You are on page 1of 70

SƠ LƯỢC VỀ

TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN


SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ...................................................................................... 5
PHẦN 1: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN.
I. Khái quát chung về tài chính toàn diện........................................... 7
1. Định nghĩa tài chính toàn diện...................................................... 7
2. Vai trò của tài chính toàn diện. ..................................................... 8
3.Những rào cản đối với tài chính toàn diện.................................... 10
4. Các thước đo tài chính toàn diện................................................. 15
5. Những trụ cột của tài chính toàn diện.......................................... 16
(i) Dịch vụ thanh toán và cơ sở hạ tầng tài chính trong tài chính toàn diện.... 16
(ii) Đa dạng hóa kênh phân phối và mạng lưới các tổ chức cung cấp
dịch vụ về tài chính.......................................................................... 18
- Thanh toán qua điện thoại di động................................................ 18
- Dịch vụ ngân hàng đại lý (agent banking)..................................... 19
- Đa dạng hóa các loại hình cung cấp dịch vụ tài chính.................... 20
- Các ngân hàng chính sách/các định chế tài chính phát triển........... 21
(iii) Tăng cường hiểu biết về tài chính, bảo vệ người tiêu dùng.......... 22
II. Tài chính toàn diện ở Việt Nam.................................................. 24
Định hướng thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt Nam........................ 26
Cơ hội .................................................................................... 31
Thách thức.................................................................................... 32
Khung khổ chiến lược tài chính toàn diện ở Việt Nam....................... 33

PHẦN 2: CÔNG NGHỆ VÀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN


I. Vai trò của công nghệ thúc đẩy tài chính toàn diện. ....................... 39

2
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

II. Các mô hình ứng dụng công nghệ............................................... 43


1. Ngân hàng di động và thanh toán di động.................................... 43
2. Đổi mới kênh phân phối.............................................................. 46
3. Công nghệ cải thiện công tác xác thực nhân thân và báo cáo tín dụng....49
4. Những lĩnh vực tiềm năng khác................................................... 50
III. Khung khổ luật pháp luận tạo thuận lợi cho ứng dụng công nghệ. .. 52

PHẦN 3: GIÁO DỤC TÀI CHÍNH VÀ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG


TRONG TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN................................................ 55
I. Giáo dục tài chính với tài chính toàn diện..................................... 55
1. Khái niệm về giáo dục tài chính và hiểu biết tài chính................... 55
(i) Giáo dục tài chính..................................................................... 55
(ii) Hiểu biết tài chính.................................................................... 56
2. Vai trò của giáo dục tài chính trong tài chính toàn diện. ................ 57
II. Vai trò của bảo vệ người tiêu dùng với giáo dục tài chính và
tài chính toàn diện......................................................................... 59
1. Khái niệm cơ bản về bảo vệ người tiêu dùng tài chính. ................. 59
(i) Người tiêu dùng tài chính........................................................... 59
(ii) Bảo vệ người tiêu dùng tài chính............................................... 59
2. Vai trò của bảo vệ người tiêu dùng tài chính với tài chính toàn diện... 60
III. Kinh nghiệm thế giới trong việc thực hiện giáo dục tài chính
và bảo vệ người tiêu dùng.............................................................. 63
1. Xu hướng thế giới về xây dựng Chiến lược giáo dục tài chính....... 63
2. Kinh nghiệm thế giới trong thực hiện Bảo vệ người tiêu dùng
tài chính .................................................................................... 67

THAY LỜI KẾT LUẬN................................................................. 69

3
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

MỞ ĐẦU

T ài chính toàn diện (financial inclusion) hiểu khái


quát nhất là việc cung cấp dịch vụ tài chính phù hợp
và thuận tiện cho mọi thành viên trong xã hội, đặc biệt là
đối với nhóm người dễ bị tổn thương nhằm tăng cường
khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ tài chính, góp phần
tạo cơ hội sinh kế, luân chuyển dòng vốn đầu tư và tiết
kiệm trong xã hội, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong những năm gần đây, đặc biệt là kể từ sau cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-08, các tổ chức
quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế
đã nêu bật tầm quan trọng của tài chính toàn diện. Nhóm
G20 đã coi tài chính toàn diện là một trong những trụ cột

5
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

chính trong định hướng phát triển của mình tại Hội nghị
thượng đỉnh Pittsburgh năm 2009. Tháng 10/2013, Ngân
hàng Thế giới đã đưa ra mục tiêu toàn cầu về phổ cập
tiếp cận tới các dịch vụ tài chính cơ bản như là một mốc
quan trọng hướng tới tài chính toàn diện đầy đủ - một thế
giới mà người dân ở bất cứ nơi đâu đều có quyền tiếp cận
và có thể sử dụng các dịch vụ tài chính mà họ cần để nắm
bắt các cơ hội và giảm thiểu tổn thương. Liên Hợp Quốc
đã nhấn mạnh tài chính toàn diện là một giải pháp quan
trọng để đạt 7 trong 17 Mục tiêu phát triển bền vững đến
năm 2030.
Các nhà hoạch định chính sách cấp quốc gia và quốc
tế đều nhận định tài chính toàn diện là một ưu tiên phát
triển quan trọng. Hiện tại, 2 phần 3 cơ quan quản lý tài
chính và ngân hàng trung ương trên thế giới được trao
thêm nhiệm vụ tài chính toàn diện bên cạnh nhiệm vụ
giữ ổn định thị trường tài chính. Trong hơn 60 quốc gia
cam kết tăng cường tài chính toàn diện thì tất cả các
nước đều đang xây dựng và thực thi Chiến lược tài chính
toàn diện quốc gia (32 quốc gia đã thực thi và 27 quốc
gia đang triển khai).

6
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

PHẦN 1:
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN
CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

I. Khái quát chung về tài chính toàn diện


1. Định nghĩa tài chính toàn diện
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), tài chính toàn diện
có nghĩa là các cá nhân và doanh nghiệp có thể tiếp cận
và sử dụng các sản phẩm và dịch vụ tài chính - các giao
dịch, thanh toán, tiết kiệm, tín dụng và bảo hiểm - đáp
ứng nhu cầu của họ và có mức chi phí hợp lý, được cung
cấp theo một cách thức có trách nhiệm và bền vững. Liên
minh Tài chính Toàn diện (AFI) định nghĩa về tài chính
toàn diện rộng hơn và đa chiều hơn, nhấn mạnh đến cả
khía cạnh chất lượng sử dụng dịch vụ. Theo đó, tài chính
toàn diện là việc cung cấp cho người sử dụng các dịch vụ
tài chính sẵn có với mức chi phí hợp lý; làm cho khách
hàng sử dụng các dịch vụ tài chính một cách thường
xuyên; đưa ra những dịch vụ tài chính được thiết kế phù
hợp với nhu cầu của người sử dụng.
Tài chính toàn diện được hiểu theo nghĩa rộng hơn
so với tiếp cận tài chính. Một số người có khả năng tiếp
cận các dịch vụ tài chính nhưng lại không muốn sử dụng

7
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

trong khi nhiều người có nhu cầu lại không thể tiếp cận
do những rào cản như chi phí quá cao, quy định pháp luật
phức tạp, hoặc thiếu sản phẩm dịch vụ phù hợp.
Tổng quát lại, tài chính toàn diện là tất cả việc cung
cấp các dịch vụ tài chính chính thức (thanh toán, chuyển
tiền, tiết kiệm, tín dụng, bảo hiểm) một cách thuận tiện,
phù hợp với nhu cầu và với chi phí hợp lý tới tất cả người
dân. Tài chính toàn diện không chỉ giới hạn trong việc
cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng mà bao gồm cả nâng
cao hiểu biết về tài chính cho người dân và bảo vệ người
tiêu dùng.
2. Vai trò của tài chính toàn diện
Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB, 2014) cho
thấy một nửa số người trưởng thành trên thế giới, ước
tính là 2,5 tỷ người, không có tài khoản tại một tổ chức
tài chính chính thức. Trong số những người có tài khoản,
chỉ có 9% đi vay được ở ngân hàng và 22% có tiền tiết
kiệm gửi ở ngân hàng. Những trở ngại chủ yếu dẫn đến
tình trạng này là chi phí giao dịch, khoảng cách địa lý
và những thủ tục giấy tờ phức tạp. Bên cạnh đó còn có
những lý do khác bao gồm cả nhận thức của người dân
trong việc sử dụng các tiện ích của các dịch vụ tài chính
hoặc nhiều người không muốn tiết lộ thông tin cá nhân.
Nhóm người không tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng

8
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

là những người nghèo, người trẻ tuổi, thất nghiệp, những


người bị loại khỏi thị trường lao động, những người thiếu
giáo dục hoặc những người sống ở vùng nông thôn, vùng
sâu vùng xa.
Tài chính toàn diện được coi là có vị trí rất quan trọng
đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia. Khía
cạnh quan trọng nhất của tài chính toàn diện là tiếp cận
tài chính. Các nghiên cứu đều chỉ ra rằng, tiếp cận tài
chính có ý nghĩa vô cùng lớn trong xóa đói giảm nghèo,
phân phối thịnh vượng công bằng, hỗ trợ phát triển toàn
diện và bền vững. Thiếu tiếp cận tài chính là nguyên
nhân cơ bản dẫn đến bất bình đẳng thu nhập, bẫy nghèo
đói và hạ thấp tăng trưởng.
Tài chính toàn diện mang lại những lợi ích không nhỏ
cho xã hội và nền kinh tế. Tài chính toàn diện có thể tạo
ra những tác động tích cực như: gia tăng tiết kiệm và đầu
tư, qua đó, thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế. Tiếp
cận dịch vụ ngân hàng giúp các cá nhân và doanh nghiệp
tìm được nguồn lực để đáp ứng những nhu cầu như vay
vốn cho các cơ hội kinh doanh, đầu tư cho con cái học
hành, hoặc dành tiền tiết kiệm khi về hưu...
Vay vốn ngân hàng còn giúp người nông dân, người
nghèo bảo vệ mình trước những cú sốc hay rủi ro trong
cuộc sống như ốm đau, bệnh tật, mất mùa, thiên tai.

9
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

Người nghèo sẽ tránh được vòng luẩn quẩn khi phải đi


vay ở khu vực không chính thức với lãi suất cao, khiến
cho gánh nặng trả nợ càng cao để rồi nghèo sẽ càng nghèo
hơn, thậm chí bị bần cùng hóa. Những người không có
tài khoản ngân hàng cũng dễ bị loại trừ khỏi các dịch vụ
khác như y tế, bảo hiểm.
Tài chính toàn diện còn giúp Chính phủ giảm bớt chi
phí cho các chương trình trợ cấp an sinh xã hội thông
qua việc chi trả qua tài khoản ngân hàng, làm tăng sự
minh bạch, phòng chống tham nhũng tích cực hơn, nhờ
đó quản lý xã hội tốt hơn. Một xã hội với cơ hội tiếp cận
dịch vụ tài chính mở rộng cho tất cả mọi người sẽ tăng
cường sự tham gia của họ vào cuộc sống cộng đồng nói
chung, cải thiện công bằng và bình đẳng, năng lực của
toàn xã hội theo đó cũng được nâng lên.
Đối với các tổ chức tài chính, tài chính toàn diện
đồng nghĩa với việc mở rộng đối tượng phục vụ tới tất
cả nhóm người trong xã hội, tạo cơ hội cho họ phát triển
đa dạng sản phẩm dịch vụ, mở rộng cơ sở khách hàng và
theo đó là lợi nhuận tăng lên.
3.Những rào cản đối với tài chính toàn diện
Việc sử dụng dịch vụ tài chính phụ thuộc chủ yếu vào
mức độ giàu có hay chính xác là mức thu nhập của mỗi
cá nhân. Ngay cả ở những nước nghèo nhất thì người

10
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

giàu thành thị là những người sử dụng dịch vụ ngân hàng


nhiều nhất. Do đó, khu vực ngân hàng chính thức thông
thường chỉ phục vụ cho nhóm khách hàng ở trên ngưỡng
nghèo, chủ yếu là những người làm công ăn lương, có
thu nhập ổn định. Trong khi đó những người nghèo lại
sử dụng dịch vụ ngân hàng ở khu vực không chính thức.
Nhưng điều này muốn nói rằng tất cả mọi người, kể cả
người nghèo cũng có nhu cầu sử dụng dịch vụ tài chính.
Bức tranh đối lập với tài chính toàn diện là sự loại trừ
tài chính (financial exclusion), nhằm nói tới những đối
tượng gặp khó khănkhi tiếp cận các dịch vụ tài chính và
hệ thống tài chính. Tình trạng loại trừ tài chính có thể
là “tự nguyện” hoặc “không tự nguyện”, bởi loại trừ tài
chính có thể là do những trở ngại khách quan khi tiếp cận
hệ thống tài chính hoặc là do chính sự lựa chọn của cá
nhân bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.
Thước đo đầu tiên và quan trọng nhất của tài chính
toàn diện là tỷ lệ người có tài khoản tại tổ chức tài chính
chính thức. Tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản là
khác nhau giữa các nước trên thế giới. Ở những nước
phát triển tỷ lệ này có thể lên đến 95-98% trong khi ở
những nước đang phát triển, và đặc biệt là những nước
nghèo tỷ lệ này là rất thấp. Tỷ lệ người trưởng thành có
tài khoản ở Việt Nam năm 2014, theo Ngân hàng Thế

