You are on page 1of 409

1.

- Thủ đoạn chống phá của chiến lược “Diễn biến hoà bình” đối với Việt Nam gồm những thủ đoạn nào
dưới đây? Cả 3 đáp án trên
2. - Biện pháp nào thuộc biện pháp phòng chống chung với vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường? pháp
luật
3. - Yếu tố nào sau đây ảnh hưởng đến an toàn giao thông? Cả 3 đáp án trên
4. - Yếu tố nào sau đây thuộc môi trường tự nhiên? Cả 3 đáp án trên
5. - Lực lượng nào là nòng cốt của nhà nước trực tiếp duy trì, điều hành trật tự an toàn giao thông đường
bộ? Cảnh sát giao thông
6. - Chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch chống các nước xã hội chủ nghĩa bằng biện
pháp gì dưới đây? Biện pháp phi quân sự
7. - Nguồn gốc của tôn giáo? Nguồn gốc kinh tế - xã hội.4,
8. 1. Các dân tộc Việt Nam có bao nhiêu đặc điểm ? 5 Đặc điểm
9. 2. Đến thời điểm tháng 12/2020, có bao nhiêu tôn giáo đang được phép hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam
? 16 Tôn giáo.
10. 3.Thủ đoạn của địch chống phá về tư tưởng, văn hoá ở nước ta như thế nào ? Xoá bỏ chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phá vỡ tư tưởng Đảng Cộng sản Việt Nam, truyền bá tư tưởng tư sản; du
nhập văn hoá đồi truỵ; làm phai mờ bản sắc văn hoá Việt Nam.
11. 4.Vùng nào ở nước ta có tính nhạy cảm để địch thường gây rối, mất ổn định xã hội ? Tây Bắc, Tây Nguyên,
Tây Nam Bộ.
12. 5.Có mấy ? 3 hình thức.
13. 6.Vật liệu làm bao bì và đồ hộp nào ít gây hại đến môi trường nhất ? Bìa cattong
14. Các biện pháp phòng chống vi phạm pháp luật trên không gian mạng bao gồm? -> sử dụng kgian mạng
15. 7.Pháp luật có vai trò như thế nào đối với công tác bảo vệ môi trường ? Quan trọng
16. Đến thời điểm tháng 12/2020, có bao nhiêu tôn giáo đang được phép hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam?
-> 16
17. 8.Đảng ta xác định có mấy phương châm tiến hành chống “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của địch
? Có 2 phương châm.
18. 9.Khi tiến hành bạo loạn lật đổ các thế lực thù địch thường vận dụng những thủ đoạn nào? Kích động bất
bình của dân chúng; dụ dỗ, cưỡng ép nhân dân biểu tình; uy hiếp, khống chế cơ quan quyền lực địa
phương.
19. - Có mấy giải pháp đấu tranh phòng, chống sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng
Việt Nam của các thế lực thù địch 5 giải pháp
20. 2. Thủ đoạn của địch chống phá về kinh tế đối với nước ta như thế nào ? chuyển hóa nền kte..
21. 3. Nguồn cung cấp điện năng phục vụ con người được tạo ra từ yếu tố nào ? gió
22. 4. Vật liệu làm bao bì và đồ hộp nào ít gây hại đến môi trường nhất ? bìa cartong
23. Có bao nhiêu thủ đoạn địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt nam? -> 5
24. 5. Giải pháp nào là giải pháp đấu tranh phòng chống sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách
mạng Việt Nam ? cả 3 đáp án trên
25. 6. Thủ đoạn của địch chống phá về tư tưởng, văn hoá ở nước ta như thế nào ? xóa bỏ chủ nghĩa mác
lênin…
26. 7. Hình thức đánh bắt hải sản nào sau đây phạm tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản ? hóa chất
27. 8. Đến thời điểm tháng 12/2020, có bao nhiêu tôn giáo đang được phép hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam
? 16 tôn giáo
28. 9. Mục tiêu nhất quán của địch trong chiến lược “ diễn biến hoà bình” đối với cách mạng Việt Nam là gì
? xóa bỏ sự lãnh đạo của đảng…
29. - Vật liệu làm bao bì và đồ hộp nào ít gây hại đến môi trường nhất ? bìa catton
30. - Có mấy hình thức bạo loạn ? 3 hình thức
31. - Theo của Đảng và nhà nước ta, hoạt động mê tín dị đoan phải được giải quyết như thế nào ? bài trừ
32. - Bảo vệ Tổ quốc được Đảng ta xác định là ? 1 trong 2 nhiệm vụ chiến lược
33. - Pháp luật xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường gồm những vấn đề gì ? cả 3 đáp án
34. - Có mấy giải pháp phòng chống chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ ở Việt Nam hiện nay ?
7 giải pháp
35. - Chiến lược “ diễn biến hoà bình” của địch hình thành, phát triển có mấy giai đoạn? 2
36. - Bạo loạn lật đổ có những hình thức nào ? chính trị, vũ trang, kết hợp ctri và vũ trang
37. - Khi tiến hành bạo loạn lật đổ các thế lực thù địch thường vận dụng những thủ đoạn nào? Kích động bất
bình của dân chúng; dụ dỗ, cưỡng ép nhân dân biểu tình; uy hiếp, khống chế cơ quan quyền lực địa
phương.
38. - Sinh viên cần làm gì để bảo vệ môi trường sống xung quanh ? Thu gom rác thải nơi sinh sống và học
tập
39. - Có bao nhiêu thủ đoạn địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam? 4 Thủ
đoạn.
40. - Vật liệu làm bao bì và đồ hộp nào ít gây hại đến môi trường nhất ? Bìa cattong
41. - Vai trò của môi trường đối với con người gồm nội dung gì sau đây? Cả 3 đáp án trên
42. - Chiến lược “ diễn biến hoà bình” của địch hình thành, phát triển có mấy giai đoạn? 2 giai đoạn.
43. - Sinh viên phải làm gì để góp phần phòng chống chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của
địch ? Phải nỗ lực học tập, rèn luyện trở thành công dân tốt; thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác
cách mạng; tích cực học tập, rèn luyện về Giáo dục quốc phòng.
44. - Đảng ta xác định mấy quan điểm trong đấu tranh chống “ Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của
địch ? 3 .
45. - Đến thời điểm tháng 12/2020, có bao nhiêu tôn giáo đang được phép hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam
? The correct answer is: 16 Tôn giáo.
46. - Các hành vi nào sau đây gây ảnh hưởng đến môi trường? Xả rác bừa bãi

Hành vi nào trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam? xúc phạm
dân tộc

47. - Yếu tố nào cần thiết cho trồng cây nông nghiệp ? Đất
48. - Yếu tố nào sau đây do con người tạo ra ? Xi măng
49. - Thủ đoạn của địch chống phá về kinh tế đối với nước ta như thế nào ? Chuyển hoá nền kinh tế Việt
Nam dần theo kinh tế thị trường tư bản; khích lệ kinh tế tư nhân thành chủ đạo thành phần kinh tế nhà nước; Gây
sức ép chính trị, giúp đỡ, viện trợ, chuyển giao công nghệ.
50. - Hình thức đánh bắt hải sản nào sau đây phạm tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản ? Hoá chất
51. - Yếu tố nào sau đây thuộc môi trường tự nhiên ? Đất
52. - Bảo vệ Tổ quốc được Đảng ta xác định là ? Là một trong hai nhiệm vụ chiến lược.
53. - Có mấy hình thức bạo loạn ?3 hình thức.
54. - Bạo loạn lật đổ có những hình thức nào ?Bạo loạn chính trị, bạo loạn vũ trang, bạo loạn chính trị kết
hợp với vũ trang.
55. - Biện pháp nào thuộc biện pháp phòng chống chung với vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ?Biện
pháp pháp luật
56. - Để đạt được mục tiêu chống phá Việt Nam, địch sử dụng bạo lực gì ?c. Bạo lực phi vũ trang, bạo lực
vũ trang, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội …
57. - Có bao nhiêu nội dung biện pháp phòng chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông trong giai đoạn hiện nay? 06 nội dung biện pháp
58. - Cộng đồng người trong một dân tộc có những phẩm chất chung nào sau đây?Truyền thống, văn hoá
59. Nội dung biện pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông trong giai
đoạn hiện nay là? Nghiên cứu xác định rõ tình trạng vi phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT.
60. Các đối tượng sử dụng hình thức, thủ đoạn nào sau đây để chiếm đoạt mạng xã hội? 3
61. - Các dân tộc Việt Nam có bao nhiêu đặc trưng?4 Đặc trưng.
62. - Ở Việt Nam có những tôn giáo nào dưới đây:Cả 3 đáp án trên
63. - Các dân tộc Việt Nam có bao nhiêu đặc trưng?4 Đặc trưng.
64. - Đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam gồm những nội dung nào sau đây:Có truyền thống đoàn kết xây
dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất
65. - Pháp luật Việt Nam về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường gồm nội dung nào dưới đây?Cả
3 đáp án trên
66. - nào là đúng với của V.I.Lenin về vấn đề các dân tộc trên thế giới?Các dân tộc đều bình đẳng như
nhau.
67. - Quá trình gây bạo loạn, địch thường mở rộng gì ? Mở rộng phạm vi, quy mô, lực lượng, kêu gọi tài
trợ tiền của, vũ khí ngoài nước để tăng sức mạnh.
68. - Có mấy giải pháp phòng chống chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ ở Việt Nam hiện nay
?Có 7 giải pháp.
69. - Bạo loạn lật đổ có những hình thức gì?Cả 3 đáp án trên
70. - Chiến lược “ diễn biến hoà bình” của địch hình thành, phát triển qua những giai đoạn nào ? Giai đoạn
từ 1945 – 1980 và từ 1980 đến nay.
71. - Phương tiện giao thông nào sau đây lưu thông trên đường bộ ở Việt Nam?Tàu điện trên cao
72. - Đảng ta xác định mấy trong đấu tranh chống “ Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của địch ?3 .
73. - Thủ đoạn chống phá của chiến lược “Diễn biến hoà bình” đối với Việt Nam gồm những thủ đoạn nào
dưới đây?Cả 3 đáp án trên
74. - Yếu tố nào sau đây thuộc môi trường tự nhiên?Cả 3 đáp án trên
75. - Có bao nhiêu thủ đoạn địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam?4 Thủ
đoạn
76. - Biện pháp nào thuộc biện pháp phòng chống chung với vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường?Cả 3
biện pháp trên
77. - Có bao nhiêu nội dung biện pháp phòng chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông trong giai đoạn hiện nay?06 nội dung biện pháp
78. - Chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch chống các nước xã hội chủ nghĩa bằng biện
pháp gì dưới đây? Biện pháp phi quân sự
79. - Thủ đoạn cơ bản của địch gây bạo loạn lật đổ một số địa phương ở nước ta là gì ? Kích động bất bình
của dân chúng; dụ dỗ, cưỡng ép nhân dân biểu tình; uy hiếp, khống chế cơ quan quyền lực địa phương.
80. - Sinh viên cần làm gì để bảo vệ môi trường sống xung quanh? Thu gom rác thải nơi sinh sống và học
tập
81. - Đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam gồm những nội dung nào sau đây: Có truyền thống đoàn kết xây
dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất
82. - Pháp luật Việt Nam về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường gồm nội dung nào dưới đây?Cả
3 đáp án trên
83. - nào là đúng với của V.I.Lenin về vấn đề các dân tộc trên thế giới?Các dân tộc đều bình đẳng như
nhau.
84. - Dân tộc Việt Nam có truyền thống quý báu và đặc trưng nào sau đây: Cả 3 đáp án trên
85. - Quá trình gây bạo loạn, địch thường mở rộng gì ? Mở rộng phạm vi, quy mô, lực lượng, kêu gọi tài
trợ tiền của, vũ khí ngoài nước để tăng sức mạnh.
86. - Có mấy giải pháp phòng chống chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ ở Việt Nam hiện nay
? Có 7 giải pháp.
87. - Bạo loạn lật đổ có những hình thức gì? Cả 3 đáp án trên
88. - Chiến lược “ diễn biến hoà bình” của địch hình thành, phát triển qua những giai đoạn nào ? Giai đoạn
từ 1945 – 1980 và từ 1980 đến nay.
89. - Phương tiện giao thông nào sau đây lưu thông trên đường bộ ở Việt Nam? Tàu điện trên cao
90. - Đảng ta xác định mấy trong đấu tranh chống “ Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của địch ?3 .
91. - Thủ đoạn chống phá của chiến lược “Diễn biến hoà bình” đối với Việt Nam gồm những thủ đoạn nào
dưới đây?Cả 3 đáp án trên
92. - Yếu tố nào sau đây thuộc môi trường tự nhiên? Cả 3 đáp án trên
93. - Có bao nhiêu thủ đoạn địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam? 4 Thủ
đoạn.
94. - Biện pháp nào thuộc biện pháp phòng chống chung với vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường?Cả 3
biện pháp trên
95. - Có bao nhiêu nội dung biện pháp phòng chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông trong giai đoạn hiện nay? 06 nội dung biện pháp
96. - Chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch chống các nước xã hội chủ nghĩa bằng biện
pháp gì dưới đây? Biện pháp phi quân sự
97. - Nguồn gốc của tôn giáo? Nguồn gốc kinh tế - xã hội.
98. - Thủ đoạn cơ bản của địch gây bạo loạn lật đổ một số địa phương ở nước ta là gì ? Kích động bất bình
của dân chúng; dụ dỗ, cưỡng ép nhân dân biểu tình; uy hiếp, khống chế cơ quan quyền lực địa phương.
99. - Sinh viên cần làm gì để bảo vệ môi trường sống xung quanh?Thu gom rác thải nơi sinh sống và học
tập
100. - Đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam gồm những nội dung nào sau đây: Có truyền thống đoàn kết xây
dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất
101. - Pháp luật Việt Nam về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường gồm nội dung nào dưới đây?
Cả 3 đáp án trên
102. - nào là đúng với của V.I.Lênin về vấn đề các dân tộc trên thế giới? Các dân tộc đều bình đẳng như
nhau.
103. - Dân tộc Việt Nam có truyền thống quý báu và đặc trưng nào sau đây:Cả 3 đáp án trên
104. - Quá trình gây bạo loạn, địch thường mở rộng gì ? Mở rộng phạm vi, quy mô, lực lượng, kêu gọi tài
trợ tiền của, vũ khí ngoài nước để tăng sức mạnh.
105. - Có mấy giải pháp phòng chống chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ ở Việt Nam hiện nay
? Có 7 giải pháp.
106. - Bạo loạn lật đổ có những hình thức gì? Cả 3 đáp án trên
107. - Chiến lược “ diễn biến hoà bình” của địch hình thành, phát triển qua những giai đoạn nào ? Giai đoạn
từ 1945 – 1980 và từ 1980 đến nay.
108. - Phương tiện giao thông nào sau đây lưu thông trên đường bộ ở Việt Nam? Tàu điện trên cao
109. - Đảng ta xác định mấy trong đấu tranh chống “ Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của địch ? 3 .
110. - Thủ đoạn chống phá của chiến lược “Diễn biến hoà bình” đối với Việt Nam gồm những thủ đoạn nào
dưới đây? Cả 3 đáp án trên
111. - Hiện nay ở Việt Nam có bao nhiêu tôn giáo lớn? 6 Tôn giáo.
112. - Yếu tố nào sau đây thuộc môi trường tự nhiên? Cả 3 đáp án trên
113. - Có bao nhiêu thủ đoạn địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam? 4 Thủ
đoạn.
114. - Biện pháp nào thuộc biện pháp phòng chống chung với vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường?Cả 3
biện pháp trên
115. - Có bao nhiêu nội dung biện pháp phòng chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông trong giai đoạn hiện nay? 06 nội dung biện pháp
116. - Chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch chống các nước xã hội chủ nghĩa bằng biện
pháp gì dưới đây? Biện pháp phi quân sự
117. - Nguồn gốc của tôn giáo? The correct answer is: Nguồn gốc kinh tế - xã hội.
118. - Thủ đoạn cơ bản của địch gây bạo loạn lật đổ một số địa phương ở nước ta là gì ? Kích động bất bình
của dân chúng; dụ dỗ, cưỡng ép nhân dân biểu tình; uy hiếp, khống chế cơ quan quyền lực địa phương.
119. - Mục tiêu nhất quán của chiến lược “Diễn biến hoà bình” sử dụng âm mưu chống phá Việt Nam là gì?
d. Cả 3 đáp án trên
120. - Theo của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc thì dân tộc Việt Nam có những quyền nào sau đây: d. Cả 3 đáp
án trên
121. 1. Đặc trưng: tự vệ chính đáng
122. 2. Q của Đảng: chuẩn bị mọi mặt…càng sớm càng tốt
123. 3. Bản chất chiến tranh Mác-Lê nin: biện pháp bạo lực
124. 4. Nội dung xây dựng tiềm lực kinh tế: đẩy mạnh CNH/ HĐ hoá
125. 5. Sức mạnh bảo vệ TQ theo HCM: cả dân tộc…kết hợp sức mạnh thời đại
126. 6. Âm mưu của kẻ thù: xoá bỏ CNXH
127. 7. Tiềm lực KT là gì: khả năng kinh tế của đất nước có thể khai thác…phục vụ quốc phòng, an ninh
128. 8. Tổ chức lực lượng chiến tranh nhân dân: toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ
quân làm nòng cốt
129. 9. Xây dựng tiềm lực QP-AN cần tập trung mấy tiềm lực cơ bản: 4
130. 10. Nội dung xây dựng quân dội ND, công an nhân dân tinh nhuệ: Cả ABC
131. 11. Khi tiến hành chiến tranh xâm lược, địch có những điểm mạnh gì: có ưu thế tuyệt đối về sức mạnh
quân sự….trong đánh ra ngoài đánh vào
132. 12. Nội dung xây dựng lực lượng quân đội, công an cách mạng: Cả ABC
133. 13. của chủ nghĩa Mác Lê-nin: Bảo vệ Tổ quốc XHCN là nghĩa vụ, trách nhiệm toàn dân tộc
134. 14. Thế trận chiến tranh nhân dân là gì: Là sự tổ chức bố trí lực lượng tiến hành chiến tranh và hoạt động
tác chiến
135. 15. Nội dung chủ yếu của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc: Cả ABC
136. 16. Nhiệm vụ của lực lượng vũ tra ng nhân dân: cả ABC
137. 17. Tiềm lực chính trị, tinh thần của QP&AN: là khả năng về chính trị, tinh thần của xã hội…tạo nên sức
mạnh để thực hiện nhiệm vụ QP, AN
138. 18. Theo Mác-Lênin, bản chất giai cấp của quân đội phụ thuộc vào: Bản chất giai cấp của nhà nước đã tổ
chức ra quân đội đó
139. 19. M những đặc trưng của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân: M duy nhất là tự vệ chính
đáng20. Mục đích của chiến tranh nhân dân: Bảo vệ vững chắc độ
140. c lập, ….xã hội và nền văn hoá
141. 21. Chức năng của quân đội nhân dân: là quân đội chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản
xuất
142. 22. Vùng nào nước ta có tính nhạy cảm: tây bắc, tây nguyên, tây nam bộ
143. 23. Biện pháp phòng chống chung với vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường: Cả 3
144. 24. Để đạt mục tiêu chống phá VN, địch sử dụng bạo lực vũ trang, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội
145. 25. Có mấy biện pháp phòng chống “Diễn biến hoà bình” 7
146. 26. VN có bao nhiêu tôn giáo lớn: 6
147. 27. Diễn biến hoà bình là: Là chiến lược cơ bản….và các thế lực phản động tiến hành
148. 28. Quá trình gây bạo loạn, địch mở rộng phạm vi, quy mô, lực lượng, kêu gọi tài trợ tiền của…
149. 29. Chiến lược diễn biến hoà bình: 2 giai đoạn
150. 30. Nguồn gốc tôn giáo: kinh tế - xã hội
151. 31. Thủ đoạn chống phá của chiến lược “Diễn biến hoà bình”: Cả 3
152. 32. Có mấy quan điểm trong “diễn biến hoà bình”: 3
153. 33. Các dân tộc việt nam có 4 đặc trưng
154. 34. Tính chất của tôn giáo: Cả 3
155. 35. Thủ đoạn cơ bản của địch, kích động, dụ dỗ, cưỡng ép…
156. 36. Đặc điểm các dân tộc VN: có truyền thống đoàn kết, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất
157. 37. Đối tượng của chiến tranh nhân dân: các thế lực thù địch…
158. 38. Biện pháp xây dựng nền QPDT, ANND: Thường xuyên thực hiện tốt công tác quốc phòng
159. 39. Âm mưu của kẻ thù khi xâm lược: xoá bỏ CNXH
160. 40. Mác Lê-nin, nguồn gốc nảy sinh chiến tranh: Xuất hiện và tồn tại chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu
sx
161. 41. Thế trận QPAN là gì: sự bố trí lực lượng..tổ quốc XHCN
162. 42. Lực lượng vũ trang nhân dân gồm Quân đội nhân dân, công an nhân dân và dân quân tự vệ
163. 43. Bản chất của quân đội phụ thuộc: Bản chất giai cấp của nhà nước…
164. 44. Nội dung xây dựng thế trận: Xây dựng tỉnh, thành phố…
165. 45. quan điểm, nguyên tắc cơ bản của đảng: Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của đảng…
166. 46. Quân đội nhân dân VN mang bản chất giai cấp công nhân
167. 47. Sức mạnh quân đội: ….chính trị và tinh thần giữ vai trò quyết định
168. 48. Chức năng quân đội nhân dân: là quân đội chiến đấu, đội quân công tác, đội quân LĐSX
169. 49. , nguyên tắc cơ bản của Đảng ta trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn hiện nay
là: Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng .... vũ trang nhân dân
170. 50. , nguyên tắc cơ bản của Đảng ta trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân giai đoạn hiên nay: Tự
lực tự cường xây dựng lực lượng vũ trang.[1]
171. 51. Tư tưởng HCM về bảo vệ Tổ quốc: Đảng Cộng sản VN lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc VN xã hội
chủ nghĩa
172. 52. Một trong những nội dung Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc XHCN: Đảng cộng sản lãnh đạo
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc VN XHCN
173. 53. Một trong những d của chủ nghĩa Mác – Lênin về bảo vệ Tổ quốc XHXH: Bảo vệ Tổ XHCN là nghĩa
vụ, trách nhiệm của toàn dân tộc, của toàn thể giai cấp công nhân và nhân dân lao động
174. 54. Theo Tư tưởng HCM, quân đội nhân dân VN mang giai cấp bản chất nào: Giai cấp công nhân
175. 55. Một trong những nội dung xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần đó là: Xậy dựng hệ thống chính trị
trong sạch vững mạnh, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
176. 56. Đặc điểm liên quan đến việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn hiện nay: Xây
dựng lực lượng VTND trong điều kiện quốc tế đã thay đổi có nhiều diễn biến phức tạp
177. 57. Nội dung quan trọng nhất xây dựng lực lượng quân đội, công an cách mạng: Xây dựng bản chất giai
cấp, công nhân cho quân đội, công an làm cho lực lượng này tuyệt đối trung thành vs Đảng, vs Tổ quốc, vs nhân
dân
178. 58. Mục đích xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân: Tạo thế chủ động cho sự nghiệp xây
dựng
179. 59. Tính chất của chiến tranh nhân dân bảo vệ tổ quốc: Là cuộc chiến tranh mang tính hiện đại về vũ khí
trang bị, tri thức và nghệ thuật quân sự
180. 60. Tổ chức lực lượng chiến tranh nhân dân được thực hiện ntn: Lực lượng chiến tranh nhân dân là toàn
dân đánh giặc, đánh giặc toàn diện lấy lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân làm nòng cốt
181. 61. Một trong những nội dung xây dựng tiêm lực kinh tế của QPTD, ANND là: Đẩy mạnh công nghệ hóa,
hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền KT độc lập, tự chủ
182. 62. Đối tượng tác chiến của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc: Các thế lực thù địch có hành động phá
hoại, xâm lược lật đổ cách mạng nước ta
183. 63. Theo của Lê – nin thì yếu tố nào quyết định sức mạnh của quân đội: Nhiều yếu tố, trong đó yếu tố
chính trị tinh thần giữ vai trò quyết định
184. 64. Phương hướng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn hiện nay: Xây dựng dân quân
tự vệ vững mạnh và rộng khắp, coi trọng lực lượng dân quân tự vệ biển và dân quân tự vệ ở các địa phương trọng
điểm
185. 65. Một trong những đặc trưng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân: Nền quốc phòng toàn dân, an
ninh nhân dân chỉ có mục
186. đích duy nhất là tự vệ chính đáng
187. 66. của Đảng trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc: Tiến hành chiến tranh nhân dân toàn dân đánh
giặc, lấy LLVT nhân dân... binh đoàn chủ lực
188.
189. Câu 49, 50 giống nhau nhưng khác đáp án
[1]
190. Ngôn ngữ có vai trò như thế nào với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người - quan trọng
191.
192. Đáp án HP2
193. - Hiện nay ở Việt Nam có bao nhiêu tôn giáo lớn? 6 Tôn giáo.
194. - Bảo vệ Tổ quốc là một trong mấy nhiệm vụ chiến lược của Đảng ta hiện nay? Là một trong hai nhiệm
vụ chiến lược
195. - Đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam gồm những nội dung sau đây: Có truyền thống đoàn kết xây dựng
một cộng đồng dân tộc thống nhất
196. - Pháp luật Việt Nam về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường gồm nội dung nào dưới đây?
Cả 3 đáp án trên
197. - Bạo loạn lật đổ có những hình thức gì? Cả 3 đáp án trên
198. - Diễn biến hòa bình là gì? Là chiến lược cơ bản bản nhằm lật đổ chế độ chính trị của các nước tiến bộ,
trước hết là các nước XHCN từ bên trong bằng biện pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động tiến hành
199. - Thủ đoạn chống phá của chiến lược “Diễn biến hoà bình” đối với Việt Nam gồm những thủ đoạn nào
dưới đây? Cả 3 đáp án trên
200. - Biện pháp nào thuộc biện pháp phòng chống chung với vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường? Cả
3 biện pháp trên
201. - Yếu tố nào sau đây ảnh hưởng đến an toàn giao thông? Cả 3 đáp án trên
202. - Yếu tố nào sau đây thuộc môi trường tự nhiên? Cả 3 đáp án trên
203. - Lực lượng nào là nòng cốt của nhà nước trực tiếp duy trì, điều hành trật tự an toàn giao thông đường
bộ? Cảnh sát giao thông
204. - Chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch chống các nước xã hội chủ nghĩa bằng biện
pháp gì dưới đây? Biện pháp phi quân sự
205. - Nguồn gốc của tôn giáo? Nguồn gốc kinh tế - xã hội.4,
206. 1. Các dân tộc Việt Nam có bao nhiêu đặc điểm ? 4 Đặc điểm
207. 2. Đến thời điểm tháng 12/2020, có bao nhiêu tôn giáo đang được phép hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam
? 16 Tôn giáo.
208. 3.Thủ đoạn của địch chống phá về tư tưởng, văn hoá ở nước ta như thế nào ? Xoá bỏ chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phá vỡ tư tưởng Đảng Cộng sản Việt Nam, truyền bá tư tưởng tư sản; du nhập văn
hoá đồi truỵ; làm phai mờ bản sắc văn hoá Việt Nam.
209. 4.Vùng nào ở nước ta có tính nhạy cảm để địch thường gây rối, mất ổn định xã hội ? Tây Bắc, Tây Nguyên,
Tây Nam Bộ.
210. 5.Có mấy ? 3 hình thức.
211. 6.Vật liệu làm bao bì và đồ hộp nào ít gây hại đến môi trường nhất ? Bìa cattong
212. 7.Pháp luật có vai trò như thế nào đối với công tác bảo vệ môi trường ? Quan trọng
213. 8.Đảng ta xác định có mấy phương châm tiến hành chống “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của địch
? Có 2 phương châm.
214. 9.Khi tiến hành bạo loạn lật đổ các thế lực thù địch thường vận dụng những thủ đoạn nào? Kích động bất
bình của dân chúng; dụ dỗ, cưỡng ép nhân dân biểu tình; uy hiếp, khống chế cơ quan quyền lực địa phương.
215. - Có mấy giải pháp đấu tranh phòng, chống sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng
Việt Nam của các thế lực thù địch 5 giải pháp
216. 2. Thủ đoạn của địch chống phá về kinh tế đối với nước ta như thế nào ? chuyển hóa nền kte..
217. 3. Nguồn cung cấp điện năng phục vụ con người được tạo ra từ yếu tố nào ? gió
218. 4. Vật liệu làm bao bì và đồ hộp nào ít gây hại đến môi trường nhất ? bìa cartong
219. 5. Giải pháp nào là giải pháp đấu tranh phòng chống sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách
mạng Việt Nam ? cả 3 đáp án trên
220. 6. Thủ đoạn của địch chống phá về tư tưởng, văn hoá ở nước ta như thế nào ? xóa bỏ chủ nghĩa mác
lênin…
221. 7. Hình thức đánh bắt hải sản nào sau đây phạm tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản ? hóa chất
222. 8. Đến thời điểm tháng 12/2020, có bao nhiêu tôn giáo đang được phép hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam
? 16 tôn giáo
223. 9. Mục tiêu nhất quán của địch trong chiến lược “ diễn biến hoà bình” đối với cách mạng Việt Nam là gì
? xóa bỏ sự lãnh đạo của đảng…
224. - Vật liệu làm bao bì và đồ hộp nào ít gây hại đến môi trường nhất ? bìa catton
225. - Có mấy hình thức bạo loạn ? 3 hình thức
226. - Theo của Đảng và nhà nước ta, hoạt động mê tín dị đoan phải được giải quyết như thế nào ? bài trừ
227. - Bảo vệ Tổ quốc được Đảng ta xác định là ? 1 trong 2 nhiệm vụ chiến lược
228. - Pháp luật xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường gồm những vấn đề gì ? cả 3 đáp án
229. - Có mấy giải pháp phòng chống chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ ở Việt Nam hiện nay ?
7 giải pháp
230. - Chiến lược “ diễn biến hoà bình” của địch hình thành, phát triển có mấy giai đoạn? 2
231. - Bạo loạn lật đổ có những hình thức nào ? chính trị, vũ trang, kết hợp ctri và vũ trang
232. - Khi tiến hành bạo loạn lật đổ các thế lực thù địch thường vận dụng những thủ đoạn nào? Kích động bất
bình của dân chúng; dụ dỗ, cưỡng ép nhân dân biểu tình; uy hiếp, khống chế cơ quan quyền lực địa phương.
233. - Sinh viên cần làm gì để bảo vệ môi trường sống xung quanh ? Thu gom rác thải nơi sinh sống và học tập
234. - Có bao nhiêu thủ đoạn địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam? 4 Thủ
đoạn.
235. - Vật liệu làm bao bì và đồ hộp nào ít gây hại đến môi trường nhất ? Bìa cattong
236. - Vai trò của môi trường đối với con người gồm nội dung gì sau đây? Cả 3 đáp án trên
237. - Chiến lược “ diễn biến hoà bình” của địch hình thành, phát triển có mấy giai đoạn? 2 giai đoạn.
238. - Sinh viên phải làm gì để góp phần phòng chống chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của
địch ? Phải nỗ lực học tập, rèn luyện trở thành công dân tốt; thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng;
tích cực học tập, rèn luyện về Giáo dục quốc phòng.
239. - Đảng ta xác định mấy quan điểm trong đấu tranh chống “ Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của
địch ? 3 .
240. - Đến thời điểm tháng 12/2020, có bao nhiêu tôn giáo đang được phép hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam
? The correct answer is: 16 Tôn giáo.
241. - Các hành vi nào sau đây gây ảnh hưởng đến môi trường? Xả rác bừa bãi
242. - Yếu tố nào cần thiết cho trồng cây nông nghiệp ? Đất
243. - Yếu tố nào sau đây do con người tạo ra ? Xi măng
244. - Hành vi đánh bạc trên mạng xã hội là hành vi gì sau đây? vi phạm pl
245. - Thủ đoạn của địch chống phá về kinh tế đối với nước ta như thế nào ? Chuyển hoá nền kinh tế Việt
Nam dần theo kinh tế thị trường tư bản; khích lệ kinh tế tư nhân thành chủ đạo thành phần kinh tế nhà nước; Gây
sức ép chính trị, giúp đỡ, viện trợ, chuyển giao công nghệ.
246. - Hình thức đánh bắt hải sản nào sau đây phạm tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản ? Hoá chất
247. - Yếu tố nào sau đây thuộc môi trường tự nhiên ? Đất
248. - Bảo vệ Tổ quốc được Đảng ta xác định là ? Là một trong hai nhiệm vụ chiến lược.
249. - Có mấy hình thức bạo loạn ?3 hình thức.
250. - Bạo loạn lật đổ có những hình thức nào ?Bạo loạn chính trị, bạo loạn vũ trang, bạo loạn chính trị kết
hợp với vũ trang.
251. - Biện pháp nào thuộc biện pháp phòng chống chung với vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ?Biện
pháp pháp luật
252. - Để đạt được mục tiêu chống phá Việt Nam, địch sử dụng bạo lực gì ?c. Bạo lực phi vũ trang, bạo lực
vũ trang, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội …
253. - Có bao nhiêu nội dung biện pháp phòng chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông trong giai đoạn hiện nay? 06 nội dung biện pháp
254. - Cộng đồng người trong một dân tộc có những phẩm chất chung nào sau đây?Truyền thống, văn hoá
255. - Các dân tộc Việt Nam có bao nhiêu đặc trưng?4 Đặc trưng.
256. - Ở Việt Nam có những tôn giáo nào dưới đây:Cả 3 đáp án trên
257. - Các dân tộc Việt Nam có bao nhiêu đặc trưng?4 Đặc trưng.
258. - Đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam gồm những nội dung nào sau đây:Có truyền thống đoàn kết xây
dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất
259. - Pháp luật Việt Nam về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường gồm nội dung nào dưới đây?Cả
3 đáp án trên
260. - nào là đúng với của V.I.Lenin về vấn đề các dân tộc trên thế giới?Các dân tộc đều bình đẳng như
nhau.
261. - Dân tộc Việt Nam có truyền thống quý báu và đặc trưng nào sau đây:Cả 3 đáp án trên
262. - Quá trình gây bạo loạn, địch thường mở rộng gì ? Mở rộng phạm vi, quy mô, lực lượng, kêu gọi tài
trợ tiền của, vũ khí ngoài nước để tăng sức mạnh.
263. - Có mấy giải pháp phòng chống chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ ở Việt Nam hiện nay
?Có 7 giải pháp.
264. - Bạo loạn lật đổ có những hình thức gì?Cả 3 đáp án trên
265. - Chiến lược “ diễn biến hoà bình” của địch hình thành, phát triển qua những giai đoạn nào ? Giai đoạn
từ 1945 – 1980 và từ 1980 đến nay.
266. - Phương tiện giao thông nào sau đây lưu thông trên đường bộ ở Việt Nam?Tàu điện trên cao
267. - Đảng ta xác định mấy trong đấu tranh chống “ Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của địch ?3 .
268. - Thủ đoạn chống phá của chiến lược “Diễn biến hoà bình” đối với Việt Nam gồm những thủ đoạn nào
dưới đây?Cả 3 đáp án trên
269. - Yếu tố nào sau đây thuộc môi trường tự nhiên?Cả 3 đáp án trên
270. - Có bao nhiêu thủ đoạn địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam?4 Thủ
đoạn.
271. - Biện pháp nào thuộc biện pháp phòng chống chung với vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường?Cả 3
biện pháp trên
272. - Có bao nhiêu nội dung biện pháp phòng chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông trong giai đoạn hiện nay?06 nội dung biện pháp
273. - Tôn giáo có những tính chất nào? cả 3
274. - Chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch chống các nước xã hội chủ nghĩa bằng biện
pháp gì dưới đây? Biện pháp phi quân sự
275. - Thủ đoạn cơ bản của địch gây bạo loạn lật đổ một số địa phương ở nước ta là gì ? Kích động bất bình
của dân chúng; dụ dỗ, cưỡng ép nhân dân biểu tình; uy hiếp, khống chế cơ quan quyền lực địa phương.
276. - Sinh viên cần làm gì để bảo vệ môi trường sống xung quanh? Thu gom rác thải nơi sinh sống và học
tập
277. - Đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam gồm những nội dung nào sau đây: Có truyền thống đoàn kết xây
dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất
278. - Pháp luật Việt Nam về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường gồm nội dung nào dưới đây?Cả
3 đáp án trên
279. - nào là đúng với của V.I.Lenin về vấn đề các dân tộc trên thế giới?Các dân tộc đều bình đẳng như
nhau.
280. - Dân tộc Việt Nam có truyền thống quý báu và đặc trưng nào sau đây: Cả 3 đáp án trên
281. - Quá trình gây bạo loạn, địch thường mở rộng gì ? Mở rộng phạm vi, quy mô, lực lượng, kêu gọi tài
trợ tiền của, vũ khí ngoài nước để tăng sức mạnh.
282. - Có mấy giải pháp phòng chống chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ ở Việt Nam hiện nay
? Có 7 giải pháp.
283. - Bạo loạn lật đổ có những hình thức gì? Cả 3 đáp án trên
284. - Chiến lược “ diễn biến hoà bình” của địch hình thành, phát triển qua những giai đoạn nào ? Giai đoạn
từ 1945 – 1980 và từ 1980 đến nay.
285. - Phương tiện giao thông nào sau đây lưu thông trên đường bộ ở Việt Nam? Tàu điện trên cao
286. - Đảng ta xác định mấy trong đấu tranh chống “ Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của địch ?3 .
287. - Thủ đoạn chống phá của chiến lược “Diễn biến hoà bình” đối với Việt Nam gồm những thủ đoạn nào
dưới đây?Cả 3 đáp án trên
288. - Yếu tố nào sau đây thuộc môi trường tự nhiên? Cả 3 đáp án trên
289. - Có bao nhiêu thủ đoạn địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam? 4 Thủ
đoạn.
290. - Biện pháp nào thuộc biện pháp phòng chống chung với vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường?Cả 3
biện pháp trên
291. - Có bao nhiêu nội dung biện pháp phòng chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông trong giai đoạn hiện nay? 06 nội dung biện pháp
292. - Chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch chống các nước xã hội chủ nghĩa bằng biện
pháp gì dưới đây? Biện pháp phi quân sự
293. - Nguồn gốc của tôn giáo? Nguồn gốc kinh tế - xã hội.
294. - Thủ đoạn cơ bản của địch gây bạo loạn lật đổ một số địa phương ở nước ta là gì ? Kích động bất bình
của dân chúng; dụ dỗ, cưỡng ép nhân dân biểu tình; uy hiếp, khống chế cơ quan quyền lực địa phương.
295. - Sinh viên cần làm gì để bảo vệ môi trường sống xung quanh?Thu gom rác thải nơi sinh sống và học
tập
296. - Đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam gồm những nội dung nào sau đây: Có truyền thống đoàn kết xây
dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất
297. - Pháp luật Việt Nam về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường gồm nội dung nào dưới đây?
Cả 3 đáp án trên
298. - nào là đúng với của V.I.Lênin về vấn đề các dân tộc trên thế giới? Các dân tộc đều bình đẳng như
nhau.
299. - Dân tộc Việt Nam có truyền thống quý báu và đặc trưng nào sau đây:Cả 3 đáp án trên
300. - Quá trình gây bạo loạn, địch thường mở rộng gì ? Mở rộng phạm vi, quy mô, lực lượng, kêu gọi tài
trợ tiền của, vũ khí ngoài nước để tăng sức mạnh.
301. - Có mấy giải pháp phòng chống chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ ở Việt Nam hiện nay
? Có 7 giải pháp.
302. - Bạo loạn lật đổ có những hình thức gì? Cả 3 đáp án trên
303. - Chiến lược “ diễn biến hoà bình” của địch hình thành, phát triển qua những giai đoạn nào ? Giai đoạn
từ 1945 – 1980 và từ 1980 đến nay.
304. - Phương tiện giao thông nào sau đây lưu thông trên đường bộ ở Việt Nam? Tàu điện trên cao
305. - Đảng ta xác định mấy trong đấu tranh chống “ Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của địch ? 3 .
306. - Thủ đoạn chống phá của chiến lược “Diễn biến hoà bình” đối với Việt Nam gồm những thủ đoạn nào
dưới đây? Cả 3 đáp án trên
307. - Hiện nay ở Việt Nam có bao nhiêu tôn giáo lớn? 6 Tôn giáo.
308. - Yếu tố nào sau đây thuộc môi trường tự nhiên? Cả 3 đáp án trên
309. - Có bao nhiêu thủ đoạn địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam? 4 Thủ
đoạn.
310. - Biện pháp nào thuộc biện pháp phòng chống chung với vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường?Cả 3
biện pháp trên
311. - Có bao nhiêu nội dung biện pháp phòng chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông trong giai đoạn hiện nay? 06 nội dung biện pháp
312. - Chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch chống các nước xã hội chủ nghĩa bằng biện
pháp gì dưới đây? Biện pháp phi quân sự
313. - Nguồn gốc của tôn giáo? The correct answer is: Nguồn gốc kinh tế - xã hội.
314. - Thủ đoạn cơ bản của địch gây bạo loạn lật đổ một số địa phương ở nước ta là gì ? Kích động bất bình
của dân chúng; dụ dỗ, cưỡng ép nhân dân biểu tình; uy hiếp, khống chế cơ quan quyền lực địa phương.
315. - Mục tiêu nhất quán của chiến lược “Diễn biến hoà bình” sử dụng âm mưu chống phá Việt Nam là gì?
d. Cả 3 đáp án trên
316. - Theo của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc thì dân tộc Việt Nam có những quyền nào sau đây: d. Cả 3 đáp
án trên
317.
318. 1. Đặc trưng: tự vệ chính đáng
319. 2. Q của Đảng: chuẩn bị mọi mặt…càng sớm càng tốt
320. 3. Bản chất chiến tranh Mác-Lê nin: biện pháp bạo lực
321. 4. Nội dung xây dựng tiềm lực kinh tế: đẩy mạnh CNH/ HĐ hoá
322. 5. Sức mạnh bảo vệ TQ theo HCM: cả dân tộc…kết hợp sức mạnh thời đại
323. 6. Âm mưu của kẻ thù: xoá bỏ CNXH
324. 7. Tiềm lực KT là gì: khả năng kinh tế của đất nước có thể khai sthác…phục vụ quốc phòng, an ninh
325. 8. Tổ chức lực lượng chiến tranh nhân dân: toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ
quân làm nòng cốt
326. 9. Xây dựng tiềm lực QP-AN cần tập trung mấy tiềm lực cơ bản: 4
327. 10. Nội dung xây dựng quân dội ND, công an nhân dân tinh nhuệ: Cả ABC
328. 11. Khi tiến hành chiến tranh xâm lược, địch có những điểm mạnh gì: có ưu thế tuyệt đối về sức mạnh
quân sự….trong đánh ra ngoài đánh vào
329. 12. Nội dung xây dựng lực lượng quân đội, công an cách mạng: Cả ABC
330. 13. của chủ nghĩa Mác Lê-nin: Bảo vệ Tổ quốc XHCN là nghĩa vụ, trách nhiệm toàn dân tộc
331. 14. Thế trận chiến tranh nhân dân là gì: Là sự tổ chức bố trí lực lượng tiến hành chiến tranh và hoạt động
tác chiến
332. 15. Nội dung chủ yếu của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc: Cả ABC
333. 16. Nhiệm vụ của lực lượng vũ trang nhân dân: cả ABC
334. 17. Tiềm lực chính trị, tinh thần của QP&AN: là khả năng về chính trị, tinh thần của xã hội…tạo nên sức
mạnh để thực hiện nhiệm vụ QP, AN
335. 18. Theo Mác-Lênin, bản chất giai cấp của quân đội phụ thuộc vào: Bản chất giai cấp của nhà nước đã tổ
chức ra quân đội đó
336. 19. M những đặc trưng của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân: M duy nhất là tự vệ chính đáng
337. 20. Mục đích của chiến tranh nhân dân: Bảo vệ vững chắc độc lập, ….xã hội và nền văn hoá
338. 21. Chức năng của quân đội nhân dân: là quân đội chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản
xuất
339. 22. Vùng nào nước ta có tính nhạy cảm: tây bắc, tây nguyên, tây nam bộ
340. 23. Biện pháp phòng chống chung với vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường: Cả 3
341. 24. Để đạt mục tiêu chống phá VN, địch sử dụng bạo lực vũ trang, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội
342. 25. Có mấy biện pháp phòng chống “Diễn biến hoà bình” 7
343. 26. VN có bao nhiêu tôn giáo lớn: 6
344. Chiến lược “ diễn biến hoà bình” của địch hình thành, phát triển có mấy giai đoạn ? -> 2
345. Chiến lược “ diễn biến hoà bình” của địch hình thành, phát triển qua những giai đoạn nào ? -> 1945 -> 80
346. Quan điểm nào là đúng với quan điểm của V.I.Lênin về vấn đề các dân tộc trên thế giới? -> như nhau
347. 27. Diễn biến hoà bình là: Là chiến lược cơ bản….và các thế lực phản động tiến hành
348. 28. Quá trình gây bạo loạn, địch mở rộng phạm vi, quy mô, lực lượng, kêu gọi tài trợ tiền của…
349. 29. Chiến lược diễn biến hoà bình: 2 giai đoạn
350. 30. Nguồn gốc tôn giáo: kinh tế - xã hội
351. 31. Thủ đoạn chống phá của chiến lược “Diễn biến hoà bình”: Cả 3
352. 32. Có mấy trong “diễn biến hoà bình”: 3
353. 33. Các dân tộc việt nam có 4 đặc trưng
354. 34. Tính chất của tôn giáo: Cả 3
355. 35. Thủ đoạn cơ bản của địch, kích động, dụ dỗ, cưỡng ép…
356. 36. Đặc điểm các dân tộc VN: có truyền thống đoàn kết, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất
357. 37. Đối tượng của chiến tranh nhân dân: các thế lực thù địch…
358. 38. Biện pháp xây dựng nền QPDT, ANND: Thường xuyên thực hiện tốt công tác quốc phòng
359. 39. Âm mưu của kẻ thù khi xâm lược: xoá bỏ CNXH
360. 40. Mác Lê-nin, nguồn gốc nảy sinh chiến tranh: Xuất hiện và tồn tại chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu
sx
361. 41. Thế trận QPAN là gì: sự bố trí lực lượng..tổ quốc XHCN
362. 42. Lực lượng vũ trang nhân dân gồm Quân đội nhân dân, công an nhân dân và dân quân tự vệ
363. 43. Bản chất của quân đội phụ thuộc: Bản chất giai cấp của nhà nước…
364. 44. Nội dung xây dựng thế trận: Xây dựng tỉnh, thành phố…
365. 45. , nguyên tắc cơ bản của đảng: Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của đảng…
366. 46. Quân đội nhân dân VN mang bản chất giai cấp công nhân
367. 47. Sức mạnh quân đội: ….chính trị và tinh thần giữ vai trò quyết định
368. 48. Chức năng quân đội nhân dân: là quân đội chiến đấu, đội quân công tác, đội quân LĐSX
369. 49. , nguyên tắc cơ bản của Đảng ta trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn hiện nay
là: Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng .... vũ trang nhân dân
370. 50. , nguyên tắc cơ bản của Đảng ta trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân giai đoạn hiên nay: Tự
lực tự cường xây dựng lực lượng vũ trang.[1]
371. 51. Tư tưởng HCM về bảo vệ Tổ quốc: Đảng Cộng sản VN lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc VN xã hội
chủ nghĩa
372. 52. Một trong những nội dung Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc XHCN: Đảng cộng sản lãnh đạo
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc VN XHCN
373. 53. Một trong những d của chủ nghĩa Mác – Lênin về bảo vệ Tổ quốc XHXH: Bảo vệ Tổ XHCN là nghĩa
vụ, trách nhiệm của toàn dân tộc, của toàn thể giai cấp công nhân và nhân dân lao động
374. 54. Theo Tư tưởng HCM, quân đội nhân dân VN mang giai cấp bản chất nào: Giai cấp công nhân
375. 55. Một trong những nội dung xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần đó là: Xậy dựng hệ thống chính trị
trong sạch vững mạnh, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
376. 56. Đặc điểm liên quan đến việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn hiện nay: Xây
dựng lực lượng VTND trong điều kiện quốc tế đã thay đổi có nhiều diễn biến phức tạp
377. 57. Nội dung quan trọng nhất xây dựng lực lượng quân đội, công an cách mạng: Xây dựng bản chất giai
cấp, công nhân cho quân đội, công an làm cho lực lượng này tuyệt đối trung thành vs Đảng, vs Tổ quốc, vs nhân
dân
378. 58. Mục đích xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân: Tạo thế chủ động cho sự nghiệp xây
dựng
379. 59. Tính chất của chiến tranh nhân dân bảo vệ tổ quốc: Là cuộc chiến tranh mang tính hiện đại về vũ khí
trang bị, tri thức và nghệ thuật quân sự
380. 60. Tổ chức lực lượng chiến tranh nhân dân được thực hiện ntn: Lực lượng chiến tranh nhân dân là toàn
dân đánh giặc, đánh giặc toàn diện lấy lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân làm nòng cốt
381. 61. Một trong những nội dung xây dựng tiêm lực kinh tế của QPTD, ANND là: Đẩy mạnh công nghệ hóa,
hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền KT độc lập, tự chủ
382. 62. Đối tượng tác chiến của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc: Các thế lực thù địch có hành động phá
hoại, xâm lược lật đổ cách mạng nước ta
383. 63. Theo của Lê – nin thì yếu tố nào quyết định sức mạnh của quân đội: Nhiều yếu tố, trong đó yếu tố
chính trị tinh thần giữ vai trò quyết định
384. 64. Phương hướng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn hiện nay: Xây dựng dân quân
tự vệ vững mạnh và rộng khắp, coi trọng lực lượng dân quân tự vệ biển và dân quân tự vệ ở các địa phương trọng
điểm
385. 65. Một trong những đặc trưng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân: Nền quốc phòng toàn dân, an
ninh nhân dân chỉ có mục đích duy nhất là tự vệ chính đáng
386. 66. của Đảng trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc: Tiến hành chiến tranh nhân dân toàn dân đánh
giặc, lấy LLVT nhân dân... binh đoàn chủ lực
387. [1] Câu 49, 50 giống nhau nhưng khác đáp án
388. Luật “An ninhluật an ninh mạng” của Việt Nam có hiệu lực từ năm nào? -> 2019
389. : Luật an ninh mạng quy định bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc
gia gồm có mấy điều? 6
390. Luật an toàn thông tin Việt Nam có hiệu lực năm 2016 gồm bao nhiêu điều?: 8 chương 54 điều
391. Luật An toàn thông tin năm 2015 bao gồm? 54 điều 8 chương
392. Bộ luật hình sư năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành từ bao giờ 2018
393. Hành vi sử dụng tin giả nào sau đây ảnh hưởng tiêu cực đến người dùng mạng xã hội? cả 3
394. Theo Điều 8, Luật An ninh mạng, các hành vi bị nghiêm cấm bao gồm việc sử dụng không gian mạng để
thực hiện các hành vi nào sau đây?-> xúi dục lôi kéo….
395. An toàn thông tin có vai trò thế nào đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay? -
> quan trọng
396. Đến thời điểm tháng 12/2020, có bao nhiêu tôn giáo đang được phép hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam?:16
397. Theo Liên hợp quốc, an ninh phi truyền thống gồm mấy lĩnh vực chủ yếu?:7
398. Hãy cho biết đâu là một trong các loại tội phạm xâm phạm đến danh dự nhân phẩm? Xâm phạm tình dục
nh dự nhân phẩm bao gồm?
399. Chọn một phương án:an ninh mạng
400. Nội dung hoạt động phòng chống tội phạm xâm phạm daa. Tổ chức khai thác tội phạm.
401. b. Tổ chức hoạt động đấu tranh tội phạm
402. c. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế chính sách.
403. d. Tổ chức tiến hành các hoạt động phòng ngừa tội phạm.
404. Luật An ninh mạng năm 2018 bao gồm? 7 chương 43 điều
405. Nguồn gốc tôn giáo -> KT-XH tư tưởng chứ?
406. Có mấy dấu hiệu pháp lý của tội phạm an toàn giao thông?:4
407. Chủ thể hoạt động phòng chống tội phạm là? quốc hội hội đồng nd các cấp
408. Nội dung nghiên cứu xác định rõ các nguyên nhân, điều kiện của Các biện pháp phòng chống vi phạm
pháp luật trên không gian mạng bao gồmtình trạng vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao 1thông là?
cả 3
409. Luật An toàn thông tin mạng gồm 8 chương, 54 điều
410. Nguồn cung cấp điện năng phục vụ con người được tạo ra từ yếu tố nào? gió
411. Luật an ninh mạng Việt Nam có hiệu lực năm 2019 gồm bao nhiêu điều? 7 chương 43 điều
412. Luật an ninh mạng quy định bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thốnjtđ thông tin quan trọng về an ninh quốc
gia gồm có mấy điều? -> 6
413. Bộ luật hình sư năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành từ bao giờ?:2018
414. Theo BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì các tội làm nhục người khác bao gồm? cả 3
415.
416. Đảng ta xác định mấy quan điểm trong đấu tranh chống “ Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của địch?
4 quan điểm
417. Các loại hình chủ nghĩa khủng bố đương đại gồm? chủ nghĩa kb quốc gia
418. Chọn một phương án:
419. a. Chủ nghĩa khủng bố quốc gia.
420. b. Chủ nghĩa khủng quân sự.
421. c. Chủ nghĩa khủng bố quốc tế.
422. d. Chủ nghĩa khủng bố kinh tế.
423. Thông tin xấu độc trên mạng xã hội có ảnh hưởng thế nào đến đời sống xã hội? tiêu cực
424. Chiến lược “ diễn biến hoà bình” của địch hình thành, phát triển qua những giai đoạn nào ? 45 -80
425. Tin giả có thể được tạo và lan truyền nhằm mục đích nào sau đây? mục đích chính trij
426.
427. Có mấy giải pháp đấu tranh phòng, chống sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt
Nam của các thế lực thù địch? 5
428. Pháp luật có vai trò như thế nào đối với công tác bảo vệ môi trường? quan trọng
429. Chủ thể hoạt động phòng chống tội phạm là? ->Quốc hội, HĐND các cấp
430. Mối de doạ lớn nhất đối với an ninh năng lượng hiện nay là? ->trữ lượng giảm
431. Có mấy nhiệm vụ và phương châm phòng chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao
thông?:8
432.
433. Vật liệu làm bao bì và đồ hộp nào ít gây hại đến môi trường nhất? bìa cattong
434. Bảo vệ Tổ quốc được Đảng ta xác định là?: 1 trong 2
435. Theo quan điểm của Đảng và nhà nước ta, hoạt động mê tín dị đoan phải được giải quyết như thế nào?
bài trừ
436. Các dân tộc Việt Nam có bao nhiêu đặc điểm? 6
437. Pháp luật Việt Nam về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường gồm nội dung nào dưới đây? hình sự
438. Các loại hình chủ nghĩa khủng bố đương đại gồm? ->quốc gia
439. Tin giả bao gồm những hình thức nào? Cả 3
440. Sinh viên cần làm gì để bảo vệ môi trường sống xung quanh? thu gom rác
441. Mối de doạ lớn nhất đối với an ninh năng lượng hiện nay là?-> an ninh năng lượng
442. Kẻ tấn công chiếm đoạt tài sản mạng xã hội nhằm các mục đích gì? Lừa đảo, chiếm đoạt tài sản
443. Thế nào là bạo loạn lật đổ ? Là hành động chống phá bằng bạo lực có tổ chức do lực lượng phản động hay lực lượng
ly khai, đối lập trong nước hoặc cấu kết với nước ngoài tiến hành gây rối loạn an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội hoặc lật đổ
chính quyền ở địa phương hay trung ương
444. Phương án nào đúng dưới đây? an ninh tiền tệ
445.
446. NH
447. Luật “An toàn thông tin” của Việt Nam có hiệu lực thi hành từ năm nào 2016
448. Tầng Ozon của trái đất có tác dụng gì với con người?-> bảo vệ
449. Có mấy hình thức bạo loạn ? -> 3
450. Có mấy dấu hiệu pháp lý của tội phạm an toàn giao thông? 4

