi hành bản án hình sự là thời hạn do Bộ luật hình sự quy định
mà khi hết thời hạn đó thì người bị kết án không phải chấp hành bản án đã
tuyên.
Thời hiệu này dài hay ngắn tùy thuộc vào loại và mức hình phạt đã tuyên
đối với người bị kết án, cụ thể như sau:
+ Năm năm đối với các trường hợp xử phạt tiền, cải tạo không giam giữ
hoặc xử phạt tù từ 3 năm trở xuống
+ Mười năm đối với các trường hợp xử phạt tù từ trên 3 năm đến 15 năm;
+ Mười lăm năm đối với các trường hợp xử phạt tù trên 15 năm đến 30
năm;
Thời hiệu thi hành bản án hình sự được tính từ ngày bản án có hiệu lực
pháp luật. Sau thời gian trên đây người bị kết án sẽ không bị buộc phải chấp
hành bản án nếu trong thời hạn luật định người này:
+ Không phạm tội mới và
+ Không trốn tránh việc thi hành án cũng như không bị truy nã

87
Nếu người bị kết án trong thời hạn trên không thỏa mãn các điều kiện này
thì thời hiệu thi hành bản án tính lại kể từ ngày phạm tội mới hoặc ngày ra trình
diện hoặc bị bắt giữ.
Đối với các trường hợp xử phạt tù chung thân hoặc tử hình, sau khi đã qua
15 năm, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải quyết định (áp dụng hay không
áp dụng thời hiệu) theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Trường hợp không áp dụng thời hiệu thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù
chung thân, tù chung thân được chuyển thành tù 30 năm.
Do tính chất đặc biệt nguy hiểm của các tội trong lĩnh vực an ninh quốc
gia đồng thời để phù hợp với pháp luật quốc tế, luật Hình sự quy định không áp
dụng các quy định về thời hiệu nói trên đối với các tội xâm phạm an ninh quốc
gia và các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh.
b. Miễn chấp hành hình phạt
Miễn chấp hành hình phạt là không buộc người bị kết án phải chấp hành
hình phạt mà Tòa án đã tuyên đối với họ (do lập công lớn; do mắc bệnh hiểm
nghèo, được đặc xã, đại xá… hoặc tội phạm có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng
chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự; người phạm tội tự thú, khai rõ sự
việc, góp phần có hiệu quả trong việc phát hiện, điều tra tội phạm).
c. Án treo
Theo Bộ luật hình sự Việt Nam, án treo không phải là hình phạt mà được
coi là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Theo Bộ luật hình sự
2015, điều kiện để được hưởng án treo là:
+ Án đã tuyên không quá 3 năm tù;
+ Nhân thân người bị kết án tương đối tốt;
+ Có nhiều tình tiết giảm nhẹ.
Người được hưởng án treo không phải chấp hành hình phạt tù mà phải
chịu một thời gian thử thách từ một năm đến năm năm, do tòa án quyết định
nhưng không thấp hơn hình phạt tù. Trong thời gian thử thách, Tòa án giao
người bị kết án cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc cư trú để giám
sát, giáo dục. Nếu trong thời gian thử thách lại phạm tội thì tòa án buộc họ phải
chấp hành hình phạt được tổng hợp của bản án trước với hình phạt của bản án
mới.

88
Chương 11
PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THAM NHŨNG


1. Khái niệm tham nhũng
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội gắn liền với sự ra đời, tồn tại và
phát triển của nhà nước. Tham nhũng là biểu hiện của sự tha hóa quyền lực nhà
nước. Hình thức, tính chất, mức độ và phương thức tham nhũng thay đổi tùy
thuộc vào bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia.
Khái niệm tham nhũng đã được sử dụng từ lâu nhưng cho đến nay vẫn có
nhiều cách hiểu khác nhau, chẳng hạn như:
Tài liệu hướng dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống
tham nhũng (năm 1969) định nghĩa: Tham những là sử dụng quyền lực nhà nước
để trục lợi riêng.
Ngân hàng Thế giới (World Bank) sử dụng khái niệm: Tham nhũng là sự
lạm dụng chức vụ công để tư lợi.
Ngân hàng phát triển Châu Á định nghĩa: Tham nhũng là lạm dụng chức
vụ công hoặc tư để tư lợi.
Ở Việt Nam, theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì “Tham
nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của”3.
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định: Tham nhũng là hành
vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi
(điều 1).
Cụ thể hóa khái niệm này, quy định chi tiết một số điều của luật phòng,
chống tham nhũng đã quy định cụ thể 12 hành vi tham nhũng, bao gồm:
- Tham ô tài sản.
- Nhận hối lộ.
- Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ
lợi.
- Lạm dụng quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi.
- Giả mạo trong công tác vì vụ lợi.
- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền
hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ
lợi.