11
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

giới, là 31%. Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB,
2014) cũng cho biết mức thu nhập và những đặc điểm cá
nhân là những nhân tố quyết định sự khác nhau này.
Lý do được nói đến nhiều nhất khi một cá nhân không
có một tài khoản chính thức là không có đủ tiền. Tiếp đó
là những nguyên nhân như việc mở tài khoản là tốn kém,
khoảng cách đến ngân hàng quá xa, thiếu những giấy tờ
cần thiết đáp ứng yêu cầu của ngân hàng, thiếu tin tưởng
vào ngân hàng hay vì lý do tín ngưỡng. Ở những nước
đang phát triển, lý do phổ biến là khoảng cách xa xôi,
thiếu thu nhập, chi phí tốn kém và thiếu giấy tờ cần thiết.
Các chi phí đi kèm với việc sở hữu tài khoản đã trở
thành rào cản chủ yếu. Đối với nhiều người, chi phí duy
trì tài khoản và mức phí cho mỗi lần giao dịch khiến cho
việc sử dụng tài khoản trở thành tốn kém. Nhiều nghiên
cứu đã chỉ ra rằng, những chi phí này càng cao, càng
có nhiều người không có tài khoản (Demirgüç-Kunt và
Klapper, 2012). Một số người, đặc biệt là những người
có thu nhập thấp sẽ không sử dụng các dịch vụ tài chính
bởi vì đối với họ các dịch vụ đó có mức giá đắt đỏ và
họ không thể đáp ứng được. Vì thế, cho dù các dịch vụ
này là có sẵn song họ vẫn khó tiếp cận dịch vụ. Tại Siera
Leone, chi phí hàng năm để duy trì một tài khoản thanh
toán cao hơn 25% mức thu nhập GDP bình quân đầu

12
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

người. Tại Cộng hòa Dominica, chi phí để chuyển 250


đô la quốc tế là 50 đô la trong khi chi phí cho một dịch vụ
tương tự tại Bỉ lại chỉ là 30 cent. Tương tự như vậy, các
chi phí về thời gian cũng có thể tạo ra các rào cản trong
việc tiếp cận dịch vụ tài chính. Ví dụ như tại Bangladesh,
Pakistan, Philippines, để có thể vay một khoản kinh
doanh nhỏ thì cần phải mất hơn một tháng.
Một điều quan trọng là, chi phí cao được áp dụng cho
việc mở và duy trì tài khoản có quan hệ thuận chiều với
tình trạng thiếu cạnh tranh và thiếu cơ sở hạ tầng thể chế
và vật chất ở một quốc gia. Điều này có ý nghĩa quan
trọng, chi phí cao liên quan đến tài khoản không đơn
thuần phản ánh chi phí cố định của việc cung cấp mà còn
cho thấy có nhiều chi phí gián tiếp nữa. Cơ sở hạ tầng
thanh toán yếu cũng là rào cản khiến cho các khách hàng
từ chối sử dụng dịch vụ.
Khoảng cách đến với một điểm tiếp cận dịch vụ, cụ
thể là các chi nhánh ngân hàng hay điểm giao dịch, là
trở ngại lớn đặc biệt ở những nước đang phát triển. Ở
Tanzania, chỉ có 0,5 chi nhánh ngân hàng trên 1000 km
vuông. Khoảng cách địa lý cũng có thể là khó khăn khiến
cho một số khách hàng ban đầu đã đăng ký các dịch vụ
nhưng sau đó họ không sử dụng nhiều các dịch vụ này
như những người khác.

13
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

Bên cạnh đó, những yêu cầu về hồ sơ giấy tờ cần có


để mở tài khoản trên thực tế đã loại trừ nhiều người ở
khu vực nông thôn hay những người lao động tự do (khu
vực không chính thức), là những người khó chứng minh
thu nhập hay nơi cư trú chính thức. Ví dụ như việc tiếp
cận dịch vụ tài chính đòi hỏi khách hàng phải có các
giấy tờ chứng minh liên quan tới xác nhận nhân thân, thu
nhập, hay là hồ sơ kinh doanh đối với doanh nghiệp…
trong khi một số cá nhân và doanh nghiệp không có khả
năng để hoàn thiện các hồ sơ này, và do vậy họ không thể
tiếp cận các dịch vụ.
Văn hóa, tâm lý hay tín ngưỡng cũng là một trở ngại
đối với tiếp cận dịch vụ tài chính chính thức. Nhiều người
không thấy thoải mái khi sử dụng các dịch vụ tài chính
chính thức. Nguyên nhân là do khó hiểu về ngôn ngữ, có
quá nhiều loại giấy tờ và điều kiện đi kèm với dịch vụ
tài chính và có thể đơn giản chỉ là thiếu sự tin tưởng vào
các tổ chức cung cấp dịch vụ. Một đặc điểm phổ biến của
những người không có tài khoản ngân hàng (unbanked)
là thiếu giáo dục và thông thường là thiếu kiến thức về
tài chính. Tuy nhiên đôi khi giáo dục cũng có quan hệ
chặt chẽ với thu nhập.

14
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

4. Các thước đo tài chính toàn diện


Tài chính toàn diện được đo lường dựa trên 03 khía
cạnh: (i) mức độ bao phủ của các tổ chức tín dụng, (ii)
mức độ sử dụng các sản phẩm và dịch vụ tài chính, và (iii)
chất lượng sản phẩm dịch vụ tài chính (Gortsos, 2016).
Những chỉ số thể hiện mức độ bao phủ của các tổ
chức tín dụng (xét về phương diện nhân khẩu học và
địa lý) bao gồm số lượng chi nhánh/phòng giao dịch
trên một kilomet vuông (1000 m2) hay trên 1000 dân, số
lượng máy ATM trên một kilomet vuông (1000 m2) hay
trên 1000 dân. Trong khi đó, mức độ sử dụng là các chỉ
số liên quan tới tần suất sử dụng sản phẩm và dịch vụ
tài chính như: phần trăm số lượng tài khoản tiền gửi và
ghi nợ trên tổng dân số, số lượng giao dịch trên mỗi tài
khoản tiền gửi, số lượng giao dịch điện tử. Và cuối cùng
là những chỉ tiêu thể hiện chất lượng của sản phẩm/dịch
vụ, và mức độ hiểu biết về tài chính của người sử dụng.
Tuy nhiên, trong thực tế việc sử dụng các chỉ tiêu
này để đo lường mức độ tiếp cận tài chính có thể dẫn
đến những đánh giá thiếu chính xác và không toàn diện
bởi vì một cá nhân hay doanh nghiệp có thể có nhiều tài
khoản, hoặc có những cá nhân không có tài khoản nhưng
có thể sử dụng các dịch vụ tài chính dựa trên tài khoản
của một người khác. Tương tự như vậy, việc sử dụng các

15
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

chỉ tiêu về chi nhánh ngân hàng và máy ATM cũng chỉ
mang tính tương đối trong việc đánh giá khả năng tiếp
cận tài chính của người dân.
Hiện tại, các tổ chức quốc tế, các quốc gia triển khai
chương trình tài chính toàn diện đã thống nhất sử dụng
24 tiêu chí đánh giá tài chính toàn diện do G20 đưa ra
tại Hội nghị Thượng đỉnh Saint Peterburg năm 2012 dựa
trên 3 khía cạnh nói trên. Bên cạnh đó, bắt đầu từ năm
2011, Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế cũng
xây dựng một cơ sở dữ liệu đồ sộ về tài chính toàn diện
của các quốc gia trên thế giới (Global Findex Database)
và được điều tra, đánh giá định kỳ 3 năm một lần nhằm
giúp các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý và
nghiên cứu tham khảo sử dụng.
5. Những trụ cột của tài chính toàn diện
Tài chính toàn diện được triển khai thực hiện dựa trên
3 trụ cột sau:
(i) Dịch vụ thanh toán và cơ sở hạ tầng tài chính trong
tài chính toàn diện
Các tài khoản giao dịch giúp cá nhân và doanh nghiệp
trong việc quản lý các công việc/giao dịch tài chính hàng
ngày. Vì lý do này, tài khoản giao dịch (hay tài khoản
thanh toán) là một dịch vụ tài chính cơ bản cần được
cung cấp cho tất cả mọi người.

16
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

Việc tiếp cận và sử dụng một tài khoản giao dịch để


tạo điều kiện thuận lợi cho việc thanh toán và để giữ tiền
là bước đầu tiên trong việc được tiếp cận tài chính đầy đủ.
Đây cũng chính là tiền đề để có thể tiếp cận đến toàn bộ
sản phẩm và dịch vụ tài chính đáp ứng nhu cầu của người
sử dụng như tín dụng, bảo hiểm, tiết kiệm và đầu tư.
Việc chấp nhận và sử dụng rộng rãi tài khoản giao
dịch và các dịch vụ tài chính cao hơnsẽ có tác động tích
cực tới hệ thống thanh toán quốc gia ít nhất ở 3 khía
cạnh: (i) các dịch vụ và cả hệ thống thanh toán sẽ được
cải tiến và hiện đại hóa liên tục; (ii) theo đó, làm tăng
hiệu suất tổng thể của hệ thống thanh toán quốc gia; (iii)
những cải cách pháp lý liên quan đến thanh toán mà bắt
nguồn từ các mục tiêu tài chính toàn diện đến lượt mình
sẽ tạo ra những phát triển tích cực về mặt tổng thể cho hệ
thống thanh toán quốc gia.
Tất cả những tác động tích cực này lại có thể cải thiện
hơn nữa các điều kiện tiếp cận và sử dụng các tài khoản
thanh toán nói riêng và tài chính toàn diện nói chung, và
như vậy tạo thành một vòng tuần hoàn hiệu quả.
Như vậy, hạ tầng thanh toán nói riêng và hạ tầng tài
chính nói chunglà rất cần thiết cho một hệ thống thanh
toán quốc gia hoạt động hiệu quả, đồng thời cũng hình
thành nền tảng cơ bản cho tài chính toàn diện. Đó là, hệ

17
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

thống thanh toán điện tử liên ngân hàng; hệ thống thanh


toán bán lẻ, đặc biệt là các giao dịch chuyển khoản điện
tử; các hệ thốngchuyển mạch thẻ; cơ sở hạ tầng xác thực
nhân thân (hệ thống định danh); hệ thống thông tin tín
dụng và chia sẻ thông tin khác; hạ tầng truyền thông...
(ii) Đa dạng hóa kênh phân phối và mạng lưới các tổ
chức cung cấp dịch vụ về tài chính
Việc đa dạng kênh phân phối và các điểm tiếp cận
dịch vụ là việc làm tiếp theo để nâng cao khả năng tiếp
cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế. Trong một thế
giới công nghệ phát triển nhanh chóng, đặc biệt là công
nghệ viễn thông, khi mạng lưới truyền thống (hay vật lý)
của các tổ chức tín dụng như chi nhánh, phòng giao dịch
trở nên đắt đỏ về mặt chi phí thì có một số chính sách
mới đã chứng tỏ được hiệu quả, bao gồm:
- Thanh toán qua điện thoại di động

18
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

Việc bùng nổ số lượng thuê bao điện thoại di động đã


mở ra một kênh phân phối các dịch vụ tài chính cơ bản
khác đến với người nghèo. Công nghệ mới này đã tạo ra
tính tiện lợi đáng kể, giúp các giao dịch tài chính được
thực hiện tức thời, mở rộng điểm truy cập, giảm nhu cầu
phải mang tiền mặt và thu hút những khách hàng trước
đây chưa từng tham gia giao dịch với ngân hàng.
Tuy nhiên điều này cũng đặt ra thách thức đối với
các cơ quan quản lý nhà nước do nó gần như không chịu
sự chi phối trong phạm vi quản lý của các lĩnh vực như
ngân hàng, viễn thông, hệ thống thanh toán và cơ chế
chống rửa tiền. Do đó, hiện tại, các cơ quan quản lý có
xu hướng chấp nhận phương pháp “thí điểm”, theo đó
cho phép các công ty cung cấp thử nghiệm và phát triển
những mô hình kinh doanh của mình dưới sự giám sát
chặt chẽ.
- Dịch vụ ngân hàng đại lý (agent banking)