451. Luật “An toàn thông tin” của Việt Nam có hiệu lực thi hành từ năm nào?2016
452. Chủ nghĩa khủng bố đương đại có đặc trưng nào dưới đây?:chủ thể phi quốc gia
453. Luật “An ninh mạng” của Việt Nam có hiệu lực từ năm nào? 2019
454. Luật an ninh mạng quy định bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc
gia gồm có mấy điều? 6 điều
455.
456. Các mối đe doạ an ninh nguồn nước bao gồm ? Cạn kiệt nguồn nước
457.

O
458. Luật An ninh mạng năm 2018 bao gồm?:7 chương, 43 điều
459. An ninh phi truyền thống có mấy đặc điểm chủ yếu? 5 đặc điểm

Nguyên tắc tổ chức hoạt động phòng chống tội phạm là? -> dân chủ
An ninh phi truyền thống có mấy đặc điểm chủ yếu 5
Chương 1.
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN HỌC
GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
1.1. Mu ̣c đích, yêu cầ u
- Nắm vững đối tượng, phương pháp, nội dung nghiên cứu môn học GDQP&AN, góp
phần bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
- Sinh viên xác định trách nhiệm, thái độ đúng trong học tập môn học GDQP&AN,
tích cực tham gia xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân ngay khi
đang học tập, rèn luyện trong nhà trường và ở mỗi vị trí công tác tiếp theo.
1.2. Đố i tươ ̣ng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của môn học bao gồm: Đường lối quốc QP&AN của Đảng
cộng sản Việt Nam; công tác quốc GDQP&AN; quân sự chung; kỹ thuật chiến đấu bộ binh
và chiến thuật.
1.2.1. Nghiên cứu về đường lối quốc phòng và an ninh của Đảng cộng sản Việt Nam
Nghiên cứu những quan điểm cơ bản có tính chất lí luận của Đảng về đường lối quân
sự, bao gồm: Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến
tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc; Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa; Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; Kết hợp phát triển kinh tế, xã hội
với tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại; Những vấn đề cơ bản về lịch sử nghệ
thuật quân sự Việt Nam; Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới quốc gia trong
tình hình mới; Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên và động viên
quốc phòng; Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; Những vấn đề cơ bản
về bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự an toàn xã hội.
Học thuyết MLN, TTHCM về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc mang tính
cách mạng và khoa học sâu sắc. Đó là cơ sở lí luận đểchúng ta nghiêncácnội dung đường lối
quố cphòng và an ninh của Đảng góp phần hình thành niềm tin khoa học, rèn luyện phẩm
chất đạo đức cách mạng và lí tưởng cho sinh viên.
1.2.2. Nghiên cứu về công tác quốc phòng và an ninh
Nghiên cứu vấn đề cơ bản về nhiệm vụ, nội dung công tác quốc phòng, an ninh của
Đảng hiện nay, bao gồm: Phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của
các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam; một số vấn đề về dân tộc, tôn giáo và đấu
tranh phòng chống địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam;
Phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; Phòng, chống vi phạm pháp luật về
bảo đảm trật tự an toàn giao thông; Phòng, chống một số loại tội phạm xâm hại danh dự,
nhân phẩm của người khác; An toàn thông tin và phòng, chống vi phạm pháp luật trên không
gian mạng; An ninh phi truyền thống và các mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt
Nam.
Nhà nước quy định nhiệm vụ về quốc phòng, quân sự, an ninh cho các bộ, ngành, cơ
quan Trung ương, địa phương và đơn vị cơ sở. Do vậy, nghiên cứu về công tác QP&AN
thực chất là nghiên cứu hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về bảo vệ Tổ
quốc, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và an ninh chính trị. Mọi công dân đều có trách nhiệm
quán triệt và tham gia công tác quốc phòng, luyện tập quân sự, giữ gìn bảo vệ an ninh, trật tự
an toàn xã hội. Tăng cường tiềm lực quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân phòng, chống
có hiệu quả chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với
cách mạng Việt Nam. Nghiên cứu và thực hiện tốt công tác QP&AN để xây dựng lòng tin
chiến thắng trước mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam.
1.2.3. Nghiên cứu về các nội dung quân sự chung
Nghiên cứu các nội dung cơ bản về các Chế độ sinh hoạt, học tập, công tác trong ngày,
trong tuần; Các chế độ nền nếp chính quy, bố trí trật tự nội vụ trong doanh trại; Hiểu biết
chung về các quân, binh chủng trong quân đội; Điều lệnh đội ngũ từng người có súng; Điều
lệnh đội ngũ đơn vị; Hiểu biết chung về bản đồ địa hình quân sự; Phòng tránh địch tiến công
hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao; Ba môn quân sự phối hợp.
1.2.4. Nghiên cứu về kĩ thuật chiến đấu bộ binh và chiến thuật
Nghiên cứu các kiến thức, kĩ năng chiến thuật, kĩ thuật quân sự cần thiết như:Kỹ thuật
bắn súng tiểu liên AK; Tính năng, cấu tạo và cách sử dụng một số loại lựu đạn thường dùng.
Ném lựu đạn bài 1; Từng người trong chiến đấu tiến công; Từng người trong chiến đấu
phòng ngự; Từng người làm nhiệm vụ canh gác (cảnh giới)
Kiến thức về quân sự trong môn học là những kiến thức phổ thông, sinh viên cần quan tâm
nghiên cứu đặc điểm, nguyên lí, tác dụng…hiểu rõ bản chất các nội dung kĩ thuật, chiến
thuật bộ binh; về khả năng sát thương, với các phương pháp phòng tránh đơn giản, hiệu quả.
Trên cơ sở đó nghiên cứu thực hành các bài tập sát với thực tế, thành thạo các thao tác kĩ
thuật, chiến thuật trong chiến đấu. Đồng thời có thể ứng dụng các kĩ thuật này khi tham gia
dân quân, tự vệ theo quy định của pháp luật.
1.3. Phương pháp luâ ̣n và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu môn học GDQP&AN đòi hỏi phải nắm vững phương pháp luận và các
phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với đối tượng, phạm vi và tính chất đa dạng của nội
dung môn học này.
1.3.1. Phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin Tư tưởng Hồ Chí Minh
Phương pháp luận chung nhất của việc nghiên cứu GDQP&AN là học thuyết MLN,
TTHCM.Trong đó những quan điểm của các nhà kinh điển Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc là cơ sở phương pháp luận trực tiếp để
nghiên cứu đường lối QP&AN của Đảng ta.
Vận dụng học thuyết MLN, TTHCM làm cơ sở phương pháp luận, đòi hỏi mỗi sinh viên
phải nắm vững và vận dụng đúng đắn một số quan điểm sau đây:
- Quan điểm hệ thống: đặt ra yêu cầu nghiên cứu, phát triển các nội dung của GDQP&AN một
cách toàn diện, tổng thể, trong mối quan hệ phát triển giữa các bộ phận, các vấn đề của môn
học, giữa môn học giáo dục quốc phòng và an ninh và môn học khác.
- Quan điểm lịch sử, logic: Trong nghiên cứu GDQP&AN đòi hỏi phải nhìn thấy sự phát
triển của đối tượng, vấn đề nghiên cứu theo thời gian, không gian với những điều kiện lịch
sử, cụ thể để từ đó giúp ta phát hiện, khái quát, nhận thức đúng những quy luật, nguyên tắc
của hoạt đô ̣ng QP&AN h trong sự phát triển của đất nước.
- Quan điểm thực tiễn: Chỉ ra phương hướng cho việc nghiên cứu giáo dục quốc
phòng và an ninh là phải bám sát thực tiễn xây dựng quân đội và an ninh nhân dân, xây dựng
nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
1.3.2. Phương pháp nghiên cứu
Với tư cách là bộ môn khoa học nằm trong hệ thống khoa học quân sự, phạm vi
nghiên cứu của GDQP&AN rất rộng, nội dung nghiên cứu đa dạng, được cấu trúc theo hệ
thống từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp luôn có sự kế thừa và phát triển. Vì vậy
GDQP&AN được tiếp cận nghiên cứu với nhiều cách thức, phù hợp với tính chất của từng
nội dung và vấn đề nghiên cứu cụ thể.
- Các phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Trước hết cần chú ý sử dụng các phương pháp nghiên cứu lí thuyết như phân tích,
tổng hợp, phân loại, hệ thống hóa, mô hình hóa, giả thuyết…nhằm thu thập thông tin khoa
học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu về quốc phòng, an ninh để rút ra các kết luận
khoa học cần thiết, không ngừng bổ sung, phát triển làm phong phú nội dung GDQP&AN.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Cùng với các phương pháp nghiên cứu lí thuyết, cần nghiên cứu sử dụng các phương
pháp nghiên cứu thực tiễn như quan sát, điều tra, khảo sát thực tế, nghiên cứu các sản phẩm
QP&AN, tổng kết kinh nghiệm, thí nghiệm, thực nghiệm, diễn tập…nhằm tác động trực tiếp
vào đối tượng trong thực tiễn, từ đó khái quát bản chất, quy luật của các hoạt động QP&AN;
bổ sung làm phong phú nội dung cũng như kiểm định tính xác thực, tính đúng đắn của các
kiến thức GDQP&AN. Trong nghiên cứu lĩnh hội các kiến thức, kĩ năng QP&AN cần sử dụng
kết hợp với các phương pháp dạy học lí thuyết và thực hành nhằm bảo đảm cho người học vừa
có nhận thức sâu sắc về đường lối, nghệ thuật quân sự, nắm chắc lí thuyết kĩ thuật và chiến
thuật, vừa rèn luyện phát triển được các kĩ năng công tác quốc phòng, thuần thục các thao tác,
hành động.
- Phương pháp tạo tình huống
“Đổi mới phương pháp dạy học GDQP&AN theo hướng tăng cường vận dụng các
phương pháp dạy học tiên tiến kết hợp với sử dụng các phương tiện kĩ thuật dạy học hiện
đại. Trong quá trình học tập, nghiên cứu các vấn đề, các nội dung quốc phòng và an ninh cần
chú ý sử dụng các phương pháp tạo tình huống, nêu vấn đề, đối thoại, tranh luận sáng tạo,
tăng cường thực hành, thực tập sát với thực tế chiến đấu, công tác quốc phòng; tăng cường
tham quan thực tế, viết thu hoạch, tiểu luận; tăng cường sử dụng các phương tiện kĩ thuật,
thiết bị quân sự hiện đại phục vụ các nội dung học tập; đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng các
thành tựu công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng học tập, nghiên cứu môn học Giáo
dục quốc phòng và an ninh”1.
1.4. Giới thiêụ về môn ho ̣c giáo du ̣c quố c phòng và an ninh
1.4.1. Đặc điểm môn học
Là môn học được luật định, thể hiện rõ đường lối giáo dục của Đảng được thể chế hóa
bằng các văn bản pháp luật của Nhà nước, nhằm giúp sinh viên thực hiện mục tiêu “hình
thành và bồi dưỡng phẩm chất, nhân cách, và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”2. Kế tục và phát huy những kết quả thực hiện Chương
trình huấn luyện quân sự phổ thong (1961), Giáo dục quốc phòng (1991), trong những năm
qua, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới và phù hợp với quy
chế giáo dục – đào tạo trình độ đại học, năm 2000 chương trình tiếp tục được sửa đổi, bổ

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2018) Giáo trình giáo dục quốc phòng và an ninh dùng cho sinh viên các trường đại học, cao
đẳng, tập 1, Nxb Giáo dục, tr.8
2.LuậtGiáo dục, NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội 2019
sung; đến năm 2007 triển khai thực hiện Nghị định của Chính phủ về GDQP&AN, Luật
Giáo dục quốc phòng và an ninh năm 2013 xác định Mục tiêu GDQP&AN là giáo dục cho
công dân về kiến thức quốc phòng và an ninh để phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống
dựng nước và giữ nước, long tự hào, tự tôn dân tộc, nâng cao ý thức, trách nhiệm, tự giác
thực hiện nhiệm vụ QP&AN, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Như vậy, trong
từng giai đoạn cách mạng, chương trình môn học GDQP&AN đều có những đổi mới phục
vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước và công tác quốc phòng và an ninh trong từng thời kì,
gắn kết chặt chẽ các mục tiêu của Giáo dục – Đào tạo với QP&AN.
GDQP&AN là một môn học bao gồm kiến thức khoa học xã hội, nhân văn, khoa học
tự nhiên và khoa học kĩ thuật quân sự và thuộc nhóm các môn học chung; chương trình, do
Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành và thực hiện thống nhất trong phạm vi toàn quốc. Nội
dung bao gồm kiến thức cơ bản về đường lối quốc phòng và an ninh; về truyền thống đấu
tranh chống ngoại xâm của dân tộc, về nghệ thuật quân sự Việt Nam; về chiến lược “Diễn
biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lục thù địch đối với cách mạng Việt Nam và kĩ
năng quân sự, an ninh cần thiết đáp ứng yêu cầu xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân.
GDQP&AN góp phần xây dựng, rèn luyện ý thức tổ chức kỉ luật, tác phong khoa học
ngay khi sinh viên đang học tập trong nhà trường và khi ra công tác. Giảng dạy và học tập có
chất lượng môn học GDQP&AN là góp phần đào tạo cho đất nước một ngũ cán bộ khoa học
kĩ thuật, cán bộ quản lí, chuyên môn nghiệp vụ có ý thức, năng lực sẵn sàng tham gia thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Viêt Nam xã hội chủ nghĩa trên mọi cương vị công tác.
1.4.2. Chương trình.
Chương trình GDQP&AN trình độ đại học, ban hành theo Thông tư số 05/2020/TT-
BGDĐT ngày 18 tháng 3 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chương trình
được xây dựng trên cơ sở phát triển trình độ của các cấp học, bảo đảm liên thông, logic;
thống nhất GDQP&AN trình độ cao đẳng, đại học trong một chương trình, với khối lượng
kiến thức 8 tín chỉ. Mỗi học phần là những khối kiến thức tương đối độc lập, tiện cho sinh
viên tích lũy trong quá trình học tập.
Kết cấu chương trình gồm 3 phần chính:
Phần 1. Quy định chung.
Chươn trin ̀ h GDQP&AN dùng cho sinh viên khối không chuyên ngành
GDQP&AN trình độ đại học, cao đẳng, loại hình đào tạo chính quy; nhằm trang bị cho sinh
viên kiến thức cơ bản về đường lối quân sự, công tác quốc phòng và an ninh cần thiết nhằm
đáp ứng yêu cầu xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang nhân dân, sẵn sàng tham gia lực
lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên và làm nghĩa vụ quân sự, giữ gìn trật tự, an toàn xã
hội, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chương trình bao gồm 4 học phần,
thời lượng 8 tín chỉ.
Phần 2: Nội dung chương trình.
Học phần 1: Đường lối quố c phòng và an ninh của Đảng Cộng sảnViệt Nam: 45 tiết
(lý thuyết 37 thảo luận 8).
Học phần 2: Công tác Quốc phòng và an ninh: 30 tiết (lý thuyết 22 thảo luận 8).
Học phần 3: Quân sự chung: 30 tiết (lý thuyết 14 thực hành 16).
Học phần 4: Kỹ thuật chiến đấu bộ binh và chiến thuật: 60 tiết (lý thuyết 04 thực hành
56).
Học phần I: Đường lối quốc phòng và an ninh của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thời gian (tiết)
Số
Nội dung Tổng Lý Thảo
TT
Số tiết thuyết luận
1 Đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu môn học 2 2
Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
2 4 2 2
Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân bảo
3 4 4
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
4 4 4
chủ nghĩa
5 Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân 4 4
Kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với tăng cường quốc
6 4 4
phòng, an ninh và đối ngoại
Những vấn đề cơ bản về lịch sử nghệ thuật quân sự Việt
7 6 4 2
Nam
Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới quốc
8 4 4
gia trong tình hình mới
Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động
9 6 4 2
viên và động viên quốc phòng
10 Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc 4 2 2
Những vấn đề cơ bản về bảo vệ an ninh quốc gia và bảo
11 3 3
đảm trật tự an toàn xã hội
Cộng 45 37 8
Học phần II: Công tác quốc phòng và an ninh.
Thời gian (tiết)
Số
Nội dung Tổng Lý Thảo
TT
Số tiết thuyết luận
Phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn
1 lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt 4 4
Nam

Một số nội dung cơ bản về dân tộc, tôn giáo, đấu tranh
2 phòng chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, 6 4 2
tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam
3 Phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường 4 4
Phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn
4 4 4
giao thông
Phòng, chống một số loại tội phạm xâm hại danh dự, nhân
5 4 2 2
phẩm của người khác
An toàn thông tin và phòng, chống vi phạm pháp luật trên
6 4 2 2
không gian mạng
An ninh phi truyền thống và các mối đe dọa an ninh phi
7 4 2 2
truyền thống ở Việt Nam
Cộng 30 22 8

Học phần III: Quân sự chung.


Thời gian 1 (tiết)
Số
Nội dung Tổng Lý Thực
TT
Số tiết thuyết hành
1 Chế độ sinh hoạt, học tập, công tác trong ngày, trong tuần 2 2
Các chế độ nền nếp chính quy, bố trí trật tự nội vụ trong
2 2 2
doanh trại
3 Hiểu biết chung về các quân, binh chủng trong quân đội 4 4
4 Điều lệnh đội ngũ từng người có súng 4 4
5 Điều lệnh đội ngũ đơn vị 4 4
6 Hiểu biết chung về bản đồ địa hình quân sự 4 2 2
7 Phòng tránh địch tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao 4 2 2
8 Ba môn quân sự phối hợp 6 2 4
Cộng 30 14 16

Học phần IV: Kỹ thuật chiến đấu bộ binh và chiến thuật.


Thời gian (tiết)
Số TT Nội dung Tổng Lý Thực
Số tiết thuyết hành
1 Kỹ thuật bắn súng tiểu liên AK 24 2 22
Tính năng, cấu tạo và cách sử dụng một số loại lựu đạn
2 8 2 6
thường dùng. Ném lựu đạn bài 1
3 Từng người trong chiến đấu tiến công 16 16
4 Từng người trong chiến đấu phòng ngự 8 8
5 Từng người làm nhiệm vụ canh gác (cảnh giới) 4 4
Cộng 60 4 56

Phần 3: Hướng dẫn thực hiện chương trình.


Căn cứ vào quy chế đào tạo hệ thống tín chỉ hiện hành, các nhà trường xây dựng
chương trình chi tiết môn học phù hợp với quy trình, tiến trình đào tạo và hình thức tổ chức
đào tạo theo học chế, tín chỉ hay niên chế, học phần.
Thời gian quy định trong chương trình không bao gồm thời gian kiểm tra, thi và tham quan.
Các trường bố trí thời gian kiểm tra, thi, tham quan ngoài thời gian quy định trong chương
trình, theo quy chế đào tạo hiện hành.
1.4.3. Cơ sở vật chất thiết bị dạy học
Các cơ sở giáo dục phải đảm bảo đủ thiết bị dậy học tối thiểu môn học GDQP&AN
theo quy định. Khi học thực hành các kĩ năng quân sự phải có sân tập, bãi tập, thao trường.
Giáo trình GDQP&AN do Trung tâm GDQP&AN Trường ĐHSP HàNội 2 ban hành là tài
liệu giảng dạy và nghiên cứu chính thức của giảng viên, sinh viên.
1.4.4. Tổ chức dạy học và đánh giá kết quả học tập
Tổ chức dạy, học và đánh giá kết quả môn học GDQP&AN theo quy chế giáo dục
đào tạo hiện hành.
Sinh viên có đủ số lần kiểm tra cho mỗi học phần theo quy định; mỗi lần kiểm tra đạt
từ 5 điểm trở lên và có đủ 80% thời gian có mặt nghe giảng lí thuyết trên lớp và thực hành
tại thao trường sẽ được dự thi kết thúc học phần thứ nhất. Mỗi sinh viên phải dự thi đủ các
học phần quy định trong chương trình.
* Đối với hình thức đào tạo theo niên chế:
- Điểm tổng hợp đánh giá học phần theo thang điểm 10, bao gồm điểm kiểm tra
thường xuyên, điểm kiểm tra định kỳ và điểm thi kết thúc học phần. Trong đó, điểm thi kết
thúc học phần phải đạt từ 5 trở lên và làm tròn đến một chữ số thập phân.
- Kết quả học tập môn GDQP&AN là điểm trung bình cộng của điểm các học phần,
làm tròn đến một chữ số thập phân.
* Đối với hình thức đào tạo theo tín chỉ.
- Điểm học phần là điểm của tất cả các điểm đánh giá bộ phận của học phần sau khi
nhân với trọng số tương ứng. Điểm học phần làm tròn đến một chữ số thập phân. Điểm đánh
giá bộ phận và điểm thi kết thúc học phần được chấm theo thang điểm 10, làm tròn đến một
chữ số thập phân.
- Kết quả học tập môn học GDQP&AN là điểm trung bình chung tổng các điểm học
phần, làm tròn đến một chữ số thập phân; không tính kết quả học tập môn học Giáo dục
quốc phòng và an ninh theo điểm chữ.
Sinh viên được cấp chứng chỉ GDQP&ANkhi điểm trung bình chung môn học đạt từ
5 điểm trở lên và tại thời điểm cấp chứng chỉ, sinh viên không bị truy cứu trách nhiệm hình
sự. Chứng chỉ Giáo dục quốc phòng và an ninh là một trong những điều kiện để xét tốt
nghiệp cao đẳng, đại học.

