You are on page 1of 17

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA QUẢN TRỊ
Lớp Quản trị kinh doanh 44A1

BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI


Bộ môn: Hợp đồng dân sự và Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng.
Nhóm: 02
Thành viên:

STT Họ và Tên MSSV


1 Đào Ngọc Hải Anh 1953401010004
2 Trần Hà Anh 1953401010010
3 Nguyễn Tấn Bảo 1953401010011
4 Trương Đình Bảo 1953401010012
5 Nguyễn Hồng Diệp 1953401010023
6 Nhữ Hải Dương 1953401010027
7 Nguyễn Lê Cẩm Giang 1953401010032
8 Lê Thị Hà 1953401010033
9 Lê Thu Hà 1953401010034
10 Lý Thế Hồng 1953401010046

1
MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1……………………………..……………………………..………………..4
Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án đối với 3 vấn đề
trên…………………………………………………..........……………………………4
VẤN ĐỀ 2…………………………………………………………..…………………6
Tóm tắt Án lệ số 04/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao……………………………..………………………………………………6
2.1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong giao
kết hợp
đồng?...............................................................................................................................7
2.2. Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận hợp đồng chuyển
nhượng trong tình huống trên có thuyết phục không? Vì sao?.......................................8
VẤN ĐỀ 3…………………………………………………………..…………………9
Tóm tắt tình huống……………………………………………………………………..9
3.1. Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa BLDS 2015 và
BLDS 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu…………………………………..……..9
3.2. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do đối tượng không thể thực
hiện được được xác định như thế nào? Vì sao?............................................................10
3.3. Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp trên vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện
được có thuyết phục không? Vì sao?............................................................................11
VẤN ĐỀ 4……………………………………………………..……………………..12
Tóm tắt bản án số 06/2017/DS-ST ngày 17/01/2017 của Tòa án nhân dân Thành phố
Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương…………………………………………..……..……12
Tóm tắt Quyết định số 259/2014/DS-GĐT ngày 16/06/2014 của Tòa án dân sự Tòa án
nhân dân tối cao…………………………………………………………….…….….12
Đối với vụ việc thứ nhất…………...………………………………………….……..12
4.1.1. Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?........................................................12
4.1.2. Đoạn nào của Quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp đồng?
Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích gì?................................................13
4.1.3. Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che
giấu……14
4.1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và hợp
đồng bị che giấu………………………………………………………..……………..13
Đối với vụ việc thứ hai………………………………………………………………14
4.2.1. Vì sao Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh và vợ chồng ông
Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu?..............................14
4.2.2. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án (giả tạo để trốn tránh
nghĩa vụ)?.....................................................................................................................14
4.2.3. Cho biết hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm trốn
tránh nghĩa vụ………………………………………………………………….……..15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………..…16
VẤN ĐỀ 01

Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.

- Tình huống:
Chủ thể: A (pháp nhân), B (cá nhân), C (cá nhân) và D.
Tranh chấp: về sự tồn tại của Hợp đồng
Lý do tranh chấp: C không thừa nhận đã nhận được chấp nhận đề nghị giao kết của
D.
Hướng giải quyết của TA: (1) bên đề nghị chưa nhận được chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng theo quy định của Điều 400 BLDS 2015; (2) chấp nhận chưa được
thực hiện trong thời hạn hợp lý theo quy định của Điều 394 BLDS 2015 và (3) chấp
nhận trên của D là đề nghị giao kết mới.

Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án đối với 3 vấn đề trên

Vấn đề 1: Tòa án cho rằng bên đề nghị chưa nhận được chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng theo quy định tại Điều 400 BLDS 2015.

- Cơ sở pháp lý: Theo quy định tại Khoản 1, Điều 400, BLDS 2015: “Hợp đồng được
giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết”.
- Vì vậy đồng thuận với quyết định của tòa án, do D không chứng minh được đã gửi
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng cho C, đồng thời C không thừa nhận đã nhận được
chấp nhận đề nghị giao kết của D. Hơn nữa trong hợp đồng giữa A, B, C cũng không nhắc
đến thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng. Vì vậy nên việc xác định
bên đề nghị ở đây là C chưa nhận được chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng từ phía D là
hoàn toàn hợp lý.

Vấn đề 2: Tòa án cho rằng chấp nhận chưa được thực hiện trong thời hạn hợp lý
theo quy định của Điều 394 BLDS 2015.