19
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

Chính sách này cho phép ngân hàng cộng tác với các
đại lý bán lẻ phi ngân hàng cung cấp các dịch vụ tài
chính tại những nơi ngân hàng không có chi nhánh. Đây
chính là kênh phân phối các dịch vụ tài chính cơ bản có
thể vươn đến những vùng sâu, vùng xa thông qua các đại
lý là các cửa hàng bách hóa, cửa hiệu thuốc, bưu điện
hoặc cửa hàng bán lẻ xăng dầu.
Sự hợp tác giữa ngân hàng và đại lý là khả thi bởi hạ
tầng công nghệ cho phép giảm những chi phí và rủi ro
trong việc trao đổi thông tin khi thực hiện các giao dịch
tài chính. Khi cho phép thực hiện những quy trình mở tài
khoản đơn giản,các đại lý này có thể thực hiện thu chi
tiền mặt theo sự ủy quyền của ngân hàng, thực hiện một
số dịch vụ đơn giản như chuyển tiền, thanh toán hóa đơn
dịch vụ tiện ích…, nhờ đó phạm vi bao phủ của hệ thống
tài chính và số lượng người sử dụng sẽ được mở rộng
nhanh chóng.
Ưu điểm nổi bật của phương thức ngân hàng đại lý là
thanh toán giao dịch kịp thời, thuận tiện, tiết kiệm chi phí
do khách hàng không phải di chuyển quá xa nơi cư trú.
- Đa dạng hóa các loại hình cung cấp dịch vụ tài
chính
Để mở rộng mạng lưới tiếp cận tài chính, nhiều quốc
gia trên thế giới đã cho phép nhiều loại hình tổ chức

20
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

cung cấp dịch vụ tài chính, bao gồm cả các tổ chức tài
chính vi mô, các tổ chức công nghệ tài chính. Các cơ
quan quản lý đã sử dụng những chiến lược giám sát và
quản lý khác nhau để quản lý rủi ro đối với các tổ chức
loại này. Thông thường, các cơ quan quản lý nhà nước
(ngân hàng trung ương) thường sử dụng biện pháp phân
cấp quản lý, nghĩa là phân loại tổ chức theo hoạt động
được phép và giới hạn mức độ rủi ro tín dụng đối với tổ
chức ở cấp thấp.
- Các ngân hàng chính sách/các định chế tài chính
phát triển

Tại nhiều quốc gia, các ngân hàng chính sách (có thể
là ngân hàng thương mại nhà nước) vẫn đóng một vai trò

21
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

chính trong hệ thống ngân hàng đối với việc cung cấp
dịch vụ tài chính cho người nghèo. Các ngân hàng này là
những tổ chức tài chính duy nhất có mạng lưới rộng lớn
tại khu vực nông thôn và các chính phủ thường sử dụng
họ chỉ để thúc đẩy tín dụng và tiết kiệm tại những vùng
ít mang lại lợi ích thương mại và để thực hiện những
chương trình xã hội.
(iii) Tăng cường hiểu biết về tài chính, bảo vệ người
tiêu dùng

Hầu hết các cuộc điều tra về tài chính ngân hàng tiến
hành trên toàn thế giới cho thấy một phần lớn dân số
không có đủ kiến thức, thậm chí là kiến thức cơ bản, để
hiểu về sản phẩm tài chính và rủi ro liên quan các sản
phẩm tài chính. Một bộ phận lớn các cá nhân không biết
lập kế hoạch ngân sách cho tương lai và không thực hiện

22
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

hiệu quả quyết định quản lý tài chính của mình (OECD,
2013). Kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng toàn cầu đã
cho thấy điều này có tác động tiêu cực đến sự ổn định
của hệ thống tài chính và cả nền kinh tế cũng như đến
từng cá nhân hoặc hộ gia đình, đặc biệt là những người
có thu nhập thấp. Thiếu kiến thức và hiểu biết về các loại
sản phẩm/dịch vụ tài chính hiện có cũng như các yêu cầu
cần thiết để sử dụng các sản phẩm/dịch vụ đó đã khiến
người dân thiếu sự tự tin, ngại tiếp cận và thái độ không
tin tưởng đối với các sản phẩm/dịch vụ trên thị trường
tài chính chính thức. Điều này tạo rào cản lớn trong việc
tiếp cận các dịch vụ tài chính trên thị trường chính thức,
gia tăng số lượng người không tiếp cận sản phẩm ngân
hàng, thúc đẩy sự xuất hiện của các sản phẩm/dịch vụ tài
chính phi chính thức (thị trường tài chính chợ đen), cản
trở sự cải thiện tài chính toàn diện trong mỗi quốc gia.
Vì vậy, đòi hỏi các quốc gia phải có cách thức tăng
cường hiểu biết về tài chính thông qua giáo dục, tăng
cường đào tạo kỹ năng và năng lực tài chính cho người
dân để họ có thể tiếp cận và sử dụng có trách nhiệm các
dịch vụ tài chính, quản lý tốt hơn tình hình tài chính.
Nhiều quốc gia đã triển khai các chương trình hành động
về giáo dục tài chính tiếp cận các đối tượng khác nhau
như: trường học, chiến dịch nâng cao hiểu biết tài chính

23
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

cho người dân... Nhiều quốc gia cũng thành lập những
cơ quan riêng về bảo vệ người tiêu dùng tài chính.
II. Tài chính toàn diện ở Việt Nam
Kinh tế - xã hội Việt Nam sau 30 năm đổi mới và mở
cửa đã có những chuyển biến ngoạn mục. Từ một nền
kinh tế nghèo nàn lạc hậu sau thống nhất đất nước, Việt
Nam đã gia nhập đội ngũ những nước có thu nhập trung
bình của thế giới từ năm 2010, với qui mô kinh tế đạt
4192,9 nghìn tỷ đồng (tương đương gần 200 tỷ USD) và
thu nhập bình quân đầu người khoảng 2109 USD năm
2015 (Tổng cục Thống kê, 2016). Cùng với đó là thành
tích xóa đói giảm nghèo đáng ghi nhận, theo chuẩn của
Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ nghèo từ mức 60% giảm xuống
20,7% trong vòng 20 năm (1990-2010), đồng nghĩa với
việc đưa 30 triệu người thoát khỏi nghèo đói. Hiện tại,
vẫn có hơn 9% hộ nghèo nếu áp dụng theo chuẩn nghèo
đa chiều.
Dân số Việt Nam hiện tại là hơn 90 triệu người trong
đó vẫn có 65% dân cư sống ở vùng nông thôn với tỷ lệ hộ
nghèo chiếm đến 95% của cả nước; 97% trong tổng số
doanh nghiệp là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các doanh
nghiệp siêu nhỏ. Theo Ngân hàng Thế giới, Việt Nam
hiện là 1 trong 25 quốc gia có 75% dân số không được
tiếp cận các dịch vụ tài chính, ngân hàng; Chỉ khoảng

24
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

50% số doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn vay của
ngân hàng (WB, 2014).
Ở Việt Nam, mức độ bao phủ của hệ thống các tổ chức
tín dụng đã phát triển mạnh trong những năm qua thông
qua mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch trải rộng khắp
cả nước, cung cấp đa dạng các sản phẩm, dịch vụ ngân
hàng cho người dân và doanh nghiệp. Tính đến tháng
12/2016, hệ thống các tổ chức tín dụng bao gồm 04 ngân
hàng thương mại có vốn nhà nước chi phối (Vietinbank,
Vietcombank, BIDV, Agribank), 03 ngân hàng được
Ngân hàng Nhà nước mua lại, 02 ngân hàng chính sách,
28 ngân hàng thương mại cổ phần, 27 tổ chức tín dụng
phi ngân hàng, 01 ngân hàng Hợp tác xã, 08 ngân hàng
100% vốn nước ngoài, 02 ngân hàng liên doanh, 51 chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, 1.170 quỹ tín dụng nhân
dân, 04 tổ chức tài chính vi mô. Mạng lưới hoạt động bao
gồm 2.741 chi nhánh, 7.046 phòng giao dịch.
Tính đến hết tháng 12/2016, tổng cộng cả nước có
17.472 ATM, 263.427 POS/EDC. Giá trị giao dịch qua
ATM và POS tương ứng là 1.809 tỷ đồng và 250 tỷ đồng
trong năm 2016. Các tổ chức tín dụng đã phát hành tổng
cộng hơn 110 triệu thẻ nội địa và 7,8 triệu thẻ quốc tế,
giá trị giao dịch qua thẻ tính riêng cho thẻ nội địa đã đạt
2.465 ngàn tỷ trong năm 2016.

25
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

Các ngân hàng Việt Nam cũng cùng nhau phát triển
mạnh kênh cung cấp dịch vụ qua Internetbanking và
Mobile banking. Tính đến hết năm 2016, tất cả các ngân
hàng Việt Nam đã triển khai dịch vụ Internet banking
và 35 ngân hàng thương mại cổ phần cung ứng dịch vụ
Mobile Banking. Trong những năm qua, thanh toán qua
Internet đạt tốc độ tăng trưởng từ 30-50% năm và giá trị
giao dịch đạt 7,2 triệu tỷ đồng năm 2016.
Bên cạnh đó, đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã cấp
phép cho 20 tổ chức không phải là ngân hàng được triển
khai thực hiện thí điểm dịch vụ Ví điện tử, là một trong
các loại hình dịch vụ trung gian thanh toán được cung
ứng bởi các công ty công nghệ thông tin và viễn thông
tại Việt Nam. Giá trị giao dịch ví điện tử năm 2016 đã đạt
52,6 ngàn tỷ đồng.
Tuy nhiên, trong khi những người dân đô thị và các
doanh nghiệp lớn được tiếp cận khá dễ dàng đến các dịch
vụ do các ngân hàng cung cấp thì nhóm đối tượng dân cư
nông thôn, vùng sâu, vùng xa và các doanh nghiệp nhỏ
và vừa đang gặp không ít trở ngại.
Định hướng thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt Nam
Ở Việt Nam, khái niệm tài chính toàn diện còn khá
mới mẻ. Tuy nhiên, các nội dung của tài chính toàn diện
đã và đang được Chính phủ đặt thành những ưu tiên

26
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

và triển khai thực hiện trong nhiều năm qua. Các quan
điểm, mục tiêu, định hướng và giải pháp trong các chiến
lược phát triển lớn của Việt Nam như các Chiến lược
phát triển kinh - tế xã hội từng giai đoạn, Chiến lược phát
triển bền vững Việt Nam 2011 - 2020 đều hướng tới việc
nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân
dân; Tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát
triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã
hội; Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo
phù hợp với từng thời kỳ; Có chính sách và các giải pháp
phù hợp nhằm hạn chế phân hoá giàu nghèo, giảm chênh
lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị; Xây dựng
đồng bộ, nâng cao chất lượng và tổ chức thực hiện có
hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách
phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện ngày càng tốt hơn
an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, bảo vệ và trợ giúp các
đối tượng dễ bị tổn thương trong nền kinh tế thị trường.
Chính phủ cũng xây dựng và triển khai nhiều chính
sách cụ thể hướng đến những đối tượng của tài chính
toàn diện ở Việt Nam. Chương trình mục tiêu quốc gia
giảm nghèo (Nghị quyết 30a của Chính phủ) đến nay đã
thực hiện được 3 giai đoạn với đối tượng của chương
trình là người nghèo, hộ nghèo, xã đặc biệt khó khăn, xã
nghèo; ưu tiên đối tượng hộ nghèo mà chủ hộ là phụ nữ,
hộ nghèo dân tộc thiểu số, hộ nghèo có đối tượng bảo

27
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

trợ xã hội (người già, người tàn tật, trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt); Chương trình Phát triển kinh tế - xã hội các xã
đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi
(Chương trình 135) đã được triển khai thực hiện ở giai
đoạn 2; Nhiều chính sách tín dụng cho học sinh, sinh
viên, hộ gia đình sản xuất kinh doanh ở những vũng khó
khăn; Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu,
doanh nghiệp nhỏ và vừa…
Việt Nam cũng đã có một số chính sách nhằm thúc
đẩy trực tiếp các hoạt động thuộc phạm vi của tài chính
toàn diện. Chính sách hỗ trợ tín dụng phát triển nông
nghiệp nông thôn được triển khai từ năm 2010 (còn gọi
là Nghị định 41/2010/NĐ-CP) và đang được sửa đổi bổ
sung để thực hiện phù hợp với tình hình mới. Đề án đẩy
mạnh thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam do
Thủ tướng Chính phủ ban hành được thực hiện từ 2006
và đến nay đang chuẩn bị triển khai cho giai đoạn thứ
3 (2016-2020); Năm 2011, Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Đề án xây dựng và phát triển hệ thống tài chính vi
mô tại Việt Nam đến năm 2020. Và gần đây nhất, tháng
9/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1726/
QĐ-TTg phê duyệt Đề án Nâng cao khả năng tiếp cận
dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế với mục tiêu đến năm
2020, nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ ngân hàng
cơ bản phù hợp với nhu cầu, có chất lượng, có mức chi