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN


1. Trình bày các cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu môn học
Giáo dục quốc phòng và an ninh.
2. Làm rõ nội dung tổ chức dạy học và đánh giá kết quả học tập môn học Giáo dục
quốc phòng và an ninh.
Chương 2
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ CHIẾN TRANH, QUÂN ĐỘI VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC

2.1. Quan điể m của chủ nghiã Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiế n tranh
2.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh
2.1.1.1. Chiến tranh là một hiện tượng chính trị - xã hội.
Chiến tranh là một trong những vấn đề phức tạp, trước Mác đã có nhiều nhà tư tưởng
đề cập đến vấn đề này, song đáng chú ý nhất là tư tưởng của C.Ph.Claudơvít (1780-1831),
Ông quan niệm: chiến tranh là một hành vi bạo lực dùng để buộc đối phương phục tùng ý
chí của mình. Chiến tranh là sự huy động sức mạnh không giới hạn độ sức mạnh đến tột
cùng của các bên tham chiến. Ở đây, C.Ph.Claudơvít đã chỉ ra được đặc trưng cơ bản của
chiến tranh là sử dụng bạo lực. Tuy nhiên, C.Ph.Claudơvít chưa luận giải được bản chất của
hành vi bạo lực đấy. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã kế thừa tư tưởng đó và đi đến
khẳng định: Chiến tranh là hiện tượng chính trị xã hội có tính lịch sử, đó là cuộc đấu tranh
vũ trang có tổ chức giữa các giai cấp, nhà nước (hoặc liên minh giữa các nước) nhằm đạt
được mục đích chính trị nhất định. Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa MLN, chiến
tranh là kết quả giữa quan hệ giữa người với người trong xã hội. Nhưng đó không phải là
mối quan hệ giữa người với người nói chung, mà là mối quan hệ giữa tập đoàn người có lợi
ích cơ bản nhau. Khác nhau giữa các hiện tượng chính trị - xã hội khác, chiến tranh được thể
hiện dưới một hình thức đặc biệt, sử dụng công cụ đặc biệt đó là bạo lực vũ trang.
2.1.1.2. Nguồn gốc nảy sinh ra chiến tranh
Với thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng, cùng với sự kết hợp sáng
tạo các phương pháp logic và lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen lần đầu tiên trong lịch sử đã
luận giải một cách đúng đắn về nguồn gốc nảy sinh của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất là nguồn gốc sâu xa (nguồn gốc kinh tế), suy đến cùng đã dẫn đến sự xuất hiện, tồn
tại của chiến tranh. Đồng thời, sự xuất hiện và tồn tại của giai cấp và đối kháng giai cấp là
nguồn gốc trực tiếp (nguồn gốc xã hội) dẫn đến sự xuất hiện, tồn tại của chiến tranh.
Thực tiễn hình thành và phát triển xã hội loài người đã chứng minh cho nhận định
trên. Trong tác phẩm: “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”,
Ph.Ăngghen chỉ rõ: Trải qua hàng vạn năm trong chế độ cộng sản nguyên thủy, khi chưa có
chế độ tư hữu, chưa có giai cấp đối kháng thì chiến tranh với tính chất là một hiện tượng
chính trị xã hội cũng chưa xuất hiện. Mặc dù ở thời kì này đã xuất hiện những cuộc xung đột
vũ trang. Nhưng đó không phải là một cuộc chiến tranh mà chỉ là một dạng “Lao động thời
cổ’’. Bởi vì, xét về mặt xã hội, xã hội cộng sản nguyên thủy là một xã hội không có giai cấp,
bình đẳng, không có tình trạng phân chia thành kẻ giàu, người nghèo, kẻ đi áp bức bóc lột và
người bị áp bức bóc lột. Về kinh tế, không có của “dư thừa tương đối” để người này có thể
chiếm đoạt lao động của người khác, mục tiêu của các cuộc xung đột đó chỉ để tranh dành
các điều kiện tự nhiên thuận lợi để tồn tại như: nguồn nước, bãi cỏ, vùng săn bắn hay hang
động,...Tất cả các thành viên của bộ lạc với mọi dụng cụ lao động thường ngày đều tham gia
vào cuộc xung đột đó. Do đó, các cuộc xung đột vũ trang này hoàn toàn mang tính chất ngẫu
nhiên tự phát. Theo đó, Ph.Ăngghen chỉ rõ, khi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
xuất hiện và cùng với nó, là sự ra đời của giai cấp, tầng lớp áp bức bóc lột thì chiến tranh ra
đời và tồn tại như một điều tất yếu khách quan. Chế độ áp bức bóc lột càng hoàn thiện thì
chiến tranh càng phát triển. Chiến tranh trở thành “bạn đường” của mọi chế độ tư hữu.
Phát triển những luận điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về chiến tranh trong điều kiện
lịch sử mới, V.I. Lênin chỉ rõ thời đại ngày nay còn chủ nghĩa đế quốc thì còn nguy cơ xảy
ra chiến tranh, chiến tranh là “bạn đường” của chủ nghĩa đế quốc.
Như vậy, chiến tranh có nguồn gốc từ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, có đối
kháng giai cấp và áp bức bóc lột, chiến tranh không phải là một định mệnh gắn liền với con
người và xã hội loài người. Muốn xóa bỏ chiến tranh phải xóa bỏ nguồn gốc sinh ra nó.
2.1.1.3. Bản chất của chiến tranh
- Bản chất của chiến tranh là một trong những nội dung cơ bản, quan trọng nhất của
học thuyết MLN về chiến tranh, quân đội. Theo V.I. Lênin: “Chiến tranh là sự tiếp tục của
chính trị bằng những biện pháp khác’’1 (cụ thể là bằng bạo lực). Theo V.I. Lênin, khi phân
tích bản chất chiến tranh chỉ là một hiện tượng lịch sử cụ thể.
- Theo quan điểm của chủ nghĩa MLN: “Chính trị sự phản ánh tập trung của kinh tế,
Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc”2, chính trị là sự thống nhất giữa
đường lối đối nội và đường lối đối ngoại, trong đó đường lối đối ngoại phụ thuộc vào đường
lối đối nội.
Như vậy, chiến tranh chỉ là một thủ đoạn chính trị. Ngược lại, mọi chức năng, nhiệm
vụ của chính trị đều được tiếp tục thực hiện trong chiến tranh. Giữa chiến tranh và chính trị
có quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó chính trị chi phối và quyết định toàn bộ tiến trình và
kết cục chiến tranh, chính trị chỉ đạo toàn bộ và quyết định toàn bộ hoặc phần lớn tiến trình
và kết cục của chiến tranh, chính trị quy định mục tiêu và điều chỉnh mục tiêu, hình thức tiến
hành đấu tranh vũ trang. Chính trị không chỉ kiểm tra toàn bộ quá trình tác chiến, mà còn sử
dụng kết quả sau chiến tranh để đề ra những nhiệm vụ, những mục tiêu mới cho giai cấp, xã
hội trên cơ sở thắng lợi hay thất bại của chiến tranh.
- Ngược lại, chiến tranh là một bộ phận, một phương tiện chính trị, là một kết quả
phản ánh những cố gắng cao nhất của chính trị. Chiến tranh tác động trở lại theo hai hướng
tích cực hoặc tiêu cực; hoặc tích cực ở khâu này nhưng lại tiêu cực ở khâu khác. Chiến tranh
có thể làm thay đổi đường lối, chính sách, nhiệm vụ cụ thể, thậm chí có thể làm thay đổi cả
thành phần của lực lượng lãnh đạo chính trị bên trong các bên tham chiến. Chiến tranh tác
động lên chính trị thông qua việc làm thay đổi về chất tình hình xã hội, nó làm phức tạp hóa
các mối quan hệ và làm tăng thêm những mâu thuẫn vốn có trong xã hội đối kháng giai cấp.
Chiến tranh có thể đẩy nhanh sự chín muồi của cách mạng hoặc làm mất đi tình thế cách
mạng. Chiến tranh kiểm tra sức sống của toàn bộ chế độ chính trị xã hội.
- Trong thời đại ngày nay mặc dù chiến tranh có những thay đổi về phương thức tác chiến,
vũ khí trang bị “song bản chất chiến tranh vẫn không có gì thay đổi, chiến tranh vẫn là sự
tiếp tục chính trị của các nước và giai cấp nhất định. Đường lối chính trị của đất nước và các
thế lực thù địch vẫn luôn chứa đựng nguy cơ chiến tranh, đường lối đó đã quyết định đến
mục tiêu chiến tranh, tổ chức biên chế, phương thức tác chiến, vũ khí trang bị” của quân đội
do chúng tổ chức ra và nuôi dưỡng.
2.1.1.4. Tính chất của chiến tranh
Xuấ t phát từ địa vị lịch sử của các giai cấ p đố i với sự phát triển của xã hội từ mục đích chính
trị của chiế n tranh. Các Mác, Ăng Ghen đã phân chia chiế n tranh thành: chiế n23 tranh tiế n bộ

1. Bộ giáo dục và Đào tạo, (2018) Giáo trình giáo dục quốc phòng và an ninh dùng cho sinh viên các trường đại học,
cao đẳng, tập 1, Nxb Giáo dục
2. Bộ giáo dục và Đào tạo,(2015) Giáo trình xây dựng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia và biển đảo Việt
Nam NXB Giáo dục Việt Nam
và chiế n tranh phản động. Chiế n tranh tiế n bộ bao gồ m: những cuộc chiế n tranh giải phóng
dân tộc của các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc chố ng lại bọn thực dân xâm lược và những cuộc
nội chiế n của giai cấ p bị áp bức bóc lột. Chiế n tranh phản động là những cuộc chiế n tranh đi
xâm lược đấ t đai, nô dịch các dân tộc khác. Từ đó, các ông xác định thái độ ủng hộ những
cuộc chiế n tranh tiế n bộ, chính nghĩa và phản đố i những cuộc chiế n tranh phản động, phi
nghĩa. Lênin phân loại chiế n tranh dựa trên các mâu thuẫn cơ bản của thời đại mới và đã
phân chiế n tranh thành: chiế n tranh cách mạng và chiế n tranh phản cách mạng hay còn gọi
là: chiế n tranh chính nghĩa và chiế n tranh phi nghĩa. Người xác định thái độ là: giai cấ p vô
sản cầ n lên án các cuộc chiế n tranh phản cách mạnh, phi nghĩa, ủng hộ các cuộc chiế n tranh
cách mạng, tự vệ chính nghĩa.
2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh:
2.1.2.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng đắn bản chất, quy luật của chiến tranh và
tác động to lớn của nó đến đời sống xã hội. (Dù là chiến tranh chính nghĩa hay chiến tranh
phi nghĩa).
Khi nói về bản chất chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh đã khái quát bằng hình ảnh “con đỉa
hai vòi”, một vòi hút máu nhân dân lao động chính quốc, một vòi hút máu nhân dân lao động
thuộc địa. Trong hội nghị Véc- xây, Hồ Chí Minh đã vạch trần bản chất, bộ mặt thật sự của
sự xâm lược thuộc địa và chiến tranh cướp bóc của chủ nghĩa thực dân Pháp, “Người Pháp
đã khai hóa văn minh bằng rượu lậu, thuốc phiện”. Nói về mục đích cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, Người khẳng định: “Ta chỉ giữ gìn non sông, đất nước của ta. Chỉ chiến đấu
cho quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Còn thực dân phản động Pháp thì mong cướp
nước ta, mong biến dân ta thành nô lệ”1
2.1.2.2. Chủ Tịch Hồ Chí Minh xác định đúng tính chất xã hội của chiến tranh, phân tích
chất chính trị xã hội của chiến tranh xâm lược, chiến tranh ăn cướp của chủ nghĩa thực dân,
đế quốc, chỉ ra tính chính nghĩa của chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta.
Trên cơ sở mục đích chính trị của chiến tranh, Hồ Chí Minh đã xác định tính chất xã hội của
chiến tranh, chiến tranh xâm lược là phi nghĩa, chiến tranh chống xâm lược là chính nghĩa,
ủng hộ chiến tranh chính nghĩa, phản đối chiến tranh phi nghĩa.
Kế thừa và phát triển của chủ nghĩa MLN về bạo lực cách mạng, Hồ Chí Minh đã vận dụng
sáng tạo vào thực tiễn chiến tranh cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: “Chế độ thực
dân, tự bản thân nó đã là một hành động bạo lực, độc lập tự do không thể cầu xin mà có
được, phải dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính
quyền và bảo vệ chính quyền”2
Bạo lực cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh được tạo bởi sức mạnh của toàn dân, bằng cả
lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị và đấu
tranh vũ trang.
2.1.2.3. Chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta là cuộc chiến tranh nhân dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
Bác đã khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, người coi con người là
nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh. “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn
lần dân liệu cũng xong”.
- Hồ Chí Minh khẳng định: Ngày nay chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Cách mạng là sự nghiệp quần chúng. Chủ tịnh Hồ Chí Minh luôn coi con người là
nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh. Người chủ trương phải dựa vào dân, coi dân
là gốc, là cội nguồn sức mạnh để “xây dựng lầu thắng lợi”. TTHCM về chiến tranh nhân dân
là một trong những di sản quý báu của con người. Tư tưởng này được Hồ Chí Minh trình
bày một cách giản dị, dễ hiểu nhưng sinh động và sâu sắc. Chiến tranh nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng là cuộc chiến tranh toàn dân, phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân
và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. Tư tưởng của người được thể hiện rõ nét trong
lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp ngày 19/12/1946: “bất kì đàn ông,
đàn bà, bất kì người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc... hệ là người
Việt Nam thì phải đứng lên đáng thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng ai có
gương dùng gương, không có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức
chống thực dân Pháp cứu nước”1.
Để đánh thắng giặc Mĩ xâm lược, Người tiếp tục khẳng định: “ba mươi mốt triệu đồng bào
ta ở hai miền, bất kì già trẻ, gái trai phải là ba mốt chiến sĩ anh hùng diệt Mĩ cứu nước, quyết
dành thắng lợi cuối cùng”2.
Theo TTHCM, đánh giặc phải đánh bằng sức mạnh của toàn dân, trong đó phải có lực
lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Kháng chiến toàn dân phải đi đôi với kháng chiến
toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, đánh địch trên tất cả các mặt trận: quân
sự, chính trị, kinh tế, văn hóa...
Sự khái quát trên đã phản ánh nét đặc sắc của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong
thời đại mới và là một sự phát triển đến đỉnh cao tư tưởng vũ trang toàn dân của chủ nghĩa
MLN. Sự phát triển sau sắc làm phong phú thêm lý luận mác xít về chiến tranh nhân dân
trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội
2.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quân đội
2.2.1.1. Khái niệm:
Theo Ph. Ăngghen: “Quân đội là một tập đoàn người vũ trang, có tổ chức do nhà
nước xây dựng để dùng vào cuộc chiến tranh tiến công hoặc chiến tranh phòng ngự”.
Như vậy theo Ph.Ăngghen, theo quân đội là một tổ chức của một giao cấp và nhà
nước nhất định, là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu nhất, là lực lượng nòng cốt để nhà nước,
giai cấp tiến hành chiến tranh và đấu tranh vũ trang.
Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản phát triển từ tự do cạnh tranh sang độc quyền (chủ nghĩa
đế quốc), V.I. Lênin nhấn mạnh: chức năng cơ bản của quân đội đế quốc là phương tiện
quân sự chủ yếu để đạt được mục đích chính trị đối ngoại là tiến hành chiến tranh xâm lược
và duy trì truyền thống chính trị của bọn bóc lột đối với nhân dân trong nước.
2.2.1.2. Nguồn gốc ra đời của quân đội.
Từ khi quân đội xuất hiện đến nay, đã có không ít nhà lý luận đề cập đến nguồn gốc,
bản chất của quân đội trên các khía cạnh khác nhau. Nhưng chỉ có chủ nghĩa MLN mới lí
giải đúng đắn và khoa học về hiện tượng chính trị xã hội đặc thù này.
Chủ nghĩa MLN đã chứng minh một cách khoa học về nguồn gốc ra đời của quân đội từ sự
phân tích cơ sở kinh tế - xã hội và khẳng định: Quân đội là hiện tượng lịch sử, ra đời trong
giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người, khi xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu

1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 1995, tr.323
2
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 1995, tr. 304.
sản xuất và sự đối kháng giai cấp trong xã hội. Chính chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp đã
làm nảy sinh nhà nước thống trị bóc lột. Để bảo vệ lợi ích của giao cấp thống trị và đàn áp
quần chúng nhân dân lao động, giai cấp thóng trị đã tổ chức ra lượng vũ trang thường trực
làm công cụ bạo lực của nhà nước.
Như vậy, chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất về sự phân chia xã hội thành giai cấp đối kháng
là nguồn gốc ra đời của quân đội. Chừng nào còn chế độ tư hữu, còn chế độ áp bức bóc lột
thì quân đội vẫn còn tồn tại. Quân độ chỉ mất đi khi giai cấp, nhà nước và những điều kiện
sinh ra nó tiêu vong.
2.2.1.3. Bản chất giai cấp của quân đội.
Khi bàn về bản chất của quân đội, chủ nghĩa MLN khẳng định bản chất quân đội là
công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, nhà nước nhất định nhằm mục đích bảo vệ lợi ích
của giai cấp thống trị và nhà nước tổ chức, nuôi dưỡng, sử dụng nó. Bản chất của quân đội
phụ thuộc vào bản chất giai cấp của nhà nước đã tổ chức ra quân đội đó. Quân đội do giai
cấp, nhà nước tổ chức, nuôi dưỡng và xây dựng theo đường lối, quan điểm chính trị, quân sự
của giai cấp mình. Đó là cơ sở để quân đội trung thành với nhà nước, giai cấp đã tổ chức ra
nó.
Bản chất giai cấp của quân đội không phải tự phát hình thành mà phải trải qua quá
trình xây dựng lâu dài và được củng cố liên tục, bản chất giai cấp của quân đội là tương đối
ổn định nhưng không phải là bất biến. sự vận động phát triển bản chất giai cấp của quân đội
bị chi phối bởi nhiều yếu tố như: giai cấp, nhà nước, các lực lượng, tổ chức chính trị xã hội
và việc giải quyết các nối quan hệ trong nội bộ quân đội có thể được tăng cường hoặc bị phai
nhạt, thậm chí bị biến chất và tuột khỏi tay nhà nước, giai cấp đã tổ chức ra, nuôi dưỡng
quân đội đó. Sự thay đổi bản chất giai cấp của quân đội diễn ra dần dần thông qua việc tăng
cường hoặc suy yếu dần các mối quan hệ trên.
Trong tình hình hiện nay, các học giả tư sản thường rêu rao luận điểm “phi chính trị
hóa quân đội”, cho quân đội phải đứng ngoài chính trị quân đội là dụng cụ bạo lực của toàn
xã hội, không mang bản chất giai cấp. Thực chất quân điểm “phi chính trị hóa quân đội” của
các học giả tư sản nhằm làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm sức mạnh chiến
đấu, từng bước làm thoái hóa về chính trị tư tưởng, phai nhạt bản chất cách mạng của quân
đội. Đó là một mục tiêu quan trọng trong chiến lực “diến biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chế
độ đế quốc. Mặt khác, mặt khác của nền kinh tế thị trường tác động không nhỏ tới tăng
cường bản chất giai cấp công nhân, bản chất cách mạng của quân đội. Những biểu hiện
cường điệu lợi ích vật chất, lề thói thực dụng, cơ hội và chính trị, sự suy giảm về đạo đức
cách mạng là những cản trở trong xây dựng quân đội cách mạng hiện nay.
2.2.1.4. Sức mạnh chiến đấu của quân đội.
- Theo quan điểm của Mác - Ăng ghen sức mạnh chiến đấu của quân đội phụ thuộc
vào những yếu tố như: con người, điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, vũ khí trang
bị, khoa học quân sự, trong xây dựng sức mạnh chiến đấu cho quân đội, các ông rất chú
trọng đến khâu đào tạo đội ngũ cán bộ, đánh giá và nhận xét về tài năng của các tướng lĩnh
quân sự, đồng thời phê phán sự yếu kém của đội ngũ này.
- Bảo vệ và phát triển tư tưởng của C. Mác, V.I.Lênin đã chỉ rõ sức mạnh chiến đấu
của quân đội phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: yếu tố quân số; tổ chức cơ cấu biên chế; yếu
tố chính trị - tinh thần kỉ luật; số lượng, chất lượng vũ khí trang bị kĩ thuật; trình độ huấn
luyện và thể lực; trình độ khoa học và nghệ thuật quân sự; bản lĩnh lãnh đạo, trình độ tổ chức
chỉ huy của cán bộ các cấp. Giữa các yếu tố trên có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tuy
nhiên, vị trí, vai trò của từng yếu là không ngang bằng nhau, trong những điều kiện xác định,
yếu tố chính trị tinh thần giữ vai trò quyết định đến sức mạnh chiến đấu của quân đội.
V.I.Lênin khẳng định: “Trong mọi cuộc chiến tranh rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh
thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”1.
2.2.1.5. Nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới của Lênin.
V.I. Lênin kế thừa, bảo vệ và phát triển lý luận của C. Mác, Ph. Ăngghen về quân đội
và vận dụng thành công trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản.
Ngay sau khi Cách Mạng Tháng Mười Nga thành công, các thế lực thù địch điên
cuồng chống phá nước Nga Xô Viết. Để bảo vệ thành quả cách mạng, V.I. Lênin yêu cầu
phải giải tán quân đội cũ và thành lập quân đội kiểu mới (Hồng quân) của giai cấp vô sản.
V.I. Lênin đã chỉ ra những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng quân đội kiểu mới: Đảng Cộng
Sản lãnh đạo Hồng quân tăng cường bản cấp giai cấp công nhân; đoàn kết thống nhất với
quân đội nhân dân: trung thành với chủ nghĩa đế quốc vô sản; xây dựng chính quy; không
ngừng hoàn thiện cơ cấu tổ chức; phát triển hài hòa các quân chủng, binh chủng; sẵn sàng
chiến đấu. Trong đó sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nguyên tắc quan trọng nhất, quyết
định đến sức mạnh, sự tồn tại, phát triển, chiến đấu, chiến thắng Hồng quân.
Ngày nay, những nguyên tắc cơ bản về xây dựng quân đội kiểu mới của V.I. Lênin
vẫn giữ nguyên giá trị; là cơ sở lý luận khoa học cho các Đảng Cộng sản xác định phương
hướng tổ chức xây dựng quân đội của mình.
2.2.2. Tư Tưởng Hồ Chí Minh về quân đội.
2.2.2.1. Khẳng định sự ra đời của quân đội là một tất yếu, là vấn đề có tính qui luật trong
đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc ở Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa sự ra đời của quân đội với
sự nghiệp giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc. Người viết “Dân tộc Việt Nam nhất
định phải được giải phóng. Muốn đánh chúng phải có lực lượng quân sự, phải có tổ chức” 2.
Ngày 22/12/1944, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Tiền thân của quân
đội ta hiện nay được thành lập. Sự ra đời của quân đội xuất phát từ chính yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp của nước ta. Thực tiễn lịch sử cho
thấy, kẻ thù sử dụng bạo lực phản cách mạng để áp bức nô dịch dân tộc ta. Do vậy, muốn
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, chúng ta phải tổ chức bạo lực cách mạng để chống
lại bạo lực phản cách mạng.
Để thực hiện được mục tiêu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản
Việt Nam đã tổ chức ra lực lượng vũ trang cách mạng làm nòng cốt cho cuộc đấu tranh giai
cấp, dân tộc mà tiền thân của nó là những đội xích vệ đỏ, du kích vũ trang, sau đó phát triển
thành Quân đội nhân dân. Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng vũ trang cách mạng của
giai cấp công nhân và quần chúng lao động, đấu tranh với kẻ thù giai cấp và kẻ thù dân tộc.
Quá trình xây dựng chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta luôn luôn gắn liền với
phong trào cách mạng của quần chúng, với các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chính từ thực tiễn phong trào cách mạng của quần chúng,
những thăng trầm của chiến tranh, những thử thách ác liệt cùng với những hi sinh to lớn mà
phẩm chất “Bộ đội cụ Hồ” được rèn luyện, kiểm nghiệm nghiêm ngặt nhất và được phát
triển lên những đỉnh cao.

1
V.L. Lênin, Toàn tập. tập 26. Bản tiếng Việt. NXB Tiến bộ, Matsxcơva, 1980, tr. 397.
2
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 1995, tr. 71, 72.
Ngay từ khi mới thành lập, mặc dù đại bộ phận chiến sĩ xuất thân từ nông dân nhưng
tất cả họ đều là những người có lòng yêu nước mãnh liệt, chí căm thù giặc sâu sắc. Trải qua
những năm tháng phục vụ trong quân đội, họ không ngừng được nâng cao giác ngộ cách
mạng, chuyển từ giác ngộ dân tộc lên giác ngộ giai cấp, từ tinh thần độc lập dân tộc lên ý
thức xã hội chủ nghĩa, chuyển lập trường của giai cấp xuất thân sang lập trường giai cấp
công nhân để xem xét giải quyết đánh giá công việc. Sự thống nhất hữu cơ trên, từ nét đặc
thù về chế độ chính trị, bản chất Nhà nước, giai cấp tổ chức, nuôi dưỡng và sử dụng quân
đội. QĐNDVN sinh ra từ các phong trào Cách mạng của quần chúng, được nhân dân nuôi
dưỡng, đùm bọc, che chở và tiếp sức, lại được tổ chức Giáo dục rèn luyện bởi Đảng Cộng
sản Việt Nam - người đại biểu trung thành cho lợi ích giai cấp, dân tộc và nhân dân, vì vậy
quân đội luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.
2.2.2.2. Quân đội nhân dân Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân.
- Với cương vị là người tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện quân đội ta, Chủ tịch
Hồ Chí Minh thường xuyên coi trọng bản chất giai cấp công nhân cho quân đội. Bản chất
giai cấp công nhân liên hệ mật thiết với tính dân tộc trong tiến hành chiến tranh nhân dân
chống thực dân, đế quốc xâm lược. Trong xây dựng bản chất giai cấp công nhân cho quân
đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến giáo dục, nuôi dưỡng các phẩm chất cách
mạng, bản lĩnh chính trị và coi đó là cơ sở, nền tảng để xây dựng quân đội vững mạnh toàn
diện. Trong buổi lễ phong quân hàm cho các cán bộ cao cấp Quân đội nhân dân Việt Nam
ngày 22/12/1958, Người vừa biểu dương, vừa căn dặn: “Quân đội đã hoàn thành nhiệm vụ
mà Đảng và Chính phủ giao cho, đã có truyền thống vẻ vang là tuyệt đối trung thành với
Đảng, với nhân dân, chiến đấu anh dũng, công tác và lao động tích cực, tiết kiệm, cần cù,
khiêm tốn, giản dị, đoàn kết nội bộ, đồng cam cộng khổ với nhân dân, sẵn sàng khắc phục
khó khăn hoàn thành nhiệm vụ”1.
Lời căn dặn của Người là sự khái quát các phẩm chất, tiêu chí của bản chất giai cấp
công nhân của quân đội ta. Trong bài nói chuyện tại buổi chiêu đãi mừng quân đội
ta tròn 20 tuổi, ngày 22/12/1964, một lần nữa Chủ tịch Hồ Chí Minh lại khẳng định,
bản chất giai cấp của quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của giai cấp, của Nhà nước.
Người viết: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập
tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng
vượt qua,kẻ thù nào cũng đánh thắng”1.
- QĐNDVN được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức lãnh đạo, giáo dục
và rèn luyện, được nhân dân hết lòng yêu thương, đùm bọc, đồng thời được kế thừa những
truyền thống tốt đẹp của một dân tộc có hàng nghàn năm văn hiến và lịch sử đấu tranh dựng
nước và gắn liền với giữ nước oanh liệt. Do đó, ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình
phát triển, quân đội ta luôn thực sự là một quân đội kiểu mới mang bản chất cách mạng của
giai cấp công nhân, đồng thời có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.
2.2.2.3. Khẳng định quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu:
Đây là một trong những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phát triển lí luận
về quân đội. Người lập luận, bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân của quân đội ta là
một thể thống nhất, xem nó như là biểu hiện tính qui luật của quá trình hình thành, phát triển
quân đội kiểu mới, quân đội của giai cấp vô sản. Trong bài: Tình đoàn kết quân dân ngày

1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 9, NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 1995, tr. 247; tr. 427.
1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 11, NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 1995, tr. 349 - 350.
càng thêm bền chặt ngày 3/3/1952, người viết: “Quân đội ta là quân đội nhân dân nghĩa là
con em ruột thịt của nhân dân. Đánh giặc để giành lại độc lập thống nhất cho Tổ quốc, để
bảo vệ tự do, hạnh phúc của nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân dân, quân đội ta không có lợi
ích nào khác”2.
2.2.2.4. Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội là một nguyên tắc
xây dựng quân đội kiểu mới, quân đội của giai cấp vô sản.
- Bắt nguồn từ nguyên lí chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới của
giai cấp vô sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm đến
công cụ đặc biệt này để nó thực sự trở thành lực lượng nòng cốt trong đấu tranh giai cấp, kể
cả tiến hành chiến tranh.
- Đảng Cộng sản Việt Nam - Người tổ chức lãnh đạo giáo dục và rèn luyện quân đội -
là nhân tố quyết định sự hình thành và phát triển bản chất giai cấp công nhân của quân đội
ta. Trong suốt quá trình xây dựng chiến đấu và trưởng thành của quân đội, Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự chăm lo đặc biệt đến quân đội. Điều này
được thể hiện rõ nét trong cơ chế lãnh đạo: tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt của Đảng đối với
quân đội trong thực hiện chế độ công tác Đảng, công tác chính trị. Nhờ đó, QĐNDVN trở
thành một quân đội kiểu mới mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân. Thành tựu to
lớn trong tăng cường bản chất giai cấp công nhân trong quân đội ta là. Đảng đã đào tạo nên
những thế hệ “Bộ đội Cụ Hồ”, một mẫu hình mới của con người xã hội chủ nghĩa trong quân
đội kiếu mới. Như vậy, nếu không có một Đảng Cộng sản chân chính, không có một giai cấp
công nhân Việt Nam cách mạng, kiên định lập trường XHCN, thì QĐNDVN không thể giữ
vững được bản chất giai cấp công nhân, mục tiêu lí tưởng chiến đấu của mình. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: quân đội ta có sức mạnh vô địch vì nó là một Quân đội nhân dân do
Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục.
2.2.2.5. Nhiệm vụ và chức năng cơ bản của quân đội.
- Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định QĐNDVN là quân
đội cách mạng, (đội quân chiến đấu, đội quân công tác và sản xuất). Chức năng cơ bản của
Quân đội nhân dân Việt Nam được khẳng định và phát huy trong hơn 70 năm qua.
- Thực hiện chức năng là đội quân chiến đấu, Quân đội nhân dân được xây dựng cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại;
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và
nhân dân; tổ chức tinh, gọn, mạnh, cơ động, linh hoạt, hiệu quả cao; trang bị các loại vũ khí,
khí tài hiện đại; đẩy mạnh nghiên cứu phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam; thường xuyên
huấn luyện, diễn tập, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu và khả năng sẵn
sàng chiến đấu; làm nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân; xử lý thắng lợi các
tình huống quốc phòng, sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, góp phần giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.
- Thực hiện chức năng là đội quân công tác, Quân đội nhân dân luôn giữ vững mối
quan hệ máu thịt với nhân dân, là lực lượng nòng cốt tham gia công tác vận động quần
chúng, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, các đơn vị quân đội tích cực thực hiện công tác
dân vận, đi đầu trong xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới,
hải đảo; tích cực tham gia phòng, chống lụt bão, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu
quả thiên tai, thảm họa và bảo vệ tài nguyên, môi trường,... Phối hợp chặt chẽ với các địa
2
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 11, NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 1995, tr. 349 - 350
phương trên địa bàn đóng quân, tích cực tham gia xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế -
xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Công tác đối ngoại
quốc phòng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước, nâng cao uy tín, vị thế của đất nước và
QĐNDVN trên trường quốc tế, như tích cực tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên
hợp quốc; huấn luyện, diễn tập chung về hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa, tìm kiếm cứu
nạn, hợp tác quốc tế trong khắc phục hậu quả chiến tranh,...
- Thực hiện chức năng là đội quân lao động sản xuất, các đơn vị kinh tế - quốc phòng
luôn duy trì được nhịp độ phát triển ổn định, bảo đảm việc làm cho hàng trăm nghìn lao
động, thực hiện tốt nghĩa vụ ngân sách đối với Nhà nước, tạo ra nhiều sản phẩm lưỡng dụng,
sản phẩm công nghệ có giá trị cao, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế quốc dân, hoàn thành
tốt nhiệm vụ quốc phòng kết hợp với phát triển kinh tế - xã hội.
- Mục tiêu lí tưởng chiến đấu của quân đội ta là thực hiện mục tiêu lí tưởng cách
mạng của Đảng, của giai cấp công nhân và của toàn dân tộc: gắn giải phóng dân tộc với giải
phóng giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“hiện nay quân đội ta có hai nhiệm vụ chính. Một là, xây dựng quân đội ngày càng hùng
mạnh và sẵn sàng chiến đấu. Hai là, thiết thực tham gia lao động sản xuất góp phần xây
dựng chủ nghĩa xã hội”1.
- Nhiệm vụ của quân đội ta hiện nay là phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến
đấu thẵng lợi bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình mới của cách mạng của quân
đội, ngoài nhiệm vụ xây dựng đất nước, sản xuất ra của cải vật chất và tiến hành công tác
huấn luyện. Đây là vấn đề khác về chất so với quân đội của giai cấp bóc lột. Quan đội ta có
ba chức năng: là đội quân chiến đấu, là đội quân công tác, là đội quân sản xuất. Ba chứng
năng đó phản ánh cả mặt đối nội, đối ngoại của quân đội.
- Với tư cách là đội quân chiến đấu, quân đội luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu
chống xâm lược, bảo vệ TQXHCN, góp phần bảo vệ trật tự an toàn xã hội, tham gia vào
cuộc tiến công địch trên mặt trận lí luận, chính trị - tư tưởng, văn hóa; là đội quân sản xuất,
quân đội tăng gia sản xuất cải thiện đời sống, xây dựng kinh tế, góp phần xây dựng, phát
triển đất nước, trong điều kiện hiện nay, quân đội còn là lực lượng nòng cốt và xung kích
trong xây dựng kinh tế - quốc phòng ở các địa bàn chiến lược, nhất là ở biên giới, biển đảo,
vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn gian khổ và có những địa bàn có những tình huống
phức tạp nảy sinh; là một đội quân công tác, quân đội tham gia vận động quần chúng nhân
dân xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh, góp phần tăng cường sự đoàn kết giữa
Đảng với nhân dân, quân đội với nhân dân; giúp dân chống thiên tai, giải quyết khó khăn
trong sản xuất và đời sống, tuyên truyền vận động nhân dân hiểu rõ và chấp hành đúng
đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Thực tiễn hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu trưởng thành của quân đội ta đã chứng
minh: Quân đội đã thực hiện đầy đủ và thực hiện xuất sắc 3 chức năng trên cùng toàn Đảng,
toàn dân lập nên những chiến công hiển hách trong chiến tranh giải phóng. Trong sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc hiện nay, quân đội có vai trò hết sức nặng nề. Quân đội luôn phải là quân đội
cách mạng, lực lượng chính trị, công cụ vũ trang sắc bén của Đảng, có sức chiến đấu cao,
sẵn sàng đánh bại mọi kẻ thù, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ… để thực hiện vai trò đó,
cần đổi mới nhận thức về các chức năng của quân đội cho phù hợp với tình hình mới.

1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 9, NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 1986, tr. 143
2.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa:
2.3.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
- Tổ quốc bao giờ cũng gắn với Nhà nước và giai cấp thống trị xã hội. Vấn đề Tổ
quốc của giai cấp nào và giai cấp nào không có Tổ quốc. Theo nghĩa đó mà C.Mác và
Ph.Ăng ghen đã khẳng định: “Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân không có Tổ
quốc”1. Trong điều kiện lịch sử cụ thể, thời C.Mác, Ph.Ăng ghen sống, vấn đề bảo vệ
TQXHCN chưa được đặt ra một cách trực tiếp.
Bài học kinh nghiệm của công xã Pari có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo vệ
thành quả cách mạng, sau khi giai cấp vô sản giành chính quyền, nhưng mới chỉ là ý kiến
ban đầu về bảo vệ TQXHCN.
- Học thuyết bảo vệ TQXHCN là một cống hiến mới của V.I Lênin vào kho tàng lí
luận chủ nghĩa Mác, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ TQXHCN đang đặt ra trực tiếp ở nước Nga
Xô Viết ngay sau khi cách mạng vô sản Nga thành công năm 1917
2.3.1.1. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan.
- Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ thành quả cách mạng của giai cấp công nhân. Trong
điều kiện giai cấp tư sản nắm quyền, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã chỉ ra rằng, giai cấp công
nhân phải đấu tranh trở thành giai cấp dân tộc, khi ấy, chính giai cấp công nhân là người đại
diện cho Tổ quốc, họ có nhiệm vụ phải đẩy lùi sự tấn công của bọn phản cách mạng.
- Xuất phát từ qui luật xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ TQXHCN
V.I Lênin là người có công đóng góp to lớn trong việc bảo vệ và phát triển học thuyết về bảo
vệ TQXHCN trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, Người khẳng định: “Kể từ ngày
25/10/1917, chúng ta là những người chủ trương bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta tán thành “Bảo
vệ Tổ quốc”, nhưng cuộc chiến tranh giữa nước mà chúng ta đang đi tới là một cuộc chiến
tranh bảo vệ TQXHCN, bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tư cách là Tổ quốc”1.
- Ngay sau khi cuộc cách mạng chủ nghĩa xã hội thắng lợi, Nhà nước của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động được thiết lập thì TQXHCN bắt đầu hình thành. Giai cấp
công nhân bắt tay vào công cuộc cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội
chủ nghĩa. Cùng với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ bảo vệ TQXHCN cũng
được đặt ra một cách trực tiếp, nó trở thành nhiệm vụ chiến lược của các nước XHCN, hai
nhiệm vụ chiến lược này gắn bó hữu cơ với nhau trong suốt quá trình cách mạng XHCN.
- Xuất phát từ qui luật phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc, ngay từ những
năm cuối thế kỉ XIX, V.I.Lênin đã chỉ ra, do quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa đế
quốc mà chủ nghĩa xã hội có thể giành thắng lợi không đồng thời ở các nước. Do đó, trong
suốt thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa Cộng sản trên phạm vi toàn thế giới,
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là hai chế độ xã hội đối lập nhau cùng tồn tại và đấu
tranh với nhau hết sức quyết liệt.
- Xuất phát từ bản chất, âm mưu của kẻ thù và thực tiễn cách mạng thế giới. Sự thắng
lợi của cách mạng XHCN, giai cấp tư sản trong nước tuy đã bị đánh đổ về mặt chính trị,
nhưng chúng vẫn chưa từ bỏ tham vọng muốn quay trở lại địa vị thống trị đã mất. Do vậy,
chúng tìm mọi cách liên kết với các phần tử phản động và chủ nghĩa tư bản bên ngoài hòng