- Cơ sở pháp lý: Khoản 1, Điều 394 BLDS 2015.

- Theo Khoản 1, Điều 394 BLDS 2015, khoảng thời gian hợp lý do các bên thỏa
thuận hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định. Quy định này nhằm dự phòng
trong trường hợp bên đề nghị (A, B và C) không ấn định thời hạn trả lời chấp nhận. Vì
trong thời hạn đợi bên được đề nghị (D) trả lời, bên đề nghị không được giao kết hợp đồng
với bên thứ ba. Nếu bên đề nghị không ấn định thời hạn trả lời, mà pháp luật không quy
định gì thêm thì thời hạn trả lời sẽ tồn tại mãi mãi, như vậy sẽ ảnh hưởng đến việc giao kết
hợp đồng của bên đề nghị với bên thứ ba. Không có quy định nào ghi nhận “thời hạn hợp
lý” là như thế nào? Vì không phải hợp đồng nào cũng như nhau, tùy thuộc vào từng hợp
đồng cụ thể mà thời hạn có sự khác biệt. Ví dụ: Thời hạn của đề nghị mua bán sản phẩm là
trái cây đương nhiên sẽ ngắn so với đề nghị mua bán thiết bị điện từ, vì trái cây là mặt
hàng dễ hư hỏng nếu để lâu. Do đó, trong ví dụ này có thể hiểu thời hạn hợp lý là thời hạn
mà các bên thỏa thuận hoặc do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định.

Như vậy, trong tình huống trên toà án có thẩm quyền đã quyết định: “chấp nhận chưa được
thực hiện trong thời gian hợp lý theo quy định của điều 394 BLDS 2015”.
Vấn đề 3: Tòa án cho rằng chấp nhận trên của D là đề nghị giao kết mới.

Cơ sở pháp lý : theo quy định của Khoảng 1 Điều 394 BLDS 2015

- Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực
khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời
khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời
thì nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp
nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời. Tuy nhiên vì hợp đồng giao kết này
không có quy định cụ thể về thời hạn D trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng, nên không thể
nào xem rằng chấp nhận của D là một đề nghị giao kết mới.

Vậy hướng giải quyết của Tòa án đối với 3 vấn đề trên dựa theo các Điều 394, 400 BLDS
2015 là hợp lý.
VẤN ĐỀ 2
Sự ưng thuận trong quá trình giao kết hợp đồng.

- Tóm tắt Án lệ số 04/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao:
Chủ thể: Nguyên đơn là bà Kiều Thị Tý, ông Chu Văn Tiến với bị đơn là ông Lê
Văn Ngự. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lê Thị Quý, bà Trần Thị
Phấn, anh Lê Văn Tám, chị Lê Thị Tường, anh Lê Đức Lợi, chị Lê Thị Đường, anh
Lê Mạnh Hải, chị Lê Thị Nhâm.
Tranh chấp về vấn đề: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại thành phố
Hà Nội.
Lý do tranh chấp: Hai bên đã thỏa thuận, gia đình ông bán cho vợ chồng bà Tý
phần nhà, đất có vị trí giáp đường. Hai bên thống nhất trừ 21m2 mặt đường do Nhà
nước đã cắm mốc chỉ giới mở đường, nên chỉ bán nhà cấp 4 trên phần diện tích đất
là 140m2. Bị đơn không chấp nhận yêu cầu của bà Tý.
Tòa án giải quyết? Lý do?
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định có cơ sở xác định các
đương sự tranh chấp về quyền sở hữu tài sản và tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng nhà, đất, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chỉ xác định quan hệ
pháp luật cần giải quyết là vụ án tranh chấp quyền sở hữu nhà, đất là chưa đầy đủ.
Tuy nhiên, trong thực tế Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã xem xét
giải quyết về hai quan hệ tranh chấp này. Do vậy, Kháng nghị số 63/QĐ-KNGĐT-
V5 ngày 14-5-2009 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng, Tòa
án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định sai quan hệ pháp luật có tranh
chấp và cần phải hủy cả hai bản án nêu trên để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm là
chưa chính xác và không cần thiết.
Do vậy, Tòa án các cấp xác định, diện tích 23,4m2 giáp đường Xuân La - Xuân
Đỉnh nằm trong diện tích đất mà ông Ngự đã thỏa thuận chuyển nhượng cho vợ
chồng bà Tý, đồng thời xác định vợ chồng bà Tý đã thanh toán đủ 110 cây vàng
theo hợp đồng và đã nhận nhà đất, từ đó, buộc gia đình ông Ngự phải trả lại toàn
bộ diện tích nhà, đất 23,4m2 tại số 39 đường Xuân La, phường Xuân La, quận Tây
Hồ, thành phố Hà Nội cho vợ chồng bà Kiều Thị Tý và ông Chu Văn Tiến là có căn
cứ.
- Tóm tắt tình huống:
Chủ thể gồm: Bà Chu, ông Bùi và ông Văn.
Tranh chấp cái gì: Chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Lý do tranh chấp: Các con bà Chu và ông Bùi yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch
chuyển nhượng vô hiệu vì chưa có sự