3
Viện Ngôn ngữ học: từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2002, tr 910

89
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của nhà nước vì
vụ lợi.
- Nhũng nhiễu vì vụ lợi.
- Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm
pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
2. Các yếu tố đặc trưng của hành vi tham nhũng
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hành vi tham nhũng gồm những
yếu tố đặc trưng như sau:
a. Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn
Người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: cán bộ, công chức, viên chức; sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan
chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; cán bộ
lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người
đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại các doanh nghiệp; người được giao thực
hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.
Người có chức vụ, quyền hạn có những đặc điểm
- Là người được giữ chức vụ thường xuyên hoặc tạm thời trong cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội. Chức vụ này có thể do bổ nhiệm hoặc bầu cử, hợp
đồng hay hình thức ủy thác (ủy quyền, đại diện).
- Là người thực hiện một trong các chức năng: đại diện quyền lực nhà
nước, tổ chức, điều hành quản lý hành chính; hoặc tổ chức sản xuất kinh doanh
theo công vụ đã được giao cho họ.
- Là những người thực hiện trách nhiệm nhất định theo thẩm quyền
chuyên môm mà họ đảm nhận.
Những đặc điểm này của chủ thể có hành vi tham nhũng chính là yếu tố
gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xét xử hành vi tham nhũng.
b. Hành vi tham nhũng được thực hiện trên cơ sở lợi dụng chức vụ, quyền
hạn được giao
Khi thực hiện hành vi tham nhũng, người tham nhũng phải sử dụng chức
vụ, quyền hạn của mình như một phương tiện để mang lại lợi ích cho mình, cho
gia đình mình hoặc cho người khác. Đây là yếu tố cơ bản để xác định hành vi
tham nhũng. Người có chức vụ, quyền hạn có thể thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật vì vụ lợi nhưng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình thì đó
không phải là hành vi tham nhũng.
c. Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi

90
Hành vi tham nhũng là hành vi cố ý, mục đích của hành vi tham nhũng là
vụ lợi. Vụ lợi ở đây được hiểu là lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần mà người
có chức vụ, quyền hạn đã đạt được hoặc có thể đạt được thông qua hành vi tham
nhũng. Như vậy, trong hành vi tham nhũng, không bắt buộc chủ thể tham nhũng
phải đạt được lợi ích tại thời điểm thực hiện hành vi tham nhũng mà lợi ích này
có thể sẽ có trong tương lai.
Yếu tố vụ lợi cũng là một trong những tiêu chí để đánh giá tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi tham nhũng, để từ đó quyết định mức độ xử lý
tương ứng. Trên thực tế, việc xác định yếu tố lợi ích là vấn đề không đơn giản,
lợi ích vật chất thường thể hiện ở rất nhiều dạng khác nhau. Trong nhiều trường
hợp, lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần đan xen rất khó phân biệt.
3. Nguyên nhân của tham nhũng ở Việt Nam
a. Cơ chế quản lý và hệ thống chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện
- Hoạt động quản lý nhà nước chưa hiệu quả, pháp luật chưa hoàn thiện
Đây là một trong những nguyên nhân gây nên sự yếu kém và bất cập của
quá trình đổi mới đất nước, trong đó có tham nhũng. Ở nước ta, sự quản lý lãnh
đạo điều hành đất nước là sự thống nhất và phối hợp giữa vai trò lãnh đạo của
Đảng, trách nhiệm quản lý của Nhà nước và sự tham gia tích cực có hiệu quả
của các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể quần chúng. Các yếu tố trong hệ
thống chính trị phải thực hiện đúng vai trò của mình. Tuy nhiên sự chưa rõ ràng
trong phân cấp, phân công vai trò, chức năng hoạt động giữa các yếu tố trong hệ
thống chính trị đã phần nào làm giảm hiệu quả quản lý, lãnh đạo, điều hành xã
hội. Một số nơi, tổ chức Đảng đã ít nhiều can thiệp vào hoạt động quản lý nhà
nước, cơ quan nhà nước còn ỷ lại, thụ động chưa làm hết trách nhiệm của mình.
Một số tổ chức chính trị - xã hội còn lúng túng, không xác định được vai trò của
mình, chưa xây dựng chương trình hoạt động phù hợp. Thực tế còn tồn tại hiện
tượng chồng chéo, lẫn lộn về tổ chức và hoạt động của các yếu tố trong hệ thống
chính trị. Đó là những điều kiện thuận lợi để tham nhũng có thể xảy ra.
Bên cạnh đó, hệ thống chính sách, pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ,
thiếu cụ thể, có nhiều sơ hở, chưa đáp ứng được nhu cầu, chưa phản ánh và điều
chỉnh kịp thời những vấn đề đang đặt ra trong quá trình phát triển của xã hội.
Việc phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương, phân biệt quản lý nhà
nước và quản lý sản xuất kinh doanh có phần chưa rõ ràng. Quá trình cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước diễn ra chậm chạp và thiếu sự kiểm soát chặt chẽ.
Cơ chế quản lý tài sản chung, quản lý vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà
nước chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng “vô chủ”, thiếu trách nhiệm. Bộ máy nhà
nước còn cồng kềnh, cải cách hành chính chậm. Những nhược điểm đó làm nảy
sinh tệ quan liêu, tham nhũng và thiếu kỷ cương, tạo điều kiện cho tệ hối lộ,