1
C. Mác và Ph. Ăng ghen, Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1987, tr.623
1
C. Mác và Ph. Ăng ghen, Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1987, tr.623
lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ của giai cấp công nhân. Thực tiễn lịch sử đã
chứng minh rằng, từ khi TQXHCN xuất hiện, nhân dân các nước XHCN phải đương đầu
chống trả những âm mưu và hành động lật đổ, xâm lược của kẻ thù bên trong và bên ngoài.
Sau thắng lợi cách mạng tháng 10 Nga năm 1917, 14 nước đế quốc tập trung bao vây hòng
tiêu diệt nước Nga Xô Viết. Từ khi chủ nghĩa xã hội phát triển thành hệ thống thế giới, sự
chống phá của kẻ thù càng quyết liệt hơn. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu là một tổn thất của phong trào thế giới, song nó cũng để lại cho các nước XHCN
một bài học đắt giá rằng: Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải luôn gắn liên với bảo vệ
TQXHCN. Có như vậy, TQXHCN mới tồn tại và phát triển. Thực tiễn trên đây một lần nữa
đã chứng minh cho luận điểm của V.I.Lênin rằng: Giành chính quyền đã khó, nhưng giữ
được chính quyền còn khó khăn hơn.
2.3.1.2. Bảo vệ TQXHCN là nghĩa vụ, trách nhiệm của toàn dân tộc, toàn thể giai cấp công
nhân và nhân dân lao động:
- Trong những năm đầu của chính quyền Xô Viết,V.I.Lênin trực tiếp lãnh đạo xây
dựng đất nước, chống lại sự chống phá của kẻ thù trong nước và sự can thiệp của đế quốc
bên ngoài. Đó là những năm tháng cực kì gian khổ, khó khăn, người chỉ rõ: “Bảo vệ
TQXHCN là nhiệm vụ, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của giai cấp vô sản trong
nước, nhân dân lao động và giai cấp vô sản thế giới có nghĩa vụ ủng hộ sự nghiệp bảo vệ
TQXHCN”1 V.I.Lênin luôn nhắc nhở mọi người phải luôn nêu cao cảnh giác, đánh giá đúng
kẻ thù, tuyệt đối không chủ quan, phải có thái độ nghiêm túc đối với quốc phòng. Người
luôn lạc quan tin tưởng về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Người khẳng định: “Không bao giờ người ta có thể chiến thắng được một dân tộc mà
đa số công nhân và nông dân đã biết, đã cảm, và trông thấy rằng họ bảo vệ chính quyền của
mình, chính quyền Xô Viết, chính quyền của những người lao động, rằng họ bảo vệ sự
nghiệp mà một khi thắng lợi sẽ đảm bảo cho họ cũng như con cái họ có khả năng hưởng thụ
mọi thành quả văn hóa, mọi thành quả lao động của con người”.
2.3.1.3. Bảo vệ TQXHCN phải thường xuyên tăng cường tiềm lực quốc phòng gắn với phát
triển KT-XH.
- Học thuyết bảo vệ TQXHCN của V.I.Lênin đã khẳng định: Bảo vệ TQXHCN là sự
nghiệp thiêng liêng, cao cả, mang tính cách mạng, chính nghĩa và có ý nghĩa quốc tế sâu sắc,
sự nghiệp đó phải được quan tâm, chuẩn bị chu đáo và kiên quyết. V.I.Lênin đã đưa ra nhiều
biện pháp để bảo vệ Tổ quốc như: củng cố chính quyền Xô Viết các cấp; bài trừ nội phản,
tiêu diệt bọn Bạch Vệ; đẩy mạnh phát triển kinh tế - văn hóa, khoa học kĩ thuật, vận dụng
đường lối đối ngoại khôn khéo, kiên định về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, triệt để lợi
dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Hết sức chăm lo xây dựng quân đội kiểu mới.
V.I.Lênin cùng đảng Bônxê - vích Nga lãnh đạo nhân dân, tranh thủ thời gian hòa bình, xây
dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt, từng bước biến các tiềm lực thành sức mạnh hiện thực
của nền quốc phòng, bảo vệ TQXHCN.
2.3.1.4. Đảng Cộng sản lãnh đạo mọi mặt sự nghiệp bảo vệ TQXHCN.
V.I.Lênin chỉ ra rằng: Đảng cộng sản phải lãnh đạo mọi mặt sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc. Đảng phải đề ra chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình, có sáng kiến để lôi kéo
quần chúng và phải có đội ngũ đảng viên gương mẫu hi sinh. Trong quân đội, chế độ chính
ủy được thực hiện, cán bộ chính trị được lấy từ đại biểu ưu tú của công nông, thực chất đó là
đại diện của Đảng, để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội. Đảng hướng dẫn,
giám sát các hoạt động của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, các đoàn thể nhân dân lao
động. Sự lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc cao nhất, là nguồn gốc sức mạnh vững chắc bảo
vệ TQXHCN,
2.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về bảo vệ TQXHCN là sự vận dụng sáng tạo học thuyết
bảo vệ Tổ quốc XHCN của V.I.Lênin vào tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
2.3.2.1. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là một tất yếu khách quan.
Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN được Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Các vua Hùng đã có công dựng nước bác cháu ta phải cùng nhau
giữ lấy nước”. ý chí giữ nước của người rất sâu sắc và kiên quyết. Trong lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến ngày 19/12/1946, Người nói: (Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ… Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!...)1.
Ngay sau khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, trước sự uy hiếp của thực dân đế
quốc và bọn phản động tay sai, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng đảng đề ra mọi biện pháp
thiết thực, cụ thể để giữ vững chính quyền nhân dân, chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài.
Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra một chân lí
rằng: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì
ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi”, trước khi đi xa, trong bản di chúc Người căn
dặn: “Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước có thể còn kéo dài, đồng bào ta có thể phải hi
sinh nhiều của nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ đến thắng
lợi hoàn toàn”. Ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng xuyên suốt
trong cuộc đời hoạt động của chủ tịch Hồ Chí Minh.
2.3.2.2. Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc là Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là nghĩa vụ và
trách nhiệm của mọi công dân.
- Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Bảo vệ TQXHCN là trách nhiệm nghĩa vụ của mỗi công dân Việt Nam. Trong Bản
Tuyên ngôn độc lâp, Người khẳng định: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền độc lập tự do ấy”. Khi thực dân
Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, người kêu gọi: Hễ là người Việt nam thì phải đứng lên
đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc.
- Trong cuộc Kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Người kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm
chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống
nhất Tổ quốc, cả nước đi lên XHCN.
2.3.2.3. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, cả nước, kết hợp
với sức mạnh thời đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm: Phát huy sức mạnh tổng hợp trong
nhiệm vụ bảo vệ TQXHCN đó là sức mạnh của toàn dân tộc, toàn dân, của từng người dân,
của các cấp các ngành từ trung ương đến cơ sở, là sức mạnh của các nhân tố chính trị, quân
sự, văn hóa - xã hội, sức mạnh truyền thống với hiện đại, sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại.
So sánh về sức mạnh giữa chúng ta với quân xâm lược trong cuộc kháng chiến chống
Mĩ, Người phân tích: Chúng ta có chính nghĩa, có sức mạnh đoàn kết toàn dân từ Bắc đến
Nam, có truyền thống đấu tranh bất khuất, lại có sự đồng tình ủng hộ rộng lớn của các nước

1
Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, tập 8, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996,tr. 483; tr. 489
xã hội chủ nghĩa anh em và nhân dân tiến bộ trên thế giới, chúng ta nhất định thắng. Để bảo
vệ TQXHCN, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng xây dựng và củng cố nền quốc phòng
toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng Quân đội nhân dân, coi đó là lực lượng chủ chốt để
bảo vệ Tổ quốc. Người căn dặn: Chúng ta phải xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh,
sẵn sàng chiến đấu để giữ gìn hòa bình, bảo vệ đất nước, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
2.3.2.4. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Đảng ta là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN phải do Đảng lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:
“Đảng và chính phủ phải lãnh đạo toàn dân, ra sức củng cố và xây dựng miền bắc tiến dần
lên XHCN đồng thời tiếp tục đấu tranh để thống nhất nước nhà, trên cơ sở độc lập và dân
chủ bằng phương pháp hòa bình góp phần bảo vệ công cuộc hòa bình ở Á đông và trên thế
giới”1 và Người khẳng định: “Với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và chính phủ, với sự đoàn
kết nhất trí, lòng tin tưởng vững chắc và tinh thần tự lực cánh sinh của mình, sự giúp đỡ vô
tư của các nước anh em, với sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới nhất
là nhân dân các nước Á - Phi, nhân dân ta nhất định khắc phục được mọi khó khăn; làm tròn
được nhiệm vụ vẻ vang mà Đảng và chính phủ đã đề ra”1
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc, ngày nay toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Để thực hiện được thắng lợi nhiệm vụ cách
mạng trong giai đoạn mới, chúng ta cần thực hiện tốt một số nội dung chiến lược sau đây:
Một là, xây dựng tiềm lực toàn diện của đất nước, đặc biệt tiềm lực kinh tế, tạo ra thế
và lực mới cho sự nghiệp bảo vệ TQXHCN.
Hai là, xây dựng nền Quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh, xây
dựng Quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ từng bước
hiện đại.
Ba là, quán triệt tư tưởng cách mạng chiến công, chủ động đánh thắng địch trong mọi
hoàn cảnh, tình huống chiến tranh.
Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp
QP&AN.

KẾT LUẬN

- Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ
TQXHCN mang tính cách mạng và khoa học sâu sắc. Đó là cơ sở lý luận để các Đảng Cộng
sản đề ra chủ trương, đường lối chiến lược xây dựng nền QP&AN, xây dựng lực lượng vũ
trang và bảo vệ TQXHCN.
- Trong thời đại hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang có nhiều
biến đổi và diễn biến phức tạp. Tuy nhiên, cho đến ngày nay những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa MLN, TTHCM về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc vẫn còn nguyên giá
trị. Vì vậy, nghiên cứu và nắm vững những nội dung cơ bản trên, vận dụng sáng tạo vào thực

1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, 6, 7, 8, 12, 14, 15, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995
1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, 6, 7, 8, 12, 14, 15, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995
tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong giai đoạn hiện nay đang đặt ra có
tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
- Sinh viên là lớp trí thức trẻ, cần nghiên cứu nhận thức đúng đắn nội dung trên, xây
dựng thế giới quan khoa học, niềm tin và trách nhiệm của mình để góp phần tích cực vào
bảo vệ, phát triển những nội dung đó trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN

1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc, bản chất của chiến tranh?
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội?
3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa?

Chương 3
XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN
BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

̣ ́, đă ̣c trưng nề n quố c phòng toàn dân, an ninh nhân dân


3.1. Vi tri
3.1.1. Vị trí
3.1.1.1. Khái niệm:
- Quốc phòng: “Quốc phòng là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn
dân tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, LLVT nhân dân làm nòng cốt”1.
- Nền quố c phòng toàn dân: Nền QPTD là sức mạnh quốc phòng của đất nước được
xây dựng trên nền tảng nhân lực, vật lực, tinh thần mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc
lập, tự chủ, tự lực, tự cường.
- An ninh:“An ninh là trạng thái bình yên của xã hội, của nhà nước, sự ổn định vững
chắc của chế độ chính trị xã hội”2.
- An ninh Quốc gia: ANQG là sự ổn định phát triển bền vững của chế độ XHCN và
nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất
toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc.
ANQG bao gồm an ninh trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội,
quốc phòng, đối ngoại, trong đó an ninh chính trị là cốt lõi, xuyên suốt.
- Nền an ninh nhân dân: Nền ANND là sức mạnh về tinh thần, vật chất, sự đoàn kết và
truyền thống dựng nước, giữ nước của toàn dân tộc được huy động vào sự nghiệp bảo vệ an
ninh quốc gia, trong đó lực lượng chuyên trách bảo vệ ANND làm nòng cốt.
3.1.1.2. Vị trí

1
Luật quốc phòng, Điều 3, 2019, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2019
2
Thư ký luât.vn
- Xây dựng nền QPTD, ANND vững mạnh là tạo ra sức mạnh để ngăn ngừa, đẩy lùi,
đánh bại mọi âm mưu, hành động xâm hại đến mục tiêu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN.
- Đảng ta đã xác định: “Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghiã xã
hô ̣i chúng ta không một chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn coi trọng QP&AN
coi đó là nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ”3.
- Trong giai đoạn hiện nay, chiến lược quốc phòng Việt Nam là chiến lược phòng thủ
quốc gia, bảo vệ đất nước, giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, sẵn sàng chống
chiến tranh xâm lược; mang tính hòa bình, tự vệ bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc
kết hợp với sức mạnh thời đại; dựa trên nền tảng đường lối chính trị đúng đắn là nhân tố
quyết định, sức mạnh quốc phòng là then chốt, sức mạnh quân sự là đặc trưng, trực tiếp là
sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, nòng cốt là Quân đội nhân dân; xây dựng, củng
cố quan hệ, lòng tin chiến lược với các nước, nhất là các đối tác chiến lược, tạo thế để bảo vệ
Tổ quốc; sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược nếu xảy ra.
- Chiến lược quốc phòng Việt Nam là bộ phận chủ đạo, cụ thể hóa chiến lược bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới, nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc cả trong và ngoài lãnh thổ; bảo
vệ nền hòa bình bền vững của đất nước; bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân; tích cực tham
gia bảo vệ hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới; giữ vững ổn định chính trị và
môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước.
- Chiến lược quân sự Việt Nam là nội dung nòng cốt của Chiến lược quốc phòng, là
nghệ thuật sử dụng sức mạnh quân sự nhà nước trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; chủ động
ngăn chặn và đẩy lùi các hình thái chiến tranh của địch; tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn
dân, toàn diện, sẵn sàng đánh thắng trên các môi trường tác chiến, địa bàn, khu vực trọng
điểm. Chiến lược quân sự Việt Nam còn thể hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự
với đấu tranh chính trị, KT-XH, an ninh, ngoại giao; vừa chiến đấu, củng cố, phát triển lực
lượng, vừa xây dựng, kiến thiết đất nước; tự lực, tự cường, huy động sức mạnh tổng hợp của
toàn dân tộc với sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế, đánh bại ý chí xâm lược của địch, kết thúc chiến
tranh trong điều kiện có lợi, khôi phục và xây dựng đất nước. Mục tiêu của Chiến lược quân
sự là giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc; xây dựng lực lượng và
thế trận quốc phòng toàn dân gắn với lực lượng và thế trận an ninh nhân dân trong thời bình
ngày càng vững chắc, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc; huy động sức mạnh tổng hợp của
chiến tranh nhân dân để đánh bại mọi hình thái chiến tranh nếu xảy ra.
3.1.2. Đặc trưng
3.1.2.1. Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân chỉ có mục đích duy nhất là tự vệ chính
đáng.
Đặc trưng thể hiện sự khác nhau về bản chất trong xây dựng nền QP&AN của những
quốc gia có độc lập chủ quyền đi theo con đường XHCN với các nước khác. Chúng ta xây
dựng nền QP&AN nhân dân vững mạnh là để tự vệ, chống lại thù trong, giặc ngoài, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ XHCN và cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. “Chính sách quốc phòng của Việt Nam mang
tính chất hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng
bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; tích cực, chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi

3
Bộ giáo dục và Đào tạo, (2018) Giáo trình giáo dục quốc phòng và an ninh dùng cho sinh viên các trường đại học, cao
đẳng, tập 1, Nxb Giáo dục
nguy cơ chiến tranh, thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, sẵn sàng chống
chiến tranh xâm lược”1.
Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này
để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt
Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan
hệ quốc tế. Đồng thời, tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng
bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung. Tùy theo diễn biến của tình hình
và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc
phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp
quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế.
“Việt Nam kiên định mục tiêu, nguyên tắc chiến lược, vận dụng sách lược mềm dẻo,
linh hoạt; chủ động ứng phó với âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, sự biến động
phức tạp của tình hình. Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ
hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có
âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, lật đổ chế độ XHCN, xâm phạm độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân
tộc Việt Nam đều là đối tượng của Việt Nam”1
“Việt Nam phản đối các hoạt động chạy đua vũ trang; xây dựng Quân đội nhân dân
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và
nhân dân; có sức mạnh tổng hợp, sức mạnh chiến đấu ngày càng cao; tổ chức tinh, gọn,
mạnh, cơ động, linh hoạt, hiệu quả cao; cơ cấu tổ chức đồng bộ; điều chỉnh, mở rộng, phát
triển lực lượng hợp lý, sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ tác chiến. Xây dựng lực lượng dự bị động
viên hùng hậu, dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, chất lượng cao, hiệu quả, thiết thực,
phù hợp với từng địa bàn, loại hình tổ chức KT-XH”2.
Là quốc gia có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam thực hiện nghiêm
chỉnh các nghĩa vụ, đồng thời tích cực hợp tác cùng các quốc gia khác giải quyết các vấn đề
an ninh đang nổi lên, góp phần bảo vệ hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới. Việt Nam
đánh giá cao vai trò của Liên hợp quốc trong các hoạt động gìn giữ hòa bình, ngăn ngừa
xung đột, chiến tranh; thực thi những chuẩn mực cốt lõi của quan hệ quốc tế trong Hiến
chương Liên hợp quốc.
Giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống là ưu tiên trong hợp tác quốc phòng
của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới; nhằm mở rộng và nâng cao chất
lượng hợp tác, cả song phương và đa phương để phòng ngừa, đối phó hiệu quả các thách
thức an ninh phi truyền thống và khắc phục hậu quả chiến tranh.
3.1.2.2. Đó là nền QP&AN vì dân, của dân và do toàn thể nhân dân tiến hành.
Đặc trưng vì dân, của dân, do dân của nền QP&AN nước ta là thể hiện truyền thống,
kinh nghiệm của dân tộc ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Đặc trưng vì dân, của dân,
do dân và mục đích tự bảo vệ của nền QP&AN cho phép ta huy động mọi người, mọi tổ
chức, mọi lực lượng đều thực hiện xây dựng nền QP&AN, đấu tranh QP&AN. Đồng thời,

1 Bộ Quốc phòng - Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019, NXB Chính trị Quốc gia sự thật, 2019, Tr, 8.
1. Bộ giáo dục và Đào tạo, (2018) Giáo trình giáo dục quốc phòng và an ninh dùng cho sinh viên các trường đại học,
cao đẳng, tập 1, Nxb Giáo dục.
2
Bộ giáo dục và Đào tạo,(2015) Giáo trình xây dựng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia và biển đảo Việt
Nam NXB Giáo dục Việt Nam
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước về QP&AN phải xuất phát từ lợi ích, nguyện
vọng và khả năng của nhân dân.
3.1.2.3. Đó là nền QP&AN có sức mạnh tổng hợp do nhiều yếu tố tạo thành.
Sức mạnh tổng hợp của nền QP&AN nước ta tạo thành bởi rất nhiều yếu tố như chính
trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, khoa học, quân sự, an ninh… cả ở trong nước, ngoài nước,
của dân tộc và của thời đại, trong đó những yếu tố bên trong của dân tộc bao giờ cũng giữ
vai trò quyết định. Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là cơ
sở, tiền đề và là biện pháp để nhân dân đánh thắng kẻ thù xâm lược.
Việt Nam xây dựng sức mạnh quốc phòng dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước,
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Nhà
nước Việt Nam XHCN; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
3.1.2.4. Nền QP&AN nhân dân được xây dựng toàn diện và từng bước hiện đại.
Việc tạo ra sức mạnh QP&AN không chỉ ở sức mạnh quân sự, an ninh mà phải huy
động được sức mạnh của toàn dân về mọi mặt chính trị, quân sự, an ninh, kinh tế, văn hóa,
khoa học. Phải kết hợp hữu cơ giữa QP&AN với các mặt hoạt động, xây dựng đất nước, kết
hợp chặt chẽ giữa QP&AN với hoạt động đối ngoại.
Xây dựng nền QP&AN toàn diện phải đi đôi với xây dựng nền QP&AN hiện đại là một tất
yếu khách quan. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân từng bước hiện đại. Kết
hợp giữa xây dựng con người có giác ngộ chính trị, có tri thức với vũ khí trang bị hiện đại.
Phát triển công nghiệp quốc phòng, từng bước trang bị hiện đại cho LLVTND. Kết hợp chặt
chẽ phát triển kinh tế xã hội với tăng cường QP&AN.
3.1.2.5. Nền quốc phòng toàn dân gắn chặt với nền an ninh nhân dân.
Nền quốc phòng và nền an ninh nhân dân của chúng ta đều được xây dựng nhằm mục
đích tự vệ, đều phải chống thù trong, giặc ngoài để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Giữa
nền QPTD với nền ANND chỉ khác nhau về phương thức tổ chức lực lượng, hoạt động cụ
thể, theo mục tiêu cụ thể được phân công mà thôi. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc QP&AN phải
thường xuyên được tiến hành đồng bộ thống nhất từ trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
xây dựng, hoạt động của cả nước cũng như từng vùng miền, địa phương, mọi ngành, mọi
cấp.
3.2. Xây dưṇ g nề n quố c phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững ma ̣nh để bảo vê ̣ Tổ
quố c Viêṭ Nam xã hô ̣i chủ nghia.
̃
3.2.1. Mục đích xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh hiện
nay.
- Tạo sức mạnh tổng hợp của đất nước về cả chính trị, quân sự, an ninh, kinh tế, văn
hóa, xã hội, khoa học, công nghệ để giữ vững hòa bình, ổn định, đẩy lùi, ngăn chặn nguy cơ
chiến tranh, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh dưới mọi hình thức và quy mô.
- Tạo thế chủ động cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhằm bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng và Nhà nước, nhân dân
và chế đô ̣ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư
tưởng văn hóa, xã hội, giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình, phát triển đất nước
theo định hướng XHCN.
3.2.2. Nội dung xây dựng nền quố c phòng toàn dân, an ninh nhân dân
3.2.2.1. Xây dựng lực lượng QP&AN đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam XHCN.
Lực lượng QP&AN là những con người, tổ chức và những cơ sở vật chất, tài chính
đảm bảo cho các hoạt động đáp ứng yêu cầu của quốc phòng an ninh. Từ đặc trưng của nền
quốc phòng an ninh nước ta thì lực lượng QP&AN của nền quốc phòng toàn dân và an ninh
nhân dân bao gồm lực lượng toàn dân (Lực lượng chính trị) và LLVTND (Lực lượng quân
sự).
- Xây dựng lực lượng Chính trị.
+ Lực lượng chính trị bao gồm: Các tổ chức trong hệ thống chính trị, các tổ chức
chính trị - xã hội và những tổ chức khác trong đời sống xã hội đã được phép thành lập và
quần chúng nhân dân.
+ Với chủ trương xây dựng lực lượng QPTD của dân, do dân, vì dân; phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân để xây dựng lực lượng quốc phòng bảo vệ Tổ quốc, thông qua
việc củng cố vững chắc hệ thống chính trị, bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân, trong đó hệ thống chính trị là hạt nhân của lực lượng quốc phòng, có
vai trò quyết định trong huy động, phát huy sức mạnh quốc phòng của đất nước. Việc xây
dựng, củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức quần chúng có ý nghĩa rất
quan trọng trong tập hợp, vận động quần chúng thực hiện nhiệm vụ QP&AN; trực tiếp đấu
tranh bảo vệ địa phương, cơ quan, đơn vị mình, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự
an toàn xã hội.
- Xây dựng lực lượng quân sự.
Trong giai đoạn hiện nay cần tăng cường xây dựng LLVTND ba thứ quân tuyệt đối
trung thành với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ
Đảng, Nhà nước và nhân dân.
LLVTND ba thứ quân bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, là
nòng cốt xây dựng nền QPTD; có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có sức mạnh chiến đấu ngày càng cao; tổ chức tinh, gọn, mạnh,
cơ động, linh hoạt, hiệu quả; cơ cấu tổ chức đồng bộ, hợp lý; phù hợp với quan điểm, đường
lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân; đồng thời sẵn sàng phát triển lực lượng đáp
ứng yêu cầu của chiến tranh.
+ Bộ đội chủ lực được tổ chức tinh nhuệ, có hỏa lực mạnh; trang bị phương tiện cơ
động nhanh, có thể đảm nhiệm tác chiến độc lập và tác chiến hợp đồng quân, binh chủng;
chú trọng xây dựng các đơn vị đặc nhiệm, đặc công tinh nhuệ.
+ Bộ đội địa phương được tổ chức phù hợp với đặc điểm tình hình, nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh của từng địa phương, trên từng địa bàn lãnh thổ, vùng, miền, biên giới, ven
biển, hải đảo; được trang bị vũ khí phù hợp, phát huy hiệu quả trong khu vực phòng thủ.
+ Lực lượng dự bị động viên hùng hậu, rộng khắp, đủ số lượng, chất lượng chính trị
cao, đúng cơ cấu thành phần, trình độ quân sự, chuyên môn giỏi, tạo cơ sở để kịp thời phát
triển Quân đội khi cần thiết; quản lý, huấn luyện tốt, chặt chẽ, bảo đảm sẵn sàng bổ sung vào
lực lượng thường trực.
+ Lực lượng Dân quân tự vệ được xây dựng vững mạnh, rộng khắp, chất lượng cao,
phù hợp với các địa phương, các thành phần kinh tế, các cơ sở sản xuất kinh doanh, các đơn
vị hành chính sự nghiệp.
3.2.3.2. Xây dựng tiềm lực QP&AN ngày càng vững mạnh.
Tiềm lực QP&AN là khả năng về nhân lực, vật lực, tài chính, tinh thần ở trong nước và
ngoài nước có thể huy động được để thực hiện nhiệm vụ QP&AN.
a. Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần
Tiềm lực chính trị, tinh thần của nền QPTD, ANND là khả năng về chính trị, tinh thần có thể
huy động tạo nên sức mạnh để thực hiện nhiệm vụ QP&AN.
Tiềm lực chính trị là thành tố cơ bản của tiềm lực quốc phòng, chứa đựng trong tố
chất con người, truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc và trong hệ thống chính trị; là khả
năng tiềm tàng về chính trị có thể huy động nhằm tạo ra sức mạnh để thực hiện nhiệm vụ
quốc phòng. Xây dựng tiềm lực chính trị quyết định khả năng huy động các yếu tố khác của
tiềm lực quốc phòng.
Tiềm lực chính trị biểu hiện ở nhận thức, ý chí, niềm tin, tâm lý, tình cảm, trách
nhiệm của nhân dân và LLVT đối với nhiệm vụ quốc phòng của đất nước; kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, là kết quả của quá trình xây dựng lâu dài dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, sự tiếp nối truyền thống dựng nước, giữ nước của dân tộc qua
hàng nghìn năm lịch sử.
Vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng “người trước, súng sau”, lấy con người làm
trung tâm, trọng tâm trong công tác quốc phòng, Việt Nam chú trọng xây dựng nguồn nhân
lực chất lượng cao, có tinh thần yêu nước, thương dân, có tri thức, có ý thức và bản lĩnh
chính trị vững vàng, tư tưởng cách mạng tiến công, kiên định, trung thành với sự nghiệp
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, vì sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng tiềm lực chính trị trước hết là xây dựng niềm tin và sự đồng thuận của mọi
tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vào thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; coi trọng bồi dưỡng đạo đức cách
mạng, giáo dục chủ nghĩa yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc và không ngừng nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Xây dựng tiềm lực chính trị đòi hỏi phải bảo đảm toàn diện cả về nhận thức tư tưởng,
tâm lý, tình cảm, niềm tin, thái độ trách nhiệm chính trị đối với Tổ quốc và nhân dân, giáo
dục nâng cao ý thức quốc phòng cho toàn dân, nhất là thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên và bồi
dưỡng kiến thức QP&AN cho cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành.
Tiềm lực chính trị được xây dựng trong quá trình xây dựng Đảng, Nhà nước trong
sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện chính sách tự do tôn
giáo và bình đẳng giữa các dân tộc; thông qua thực hiện dân chủ rộng rãi theo phương châm
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, xây
dựng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; bảo đảm an sinh xã hội; có chính
sách ưu tiên phát triển KT-XH, xóa đói, giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới,
biển, đảo; tạo sự phát triển bền vững để củng cố, nâng cao tiềm lực chính trị trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
b. Xây dựng tiềm lực kinh tế, văn hóa, xã hội
Tiềm lực kinh tế của nền QPTD, ANND là khả năng kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước có
thể khai thác, huy động nhằm phục vụ cho QP&AN.
Việt Nam chủ trương tổ chức, triển khai đồng bộ, thống nhất việc xây dựng, phát triển
đất nước giàu mạnh gắn với xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững chắc từ đường lối,
chính sách đến biện pháp cụ thể, từ Trung ương đến địa phương. Đầu tư phát triển và nâng
cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
với bảo đảm QP&AN; điều chỉnh quy hoạch các vùng, miền có tầm quan trọng chiến lược
đối với QP&AN. Phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Xây dựng tiềm lực kinh tế của nền quốc phòng toàn dân theo định hướng XHCN, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữ vững độc lập, tự chủ trong mở rộng hợp
tác kinh tế; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, tăng lượng dự trữ quốc gia; gắn phát triển
kinh tế với bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất
lượng nguồn nhân lực, sẵn sàng huy động các nguồn lực cho quốc phòng. Tích cực, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, bảo đảm
không phụ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể; chủ động ứng phó hiệu quả với tác
động tiêu cực, gây sức ép thông qua kinh tế từ bên ngoài.
Ngân sách quốc phòng Việt Nam phù hợp với tốc độ phát triển KT-XH của đất nước,
đáp ứng yêu cầu tăng cường tiềm lực quốc phòng bảo vệ Tổ quốc, nhưng không chạy đua vũ
trang, không trở thành gánh nặng của nền kinh tế đất nước
Việt Nam chủ trương xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ mới; từng bước hòa nhập công nghiệp quốc phòng vào công nghiệp quốc gia. Đầu
tư xây dựng có trọng điểm một số cơ sở công nghiệp quốc phòng tiên tiến, tiến tới hình
thành các tập đoàn, tổ hợp công nghiệp quốc phòng lưỡng dụng công nghệ cao, tự chủ; đẩy
mạnh hợp tác quốc tế, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới.
Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng; đẩy
mạnh hợp tác thương mại quốc phòng; tăng cường đầu tư, bảo đảm nguồn lực thực hiện mục
tiêu xây dựng Quân đội, các chương trình, dự án trọng điểm, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật; nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ tiên
tiến, làm chủ công nghệ chế tạo một số loại vũ khí, trang bị hiện đại, tiến tới thiết kế, sản
xuất một số loại vũ khí, trang bị kỹ thuật mới, hiện đại.
Việt Nam chủ trương xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, con
người phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng phát triển đất nước bền vững và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường triển khai các
giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy thuần phong, mỹ tục của nền văn hóa dân tộc, tiếp thu có
chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại; hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài giữ gìn
và bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Kiên quyết ngăn chặn sự xâm lăng văn hóa từ bên ngoài,
các khuynh hướng văn hóa trái với thuần phong, mỹ tục Việt Nam. Tổ chức và quản lý chặt
chẽ hệ thống phương tiện thông tin, truyền thông đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Giáo dục sâu rộng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức sâu sắc về truyền
thống dựng nước đi đôi với giữ nước; tinh thần yêu nước, ý chí quật cường, trí thông minh,
sáng tạo trong đánh giặc, giữ nước của ông cha; lòng tự hào, tự tôn dân tộc; xây dựng lòng
trung thành vô hạn với Đảng, Tổ quốc, nhân dân và chế độ XHCN, bản lĩnh chính trị vững
vàng, ý chí quyết chiến, quyết thắng, tinh thần dũng cảm, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc
lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; vững tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi
mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, vào khả năng và sức mạnh tổng hợp của đất nước,
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Khơi dậy mạnh mẽ các nguồn lực nội sinh và ngoại sinh,
vật chất và tinh thần, trước hết là chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập, tự cường, tinh thần tự
hào dân tộc, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tính độc lập, tự chủ, sáng tạo, tính nhân văn cao
cả của dân tộc, nhằm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu sớm đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại trong thời gian tới.
Trong điều kiện mới, văn hóa quân sự cần gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ
đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của
phát triển; xây dựng và phát huy giá trị nghệ thuật quân sự Việt Nam. Quán triệt mục tiêu,
quan điểm, phương châm chỉ đạo, nhiệm vụ, giải pháp của Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới, Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự, từ đó khơi dậy lòng tự hào,
tiềm năng sáng tạo, niềm vinh dự, trách nhiệm trong giữ gìn, vận dụng, phát huy những giá
trị nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc.
c. Xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ
Tiềm lực khoa học, công nghệ của nền QPTD, ANND là khả năng về khoa học (khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội và nhân văn) và công nghệ của quốc gia có thể khai thác, huy động
để phục vụ cho quốc QP&AN, tiềm lực khoa học công nghệ được biểu hiện ở: số lượng, chất
lượng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cơ sở vật chất kỹ thuật có thể huy động được phục
vụ cho QP&AN, năng lực ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học có thể đáp ứng yêu cầu
của QP&AN.
Tiềm lực khoa học - công nghệ là thành tố có vai trò ngày càng quan trọng trong tiềm
lực quốc phòng, tác động trực tiếp đến sự phát triển của khoa học - công nghệ trong lĩnh vực
quân sự, quốc phòng, cơ cấu tổ chức LLVT, công tác chỉ huy và quản lý bộ đội,... Những
yếu tố cơ bản của tiềm lực khoa học - công nghệ là: khả năng và trình độ, số lượng và chất
lượng nguồn nhân lực; cơ sở vật chất phục vụ cho công tác nghiên cứu, phát triển, phổ biến,
ứng dụng khoa học - công nghệ.
Việt Nam chủ trương xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ của nền quốc phòng
toàn dân gắn với xây dựng và phát triển khoa học - công nghệ của đất nước. Phát triển khoa
học - công nghệ cùng với phát triển giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và
động lực phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và là
điều kiện cần thiết để xây dựng đất nước giàu mạnh, giữ vững độc lập dân tộc.
Việt Nam đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, nhà khoa học và nguồn nhân
lực chất lượng cao; xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, phát triển
khoa học - công nghệ phục vụ cho các dự án then chốt trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa; cung cấp luận cứ khoa học cho các chủ trương, chính sách của Nhà nước về phát
triển kinh tế, củng cố QP&AN. Tăng cường đầu tư đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ; có chính sách động viên, khuyến khích các nhà khoa học và các chuyên gia
công nghệ hàng đầu tham gia nhiệm vụ quốc phòng, quân sự.
Việt Nam đề ra các biện pháp nhằm từng bước tạo lập thị trường khoa học - công
nghệ; tăng đầu tư cho phát triển khoa học - công nghệ từ nhiều nguồn; coi trọng việc ứng
dụng thành tựu khoa học - công nghệ để phát triển sản xuất; phát triển công nghiệp quốc
phòng; mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo khoa học - công nghệ; đẩy mạnh các hoạt động
thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức khoa học - công nghệ cho nhân dân.
d. Xây dựng tiềm lực quân sự
Tiềm lực quân sự là khả năng về sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân, Dân
quân tự vệ và khả năng huy động nhân lực, vật lực phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng;
là bộ phận nòng cốt của tiềm lực quốc phòng, được xây dựng trên nền tảng của tiềm lực
chính trị - tinh thần, kinh tế, văn hóa - xã hội, khoa học - công nghệ. Tiềm lực quân sự bao
gồm hai yếu tố cơ bản là con người và vũ khí, trang bị, trong đó con người là nhân tố quyết
định.
Tiềm lực quân sự thể hiện ở khả năng duy trì, hoàn thiện và không ngừng phát triển
sức mạnh chiến đấu, trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang, biểu hiện ở nguồn
dự trữ về sức người, sức của phục vụ cho nhiệm vụ, quốc phòng, quân sự. Tiềm lực quân sự
còn thể hiện ở khả năng động viên công nghiệp, nông nghiệp, khoa học kỹ thuật, giao thông
vận tải và các ngành dịch vụ khác phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, quân sự, đáp ứng yêu cầu
của tình hình mới.
Việt Nam xây dựng tiềm lực quân sự theo chiến lược thống nhất, phù hợp với yêu
cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khả năng tác chiến và trình độ sẵn sàng chiến
đấu của LLVT thể hiện ở tổ chức, biên chế, trang bị, cơ sở bảo đảm hậu cần, nghệ thuật
quân sự và khoa học kỹ thuật thường xuyên được duy trì, hoàn thiện và không ngừng phát
triển, đáp ứng các yêu cầu của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Quan tâm xây dựng nguồn nhân lực có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung
thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; có phẩm chất
đạo đức, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; phát huy dân chủ, giữ nghiêm kỷ luật quân
đội; tôn trọng và đoàn kết với nhân dân; có trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ.
Có chính sách ưu đãi, bảo đảm đời sống cho cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; nâng cao chất lượng lực lượng thường trực,
bảo đảm số lượng và chất LLDBĐV, sẵn sàng bổ sung nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp
ứng yêu cầu chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu.
Xây dựng tiềm lực quân sự gắn chặt với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước; xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách nhằm phát huy thành tựu trên các lĩnh vực kinh
tế, khoa học - công nghệ, văn hóa - xã hội,... để xây dựng LLVT, phát triển khoa học nghệ
thuật quân sự, khoa học xã hội và nhân văn quân sự, khoa học kỹ thuật quân sự,...
Việt Nam chủ trương xây dựng tiềm lực quân sự trên cơ sở kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại thông qua đẩy mạnh hội nhập, hợp tác quốc tế và đối ngoại về quốc
phòng. Phát huy vai trò của tiềm lực đối ngoại quốc phòng trong thực hiện chủ trương bảo
vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển
đất nước, góp phần duy trì môi trường hòa bình của khu vực và thế giới.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ quan đối ngoại quốc phòng chuyên trách từ cấp
chiến lược đến các đơn vị trong hệ thống tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam. Tiếp tục
hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến đối ngoại quốc phòng, trong đó có các văn
bản về việc Việt Nam tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc; xây dựng cơ
sở vật chất phục vụ công tác đối ngoại; củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan
Tùy viên Quốc phòng tại các nước. Coi trọng giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho
cán bộ, chiến sĩ về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng; quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng và lựa chọn cán bộ tham gia ứng cử vào các vị trí lãnh đạo, điều hành tại các tổ chức
quốc tế; củng cố tổ chức, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
tham gia hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng. Đổi mới nội dung, hình thức hợp tác,
nâng cao hiệu quả thông tin đối ngoại, tạo sự đồng thuận cao trong toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài về chính sách quốc phòng hòa bình, hữu
nghị, hợp tác, phát triển của Việt Nam.
3.2.3.3. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững chắc
* Khái niệm:
Thế trận quốc phòng và an ninh là sự tổ chức, bố trí lực lượng, tiềm lực mọi mặt của đất
nước và của toàn dân trên toàn bộ lãnh thổ theo yêu cầu của QP&AN bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN.
* Nội dung:
Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân gồm: Phân vùng chiến
lược về QP&AN kết hợp với vùng kinh tế trên cơ sở quy hoạch các vùng dân cư theo
nguyên tắc bảo vệ đi đôi với xây dựng đất nước. Xây dựng hậu phương, tạo chỗ dựa vững
chắc cho thế trận QP&AN. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) tạo nền tảng của
thế trận quốc phòng toàn dân. Triển khai các lực lượng trong thế trận; tổ chức phòng thủ dân
sự, kết hợp cải tạo địa hình với xây dựng hạ tầng, công trình quốc phòng và an ninh. Xây
dựng thế trận quốc phòng toàn dân bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc.
Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp
quốc phòng Việt Nam, nhằm bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;
giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước; bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng và
cả hệ thống chính trị.
Nền quốc phòng toàn dân được xây dựng trên nền tảng “thế trận lòng dân”, biểu hiện
ở lòng trung thành vô hạn với Tổ quốc, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; lòng yêu nước,
niềm tự hào dân tộc, sự đồng thuận, tin tưởng tuyệt đối của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước; vững tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và
chế độ XHCN ở Việt Nam, vào khả năng và sức mạnh tổng hợp của đất nước, sức mạnh vô
địch của nhân dân và của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; quan tâm đến nguyện vọng chính
đáng của nhân dân; kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc nảy sinh, tạo sự đồng thuận xã
hội, góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; động viên toàn dân tham gia xây
dựng nền QP&AN nhân dân; nêu cao tinh thần đấu tranh tự bảo vệ mình, bảo vệ lợi ích quốc
gia - dân tộc và hướng tới mục tiêu xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
- Kết hợp quốc phòng và an ninh với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với QP&AN.
Kết hợp QP&AN với KT-XH và KT-XH với QP&AN là sự gắn kết mọi hoạt động
quốc phòng và an ninh với các ngành, lĩnh vực KT-XH dưới sự quản lý, điều hành thống
nhất của Nhà nước, góp phần củng cố, tăng cường QP&AN, phát triển KT-XH hội đất
nước.
Tập trung nguồn lực đầu tư phát triển KT-XH gắn với củng cố, tăng cường quốc
phòng và an ninh theo các quy hoạch, đề án, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của cả nước, các vùng, địa bàn chiến lược và từng địa phương, chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội và chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
Quy hoạch các vùng dân cư đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH và củng cố QP&AN;
kết hợp chặt chẽ phát triển KT-XH với tăng cường tiềm lực, lực lượng và thế trận quốc phòng,
xây dựng chính sách, kế hoạch bồi dưỡng nguồn nhân lực bảo đảm cho nhiệm vụ quốc phòng thời
bình và thời chiến; bảo đảm ngân sách để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng theo quy định của pháp
luật về ngân sách nhà nước.
Xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, quốc phòng - kinh tế ở các địa bàn chiến
lược, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, biển, đảo, vùng đặc biệt khó khăn. Triển khai đề án
xây dựng chuỗi đảo gần bờ thành các trung tâm kinh tế, khoa học - công nghệ, quốc phòng
theo mô hình đa năng, tự chủ một phần về kinh tế, kết hợp hoạt động kinh tế với quốc phòng
trên biển, nhất là vùng biển, đảo xa bờ. Tiếp tục đầu tư xây dựng đường tuần tra biên giới,
đồng thời phục vụ cho phát triển KT-XH, củng cố QP&AN.
- Xây dựng quân khu vững mạnh toàn diện, hợp thành hệ thống phòng thủ đất nước.
Phòng thủ quân khu là bộ phận hợp thành phòng thủ đất nước, bao gồm các hoạt động
xây dựng thực lực, tiềm lực quốc phòng, thế trận quốc phòng toàn dân, khu vực phòng thủ
để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng trên địa bàn quân khu.
Xây dựng đồng bộ các kế hoạch, tổ chức chuẩn bị và thực hiện phòng thủ quân khu
trong thời bình và thời chiến; cơ quan, đơn vị của quân khu vững mạnh toàn diện, có sức
chiến đấu cao; Dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, đáp ứng nhiệm vụ quốc phòng trên
địa bàn quân khu. Xây dựng các khu vực phòng thủ thành thế trận liên hoàn, vững chắc toàn
diện; nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân,
thế trận an ninh nhân dân trên địa bàn quân khu. Kết hợp KT-XH với quốc phòng, quốc
phòng với KT-XH, QP&AN, đối ngoại; xây dựng, quản lý các khu kinh tế - quốc phòng
thuộc quân khu; thực hiện GDQP&AN, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quốc phòng;
thực hiện động viên quốc phòng, chính sách hậu phương quân đội và chính sách ưu đãi
người có công trên địa bàn quân khu.
Xây dựng kế hoạch và chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan, đơn vị của quân khu, phối
hợp với đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng, địa phương và cơ quan, tổ chức liên quan để thực hiện
quản lý nhà nước về biên giới quốc gia, duy trì an ninh, TTATXH ở khu vực biên giới, cửa
khẩu, hải đảo, vùng biển, vùng trời nước Cộng hòa XHCN Việt Nam trên địa bàn quân khu;
thực hiện nhiệm vụ đối ngoại quốc phòng. Phối hợp với các cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa
phương liên quan chỉ đạo, hướng dẫn cơ quan, đơn vị của quân khu tham gia xây dựng hệ
thống chính trị, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện;
thực hiện phòng thủ dân sự và các biện pháp phòng, chống chiến tranh thông tin, chiến tranh
không gian mạng; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa
bàn quân khu.
- Xây dựng các tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc.
Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố toàn diện cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận
trên các mặt chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, QP&AN, đối ngoại. Xây dựng
LLVT địa phương vững mạnh toàn diện, có sức chiến đấu cao, làm nòng cốt trong thực hiện
nhiệm vụ quốc phòng, quân sự, an ninh; thực hiện các biện pháp ngăn ngừa, đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ an ninh quốc gia
và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm, tạo môi trường thuận
lợi để phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, bảo vệ địa phương, sẵn sàng chi viện sức người,
sức của cho địa phương khác. Tổ chức phòng thủ dân sự và chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng ứng
phó với tình trạng khẩn cấp về QP&AN, xung đột và chiến tranh, tổng động viên, đáp ứng
yêu cầu chiến đấu và phục vụ chiến đấu lâu dài của địa phương; sẵn sàng vũ trang toàn dân.
- Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân.
Xây dựng thế trận QP&AN vững mạnh toàn diện, phát huy cao nhất thế mạnh của
Quân đội và Công an trong vai trò là lực lượng nòng cốt của sức mạnh tổng hợp quốc gia.
Đây vừa là nhiệm vụ, vừa là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó
Quân đội và Công an là nòng cốt. Kết hợp chặt chẽ xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân
gắn với xây dựng thế trận an ninh nhân dân trong tổng thể nền quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân vững mạnh. Nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức QP&AN
cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Tăng cường nguồn lực đầu tư xây dựng cơ
sở vật chất, trang thiết bị, vũ khí cho QP&AN.
3.3. Mô ̣t số biêṇ pháp chính xây dưṇ g nề n quố c phòng toàn dân và an ninh nhân dân
hiêṇ nay.
3.3.1. Thường xuyên thực hiện giáo dục quốc phòng và an ninh.
Tổ chức triển khai thực hiện đầy dủ và đồng bộ các văn bản quy phạm pháp luật về
GDQP&AN phải toàn diện, coi trọng giáo dục tình yêu quê hương, đất nước, chế đội xã hội
chủ nghĩa; nghĩa vụ công dân đối với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; âm
mưu, thủ đoạn của địch; đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
QP&AN. Làm cho mọi người, mọi tổ chức biết tự bảo vệ trước sự chống phá của các thế lực
thù địch. Phải vận dụng nhiều hình thức, phương pháp giáo dục tuyên truyền để nâng cao
hiệu quả, chuất lượng GDQP&AN.
3.3.2. Tăng cường sự lãnh đạo cuả Đảng, sự quản lý của Nhà nước, trách nhiệm triển
khai thực hiện của các cơ quan tổ chức và nhân dân đối với xây dựng nền quốc phòng
toàn dân và an ninh nhân dân.
Cụ thể hóa các nội dung lãnh đạo về QP&AN và bổ sung cơ chế hoạt động của từng
cấp, từng ngành, từng địa phương, đặc biệt chú trọng khi sử trí các tình huống phức tạp.
Điều chỉnh cơ cấu quản lý Nhà nước về QP&AN của bộ máy Nhà nước các cấp từ
Trung ương tới cơ sở. Tổ chức phân cán bộ chuyên trách để phát huy vai trò làm tham mưu
trong tổ chức, thực hiện công tác QP&AN. Chấp hành nghiêm quy chế 107/ 2003/ TTg của
Thủ tướng Chính phủ về phối hợp quân đội với công an và nghị quyết 51 - NQ/TƯ của Bộ
chính trị về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người
chỉ huy gắn với chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
3.3.3. Nâng cao ý thức, trách nhiệm của công dân cho sinh viên trong xây dựng nền quốc
phòng toàn dân và an ninh nhân dân.
Xây dựng nền QPTD - ANND là trách nhiệm của toàn dân, mọi công dân, mọi tổ
chức, lực lượng đều phải tham gia theo phạm vi khả năng của mình. Đối với sinh viên phải
tích cực học tập nâng cao trình độ hiểu biết về mọi mặt, nắm vững kiến thức quốc phòng và
an ninh, nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Trên cơ sở đó, tự giác, tích cực luyện tập các kỹ năng
quân sự, an ninh và chủ động tham gia các hoạt động về QP&AN do nhà trường, địa phương
triển khai.