2.1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong giao kết
hợp đồng?

Theo khoản 2, Điều 404 của BLDS 2005: Hợp đồng dân sự cũng được xem như
giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận
im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết.

Theo khoản 2, Điều 393 của BLDS 2015: Sự im lặng của bên được đề nghị không
được coi là chấp nhận giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen
đã được xác lập giữa các bên.

- Điểm thay đổi thứ I:

Trong BLDS 2005 vai trò của sự im lặng trong giao kết hợp đồng chỉ được ghi nhận
tại Điều 404 về thời điểm giao kết hợp đồng, đến BLDS 2015 điều này đã được ghi nhận
ngay từ khi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tại Điều 393. Như vậy, BLDS 2015 đã
khắc phục nhược điểm của BLDS 2005, nâng cao vai trò của sự im lặng trong giao kết hợp
đồng.

- Điểm thay đổi thứ II:

Theo Điều 393 BLDS 2015 có quy định rõ ràng không công nhận im lặng là chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng, khi mà BLDS 2005 không nhắc đến dẫn đến sự mập mờ
không rõ ràng trong khi áp dụng điều luật.

- Điểm thay đổi thứ III:

Khi im lặng được coi là đồng ý thì BLDS 2005 chưa xác định được thời điểm giao
kết hợp đồng, khắc phục nhược điểm này Khoản 2 Điều 400 BLDS 2015 đã thêm quy định
về thời điểm giao kết hợp đồng: “Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời
chấp nhận giao kết hợp đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời
điểm cuối cùng của thời hạn đó”. Tuy nhiên, quy định này mới chỉ xác định được thời
điểm giao kết im lặng khi giao kết hợp đồng trong trường hợp các bên có thỏa thuận mà
chưa có quy định đối với trường hợp theo thói quen.

Thực tế, trong thời gian qua, nhiều tranh chấp phát sinh từ việc im lặng trong khi
nhận được đề nghị giao kết hợp đồng, BLDS 2015 quy định cụ thể vấn đề này nhằm hạn
chế những trường hợp phát sinh tranh chấp không đáng có từ việc im lặng này. Hơn nữa,
việc điều chỉnh này giúp mở rộng phạm vi, đối tượng điều chỉnh, phù hợp với thói quen,
tập quán giao kết hợp đồng, mua bán hàng.

2.2. Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận hợp đồng chuyển nhượng
trong tình huống trên có thuyết phục không? Vì sao?

Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận hợp đồng chuyển nhượng
trong tình huống của bà Chu và ông Bùi với ông Văn là thuyết phục.

Mặc dù Án lệ số 04/2016/AL liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, còn tình
huống trên liên quan đến việc định đoạt tài sản là tài sản sở hữu chung của các thành viên
gia đình, nhưng Tòa án vẫn áp dụng vì:

Thứ nhất, tài sản của cả hai vụ việc đều thuộc sở hữu chung hợp nhất được quy định
tại Điều 210 BLDS 2015.

Thứ hai, cả hai vụ việc đều có tình tiết là: các chủ sở hữu chung còn lại đều biết
việc chuyển nhượng nhà đất nhưng không ai có ý kiến gì. Nhưng sau này vì một lý do nào
đó, các sở hữu chung này lại yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu.

Ở đây Tòa án theo hướng giải quyết: Trường hợp nhà đất là tài sản chung mà có
người đứng tên ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất đó cho người khác, những người còn
lại không ký tên trong hợp đồng nhưng có đủ căn cứ xác định bên chuyển nhượng đã nhận
đủ số tiền theo thỏa thuận, người không ký tên trong hợp đồng biết và cùng sử dụng tiền
chuyển nhượng nhà đất; bên nhận chuyển nhượng nhà đất đã 5 nhận và quản lý, sử dụng
nhà đất đó công khai; người không ký tên trong hợp đồng biết mà không có ý kiến phản
đối gì thì phải xác định là người đó đồng ý với việc chuyển nhượng nhà đất.
VẤN ĐỀ 3

Đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được.