91
biển thủ công quỹ, nhũng nhiễu cấp dưới và Nhân dân phát triển ngày một phổ
biến.
- Cải cách hành chính chậm và lúng túng, thủ tục hành chính phiền hà, bất
hợp lý. Cơ chế “xin-cho” được nhìn nhận là một trong những nguy cơ của tệ
tham nhũng, hối lộ chưa có cách khắc phục. Chế độ công vụ của cán bộ, công
chức thiếu cơ chế kiểm tra, giám sát có hiệu quả. Chế độ trách nhiệm của cán
bộ, công chức chưa rõ ràng, cụ thể, đặc biệt là trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo
đối với những sai phạm, tiêu cực xảy ra trong cơ quan, đơn vị mình. Chế độ tiền
lương đối với đội ngũ cán bộ, công chức còn bất hợp lý, chậm được cải cách.
Lương không đủ đảm bảo nhu cầu của cuộc sống dẫn đến tình trạng vì cuộc
sống của bản thân và gia đình, cán bộ, công chức thực hiện hành vi tham nhũng,
tiêu cực khi có điều kiện, cơ hội.
Thủ tục hành chính trong các lĩnh vực tuy đã được cải thiện song vẫn còn
rườm rà, khó thực hiện, tạo kẽ hở cho cán bộ, công chức, viên chức lợi dụng để
gây khó dễ, sách nhiễu người dân.
Người dân vẫn còn nhiều e ngại khi phải đến các cơ quan nhà nước để
làm các thủ tục như: xin giấy chứng nhận, xin giấy phép… thời gian chờ đợi kết
quả giải quyết các thủ tục hành chính còn kéo dài, việc giải quyết các thủ tục
hành chính theo cơ chế “một cửa”, một cửa liên thông còn chậm và manh mún.
Hiện tượng cán bộ, công chức lợi dụng để vòi vĩnh nhận tiền từ Nhân dân,
doanh nghiệp trong quá trình giải quyết các thủ tục hành chính vẫn còn tồn tại.
- Thiếu công khai, minh bạch, giải trình trong quản lý: Minh bạch thể
hiện quyền của người dân và cũng là điều kiện cần có để bộ máy nhà nước tiếp
thu trí tuệ của Nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ, để người dân giám sát hoạt
động của nhà nước. Sai phạm trong quản lý có thể bắt nguồn và được che đậy
bởi tình trạng thiếu công khai, minh bạch. Quy định của pháp luật hiện nay đã
có nhiều tiến bộ song chưa thực sự tạo ra bước ngoặt để công khai, minh bạch
được thực hiện đầy đủ trên các lĩnh vực quản lý, chưa thực sự tạo điều kiện cho
người dân giám sát hoạt động quản lý.
Cơ chế quản lý tài chính công, mua sắm công, quản lý đầu tư xây dựng cơ
bản trải qua nhiều khâu, nhiều “cửa”, kiểm soát lỏng lẻo tạo điều kiện nảy sinh
tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, thất thoát.
Trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền mới
chỉ được quy định trong hệ thống pháp luật, chưa phát huy tác dụng trong thực
tế công tác phòng, chống tham nhũng.
b. Phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức bị suy
thoái
Suy thoái tư tưởng chính trị đạo đức và lối sống của một bộ phận cán bộ,
công chức, viên chức, công tác quản lý giáo dục cán bộ, công chức, viên chức

92
chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội là một nguyên nhân chủ yếu của
vấn nạn tham nhũng. Khi đã có chức vụ, quyền hạn, nguy cơ tham nhũng luôn
tiềm tàng trong họ nếu họ không có đủ bản lĩnh, không có đủ phẩm chất để
thắng được những cám dỗ của những lợi ích vật chất và kèm theo đó là sự quản
lý lỏng lẻo của nhà nước thì họ sẽ dễ dàng lợi dụng chức vụ, quyền hạn để giành
lấy lợi ích cho riêng mình.
Công tác tuyển dụng, quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ của chúng ta trong
nhiều trường hợp không đúng với năng lực, phẩm chất và chưa đi đôi với bồi
dưỡng, đào tạo, nên không ít cán bộ yếu kém cả về trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ và phẩm chất chính trị. Công tác giáo dục, quản lý, kiểm tra cán bộ, công
chức, viên chức đôi khi buông lỏng. Cơ chế thị trường bên cạnh những mặt tích
cực cũng bộc lộ những điểm tiêu cực mà nếu công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng không tốt, quản lý không chặt, nếu cán bộ, công chức, viên chức không tự
giác rèn luyện, tu dưỡng mà chạy theo lợi ích vật chất thì dễ ràng bị cám dỗ, dẫn
đến vi phạm pháp luật, tham nhũng.
Chế độ tiền lương đã bước đầu được cải cách nhưng vẫn chưa đảm bảo
nhu cầu cuộc sống của nhiều cán bộ, công chức, làm cho họ dễ phát sinh tiêu
cực, tham nhũng khi có điều kiện, cơ hội. Tiền lương thấp cộng với áp lực của
các nhu cầu sinh hoạt của bản thân, gia đình trong nền kinh tế thị trường khiến
cho một bộ phận cán bộ, công chức không giữ vững được phẩm chất đạo đức
nên đã có hành vi tham nhũng.
c. Ảnh hưởng của tập quán văn hóa
Từ ngàn đời xưa, hiện tượng tham nhũng của quan lại thời phong kiến đã
bị lên án nhưng trong tâm lý xã hội của người Á Đông nói chung và người Việt
Nam nói riêng vẫn có rất nhiều khía cạnh khiến cho tệ tham nhũng mà biểu hiện
tập trung nhất là nạn quà cáp hối lộ có cơ sở tồn tại và phát triển. Chuyện biếu
quà cáp được coi là một nét văn hóa của người Việt. Mỗi khi gặp gỡ để nhờ vả
trong dân gian cũng như trong hoạt động quan trường thì quà cáp dường như là
điều đương nhiên và được chấp nhận dễ dàng. Tập quán “miếng trầu là đầu câu
chuyện” cho đến nay vẫn tồn tại và bị lợi dụng thành việc mua bán, hối lộ; đạo
lý “ăn quả nhớ người trồng cây” và chuyện “ơn nghĩa”, không chỉ ‘biết ơn”,
“nhớ ơn” mà phải “đền ơn”, “đáp nghĩa” bị bóp méo ý nghĩa truyền thống tốt
đẹp và trở thành nội dung mang ý nghĩa “đổi chác” về mặt lợi ích. Những yếu tố
này khiến cho tham nhũng khó phát hiện và xử lý hơn, ảnh hưởng không nhỏ
đến hiệu quả, hiệu lực của công tác phòng, chống tham nhũng.
d. Công tác phòng, chống tham nhũng chưa hiệu quả
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phòng, chống tham nhũng trong
một số trường hợp chưa chặt chẽ, sâu sát, thường xuyên; nhiều cấp ủy đảng, cơ
quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập chưa đề cao trách nhiệm của người