28
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

phí hợp lý đối với đại bộ phận dân cư ở độ tuổi trưởng


thành và doanh nghiệp, nhất là dân cư ở vùng nông thôn,
vùng sâu, vùng xa, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, dựa
trên hệ thống các tổ chức tín dụng hoạt động an toàn,
lành mạnh, có trách nhiệm và phát triển bền vững.
Mặc dù vậy, những chính sách kể trên vẫn chưa được
đặt trong một chiến lược tài chính toàn diện mang tính
tổng thể, có thể tập trung tất cả nguồn lực và nỗ lực để
hướng vào đúng đối tượng và triển khai thực hiện các
biện pháp phù hợp một cách hiệu quả. Một chiến lược
quốc gia về tài chính toàn diện có thể có ý nghĩa lớn
lao về mặt phát triển xã hội, giảm bất bình đẳng, chênh
lệch giàu nghèo, giúp cho mỗi người dân có thể được
thụ hưởng thành quả phát triển kinh tế đem lại. Thông
qua tiếp cận tài chính, mỗi người dân có cơ hội để tiếp
cận với các dịch vụ giáo dục, y tế, phát triển sản xuất,
tạo công ăn việc làm. Từ đó, Chiến lược tài chính toàn
diện có thể góp phần đạt mục tiêu kinh tế - xã hội 5 năm
2016 - 2020 mà Quốc hội đã đề ra trong Nghị quyết số
142/2016/QH13 (bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phấn
đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước với GDP
bình quân 5 năm tới 6,5 - 7%). Thực tế Chiến lược này
được triển khai ở một số nước trong khu vực đã cho thấy
sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững.
Bên cạnh đó, sự tồn tại của chiến lược tài chính toàn diện

29
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

cũng có thể hỗ trợ thiết lập nền tài chính quốc gia lành
mạnh thông qua việc phân phối và sử dụng nguồn lực tài
chính trong xã hội hiệu quả, công bằng hơn và qua đó,
cũng giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội. Điều này
đồng thời cũng sẽ hỗ trợ Việt Nam thực thi những mục
tiêu Thiên niên kỷ đã cam kết với Liên hợp quốc.
Nhận thức rõ vấn đề trên, Chính phủ Việt Nam nhận
thấy sự cần thiết phải xây dựng một chiến lược quốc gia
về tài chính toàn diện làm cơ sở để triển khai một cách
đồng bộ và có hiệu quả các trụ cột của tài chính toàn
diện trong thời gian tới. Theo đó, Chính phủ sẽ tập trung
nguồn lực vào xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý;
Phát triển cơ sở hạ tầng tài chính, công nghệ; Đa dạng
hóa sản phẩm, dịch vụ tài chính; Xây dựng cơ chế bảo
vệ người tiêu dùng và giáo dục tài chính; Quan tâm, ưu
tiên đối với các đối tượng dễ bị tổn thương (các doanh
nghiệp siêu nhỏ, vừa và nhỏ, người nghèo nông thôn,
phụ nữ…) nhằm hỗ trợ, giúp các đối tượng này tiếp cận
tốt hơn, hiệu quả hơn các dịch vụ tài chính, ngân hàng;
Xây dựng cơ chế điều phối và phối hợp huy động tổng
thể nguồn lực triển khai tài chính toàn diện hiệu quả (các
cơ quan quản lý, tổ chức tín dụng, tổ chức chính trị - xã
hội, khu vực tư nhân…).

30
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

Tại Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 22 tháng 7 năm


2016 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016
- 20120, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã được giao
làm cơ quan đầu mối chủ trì, phối hợp với các cơ quan
liên quan, điều phối chung về tài chính toàn diện tại Việt
Nam. Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước đang khẩn trương
phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chính phủ, chính
quyền địa phương, các tổ chức liên quan để tuyên truyền,
thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời về tài chính toàn
diện ở Việt Nam; Phối hợp có hiệu quả với các tổ chức
quốc tế, nhà tài trợ để tận dụng nguồn lực tài chính và
kỹ thuật của các tổ chức này để giúp Việt Nam xây dựng
và triển khai tài chính toàn diện; Rà soát và hoàn thiện
các khuôn khổ pháp lý cần thiết trong hệ thống nhằm tạo
điều kiện cho các tổ chức tín dụng mở rộng hoạt động và
cung cấp nhiều hơn các dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là ở
khu vực vùng xa, vùng sâu, khó khăn.
Thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt Nam đang gặp
những cơ hội, nhưng cũng đặt ra không ít thách thức.
Cơ hội
- Xu hướng tập trung ưu tiên cho tài chính toàn diện
trên bình diện quốc tế thúc đẩy nhận thức chung về tài
chính toàn diện tại Việt Nam. Các tổ chức quốc tế về
phát triển sẵn sàng dành các nguồn lực tài chính, kinh

31
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

nghiệm quốc tế để hỗ trợ Việt Nam hoàn thiện khuôn


khổ pháp lý, thể chế, xây dựng và triển khai đồng bộ
Chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện ở Việt Nam.
- Chính phủ Việt Nam đã nhận thức rõ về tầm quan
trọng của sự ổn định tài chính, ý nghĩa quan trọng của
tăng trưởng và phát triển bền vững, sẵn sàng cam kết về
một chiến lược tài chính toàn diện.
- Ngân hàng Nhà nước đã và đang triển khai nhiều
chương trình, dự án về nâng cấp hạ tầng thanh toán; đẩy
mạnh phát triển mạng lưới các tổ chức tài chính vi mô
như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Ngân hàng Chính sách xã hội, Chiến lược phát triển hệ
thống tài chính vi mô; thúc đẩy thanh toán điện tử và cho
phép thí điểm các sản phẩm đổi mới sáng tạo.
Thách thức
- Nhận thức chung của xã hội về tài chính toàn diện
chưa đầy đủ.
- Chưa có được một khung khổ pháp luật đảm bảo sự
cam kết theo đuổi và thực hiện chiến lược tài chính toàn
diện ở Việt Nam, đảm bảo sự tham gia của tất cả các bên
liên quan, đặc biệt là khu vực tư nhân.
- Cơ sở dữ liệu về tiếp cận tài chính nói riêng và tài
chính toàn diện nói chung còn thiếu, cần xây dựng một

32
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

cơ sở dữ liệu quốc gia về tài chính toàn diện để phục vụ


cho việc hoạch định chính sách cũng như đánh giá việc
triển khai thực hiện.
- Cơ sở hạ tầng tài chính còn thiếu và chưa được kết
nối đồng bộ, đặc biệt là cơ sở hạ tầng thông tin (thông tin
tín dụng, hệ thống định danh…).
- Kiến thức tài chính của người dân nói chung còn
thấp, chưa nhận thức được đầy đủ quyền và trách nhiệm
của người tiêu dùng tài chính. Chưa có cơ quan bảo vệ
người tiêu dùng tài chính.
Khung khổ chiến lược tài chính toàn diện ở Việt Nam
Trước hết, nội hàm của tài chính toàn diện cần được
hiểu thống nhất ở Việt Nam. Theo đó xác định mục tiêu
của tài chính toàn diện là: “Phấn đấu đảm bảo tất cả
người dân và doanh nghiệp, nhất là dân cư ở vùng nông
thôn, vùng sâu, vùng xa, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, có
quyền tiếp cận và sử dụng hiệu quả các sản phẩm, dịch vụ
tài chính cơ bản, chính thức, phù hợp với nhu cầu, có chất
lượng, tiện lợi, nhanh chóng ở mức chi phí chấp nhận
đượctrên cơ sở phát triển hệ thống các tổ chức tài chính
hoạt động an toàn, hiệu quả, và bền vững”. Trong đó:
- Các sản phẩm và dịch vụ tài chính chính thức gồm:
thanh toán, tiết kiệm, tín dụng, bảo hiểm và hưu trí;

33
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

- Tính dễ tiếp cận và sử dụng: Tất cả các thành viên


trong xã hội đều có thể tiếp cận và sử dụng một cách thuận
lợi và chúng không đặt ra các yêu cầu cao đối với họ;
- Đáp ứng nhu cầu của người sử dụng: các sản phẩm
và dịch vụ tài chính phải được thiết kế phù hợp để đáp
ứng nhu cầu của khách hàng trên cơ sở tính đến mức thu
nhập của họ và kênh phân phối;
- Chi phí hợp lý: các sản phẩm và dịch vụ tài chính
được thiết kế trong khả năng chi trả của mọi khách hàng.
Cách thức tiếp cận tổng thể của tài chính toàn diện ở
Việt Nam sẽ phải tập trung vào ít nhất 3 khía cạnh:
(i) Tiếp cận sản phẩm, dịch vụ tài chính: thông qua
việc tiếp cận được mở rộng, người tiêu dùng có khả năng
chấp nhận/sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính mới
từ các tổ chức chính thức. Có những hành động/biện
pháp thúc đẩy hoặc thực hiện các biện pháp để tháo gỡ
những rào cản giữa tổ chức cung ứng dịch vụ và khách
hàng để mở rộng tiếp cận tài chính, nhất là đối với những
khách hàng có thu nhập thấp và chưa được tiếp cận dịch
vụ ngân hàng.
(ii) Việc sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính: đề
cập đến mức độ thường xuyên sử dụng các sản phẩm,
dịch vụ tài chính. Một chiến lược toàn diện không chỉ

34
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

thúc đẩy việc sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính
mà còn tăng cường khả năng tận dụng tối đa các sản
phẩm, dịch vụ này của khách hàng.
(iii) Chất lượng của sản phẩm, dịch vụ tài chính: được
xác định bằng khả năng của khách hàng được hưởng lợi
từ các sản phẩm, dịch vụ tài chính mới và được gắn với
bảo vệ người tiêu dùng và nâng cao hiểu biết tài chính
(năng lực tài chính).
Để đạt được mục tiêu chiến lược, các trụ cột chiến
lược tài chính toàn diện được xây dựng trên cơ sở phân
tích phía cung (tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính) - và
phía cầu (người dân và tổ chức có nhu cầu sử dụng dịch
vụ/sản phẩm tài chính) và các mảng chính là sản phẩm,
kênh phân phối. Theo đó, 3 trụ cột chính, xuyên suốt
chiến lược sẽ là:
- Trụ cột 1: Các sản phẩm, dịch vụ tài chính đa dạng:
Mục tiêu chủ đạo của trụ cột 1 là đa dạng hóa loại hình
tổ chức tài chính nhằm cung cấp các sản phẩm, dịch vụ
tài chính phong phú, phù hợp với nhu cầu của người tiêu
dùng tài chính. Với mục tiêu này, một số giải pháp đã
được đề xuất:
+ Phát triển hệ thống định chế tài chính bền vững,
có trách nhiệm với cộng đồng, trong đó phát huy vai
trò của các tổ chức tài chính vi mô, các quỹ tín dụng

35
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

nhân dân, ngân hàng chính sách, các tổ chức công nghệ
tài chính…;
+ Phát triển cơ sở hạ tầng tài chính hiệu quả với
trọng tâm là một hệ thống thanh toán quốc gia hiện đại
và hữu hiệu;
+ Thúc đẩy vai trò của công nghệ hiện đại và đổi mới
sáng tạo trong lĩnh vực tài chính;
- Trụ cột 2: Các kênh phân phối đổi mới: Mục tiêu
của trụ cột 2 là các sản phẩm, dịch vụ tài chính được
cung cấp đến người sử dụng thông qua các kênh phân
phối từ truyền thống đến hiện đại. Trong đó, nhấn mạnh
phát triển các kênh phân phối mới dựa trên nền tảng công
nghệ hiện đại như ngân hàng điện tử, ngân hàng di động,
ngân hàng đại lý để cung ứng dịch vụ/sản phẩm ngân
hàng thông qua Internet (mạng trực tuyến), điện thoại di
động, thông qua việc cộng tác với các đại lý bán lẻ phi
ngân hàng, theo đó, đại lý bán lẻ phi ngân hàng sẽ đại
diện ngân hàng, cung cấp các dịch vụ tài chính tại những
nơi ngân hàng không có chi nhánh.
- Trụ cột 3: Bảo vệ người tiêu dùng tài chính và tăng
cường hiểu biết tài chính. Mục tiêu của trụ cột này là
hình thành những người tiêu dùng tài chính có khả năng
sử dụng, đánh giá các sản phẩm, dịch vụ tài chính mà các
tổ chức tài chính có trách nhiệm cung cấp để sáng suốt

36
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

lựa chọn các sản phẩm dịch vụ tài chính phù hợp với nhu
cầu thực tế của cá nhân. Để thực hiện mục tiêu này, trụ
cột 3 có các đề hướng như sau:
+ Xây dựng, ban hành và hoàn thiện khuôn khổ pháp
lý liên quan đến chính sách bảo vệ người tiêu dùng tài
chính để từ đó nâng cao hiệu quả trong hoạt động bảo vệ
người tiêu dùng tài chính thông qua công tác thanh tra,
giám sát các tổ chức tín dụng, ngăn ngừa và xử lý các
cuộc tranh chấp và kiện tụng liên quan đến dịch vụ/sản
phẩm tài chính theo cách thức tiến gần với thông lệ và
chuẩn mực quốc tế;
+ Xây dựng và triển khai chiến lược giáo dục tài chính
ở phạm vi quốc gia để nâng cao kiến thức tài chính trong
dân, qua đó thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt Nam.
Các trụ cột chiến lược được hỗ trợ từ các yếu tố nền
tảng là:
(i) Hoàn thiện khung khổ pháp luật, chính sách quản
lý, trong đó nhấn mạnh đến giám sát an toàn, bảo
vệ người tiêu dùng;
(ii) Cơ sở hạ tầng tài chính hiệu quả; và
(iii) Sự cam kết mạnh mẽ từ Chính phủ, sự tham gia và
phối hợp của tất cả các Bộ, ngành, sự tham gia của
toàn xã hội và người dân, trong đó các TCTD đóng
vai trò quan trọng.