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN


1. Phân tích vị trí, đặc trưng nền QPTD, ANND?
2. Nội dung xây dựng nền QPTD, ANND vững mạnh. Liên hệ trách nhiệm của bản thân.
3. Làm rõ những biện pháp xây dựng nền QPTD, ANND.
Chương 11
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO VỆ AN NINH
QUỐC GIA VÀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI

11.1. Nhận thức chung về bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
11.1.1. Khái niệm, tính chất, mục tiêu bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn
xã hội.
11.1.1.1. Các khái niệm cơ bản
- An ninh quốc gia: “ANQG, là sự ổn định phát triển bền vững của chế độ XHCN và
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”1. ANQG bao gồm an ninh trên tất cả các lĩnh vực: chính trị,
kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, đối ngoại… trong đó an ninh chính trị là cốt lõi,
xuyên suốt.
- Bảo vệ an ninh quốc gia: “Bảo vệ ANQG là phòng ngừa, phát hiện ngăn chặn đấu
tranh làm thất bại các hoạt động xâm hại ANQG”.
- Trật tự, an toàn xã hội: Theo Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam 2005
“TTATXH là trạng thái xã hội bình yên trong đó mọi người được sống yên ổn trên cơ sở các
quy phạm pháp luật, các quy tắc và chuẩn mực đạo đức, pháp lí xác định”.
Theo luật Công an nhân dân Việt Nam năm 2014 “Bảo đảm TTATXH là phòng ngừa,
phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật và trật tự,
an toàn xã hội”.
11.1.1.2. Tính chất
- Tính gay go, quyết liệt, lâu dài
- Tính quần chúng
- Tính chính trị trực tiếp
- Tính pháp chế
- Tính quốc tế
11.1.1.3. Mục tiêu
- Mục tiêu chung: Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn ven lãnh thổ; bảo vệ
Đảng, nhà nước, chế độ XHCN, bảo vệ nhân dân, tạo thế chủ động chiến lược, đẩy lùi, ngăn
chặn, làm thất bại âm mưu, hoạt động diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch; giữ vững
ổn định chính trị trật tự xã hội và môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi phục vụ đắc
lực sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất
nước phát triển theo định hướng XHCN góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến
lược: Xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
- Mục tiêu cụ thể
+ Mục tiêu bảo vệ an ninh quốc gia: bảo vệ an ninh về chính trị; về kinh tế - xã hội;
về tư tưởng - văn hóa; về đối ngoại; về an ninh, quốc phòng.
1
Luật An ninh quốc gia, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 8.
+ Mục tiêu bảo đảm TTATXH: Đấu tranh phòng chống tôi phạm xâm phạm xâm
phạm về TTATXH; đẩy lùi tệ nạn xã hội; phòng chống tai nạn; nâng cao hiệu quả hoạt động
quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực đảm bảo TTATXH.
11.1.2. Nội dung bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội.
11.1.2.1. Nội dung bảo vệ an ninh quốc gia gồm:
Đảng ta xác định“Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng Chủ nghĩa xã hội,
chúng ta không một chút nơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc...”1. Từ quan điểm trên Đảng ta
chỉ rõ nội dung bảo vệ ANQG trong giai đoạn hiện nay cần tập trung vào những nội dung
sau:
+ Bảo vệ an ninh chính trị
Đó là các hoạt động bảo vệ chế độ Chính trị và Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam; giữ gìn sự trong sạch, vững mạnh về mọi mặt
của tổ chức Đảng, Nhà nước; bảo vệ các cơ quan đại diện, cán bộ, sinh viên và người lao
động Việt Nam đang học tập, công tác và lao động ở nước ngoài. Phòng ngừa, phát hiện,
ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá hệ thống chính trị,
gây chia rẽ mất đoàn kết, làm tha hóa đội ngũ cán bộ, Đảng viên. Bảo vệ an ninh chính trị
nội bộ luôn là nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu, thường xuyên và cấp bách của toàn Đảng, toàn
dân, của các ngành, các cấp.
+ Bảo vệ an ninh kinh tế:
Đó là sự ổn định, phát triển vững mạnh của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần
theo định hướng XHCN. Chống các biểu hiện chệch hướng và các hoạt động phá hoại cơ sở
vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, phá hoại nền kinh tế, gây ảnh hưởng tác hại đến lợi
ích của quốc gia. Bảo vệ đội ngũ cán bộ quản lí kinh tế, các nhà khoa học, các nhà kinh
doanh giỏi không để nước ngoài lôi kéo mua chuộc gây tổn thất làm chuyển hướng nền kinh
tế XHCN ở nước ta.
+ Bảo vệ an ninh tư tưởng - văn hóa:
An ninh văn hóa tư tưởng là sự ổn định và phát triển bền vững của văn hóa, tư tưởng
trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Bảo vệ an ninh văn hóa,
tư tưởng là bảo vệ sự đúng đắn, vai trò chủ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trong đời sống tinh thần của xã hội; bảo vệ những giá trị đạo đức truyền thống, bảo vệ
bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ đội ngũ văn nghệ sĩ, những người làm công tác văn hóa, văn
nghệ. Đấu tranh chống lại sự công kích, bôi nhọ, nói xấu của các thế lực thù địch đối với chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, ngăn chặn các hoạt động truyền bá các loại văn
hóa phẩm phản động, đồi trụy, thiếu lành mạnh, không phù hợp với thuần phong mĩ tục của
dân tộc Việt Nam.
+ Bảo vệ an ninh dân tộc:
Đó là bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc đảm bảo cho tất cả các thành viên
trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam cùng phát triển theo đúng hiến pháp, pháp luật của
Nhà nước; ngăn ngừa, phát hiện, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng dân tộc ít người để
làm việc trái pháp luật, kích động gây chia rẽ giữa các dân tộc, xâm hại đến ANQG,
TTATXH. Triệt để thực hiện đúng phương châm, quan điểm “Thực hiện chính sách bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr
39.
triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của công
đồng các dân tộc Việt Nam”.
+ Bảo vệ an ninh tôn giáo:
Là bảo đảm chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước đối với nhân dân
nhưng đồng thời cũng kiên quyết đấu tranh với các đối tượng, thế lực lợi dụng vấn đề tôn
giáo để chống phá cách mạng. Thực hiện đoàn kết, bình đẳng giúp đỡ nhau cùng phát triển
giữa các tôn giáo, giữa cộng đồng dân cư theo tôn giáo với những người không theo tôn
giáo, bảo đảm tốt đời đẹp đạo, phụng sự Tổ quốc“Đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê
tín dị đoan, các hành vi lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm phương hại đến lợi ích chung của
Đất nước, vi phạm quyền tự do Tôn giáo của nhân dân”1.
+ Bảo vệ an ninh biên giới:
Biên giới quốc gia là hàng rào pháp lí ngăn cách chủ quyền quốc gia và không gian
hợp tác phát triển với các nước mà trước hết là các Nước láng giềng. Vấn đề bảo vệ vững
chắc chủ quyền biên giới quốc gia đang được Đảng, Nhà nước đặt ra như là một nhiệm vụ
chiến lược cực kì quan trọng. Bảo vệ an ninh biên giới là bảo vệ nền an ninh, trật tự của Tổ
quốc ở khu vực biên giới quốc gia, cả trên đất liền và trên biển, chống các hành vi xâm phạm
chủ quyền biên giới từ phía nước ngoài, góp phần xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu
nghị với các nước láng giềng theo tinh thần: “giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đặc
biệt là vùng biển, đảo”. Chống các thế lực thù địch lợi dụng việc xuất, nhấp cảnh, qúa cảnh
Việt Nam để tiến hành các hoạt động chống phá Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
+ Bảo vệ an ninh thông tin:
An ninh Thông tin là sự an toàn, nhanh chóng, chính xác và bí mật của thông tin
trong quá trình xác lập, chuyển tải, thu nhận, xử lý và lưu giữ tin. Bảo vệ an ninh thông tin là
một bộ phận quan trọng của công tác bảo vệ ANQG, nhằm chủ động phòng ngừa, phát hiện
và đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, bọn tội phạm khác
nhằm khai thác, sử dụng hệ thống thông tin liên lạc hoặc tiến hành các hoạt động phá hủy
công trình, phương tiện thông tin liên lạc gây thiệt hại cho an ninh quốc gia của nước ta;
chống lộ, lọt những thông tin bí mật của Nhà nước; ngăn chặn các hoạt động khai thác thông
tin trái phép, dò tìm mật mã, mật khẩu để đánh cắp thông tin trên mạng…
+ Bảo vệ an ninh trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại:
Là hoạt động phòng ngừa phát hiện ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại âm mưu và hoạt động
xâm hai sức mạnh của LLVT và quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước.
+ Bảo vệ an ninh lãnh thổ:
Bảo vệ an ninh lãnh thổ là hoạt động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu và hoạt động xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc Việt Nam XHCN.
11.1.2.2. Nội dung bảo đảm trật tự, an toàn xã hội
+ Phòng chống tội phạm xâm phạm TTATXH (trừ các tội phạm an ninh quốc gia và
các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh)
Đấu tranh phòng, chống tội phạm là việc tiến hành các biện pháp loại trừ nguyên
nhân, điều kiện của tội phạm; phát hiện để ngăn chặn kịp thời các hành vi phạm tội, hạn chế
đến mức thấp nhất hậu quả, tác hại do tội phạm gây ra cho xã hội; điều tra, khám phá tội
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr
122-123.
phạm và người phạm tội để đưa ra xử lý trước pháp luật, đảm bảo đúng người đúng tội; giáo
dục, cải tạo người phạm tội giúp họ nhận thức được lỗi lầm và cố gắng cải tạo tốt, có thể tái
hòa nhập cộng đồng xã hội, trở thành người lương thiện, sống có ích cho xã hội.
+ Giữ gìn trật tự nơi công cộng:
Trật tự nơi công cộng là trạng thái xã hội có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi
các quy tắc, quy phạm nhất định ở những nơi công cộng mà mọi người phải tuân theo. Trật
tự công cộng là một mặt của TTATXH và có nội dung bao gồm những quy định chung về
trật tự, yên tĩnh, vệ sinh, nếp sống văn minh; sự tuân thủ những quy định của pháp luật và
phong tục, tập quán, sinh hoạt được mọi người thừa nhận. Giữ gìn trật tự nơi công cộng
chính là giữ gìn trật tự, yên tĩnh chung, giữ gìn vệ sinh chung, duy trì nếp sống văn minh ở
những nơi công cộng, nơi diễn ra các hoạt động chung của nhiều người, đảm bảo sự tôn
trọng lẫn nhau trong lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi của mọi người.
+ Đảm bảo trật tự, an toàn giao thông:
Trật tự, an toàn giao thông là trạng thái xã hội có trật tự được hình thành và điều
chỉnh bởi các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông, vận tải công cộng mà mọi
người phải tuân theo khi tham gia giao thông, nhờ đó đảm bảo cho hoạt động giao thông
thông suốt, có trật tự, an toàn, hạn chế đến mức thấp nhất tai nạn giao thông gây thiệt hại về
người và tài sản. Đảm bảo trật tự, an toàn giao thông không phải là nhiệm vụ của riêng các
lực lượng chức năng (cảnh sát giao thông, thanh tra giao thông công chính…) mà là trách
nhiệm của tất cả mọi người khi tham gia giao thông.
+ Phòng ngừa tai nạn lao động, chống thiên tai, phòng ngừa dịch bệnh. Chú ý phòng
ngừa không để xảy ra tai nạn lao động và luôn luôn phòng chống thiên tai, dịch bệnh.
+ Phòng chống tệ nạn xã hội:
Tệ nạn xã hội là hiện tượng xã hội bao gồm những hành vi sai lệch chuẩn mực xã
hội, có tính phổ biến (từ các hành vi vi phạm những nguyên tắc về lối sống, truyền thống
văn hóa, đạo đức, trái với thuần phong mĩ tục, các giá trị xã hội tốt đẹp cho đến các hành
vi vi phạm những quy tắc đã được thể chế hóa bằng pháp luật, kể cả pháp luật hình sự) ảnh
hưởng xấu về đạo đức và gây hậu quả nghiêm trọng trong đời sống cộng đồng. Tệ nạn xã
hội bao gồm: mại dâm, nghiện ma túy, cờ bạc, mê tín dị đoan…
+ Bảo vệ môi trường
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống con người, sinh vật và sự
phát triển kinh tế văn hóa, xã hội của đất nước dân tộc và nhân loại. Bảo vệ môi trường là
tập hợp các biện pháp giữ cho môi trường trong sạch, sử dụng hoặc phục hồi một cách hợp
lý sinh giới và môi sinh để bảo đảm sự cân bằng sinh thái, nhằm tạo ra một không gian tối
ưu cho cuộc sống của con người.
+ Quản lý hành chính về TTATXH: Là hoạt động chấp hành và điều hành của cơ
quan hành chính Nhà nước trong quản lý các lĩnh vực về TTATXH theo khuôn khổ pháp
luật nhằm duy trì sự ổn định và phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội.

11.2. Tình hình an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội
11.2.1. Tình hình an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội
11.2.1.1. Một số nét về tình hình an ninh quốc gia
- Trong những năm qua, sau khi Liên Xô, Đông Âu tan rã đã có tác dụng tiêu cực và
tạo thuận lợi cho các hoạt động chống phá của các tổ chức, thế lực phản động ở cả trong và
ngoài nước lẫn bọn phản động lưu vong bên ngoài. chúng cho rằng thời cơ đã đến trong lúc
chúng ta gặp rất nhiều khó khăn và chúng đã hi vọng vào một cuộc “lật đổ” ở Việt Nam.
Chính vì thế mà hoạt động chống phá của các tổ chức và các thế lực phản động nhằm cản trở
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ta cũng có những diễn biến rất phức tạp.
- Trước hết là hoạt động của các tổ chức phản động của người Việt Nam ở nước
ngoài. Hiện nay có khoảng 200 tổ chức chính trị phản động người Việt lưu vong tại các nước
tư bản núp dưới các danh nghĩa khác nhau bao gồm các tổ chức phản động mang tính chính
trị rõ nét, các tổ chức tập hợp bọn ngụy quân, ngụy quyền, các tổ chức lợi dụng nhân quyền
hoặc núp dưới các danh nghĩa “từ thiện”. Hầu hết các tổ chức phản động lưu vong này đều
kêu gọi các nước cấm vận, trừng phạt Việt Nam bằng mọi thủ đoạn, chúng lợi dụng khó
khăn, thiếu sót trong quản lí của ta để thực hiện kế hoạch “chuyển lửa về quê hương” đưa ra
các hoạt động lật đổ, tiếp tay, kích động cho các hoạt động của bọn phản động trong nước.
Cùng với hoạt động của các tổ chức phản động của người Việt lưu vong thì các thế lực thù
địch cũng không từ bỏ ý đồ, mục đích chống phá cách mạng Việt Nam với nhiều âm mưu,
phương thức, thủ đoạn hết sức thâm độc, trong đó nổi bật là hoạt động “DBHB” với ba nội
dung chủ yếu là: chiếm lĩnh thị trường, ngoại giao hữu nghị, khoét sâu mâu thuẫn mà mục
đích chính là xóa bỏ Việt Nam, làm thối rữa từ bên trong đi đến thôn tính Việt Nam.
- Tình hình an ninh văn hóa tư tưởng, an ninh kinh tế trong những năm qua còn nhiều
bất cập. Phá hoại tư tưởng là một dạng đặc biệt của chiến tranh lạnh, một hình thức chủ yếu
trong cuộc đấu tranh tư tưởng của Chủ nghĩa đế quốc chống Chủ nghĩa xã hội. Trong những
năm qua, các hoạt động phá hoại văn hóa tư tưởng được bọn phản động nhất là bọn phản
động bên ngoài tiến hành thông qua hoạt động của các đài phát thanh, mạng Internet.
- Trong những năm qua, tình hình lộ bí mật, mất thông tin bí mật về kinh tế đã xảy ra
ở nhiều cơ quan, xí nghiệp và đã gây ra nhiều thiệt hại. các hoạt động nhằm phá hoại kinh tế
được tiến hành cả ở bề rộng và chiều sâu thông qua các hoạt động lấy cắp bí mật về kinh tế,
tuyên truyền và lôi kéo cán bộ quản lí kinh tế và khoa học kĩ thuật phá hoại cơ sở vật chất.
Trong tình hình hiện nay, chúng nhằm vào hoại các chủ trương đường lối kinh tế, các công
trình trọng điểm của ta.
- Tình hình an ninh biên giới còn nhiều phức tạp, các vụ xâm nhập qua biên giới diễn
ra với nhiều hình thức, hoạt động xuất nhập cảnh cũng có nhiều thiếu sót dẫn đến tình trạng
nhập cảnh trái phép, nhất là các khu vực giáp biên. lợi dụng các mối quan hệ của các dân tộc
hai bên biên giới, các đối tượng bên ngoài qua lại, móc nối, lôi kéo, chia rẽ các dân tộc, dòng
họ trong nước làm suy yếu, tiến tới gây bạo loạn ở những nơi này.
- Trong nhiều năm qua xuất hiện nhiều điểm nóng về an ninh trật tự, xuất phát từ
những bức xúc, bất bình của nhân dân trước những việc làm sai trái, thiếu sót của cán bộ cơ
sở trong việc giải quyết đền bù đất đai… do làm chưa triệt để, chưa công bằng nên đã để một
bộ phận nhân dân bị một số phần tử quá khích kích động dẫn đến manh động làm rối loạn an
ninh trật tự ở một số địa phương. Đây chính là những nguyên nhân tiềm ẩn, là mảnh đất tốt
mà các thế lực thù địch nhằm vào để kích động, gây ngòi nổ hòng gây mất ổn định trong xã
hội ta.
Tóm lại: Tình hình về ANQG trong những năm qua nổi lên những vấn đề khá phức
tạp và nhạy cảm, đó chính là những yếu tố có thể gây ra tình hình mất ổn định, ảnh hưởng
đến sự an nguy của quốc gia, vì vậy Đảng và Nhà nước ta đã xác định bảo vệ an ninh quốc
gia là nhiệm vụ cực kì quan trọng của toàn Đảng và toàn dân ta.
11.2.1.2. Tình hình về trật tự an toàn xã hội.
Trong những năm qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể về công tác giữ
gìn trật tự xã hội. Tuy nhiên, tình hình TTATXH vẫn còn rất nhiều vấn đề phức tạp, thậm
chí có lúc, có nơi còn để xảy ra rất nghiêm trọng. TTATXH thời gian qua có những nét nổi
bật sau:
- Tình hình tội phạm xâm phạm trật tự xã hội, tội phạm kinh tế, tội phạm ma túy trong
những năm qua có những diễn biến rất phức tạp
+ Số vụ phạm tội hàng năm bị phát hiện có sự tăng giảm không đều trong đó các vụ
trọng án có chiều hướng tăng, trong đó các vụ án giết người, cướp của, cướp giật có xu
hướng tăng, trong các vụ án giết người thì nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân xã hội. Các
loại tội phạm xâm TTATXH ngày càng có xu hướng chuẩn bị trước, tình hình các băng
nhóm tội phạm cấu kết với nhau tạo thành những tổ chức tội phạm rất nguy hiểm gây nhức
nhối, bức xúc cho xã hội. Thành phần đối tượng phạm tội rất đa dạng, đủ các loại người, có
cả lưu manh cũng như nông dân, cán bộ, Đảng viên, trí thức, sinh viên. Trong đó đáng lo
ngại là các vụ trả thù cá nhân do mâu thuẫn nội bộ rồi đi thuê giang hồ xã hội đen trả thù.
+ Thủ đoạn gây án của bọn tội phạm hình sự rất đa dạng, từ những thủ đoạn đơn giản
cổ điển nhưng hiệu quả như “vãi thóc gọi gà” của bọn lừa đảo đến những thủ đoạn tinh vi,
xảo quyệt của bọn giết người dùng các loại độc chất khó phát hiện. Về địa bàn hoạt động, tội
phạm xâm phạm trật tự xã hội xảy ra ở tất cả các địa bàn trong cả nước nhưng tập trung vào
các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và một số tỉnh
như Đồng Nai, Bình Dương, Nam Định…
+ Các loại án kinh tế, tuy số vụ không tăng nhiều nhưng quy mô, tính chất rất nghiêm
trọng, trong đó nổi lên những vụ chiếm đoạt thuế VAT, các vụ tham ô với số tiền bị chiếm
đoạt lên tới hàng nghìn tỉ đồng.
+ Trong các năm qua, chúng ta đã đấu tranh quyết liệt với tội phạm về ma túy, việc
thực hiện chương trình quốc gia về phòng chống ma túy mặc dù đã đạt được những kết quả
rất to lớn, nhưng tội phạm ma túy vẫn chưa giảm cơ bản, thậm chí còn xảy ra rất nghiêm
trọng. Chúng ta đã phát hiện, sử lý hàng chục nghìn vụ buôn lậu, tàng trữ, vận chuyển trái
phép chất ma túy, có những vụ rất lớn. Những năm gần đây, các tòa án đã tuyên án tử hình
hàng trăm tên tội phạm ma túy nhưng tội phạm ma túy vẫn xảy ra rất nghiêm trọng. Thủ
đoạn hoạt động của bọn tội phạm ma túy ngày càng tinh vi, sảo quyệt. Chúng sẵn sàng
chống trả quyết liệt với các lực lượng đấu tranh, đã có nhiều cán bộ, chiến sĩ đã hi sinh trong
đấu tranh với loại tội phạm này. Địa bàn hoạt động của loại tội phạm này tập trung ở các
thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và các tỉnh biên giới Việt
Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia, các tuyến trục đường 6,7,8.
+ Các băng nhóm, tổ chức tội phạm ma túy thường có sự liên kết với nhau cả trong
nước lẫn quốc tế, quy mô, tính chất ngày càng lớn và ác liệt. Chúng không từ một thủ đoạn
tàn bạo nào, kể cả sử dụng trẻ em, con cháu để đưa vào con đường phạm tội, lợi dụng mọi
phương tiện để vận chuyển trên một diện rộng nên công tác phát hiện, đấu tranh của ta gặp
nhiều khó khăn.
- Tình hình về tệ nạn xã hội, tai nạn, ô nhiễm môi trường xảy ra phức tạp, thậm chí
rất nghiêm trọng.
+ Tệ nạn xã hội là một hiện tượng xã hội tiêu cực gây ra những hậu quả vô cùng to
lớn. Nó còn là bạn đồng hành, là sân sau của các loại tội phạm. Trong những năm qua, các
loại tệ nạn ở nước ta vẫn chưa giảm, thậm chí có loại còn tăng như mại dâm, cờ bạc, nghiện
hút…
+ Tệ nạn xã hội diễn ra ở hầu hết các địa phương trong cả nước, nó có một số đặc
điểm sau: Tệ nạn xã hội mang tính phổ biến, tệ nạn xã hội mang tính lan rất nhanh, tệ nạn xã
hội có quan hệ chặt chẽ với tội phạm. Hậu quả do tệ nạn xã hội gây ra ảnh hưởng lớn đến
hạnh phúc gia đình, xã hội và nó còn là một trong những nguyên nhân dẫn đến căn bệnh thế
kỉ HIV/AIDS.
+ Cùng với Tệ nạn xã hội, tình trạng tai nạn giao thông, tai nạn lao động, tai nạn nghề
nghiệp, rủi ro xảy ra rất nghiêm trọng và có chiều hướng gia tăng. trong các loại tai nạn thì
tai nạn giao thông chiếm tỉ lệ cao nhất, các vụ tai nạn giao thông đường bộ, đường sắt,
đường thủy hàng năm cướp đi sinh mạng của hàng chục nghìn người và hàng trăm nghìn
người trở thành phế nhân, tài sản bị hư hỏng rất nghiêm trọng.
+ Vấn đề ô nhiễm môi trường cũng đáng báo động. Tình trạng chặt phá rừng đầu
nguồn bừa bãi, dẫn đến ô nhiễm gây lũ lụt, hạn hán, ô nhiễm nguồn nước rất cao, việc không
đảm bảo nước sạch, vệ sinh an toàn thực phẩm cộng với các dịch cúm gà, lở mồm long
móng lây lan gây nên tình trạng nhiễm bệnh rất lớn, bên cạnh đó là hàng nghìn vụ ngộ độc
thực phẩm, có những vụ ngộ độc tập thể gây nguy hiểm tính mạng cho cả hàng trăm người.
Tóm lại, tình hình về TTATXH trong những năm qua đã và đang là vấn đề nóng
bỏng, bức xúc mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải quyết tâm khắc phục, giải quyết.
Trên cơ sở đó, chúng ta mới giữ vững được TTATXH cho sự phát triển của đất nước.
11.2.1.3. Dự báo tình hình an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong thời gian tới.
- Tình hình quốc tế trong thời gian tới sẽ diễn biến phức tạp hơn.
Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp,
khó dự báo. Hòa bình, hợp tác phát triển vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều trở
ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra
dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh
tế, chính trị, an ninh quốc tế.
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng đang bị thách thức bởi sự
cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Luật
pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu đứng trước những thách thức lớn.
Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo phương hướng đa cực, đa trung tâm; các nước
lớn vẫn hợp tác, thỏa hiệp nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn. Chủ nghĩa dân
tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế
gia tăng. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn thách
thức mới.
Kinh tế thế giới lâm vào khủng khoảng, suy thoái nghiêm trọng và có thể còn kéo dài
do tác động của đại dịch Covid – 19. Các quốc gia nhất là các nước lớn, điều chỉnh lại chiến
lược phát triển, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, làm thay đổi các chuỗi cung ứng.
Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh dành thị trường, các nguồn tài nguyên,
công nghệ, nhân lực chất lượng cao, thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước ngày càng
quyết liệt, tác động mạnh đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo
đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc.
Những vấn đề toàn cầu, như: bảo vệ hòa bình, an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh,
an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước
biển dâng, ô nhiễm môi trường,...tiếp tục diễn biến phức tạp.
- Tình hình khu vực Đông Nam Á vẫn còn tiềm ẩn nhiều nhân tố mất ổn định.
Khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó “Đông Nam Á có vị trí chiến lược
ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều
bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp,
quyết liệt hơn” 41
Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng
trước thách thức lớn tiềm ẩn nguy cơ xung đột. ASEAN có vai trò quan trọng trong duy trì
hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác khu vực nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn.
Tóm lại “Trong những năm tới, dự báo tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều
thay đổi, rất nhanh, phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác phát triển vẫn là xu thế lớn,
song cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức2.
11.2.1.4. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật
tự, an toàn xã hội ở Việt Nam trong những năm tới.
- Thuận lợi:
+ Thuận lợi cơ bản là tiềm lực và vị thế quốc tế của nước ta được tăng cường “sau 35
năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân
ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” 3
+ Đảng Cộng sản Việt Nam có bản lĩnh chính trị vững vàng, dầy dạn kinh nghiệm;
đường lối đổi mới của Đảng đã được kiểm chứng qua thực tiễn là đúng đắn, được nhân dân
đồng tình ủng hộ.
+ Nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước, đoàn kết, tin tưởng vào Đảng vào
chế độ; ngày càng thể hiện bản lĩnh năng động, sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
+ LLVT cách mạng tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, nhân dân, vươn lên
làm tròn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Với những thuận lợi trên, chúng ta hoàn toàn có khả năng giữ vững hòa bình ổn định
để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
- Khó khăn:
+ Năm năm tới Việt Nam hội nhập quốc tế sâu, rộng hơn và sẽ phải thực hiện đầy đủ,
hiệu quả các cam kết khi tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nền kinh tế
phát triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế yếu kém, đứng trước nhiều khó khăn, thách
thức mới do tác động của đại dịch Covid – 19 và khủng hoảng kinh tế toàn cầu gây ra.
+ Xu hướng già hóa dân số nhanh; tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa tăng mạnh; đặc
biệt biển đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh gay gắt, phức tạp...ngày càng tác động mạnh đến
sự phát triển của đất nước.
+ Đại hội XIII đảng ta chỉ ra “Bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra còn tồn tại, có mặt còn
gay gắt hơn. Nguy cơ tụt hậu rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn lớn. Có biểu hiện chưa
quan tâm đúng mức bảo đảm phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa....Tham nhũng,

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2021, tr. 107.
2,3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2021, tr. 30, 107.
lãng phí, quan liêu, su thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Các thế
lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta. Bảo vệ độc lập
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình ổn định và thích
ứng với biến đổi khí hậu là yêu cầu cấp thiết đồng thời là những thách thức rất lớn đối với
nước ta trong thời gian tới”(2).
11.2.2. Đối tác, đối tượng đấu tranh trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật
tự, an toàn xã hội.
Trong tình hình hiện nay, cần có cách nhìn nhận mới và thống nhất về vấn đề đối tác
và đối tượng đấu tranh theo nguyên tắc sau:
11.2.2.1. Đối tác
- Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu
nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta.
- Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh.
- Mặt khác, trong tình hình diễn biến mau lẹ và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn
nhận biện chứng: Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một
số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta. Trên cơ sở đó, cần khắc
phục cả hai khuynh hướng mơ hồ mất cảnh giác hoặc cứng nhắc trong nhận thức, chủ trương
trong xử lí các tình huống cụ thể, đúng như nhạn định của Đảng ta “Tư duy về quốc phòng,
an ninh, đối tác, đối tượng bảo vệ Tổ quốc có bước phát triển mới và ngày càng hoàn thiện
hơn”1
11.2.2.2. Đối tượng xâm phạm an ninh quốc gia
Có nhiều loại cụ thể, trong tình hình hiện nay cần tập trung đấu tranh với các loại sau:
- Gián điệp: là người Việt Nam hay người nước ngoài, hoạt động cá nhân hay có tổ
chức, chịu sự chỉ huy của nước ngoài để tiến hành các hoạt động điều tra thu thập tình báo,
gây cơ sở bí mật và phá hoại nhằm chống lại nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Phản động: là những cá nhân hay tổ chức có âm mưu và hoạt động phản cách mạng
chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa nhưng không chịu sự chỉ huy của nước ngoài.
11.2.2.3. Đối tượng xâm phạm về trật tự, an toàn xã hội
- Đối tượng xâm phạm TTATXH là những người có hành vi phạm tội gây thiệt hại
đến tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân, đến tính mạng sức khỏe và danh dự
phẩm giá của con người, đến TTATXH nhưng không có mục đích chống lại Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam.
- Trong các đối trượng xâm phạm TTATXH hiện nay có những người phạm tội nhất
thời, có đối tượng phạm tội chuyên nghiệp, với tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau.
11.3. Yếu tố tác động, quan điểm phương châm, nguyên tắc trong bảo vệ an ninh quốc
gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
11.3.1. Yếu tố tác động đến bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
11.3.1.1. Yếu tố bên ngoài