93
đứng đầu, chưa có kế hoạch, giải pháp để đấu tranh phòng, chống tham nhũng;
nhiều vụ án tham nhũng xử lý chậm, xử lý chưa nghiêm làm ảnh hưởng không
nhỏ đến hiệu quả, hiệu lực của cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
- Thiếu các công cụ phát hiện và xử lý tham nhũng: Hiện nay các vụ việc
tham nhũng được phát hiện chủ yếu qua hoạt động điều tra, thanh tra, kiểm toán,
giám sát và giải quyết tố cáo. Tuy nhiên, cơ chế phối hợp của các cơ quan trên
còn có những hạn chế; nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan chưa phát huy hết
vai trò trong phát hiện và xử lý tham nhũng.
Về pháp luật, chúng ta chưa có những quy định cho phép các cơ quan
chức năng áp dụng các biện pháp điều tra đặc biệt để có thể phát hiện các hành
vi tham nhũng; bên cạnh đó việc thu thập chứng cứ để chứng minh hành vi tham
nhũng là rất khó khăn, nhất là đối với hành vi nhận hối lộ.
Chế định kê biên tài sản của cán bộ, công chức, viên chức còn mang tính
hình thức, một phần do chế độ quản lý tiền tệ và thanh toán qua ngân hàng chưa
hiệu quả; mặt khác, việc quản lý tài sản là nhà, đất ở nước ta rất khó thực hiện vì
nhiều lý do khách quan mang tính lịch sử để lại, thiếu cơ quan chủ trì, tổng hợp,
kiểm tra, xử lý việc thực hiện không nghiêm chế định kê khai tài sản.
- Các tổ chức xã hội chưa thực sự tham gia tích cực vào công tác phòng,
chống tham nhũng. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên chưa phát huy
hết vai trò giám sát và phản biện xã hội. Các doanh nghiệp và hiệp hội doanh
nghiệp chưa thực sự quan tâm xây dựng môi trường kinh doanh không có tham
nhũng. Báo chí mới chỉ đấu tranh phòng, chống tham nhũng bằng việc phê phán
những hành vi tiêu cực mà chưa coi trọng việc truyền đạt kịp thời những chủ
trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước, những
gương người tốt, việc tốt, sáng kiến hay, những hoạt động lành mạnh, những
thông tin tích cực, biểu dương cổ vũ, động viên đến toàn xã hội.
Về phía người dân, mặc dù đã có những cá nhân điển hình trong tố cáo
chống tham nhũng nhưng trên thực tế còn không ít người lo ngại, chưa dám lên
án mạnh mẽ hành vi tham nhũng.
4. Tác hại của tham nhũng
Tham nhũng có thể gây ra rất nhiều hậu quả nghiêm trọng trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngày nay, tác hại của tham nhũng đã trở thành mối
lo ngại có tính toàn cầu. Ở Việt Nam, tác hại của tham nhũng được coi là một
nguy cơ gây mất ổn định về chính trị, thiệt hại lớn cho sự phát triển kinh tế và
làm xói mòn niềm tin của nhân dân, đạo đức xã hội bị xuống cấp, làm đảo lộn
trật tự quản lý nhà nước, cụ thể:
a. Tác hại về chính trị
Tham nhũng là một trong những nguy cơ lớn gây mất ổn định chính trị, đe
dọa sự tồn vong của chế độ. Tham nhũng đang làm xói mòn lòng tin của Nhân

94
dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, làm giảm hiệu lực quản lý của nhà nước và
cản trở sự nghiệp xây dựng đất nước. Tác hại về chính trị của tham nhũng được
Đảng và Nhà nước nhiều lần đề cập trong nhiều hội nghị cấp cao và văn bản
quan trọng liên quan đến công tác xây dựng Đảng và nâng cao năng lực quản lý
nhà nước. Chiến lược Quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 chỉ rõ:
tham nhũng đang gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút long tin của Nhân
dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước, tiềm ẩn các xung đột
về lợi ích, phản kháng về xã hội, làm tăng thêm khoảng cách giầu nghèo. Tham
nhũng trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc đổi mới, cho sức
chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ.
b. Tác hại về kinh tế
Ở nước ta, nhiều vụ tham nhũng lớn được phát hiện trong thời gian qua
chủ yếu liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và gây
thiệt hại về kinh tế với giá trị rất lớn (vụ Lã Thị Kim Oanh, nguyên giám đốc
công ty Tiếp thị và thương mại nông nghiệp thuộc bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn; vụ tham nhũng tại Tổng công ty hàng hải Việt Nam- Vinalines; vụ
tham nhũng tại tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam – Vinasihin…). Những
thiệt hại về kinh tế của tham nhũng không chỉ lớn bởi số tiền và tài sản mà còn
lớn hơn: gây thiệt hại cho cả một ngành kinh tế, thậm chí cả một nền kinh tế, tác
động tiêu cực đến môi trường kinh doanh, làm thất thoát, lãng phí tiền, tài sản
của nhà nước, kìm hãm sự phát triển kinh tế.
c. Tác hại về xã hội
- Tham nhũng làm suy thoái về tư tưởng, chính trị và phẩm chất đạo đức,
lối sống của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên.
- Tham nhũng làm sói mòn các giá trị đạo đức xã hội: sự hiện diện của
tham nhũng làm cho nhiều truyền thống, phong tục tốt đẹp của dân tộc như: “
tôn sư trọng đạo”, “ăn quả nhớ người trồng cây”, ‘lương y như từ mẫu”… bị lợi
dụng để thực hiện hành vi tham nhũng, làm phai nhạt những chuẩn mực đạo
đức, những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
- Tham nhũng gây ra các xung đột về lợi ích, phản kháng xã hội, làm tăng
khoảng cách giầu, nghèo và bất công trong xã hội.
II. CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
1. Các giải pháp phòng ngừa tham nhũng
a. Công khai minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Công khai minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị nhằm
tạo điều kiện để người dân và toàn xã hội tham gia giám sát hoạt động của cơ
quan nhà nước, qua đó người dân dễ dàng nhận biết và chủ động thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình và đòi hỏi cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà
nước thực hiện các quy định theo pháp luật; đồng thời cán bộ, công chức có ý