- Tình huống:
Chủ thể gồm: Ông A và Ngân hàng.
Tranh chấp về việc thế chấp quyền sử dụng đất.
Lý do tranh chấp: trên mảnh đất thế chấp có căn nhà thuộc sở hữu của người khác
(không thuộc tài sản thế chấp).
Hướng giải quyết của Toà án: Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố hợp đồng thế chấp vô
hiệu do đối tượng không thể thực hiện được.

3.1. Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa BLDS 2015 và
BLDS 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu.

*Những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về chủ thể đối tượng của hợp
đồng không thể thực hiện được.

Điều 408 BLDS 2015 Điều 411 BLDS 2005

Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp Trong trường hợp ngay từ khi ký kết, hợp
đồng có đối tượng không thể thực hiện đồng có đối tượng không thể thực hiện
được thì hợp đồng này bị vô hiệu được vì lý do khách quan thì hợp đồng
này bị vô hiệu.
Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều
này cũng được áp dụng đối với trường Quy định tại khoản 2 Điều này cũng
hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối được áp dụng đối với trường hợp hợp
tượng không thể thực hiện được nhưng đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng
phần còn lại của hợp đồng vẫn có hiệu không thể thực hiện được, nhưng phần
lực. còn lại của hợp đồng vẫn có giá trị pháp
lý.

Thứ nhất: Khoản 1, Điều 408 BLDS 2015 đã bỏ cụm từ “vì lí do khách quan” trong
khoản 1 Điều 411 BLDS 2005. Khoản 1 Điều 411 BLDS 2005 quy định trường hợp hợp
đồng vô hiệu do không thể thực hiện được nhưng chỉ khoanh vùng ở trường hợp “vì lí do
khách quan”. Trong khi đó, thực tiễn vận dụng điều luật này cả cho trường hợp không thể
thực hiện vì lí do “chủ quan” như trường hợp các bên không thỏa thuận về các mặt tiếp
giáp của mảnh đất được chuyển nhượng (đối với hợp đồng chuyển nhượng đất) hay đời
máy cụ thể (đối với hợp đồng mua bán máy móc, thiết bị) nên hợp đồng không thể thực
hiện được.Thực ra, việc khoanh vùng như hiện nay không thuyết phục vì nếu áp dụng đúng
luật thì không thể thực hiện được vì lí do chủ quan không làm cho hợp đồng vô hiệu,
nhưng nếu hợp đồng không vô hiệu thì hợp đồng cũng không thể thực hiện được và trong
trường hợp này vẫn không có câu trả lời thuyết phục. Do đó, BLDS 2015 bỏ đi cụm từ “vì
lí do khách quan” là hoàn toàn thuyết phục.

Thứ hai Khoản 1, Điều 408 BLDS 2015 thay từ ký kết kết trong Khoản 1 Điều 411
BLDS 2005 bằng giao kết. Viê ̣c BLDS 2005 sử dụng thuật ngữ ký kết khiến cho phạm vi
áp dụng của điều luật này bị thu hẹp bởi lẽ ký kết chỉ phù hợp với hợp đồng được xác lập
bằng hình thức văn bản. Để có tính bao quát hơn, BLDS 2015 đã dùng từ giao kết, và việc
thay đổi này là hoàn toàn chính xác, khắc phục được khuyết điểm của BLDS 2005.

Thứ ba: Khoản 3, Điều 408 BLDS 2015 đã thay cụm từ “giá trị pháp lý” trong
Khoản 3 Điều 411 BLDS 2005 bằng “hiệu lực”. Hợp đồng vô hiệu thì chắc chắn là hợp
đồng ko có hiệu lực pháp lý. Nhưng ngược lại: hợp đồng không có hiệu lực pháp lý chưa
chắc đã phải là hợp đồng vô hiệu mà có thể là hợp đồng chưa được ký kết, đã ký kết nhưng
bị đình chỉ hiệu lực,hoặc đã hết hiệu lực. Như vậy, dùng cụm từ“hiệu lực” sẽ tạo sự khái
quát, bao quát hơn so với việc dùm cụm từ “giá trị pháp lý” vì “giá trị pháp lý” chỉ mang ý
nghĩa luật định, còn “hiệu lực” còn có ý nghĩa trong việc thực thi.