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2021, tr. 68.
Hiện nay tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường nhưng hòa bình hợp tác
phát triển vẫn là xu thế lớn, tiến trình toàn cầu hóa tiếp tục diễn biến sôi động tác động đến
mọi lĩnh vực đời sống xã hội của các nước, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quan hệ quốc tế,
gia tăng sự phụ thộc lẫn nhau về cung cầu thương mại, sự hình thành các liên kết kinh tế
ngày càng đa dạng phong phú và đan xen về thành phần tham gia…
11.3.1.2. Yếu bên bên trong
Sau hơn 35 năm đổi mới nước ta có bước phát triển, vượt qua khủng hoảng kinh tế xã
hội, phá vỡ thế bao vây, cô lập, từng bước củng cố vị thế quốc tế, giữ vững độc lập chủ
quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước; đời sống của nhân dân tường bước được nâng cao, tiềm lực an ninh quốc phòng được
củng cố.
11.3.2. Quan điểm chỉ đạo trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
11.3.2.1. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
- Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu Đảng và nhân
dân ta lựa chọn và hướng tới.
- Đây là yêu cầu khác quan được hun đúc từ quá trình đấu tranh cách mạng được xác
lập trên cơ sở Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện của Đảng.
11.3.2.2. Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Đây là hai nội dung có mối quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau. Xây dựng thành
công CNXH góp phần củng cố bản chất chính trị, đảm bảo định hưởng phát triển của quốc
gia.
- Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là truyền thống của dân tộc ta trong quá trình dựng
nước và giữ nước. Đảng, Nhà nước ta đã kế thừa và phát huy truyền thống đó trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Sự ổn định và phát triển về mọi mặt
của đời sống xã hội là nền tảng vững chắc của an ninh trật tự và ngược lại an ninh trật tự
vững chắc mới có điều kiện ổn định phát triển đất nước về mọi mặt. Cần nhận thức an ninh
trật tự được giữ vững củng cố và phát triển là dựa trên nền tảng kinh tế, xã hội ổn định và
phát triển.
- Hiện nay kết hợp chặt chẽ giữa an ninh quốc phòng là một yêu cầu khách quan của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Sự kết hợp giữa QP&AN, AN với
QP có nội dung rất rộng, hình thức và cơ chế kết hợp cũng rất phong phú và đa dạng. Một
trong những nội dung quan trọng của việc kết hợp giữa AN với QP là kết hợp chặt chẽ giữa
xây dựng trật tự ANND với thế trận QPTD.
11.3.2.3. Quán triệt đường lối độc lập tự chủ, đồng thời chủ động tích cực hội nhập quốc tế
- Ngoại giao luôn là công cụ, phương tiên đắc lực phục vụ nhiệm vụ an ninh, quốc
phòng góp phần đảm bảo tăng cường tiềm lực, củng cố mở rộng quan hệ, phá vỡ bao vây, cô
lập. Đây là kinh nghiệm quý báo trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
- Mở rộng quan hệ đối ngoại trên nhiều lĩnh vực với nhiều đối tác là các nước các
vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế, tổ chức lớn.
11.3.2.4. Xây dựng và phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước trong bảo vệ an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội
- Đây là bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo, đấu tranh cách mạng và là bài học trong
bảo vệ an ninh trật tự. Sức mạnh tổng hợp là sức mạnh trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, tư tưởng, văn hóa - xã hội, QP, AN và đối ngoại; sức mạnh trong hệ thống chính trị đến
toàn xã hội; sức mạnh từ bên trong lẫn bên ngoài; của giá trị truyền thống với giá trị hiện
đại. Nội dung chủ yếu được thể hiện đó là:
- Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt là nhân tố quyết định thắng lợi của
cuộc đấu tranh bảo vệ ABQG, TTATXH.
- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực bảo vệ ANQG và TTATXH
- Tăng cường hiệu lực quản lí của Nhà nước trên lĩnh vực bảo vệ ANQG và
TTATXH
11.3.2.5. Nắm chắc tình hình, nâng cao chất lượng công tác dự báo, chủ động phòng ngừa,
phát hiện sớm, triệt tiêu các nhân tố bất lợi, đẩy lùi các nguy cơ đe dạo an ninh trật tự
Trước âm mưu thủ đoạn của cấc thế lực thù địch cần tăng cường phòng ngừa xã hội,
kết hợp chặt chẽ với phòng ngừa nghiệp vụ, xây dựng và tăng cường cơ chế phối hợp giữa
các lực lượng; xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; xây dựng Quân đôi
nhân dân, Công an nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
11.3.2.6. Bảo vệ an ninh quốc gia phải kết hợp chặt chẽ với giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
- ANQG và TTATXH là hai thành phần cấu thành trật tự xã hội. Bảo vệ vững chắc
ANQG là bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa,
tạo ra một trong những điều kiện cơ bản nhất để xây dựng sự vững mạnh về mọi mặt trong
xã hội.
- ANQG được bảo vệ vững chắc sẽ tạo điều kiện cơ bản thuận lợi để bảo vệ tốt trật tự
an toàn xã hội. TTATXH được giữ vững sẽ tạo điều kiện cho ANQG càng được củng cố
vững chắc, hiệu lực quản lí của Nhà nước được tăng cường, quyền làm chủ của nhân dân
được bảo đảm vững chắc, cuộc sống của mọi người được yên vui, hạnh phúc.
11.3.3. Phương châm chỉ đạo trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã
hội
- Kiên định mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; mềm dẻo linh hoạt về sách lược; tranh
thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước, dư luận quốc tế; phân hóa cô lập các phần
tử, thế lực ngoan cố chống đối cách mạng.
- Kết hợp chặt chẽ giữa chủ động phòng ngừa với chủ động tiến công, lấy chủ động
phòng ngừa giữ vững bên trong là chính.
- Chú trọng cả hai nhiệm vụ “xây” và “chống”, trong đó lấy xây dựng là chính.
11.3.4. Nguyên tắc trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội
- Đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng cộng sản Việt Nam,
sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
- Tuân thủ hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân.
- Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
11.4. Chủ thể, giải pháp bảo vệ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã
hội
11.4.1. Chủ thể bảo vệ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội
- Đảng Cộng sản Việt Nam: xác lập vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
đối với sự nghiệp bảo vệ ANQG và TTATXH
- Chính phủ: Là cơ quan hành chính cao nhất, chịu trách nhiệm thống nhất quản lý
nhà nước về ANQG và TTATXH.
- Lực lượng Công an nhân dân: là cơ quan chuyên trách, là lực lượng nòng cốt trong
sự nghiệp bảo vệ ANQG và TTATXH.
- Quần chúng nhân dân: là lực lượng đông đảo nhất trong sự nghiệp bảo vệ ANQG
và TTATXH.
11.4.2. Giải pháp bảo vệ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội
11.4.2.1. Tăng cường công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ an ninh chính trị nội bộ
- Tăng cường chỉnh đốn Đảng; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối
sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
- Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, uy tín
ngang tầm nhiệm vụ.
- Bảo vệ cương lĩnh; Điều lệ Đảng; bảo vệ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Đảng; bảo vệ Hiến pháp và Pháp luật; bảo vệ cán bộ đảng viên.
- Đấu tranh hiệu quả với hoạt động âm mưu “DBHB” của các thế lực thù địch.
11.4.2.2. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các giải pháp đảm bảo an ninh kinh tế phục vụ các
chủ trương của Đảng, Nhà nước trong lãnh đạo phát triển kinh tế
- Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi
trường và động lực phát triển kinh tế xã hội.
- Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao
năng xuât, hiệu quả và sức cạnh tranh.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng và đô thị.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ.
- Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai, tăng cường quản lý
tài nguyên và môi trường.
- Phòng chống tham những, tội phạm kinh tế, âm mưu lợi dụng kinh tế chuyển hóa
chính trị.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững môi
trường hòa bình tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước.
11.4.2.3. Tăng cường công tác bảo đảm an ninh tư tưởng, văn hóa, an ninh thông tin, truyền
thông
- Tăng cường nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; đấu tranh
chống tư tưởng phản động, các trào lưu văn hóa độc hại “Kiên định vận dụng, phát triển
sảng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh”1.
- Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, con người Việt Nam phát triển toàn diện.
- Tăng cường quản lý báo trí, xuất bản.
- Phòng, chống các hoạt động tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản
động, chủ động phản biện các quan điểm sai trái, thù địch.
11.4.2.4. Tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác đảm bảo an ninh xã hội

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2021, tr. 38.
- Giải quyết triệt để các mâu thuẫn xã hội, xung đột xã hội nhất là tình trạng khiếu
kiện đông người vượt cấp.
- Đảm bảo an ninh dân tộc, an ninh tôn giáo.
- Nâng cao đời sống cả về vật chất và tinh thần cho nhân dân.
11.4.2.5. Tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm; phối hợp với Quân
đội, các nghành tư pháp, các cơ quan, ban nghành, đoàn thể, cấp ủy, chính quyền địa
phương trong bảo vệ an ninh trật tự
- Xây dựng triển khai các trương trình, kế hoạch chuyên đề đấu tranh với các loại tội
phạm, mở đợt cao điểm tấn công trấn áp các loại tội phạm.
- Thường cuyên rà soát xác định các địa bàn trọng điểm về TTATXH để tập chung
lực lượng chuyển hóa thành địa bàn không có tội phạm.
- Nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử tội phạm.
- Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan điều tra với Viện Kiểm sát, cơ
quan Thanh tra Chính phủ, Thanh tra của bộ, ngành….
11.4.2.6. Tiếp tục củng cố, mở rộng, phát triển quan hệ hợp tác với các nước và các tổ chức
quốc tế trong công tác bảo đảm an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội
- Củng cố, mở rộng phát triển quan hệ hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế, ưu
tiên hợp tác với các nước láng giềng các nước trong khối ASEAN, các nước có quan hệ
truyền thống, các nước lớn.
- Tổ chức thực hiện tốt các điều ước quốc tế và thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là
thành viên.
- Thiết lập mở rộng hệ thống cơ quan liên lạc ở nước ngoài phục vụ đấu tranh phòng,
chống tội phạm, trước mắt ở các nước chung đường Biên giới đất liền.
- Tích cực tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế về khoa học – kỹ
thuật, triển khai thực hiện các dự án được tài trợ; trao đổi học tập, bồi dưỡng nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ.
11.4.2.7. Rà soát xây dựng và đề xuất hoàn thiện các văn bản pháp luật
- Xây dựng chiến lược tổng thể hệ thống pháp luật về an ninh, trật tự.
- Nâng cao trình độ soạn thảo quy phạm pháp luật của đội ngũ cán bộ tham mưu pháp
chế, cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật.
- Cơ quan của Quốc hội cần nâng cao chất lượng thẩm định đối với dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật về an ninh, trật tự.
11.4.3. Vai trò, trách nhiệm của sinh viên trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia và đảm
bảo trật tự, an toàn xã hội.
Sinh viên cần phải nhận thức đúng vai trò, nhiệm vụ của mình và tham gia trực tiếp
vào việc bảo vệ ANQG, đảm bảo TTATXH, cụ thể là:
- Trước hết sinh viên phải nhận thức đúng đắn trách nhiệm của công dân “Công dân
phải trung thành với Tổ quốc, làm nghĩa vụ quân sự, được GDQP và huấn luyện về quân sự;
tham gia dân quân tự vệ, phòng thủ dân sự; chấp hành nghiêm chỉnh các biện pháp của Nhà
nước và người có thẩm quyền khi đất nước có tình trạng chiến tranh hoặc tình trạng khẩn
cấp về quốc phòng”1.

1
Luật Quốc phòng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 10.
- Nhận thức đúng cuộc đấu tranh để bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn
xã hội là một bộ phận của cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra gay go phức tạp, quyết liệt, lâu dài.
Nhất là trong điều kiện hiện nay, khi các thế lực thù địch và các phần tử chống đối đảng, nhà
nước đang ra sức tiến hành các hoạt động diễn biến hòa bình bằng mọi thủ đoạn. Trong đó
chúng triệt để chú ý địa bàn là các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp; lợi
dụng lừa phỉnh học sinh sinh viên – những người rất năng động, sáng tạo nhưng chưa có
nhiều trải nghiệm trong cuộc sống, là địa bàn và đối tượng để thực hiện “DBHB”. Do vậy
sinh viên cần phải cảnh giác tích cực trong đấu tranh với các hành động sai trái, với các phần
tử thoái hóa biến chất trong các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước nhưng không để các thế
lực thù địch, các phần tử chống đối, lợi dụng mình để thực hiện “DBHB” nhằm làm suy yếu,
tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta.
- Tích cực, tự giác tham gia các hoạt động cụ thể để bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn
TTATXH:
+ Phát hiện những tổ chức người có hành vi tuyên truyền, lôi kéo sinh viên tham gia
các hoạt động trái qui định của pháp luật nhằm chống lại Đảng, Nhà nước để báo cho lãnh
đạo của trường, chính quyền và các cơ quan bảo vệ pháp luật biết, có ý thức bảo vệ Nhà
nước.
+ Tham gia xây dựng nếp sống văn minh trật tự ngay trong trường học, kí túc xá, khu
vực dân cư mà mình sinh sống, bảo vệ môi trường, giúp đỡ các cơ quan chuyên trách trong
bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH.
+ Tham gia các hoạt động xã hội để góp phần bảo đảm TTATXH như: Chấp hành
nghiêm chỉnh luật giao thông đường bộ, giữ gìn trật tự vệ sinh ở nơi công cộng.
+ Bản thân luôn nhận thức được sự nguy hại của các tệ nạn xã hội để không mắc phải
và tuyên truyền vận động cho nhiều người khác thấy được sự nguy hại của các tệ nạn xã hội,
nhất là tệ nạn ma túy, cờ bạc, mại dâm. Phát hiện những địa điểm tổ chức, đối tượng tham
gia các tệ nạn xã hội để báo cáo lãnh đạo nhà trường, chính quyền địa phương, các cơ quan
bảo vệ pháp luật mà trực tiếp là lực lượng công an nhân dân để có biện pháp đấu tranh kịp
thời có hiệu quả.
+ Tích cực tham gia chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm; phát hiện tố giác
kịp thời các đối tượng băng nhóm tổ chức tội phạm để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
có biện pháp giải quyết.
+ Tích cực học tập nâng cao trình độ chính trị , khoa học kĩ thuật, nghiệp vụ chuyên
môn có liên quan để có thể cống hiến cao nhất những khả năng của mình, góp phần xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Tăng cường rèn luyện thể lực, học tập tốt môn học GDQP&AN góp phần chuẩn bị cho lực
lượng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn TTATXH.

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN


1. Đối tác, đối tượng đấu tranh trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an
toàn xã hội.
2. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác bảo đảm ANQG và đảm bảo TTATXH.
3. Nội dung bảo đảm ANQG, Phân tích nội dung “Bảo đảm an ninh chính trị” ?
4. Nội dung đảm bảo TTATXH, phân tích nội dung “Phòng chống tội phạm xâm phạm
TTATXH” ?

Chương 10
XÂY DỰNG PHONG TRÀO TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC

10.1. Nhận thức chung về phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
10.1.1. Quan điểm về quần chúng nhân dân và vai trò của quần chúng nhân dân trong
bảo vệ an ninh Tổ quốc
- Một số quan điểm về quần chúng nhân dân.
Quần chúng nhân dân là một lực lượng đông đảo, là nền tảng của một nước, là gốc rễ
của dân tộc, là động lực chính để thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Triết học duy tâm có nhận thức sai lạc: Xã hội chia làm 2 hạng người: Hạng “thượng lưu” và
hạng “thứ dân”; thượng đế tinh thần là tuyệt đối; Vua là thiên tử, thay trời trị dân.
Các chế độ quân chủ tư sản hiện đại nêu vấn đề “dân chủ”, “Lấy dân làm gốc”, nhưng
khác nhau về bản chất.
Chủ nghĩa Mác - Lênin lần đầu tiên đã phát hiện và khẳng định vai trò của quần
chúng nhân dân đã quyết định sự phát triển của xã hội, chính nhân dân lao động là người
làm nên lịch sử. Đây là một chuyển biến cách mạng trong nhận thức về lịch sử, là một trong
những cơ sở lí luận do chính Đảng của giai cấp vô sản nêu ra.
Thực tiễn lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha ta đã chứng minh từ thời các
Vua Hùng dựng nước, Hai Bà Trưng đến Ngô Quyền, Lê Lợi, Quang Trung,…đều dựa vào
dân, khẳng định dân là gốc, biết sử dụng sức mạnh của toàn dân để đánh tan các đội quân
xâm lược hùng mạnh của các triều đại phong kiến Trung Quốc, Mông Cổ.
Kế thừa tư tưởng của ông cha ta về vai trò của quần chúng nhân dân, Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng luôn nêu cao tư tưởng cách mạng
là của dân, do dân và vì dân. Quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân là nguồn gốc tạo nên
sức mạnh truyền thống vô cùng quý báu của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra những
quan điểm về dân “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân”, “Dễ trăm lần không dân
cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.… Dưới ngọn cờ của Đảng và tư tưởng Hồ Chí
Minh nhân dân ta đã đồng lòng hợp sức làm nên nhiều chiến công vẻ vang trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc, đánh thắng hai cường quốc xâm lược Pháp và Mỹ; đang từng bước xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở đất nước ta.
Ngày nay trong giai đoạn đất nước ta chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, có những thuận lợi mới, thời cơ mới song vẫn
còn nhiều trở lực và thách thức; Đảng và nhà nước ta có nhiều chủ trương quan trọng về đổi
mới công tác lãnh đạo của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
- Vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Đặc điểm của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh Tổ Quốc là diễn ra trên diện rộng, khắp mọi địa
bàn, mọi lĩnh vực. Là cuộc chiến đấu thường xuyên mang tính gay go, quyết liệt, phức tạp và
lâu dài. Bọn gián điệp, phản động và các tội phạm khác luôn tìm cách trà trộn trong quần
chúng nhân dân, lợi dụng, lôi kéo, mê hoặc kể cả khống chế để lợi dụng.
+ Quần chúng nhân dân có khả năng phát hiện, quản lý, giáo dục, cải tạo các loại tội
phạm để thu hẹp dần đối tượng phạm tội.
+ Khi nào người dân có ý thức tự giác, có tinh thần làm chủ trong xây dựng cuộc
sống mới lành mạnh, khi đó sẽ khắc phục dần những sơ hở thiếu sót mà địch và bọn tội
phạm có thể lợi dụng.
+ Lực lượng công an có hạn, nên công tác bảo vệ an ninh trật tự không thể thực hiện
được bằng chuyên môn đơn thuần mà phải làm tốt công tác vận động quần chúng nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nhân dân giúp ta nhiều thì thành công nhiều, giúp ít thì
thành công ít, giúp ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”1
10.1.2. Nhận thức về phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
- Khái niệm phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc.
Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là một hình thức hoạt động tự giác, có tổ
chức của đông đảo quần chúng nhân dân lao động tham gia để phòng ngừa phát hiện, đấu
tranh chống các loại tội phạm nhằm bảo vệ tài sản Nhà nước và tính mạng, tài sản của nhân
dân
- Vị trí, tác dụng của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
+ Trước đây cũng như trong giai đoạn cách mạng hiện nay, phong trào toàn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc giữ vai trò quan trọng không thể thiếu được đối với toàn bộ sự nghiệp
cách mạng của Đảng nói chung và sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự nói riêng.
+ Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là một bộ phận quan trọng gắn bó
khăng khít, chặt chẽ với các phong trào hành động cách mạng khác của Đảng, Nhà nước ở
địa phương, đơn vị.
+ Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta tiến hành nhiều cuộc vận động quần
chúng khác nhau để tiến hành giải quyết những nhiệm vụ khác nhau. Trong đó có cuộc vận
động nhân dân tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc. Giữa các phong trào hành động
cách mạng khác của nhân dân với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc có mối quan
hệ khăng khít, tác động hỗ trợ lẫn nhau; các phong trào hành động cách mạng khác nhau của
nhân dân giải quyết nhiệm vụ phát triển kinh tế văn hóa xã hội là nền tảng vững chắc để