95
thức trách nhiệm hơn trong việc thực hiện chức trách, công vụ của mình theo
đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền do pháp luật quy định.
- Nội dung công khai minh bạch trong một số lĩnh vực cụ thể:
+ Công khai minh bạch trong mua sắm công và xây dựng cơ bản; quản lý
dự án đầu tư xây dựng; tài chính và ngân sách nhà nước
+ Công khai minh bạch việc huy động và sử dụng các khoản đóng góp
của nhân dân; việc quản lý và sử dụng các khoản hỗ trợ, viện trợ
+Công khai minh bạch trong quản lý doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước
+ Công khai minh bạch trong kiểm toán việc sử dụng ngân sách, tài sản
của nhà nước
+ Công khai minh bạch trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường; đất đai;
quản lý, sử dụng nhà ở
+ Công khai minh bạch trong lĩnh vực giáo dục, y tế, khoa học công nghệ,
thể dục thể thao, văn hóa thông tin truyền thông, nông nghiệp và phát triển nông
thôn; thực hiện chính sách an sinh xã hội; thực hiện chính sách dân tộc
+ Công khai minh bạch trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo, kiểm toán nhà nước, tư pháp
+ Công khai minh bạch trong công tác tổ chức - cán bộ
- Hình thức công khai
+ Công bố tại cuộc họp cơ quan, tổ chức, đơn vị
+ Niêm yết công khai tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
+ Thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan;
+ Phát hành ấn phẩm
+ Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
+ Đưa lên trang thông tin điện tử;
+ Cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức.
b. Trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước
Khi có yêu cầu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải giải trình về quyết
định, hành vi của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao
trước cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lợi ích hợp phápbị tác động trực tiếp
bởi quyết định, hành vi đó.
Cụ thể hóa quy định trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định quy định về
trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước, quy định điều kiện cụ thể tiếp nhận
giải trình; quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu giải trình và người giải trình; trình
tự, thủ tục giải trình…
Theo các quy định trên các chủ thể thực hiện giải trình là:

96
+ Các cơ quan có trách nhiệm giải trình gồm: các cơ quan hành chính nhà
nước, các đơn vị sự nghiệp công lập và người có thẩm quyền trong việc thực
hiện trách nhiệm giải trình.
+ Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu giải trình gồm: cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, tổ
chức kinh tế, các tổ chức nước ngoài được thành lập và hoạt động hợp pháp tại
Việt Nam, công dân Việt Nam, người nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt
Nam.
c. Xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn
Chế độ, định mức tiêu chuẩn trong các lĩnh vực quản lý luôn liên quan
đến việc sử dụng tài sản, vốn và ngân sách nhà nước. Việc thực hiện một cách
tùy tiện và trái phép các tiêu chuẩn, chế độ định mức dẫn đến tài sản của nhà
nước bị thất thoát, tiền bạc, lợi ích vật chất rơi vào một số ít người, thực chất đó
là sự hưởng lợi bất chính của những người có chức vụ, quyền hạn. Đây chính là
hành vi tham nhũng cần phải ngăn chặn.
Thông thường có hai loại tiêu chuẩn, chế độ, định mức:
Một là, các chế độ, định mức, tiêu chuẩn về lợi ích, nhất là các chế độ đối
với người có chức vụ lãnh đạo, quản lý như: chế độ phục vụ, chế độ dùng xe
công, tiêu chuẩn dùng điện thoại…
Hai là, các chế độ, định mức, tiêu chuẩn có tính chất chuyên môn – kỹ
thuật. Đó là những quy định để bảo đảm chất lượng các công trình hoặc công
việc nào đó, với những yêu cầu chính xác cao về kỹ thuật về quy trình thực hiện,
về thời gian, về nguyên vật liệu.
- Nguyên tắc xây dựng, ban hành và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu
chuẩn được quy định: Các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-
xã hội, các đơn vị sự nghiệp có sử dụng ngân sách nhà nước, trong phạm vi
quyền hạn của mình có trách nhiệm xây dựng, ban hành công khai các chế độ,
định mức, tiêu chuẩn về quyền lợi đối với từng loại chức danh trong cơ quan
mình; chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn;
nghiêm cấm các cơ quan, tổ chức, đơn vị ban hành các chế độ, tiêu chuẩn, định
mức trái pháp luật.
- Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thường xuyên kiểm tra việc chấp hành và
xử lý kịp thời hành vi vi phạm pháp luật
d. Quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, việc chuyển đổi vị trí công
tác của cán bộ, công chức, viên chức
- Quy tắc ứng xử là các chuẩn mực xử sự của cán bộ, công chức, viên
chức trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ và trong quan hệ xã hội, bao gồm
những việc phải làm, hoặc không được làm, phù hợp với đặc thù công việc của
từng nhóm cán bộ, công chức, viên chức và từng lĩnh vực hoạt động công vụ,