3.2. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do đối tượng không thể thực
hiện được được xác định như thế nào? Vì sao?

Theo quy định tại Điều 408 BLDS 2015: “Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp
đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu”. Nguyên nhân
dẫn đến hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện sẽ quyết định đến thời hiệu
yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Hợp đồng dân sự là một bộ phận của giao dịch
dân sự, quy định về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng được quy định tại
phần giao dịch dân sự.

- Trường hợp không áp dụng thời hạn yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu:

+ Các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch
dân sự khác, hoặc trốn tránh nghĩa vụ mà đối tượng giao kết hợp đồng không có thực hoặc
không thể thực hiện;

+ Việc dẫn đến đối tượng hợp đồng không thể thực hiện là tự nhiên, các yếu tố nằm
ngoài sự kiểm soát của các bên tham gia hợp đồng,…
- Trường hợp thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu là 02 năm:

+ Hợp đồng do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác
lập và không có khả năng thực hiện hợp đồng đã giao kết;

+ Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên
không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch hoặc không thể thực hiện hợp đồng;

+ Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một phần nội dung của giao dịch dân sự
vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần giao kết còn lại của giao dịch.

- Trường hợp áp dụng thời hạn tuyên bố hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không
thể thực hiện được, thì thời hạn được tính từ thời điểm:

+ Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch;

+ Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị
nhầm lẫn, do bị lừa dối.

3.3: Toà án tuyên bố hợp đồng thế chấp trên vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện
được có thuyết phục không? Vì sao?

Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp trên vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện
được là có thuyết phục.

Vì căn cứ vào khoản 2 Điều 408 BLDS 2015:

Trường hợp giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có
đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia
đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết
hoặc phải biết về việc giao kết hợp đồng có đối tượng không thể thục hiện được.

Ở tình huống trên, ông A có phải biết trên đất thuộc quyền sử dụng đất của mình có
căn nhà thuộc sở hữu của người khác nhưng ông vẫn thế chấp quyền sử dụng đất của mình
cho Ngân hàng mà căn nhà trên đất không thuộc tài sản thế chấp nhưng vẫn không thông
báo cho Ngân hàng nên Tòa án tuyên bố hợp đòng vô hiệu là thuyết phục.
VẤN ĐỀ 4
Xác lập hợp đồng có giả tạo và nhằm tẩu tán tài sản.
- Tóm tắt bản án:
Chủ thể: - Nguyên đơn: bà Trần Thị Diệp Thúy (1980)
- Bị đơn: bà Nguyễn Thị Thanh Trang (1983).
Tranh chấp về vấn đề: tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Lý do tranh chấp: Nguyên đơn và bị đơn có thiết lập hợp đồng quyền sử dụng đất
(23-11-2013), nội dung giấy thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có giá
chuyển nhượng là 200.000.000 đồng. Đây là giao dịch giả tạo để che giấu cho việc
nguyên đơn cho bị đơn vay số tiền là 100.000.000 đồng. Nguyên đơn đã yêu cầu bị
đơn trả lại số tiền là 100.000.000 đồng, bị đơn đã hứa là sẽ thanh toán hết số tiền
cho nguyên đơn trong vòng 6 tháng nhưng đến hạn trả nợ bị đơn chỉ trả nguyên
đơn số tiền 5.000.000 đồng. Vì vậy, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải có
nghĩa vụ hoàn trả cho nguyên đơn số tiền là 95.000.000 đồng (nguyên đơn không
yêu cầu tính lãi suất).
Quyết định của toà án: Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác
lập giữa nguyên đơn Bà Thúy và bị đơn Bà Trang là vô hiệu. Bà Trang phải trả lại
cho bà Thúy số tiền đã nhận là 95.000.000 đồng.
- Tóm tắt Quyết định số 259/2014/DS-GĐT ngày 16/6/2014 của Tòa án dân sự, Tòa
án nhân dân tối cao:
Chủ thể: Bà Đặng Thị Kim Anh
Bà Võ Thị Thu
Vc ông Vượng, bà Nga
Tranh chấp về vấn đề: giả tạo trong giao kết hợp đồng.
Lý do tranh chấp: Vợ chồng bà Anh, ông Học còn nợ bà Thu 3,1 tỷ đồng đồng thời
cam kết chuyển nhượng nhà đất để trả nợ nhưng vợ chồng bà Anh không thực hiện
cam kết. Thỏa thuận chuyển nhượng giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông
Vượng không phù hợp với thực tế vì giá trị thực tế nhà đất là gần 5,6 tỷ đồng và
thực tết các bên cũng chưa hoàn tất thủ tục chuyển nhượng.
Quyết định của Tòa án: Tòa án cấp sơ thẩm xác định giao dịch chuyển nhượng nhà
đất giữa vợ chồng bà Anh và vợ chồng ông Vượng là giả tạo nhắm trốn tránh việc
thực hiện nghĩa vụ với bà Thu, buộc vợ chồng bà Anh trả nợ cả gốc lẫn lãi cho bà
Thu, đồng thời tuyên giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vương là
vô hiệu và phong tỏa nhà đất của vợ chồng bà Anh để thực hiện nghĩa vụ đối với bà
Thu.