37
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

Tài chính toàn diện đầy đủ là mục tiêu bao trùm, liên
quan đến tất cả các ngành và lĩnh vực, đòi hỏi sự tham
gia, phối hợp của toàn hệ thống chính trị. Một Chiến
lược quốc gia về tài chính toàn diện được Chính phủ
phê duyệt sẽ đảm bảo được sự phối kết hợp của các bộ,
ngành liên quan, theo đó tập trung được mọi nguồn lực
để đạt mục tiêu đề ra. Nhận thức rõ ý nghĩa quan trọng
này sẽ giúp các cơ quan quản lý nhà nước nâng cao trách
nhiệm trong việc xác định và thực hiện các giải pháp khả
thi và hiệu quả.
Với mỗi người dân và doanh nghiệp, tài chính toàn
diện vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ. Sự nhận thức và
tham gia có trách nhiệm của mỗi người sẽ thúc đẩy tài
chính toàn diện của đất nước, đảm bảo công bằng xã hội
và đóng góp vào sự tăng trưởng bền vững. Các tổ chức
tín dụng và các tổ chức khác với tư cách là những người
có trách nhiệm cung ứng dịch vụ tài chính cho tất cả
người dân, không những có cơ hội tăng thu nhập nhờ mở
rộng cơ sở khách hàng và đa đạng hóa sản phẩm/dịch vụ
mà còn mang lại lợi ích to lớn cho toàn xã hội thông qua
tài chính toàn diện. Bởi vậy, hệ thống các tổ chức cung
ứng dịch vụ tài chính sẽ có một vị trí quan trọng trong
chiến lược tài chính toàn diệnquốc gia.

38
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

PHẦN 2:
CÔNG NGHỆ VÀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

I. Vai trò của công nghệ thúc đẩy tài chính toàn diện
Sự phát triển vượt bậc của nhiều công nghệ mới trong
hai thập kỷ qua đã mở ra những tiềm năng to lớn trong
việc nâng cao khả năng tiếp cận tài chính. Chi phí giao
dịch và rào cản địa lý là những trở ngại chính đối với
việc cung cấp dịch vụ thì giờ đây, những phát kiến công
nghệ như ngân hàng di động, hệ thống thông tin tín dụng
điện tử, định dạng cá nhân sinh trắc học có thể giảm
mạnh những chi phí này và nhờ đó khắc phục được các
rào cản tồn tại bấy lâu nay đối với tiếp cận tài chính.

39
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

Đáng kể nhất là công nghệ thông tin và viễn thông


thế hệ mới (ICT) đang làm thay đổi nhanh chóng diện
mạo của dịch vụ tài chính trên khắp toàn cầu. Công nghệ
ICT làm cho dịch vụ tài chính có thể hiện diện ở bất cứ
nơi nào, với chi phí thấp hầu như không đáng kể, giúp
hàng trăm triệu người lần đầu tiên đã có cơ hội tiếp cận
dịch vụ tài chính. Công nghệ cũng hứa hẹn triển vọng
về những dịch vụ thuận tiện hơn, phù hợp và mang tính
đáp ứng nhiều hơn, thậm chí đối với cả những khách
hàng chưa từng sử dụng chúng. Những công nghệ mới
và những sáng kiến đổi mới còn làm thay đổi mô hình
kinh doanh đem lại những chuyển biến to lớn trong việc
cung cấp dịch vụ tài chính cho mọi người.
Các dịch vụ thanh toán dựa vào công nghệ thẻ đã
được phổ biến ở nhiều nước trong những năm qua nhưng
đặc biệt phát triển mạnh trong những năm gần đây nhờ
sự hỗ trợ của công nghệ viễn thông và kỹ thuật xử lý
thông tin tinh vi. Hệ thống ATM không chỉ còn là những
máy rút tiền thuần túy cho các chủ thẻ mà đã trở thành
điểm giao dịch mà ở đó khách hàng có thể thực hiện
nhiều giao dịch từ thanh toán hóa đơn đến gửi tiền tiết
kiệm và thậm chí là cả tín dụng.1 Trong những năm gần
1
Ở Việt Nam, hiện nay, thẻ ATM đã được các ngân hàng tích hợp cho
phép gười dân có thể mua hàng trực tuyến, trả tiền vé máy bay tại rất
nhiều website của các nhà cung cấp hàng hóa dịch vụ trong nước hỗ trợ
hình thức thanh toán trực tuyến thông qua thẻ ghi nợ nội địa.

40
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

đây, các loại thẻ trả trước đã có sự tăng trưởng mạnh


mẽ khi các tổ chức tài chính và các công ty tài chính phi
ngân hàng hướng tới cả các đối tượng lao động di cư và
không có tài khoản ngân hàng. Tất cả những sự phát triển
này có được chính là nhờ những đổi mới công nghệ lưu
trữ thông tin, khả năng truy cập và xác thực giao dịch
giúp nâng cao hiệu quả, giảm mạnh thời gian và chi phí
giao dịch. Rõ ràng những đổi mới công nghệ trong hệ
thống thanh toán bán lẻ đã mở rộng khả năng tiếp cận tài
chính và chắc chắn vẫn là phương thức giao dịch quan
trọng ở nhiều nước.
Những năm gần đây hơn đã cho thấy vai trò lớn của
ứng dụng ngân hàng di động đối với tài chính toàn diện.
Nhờ công nghệ thông tin hiện đại, các ngân hàng giờ đã
có thể phục vụ khách hàng ở những nơi không có sự hiện
diện của ngân hàng, ví dụ như thông qua ngân hàng đại
lý. Những kỹ thuật mới áp dụng cho báo cáo thông tin tín
dụng và xác thực nhân thân người đi vay đã giúp giảm
mạnh chi phí trung gian và cho phép ngân hàng cung cấp
dịch vụ tới những người trước kia bị loại trừ do những
rào cản thu nhập hoặc thủ tục giấy tờ phức tạp. Nhờ khả
năng xử lý của máy tính được tăng lên, các ngân hàng
dựa trên những cơ sở dữ liệu lớn về hành vi tín dụng lịch
sử để đánh giá rủi ro tốt hơn và từ đó có thể cung cấp tín
dụng cho cả những người trước kia chưa từng đi vay.

41
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

Công nghệ đang cho thấy vai trò vô cùng quan trọng
trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện ở kỷ nguyên kỹ
thuật số hiện nay. Những dịch vụ tài chính dựa trên nền
tảng công nghệ mang lại những lợi thế vượt trội mà các
dịch vụ truyền thống không thể có được:
- Tiếp cận tức thì. Khả năng của công nghệ có thể
mang dịch vụ đến cho mọi người ở bất kỳ nơi nào
và chỗ nào họ cần là động lực lớn nhất thúc đẩy tài
chính toàn diện đầy đủ.
- Chi phí thấp không đáng kể. Với việc cung cấp dịch
vụ tài chính hiệu quả hơn, công nghệ có thể giúp dịch
vụ trở thành chấp nhận được với cả những khách hàng
thu nhập thấp, và điều này khiến cho nhiều người sử
dụng hơn.2
- Bảo đảm an toàn. Khi không sử dụng đến tiền mặt,
dịch vụ tài chính sẽ trở nên an toàn hơn và minh bạch
hơn cho cá nhân, doanh nghiệp và cả chính phủ.
- Sản phẩm và kênh phân phối đổi mới đa dạng. Những
mô hình kinh doanh dựa trên công nghệ có thể mở ra
nhiều sản phẩm và phương thức phân phối mới dễ
2
Nhiều tính toán cho thấy chi phí mỗi giao dịch thực hiện trên kênh
kỹ thuật số giảm đến 80-90% so với các giao dịch truyền thống. Digital
finance for all: powering inclusive growth in emerging economies
(McKinsey, 2016).

42
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

dàng sử dụng và thêm nhiều giá trị gia tăng đối với
các sản phẩm truyền thống. Chẳng hạn, máy ATM
lắp thêm thiết bị âm thanh có thể giúp người mù chữ
hay người khuyết tật tiếp cận được chúng mà trước
đây họ bị loại trừ.
- Nâng cao năng suất. Khi sản phẩm được cung cấp
thuận tiện hơn, phù hợp hơn với nhu cầu của khách
hàng, rõ ràng khách hàng được lợi nhiều hơn với
nguồn lực của hộ gia đình và doanh nghiệp không
thay đổi.
II. Các mô hình ứng dụng công nghệ
Những ứng dụng của công nghệ để thúc đẩy tài chính
toàn diện thể hiện rõ nét nhất ở những mô hình sau:
1. Ngân hàng di động và thanh toán di động

Ngân hàng di động và công nghệ thanh toán được coi


là phát kiến có ý nghĩa lớn nhất trong khu vực tài chính

43
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

trong thập kỷ qua. Sự phủ sóng rộng khắp cũng như tốc
độ tăng trưởng nhanh chóng của công nghệ điện thoại di
động đã làm giảm mạnh chi phí thông tin liên lạc, đáp
ứng khả năng của cả những người có thu nhập thấp ở
các nước đang phát triển. Việc kết hợp giữa các công ty
cung cấp viễn thông với các ngân hàng đã mở ra những
triển vọng to lớn, cho phép khách hàng nhận, chuyển và
gửi tiền qua mạng lưới điện thoại di động. 2/3 số người
trưởng thành ở Kenya đã sử dụng dịch vụ thanh toán và
chuyển tiền bằng điện thoại di động, 50% chủ sở hữu
điện thoại di động ở Tanzania cài đặt ứng dụng tài khoản
tiền điện tử (KPMG, 2016). Tuy nhiên, ở nhiều nước vẫn
còn khoảng cách lớn giữa tỷ lệ sở hữu điện thoại di động
và sử dụng dịch vụ ngân hàng di động. Khối lượng và
giá trị giao dịch qua ngân hàng di động vẫn phổ biến ở
mức thấp.
Ngân hàng di động và công nghệ thanh toán đóng
vai trò quan trọng cho việc sử dụng dịch vụ tài chính
chính thức. Hiện tại, tất cả các ngân hàng đều hỗ trợ ứng
dụng ngân hàng di động trên điện thoại thông minh của
tất cả các ngôn ngữ hệ điều hành. Các giao dịch từ tài
khoản ngân hàng có thể thực hiện thông qua điện thoại
dựa vào hệ thống PIN trên nền tảng ngân hàng di động.
Tuy nhiên thách thức trước mắt vẫn là thiết kế những
ứng dụng di động an toàn bảo mật và dễ sử dụng cho các

44
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

giao dịch hàng ngày. Do ngân hàng di động và công nghệ


thanh toán có lợi thế kinh tế theo quy mô, chúng sẽ hiệu
quả hơn khi có nhiều người tham gia vào hệ thống. Điều
này có nghĩa là thành công của ngân hàng di động và hệ
thống thanh toán phụ thuộc cơ bản vào số người sử dụng
tiềm năng. Tại các nước đang phát triển nơi sử dụng tiền
mặt vẫn phổ biến, cần lưu ý thêm những yếu tố quyết
định việc chấp nhận thanh toán trên nền tảng di động
là số điểm gửi vào và rút tiền ra (cash in/cash out) từ
hệ thống di động. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là cơ
quan quản lý phải đồng hành để tạo ra các khuyến khích
cho việc phát triển các nền tảng thanh toán di động và
yêu cầu những nền tảng này phải có đủ độ mở. Nhờ đó,
các nền tảng ngân hàng điện tử và nền tảng thanh toán
khác nhau như ví điện tử có khả năng kết nối liên thông
sao cho người sử dụng có thể tương tác qua lại giữa các
ứng dụng ngân hàng di động mà không gặp phải các rào
cản kỹ thuật hay bị áp thêm phí.
Bên cạnh những vấn đề về cơ cấu và điều tiết thị
trường còn có những chính sách của nhà nước có thể
thúc đẩy việc sử dụng ngân hàng di động. Ở nhiều nước,
một chính sách có nhiều triển vọng là các khoản thanh
toán trợ cấp của chính phủ cho cá nhân (G2P). Thanh
toán G2P tạo ra cơ hội lớn để đưa những người trước
đây chưa có tài khoản ngân hàng đến được với dịch vụ

45
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

tài chính chính thức. Nhiều chính phủ đã bắt đầu thử
nghiệm sử dụng công nghệ thanh toán điện thoại di động
trên phạm vi nhỏ để trả tiền trợ cấp cho những người thu
nhập thấp. Pakistan là trường hợp điển hình của việc sử
dụng thanh toán G2P qua hệ thống điện thoại di động
với hơn 10 triệu khoản thanh toán hàng tháng. Hiện tại,
có khoảng hơn 1,8 triệu tài khoản ngân hàng di động
và 75% trợ cấp G2P sử dụng kênh thanh toán này. Việc
kết hợp giữa chính phủ và khu vực tư nhân trong trường
hợp này mang lại nhiều ý nghĩa. Trong khi việc trả trợ
cấp qua hệ thống di động giúp Chính phủ giảm được chi
phí quản lý hành chính và nâng cao tính minh bạch thì
các công ty điện thoại cũng có được cơ hội mở rộng cơ
sở khách hàng của mình tới phân khúc những người thu
nhập thấp.
2. Đổi mới kênh phân phối
Bên cạnh khả năng thúc đẩy trực tiếp tài chính toàn
diện, công nghệ ngân hàng di động và thanh toán mới
còn tạo ra những mô hình kinh doanh dựa trên nền tảng
công nghệ có thể mở rộng khả năng tiếp cận tới những
dịch vụ tài chính cơ bản. Ngân hàng đại lý là mô hình
sử dụng kết hợp công nghệ thẻ và điện thoại di động để
cung cấp dịch vụ cho những người trước đây không có
tài khoản ngân hàng.