97
nhằm đảm bảo sự liêm chính và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức.
Quy tắc ứng xử phải được công khai để Nhân dân giám sát việc chấp hành.
- Quy tắc đạo đức nghề nghiệp là chuẩn mực xử sự phù hợp với đặc thù
của từng nghề bảo đảm sự liêm chính, trung thực và trách nhiệm trong việc hành
nghề.
Luật phòng, chống tham nhũng quy định: tổ chức xã hội - nghề nghiệp
phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành quy tắc đạo đức nghề
nghiệp đối với hội viên của mình theo quy định của pháp luật.
- Vấn đề chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức: Cơ
quan, tổ chức, đơn vị theo thẩm quyền quản lý có trách nhiệm thực hiện việc
định kỳ chuyển đổi cán bộ, công chức, viên chức làm việc tại một số vị trí liên
quan đến việc quản lý ngân sách, tài sản của nhà nước, trực tiếp tiếp xúc và giải
quyết các công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân nhằm chủ động phòng
ngừa tham nhũng.
đ. Minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
Theo quy định luật phòng, chống tham nhũng, không phải mọi cán bộ,
công chức đều phải có nghĩa vụ kê khai tài sản, mà chỉ cán bộ, công chức có
chức vụ từ phó trưởng phòng của cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
trở lên hoặc tương đương trong các cơ quan, tổ chức đơn vị và cán bộ, công
chức làm tại một số vị trí nhất định theo quy định của Chính phủ.
- Người có nghĩa vụ kê khai tài sản có trách nhiệm:
+ Kê khai trung thực, đầy đủ, rõ ràng, đúng thời hạn các thông tin về số
lượng, giá trị tài sản, thu nhập và những biến động về tài sản;
+ Giải trình trung thực, đầy đủ, kịp thời về các nội dung liên quan đến
việc kê khai tài sản, thu nhập, nguồn gốc tài sản tăng thêm khi có yêu cầu của cá
nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
+ Thực hiện đầy đủ, kịp thời các yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền phục vụ cho việc xác minh tài sản, thu nhập.
+ Thực hiện quyết định xử lý vi phạm quy định về minh bạch tài sản, thu
nhập của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
- Tài sản phải kê khai bao gồm:
+ Nhà, quyền sử dụng đất;
+ Kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá trị và các loại tài sản khác có
giá trị từ 50 triệu đồng trở lên;
+ Tài sản, tài khoản ở nước ngoài;
+ Thu nhập phải chịu thuế theo quy định của pháp luật.
- Bản kê khai tài sản phải được công khai tại tại nơi thường xuyên làm
việc của người có nghĩa vụ kê khai trong khoảng thời gian từ 01 tháng 01 đến 31

98
tháng 3 hàng năm dưới hình thức công bố tại cuộc họp hoặc niêm yết tại trụ sở
làm việc của người có nghĩa vụ kê khai.
e. Chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để
xảy ra tham nhũng
Luật phòng, chống tham nhũng hiện hành quy định: Người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị phải chịu trách nhiệm về việc để xảy ra hành vi tham
nhũng trong cơ quan tổ chức do mình phụ trách.
Tùy từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào tính chất, mức độ của vụ việc mà
xác định mức độ trách nhiệm của người đứng đầu và cấp phó của người đứng
đầu có trường hợp họ phải chịu trách nhiệm trực tiếp (xử lý kỷ luật hoặc bị truy
cứu trách nhiệm hình sự), có trường hợp thì liên đới chịu trách nhiệm (xử lý kỷ
luật).
Người lãnh đạo, quản lý được loại trừ trách nhiệm trong trường hợp bất
khả kháng, những hành vi tham nhũng vượt ra ngoài khả năng kiểm soát, họ
không thể biết được hoặc đã áp dụng các biện pháp cần thiết để phòng ngừa
ngăn chặn nhưng hành vi tham nhũng vẫn xảy ra.
Người lãnh đạo, quản lý được miễn, giảm trách nhiệm pháp lý trong
trường hợp đã thực hiện những biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn, khắc phục
hậu quả, xử lý nghiêm minh, báo cáo kịp thời với cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền về hành vi tham nhũng.

f. Cải cách hành chính, đổi mới công nghệ quản lý và phương thức thanh
toán nhằm phòng ngừa tham nhũng
Để góp phần phòng ngừa tham nhũng, luật Phòng, chống tham nhũng quy
định: Nhà nước thực hiện cải cách hành chính nhằm tăng cường tính độc lập và
tự chịu trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị; đẩy mạnh việc phân cấp quản
lý nhà nước giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa
phương; phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan nhà nước; công
khai, đơn giản hóa và hoàn thiện thủ tục hành chính; quy định cụ thể trách
nhiệm của từng chức danh trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
- Tăng cường, cải tiến công tác áp dụng khoa học - công nghệ trong hoạt
động cải cách hành chính, hướng dẫn trình tự, thủ tục giải quyết công việc để
công dân, cơ quan, tổ chức chủ động thực hiện mà không phải trực tiếp tiếp xúc
với cán bộ, công chức, viên chức.
- Áp dụng các biện pháp quản lý để thực hiện việc thanh toán thông qua
tài khoản tại kho bạc, ngân hàng nhà nước; tiến tới thực hiện mọi khoản chi đối
với người có chức vụ, quyền hạn… và các giao dịch khác có sử dụng ngân sách
nhà nước phải thông qua tài khoản.