 Đối với vụ việc thứ nhất:

4.1.1. Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?
Theo Điều 124 BLDS 2015:

“1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch
dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có
hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật
khác có liên quan.

2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba
thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.”

“Giao dịch giả tạo là giao dịch mà trong đó việc thể hiện ý chí ra bên ngoài khác với ý chí
nội tâm và kết quả thực hiện của các bên tham gia giao dịch.” Theo nhóm, giả tạo trong
xác lập giao dịch được hiểu là khi xác lập giao dịch thì ý chí được biểu đạt ra ngoài khác
với ý chí đích thực nhằm để che giấu một hợp đồng khác.

Theo Hoàng Thế Liêm (Cb), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2005, Nxb.
Chính trị quốc gia; Hà Nội, năm 2013, tr.321.

4.1.2. Đoạn nào của Quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp
đồng? Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích gì?

Trong phần xét thấy của Bản án số 06/2017/DS-ST: “Nguyên đơn và bị đơn thống
nhất ngày 23/11/2013 giữa nguyên đơn và bị đơn có thiết lập hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất. Nội dung giấy thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất số AP
154638, số vào sổ H53166 do UBND thị xã (nay là thành phố) Thủ Dầu Một cấp ngày
30/07/2009, tọa lạc tại phường Chánh Nghĩa, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương,
giả chuyển nhượng 200.000.000 đồng. Hai bên đều thừa nhận đây là giao dịch giả tạo để
che giấu cho việc nguyên đơn cho bị đơn vay số tiền 100.000.000 đồng.”

4.1.3. Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che
giấu.

Trích trong phần xét thấy: “Đối chiếu với quy định trên trường hợp giữa nguyên
đơn với bà Trang thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập ngày
23/11/2013 giữa nguyên đơn và bà Trang là vô hiệu do giả tạo và giao dịch vay tài sản số
tiền 100.000.000 đồng có hiệu lực” và cả hai bên đều có lỗi ngang nhau trong việc làm cho
hợp đồng vô hiệu. Do vậy, Theo Điều 131 BLDS 2015, các bên hoàn trả cho nhau những
gì đã nhận và không phải bồi thường.

4.1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và hợp
đồng bị che giấu.
Theo nhóm căn cứ theo Điều 124 và Điều 131 BLDS 2015 thì hướng giải quyết của
Tòa là hợp lý.

Vì:

- Đối với hợp đồng giả tạo, Tòa án đã xác minh được hợp đồng chuyển nhượng
nguyên đơn và bà Trang là giả tạo để che giấu việc nguyên đơn cho Bà Trang vay số tiền
100.000.000 đồng, chính hai bên cũng đều thừa nhận điều này. Mà Điều 124 BLDS 2015
quy định giao dịch dân sự giả tạo nhằm che giấu một giao dịch nào khác thì giao dịch giả
tạo sẽ vô hiệu. Như vậy, Tòa án đã tuyên bố giao dịch chuyển nhượng đất này vô hiệu là
hợp lý.

- Giao dịch cho vay tiền giữa nguyên đơn và bị đơn là hợp lệ và tại bản tự khai và
quá trình tố tụng tại Tòa án bà Trang xác nhận mình đã vay tiền của nguyên đơn, tức bà
Thủy, số tiền 100.000.000 đồng. Để đảm bảo quyền lợi cho các bên, Tòa tuyên hợp đồng
giả tạo vô hiệu và hợp đồng bị che giấu có hiệu lực. Và các bên hoàn trả cho nhau những
gì đã nhận và không phải bồi thường.