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, NXB ST, H, 1985, tr.299, Hà Nội.
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được phát động và duy trì thường xuyên, mạnh
mẽ. Ngược lại phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được nâng cao góp phần phòng
ngừa, ngăn chặn, đấu tranh kịp thời với bọn tội phạm, ổn định được tình hình an ninh trật tự,
là điều kiện thuận lợi để phát triển phong trào hành động cách mạng khác của nhân dân đạt
kết quả tốt.
+ Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc giữ vị trí chiến lược là một trong
những biện pháp công tác cơ bản của lực lượng công an nhân dân, là nền tảng cơ bản trong
sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Nhân dân lao động có khả năng to lớn, là người làm nên lịch sử. Từ trước đến nay
Đảng ta luôn luôn khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân, đấu tranh bảo vệ an
ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội cũng là sự nghiệp của toàn dân. Mọi vấn đề an
ninh trật tự xảy ra khi giải quyết đều phải dựa vào nhân dân. Quán triệt tư tưởng này của
Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định về “Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc”.
Thực tiễn cho thấy phong trào hành động cách mạng của nhân dân như phong trào
“Ba không”, “Ngũ gia liên bảo”, “Thập gia liên báo” trong thời kì chống Pháp; phong trào
“Bảo vệ trị an”, “Bảo mật phòng gian” trong những năm chống Mỹ cứu nước và hiện nay là
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đã thực sự góp phần quan trọng phục vụ đắc lực
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là một hình thức vận
động nhân dân ở mức độ cao, đã trở thành ý thức tự giác cao độ của đông đảo quần chúng
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự tổ chức vận động hướng
dẫn nghiệp vụ của lực lượng công an nhân dân.
Đối với công tác Công an, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc có tác dụng trực
tiếp trong phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm, ngăn ngừa làm giảm tai nạn, đấu tranh đẩy
lùi các tệ nạn xã hội và các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội.
Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc còn giúp lực lượng công an có điều kiện
để triển khai sâu rộng các mặt công tác nghiệp vụ. Những tin tức tài liệu đa dạng, phong phú
thu được từ quần chúng nhân dân cung cấp là cơ sở để lực lượng công an nhân dân đấu
tranh, trấn áp bọn tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là động lực quan trọng để nâng cao ý thức tự giác của
hàng chục triệu người tham gia vào công tác bảo vệ an ninh Tổ quốc ở từng đường phố, từng
thôn, xóm, phường, xã, cơ quan, xí nghiệp tạo thành thế chủ động trong phòng ngừa, phát
hiện và đấu tranh trấn áp tội phạm tạo thành một thế trận an toàn về an ninh trật tự.
Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là hình thức cơ bản để tập hợp thu hút
đông đảo quần chúng phát huy quyền làm chủ của quần chúng nhân dân tham gia bảo vệ an
ninh trật tự.
Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc thực chất là hình thức hoạt động có tổ
chức, do đông đảo quần chúng nhân dân lao động tham gia; là điều kiện cơ bản để nhân dân
thực hiện quyền làm chủ trên lĩnh vực bảo vệ an ninh trật tự.
Sức mạnh, khả năng sáng tạo của quần chúng nhân dân là hết sức to lớn, song sức
mạnh và khả năng đó chỉ được phát huy khi quần chúng nhân dân được tổ chức thành phong
trào hành động cách mạng cụ thể. Chính bằng phong trào và thông qua phong trào toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc, quần chúng nhân dân mới có điều kiện tham gia vào công việc xây
dựng, quản lý nền an ninh trật tự nhiều hơn, tốt hơn và trực tiếp hơn. Vì vậy phong trào toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là hình thức cơ bản để tập hợp, thu hút đông đảo nhân dân, phát
huy quyền làm chủ của họ trên lĩnh vực bảo vệ an ninh trật tự.
- Mục đích của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh trật tự.
Huy động sức mạnh của nhân dân để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn đấu tranh với
các loại tội phạm, bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và phục vụ đắc lực
việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng, gắn với các cuộc vận động lớn của Đảng, Nhà
nước, của các ban, ngành, đoàn thể và của địa phương… góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN.
10.1.3. Đặc điểm của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
- Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc thu hút đông đảo quần chúng nhân
dân tự giác tham gia công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Tính chất đông đảo quần chúng là đặc trưng cơ bản, là điều kiện bắt buộc để xác định
sự tồn tại của mọi phong trào cách mạng, trong đó có phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc. Tính đông đảo được đánh giá trên phạm vi địa bàn và trong thực hiện nhiệm vụ liên
quan đến an ninh, trật tự. Có khi, trong phạm vi một xã thì có phong trào, nhưng xét rộng ra
cả huyện hoặc cả tỉnh, tỉ lệ quần chúng tham gia chưa phải là đa số thì huyện, tỉnh đó chưa
có phong trào.
Nếu như số lượng quần chúng nhân dân quyết định việc có hay không có phong trào
thì tính tự giác của quần chúng nhân dân xác định chất lượng phong trào hay nói cách khác,
phong trào có đi vào thực chất hay chỉ mang tính hình thức.
Tính tự gác đó trước hết thể hiện ở thái độ kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện
tiêu cực, những hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm. Thái độ đó xuất phát từ nghĩa vụ,
trách nhiệm, quyền lợi của bản thân, và trách nhiệm với xã hội, cộng đồng. Trên cơ sở đó,
mỗi cá nhân nảy sinh ý thức tự giác tham gia phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh
Tổ quốc, đóng góp sức lực của mình vào sự phát triển của phong trào, thực hiện các nhiệm
vụ đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự dưới sự chỉ đạo thống nhất, tập trung.
Tính tự giác còn được thể hiện thông qua mục đích, động cơ tham gia phong trào toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Mục đích đúng đắn, động cơ trong sáng mới bảo đảm được chất
lượng và hiệu quả của phong trào. Nếu không, phong trào chỉ manh tính hình thức và không
khác các trào lưu khác trong xã hội.
- Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được tổ chức chặt chẽ, thống nhất,
khoa học, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, hướng dẫn chuyên môn của
lực lượng Công an nhân dân.
Mặc dù có sức mạnh to lớn nhưng quần chúng nhân dân là tập hợp không đồng đều
về nhận thức, khác nhau về phong tục tập quán, thói quen sinh hoạt, vùng miền, giới tính..,
từ đó làm phân tán, suy giảm nguồn lực. Để bảo đảm tính thống nhất, khoa học và hiệu quả,
đòi hỏi sức mạnh đó phải được tổ chức, lãnh đạo một cách chặt chẽ, khoa học, đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước nhằm định hướng giải quyết những nhiệm vụ
chính trị cụ thể trong từng thời kỳ. Thông qua công tác quản lý của Nhà nước, bảo đảm các
chính sách, chế độ đối với quần chúng khi tham gia phong trào.
Lực lượng Công an nhân dân là lực lượng chuyên trách trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội. Để đảm bảo phong trào hoạt động hiệu quả, đòi hỏi phải có sự
hướng dẫn của lực lượng Công an để kịp thời nắm bắt âm mưu, hoạt động của các thế lực
thù địch, phản động, quy luật hoạt động, thủ đoạn của bọn tội phạm...
- Trên các địa bàn, lĩnh vực khác nhau, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
có những biểu hiện khác nhau
Do đặc thù về vị trí địa lý, đặc điểm, phong tục tập quán, điều kiện, hoàn cảnh kinh tế
- xã hội... ở mỗi địa bàn có sự khác biệt, đòi hỏi phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
có sự linh hoạt, uyển chuyển cho phù hợp với đối tượng vận động: đồng bào theo tôn giáo,
đồng bào không theo tôn giáo; đồng bào ở vùng hải đảo với đồng bào ở đất liền; đồng bào
vùng nông thôn với đồng bào vùng thành thị; đồng bào các dân tộc thiểu số...
Cùng với đó, xuất phát từ âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, đối tượng
phản động, tội phạm có sự khác biệt, nảy sinh ở mỗi địa bàn, lĩnh vực những vấn đề phức
tạp về an ninh, trật tự riêng đòi hỏi phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc tập trung
giải quyết với những nội dung cụ thể.
10.2. Nội dung, biện pháp xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
10.2.1. Nội dung cơ bản của công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc
Để góp phần phục vụ đắc lực sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất
nước, chủ động khắc phục, đẩy lùi nguy cơ, đấu tranh làm thất bại hoạt động của các thế lực
thù địch và các loại tội phạm, giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, trong giai
đoạn hiện nay công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc và tập trung
vào những nội dung cơ bản sau đây:
- Giáo dục, nâng cao cảnh giác Cách mạng, phát huy truyền thống yêu nước của
nhân dân tham gia phòng ngừa đấu tranh chống mọi âm mưu hoạt động của các thế lực thù
địch trong và ngoài nước, bao gồm:
+ Chống chiến tranh tâm lí phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch.
+ Bảo vệ an ninh kinh tế, an ninh xã hội, bảo vệ bí mật quốc gia.
+ Chống địch lợi dụng dân tộc, tôn giáo, lợi dụng dân chủ, nhân quyền để gây mất ổn
định chính trị.
+ Giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân, ổn định chính trị, bảo vệ nội bộ, góp phần xây
dựng hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh.
- Vận động toàn dân tích cực tham gia chương trình quốc gia phòng chống tội phạm
+ Vận động nhân dân tích cực tham gia phát hiện, tố giác, đấu tranh chống các loại tội
phạm, góp phần giữ vững ổn định an ninh trật tự tại địa bàn.
+ Vận động nhân dân tham gia quản lý, giáo dục, cảm hóa những người cần phải giáo
dục tại cộng đồng dân cư, như: các đối tượng có tiền án, tiền sự, đối tượng đi tù giam giữ
được tha, đối tượng đi cơ sở giáo dục, đi cơ sở chữa bệnh tha về còn có biểu hiện hoạt động
phạm pháp; tham gia vận động người phạm tội đang lẩn trốn ra tự thú; thực hiện các biện
pháp phòng ngừa tình trạng thanh thiếu niên phạm tội; tham gia quản lý giáo dục trẻ em làm
trái pháp luật.
+ Vận động nhân dân chấp hành và tham gia giữ gìn trật tự an ninh, toàn giao thông,
trật tự công cộng, trật tự đô thị, giữ gìn vệ sinh mĩ quan nơi công cộng, tham gia phòng
chống gây rối trật tự công cộng, ngăn chặn kịp thời các vụ việc lộn xộn xảy ra ở nơi công
cộng.
+ Hướng dẫn và vận động nhân dân bài trừ tệ nạn xã hội, bài trừ các hủ tục lạc hậu,
đấu tranh bài trừ văn hóa phẩm độc hại.
+ Xây dựng cơ quan đơn vị, cụm dân cư và từng gia đình an toàn, đoàn kết, xây dựng
nếp sống văn hóa trong cộng đồng dân cư, giữ vững đạo đức trong sáng lành mạnh, giữ gìn
thuần phong mỹ tục, truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam, bảo vệ môi trường sống.
- Xây dựng và mở rộng liên kết phối hợp chặt chẽ với các ngành, các đoàn thể quần
chúng, các tổ chức chính trị xã hội trong các phong trào của địa phương.
Kết hợp lồng ghép phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với các cuộc vận
động khác của Đảng, Nhà nước ở địa phương như cuộc vận động xóa đói giảm nghèo, vận
động toàn dân đoàn kết xây dựng nếp sống văn hóa mới…
+ Xây dựng và thực hiện có hiệu quả các nghị quyết liên tịch, thông tư liên ngành,
các quy chế phối hợp hoạt động giữa công an, an ninh xã với Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ,
Hội Cựu chiến binh, các cơ quan, trường học đóng trên địa bàn.
+ Thường xuyên theo dõi nắm bắt tình hình việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây
dựng và phát triển kinh tế xã hội ở địa phương, kịp thời đề xuất lồng ghép nội dung, yêu cầu
của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc phù hợp, nhằm phát huy vai trò của quần
chúng trong việc bảo vệ an ninh - trật tự.
- Tham gia xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng tại cơ sở vững
mạnh.
+ Thông qua phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc để rèn luyện, thử thách xây
dựng đội ngũ cán bộ viên chức Nhà nước ở cơ sở.
+ Thông qua phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc để thường xuyên đóng góp
ý kiến xây dựng cho tổ chức Đảng, Chính quyền cơ sở, lực lượng Công an, an ninh kịp thời
phát hiện đề nghị đưa ra khỏi tổ chức Đảng, Chính quyền, lực lượng Công an, những người
không đủ tiêu chuẩn về đạo đức và năng lực công tác; đồng thời đề nghị bổ sung những nhân
tố tích cực, ưu tú xuất sắc trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc vào cấp ủy
Chính quyền cơ sở, để xây dựng tổ chức Đảng, Chính quyền, lực lượng Công an trong sạch
vững mạnh.
Bốn nội dung trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, là những nội dung cơ bản của
công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Khi thực hiện những nội
dung trên phải căn cứ vào tình hình điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng nơi, đặc biệt phải
căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, đảm bảo quốc phòng, an ninh ở từng địa
phương, từng cơ sở để đề ra nội dung công tác cho thích hợp, có hiệu quả.
10.2.2. Biện pháp xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
* Nắm tình hình và xây dựng kế hoạch phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc
Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trước hết phải điều tra nghiên
cứu nắm vững tình hình mọi mặt liên quan đến an ninh trật tự, đây là công việc đầu tiên làm
cơ sở để định ra nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành các bước tiếp theo.
- Nội dung bao gồm:
+ Vị trí địa lí, đặc điểm địa bàn về phân bố dân cư, phong tục tập quán, nghề nghiệp
truyền thống, vấn đề tôn giáo, dân tộc có liên quan đến công tác xây dựng phong trào toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
+ Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn như: tình hình âm mưu, hoạt động của các thế
lực thù địch, các loại tội phạm; tình hình tai nạn, tệ nạn xã hội; tình hình các loại đối tượng
cần quản lí giáo dục ở từng cụm dân cư.
+ Tình hình quần chúng chấp hành đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước, các quy định của Địa phương; những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân; tâm tư
nguyện vọng của đại bộ phận quần chúng nhân dân.
+ Tình hình các tổ chức Đảng, Chính quyền, Đoàn thể quần chúng về vai trò lãnh
đạo, chỉ đạo việc tổ chức động viên quần chúng tham gia phong trào hành động cách mạng
của Địa phương, sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ những hiện tượng tiêu cực (tham nhũng
cửa quyền, sách nhiễu quần chúng, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân).
+ Tình hình diễn biến của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trên địa bàn
qua từng thời kì; chú ý tới những mặt yếu kém, trì trệ, nguyên nhân và những bài học kinh
nghiệm rút ra.
+ Những sơ hở thiếu sót của ta trong việc thực hiện chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước mà kẻ xấu có thể lợi dụng để kích động quần chúng, chia rẽ nội bộ nhân dân,
chia rẽ nhân dân với Đảng, với chính quyền, với lực lượng vũ trang ở địa phương.
Trên cơ sở hình thành nắm được để tiến hành phân tích, tổng hợp, đánh giá về những
mặt tích cực, những mặt tiêu cực, từ đó xác định đúng tính chất toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc để có biện pháp giải quyết hoặc tham mưu cho Đảng, Nhà nước có chủ trương biện
pháp giải quyết.
- Phương pháp nắm tình hình:
+ Nghiên cứu khai thác các tài liệu sẵn có để nắm tình hình địa bàn như tài liệu về
tình hình an ninh trật tự ở địa phương qua các năm; báo cáo sơ kết, tổng kết về phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc qua các thời kì; tài liệu quản lí về nhân khẩu, quản lí các
nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự, quản lí vũ khí, vật liệu nổ; tài liệu về tổ
chức giữ gìn trật tự công cộng và các tài liệu quản lí hành chính khác mà chính quyền và các
cơ quan chức năng đang quản lí.
+ Đi sát cơ sở tiếp xúc gặp gỡ, thu thập ý kiến của các tổ chức, các tầng lớp dân cư
khác nhau như: Cán bộ công nhân viên đã nghỉ hưu, những người có uy tín trong cộng đồng
dân cư, những người biết việc… để nắm tình hình.
+ Trực tiếp điều tra khảo sát mọi hoạt động của tổ chức Đảng, Chính quyền, đoàn thể
và quần chúng nhân dân địa phương.
+ Ngoài ra còn phải chú ý kết hợp chặt chẽ với việc sử dụng các lực lượng, phương
tiện, biện pháp nghiệp vụ khác để nắm tình hình. Kết hợp nắm tình hình chung toàn địa bàn
với đi sâu nắm tình hình cụ thể từng khu vực và nắm tình hình toàn diện các mặt chính trị,
kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng với đi sâu nắm vững những khía cạnh và nội dung, yêu
cầu của công tác vận động quần chúng đặt ra để rút ra những kết luận xác thực, làm cơ sở
tham mưu cho cấp ủy Đảng đề ra chỉ thị, nghị quyết xây dựng và đẩy mạnh phong trào toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
- Xây dựng kế hoạch phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Căn cứ chỉ thị nghị quyết của cấp ủy Đảng và tình hình thực tế ở Địa phương để chủ
động xây dựng kế hoạch phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
- Nội dung của kế hoạch thể hiện những vấn đề cơ bản như sau:
+ Đánh giá tổng quát tình hình an ninh trật tự, tinh thần cảnh giác cách mạng, ý thức
trách nhiệm của quần chúng nhân dân, thực trạng phong trào toàn dân trong thời gian đã qua
và xác định sự cần thiết phải tiến hành vận động xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc trong thời gian tới.
+ Xác định mục đích, yêu cầu cụ thể phải đạt được của phong trào toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc.
+ Xác định nội dung cụ thể của công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc và hình thức, biện pháp để thực hiện nội dung cụ thể đó.
+ Xác định cách thức, tổ chức thực hiện kế hoạch như: phân công trách nhiệm và quy
định mối quan hệ phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể; giữa các lực lượng tham gia xây
dựng phong trào; phân chia các bước và thời gian thực hiện các bước, tiến hành xây dựng
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh ninh tổ quốc; xác định điều kiện vật chất cần có để bảo
đảm xây dựng phong trào đạt kết quả.
- Phương pháp xây dựng kế hoạch:
+ Trên cơ sở nội dung kế hoạch dược xác định, tiến hành việc dự thảo kế hoạch phát
động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, bảo đảm đủ về nội dung, đúng về thể thức
văn bản nhà nước quy định.
+ Tiến hành gửi bản dự thảo kế hoạch đến tổ chức, cá nhân có liên quan để lấy ý kiến,
nhằm phát huy trí tuệ của tập thể, nâng cao tinh thần làm chủ, tính năng động sáng tạo của
từng người trong xây dựng kế hoạch phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
+ Tiếp thu ý kiến đóng góp của tập thể, tiến hành nghiên cứu, bổ xung hoàn chỉnh bản
kế hoạch trình Chủ tịch UBND Xã, Phường phê duyệt và tổ chức thực hiện.
* Tuyên truyền, giáo dục và hướng dẫn quần chúng nhân dân thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ an ninh - trật tự
- Tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhân dân
Tuyên truyền, giáo dục nhân dân trong công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc giữ vị trí rất quan trọng, làm cho họ nâng cao nhận thức chính trị, tinh thần
cảnh giác cách mạng, vai trò trách nhiệm, quyền lợi, từ đó tích cực tham gia bảo vệ an ninh
trật tự.
- Nội dung tuyên truyền giáo dục:
+ Tuyên truyền để nhân dân nhận thức rõ về âm mưu, phương thức thủ đoạn hoạt
động thâm độc, nham hiểm của các thế lực thù địch và các loại tội phạm, nhận thức rõ bản
chất sâu xa của chúng, thấy được tầm quan trọng, tính chất phức tạp, quyết liệt và lâu dài
của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh Quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
+ Tuyên truyền giáo dục nhân dân hiểu về đường lối chính sách, pháp luật của Đảng
và Nhà nước, các quy định, phong tục tập quán tốt đẹp của địa phương, nghĩa vụ và quyền
lợi của công dân đối với việc bảo vệ an ninh trật tự là thiết thực để bảo vệ cuộc sống ấm no,
hạnh phúc của bản thân, gia đình, xóm làng cũng như của toàn xã hội.
Ngoài những nội dung trên, tùy theo tình hình cụ thể từng nơi, từng lúc mà lựa chọn,
xác định theo những nội dung khác để tuyên truyền giáo dục quần chúng nhân dân cho thích
hợp.
- Phương pháp tuyên truyền giáo dục:
+ Triệt để khai thác sử dụng phương tiện thông tin đại chúng và các loại hình văn
hóa, giáo dục, nghệ thuật, áp phích khẩu hiệu, biểu ngữ… để tuyên truyền giáo dục quần
chúng nhân dân đạt hiệu quả.
+ Thông qua các hình thức sinh hoạt, hội họp của các tổ chức chính trị- xã hội và
thông qua hệ thống giáo dục các cấp ở địa phương để tuyên truyền giáo dục quần chúng.
+ Sử dụng lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên để tuyên truyền giáo dục quần
chúng theo từng chuyên đề có liên quan trong từng thời gian thích hợp.
+ Thường xuyên tiếp xúc, gặp gỡ trực tiếp quần chúng để tọa đàm, trao đổi, giải
thích những vấn đề về bảo vệ an ninh trật tự, thuyết phục tranh thủ những người có uy tín
trong cộng đồng dân cư để họ đồng tình với chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước từ đó mà tích cực tham gia thuyết phục, giáo dục những người lừng chừng chậm
tiến trong gia đình và cộng đồng.
+ Để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục quần chúng trước hết phải tổ
chức tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ trong Đảng, trong Chính quyền,
Cán bộ lãnh đạo các Ngành, các toàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, sau đó tuyên truyền
giáo dục sâu rộng ra trong nhân dân, động viên mọi người cùng có trách nhiệm tuyên truyền
giáo dục lẫn nhau, tạo sự nhất trí cao về chính trị, tư tưởng trong nhân dân.
+ Kết hợp tuyên truyền giáo dục rộng rãi với tuyên truyền giáo dục cá biệt bằng lời lẽ
đơn giản và thực tế sinh động. Kết hợp chặt chẽ giữa việc tuyên truyền giáo dục quần chúng
thực hiện nội dung nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự với việc thực hiện đường lối chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước và với phong trào lao động sản xuất, xây dựng đời sống
hằng ngày của quần chúng nhân dân ở Địa phương.
Tuyên truyền giáo dục quần chúng phải bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương,
tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Phải chú ý giải quyết mâu thuẫn trong đời sống xã hội,
trong nội bộ nhân dân, kết hợp giải quyết hài hòa giữa lợi ích cá nhân với cộng đồng, đảm
bảo thực hiện công bằng xã hội.
Kịp thời biểu dương người tốt việc tốt, khuyến khích các điển hình tiên tiến, đồng
thời gây dư luận xã hội nghiêm khắc lên án những hoạt động tiêu cực, vi phạm pháp luật.
Các nội dung công tác cụ thể, phương pháp tuyên truyền giáo dục quần chúng nhân
dân trên đây có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau và trong từng nội dung của phương
pháp đó cũng có ưu điểm, nhược điểm khác nhau, vì vậy phải tùy tình hình cụ thể ở từng
nơi, từng lúc để vận dụng linh hoạt, có hiệu quả.
- Hướng dẫn nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh - trật tự
Hướng dẫn nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh - trật tự là chỉ cho họ biết
cách phòng ngừa, chủ động phát hiện và giúp đỡ cơ quan chức năng để đấu tranh có hiệu
quả những hoạt động phá hoại của các thế lực phản động, hoạt động của các loại tội phạm;
phòng ngừa các tai nạn, bài trừ các tệ nạn xã hội.
- Nội dung hướng dẫn quần chúng bao gồm:
+ Hướng dẫn quần chúng bảo vệ, thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước; xây dựng và thực hiện các quy định về công tác bảo vệ an ninh trật tự ở địa
phương.
+ Hướng dẫn quần chúng nhân dân phòng ngừa tội phạm, tham gia hòa giải các mâu
thuẫn trong nội bộ nhân dân; quản lý, giáo dục các đối tượng cần phải quản lý giáo dục ở địa
phương.
+ Hướng dẫn quần chúng nhân dân phát hiện tố giác với Công an, Chính quyền địa
phương những người, sự việc, hiện tượng nghi vấn xâm phạm an ninh Quốc gia, trật tự an
toàn xã hội. Tích cực tham gia đấu tranh góp phần làm thất bại âm mưu, hoạt động phá hoại
của các thế lực thù địch, bọn phản động và các loại tội phạm khác.
+ Hướng dẫn quần chúng nhân dân lên án, đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực,
các lề thói hủ tục lạc hậu trong đời sống kinh tế xã hội, phòng ngừa và làm giảm các tệ nạn,
bài trừ các tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường.
+ Hướng dẫn quần chúng nhân dân tham gia xây dựng các tổ chức Đảng, Chính
quyền, đoàn thể cách mạng, tham gia góp ý kiến xây dựng lực lượng công an, dân quân tự vệ
trong sạch vững mạnh.
Phương pháp hướng dẫn quần chúng nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật
tự là đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ việc bảo vệ những lợi ích cá nhân trước
mắt đến lợi ích lâu dài của tập thể; từ việc bảo vệ lợi ích kinh tế đơn thuần đến bảo vệ đường
lối, chính sách của Đảng; từ việc bí mật tố giác và cung cấp tài liệu, tin tức về hoạt động của
bọn tội phạm đến công tác đấu tranh trực diện với chúng một cách có tổ chức.
* Phối hợp chặt chẽ các lực lượng, các ngành, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội ở
Địa phương để tổ chức vận động toàn dân bảo vệ an ninh trật tự.
Để huy động được sức mạnh của toàn dân tham gia nhiệm vụ bảo vê an ninh trật tự
trong quá trình xây dựng phong trào, cần phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các lực
lượng, các Cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội ở địa bàn.
+ Phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, các tổ chức quần chúng làm nhiệm vụ an
ninh trật tự trên địa bàn Phường, các cơ quan Nhà nước, các Doanh nghiệp đóng trên địa bàn
để xây dựng các hình thức tổ chức quần chúng tự quản, Hội đồng an ninh trật tự, Ban bảo vệ
dân phố, lực lượng dân phòng và lực lượng bảo vệ chuyên trách của các Cơ quan doanh
nghiệp.
+ Phối hợp với các lực lượng, cơ quan đơn vị, tổ chức đoàn thể quần chúng để tuyên
truyền, vận động, giáo dục, hướng dẫn giác ngộ cho người dân nắm vững những yêu cầu của
công tác bảo vệ an ninh - trật tự trên địa bàn, nghĩa vụ và quyền lợi của công dân trong việc
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự. Làm cho quân chúng nắm vững đường lối chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chế độ, nội quy, quy tắc về an ninh trật tự, âm
mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch, bọn phản động và bọn tội
phạm khác, tình hình các tệ nạn xảy ra trên địa bàn. Trên cơ sở đó nâng cao ý thức tự
nguyện, tự giác của người quần chúng trong việc thực hiện các nhiệm vụ đặt ra.
+ Phối hợp các cơ quan đơn vị, các tổ chức Đoàn thể chính trị xã hội trong việc chỉ
đạo hướng dẫn thực hiện các mục tiêu yêu cầu đề ra trong các tổ chức vận động quần chúng
bảo vệ an ninh trật tự.
* Xây dựng các tổ chức, lực lượng quần chúng nòng cốt, làm hạt nhân để xây dựng
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Xây dựng cá nhân và các tổ chức quần chúng nòng cốt làm hạt nhân để thúc đẩy
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở địa bàn cơ sở là một nội dung quan trọng, có
ý nghĩa quyết định đến tổ chức vận động nhân dân. Lực lượng quần chúng nòng cốt vừa là
hạt nhân lãnh đạo phong trào, vừa là cầu nối giữa lực lượng Công an với nhân dân vừa là
người đi đầu, trực tiếp hướng dẫn nhân dân thực hiện các quy định về an ninh trật tự. Vì vậy,
việc xây dựng lực lượng quần chúng nòng cốt ở cơ sở để duy trì và phát triển, đẩy mạnh
phong trào, đây là một nội dung rất quan trọng không thể thiếu.
- Các tổ chức quần chúng nòng cốt làm nhiệm vụ an ninh trật tự ở địa bàn cơ sở gồm:
Hiện nay ở các cơ sở Xã, Phường trong toàn quốc thường có 3 loại hình tổ chức quần
chúng làm công tác an ninh trật tự là:
+ Loại tổ chức quần chúng có chức năng tư vấn: tương ứng với loại hình này là Hội
đồng an ninh trật tự ở cơ sở (xã, phường, thị trấn ) thành phần gồm Chủ tịch UBND, Chủ
tịch UBMTTQ, Trưởng Công an, Bí thư Đoàn thanh niên, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh, Chủ
tịch Hội phụ nữ… đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, sự quản lý điều hành của Chủ tịch
UBND xã, phường, thị trấn. Ở cơ quan, doanh nghiệp thành phần gồm, Bí thư Đảng ủy, Thủ
trưởng cơ quan, Trường phòng (tổ trường) bảo vệ, Công đoàn, Đoàn thanh niên, Phụ nữ.
Hội đồng an ninh trật tự có nhiệm vụ giúp (tư vấn) cho Cấp ủy, Chính quyền, Thủ
trưởng các Cơ quan doanh nghiệp… đề ra chủ trương, quyết định biện pháp và chỉ đạo công
tác an ninh trật tự chung trong xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp…
+ Loại có chức năng quản lý điều hành: Tương ứng với loại hình này là Ban an ninh
trật tự và Ban bảo vệ dân phố (ở nông thôn: ban an ninh trật tự được thành lập ở thôn, ấp,
bản, làng; ở cơ quan, doanh nghiệp lớn ban an ninh trật tự được thành lập ở phân xưởng, xí
nghiệp, công ty…(nếu cơ quan doanh nghiệp nhỏ và thôn nhỏ có nơi không cần thiết phải
thành lập Ban an ninh trật tự); ở thành phố, thị xã Ban bảo vệ dân phố được thành lập theo
các khu phố, cụm dân cư).
Ban an ninh trật tự và Ban bảo vệ dân phố là các lực lượng nòng cốt trong việc thực
hiện phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc và thực hiện một số biện pháp phòng ngừa
đấu tranh chống tội phạm, tệ nạn xã hội và các hành vi vi phạm pháp luật khác theo quy định
của pháp luật, có trách nhiệm quản lý, điều hành và phối hợp với công an ninh xã, phường,
thị trấn, bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp hướng dẫn, hỗ trợ các Tổ an ninh nhân dân, An ninh
công nhân, Đội dân phòng tham gia bảo vệ an ninh trật tự.
+ Loại có chức năng thực hành: tương ứng với loại hình này là các Tổ an ninh nhân
dân, an ninh công nhân, Đội dân phòng, Đội thanh niên xung kích an ninh có nhiệm vụ trực
tiếp thực thi các nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự ở các cơ sở.
Tổ an ninh nhân dân được cơ cấu ở các Thôn, Xóm, Tổ dân phố. Như vậy, một Thôn,
Xóm, Khu phố có thể có nhiều Tổ an ninh nhân dân, căn cứ đặc điểm thực tế, số lượng dân
cư, mối quan hệ ràng buộc của quần chúng ở khu tập thể, khu dân cư để hình thành Tổ an
ninh nhân dân cho phù hợp (hiện nay hầu hết các địa phương đều đang duy trì hoạt động của
Tổ an ninh nhân dân, tuy nhiên cũng có địa phương gọi là Tổ tự quản, Tổ liên gia an toàn,
nhiều nơi lại vừa có Tổ an ninh nhân dân, vừa có Tổ tự quản… nên thống nhất gọi là Tổ an
ninh nhân dân là đúng nghĩa nhất, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ là tổ chức của nhân dân
làm công tác an ninh trật tự, phù hợp với quy định trước đây của Bộ trưởng Bộ công an về
chức năng, nhiệm vụ của Tổ an ninh nhân dân).
Tổ an ninh Công nhân được cơ cấu ở các Tổ, Đội sản xuất, Phân xưởng, Phòng, ban
trong cơ quan, Doanh nghiệp, riêng ở các Phân xưởng, Phòng, ban lớn có thể có nhiều Tổ an
ninh công nhân tùy thuộc phạm vi, quy mô, tính chất công việc chuyên môn và yêu cầu thực
tế nhiệm vụ bảo vệ Cơ quan, bảo vệ tài sản, bảo vệ an ninh trật tự.
Đội dân phòng là tổ chức chuyên môn của quần chúng được lập ra có nhiệm vụ tuần
tra, canh gác bảo vệ an ninh trật tự, phòng cháy chữa cháy hoặc huy động cho các hoạt động
đột xuất về an ninh trật tự.
Các Đội thanh niên xung kích an ninh, Đội thiếu niên sao đỏ là tổ chức của Đoàn thanh
niên, Đội thiếu niên lập ra để thu hút thanh, thiếu niên vào hoạt động bảo vệ an ninh trật tự, như
vậy nó cũng là tổ chức của quần chúng trực tiếp tham gia bảo vệ an ninh trật tự cần được duy trì
hoạt động. Các Đội dân phòng, thanh niên xung kích an ninh, hình thành theo thôn, xóm, khu
phố, cụm dân cư hoặc cơ cấu theo tổ chức Đoàn thanh niên (chi đoàn, phân đoàn) tùy theo tính
chất nhiệm vụ công tác an ninh trật tự ở cơ sở.
- Nội dung, yêu cầu xây dựng các tổ chức quần chúng nòng cốt làm nhiệm vụ bảo vệ
an ninh trật tự:
+ Cần phải lựa chọn người có đủ tiêu chuẩn và uy tín với quần chúng, được quần
chúng tin yêu, có khả năng và điều kiện đảm nhiệm các mặt công tác về an ninh trật tự ở cơ
sở.
+ Lựa chọn người có khả năng tổ chức, điều hành các hoạt động có liên quan đến an
ninh trật tự, bản thân có ý thực tự giác, tự nguyện và trách nhiệm cao trong việc thực hiện
nhiệm vụ, hoàn thành các thủ tục báo cáo cấp có thẩm quyền ra quyết định giao nhiệm vụ
cho họ.
+ Bồi dưỡng, hướng dẫn để đội ngũ Cán bộ cơ sở nắm vững chức năng nhiệm vụ,
quyền hạn lề lối làm việc, mối quan hệ và phân công đảm nhiệm công việc cụ thể để cán bộ
cơ sở có kế hoạch thực hiện.
+ Thường xuyên có kế hoạch bồi dưỡng kiến thức về pháp luật, nghiệp vụ, tình hình an
ninh trật tự trên địa bàn trong từng thời gian và nhiệm vụ đặt ra trong việc giữ gìn trật tự.
Hướng dẫn để họ biết cách tổ chức hoạt động quần chúng của địa bàn dân cư.
+ Nắm vững những diễn biến hoạt động của đội ngũ cán bộ cơ sở có kế hoạch thăm
hỏi động viên kịp thời đối với cán bộ tốt có năng lực, đồng thời uốn nắn các lệch lạc của cán
bộ cơ sở; tạo điều kiện về vật chất và tinh thần, việc làm, đời sống, quan hệ sinh hoạt trong
phạm vi điều kiện cho phép, để đội ngũ cán bộ nòng cốt ở cơ sở yên tâm phấn khởi công tác,
tích cực thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự tại cơ sở.
- Phương pháp xây dựng các tổ chức quần chúng nòng cốt được tiến hành như sau:
+ Xác định hình thức tổ chức quần chúng cần xây dựng. Căn cứ tình hình đặc điểm
của địa bàn, yêu cầu của công tác phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm ở từng nơi, từng
lúc; căn cứ điều kiện khả năng nhận thức cũng như khả năng đảm nhiệm những phần việc cụ
thể của quần chúng và nhu cầu nguyện vọng, lợi ích chính đáng của quần chúng để định ra
hình thức tổ chức quần chúng cần xây dựng một cách khoa học và hợp lý.
+ Xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức quần chúng được xây dựng.
Mỗi loại hình tổ chức quần chúng khác nhau có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác
nhau. Sau khi đã xác định được hình thức tổ chức quần chúng cần xây dựng, phải xác định
một cách cụ thể rõ ràng chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức quần chúng, có như vậy
mới phát huy được vai trò của tổ chức, tạo điều kiện để tổ chức hoạt động nhịp nhàng, có
hiệu quả, không bị mất phương hướng hoặc trùng dẫm, chồng chéo, trì trệ.
Chỉ khi nào và ở nơi nào có yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự đòi hỏi cần phải
xây dựng hình thức tổ chức quần chúng nào đó thì mới xây dựng. Nếu không có nhu cầu,
nhiệm vụ chưa xuất hiện thì chưa cần phải vội vàng thành lập tổ chức quần chúng, bởi vì
thành lập tổ chức mà chưa có chức năng nhiệm vụ thì tổ chức đó sẽ không tồn tại được và
dẫn đến tan rã.
Căn cứ vào pháp luật của Nhà nước, chế độ nội quy, quy định của Đơn vị, Địa
phương và yêu cầu của tình hình nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự đặt ra để xác định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của loại hình tổ chức quần chúng bảo vệ an ninh trật tự.
+ Đề xuất cấp ủy, chính quyền ra quyết định thành lập tổ chức quần chúng bảo vệ an
ninh trật tự.
Sau khi xác định rõ sự cần thiết phải thành lập các tổ chức quần chúng, loại hình tổ
chức quần chúng và chức năng nhiệm vụ quyền hạn của loại hình tổ chức quần chúng bảo vệ
an ninh trật tự đó, với sự hỗ trợ của lãnh đạo chủ chốt ở địa phương. Công an cấp cơ sở báo
cáo, đề xuất với Cấp ủy, Chính quyền địa phương và làm thủ tục trình Chủ tịch, Phó chủ tịch
ủy ban nhân dân cấp Xã, Phường, Thị trấn ra quyết định thành lập tổ chức.
Đây là thủ tục cần thiết để đảm bảo tính hợp pháp của loại hình tổ chức quần chúng
theo đúng quy định của pháp luật, đồng thời nâng cao vai trò, vị trí của tổ chức quần chúng,
nâng cao trách nhiệm nghĩa vụ của những người tham gia tổ chức cũng như những người
khác có liên quan đến hình thức tổ chức quần chúng.
Tuyển chọn những thành viên tham gia tổ chức quần chúng và bồi dưỡng, tập huấn
cho các thành viên trong tổ chức quần chúng.
Căn cứ tình hình nắm được về quần chúng, căn cứ vào tiêu chuẩn quy định, tiến hành
tuyển chọn, thu nạp các thành viên tham gia tổ chức quần chúng bảo vệ an ninh trật tự đảm
bảo đủ vê số lượng, đáp ứng về chất lượng. Yêu cầu các thành viên tham gia các tổ chức
quần chúng phải là những người có phẩm chất đạo đức tốt, nhiệt tình, hăng hái, tự nguyện tự
giác và được quần chúng tín nhiệm.
Tiến hành giáo dục, bồi dưỡng, tập huấn cho các thành viên nắm vững chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ chính sách, lề lối phương pháp hoạt động của tổ chức; phương
pháp xử lý các tình huống về an ninh trật tự xảy ra; việc sử dụng các phương tiện cần thiết
để bảo vệ an ninh trật tự và các kiến thức cần thiết khác có liên quan đến bảo vệ an ninh trật
tự để tổ chức quần chúng triển khai hoạt động tự quản, tự phòng, tự bảo vệ an ninh trật tự có
hiệu quả.
Việc xây dựng các hình thức tổ chức quần chúng làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự
là đảm bảo quyền làm chủ quần chúng, đồng thời tạo lập lực lượng nòng cốt cho phong trào,
do đó cần có kế hoạch xây dựng các hình thức tổ chức quần chúng đa dạng nhưng phải tránh
tình trạng hình thức máy móc, chạy theo số lượng, thành lập tổ thức quần chúng không có
tác dụng thiết thực. Trong quá trình xây dựng các tổ chức quần chúng phải xuất phát từ lợi
ích của nhân dân từ yêu cầu công tác phong ngừa đấu tranh chống tội phạm ở từng địa
phương đơn vị. Đồng thời phải phát huy dân chủ, tổ chức thảo luận công khai lấy ý kiến của
nhân dân về sự cần thiết phải xây dựng các hình thức tổ chức quần chúng; về loại hình tổ
chức quần chúng, về các hình thức, thành viên tham gia cũng như về chính sách, khuyến
khích vật chất, tinh thần đối với các thành viên tham gia tổ chức quần chúng.
Để động viên tích cực các thành viên trong tổ chức quần chúng bảo vệ an ninh trật tự,
căn cứ điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Địa phương, Cấp ủy, Chính quyền có chế độ chính
sách khuyến khích vât chất, tinh thần hợp lý, kịp thời, theo chế độ chung của Nhà nước, của
địa phương và nguồn kinh phí đóng góp của nhân dân.
* Xây dựng điển hình và nhân điển hình tiên tiến làm cơ sở để tổ chức vận động quần chúng
bảo vệ an ninh Tổ quốc
Điển hình tiên tiến là những cá nhân, đơn vị, cơ sở đạt được thành tích xuất sắc nổi
trội, có đặc thù chung phổ biến giúp các cá nhân, đơn vị khác học tập, noi theo. Nhân điển
hình tiên tiến là việc tổ chức học tập, phát triển những nhân tố tích cực của phong trào toàn
dân thành phổ biến rộng khắp. Chất của nhân điển hình tiên tiến là việc phổ biến kinh
nghiệm điển hình, động viên thúc đẩy phong trào lên một bước mới có chất lượng cao hơn,
đồng đều hơn. Để nhân rộng điển hình tiên tiến cần làm tốt các công việc cụ thể sau đây:
- Lựa chọn điển hình tiên tiến
+ Căn cứ đặc điểm tình hình địa phương, đơn vị; căn cứ vào kết quả phong trào toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc và nhiệm vụ duy trì và phát triển phong trào ở địa phương để
phát hiện, lựa chọn những cá nhân, tập thể tiêu biểu, có thành tích nổi bật, có kinh nghiệm
tốt, làm hạt nhân điển hình tiên tiến thúc đẩy phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc.
+ Việc phát hiện, lựa chọn điển hình tiên tiến được tiến hành thông qua công tác kiểm
tra hoạt động của phong trào, thông qua công tác tổ chức cho các cơ sở, đơn vị, quần chúng
nhân dân bình chọn hoặc cơ quan chức năng ngay từ đầu có kế hoạch chủ động lựa chọn,
cho đăng kí, sau đó tập trung bồi dưỡng một số cá nhân, tập thể đó trở thành điển hình tiên
tiến của phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc.
- Tổ chức rút kinh nghiệm điển hình tiên tiến: lực lượng công an chủ trì phối hợp với
bộ phận chức năng tổ chức hướng dẫn cá nhân, đơn vị tiên tiến liên hệ kiểm điểm, đánh giá
kết quả, rút ra những bài học kinh nghiệm và xây dựng hoàn thiện báo cáo điển hình tiên tiến
trong phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc.
- Phổ biến kinh nghiệm điển hình tiên tiến:
Phương pháp phổ biến kinh nghiệm điển hình tiên tiến, đẩy mạnh phong trào thi đua
bảo vệ an ninh Tổ quốc, được tiến hành bằng cách tổ chức cho các cá nhân đơn vị, địa
phương có phong trào ở mức trung bình hoặc yếu kém trực tiếp tiếp xúc, gặp gỡ, tham quan,
trao đổi học tập kinh nghiệm của các điển hình tiên tiến, để áp dụng các kinh nghiệm đó vào
phong trào ở địa phương, đơn vị mình.
Mở hội nghị nhân điển hình tiên tiến: tổ chức kí kết giao ước thi đua về xây dựng
điển hình, tạo thành phong trào thi đua học tập, đuổi kịp và vượt các điển hình tiên tiến.
Kết hợp sử dụng, phát huy ưu thế của các phương tiện thông tin đại chúng, các loại
hình văn hóa nghệ thuật như: Đài phát thanh, truyền hình, tranh ảnh, sách báo… để phổ biến
kinh nghiệm của điển hình tiên tiến.
* Lồng ghép nội dung của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với các phong
trào khác của nhà trường và của địa phương.
Để thúc đẩy được phong trào và duy trì phong trào được thưởng xuyên, tránh được sự
suy thoái của phong trào sau một thời gian hoạt động, thì việc kết hợp và lồng ghép nội dung
của phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc tại địa phương với các phong trào khác là một hình
thức tốt để duy trì và thúc đẩy phong trào.
- Nội dung của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được kết hợp với các
phong trào khác của nhà trường và của địa phương như:
+ Lồng ghép trong phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc người có công với nước,
nội dung đảm bảo giữ gìn an ninh trật tự là nội dung bảo vệ tài sản công dân phòng ngừa tội
phạm xâm phạm sở hữu, xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người được chăm sóc, tạo
thành một phong trào chung của địa phương.
+ Kết hợp đưa nội dung giáo dục những người cần phải giáo dục tại xã, phường, thị
trấn là một nội dung của phong trào xây dựng làng văn hóa, khu phố văn hóa, từ đó tạo
thành một nếp sống tốt, lành mạnh phát huy tình làng nghĩa xóm, đoàn kết tương thân, tương
ái, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư, xây dựng tổ dân phố, cụm dân cư, làng,
xã an toàn.
+ Trong phong trào sinh viên thanh lịch của nhà trường cần lồng ghép với phong trào
chấp hành Luật Giao thông, lấy đây làm một nội dung tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá một
sinh viên thanh lịch…
+ Để có phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc sâu rộng thu hút được nhiều tầng
lớp tham gia trong đó có tầng lớp sinh viên thì nội dung của phong trào toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc phải được lồng ghép trong các phong trào khác của Đoàn thanh niên và các
phong trào của sinh viên trong Nhà trường như: “Phòng ngừa tội phạm và tệ nạn trong
thanh, thiếu niên”; phong trào “Phòng chống ma túy trong học đường”; phong trào “Ngày hè
xanh”; phong trào đảm bảo vệ sinh môi trường.
10.3. Trách nhiệm của sinh viên trong việc tham gia xây dựng phong trào toàn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc
- Mỗi sinh viên phải có nhận thức đúng đắn, đầy đủ trách nhiệm của công dân đối với
công cuộc bảo vệ an ninh - trật tự của Tổ quốc. Đây là một nhiệm vụ quan trọng để giữ gìn
cuộc sống bình yên cho nhân dân và làm cơ sở nền tảng cho sự phát triển đất nước.
- Mỗi sinh viên phải tự giác chấp hành những quy định về bảo đảm an ninh trật tự
của nhà trường và của địa phương nơi cư trú.
- Tích cực tham gia vào các phong trào bảo vệ an ninh trật tự của Địa phương.
- Luôn luôn nêu cao ý thức cảnh giác, tích cực tham gia hoạt động phòng chống tội
phạm ở địa phương, phát hiện những hiện tượng tiêu cực, những hành vi vi phạm pháp luật
xảy ra trong nhà trường và nơi cư trú kịp thời, cung cấp cho cơ quan Công an để có biện
pháp ngăn chặn và giải quyết.

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN

1. Vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh Tổ quốc?
2. Phương pháp tiến hành xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở địa
bàn cơ sở.
3. Trách nhiệm của sinh viên trong việc tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc ở địa phương, nơi cư trú?

Chương 9
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ, LỰC LƯỢNG DỰ BỊ
ĐỘNG VIÊN VÀ ĐỘNG VIÊN QUỐC PHÒNG

9.1. Xây dư ̣ng lưc̣ lươṇ g dân quân tư ̣ vê ̣


9.1.1. Khái niệm,vị trí vai trò và nhiệm vụ của lực lượng dân quân tự vệ
9.1.1.1. Khái niệm
DQTV là LLVT quần chúng không thoát li sản xuất, công tác, là một bộ phận của lực
lượng vũ trang nhân dân của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đao
của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý, điều hành của Chính phủ và của ủy ban nhân dân
các cấp, sự chỉ đạo, chỉ huy thống nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và sự chỉ đạo, chỉ huy
trực tiếp của cơ quan quân sự địa phương.
Lực lượng này được tổ chức ở xã, phường, thị trấn gọi là dân quân; được tổ chức ở cơ quan
nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội (gọi
chung là cơ quan, tổ chức) gọi là tự vệ.
9.1.1.2. Vị trí,vai trò của dân quân tự vệ
DQTV là một lực lượng chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Là
lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân và phong trào toàn dân đánh
giặc trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và trong thời bình tại địa phương. Trong tình hình
hiện nay, chúng ta phải đối phó với chiến lược “DBHB”, BLLĐ và sẵn sàng chiến đấu
chống mọi tình huống chiến tranh xâm lược của các thế lực thù địch thì vai trò của dân quân
tự vệ càng được coi trọng.
Lực lượng DQTV là một trong những công cụ chủ yếu để bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của đất nước, trực tiếp ở từng địa phương bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ
tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước ở cơ sở.
Đánh giá vai trò DQTV, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “DQTV và du kích là lực lượng của
toàn dân tộc, là lực lượng vô địch, bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận kẻ thù nào dù hung
bạo đến đâu hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó thì địch nào cũng phải tan rã” 1.
Trong thời bình, DQTV là lực lượng đông đảo tham gia xây dựng kinh tế, phát triển
địa phương và cả nước; là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, thế trận quốc phòng toàn dân, phối hợp với các lực lượng khác đấu
tranh làm thất bại chiến lược “DBHB”, BLLĐ, phòng chống các tệ nạn xã hội, phòng chống
thiên tai, địch họa bảo đảm an toàn cho nhân dân.
Trong thời chiến, DQTV làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, chiến đấu, tiêu hao, tiêu
diệt lực lượng, phương tiện của địch, căng kéo, kìm chân, buộc địch phải sa lầy tại địa
phương; vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật, các thủ đoạn chiến đấu, tạo thế, tạo
lực cho bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương chiến đấu, tham gia phục vụ chiến đấu, giữ vững
thế trận chiến tranh nhân dân.
9.1.1.3. Nhiệm vụ của lực lượng dân quân tự vệ
1. Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và phục vụ chiến đấu bảo vệ địa phương, cơ sở, cơ
quan, tổ chức.
2. Phối hợp với các đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và lực lượng khác
trên địa bàn bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, hải đảo, vùng biển, vùng trời Việt
Nam; tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, khu vực phòng thủ, bảo vệ an ninh quốc
gia, bảo đảm TTATXH đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật theo quy định
của pháp luật.
3. Thực hiện nhiệm vụ huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị, pháp luật, hội thi, hội
thao, diễn tập.
4. Tham gia thực hiện các biện pháp về chiến tranh thông tin, chiến tranh không gian
mạng theo quy định của pháp luật, quyết định của cấp có thẩm quyền.
5. Phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh, cháy, nổ; tìm
kiếm, cứu nạn, cứu hộ; bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường và nhiệm vụ phòng thủ dân sự khác
theo quy định của pháp luật.