99
2. Các giải pháp phát hiện tham nhũng
a. Phát hiện tham nhũng thông qua công tác kiểm tra của cơ quan quản lý
nhà nước
Kiểm tra là một hoạt động không thể thiếu trong quản lý nhà nước. Các
hành vi tham nhũng có thể diễn ra trong mọi hoạt động quản lý. Vì vậy, công tác
kiểm tra của các cơ quan quản lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát
hiện các vụ việc tham nhũng.
Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành quy định: thủ trưởng cơ quan
quản lý nhà nước có trách nhiệm thường xuyên tổ chức kiểm tra việc chấp hành
pháp luật của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của mình;
người đứng đầu các đơn vị, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm chủ động kiểm tra
việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức do mình
quản lý. Tùy từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào tính chất, mức độ của vụ việc
mà có thể xử lý theo thẩm quyền hoặc thông báo cho các cơ quan chức năng xử

b. Phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động kiểm tra, kiểm toán, điều tra,
xét xử, giám sát
Hoạt động kiểm tra, kiểm toán, điều tra, xét xử, giám sát là những hoạt
động chính trong việc phát hiện và xử lý tham nhũng. Các cơ quan thanh tra,
điều tra, kiểm toán, xét xử có trách nhiệm chủ động phát hiện hành vi tham
nhũng, xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị việc xử lý theo quy định của pháp
luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
c. Tố cáo và giải quyết tố cáo về hành vi tham nhũng
Luật Phòng, chống tham nhũng quy định:
Công dân có quyền tố cáo hành vi tham nhũng với cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền bằng các hình thức: tố cáo trực tiếp, tố cáo qua điện thoại,
gửi đơn tố cáo,tố cáo qua mạng thông tin điện tử.
Cơ quan, tổ chức và những người có thẩm quyền tiếp nhận và giải quyết
tố cáo; giữ bí mật họ tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin khác theo yêu cầu của
người tố cáo; áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người tố cáo khi có biểu
hiện đe dọa, trả thù, trù dập người tố cáo, thông báo kết quả giải quyết tố cáo
cho người tố cáo biết.
III. XỬ LÝ NGƯỜI CÓ HÀNH VI THAM NHŨNG, CÁC
HÀNH VI THAM NHŨNG VÀ TÀI SẢN THAM NHŨNG
1. Xử lý các hành vi tham nhũng
- Đối tượng bị xử lý
+ Người có hành vi tham nhũng;
+ Người không báo cáo, tố giác khi biết được hành vi tham nhũng;
+ Người không xử lý báo cáo, tố giác, tố cáo hành vi tham nhũng;
100
+ Người có hành vi đe dọa, trả thù, trù dập người phát hiện, tố cáo, cung
cấp thông tin;
+ Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để sảy ra hành vi tham nhũng;
- Hình thức xử lý: Khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch, cách
chức, buộc thôi việc. Nếu hành vi vi phạm đến mức độ nguy hiểm cao, gây thiệt
hại lớn về tiền và tài sản của Nhà nước thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
quy định của pháp luật.
2. Xử lý tài sản tham nhũng
Pháp luật hiện hành quy định: tài sản tham nhũng phải được thu hồi, tịch
thu, trả lại cho chủ sở hữu, quản lý hợp pháp hoặc sung công quỹ nhà nước.
Người đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi hành vi đưa hối lộ bị phát hiện
thì được trả lại tài sản đã dùng để hối lộ. Đối với những tài sản tham nhũng có
yếu tố nước ngoài thì trên cơ sở điều ước Quốc tế mà Việt Nam là thành viên,
Chính phủ Việt Nam hợp tác với Chính phủ nước ngoài trong việc thu hồi tài
sản của Việt Nam hoặc của nước ngoài bị tham nhũng và trả lại tài sản đó cho
chủ sở hữu hợp pháp.
IV. VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA XÃ HỘI TRONG PHÒNG,
CHỐNG THAM NHŨNG
Tham nhũng là căn bệnh của bộ máy nhà nước, đồng thời đó cũng là một
tệ nạn xã hội cần bài trừ, lên án. Chống tham nhũng không chỉ là nhiệm vụ của
Đảng, Nhà nước mà là của toàn xã hội. Vai trò của xã hội trong công tác này
xuất phát từ chức năng giám sát, phản biện của xã hội đối với mọi hoạt động của
cơ quan nhà nước, xuất phát từ bản chất nhà nước “của dân, do dân, vì dân”.
Hoạt động của bộ máy nhà nước và của từng cán bộ, công chức được đảm bảo
từ ngân sách nhà nước, hình thành nên từ sự đóng góp thuế của các thành viên
trong xã hội. Vì vậy, xã hội cần giám sát, phản ánh, đòi hỏi phải xử lý nghiêm
minh mọi hành vi tham nhũng.
Luật phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành đề cao
vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên,
báo chí, doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề, ban thanh tra nhân dân và công
dân… những quy định này đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng để bảo đảm, nâng
cao vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng. Cụ thể:
1. Vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên trong phòng, chống tham nhũng
Luật phòng, chống tham nhũng quy định:
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có trách nhiệm
phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền truyên truyền, giáo dục Nhân
dân và các thành viên trong tổ chức của mình thực hiện các quy định của pháp