46
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

Trong mô hình ngân hàng đại lý, đại diện của một
ngân hàng (nhưng không phải nhân viên ngân hàng)
có trách nhiệm vận hành các giao dịch nhân danh một
hay nhiều ngân hàng ở bên ngoài phạm vi mạng lưới
chi nhánh của ngân hàng đó. Đại lý ngân hàng có thể là
một địa điểm cố định cung cấp dịch vụ ngân hàng cho
khách hàng để hưởng hoa hồng ở những nơi trước đây
không có ngân hàng, hoặc là những nhân viên ngân hàng
di động định kỳ đi đến những địa điểm xa xôi để cung
cấp dịch vụ tài chính cơ bản. Cả hai hình thức ngân hàng
đại lý này đang phát triển nhanh chóng nhờ có các công
nghệ ngân hàng di động và thanh toán mới, nhờ đó giảm
được chi phí giao dịch và mở rộng khả năng tiếp cận
tài chính bên ngoài phạm vi bao phủ của mạng lưới chi
nhánh truyền thống.
Điểm nổi bật trong mô hình này là sự kết hợp giữa
công nghệ di động và những kênh phân phối mới, chẳng
hạn như sử dụng các cửa hàng bán lẻ làm đại lý ngân
hàng. Điều này cho phép các ngân hàng tạo ra nhiều
điểm tiếp cận thuận tiện hơn cho khách hàng hiện tại,
giảm tắc nghẽn ở chi nhánh và giành được sự hiện diện
rộng hơn về mặt địa lý mà không cần phải đầu tư vào trụ
sở chi nhánh truyền thống. Mô hình ngân hàng đại lý có
thể đến được với cả những người không có điện thoại di
động và có khả năng cung cấp nhiều dịch vụ hơn so với

47
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

ngân hàng di động, chẳng hạn như bảo hiểm và tín dụng.
Hiện tại, nhiều nền tảng thanh toán di động đã kết hợp
với các đối tác ngân hàng để cung cấp phạm vi rộng các
sản phẩm, thông qua kênh bán lẻ của mạng lưới đại lý.
Ở nhiều nước như Brazil, Ấn Độ, Kenya và Mexico,
mô hình ngân hàng đại lý đã trở thành công cụ quan trọng
để mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính cơ bản,
theo đó thúc đẩy tài chính toàn diện. Từ năm 2006 Ấn
Độ đã áp dụng mô hình ngân hàng đại lý dựa trên công
nghệ. Ngân hàng trung ương Ấn Độ đã yêu cầu các ngân
hàng cung cấp dịch vụ tài chính cơ bản cho những người
dân nông thôn không có tài khoản ngân hàng. Các ngân
hàng đã kết hợp nhiều cách: mở chi nhánh mới, đặt đại
lý ở địa điểm cố định, đại lý ngân hàng di động để thực
hiện mục tiêu này. Trường hợp dẫn đầu về ngân hàng đại
lý là Brazil. Chỉ trong 5 năm kể từ khi hình thành, mạng
lưới ngân hàng đại lý đã phục vụ 12,4 triệu tài khoản
ngân hàng mới và hiện chiếm 56% tổng số điểm giao
dịch của cả hệ thống tài chính của Brazil. Các chương
trình trợ cấp lớn của chính phủ được thực hiện thông qua
các ngân hàng nhà nước đã được triển khai thông qua
mạng lưới đại lý ngân hàng rộng khắp. Chương trình trợ
cấp lớn nhất của Chính phủ là Bolsa Família đang phục
vụ cho 14 triệu gia đình. Ngân hàng trung ương cũng
khuyến khích các tổ chức tài chính vươn đến vùng sâu

48
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

vùng xa là những nơi trước đây họ không có mặt. Tuy


nhiên, mặc dù đạt được nhiều tiến bộ, những người dân
vùng sâu vùng xa vẫn gặp nhiều hạn chế, những dịch vụ
tiết kiệm, tín dụng và bảo hiểm vẫn chưa phổ biến.
3. Công nghệ cải thiện công tác xác thực nhân
thân và báo cáo tín dụng
Những công nghệ làm giảm tình trạng thiếu hụt thông
tin là một hình thức đổi mới công nghệ thúc đẩy tài chính
toàn diện. Nhiều thị trường tài chính đang bị cản trở bởi
vấn đề thiếu thông tin mà được coi là nguyên nhân chính
dẫn đến tình trạng bị loại trừ. Thông thường các tổ chức
cho vay bù đắp cho việc không đủ thông tin tin cậy về
nhân thân hay lịch sử tín dụng của người đi vay bằng
cách tăng yêu cầu tài sản thế chấp, tăng cường thẩm định
trước cho vay hoặc thậm chí từ chối cho vay đối với một
số phân khúc khách hàng. Điều này khiến cho một số
người bị loại trừ tài chính.
Hầu hết các nước phát triển đã có một hệ thống định
danh quốc gia giúp việc xác thực nhân thân và tra cứu
lịch sử tín dụng một cách thuận tiện. Để một hệ thống
báo cáo tín dụng hoạt động hiệu quả, cần phải có khả
năng xác thực nhân thân của từng cá nhân. Điều này là
một thách thức lớn ở nhiều nước đang phát triển khi chưa
có được một hệ thống định danh của tất cả mọi người.

49
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

Ngay cả khi có được một hệ thống định danh chính thức


nào đó cũng khó tiến hành xác thực nhân thân khi gặp
phải vấn đề chia sẻ thông tin, đặc biệt là chia sẻ thông tin
với các tổ chức cung ứng dịch vụ (bên thứ ba). Điều này
khiến cho các tổ chức tín dụng e ngại cung cấp dịch vụ
nhất là đối với những khách hàng mới.
Để giải quyết tình trạng này, nhiều nước đã áp dụng
những giải pháp công nghệ mới để cải thiện công tác
xác thực nhân thân người đi vay. Chẳng hạn Chính phủ
có thể sử dụng các hình thức định danh sinh trắc học đối
với một cá nhân như vân tay, và được liên kết với lịch sử
tín dụng của cá nhân đó. Ấn Độ là quốc gia đã ứng dụng
hệ thống định danh sinh trắc học từ năm 2014. Theo đó,
mỗi cá nhân có một số định danh (số căn cước) được kết
nối với dữ liệu sinh trắc học, bao gồm ảnh, quét mống
mắt, và vân tay, được liên kết với hồ sơ tín dụng của từng
cá nhân. Điều này giúp các ngân hàng và các tổ chức tài
chính vi mô dễ dàng xác thực nhân thân của người đi
vay, cải thiện tính minh bạch và giảm vấn đề thông tin
bất đối xứng ở thị trường tín dụng.
4. Những lĩnh vực tiềm năng khác
Những lĩnh vực tiềm năng khác của ứng dụng công
nghệ trong tài chính toàn diện có thể kể đến là:
- Dữ liệu số lớn (Big data). Dựa vào các nguồn số liệu

50
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

lớn, các phương pháp phân tích mới sẽ giúp tối ưu


qui trình phê duyệt tín dụng. Số liệu từ các nguồn
mới chẳng hạn như lịch sử thanh toán hóa đơn dịch
vụ điện, nước, điện thoại… cũng tạo điều kiện cho
những người trước kia bị loại trừ có thể được cấp tín
dụng và có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn nhu cầu và
hành vi tài chính của những nhóm người khác nhau.
Tương tự, khi các giao dịch được số hóa, các nhà
cung cấp có thể khai thác cơ sở dữ liệu này để phân
tích hành vi khách hàng từ đó cải thiện sản phẩm
cung cấp.
- Điện toán đám mây (cloud computing). Việc lưu trữ
và cung cấp số liệu dựa trên công nghệ điện toán đám
mây đã giúp tăng khả năng sẵn có của dữ liệu và khả
năng xử lý dữ liệu lên gấp nhiều lần, đảm bảo việc xử
lý giao dịch nhanh chóng, kết nối trực tiếp giữa khâu
giao dịch khách hàng và khâu xử lý sau giao dịch mà
không phải qua nhiều khâu trung gian như trước.
- Mạng xã hội (social media). Các trang mạng xã hội
có tiềm năng nâng cao mức độ sử dụng dịch vụ thông
qua việc chia sẻ thông tin, tác động đến hành vi người
sử dụng, tiếp thị trực tiếp các dịch vụ tài chính và
tăng cường sự kết nối giữa người sử dụng và người
cung cấp dịch vụ.

51
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

III. Khung khổ luật pháp luận tạo thuận lợi cho
ứng dụng công nghệ
Thay đổi công nghệ đòi hỏi các cơ quan quản lý phải
luôn sát cánh cùng các vấn đề kỹ thuật và thương mại
có liên quan để đảm bảo một thị trường cạnh tranh đồng
thời bảo đảm an toàn và bảo vệ người tiêu dùng. Khuôn
khổ pháp luật hiện hành nhiều năm nay được xây dựng
theo những mô hình hoạt động ngân hàng truyền thống.
Công nghệ mang lại những thay đổi về cách thức vận
hành của các ngân hàng thương mại, và nó cũng đem
đến nhiều người chơi mới như các công ty viễn thông và
các nhà cung cấp dựa trên nền tảng internet... mà thường
được gọi là fintech. Trong tương lai chắc chắn còn có
thêm nhiều người tham gia sân chơi này nữa.
Công nghệ rõ ràng hứa hẹn những triển vọng to lớn
nhưng điều đó chỉ có thể hiện thực hóa khi đáp ứng được
một số điều kiện. Trước hết, thị trường phải được vận
hành trên cơ sở cho phép cạnh tranh và đổi mới đồng
thời đảm bảo được sự an toàn và ổn định. Công nghệ
luôn thay đổi với tốc độ không ngừng, do vậy cần phải
có một hệ thống quản lý biết thích nghi với những thay
đổi không ngừng. Các cơ quan quản lý sẽ cần phải cân
đối các ưu tiên để làm sao cho phép những công nghệ
mới được triển khai đồng thời duy trì những mức độ rủi
ro chấp nhận được.

52
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

Do đó, để công nghệ thực sự góp phần thúc đẩy tài


chính toàn diện, các cơ quan quản lý tại các quốc gia đều
chú ý đến những vấn đề sau:
- Sự đối xử pháp luật như nhau đối với cả ngân hàng và
phi ngân hàng nếu cùng cung cấp những sản phẩm/
dịch vụ tương tự và quản lý những sản phẩm/dịch vụ
theo mức độ rủi ro cụ thể của chúng chứ không phải
là theo nhóm nhà cung cấp dịch vụ/loại hình tổ chức.
- Nới lỏng những hạn chế đối với các loại hình không
trực tiếp huy động tiền gửi nhưng tham gia vào mạng
lưới cung ứng dịch vụ tài chính với biện pháp phù
hợp với đặc thù rủi ro của loại hình này.
- Xây dựng hành lang pháp lý hiệu quả đối với hoạt
động ngân hàng đại lý và ngân hàng di động. Những
quy định đối với vai trò, trách nhiệm và quản lý tài
chính của đại lý phải đồng thời a) bảo đảm sự an toàn
và nơi giải quyết tranh chấp cho khách hàng; b) bảo
đảm cạnh tranh công bằng và đổi mới sáng tạo; c) có
cách tiếp cận toàn diện khu vực tài chính (không quá
chặt chẽ và cản trở các mô hình hoạt động).
- Xây dựng quy trình, thủ tục nhận biết khách hàng
(KYC) sao cho tạo thuận lợi cho việc tiếp cận của
những khách hàng mới, những người lao động tự
do… đồng thời vẫn bảo đảm an toàn, bao gồm cả áp

53
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

dụng quy trình KYC từ xa. Những biểu mẫu và quy


trình xác thực nhân thân và chứng minh nơi cư trú
cần đơn giản và linh hoạt hơn. Việc tích hợp với hệ
thống cơ sở dữ liệu định danh quốc gia thống nhất sẽ
phát huy lợi ích to lớn. Những quy định liên quan đến
phòng chống rửa tiền, tài trợ khủng bố cũng cần xem
xét đến yếu tố phục vụ cho tài chính toàn diện.
- Đảm bảo sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý. Nhiều
nhà cung cấp dịch vụ mới chưa chịu sự giám sát của
các cơ quan quản lý, chẳng hạn như các nhà bán lẻ
cấp tín dụng mua hàng, những đơn vị nhận làm đại lý
hoặc các công ty vận hành mạng điện thoại di động.
Điều quan trọng là các cơ quan quản lý phải hợp tác
với nhau để đảm bảo một sân chơi công bằng cho tất
cả các nhà cung cấp dịch vụ tài chính và có được cách
tiếp cận thống nhất, bất kể đó là tổ chức loại nào.
- Và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là
cần đảm bảo rằng chính sách thuế không cản trở sự
đầu tư vào công nghệ. Cung cấp những khuyến khích
thuế và trợ cấp cho các nhà cung cấp để xây dựng và
chia sẻ hạ tầng ở những khu vực chưa được phục vụ.