- Khi tòa án tuyên bố giao dịch giả tạo vô hiệu, Tòa án đã đưa ra phán quyết lỗi của
các bên ngang nhau, vì vậy họ sẽ trả cho nhau những gì đã nhận và không phải 10 bồi
thường. Vậy tòa án kết luận là hợp lý phù hợp với quy định của Điều 131 BLDS 2015.

* Đối với vụ việc thứ 2:

4.2.1. Vì sao Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông
Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu?

Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là giả tạo
nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu (nghĩa vụ trả nợ) vì:

“Quá trình giải quyết vụ án thì vợ chồng bà Anh thừa nhận còn nợ của bà Thu 3,1
tỷ đồng, đồng thời vợ chồng bà Anh cam kết chuyển nhượng nhà đất (đang có tranh chấp)
để trả nợ cho bà Thu, nhưng vợ chồng bà Anh không thực hiện cam kết với bà Thu mà làm
thủ tục chuyển nhượng nhà đất trên cho anh là vợ chồng ông Vượng. Thỏa thuận chuyển
nhượng giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng không phù hợp với thực tế vì giá
thực tế nhà đất là gần 5,6 tỷ đồng, nhưng hai bên thỏa thuận chuyển nhượng chỉ với giá
680 triệu đồng và thực tế các bên cũng chưa hoàn tất thủ tục chuyển nhượng”.

4.2.2. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án (giả tạo để trốn
tránh nghĩa vụ).

Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng ông Anh với vợ chồng ông Vượng là giả
tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu là hợp lý. Vì:
Có thể hiểu giao dịch giả tạo phải có 2 loại giao dịch, đó là giao dịch giả tạo và giao
dịch thật sự. Nhưng giả tạo còn có thể chỉ có một giao dịch đó là giao dịch giả tạo nhằm
che giấu mục đích nào đó của các chủ thể xác lập giao dịch.(1) Bộ luật dân sự 2015, cũng
công nhận giả tạo do một giao dịch che giấu nhằm trốn tránh nghĩa vụ.(2)

(1) Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận án, Nxb: Hồng
Đức - Hội Luật gia Việt Nam (tái bản lần thứ bảy), bản án số 86-88 và 89-92

(2) khoản 2 Điều 124 Bộ luật Dân sự 2015 trang 191

Ở Quyết định số 259/2014/DS-GĐT là thuộc trường hợp giả tạo để trốn tránh nghĩa
vụ theo đúng khoản 2 điều 124 BLDS 2015. Thỏa thuận chuyển nhượng đất giữa vợ chồng
bà Anh với vợ chồng ông Vượng không phù hợp với thực tế vì giá đất thực tế là 5,6 tỷ
đồng nhưng hai bên chỉ thỏa thuận chuyển nhượng với giá 680 triệu đồng và trên thực tế
cũng chưa hoàn tất thủ tục chuyển nhượng. Vợ chồng bà Anh có nghĩa vụ phải trả nợ cho
bà Thu thông qua thỏa thuận cấn đất nhưng sau đó, vợ chồng bà Anh không thực hiện cam
kết mà lại thỏa thuận chuyển nhượng đất cho vợ chồng ông Vượng. Trên thực tế, giao dịch
giữa vợ chồng bà Anh và ông Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ trả
nợ cho bà Thu.

4.2.3. Cho biết hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm
trốn tránh nghĩa vụ.

Hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa
vụ: “Buộc vợ chồng bà Anh trả nợ cả gốc lẫn lãi cho bà Thu, đồng thời tuyên giao dịch
của vợ chồng bà Anh và vợ chồng ông Vượng là vô hiệu và phong tỏa nhà đất của vợ
chồng bà Anh để đảm bảo nghĩa vụ của vợ chồng bà Anh đối với bà Thu.”
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
VĂN BẢN PHÁP LUẬT

1. Bộ luật Dân Sự 2005.

2. Bộ luật Dân Sự 2015.

3. Án lệ số 04/2016/AL ngày 06/04/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án


nhân dân tối cao

GIÁO TRÌNH

Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam 2017

SÁCH

1. Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án,
Nxb.Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam 2018 (xuất bản lần thứ bảy)

2. Nguyễn Nhật Thanh, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb.Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam 2017

3. Lê Thị Hồng Vân, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb.Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam 2017

You might also like