101
luật về phòng, chống tham nhũng; kiến nghị các biện pháp nhằm phát hiện và
phòng ngừa tham nhũng.
- Động viên Nhân dân tham gia tích cực vào việc phát hiện, tố cáo hành vi
tham nhũng.
- Cung cấp thông tin và phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền trong việc phát hiện, xác minh, xử lý vụ việc tham nhũng.
- Giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có quyền yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp phòng ngừa, xác
minh, xử lý vụ việc tham nhũng; cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải
xem xét trả lời trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu; trường
hợp phức tạp thời hạn trên có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày.
2. Vai trò và trách nhiệm của báo chí trong phòng, chống tham nhũng
- Nhà nước khuyến khích cơ quan báo chí, phóng viên đưa tin phản ánh
về vụ việc tham nhũng và hoạt động phòng, chống tham nhũng.
- Cơ quan báo chí có trách nhiệm hợp tác với cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền trong công tác phòng, chống tham nhũng; khi đưa tin phải đảm bảo
trung thực, chính xác, khách quan và phải chịu trách nhiệm về nội dung của
thông tin đã đưa.
- Cơ quan báo chí có trách nhiệm biểu dương tinh thần và những việc làm
tích cực trong công tác phòng, chống tham nhũng; lên án đấu tranh với những
người có hành vi tham nhũng; tham gia phổ biến tuyên truyền pháp luật về
phòng, chống tham nhũng.
3. Vai trò trách nhiệm của doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề trong phòng,
chống tham nhũng
Luật phòng, chống tham nhũng quy định
- Doanh nghiệp có trách nhiệm thông báo về hành vi tham nhũng và phối
hợp với cơ quan, tổ chức, các nhân có thẩm quyền trong việc xác minh, kết luận
về hành vi tham nhũng.
- Hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm tổ chức,
động viên, khuyến khích hội viên của mình xây dựng văn hóa kinh doanh lành
mạnh, phi tham nhũng.
- Hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề và hội viên có trách nhiệm
kiến nghị với nhà nước hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý nhằm phòng,
chống tham nhũng.
- Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh, có cơ
chế kiểm soát nội bộ ngăn chặn hành vi tham ô, đưa hối lộ.
4. Trách nhiệm của công dân và ban thanh tra nhân dân
Công dân có trách nhiệm:

102
- Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về phòng, chống tham nhũng;
- Lên án, đấu tranh với những người có hành vi tham nhũng;
- Phản ánh với ban Thanh tra nhân dân, với tổ chức mà mình là thành viên
về hành vi tham nhũng, vụ việc tham nhũng để ban Thanh tra nhân dân và tổ
chức đó kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo
quy định của pháp luật;
- Cộng tác với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc xác
minh vụ việc tham nhũng khi được yêu cầu;
- Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện cơ chế, chính sách pháp luật về phòng, chống tham nhũng; góp ý kiến với
cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc xây dựng các văn bản pháp luật về
phòng, chống tham nhũng.
Ban Thanh tra nhân dân có quyền
- Đề nghị Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn, người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh
nghiệp nhà nước cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc giám sát.
- Trường hợp phát hiện vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, người có hành vi
tham nhũng thì ban Thanh tra nhân dân kiến nghị Chủ tịch Hội đồng nhân dân,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân, xã phường, thị trấn, người đứng đầu cơ quan nhà
nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền xem xét, giải quyết.
- Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị, cơ quan, tổ
chức, cá nhân có trách nhiệm xem xét, giải quyết và thông báo kết quả giải
quyết cho ban thanh tra nhân dân. Trường hợp kiến nghị không được xem xét,
giải quyết hoặc thực hiện không đầy đủ thì ban Thanh tra nhân dân có quyền
kiến nghị Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận,
thị xã thuộc tỉnh hoặc kiến nghị cấp trên trực tiếp của người đứng đầu cơ quan
nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền khác xem xét, giải quyết.

Định hướng nghiên cứu bài


1. Nguyên nhân, tác hại của vấn đề tham nhũng tại Việt Nam hiện nay. Ví dụ
minh họa.
2. Các giải pháp phòng ngừa tham nhũng. Ý kiến cá nhân về các giải pháp này.
3. Các giải pháp phát hiện tham nhũng. Ý kiến cá nhân về vấn đề này.
4. Xác định vai trò của xã hội trong công tác phòng, chống tham nhũng, liên hệ .
Vai trò của cá nhân trong công tác phòng, chống tham nhũng?

103
104
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
2. Bộ luật dân sự 2015
3. Bộ luật lao động 2012
4. Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017
5. Luật đất đai 2013
6. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Giáo trình lý luận về nhà
nước và pháp luật, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội
7. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình lý luận về nhà nước và
pháp luật, NXB Tư pháp
8. Ths. Nguyễn Hợp Toàn (chủ biên) (2008), Giáo trình Pháp luật đại
cương, NXB Đại học Kinh tế quốc dân
9. Ths. Lê Minh Toàn (chủ biên) (2011), Giáo trình Pháp luật đại cương,
NXB Chính trị quốc gia.
10. TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy (chủ biên) (2009), Giáo trình Pháp luật
đại cương, NXB Giáo dục Việt Nam.
11. Viện ngôn ngữ học (2002), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng
12. Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách khoa, 1999
13. Lê Minh Tâm (2003), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Công an nhân dân, Hà Nội
14. Lê Minh Quân (2003), Xây dựng Nhà nước pháp quyền đáp ứng yêu
cầu phát triển đất nước theo định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, NXB
Chính trị quốc gia
15. Thanh tra chính phủ (2013), Tài liệu bồi dưỡng, tập huấn về phòng,
chống tham nhũng, NXB Chính trị Quốc gia
16. Thanh tra chính phủ (2013), Tài liệu tham khảo về phòng chống tham
nhũng, NXB Chính trị quốc gia – sự thật.

105

You might also like