54
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

PHẦN 3:
GIÁO DỤC TÀI CHÍNH
VÀ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU
DÙNG TRONG TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

Một trong 3 yếu tố trụ cột của chiến lược tài chính
toàn diện quốc gia là giáo dục tài chính và bảo vệ người
tiêu dùng. Mục tiêu của trụ cột này là hình thành những
người tiêu dùng tài chính có khả năng sử dụng, đánh
giá các sản phẩm, dịch vụ tài chính do các tổ chức tài
chính cung cấp để lựa chọn các sản phẩm, dịch vụ tài
chính phù hợp với nhu cầu thực tế của cá nhân và thiết
lập một hệ thống luật định về bảo vệ người tiêu dùng
tài chính để đảm bảo người tiêu dùng tài chính được đối
xử công bằng trong giao dịch tài chính và có thể tiếp
cận những thông tin cần thiết về sản phẩm/dịch vụ tài
chính nhằm đưa ra quyết định tài chính phù hợp, tạo
tiền đề cho thực hiện thành công Chiến lược quốc gia
về tài chính toàn diện.

I. Giáo dục tài chính với tài chính toàn diện


1. Khái niệm về giáo dục tài chính và hiểu biết tài chính
(i) Giáo dục tài chính
Theo OECD (2005), giáo dục tài chính được hiểu là
“một quá trình trong đó người tiêu dùng/nhà đầu tư cải

55
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

thiện sự hiểu biết về các sản phẩm tài chính, các khái
niệm và rủi ro tài chính, dựa trên những thông tin, hướng
dẫn và tư vấn khác mà phát triển các kỹ năng, sự tự tin
để nhận biết các rủi ro cũng như cơ hội tài chính, từ đó
đưa ra các quyết định trên cơ sở đầy đủ thông tin, hoặc
biết cách tìm kiếm sự giúp đỡ, và hành động một cách
hiệu quả nhằm cải thiện tình trạng tài chính của mình.”
(ii) Hiểu biết tài chính
Đến nay, một định nghĩa chung về “hiểu biết tài chính”
vẫn chưa có sự thống nhất, mà thường được điều chỉnh
hay thay đổi tùy thuộc vào từng nghiên cứu, chương
trình triển khai của mỗi tổ chức quốc tế hoặc quốc gia.
Tuy nhiên, có thể sử dụng khái niệm của OECD bởi định
nghĩa này phản ánh được những nhân tố cơ bản của hiểu
biết tài chính. Theo đó, hiểu biết tài chính được định
nghĩa là tổng hợp nhận thức, kiến thức, kỹ năng, thái độ
và hành vi tài chính cần thiết để có thể đưa ra các quyết
định tài chính lành mạnh và cuối cùng đạt được lợi ích
tài chính (OECD, 2012).
Như vậy, hiểu biết tài chính có thể coi là kết quả của
giáo dục tài chính. Nhờ có giáo dục tài chính, con người
mới hiểu biết tài chính. Thông qua hiểu biết tài chính,
giáo dục tài chính thể hiện vai trò quan trọng đối với việc
thúc đẩy tài chính toàn diện ở mỗi quốc gia.

56
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

2. Vai trò của giáo dục tài chính trong tài chính
toàn diện
Một điều tra về khả năng tiếp cận tài chính của người
dân do OECD/INFE (2013) thực hiện với nhiều quốc gia
đã kết luận, việc thiếu kiến thức về đặc điểm cũng như
điều kiện sử dụng các loại sản phẩm/dịch vụ tài chính
dẫn đến sự thiếu tự tin, có hành vi ngại tiếp cận và thái
độ không tin tưởng đối với các sản phẩm/dịch vụ tài
chính trên thị trường tài chính chính thức. Điều này tạo
ra rào cản lớn trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính
trên thị trường chính thức, gia tăng số lượng người ít
tiếp cận sản phẩm ngân hàng, thúc đẩy sự xuất hiện các
sản phẩm/dịch vụ tài chính phi chính thức (thị trường
tài chính đen), cản trở sự cải thiện tài chính toàn diện ở
mỗi quốc gia. Giáo dục tài chính có thể cung cấp những
kiến thức cần thiết về sản phẩm/dịch vụ tài chính chính
thức cho người dân, tạo niềm tin và sự tự tin để chủ động
tiếp cận đến các sản phẩm, dịch vụ sẵn có trên thị trường
chính thức, hạn chế sự mở rộng của thị trường tài chính
phi chính thức, trực tiếp thúc đẩy tài chính toàn diện ở
mỗi quốc gia.
Bên cạnh đó, giáo dục tài chính còn hỗ trợ sự phát
triển bền vững của hệ thống tài chính và nền kinh tế, tiếp
sức cho tài chính toàn diện thực hiện các mục tiêu kinh tế

57
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

- xã hội của quốc gia. Cụ thể, khi được tăng cường hiểu
biết tài chính, người tiêu dùng tài chính có khả năng so
sánh và đánh giá chất lượng các loại hình sản phẩm tài
chính khác nhau để lựa chọn ra sản phẩm phù hợp nhất
với tình hình tài chính bản thân. Điều này đòi hỏi các tổ
chức tài chính phải không ngừng cải tiến và sáng tạo các
sản phẩm dịch vụ tài chính để đáp ứng các nhu cầu khác
nhau của người tiêu dùng tài chính, khiến thị trường tài
chính không ngừng cạnh tranh, nâng cao chất lượng sản
phẩm, thúc đẩy thị trường tài chính phát triển và hoàn
thiện hơn. Hơn nữa, nhờ giáo dục tài chính, cá nhân/hộ
gia đình sẽ có xu hướng tiết kiệm và quản lý ngân sách
tốt hơn, giúp gia tăng nguồn lực tiết kiệm trong dân, thúc
đẩy nguồn vốn đầu tư cho xã hội, tạo hiệu ứng tích cực
cho đầu tư và tăng trưởng nền kinh tế.
Thêm vào đó, giáo dục tài chính sẽ giúp cá nhân/hộ
gia đình biết cách tự bảo vệ mình, biết phát hiện và thông
báo cho cơ quan quản lý những sai phạm của các tổ chức
trung gian tài chính. Điều này sẽ hỗ trợ hoạt động giám
sát được dễ dàng hơn, giảm nhẹ nguồn lực của Nhà nước
vào việc giám sát, kiểm tra và xử lý sai phạm, và trên
hết là tạo một môi trường kinh tế - tài chính lành mạnh,
bền vững làm cơ sở cho từng cá nhân, doanh nghiệp phát
triển, cải thiện kinh tế, rồi từ đó lại tạo ra động lực mới
cho sự phát triển của thị trường tài chính nói riêng và nền

58
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

kinh tế nói chung, hình thành một vòng tròn phát triển
bền vững với những bước tiến mới trong đời sống kinh
tế - xã hội.
Như vậy, giáo dục tài chính không chỉ góp phần trực
tiếp gia tăng số lượng người trưởng thành tiếp cận và sử
dụng các sản phẩm/dịch vụ tài chính mà còn gián tiếp hỗ
trợ tài chính toàn diện thực hiện một số mục tiêu quốc
gia như thúc đẩy luân chuyển dòng vốn đầu tư và tiết
kiệm trong xã hội, tăng tính minh bạch và cạnh tranh
lành mạnh cho thị trường tài chính, hướng tới phát triển
bền vững và toàn diện cho mỗi quốc gia.

II. Vai trò của bảo vệ người tiêu dùng với giáo dục
tài chính và tài chính toàn diện
1. Khái niệm cơ bản về bảo vệ người tiêu dùng tài chính
(i) Người tiêu dùng tài chính
Người tiêu dùng tài chính là các cá nhân hoặc tổ chức
sử dụng các sản phẩm/dịch vụ tài chính trên thị trường
tài chính.
(ii) Bảo vệ người tiêu dùng tài chính
Bảo vệ người tiêu dùng tài chính là việc một hệ thống
luật pháp và tổ chức chính phủ được thiết lập để đảm bảo
quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng tài chính cũng

59
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

như đảm bảo giao dịch và cạnh tranh công bằng, thông
tin sản phẩm/dịch vụ tài chính minh bạch trên thị trường
tài chính, ngăn chặn các tổ chức tài chính thực hiện các
hành vi gian lận, trái luật hoặc hưởng lợi bất hợp pháp
từ các giao dịch với cá nhân hoặc tổ chức tài chính khác.
2. Vai trò của bảo vệ người tiêu dùng tài chính
với tài chính toàn diện
Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, mỗi năm thế
giới có gần 150 triệu người tiêu dùng mới tham gia vào
thị trường tài chính (WB, 2010). Sự mất cân đối thông
tin về sản phẩm/dịch vụ tài chính giữa người tiêu dùng và
tổ chức cung ứng đã đặt nhiều người tiêu dùng tài chính
vào thế bất lợi. Sự mất cân đối này càng lớn khi kinh
nghiệm tài chính của người tiêu dùng thấp và mức độ
càng phức tạp của các sản phẩm/dịch vụ tài chính. Điều
này dẫn đến trường hợp, nhiều tổ chức tài chính một mặt
vẫn đảm bảo khách hàng được phục vụ tốt nhưng mặt
khác đã lợi dụng lợi thế thông tin để kiếm lời bất chính,
gây mất niềm tin vào thị trường tài chính chính thức. Do
đó, thực hiện bảo vệ người tiêu dùng tài chính với những
quy định phù hợp có thể ngăn chặn sự mất cân đối thông
tin, gây dựng lại niềm tin cho người tiêu dùng tài chính,
khuyến khích họ chủ động tiếp cận đến các sản phẩm/
dịch vụ tài chính chính thức và qua đó thúc đẩy tài chính
toàn diện.

60
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

Bảo vệ người tiêu dùng là yếu tố quan trọng để có


thể thúc đẩy tài chính toàn diện, đặc biệt đối với những
người thiếu kinh nghiệm và có hiểu biết hạn chế. Năm
vấn đề cần minh bạch hóa trong bảo vệ người tiêu dùng
được quan tâm đặc biệt:
- Minh bạch về các điều khoản, điều kiện, phí và quyền
lợi của người tiêu dùng, đặc biệt đối với khách hàng
lần đầu tiên sử dụng dịch vụ, từ đó khách hàng có
thể đưa ra quyết định dựa trên cơ sở được thông tin
đầy đủ, tránh những ngộ nhận hoặc hiểu lầm không
đáng có.
- Minh bạch về trách nhiệm đối với các giao dịch trái
phép, bởi không như các sản phẩm dịch vụ truyền
thống thường kèm theo yêu cầu kiểm soát chặt chẽ về
mặt chứng từ để bảo vệ khách hàng, một số sản phẩm
dựa trên công nghệ hiện đại nếu không tuân thủ các
yêu cầu lưu vết giao dịch hoặc xác định khách hàng
có thể bị lạm dụng gây thất thoát.
- Hỗ trợ khách hàng và giải quyết khiếu nại, khi họ
cần phản ánh những vấn đề phát sinh trong giao dịch
tài chính. Cơ chế này rất quan trọng để bảo vệ khách
hàng tránh khỏi những nhà cung ứng dịch vụ yếu
kém và chất lượng dịch vụ thấp, tạo lòng tin cho họ.
- Bảo vệ thông tin/dữ liệu cá nhân của khách hàng.

61
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

- Bảo vệ khách hàng tránh khỏi bị truy thu trái phép


từ tài khoản giao dịch của họ, như bị chủ nợ xiết nợ,
hoặc các khoản truy thu khác.
Bảo vệ người tiêu dùng tài chính và giáo dục tài chính
có mối quan hệ tương hỗ và đều là nhân tố quan trọng đối
với việc thúc đẩy tài chính toàn diện ở nhiều quốc gia.
Theo một nghiên cứu các thông lệ quốc tế dành cho bảo
vệ người tiêu dùng tài chính của Ngân hàng Thế giới,
giáo dục tài chính là một cấu phần quan trọng để thực
thi thành công bảo vệ người tiêu dùng tài chính (WB,
2012). Thực tế triển khai trên nhiều quốc gia cũng cho
thấy giáo dục tài chính thành công sẽ tăng cường hiểu
biết tài chính của người dân, giúp người dân: (i) tự tin
tìm hiểu về các sản phẩm/dịch vụ tài chính chính thức
sẵn có để lựa chọn sản phẩm/dịch vụ phù hợp với nhu
cầu; (ii) hiểu và thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của
bản thân trong các giao dịch tài chính; (iii) bảo vệ bản
thân trước các hoạt động lừa đảo và chủ động tố giác đến
cấp có thẩm quyền. Điều này sẽ thúc đẩy minh bạch hóa
thông tin, giúp cơ quan quản lý nhìn được các lỗ hổng
trên thị trường, hoàn thiện hơn nữa những quy định bảo
vệ người tiêu dùng tài chính và đưa ra các quy định giám
sát phù hợp hơn đối với thị trường tài chính nói chung và
mỗi định chế tài chính nói riêng.

62
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

III. Kinh nghiệm thế giới trong việc thực hiện giáo
dục tài chính và bảo vệ người tiêu dùng
1. Xu hướng thế giới về xây dựng Chiến lược giáo
dục tài chính
Với vai trò trọng yếu của giáo dục tài chính đối với
tài chính toàn diện và sự phát triển bền vững của nền
kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, các tổ chức quốc tế
như OECD và Ngân hàng Thế giới cũng như nhiều quốc
gia đã cam kết tăng cường tài chính toàn diện đều thấy sự
cần thiết phải xây dựng chiến lược quốc gia về giáo dục
tài chính. Theo kết quả khảo sát của OECD/INFE (2015)
thì đã có 59 quốc gia đã, đang xây dựng, triển khai thực
hiện Chiến lược giáo dục tài chính cho quốc gia của mình
cùng 6 quốc gia khác bắt đầu có dự định xây dựng Chiến
lược giáo dục tài chính trên phạm vi quốc gia. So với con
số 36 nước triển khai năm 2012, sự gia tăng mạnh mẽ
của các quốc gia thực thi chiến lược giáo dục tài chính
năm 2015 đã cho thấy việc xây dựng và triển khai Chiến
lược là hiệu quả để thực hiện trụ cột giáo dục tài chính
trong tài chính toàn diện ở mỗi quốc gia.

63
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

Bảng 1: Mức độ triển khai chiến lược giáo dục tài


chính quốc gia ở các nước, 2015
Chiến lược Tổng Nước
quốc gia
Các nước đã thực hiện 11 Úc, Cộng hòa Séc, Nhật
và đang đánh giá kết Bản, Malaysia, Hà Lan; New
quả chiến lược đầu tiên Zealand; Singapore, Cộng hòa
hoặc đang triển khai Slovak; Tây Ba Nha; Anh; Mĩ.
chiến lược thứ hai
Các nước đã triển khai 23 Armenia; Bỉ; Brazil; Canada;
chiến lược (đầu tiên) Croatia; Đan Mạch; Estonia;
Ghana; Hồng Kông; Trung
Quốc; Ấn Độ; In đô nê sia; Cộng
hòa Ailen; Israel; Hàn Quốc;
Latvia; Mô-rôc-cô; Nigeria;
Bồ Đào Nha; Liên bang Nga;
Slovenia; Nam Phi; Thụy Điển;
Thổ Nhĩ Kì.
Các nước đang xây 25 Argentina; Chi-lê; Trung Quốc;
dựng chiến lược quốc Colombia; Costa Rica; El
gia (chưa triển khai) Salvador; Pháp; Guatemala;
Kenya; Kyrgyzstan; Lebanon;
Malawi; Mê-xi-cô; Pakistan;
Paraquay; Peru; Phần Lan;
Ru-ma-ni; Ả rập Sê út; Serbia;
Tanzania; Thái Lan; Uganda;
Uruguay; Zambia
Các nước bắt đầu cân 6 Áo; Macedonia (FYROM);
nhắc một chiến lược Philippines; Ukraine;
quốc gia (chưa triển khai) Zimbabwe.

Nguồn: Kết quả nghiên cứu của OECD/INEF, 2015

64
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

Về mặt đối tượng, hầu hết chính phủ các quốc gia này
đều xác định toàn dân là đối tượng mục tiêu của chiến
lược giáo dục tài chính quốc gia, nhưng bên cạnh đó cũng
xác định những nhóm đối tượng ưu tiên cụ thể. Trong 35
nước trả lời khảo sát của OECD/INFE năm 2012, có tới
hơn một nửa (52%) cho biết mục tiêu giáo dục tài chính
là tới toàn dân, 18% cho biết thêm rằng ngoài mục tiêu
toàn dân, họ cũng tập trung vào một số nhóm đối tượng
nhất định. Thế hệ trẻ (thanh thiếu niên) thường là nhóm
đối tượng ưu tiên của đa số các quốc gia thực thi Chiến
lược quốc gia về tài chính toàn diện, tiếp đó là nhóm
đối tượng dễ bị tổn thương (tùy thuộc vào hoàn cảnh
của từng quốc gia). Dù vậy, một đặc điểm chung trong
chiến lược giáo dục tài chính của các quốc gia này là đều
dựa trên các nhóm đối tượng mục tiêu để đưa ra các giải
pháp cũng như các nội dung giáo dục tài chính phù hợp.
Ví dụ như chương trình giáo dục tài chính ở mọi cấp
học (từ cấp 1 cho đến cấp 3, cao đẳng, đại học, trường
dạy nghề để hướng tới giới trẻ, chương trình giáo dục
tài chính hướng tới phụ nữ (ở Brazil, Ấn Độ, Malaysia,
Indonesia, Ả rập Xê-út và Thổ Nhĩ Kỳ), dành cho người
nhập cư (Canada, Malaysia, Indonesia và Mexico), các
chủ doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa (Brazil, Ấn Độ,
Thái Lan, Malaysia, Ả-rập Xê-út và Tây Ba Nha), người
lao động, người có thu nhập thấp và người già (Malaysia,

65
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

Brazil, Canada, Trung Quốc, Hàn quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và


Mỹ), người tàn tật (Malaysia, Indonesia, Lào, Thái Lan)
Về hình thức chủ trì thực hiện, theo nghiên cứu của
OECD, tổ chức đứng ra chủ trì, triển khai thực hiện chiến
lược giáo dục tài chính thường là các cơ quan phụ trách
về vấn đề tài chính như Ngân hàng trung ương hoặc Bộ
tài chính. Chẳng hạn như ở Malaysia, Colombia, Bồ Đào
Nha, Philippines là Ngân hàng trung ương hay Séc, Hà
Lan là Bộ Tài chính. Đặc biệt ở một số nước như Canada
thì Chính phủ thành lập riêng một ban chuyên trách về
giáo dục tài chính. Dù cơ quan chủ trì đóng vai trò quan
trọng thế nào thì việc triển khai chiến lược giáo dục tài
chính luôn đòi hỏi sự phối hợp của nhiều cơ quan như Bộ
Tài chính, Ngân hàng Trung ương, Bộ Giáo dục - Đào
tạo, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Cơ quan Thống kê và Điều
tra, Bộ Lao động xã hội, Ủy ban chứng khoán, Cơ quan
bảo hiểm tiền gửi….
Về kinh phí thực hiện, chính phủ thường đặt một quỹ
riêng cho hoạt động phát triển chiến lược hoặc tập hợp từ
nhiều nguồn như nguồn ngân sách nhà nước hay nguồn
từ các các cơ quan công quyền (Bộ tài chính, Ngân hàng
trung ương và các cơ quan lập pháp), nguồn ủng hộ từ
khu vực tư nhân và các khu vực khác (NGOs, tổ chức
quốc tế).

66
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

2. Kinh nghiệm thế giới trong thực hiện Bảo vệ


người tiêu dùng tài chính
Điều tra khảo sát toàn cầu về bảo vệ người tiêu
dùng tài chính năm 2013 (Global Survey on Financial
Consumer Protection) của Ngân hàng Thế giới cho thấy
112 trong 114 quốc gia được khảo sát đã triển khai thực
thi một khuôn khổ pháp luật bảo vệ người tiêu dùng tài
chính nhằm tăng cường tài chính toàn diện ở quốc gia
đó. Nhiều nghiên cứu thực tiễn đã chứng minh việc thiết
lập một khuôn khổ pháp lý phù hợp cho bảo vệ người
tiêu dùng trong lĩnh vực tài chính là một giải pháp hữu
hiệu cho việc gia tăng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính
cũng như mở rộng số lượng và chất lượng các sản phẩm/
dịch vụ tài chính trên thị trường.
Theo một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới về tiêu
chuẩn Bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực tài chính tại
châu Âu và Trung Á cho thấy, một khuôn khổ pháp lý bảo
vệ người tiêu dùng tài chính hiệu quả phải đảm bảo cung
cấp cho người tiêu dùng tài chính những quyền lợi sau đây:
- Quyền được minh bạch - quy định rõ ràng về việc
cung cấp thông tin một cách đầy đủ, chính xác, đơn giản,
ngắn gọn và có thể so sánh được về giá cả, các điều kiện
giao dịch (và rủi ro có liên quan) của các sản phẩm và
dịch vụ tài chính;

67
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

- Quyền chọn lựa - khuôn khổ phải đảm bảo thực hiện
các tiêu chuẩn công bằng, hợp lý và không ép buộc trong
quá trình giới thiệu các sản phẩm/dịch vụ tài chính, đặc
biệt trong dịch vụ thanh toán;
- Quyền được giải quyết khiếu nại và bồi thường thiệt
hại - cung cấp các cơ chế giải quyết tranh chấp và khiếu
nại nhanh chóng, hiệu quả với chi phí hợp lý cho người
tiêu dùng tài chính cũng như tổ chức tài chính;
- Quyền được đảm bảo riêng tư - bảo đảm việc kiểm
soát về việc tiếp cận đối với các thông tin riêng tư của
người tiêu dùng tài chính trong các giao dịch tài chính.
Như vậy, thực hiện thành công trụ cột “Bảo vệ người
tiêu dùng và tăng cường hiểu biết tài chính” có thể cung
cấp kiến thức tài chính cần thiết cho người tiêu dùng
tài chính và một khung pháp lý bảo vệ người tiêu dùng
tài chính chặt chẽ để người tiêu dùng tài chính hiểu rõ
quyền và nghĩa vụ trong giao dịch tài chính, đủ tự tin sử
dụng và lựa chọn thông minh các sản phẩm dịch vụ tài
chính trên thị trường, là một yếu tố nền tảng cho việc
thực hiện thành công Chiến lược tài chính toàn diện ở
mỗi quốc gia.

68
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

THAY LỜI KẾT LUẬN

Tài chính toàn diện có ý nghĩa to lớn đối với kinh


tế xã hội của đất nước, là tiền đề quan trọng cho công
tác xóa đói giảm nghèo và tăng trưởng bền vững. Chính
phủ nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có nhiều nước
đang phát triển ở châu Á, châu Phi và Mỹ La tinh đang
triển khai các chương trình quốc gia về tài chính toàn
diện như là một phương cách để đạt được mục tiêu tăng
trưởng toàn diện, trong đó tất cả mọi người trong xã hội,
không loại trừ bất cứ ai đều được hưởng thành quả của
tăng trưởng kinh tế và xã hội. Các tổ chức quốc tế trong
những năm gần đây đã đặt tài chính toàn diện là trọng
tâm trong các chương trình hỗ trợ tài chính và kỹ thuật
cho các quốc gia trên thế giới.
Thực tế ở Việt Nam trong những năm qua cho thấy,
những nội dung của tài chính toàn diện đã và đang được
thực hiện trong nhiều chính sách kinh tế và xã hội của
Việt Nam nhưng còn mang tính phân tán nên hiệu quả
chưa thật sự như mong đợi. Việc xây dựng một Chiến
lược quốc gia về tài chính toàn diện là cần thiết để có thể
tập trung và phát huy nỗ lực của tất cả mọi người hướng
tới mục tiêu chung của tăng trưởng toàn diện. Do đó, xây

69
SƠ LƯỢC VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

dựng và triển khai thành công một Chiến lược quốc gia
về tài chính toàn diện cần có sự phối hợp và tham gia của
các Bộ, ngành, các tổ chức xã hội, khu vực tư nhân, nhất
là các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính. Bên cạnh đó,
công nghệ có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy tài chính
toàn diện, đặc biệt trong bối cảnh cuộc cách mạng công
nghệ lần thư tư đang diễn ra mạnh mẽ. Điều quan trọng
là phải có được một hành lang pháp lý đồng hành với
sự phát triển của công nghệ và bảo về người tiêu dùng
hướng tới thực hiện các mục tiêu của tài chính toàn diện
ở Việt Nam.

70

You might also like