1
Bộ Quốc phòng - Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019, Tr, 32.
6. Tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về QP&AN; tham gia xây dựng địa phương, cơ sở vững mạnh
toàn diện, thực hiện chính sách xã hội.
7. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
9.1.2. Nội dung xây dựng dân quân tự vệ
9.1.2.1. Phương châm xây dựng: xây dựng DQTV theo hướng “vững mạnh, rộng khắp, coi
trọng chất lượng là chính”
- Vững mạnh:
Được thể hiện là chất lượng phải toàn diện cả về chính trị tư tưởng, tổ chức, trình độ
chính trị, quân sự và chuyên môn nghiệp vụ, biên chế trang bị hợp lý, thống nhất, có kỷ luật
nghiêm, cơ động nhanh sẵn sàng chiến đấu tốt. Mỗi tổ chức DQTV phải luôn vững vàng.
- Rộng khắp:
Lực lượng DQTV được xây dựng ở hầu hết các làng, bản, xóm, ấp xã, phường, các tổ
chức kinh tế, chính trị xã hội, ở đâu có tổ chức Đảng, chính quyền và có dân, đều phải tổ
chức DQTV, kể cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trường hợp các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh không đủ điều kiện (không có tổ chức Đảng) tổ chức DQTV nếu có yêu cầu thì
giám đốc doanh nghiệp đề nghị và được Bộ chỉ huy quân sự tỉnh (thành phố trực thuộc trung
ương) đồng ý thì công dân được tham gia DQTV ở địa phương (nơi cư trú). Giám đốc doanh
nghiệp phải bảo đảm thời gian và tạo điều kiện cho công nhân tham gia DQTV hoạt động.
- Coi trọng chất lượng là chính:
Chỉ tuyển chọn đưa vào đội ngũ những công dân có lý lịch rõ ràng, có hộ khẩu
thường trú tại địa phương, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, chấp hành đúng các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các quy định của địa phương, có sức
khỏe phù hợp.
9.1.2.2. Tổ chức, biên chế, trang bị của lực lượng DQTV
Tổ chức, biên chế, vũ khí, trang bị của lực lượng DQTV phải phù hợp với tính chất,
yêu cầu nhiệm vụ QP&AN thời bình, thời chiến, đặc điểm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
và điều kiện cụ thể của từng bộ, ngành, địa phương và cơ sở.
- Về tổ chức:
DQTV được tổ chức thành 2 lực lượng: lực lượng nòng cốt (lực lượng chiến đấu) và
lực lượng rộng rãi (lực lượng phục vụ chiến đấu).
Lực lượng DQTV nòng cốt:
Bao gồm DQTV bộ binh, binh chủng và DQTV (đối với vùng biển), được tổ chức
thành lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ. Đối với xã (phường) thuộc địa bàn trọng điểm
về QP&AN, biên giới ven biển, hải đảo có yêu cầu chiến đấu cao thì được xem xét tổ chức
lực lượng dân quân thường trực.
Nhiệm vụ của lực lượng cơ động là chiến đấu, tiêu hao, tiêu diệt, chi viện cho lực
lượng chiến đấu tại chỗ, khi cần thiết có thể cơ động chiến đấu trên địa bàn địa phương khác.
Nhiệm vụ của lực lượng chiến đấu tại chỗ là chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu trên địa bàn địa
phương theo kế hoạch, phương án, khi cần có thể tăng cường cho lực lượng chiến đấu cơ
động.
Lực lượng DQTV rộng rãi:
Gồm cán bộ, chiến sĩ dân quân tự vệ nòng cốt đã hoàn thành nghĩa vụ DQTV và công
dân trong độ tuổi quy định (nam từ đủ 18 đến hết 45, nữ từ đủ 18 đến hết 40 tuổi).
Nhiệm vụ phục vụ chiến đấu, vận chuyển tiếp tế, khắc phục hậu quả chiến tranh, bảo
vệ và sơ tán nhân dân.
- Về quy mô:
Tổ chức từ cấp tổ, tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn (cấp đại đội ở xã, phường lớn;
cấp tiểu đoàn ở các doanh nghiệp nhà nước do quân khu trở lên quy định).
- Biên chế:
Biên chế DQTV được thống nhất trong toàn quốc. Số lượng cán bộ, chiến sĩ từng đơn
vị do Bộ Quốc phòng quy định.
- Về cơ cấu và chức năng của cán bộ quân sự cơ sở, phân đội:
Cơ cấu biên chế ban chỉ huy quân sự được tổ chức ở xã, phường, thị trấn, các doanh
nghiệp của địa phương và các ngành của nhà nước gồm 4 người: Chỉ huy trưởng, Chính trị
viên, Phó chỉ huy trưởng và Phó chính tri ̣ viên. Ban chỉ huy quân sự cơ sở chịu trách nhiệm
làm tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền cấp mình tổ chức triển khai công tác hoạt động
DQTV.Cấp xã, phường, thị trấn chỉ huy trưởng là thành viên ủy ban nhân dân, là đảng viên,
thường nằm trong cơ cấu cấp ủy địa phương. Các cơ sở khác, chỉ huy trưởng có thể kiêm
nhiệm hoặc không kiêm nhiệm. Bí thư đảng ủy, Bí thư chi bộ các cơ sở kiêm chính trị viên
chịu trách nhiệm về công tác đảng, công tác chính trị trong dân quân tự vệ. Phó chỉ huy
trưởng ở xã, phường là cán bộ chuyên trách, các phó chỉ huy cơ sở còn lại là chuyên trách
hoặc kiêm nhiệm. Xã đội trưởng, chính trị viên xã đội, xã đội phó và tương đương do Chủ
tịch ủy ban nhân dân cấp Huyện bổ nhiệm theo đề nghị của ủy ban nhân dân cấp xã sau khi
đã thống nhất với huyện đội trưởng. Thôn đội trưởng, trung đội trưởng, tiểu đội trưởng và
khẩu đội trưởng dân quân tự vệ do huyện đội trưởng bổ nhiệm theo đề nghị của xã đội
trưởng. Cơ cấu cán bộ tiểu đoàn, đại đội, gồm chỉ huy trưởng, chính trị viên, phó chỉ huy
trưởng. Cấp trung đội, tiểu đội và tương đương có một cấp trưởng, một cấp phó.
- Trang bị vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ, trang thiết bị, phương tiện kỹ
thuật cho Dân quân tự vệ:
Dân quân tự vệ được trang bị vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ, trang
thiết bị, phương tiện kỹ thuật theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vũ khí, vật
liệu nổ, công cụ hỗ trợ và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định việc trang bị, đăng ký, quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu
nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ, trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật của Dân quân tự vệ.
9.1.2.3. Huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị, pháp luật, hội thi, hội thao, diễn tập cho
DQTV
- Trong thời bình, thời gian huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị, pháp luật hằng
năm được quy định như sau:
Dân quân tự vệ năm thứ nhất là 15 ngày, trừ dân quân thường trực;
DQTV từ năm thứ hai trở đi là 12 ngày đối với Dân quân tự vệ cơ động, DQTV biển,
DQTV phòng không, pháo binh, trinh sát, thông tin, công binh, phòng hóa, y tế; 07 ngày đối
với Dân quân tự vệ tại chỗ;
Dân quân thường trực là 60 ngày.
- Trong tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, tình trạng chiến tranh, DQTV được huấn
luyện quân sự, giáo dục chính trị, pháp luật phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh và tình hình của địa phương, cơ quan, tổ chức.
- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chương trình, nội dung, danh mục vật chất cho
huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị, pháp luật, hội thi, hội thao, diễn tập cho DQTV.
9.1.3. Một số biện pháp xây dựng dân quân tự vệ trong giai đoạn hiện nay
- Thường xuyên giáo dục, quán triệt sâu rộng các quan điểm, chủ trương chính sách
của Đảng, Nhà nước về công tác DQTV.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp trên địa bàn để xây dựng lực lượng DQTV.
- Xây dựng lực lượng DQTV gắn với xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện.
- Thực hiên nghiêm túc, đầy đủ các chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước đối với
lực lượng DQTV.
Tóm lại: DQTV là lực lượng chiến đấu tại chỗ ở địa phương, bảo vệ Đảng, bảo vệ
chính quyền, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân ở cơ sở, là
thành phần không thể thiếu của LLVTND Việt Nam. Việc xây dựng lực lượng DQTV là
nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị trong sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc.
9.2. Xây dư ̣ng lưc̣ lươṇ g dư ̣ bi đô
̣ ̣ng viên
9.2.1. Khái niệm, vị trí, vai trò, những quan điểm nguyên tắc xây dựng lực lượng dự bị
động viên
9.2.1.1. Khái niệm
LLDBĐV bao gồm quân nhân dự bị và phương tiện kỹ thuật dự bị được đăng ký, quản
lý và sắp xếp vào đơn vị dự bị động viên để sẵn sàng bổ sung cho lực lượng thường trực của
Quân đội nhân dân.
Quân nhân dự bị bao gồm sĩ quan dự bị, quân nhân chuyên nghiệp dự bị và hạ sĩ
quan, binh sĩ dự bị được đăng ký theo quy định của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt
Nam, Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng, Luật Nghĩa vụ
quân sự.
Phương tiện kỹ thuật dự bị là tài sản của cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam, bao
gồm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện đường thủy, phương tiện đường
không dân dụng, phương tiện xây dựng cầu đường, phương tiện xây dựng công trình,
phương tiện xếp dỡ hàng hóa, phương tiện thông tin liên lạc, thiết bị vật tư y tế và một số
loại phương tiện, thiết bị khác được đăng ký theo yêu cầu biên chế của Quân đội nhân dân.
Quân nhân dự bị, phương tiện kĩ thuật trong kế hoạch biên chế cho lực lượng thường
trực của quân đội, thông qua các đơn vị dự bị động viên. Trong thời bình, lực lượng dự bị
động viên được đăng kí, quản lý, huấn luyện theo chương trình quy định và sẵn sàng hoàn
thành mọi nhiệm vụ được giao.
9.2.1.2. Vị trí, vai trò, công tác xây dựng LLDBĐV
- Công tác xây dựng và huy động LLDBĐV giữ vị trí rất quan trọng trong chiến lược
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; là một trong những nhiệm vụ cơ bản nhất góp phần xây
dựng tiềm lực xây dựng quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận chiến
tranh nhân dân, bảo đảm nguồn nhân lực bổ sung, mở rộng lực lượng quân đội khi chuyển
đất nước sang trạng thái chiến tranh.
- LLDBĐV phối hợp chặt chẽ với dân quân dự tự vệ, công an … làm tăng thêm sức
mạnh chiến đấu trên các địa bàn trên khu vực phòng thủ, bảo đảm sự vững chắc của thế trận
quốc phòng ở địa phương, cơ sở.
- Công tác xây dựng LLDBĐV là biểu hiện quán triệt quan điểm về sự kết hợp chặt
chẽ 2 nhiệm vụ chiến lược trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự kết hợp chặt chẽ giữa
nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế với nhiệm vụ xây dựng và củng cố quốc phòng, quốc
phòng với kinh tế.
- LLDBĐV được xây dựng để bổ sung cho lực lượng thường trực của quân đội. Lực
lượng dự bị động viên được xây dựng tốt sẽ làm nòng cốt cho cả xây dựng, phát triển kinh tế
xã hội và cả trong thực hiện chiến lược quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
9.2.1.3. Những quan điểm nguyên tắc xây dựng lực lượng dự bị động viên
- Xây dựng LLDBĐV bảo đảm số lượng đủ, chất lượng cao, toàn diện nhưng có
trọng tâm, trọng điểm
Điều 3. Nguyên tắc xây dựng, huy động LLDBĐV
1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; đặt dưới sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của
Chủ tịch nước, sự quản lý tập trung, thống nhất của Chính phủ và sự chỉ huy, chỉ đạo của Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng.
2. Xây dựng LLDBĐV vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có trình độ chiến
đấu cao và được quản lý chặt chẽ.
3. Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân.
4. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường Quốc phòng và an
ninh; phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
5. Xây dựng, huy động đơn vị dự bị động viên bảo đảm đủ quân số, phương tiện kỹ
thuật dự bị; đúng tiêu chuẩn, thời gian; bảo đảm bí mật, an toàn theo quy định của pháp luật
và kế hoạch được phê duyệt.
6. Ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ trong xây dựng, huy động lực
lượng dự bị động viên.
+ Việc tổ chức xây dựng LLDBĐV ở nước ta là một vấn đề hệ trọng, quan hệ đến vận
mệnh của quốc gia, đặc biệt khi phải đối phó với chiến tranh quy mô lớn. Do đó, ngay từ
thời bình, phải xây dựng LLDBĐV hùng hậu theo kế hoạch đã xác định mới có khả năng
giành thắng lợi khi có lệnh động viên.
+ Xây dựng LLDBĐV phải có chất lượng cao. Chất lượng cao được thể hiện trên tất
cả các lĩnh vực: Chính trị, tinh thần, tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy, trình độ kĩ thuật, chiến thuật,
chuyên môn nghiệp vụ, trang bị, khả năng bảo đảm hậu cần kĩ thuật. Vì vậy, để có chất lượng
cao, yêu cầu đầu tiên là phải xây dựng LLDBĐV vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có
bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực hoàn thành thắng lợi, trong đó tập trung vào khâu
quản lý, giáo dục, tạo nguồn.
+ Cùng với xây dựng LLDBĐV vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải
nâng cao trình độ toàn diện cho cán bộ, chiến sỹ. Việc huấn luyện quân sự cho lực lượng dự
bị động viên phải được tiến hành nghiêm túc theo chương trình quy định của bộ quốc phòng.
- Xây dựng LLDBĐV phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị
+ Xây dựng LLDBĐV là nhiệm vụ chính trị thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân, là cuộc vận động chính trị sâu sắc trong quần chúng để thực hiện nghĩa vụ bảo vệ
chế độ. Sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, về mọi mặt của Đảng từ trung ương đến cơ sở, được
thể chế hóa bằng các văn bản pháp luật của cơ quan luật pháp, sự điều hành của chính phủ,
chính quyền địa phương các cấp, sự hiệp đồng giữa các đơn vị quân đội, cơ quan quân sự
với các cơ quan trong hệ thống chính quyền, các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội… và sự
chăm lo xây dựng của toàn xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng dự bị động viên
là từ trung ương đến cơ sở, được thể hiện trên tất cả các mặt công tác, từ bước chuẩn bị, đến
thực hành nhiệm vụ động viên.
+ Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và của mọi
công dân để xây dựng LLDBĐV vững mạnh. Đó là yếu tố cơ bản nhất luôn bảo đảm cho
LLDBĐV có số lượng hợp lý, chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu trong mọi tình huống.
- Xây dựng LLDBĐV đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cấp ở địa phương, Bộ,
Ngành
+ Xuất phát từ vị trí, tầm quan trọng của việc xây dựng LLDBĐV như trên nên xây
dựng LLDBĐV phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng. Đây là
nguyên tắc cơ bản nhằm bảo đảm cho lực lượng này luôn có nội dung, phương hướng, mục
tiêu xây dựng đúng đắn, nhằm bảo đảm sức mạnh của quân đội đáp ứng yêu cầu bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
+ Sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng lực lượng dự bị động viên được thể hiện trên
tất cả các khâu, các bước từ chuẩn bị đến thực hành động viên lực lượng.
9.2.2. Nội dung xây dựng lực lượng dự bị động viên
9.2.2.1. Tạo nguồn, đăng kí, quản lý LLDBĐV
- Tạo nguồn:
Là cơ sở quan trọng nhất để lập kế hoạch xây dựng và huy động LLDBĐV.
Biện pháp tạo nguồn đối với sĩ quan dự bị, cơ quan quân sự địa phương quản lí chắc sĩ số
quan phục viên, xuất ngũ. Hằng năm, lựa chọn những đồng chí tuổi đời còn trẻ, có sức khỏe,
phẩm chất năng lực tốt đưa họ vào tạo nguồn. Số cán bộ chuyên môn kĩ thuật, của nên kinh
tế quốc dân (y tế, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải …) có thể phục vụ lợi ích quốc
phòng khi có chiến tranh. Hằng năm, tuyển chọn số hạ sĩ quan có phẩm chất năng lực tốt
trước khi xuất ngũ cho đi huấn luyện, đào tạo họ thành sĩ quan dự bị. Sinh viên nam từ các
trường Đại học, sau khi tốt nghiệp được đào tạo thành sĩ quan dự bị. Bộ Quốc phòng phối
hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện liên kết đào tạo theo nhu cầu chuyên môn kĩ
thuật. Sau khi tốt nghiệp, chuyển một số sang quân đội, số còn lại đưa vào ngạch LLDBĐV.
Đối với hạ sĩ quan, chiến sĩ sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự phục viên xuất ngũ, có
đủ điều kiện về phẩm chất năng lực, sức khỏe đưa họ vào nguồn. Ngoài ra, đưa cả số thanh
niên đã được tuyển chọn xếp vào diện sẵn sàng nhập ngũ, nhưng chưa nhập ngũ vào nguồn
quân nhân dự bị.
(Một số nội dung cần chú ý của Luật lực lượng dự bị động viên năm 2019):
- Đăng kí quản lí nguồn
Điều 12. Đăng ký, quản lý quân nhân dự bị
1. Ban chỉ huy quân sự cấp xã, Ban chỉ huy quân sự cấp huyện nơi không có đơn vị
hành chính cấp xã thực hiện đăng ký quân nhân dự bị cho công dân cư trú tại địa phương.
Ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức thực hiện đăng ký quân nhân dự bị cho công
dân đang lao động, học tập, làm việc tại cơ quan, tổ chức. Trường hợp cơ quan, tổ chức
không có Ban chỉ huy quân sự thì người đứng đầu hoặc người đại diện hợp pháp của cơ
quan, tổ chức có trách nhiệm tổ chức cho công dân đang lao động, học tập, làm việc tại cơ
quan, tổ chức thực hiện đăng ký quân nhân dự bị tại nơi cư trú.
2. Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi không có đơn vị hành
chính cấp xã thực hiện quản lý quân nhân dự bị cư trú tại địa phương.
3. Ban chỉ huy quân sự cấp huyện phối hợp với cơ quan, tổ chức quản lý quân nhân
dự bị đang lao động, học tập, làm việc tại cơ quan, tổ chức trên địa bàn.
4. Chính phủ quy định trình tự, thủ tục đăng ký quân nhân dự bị quy định tại khoản 1
Điều này.
Điều 13. Đăng ký, quản lý phương tiện kỹ thuật dự bị.
1. Cơ quan đăng ký quyền sở hữu phương tiện hàng không dân dụng, phương tiện
hàng hải, phương tiện thủy nội địa của Bộ Giao thông vận tải và cơ quan đăng ký tàu công
vụ thủy sản, tàu kiểm ngư của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm định
kỳ hằng năm cung cấp thông tin đăng ký phương tiện kỹ thuật dự bị cho Bộ Quốc phòng để
đăng ký, quản lý.
2. Cơ quan đăng ký quyền sở hữu phương tiện thủy nội địa, phương tiện giao thông
cơ giới đường bộ, cơ quan quản lý phương tiện thông tin liên lạc, thiết bị vật tư y tế ở địa
phương có trách nhiệm định kỳ hằng năm cung cấp thông tin đăng ký phương tiện kỹ thuật
dự bị cho Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của chủ phương tiện để đăng ký, quản lý.
3. Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức định kỳ hằng năm báo cáo, cung cấp
thông tin về phương tiện kỹ thuật dự bị không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và
khoản 2 Điều này cho Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của chủ phương tiện hoặc nơi
cơ quan, tổ chức đặt trụ sở để đăng ký, quản lý.
4. Chính phủ quy định Danh mục phương tiện kỹ thuật dự bị và việc đăng ký, quản lý
phương tiện kỹ thuật dự bị.
Việc đăng kí, quản lí lực lượng dự bị động viên phải có kế hoạch thường xuyên, chặt
chẽ và chính xác, đăng kí quản lí cả con người và phương tiện kĩ thuật.
Đối với quân nhân dự bị:
Được tiến hành đăng kí, quản lí tại nơi cư trú, do ban chỉ huy quân sự xã, phường,
ban chỉ huy quân sự huyện (quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh) thực hiện. Đăng kí quản
lí phải chính xác theo từng chuyên ngành quân sự, độ tuổi, loại sức khỏe, hoàn cảnh gia
đình, trình độ văn hóa, nhận thức về chính trị, trình độ hiểu biết về quân sự, chuyên môn,
nghiệp vụ.
Đối với phương tiện kĩ thuật, phải đăng kí, quản lí chính xác thường xuyên cả số
lượng, chất lượng, tình trạng kỹ thuật của từng phương tiện.
- Tổ chức, biên chế đơn vị dự bị động viên:
Điều 15. Tổ chức biên chế đơn vị dự bị động viên
1. Quân nhân dự bị, phương tiện kỹ thuật dự bị đã xếp trong kế hoạch bổ sung cho
lực lượng thường trực của Quân đội nhân dân được tổ chức thành các đơn vị dự bị động
viên.
2. Đơn vị dự bị động viên phải duy trì đủ quân số quân nhân dự bị, phương tiện kỹ
thuật dự bị, có số lượng dự phòng từ 10% đến 15% và dự trữ vũ khí, trang bị kỹ thuật theo
phân cấp.
Điều 16. Sắp xếp quân nhân dự bị vào đơn vị dự bị động viên
1. Sắp xếp quân nhân dự bị đủ tiêu chuẩn về sức khỏe, có chuyên nghiệp quân sự
đúng với chức danh biên chế; gắn địa bàn tuyển quân với địa bàn động viên; trường hợp
thiếu thì sắp xếp quân nhân dự bị có chuyên nghiệp quân sự gần đúng với chức danh biên
chế.
2. Sắp xếp quân nhân chuyên nghiệp dự bị, hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị được thực hiện
theo thứ tự quân nhân chuyên nghiệp dự bị, hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị hạng một trước, trường
hợp thiếu thì sắp xếp binh sĩ dự bị hạng hai.
3. Sắp xếp quân nhân dự bị vào đơn vị dự bị động viên thuộc đơn vị bộ đội chủ lực
trước, đơn vị bộ đội địa phương sau.
Tổ chức, biên chế LLDBĐV là tổ chức sắp xếp quân nhân dự bị, phương tiện kỹ thuật
thành từng đơn vị dự bị động viên theo kế hoạch để quản lí, huấn luyện nâng cao khả năng
sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu. Các đơn vị dự bị động viên phải duy trì đủ quân số,
trang thiết bị, và phương tiện kỹ thuật. Hiện nay, đơn vị dự bị động viên được tổ chức theo
các loại hình: Đơn vị biên chế thiếu, đơn vị biên chế khung thường trực, đơn vị không có
khung thường trực, đơn vị biên chế đủ, và đơn vị chuyên môn thời chiến. Khi sắp xếp quân
nhân dự bị vào các đơn vị dự bị động viên phải theo nguyên tắc:
Sắp xếp người có trình độ chuyên môn quân sự, chuyên môn kỹ thuật phù hợp với
chức danh biên chế, nếu thiếu thì sắp xếp người có trình độ chuyên nghiệp quân sự, chuyên
môn kỹ thuật tương ứng.
Sắp xếp quân nhân dự bị hạng 1 trước, nếu thiếu thì sắp xếp quân nhân dự bị hạng 2. Sắp
xếp những quân nhân dự bị cư trú gần nhau vào từng đơn vị.
9.2.2.2. Giáo dục chính trị, huấn luyện diễn tập, kiểm tra đơn vị dự bị động viên
Điều 22. Huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu quân
nhân dự bị, phương tiện kỹ thuật dự bị, đơn vị dự bị động viên
1. Thủ tướng Chính phủ quyết định chỉ tiêu huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng
động viên, sẵn sàng chiến đấu quân nhân dự bị, phương tiện kỹ thuật dự bị, đơn vị dự bị
động viên hằng năm cho Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương.
2. Căn cứ quyết định của Thủ tướng Chính phủ, việc giao chỉ tiêu huấn luyện, diễn
tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu quân nhân dự bị, phương tiện kỹ thuật
dự bị, đơn vị dự bị động viên được quy định như sau:
a) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ giao chỉ tiêu
huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu cho cơ quan, đơn vị
thuộc quyền;
b) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao chỉ tiêu huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn
sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu cho Ủy ban nhân dân cấp huyện. Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp huyện giao chỉ tiêu cụ thể cho Ủy ban nhân dân cấp xã.
3. Việc gọi quân nhân dự bị huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn
sàng chiến đấu thực hiện theo quy định của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật
Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng, Luật Nghĩa vụ quân sự.
4. Quân nhân dự bị được hoãn tập trung huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động
viên, sẵn sàng chiến đấu trong trường hợp sau đây:
a) Trùng với thời gian thi tuyển công chức, viên chức; thi nâng bậc thợ, nâng ngạch
công chức, viên chức; thi kết thúc học kỳ, thi kết thúc khóa học được cơ quan, tổ chức nơi
quân nhân dự bị đang lao động, học tập, làm việc xác nhận;
b) Bị ốm đau hoặc hoàn cảnh gia đình, bản thân khó khăn đột xuất không thể tham
gia, được Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi không có đơn vị hành
chính cấp xã nơi quân nhân dự bị cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi quân nhân dự bị đang lao
động, học tập, làm việc xác nhận.
5. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quyết định
điều động có thời hạn phương tiện kỹ thuật dự bị đã xếp trong đơn vị dự bị động viên thuộc
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ phục vụ huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn
sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định điều động số lượng, thời hạn phương
tiện kỹ thuật dự bị đã xếp vào đơn vị dự bị động viên phục vụ huấn luyện, diễn tập, kiểm tra
sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện tổ chức thực hiện quyết định của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh về việc điều động từng phương tiện kỹ thuật dự bị.
6. Việc huấn luyện đơn vị dự bị động viên thuộc Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Bộ Tư
lệnh Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Chỉ huy quân sự cấp tỉnh thực hiện tại cơ sở huấn luyện
dự bị động viên cấp tỉnh.
Việc huấn luyện đơn vị dự bị động viên không thuộc Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Bộ
Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Chỉ huy quân sự cấp tỉnh thực hiện theo quy định của
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
7. Chính phủ quy định về cơ sở huấn luyện dự bị động viên cấp tỉnh quy định tại
khoản 6 Điều này.
- Giáo dục chính trị:
Giáo dục chính trị là nhiệm vụ hàng đầu trong xây dựng lực lượng dự bị động viên,
làm cho cán bộ chiến sĩ nâng cao nhận thức về chính trị, có lập trường tư tưởng vững vàng,
kiên định mục tiêu, lý tưởng.
Nội dung giáo dục:
Cần tập trung vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, quan điểm Quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng dự bị
động viên, âm mưu thủ đoạn của kẻ thù đối với cách mạng, truyền thống đánh giặc giữ nước
của dân tộc ta. Giáo dục chính trị phải thường xuyên, liên tục cho tất cả các đối tượng; được
thực hiện xen kẽ trong từng giao đoạn, từng đợt huấn luyện, diễn tập.
- Công tác huấn luyện:
Phương châm huấn luyện: “Chất lượng, thiết thực, hiệu quả, tập trung có trọng tâm,
trọng điểm”. Nội dung huấn luyện gồm kĩ thuật bộ binh, binh chủng; chiến thuật từng người
đến cấp đại đội, công tác hậu cần, băng bó cứu thương và hoạt động chống “Diễn biến hòa
bình”, bạo loạn lật đổ. Có thể huấn luyện tập trung tại các đơn vị dự bị động viên hoặc phân
tán tại các địa phương, cơ sở. Cần vận dụng sáng tạo, linh hoạt những phương pháp huấn
luyện thích hợp, sát đối tượng, sát thực tế.
Hằng năm, sau khóa huấn luyện, lực lượng dự bị động viên sẽ tham gia hợp luyện,
diễn tập. Kết thúc diễn tập, tổ chức rút kinh nghiệm để kịp thời bổ sung, nâng cao chất lượng
huấn luyện, giáo dục trong các đơn vị.
Cùng với huấn luyện diễn tập, chế độ kiểm tra thực hiện nhiệm vụ được tiến hành
theo quy định nhằm giúp lãnh đạo, chỉ huy nắm được thực trạng tổ chức, xây dựng lực lượng
dự bị động viên để có chủ chương, biện pháp sát đúng.
9.2.2.3. Bảo đảm hậu cần, kĩ thuật, tài chính cho xây dựng lực lượng dự bị động viên
Điều 31. Chế độ trợ cấp đối với gia đình quân nhân dự bị
Gia đình quân nhân dự bị được hưởng trợ cấp trong thời gian quân nhân dự bị tập
trung huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu và huy động khi
chưa đến mức tổng động viên hoặc động viên cục bộ theo quy định của Chính phủ.
Điều 32. Chế độ, chính sách đối với người vận hành, điều khiển phương tiện kỹ thuật
dự bị trong thời gian được huy động
1. Người vận hành, điều khiển phương tiện kỹ thuật dự bị được bảo đảm tiền ăn
tương đương với tiền ăn của chiến sĩ bộ binh; trường hợp bị ốm đau, bị tai nạn, bị thương,
chết, bị suy giảm khả năng lao động hoặc khi thực hiện công việc nặng nhọc, độc hại,
nguy hiểm, đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo quy định của pháp luật về lao động
thì bản thân và gia đình được hưởng chế độ, chính sách như đối với quân nhân dự bị.
2. Người vận hành, điều khiển phương tiện kỹ thuật dự bị đang hưởng lương từ ngân
sách nhà nước được cơ quan, tổ chức nơi đang lao động, làm việc trả nguyên lương, các
khoản phụ cấp, trợ cấp, phúc lợi, phụ cấp đi đường và tiền tàu xe; trường hợp không hưởng
lương từ ngân sách nhà nước thì được đơn vị Quân đội nhân dân chi trả tiền công lao động
cho ngày làm việc tính theo mức thu nhập trung bình 03 tháng liền kề của công việc mà
người đó thực hiện trước khi được huy động, phụ cấp đi đường và tiền tàu xe.
Điều 33. Nguồn kinh phí
1. Ngân sách nhà nước bảo đảm cho việc xây dựng, huy động lực lượng dự bị động
viên được bố trí trong dự toán chi hằng năm của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ và địa phương theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.
2. Các nguồn thu hợp pháp khác.
Vật chất kĩ thuật, kinh phí là yếu tố rất quan trọng để bảo đảm xây dựng lực lượng dự
bị động viên gồm vũ khí trang bị, hậu cần kĩ thuật và tài chính. Yêu cầu bảo đảm đúng mức,
đủ để triển khai xây dựng lực lượng dự bị động viên chất lượng ngày càng cao.
Việc bảo đảm vật chất, kinh phí hằng năm do chính phủ giao chỉ tiêu nhiệm vụ cụ thể
cho các cán bộ ngành địa phương thực hiện.
9.2.3. Một số biện pháp xây dựng lực lượng dự bị động viên
- Thường xuyên giáo dục sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về vị trí, nhiệm
vụ, những quan điểm của Đảng, nhà nước đối với lực lượng dự bị động viên.
- Thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự và
các cơ quan chức năng làm tham mưu và tổ chức thực hiện.
- Thường xuyên củng cố, kiện toàn, bồi dưỡng cơ quan và đội ngũ cán bộ làm công
tác xây dựng lực lượng dự bị động viên.
- Thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các chế độ, chính sách của Đảng và nhà nước đối với
lực lượng dự bị động viên.
9.3. Đô ̣ng viên Quố c phòng
9.3.1. Khái niệm
Động viên quốc phòng là tổng thể các hoạt động và biện pháp huy động mọi nguồn
lực của đất nước hoặc một số địa phương phục vụ cho quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
9.3.2 Nhiệm vụ động viên quốc phòng bao gồm
- Động viên mọi nguồn lực của nền kinh tế quốc dân bảo đảm cho quốc phòng;
- Động viên bảo đảm nhu cầu quốc phòng năm đầu chiến tranh;
- Xây dựng và huy động LLDBĐV; xây dựng và mở rộng lực lượng DQTV;
- Động viên công nghiệp;
- Chuyển tổ chức, hoạt động của các Bộ, ngành trung ương, địa phương từ thời bình
sang thời chiến;
- Thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật có liên quan.
Việc tổ chức xây dựng kế hoạch và biện pháp thực hiện động viên quốc phòng theo
quy định của Chính phủ.

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN


1. Phương châm xây dựng lực lượng DQTV theo hướng “Vững mạnh, rộng khắp, coi trọng
chất lượng là chính”?
2. Nội dung xây dựng lực lượng DBĐV hiện nay như thế nào? Liên hệ trách nhiệm của sinh
viên để góp phần nâng cao chất lượng tạo nguồn DBĐV ở các địa phương hiện nay?

Chương 8
XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO, BIÊN GIỚI QUỐC GIA
TRONG TÌNH HÌNH MỚI

8.1. Xây dư ̣ng và bảo vê ̣ chủ quyề n biể n, đảo Viêṭ Nam trong tin ̀ h mới.
̀ h hin
8.1.1. Một số khái niệm
Chủ quyền quốc gia là quyền lực tối cao của một Nhà nước đối với mọi vấn đề trong
phạm vi lãnh thổ nước mình và sự độc lập của quyền lực đó trong các quan hệ quốc tế.
Chủ quyền quốc gia là thuộc tính chính trị - pháp lý không thể tách rời của quốc gia,
bao gồm hai nội dung: quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền
độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Chủ quyền quốc gia là đặc trưng chính trị và
pháp lý thiết yếu của một quốc gia độc lập, được thể hiện trong hoạt động của các cơ quan
Nhà nước và trong hệ thống pháp luật quốc gia. Tôn trọng chủ quyền quốc gia là một
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Một trong những nguyên tắc cơ bản nhất được
Hiến chương Liên hiệp quốc khẳng định là tôn trọng và bảo đảm sự bình đẳng về chủ quyền
quốc gia, không một quốc gia nào được can thiệp hoặc khống chế, xâm phạm chủ quyền của
một quốc gia độc lập khác. Việc bảo đảm chủ quyền của mỗi quốc gia phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, chịu sự tác động của các nhân tố.
Lãnh thổ quốc gia là phạm vi không gian được giới hạn bởi biên giới quốc gia, thuộc
chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ của một quốc gia. Lãnh thổ quốc gia Việt Nam bao gồm:
vùng đất quốc gia, vùng biển quốc gia (nội thủy và lãnh hải), vùng trời quốc gia, ngoài ra
còn gồm lãnh thổ quốc gia đặc biệt.
Vùng đất quốc gia (kể cả các đảo và quần đảo) là phần mặt đất và lòng đất của đất liền
(lục địa), của đảo, quần đảo thuộc chủ quyền một quốc gia; bộ phận quan trọng nhất cấu
thành nên lãnh thổ quốc gia, làm cơ sở để xác định vùng trời quốc gia, nội thuỷ, lãnh hải.
Vùng đất quốc gia có thể gồm những lục địa ở những điểm khác nhau (tách rời nhau), nhưng
các vùng đất đó đều thuộc lãnh thổ thống nhất của quốc gia; hoặc cũng có thể chỉ bao gồm
các đảo, quần đảo ở ngoài biển hợp thành quốc gia quần đảo. Việt Nam là một quốc gia nằm
trên bán đảo Đông Dương, ven biển Thái Bình Dương, có vùng đất quốc gia vừa là đất liền,
vừa là đảo, vừa là quần đảo, bao gồm từ đỉnh Lũng Cú, Hà Giang đến mũi Cà Mau; các đảo
như Phú Quốc, Cái Lân... và quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
“Việt Nam có ba mặt trông ra biển: Đông, Nam và Tây Nam, với bờ biển dài 3.260 km,
từ Móng Cái đến Hà Tiên. Phần Biển Đông thuộc chủ quyền Việt Nam mở rộng về phía
Đông và Đông Nam, có thềm lục địa, các đảo và quần đảo lớn nhỏ bao bọc. Riêng Vịnh Bắc
Bộ đã tập trung một quần thể gần 3.000 hòn đảo trong khu vực Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long;
các đảo Cát Hải, Cát Bà, Bạch Long Vĩ…; xa hơn là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; phía
Tây Nam và Nam có các nhóm đảo Côn Sơn, Phú Quốc và Thổ Chu. Do Chính nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định và công bố kinh tế, chính trị, quân sự.”1
Lãnh hải quốc gia là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở, có chế độ
pháp lý như lãnh thổ đất liền. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên đất
biển.
Chủ quyền quốc gia trên biển cũng bao hàm những nội dung cơ bản nói trên. Quốc gia
ven biển thực hiện chủ quyền của mình một cách tuyệt đối, đầy đủ, toàn vẹn ở trong vùng
nội thủy và thực hiện chủ quyền một cách đầy đủ, toàn vẹn ở trong lãnh hải. Bởi vì, nội thủy
được coi là bộ phận đất liền như ao hồ, sông suối, các vùng nước nằm trong đất liền. Lãnh
hải cũng được coi là lãnh thổ biển của quốc gia ven biển.
Chủ quyền là quyền làm chủ tuyệt đối của quốc gia độc lập đối với lãnh thổ của mình.
Chủ quyền của quốc gia ven biển là quyền tối cao của quốc gia được thực hiện trong phạm
vi nội thủy và lãnh hải của quốc gia đó.
Quyền chủ quyền là các quyền của quốc gia ven biển được hưởng trên cơ sở chủ quyền
đối với mọi loại tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của
mình, cũng như đối với những hoạt động nhằm thăm dò và khai thác vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa của quốc gia đó vì mục đích kinh tế, bao gồm cả việc sản xuất năng lượng từ
nước, hải lưu, gió...
Quyền tài phán là thẩm quyền riêng biệt của quốc gia ven biển trong việc đưa ra các
quyết định, quy phạm và giám sát việc thực hiện chúng, như: cấp phép, giải quyết và xử lý
đối với một số loại hình hoạt động, các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển, trong
đó có việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo các thiết bị và công trình nghiên cứu khoa
học về biển; bảo vệ và gìn giữ môi trường biển trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục
địa của quốc gia đó.
Quyền chủ quyền có nguồn gốc từ chủ quyền lãnh thổ trong khi quyền tài phán là hệ
quả của quyền chủ quyền, có tác dụng hỗ trợ, tạo ra môi trường để thực hiện quyền chủ
quyền được tốt hơn.

1
Luật biên giới quốc gia, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.9.
Bên cạnh đó, trong khi chủ quyền và quyền chủ quyền chỉ được thực hiện trên vùng
lãnh thổ mà quốc gia có quyền thì quyền tài phán có không gian mở rộng hơn, tới những nơi
mà quốc gia đó không có chủ quyền (ví dụ quyền tài phán áp dụng trên tàu thuyền có treo cờ
của một quốc gia nhất định đang hoạt động trong vùng biển thuộc chủ quyền của một quốc
gia khác).
8.1.2. Tình hình chung
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một quốc gia ven biển, có bờ biển dài
khoảng 3.260 km, có một vùng biển rộng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, với
hai quầ n đảo là Hoàng Sa và Trường Sa.
Thực tra ̣ng với quầ n đảo là Hoàng Sa hiê ̣n nay: Trung Quố c đang chiế m đóng trái phép
toàn bô ̣ quầ n đảo là Hoàng Sa (chiế m trong hai đơṭ , đơṭ 1 tháng 4/1956 và đơṭ 2 tháng
01/1974).
Thực tra ̣ng chiế m đóng và tranh chấ p trên quầ n đảo Trường Sa có mă ̣t lực lươṇ g của 4
nước 5 bên và yêu sách chủ quyề n có 5 nước 6 bên. Cu ̣ thể Viê ̣t Nam thực hiê ̣n chủ quyề n
và đóng giữ 21 đảo (9 đảo nổ i và 12 đảo đá ngầ m); Trung Quố c hiê ̣n chiế m đóng trái phép 7
đảo đá ngầ m; Đài Loan chiế m đóng đảo Ba Bình (đảo lớn nhấ t ở quầ n đảo Trường Sa); Phi-
lip-pin chiế m đóng 9 đảo; Ma-lai-xia hiê ̣n chiế m đóng 7 đảo; Brunây không có đảo nhưng
vẫn tuyên bố chủ quyề n đố i với Trường Sa.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, biển luôn có vai trò, vị trí đặc
biệt quan trọng, gắn bó mật thiết và ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm Quốc phòng và an ninh của Việt Nam. Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới năm
1986 dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, kinh tế biển của Việt Nam đã không ngừng
phát triển với tốc độ khá nhanh và đã có những đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng kinh
tế - xã hội của nước ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá21.
Việc gia nhập Công ước về luật biển 1982 đối với Việt Nam là vô cùng quan trọng vì
từ thời điểm đó mọi vấn đề tranh chấp trên biển, về vùng chồng lấn trên biển và thềm lục địa
ở Biển Đông sẽ được giải quyết trên cơ sở các quy định của Công ước về luật biển 1982 và
các văn bản quốc tế hiện hành có liên quan. Trong Nghị quyết phê chuẩn văn bản gia nhập
Công ước về luật biển 1982 của Quốc hội Việt Nam ngày 23/6/1994 đã ghi nhận rằng mọi
tranh chấp đối với các vùng biển, đặc biệt là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, sẽ được
giải quyết trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế,
tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia ven biển.
Cần nhấn mạnh rằng, vận tải biển của Việt Nam chiếm trên 80% lưu lượng hàng hóa
xuất nhập khẩu. Do đó, việc nâng cao uy tín và vị thế ngành vận tải biển của Việt Nam trong
khu vực ASEAN và trên trường quốc tế là cần thiết. Việt Nam phải tuân thủ và thực thi các
quy phạm pháp luật quốc tế, các quy phạm đã được định chế trong các Công ước về luật
biển. Trong đó, quan trọng nhất là Công ước về luật biển 1982 và một số các Công ước khác
về bảo vệ môi trường biển, về đảm bảo quyền lợi cho các tổ chức vận tải và đánh cá, các
thỏa thuận quốc tế khác liên quan đến biển và đại dương.
8.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Biển, Đảo
Như đã phân tích ở trên, Việt Nam là một quốc gia ven Biển Đông, đây là một trong
các biển lớn nhất của thế giới có tuyến hàng hải và hàng không huyết mạch kết nối khu vực
ASEAN với các đại dương. Để bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia trên biển; bảo vệ trật
tự và an toàn trên biển; bảo vệ môi trường biển; thực hiện việc khai thác thủy sản, dầu khí;
nghiên cứu khoa học biển; đảm bảo giao thông vận tải biển; vấn đề đề du lịch biển, đảo;
v.v..., Việt Nam luôn khẳng định chủ trương giải quyết các xung đột thông qua đàm phán,
giải quyết hòa bình mọi tranh chấp ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp và thực tiễn quốc tế,
đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 và tinh thần của Tuyên bố về
cách ứng xử của các bên trên biển Đông năm 2002 (DOC), nhằm giữ gìn hoà bình, ổn định,
hợp tác và tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài mà các bên đều có thể chấp nhận được.
Những vấn đề nói trên đã được Việt Nam khẳng định tại các diễn đàn Hội nghị quốc tế
và khu vực, thông qua các cuộc gặp gỡ chính thức giữa Việt Nam với các quốc gia khác. Ví
dụ như trong các lần đàm phán cấp chính phủ giữa Việt Nam và Trung Quốc về vấn đề biên
giới lãnh thổ, hai bên đã trao đổi ý kiến toàn diện, thẳng thắn, sâu rộng về vấn đề biên giới
lãnh thổ giữa hai nước, ký kết Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định nghề cá ở
Vịnh Bắc Bộ năm 2000. Hiện nay, hai nước đang giải quyết vấn đề tranh chấp biển, đảo ở
Biển Đông trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, DOC và lịch sử của hai nước; hay Việt
Nam và Malaysia đã thống nhất giải quyết các vấn đề xung đột thông qua đàm phán, thương
lượng hòa bình trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của nhau, phù
hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về luật biển năm
1982 và DOC.
Đối với vấn đề Biển Đông, Việt Nam đề nghị các quốc gia có liên quan không có
những hành động nhằm làm phức tạp thêm tình hình. Liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ
quyền của mình đối với hai quần đảo này. Việt Nam cho rằng trong khi tìm kiếm giải pháp
cơ bản và lâu dài cho các tranh chấp đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các bên
liên quan cần tuân thủ Công ước Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 và DOC đã ký kết
giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002, góp phần duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực.
Một là: Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng
tâm, trọng điểm, sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực,
gắn với bảo đảm QP&AN và hợp tác quốc tế.
Nghị quyết Trung ương 8 khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt
Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045:
Mục tiêu đến năm 2030
Đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền
vững kinh tế biển; hình thành văn hoá sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí
hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở
bờ biển và biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng. Những
thành tựu khoa học mới, tiên tiến, hiện đại trở thành nhân tố trực tiếp thúc đẩy phát triển bền
vững kinh tế biển.
Tầm nhìn đến năm 2045
Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an
toàn; kinh tế biển đóng góp quan trọng vào nền kinh tế đất nước, góp phần xây dựng nước ta
thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tham gia chủ động và có
trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương.
Để kinh tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biển của nước ta và gắn phát triển
kinh tế biển với bảo đảm QP&AN, bảo vệ chủ quyền vùng biển cần.
- Phát triển mạnh nghề đánh bắt xa bờ thông qua việc hỗ trợ cho ngư dân vay vốn và
phát triển lực lượng quốc doanh. Chống ô nhiễm môi trường biển, sông ngòi, ao hồ và
nghiêm cấm khai thác thuỷ hải sản bằng phương pháp huỷ diệt. Phát triển hệ thống cảng
biển, vận tải biển, khai thác và chế biến dầu khí, hải sản, dịch vụ biển; đẩy nhanh ngành
công nghiệp đóng tàu biển và công nghiệp khai thác, chế biến hải sản, trong đó, tập trung
vào các địa bàn trọng điểm chiến lược và những khu vực nhạy cảm trên biên giới đất liền,
biển đảo.
- Xây dựng công nghiệp quốc phòng trong hệ thống công nghiệp quốc gia dưới sự chỉ
đạo, quản lý điều hành trực tiếp của Chính phủ, đầu tư có chọn lọc theo hướng hiện đại, vừa
phục vụ quốc phòng vừa phục vụ dân sinh. Tiếp tục điều tra tài nguyên và sinh vật biển để
có kế hoạch khai thác, bảo vệ. Phát triển mạnh công nghiệp đóng và sửa chữa tàu biển. Phát
triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, ưu tiên phát triển các ngành công
nghiệp năng lượng, công nghiệp hàng hải, đóng tàu, nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy
sản chất lượng cao...
- Đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, tạo thành các trung tâm kinh tế biển mạnh, tạo thế tiến
ra biển, gắn với phát triển đa dạng các ngành dịch vụ, nhất là các ngành có giá trị gia tăng
cao như dịch vụ xuất, nhập khẩu, du lịch, dịch vụ nghề cá, dịch vụ dầu khí, vận tải biển
...Phát triển kinh tế các vùng đảo, quần đảo phù hợp với vị trí, tiềm năng và lợi thế của từng
đảo, quần đảo.
- Giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh chính
trị và trật tự, an toàn xã hội; mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập, nâng cao vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế.
Hai là: Xây dựng lực lượng bảo vệ chủ quyền biển, đảo vững mạnh đáp ứng yêu cầu
quản lý, khai thác và bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong tình hình mới.
Để thực hiê ̣n tố t nhiê ̣m vu ̣ quan tro ̣ng này, cầ n phải phát huy sức ma ̣nh tổ ng hơp̣ của
toàn dân, trong đó, lực lượng trực tiếp và tại chỗ là nòng cốt. Với lẽ đó, cả trong thời gian
trước mắt và lâu dài, chúng ta cần quan tâm hơn nữa đến các hoạt động xây dựng lực lượng
trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo như lực lượng Hải quân, Biên Phòng,
Cảnh sát biển, dân quân tự vệ biển đủ mạnh, có số lượng hợp lý, chất lượng tổng hợp cao,
lấy chất lượng chính trị làm cơ sở. Chú trọng nâng cao trình độ kỹ, chiến thuật, trình độ hợp
đồng tác chiến giữa các lực lượng, đảm bảo khả năng xử lý linh hoạt và hiệu quả các tình
huống có thể xảy ra trên biển; quan tâm đúng mức đến công tác đảm bảo vũ khí, trang bị kỹ
thuật cho các lực lượng nòng cốt như Hải quân và Cảnh sát biển phù hợp với xu thế phát
triển trong khu vực và yêu cầu nhiệm vụ của từng đơn vị. Kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh
của bộ đội chủ lực với khả năng xử lý tình huống mau lẹ, trực tiếp của các lực lượng quân sự
và dân sự ở các địa phương ven biển, luyện tập các phương án hợp đồng tác chiến trên biển,
trong đó kết hợp chặt chẽ nghệ thuật tác chiến truyền thống của dân tộc với các phương án
tác chiến sử dụng vũ khí công nghệ cao trong xử lý các tình huống có thể xảy ra. Phát huy
sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng lực lượng quản lý, khai thác và
bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam, đặc biệt là vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội ở
các địa phương có biển.
Ba là: Kiên trì đối thoại tìm kiếm giải pháp hoà bình, tham gia xây dựng Bộ quy tắc
ứng xử trên Biển Đông, kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp chính trị, ngoại giao,
pháp lý, kinh tế, quốc phòng trong quản lý vùng trời, bảo vệ biển đảo.
Trước những vấn đề chủ quyền biển đảo ngày càng nóng, Việt Nam luôn chủ trương,
chủ động xử lý đúng đắn nhiều vấn đề nhạy cảm bằng đối thoại, thương lượng thông qua con
đường ngoại giao. Việt Nam luôn đưa ra yêu cầu các bên liên quan kiềm chế, không có các
hoạt động làm phức tạp thêm tình hình ở Biển Đông, tuân thủ cam kết giải quyết các tranh
chấp bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, Công
ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và 5 nguyên tắc chung sống hòa bình, tăng
cường các nỗ lực xây dựng lòng tin, hợp tác đa phương về an toàn biển, nghiên cứu khoa
học, chống tội phạm; cùng nhau nghiêm chỉnh thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các
bên ở biển Đông (DOC) ký năm 2002 giữa một bên là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á
(ASEAN) và một bên là Trung Quốc, hướng tới xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử (COC), để
Biển Đông thực sự là vùng biển hòa bình, ổn định, hữu nghị và phát triển, vì lợi ích của tất
cả các nước trong khu vực, vì an ninh chung của khu vực và trên toàn thế giới. Mở rộng và
tăng cường hợp tác hữu nghị với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới cũng như với
các tổ chức quốc tế trong các vấn đề có liên quan đến biển, đảo trên cơ sở tôn trọng chủ
quyền, lợi ích quốc gia và pháp luật quốc tế, bảo đảm an ninh và an toàn hàng hải quốc tế;
cùng nhau xây dựng khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển.
Bốn là: Kết hợp chặt chẽ giữa thúc đẩy nhanh quá trình dân sự hóa trên biển, nhất là ở
một số vùng biển, đảo có vị trí chiến lược kinh tế với xây dựng thế trận QP&AN ninh trên
biển vững mạnh, đủ khả năng bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển.
Dân sự hóa các vùng biển, đảo vừa là cơ sở để chúng ta khai thác có hiệu quả các
nguồn tài nguyên trên biển, vừa là tiền đề để xây dựng, củng cố và phát huy lực lượng tại
chỗ phục vụ chiến lược QP&AN trên biển. Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, Đảng
ta đã khẳng định: Thực hiện quá trình dân sự hóa trên biển, đảo gắn với tổ chức dân cư, tổ
chức sản xuất và khai thác biển. Có chính sách đặc biệt để khuyến khích mạnh mẽ nhân dân
ra định cư ổn định và làm ăn dài ngày trên biển; thí điểm xây dựng các khu quốc phòng -
kinh tế tại các đảo, quần đảo Trường Sa, vùng biển, đảo ở Đông Bắc…. Đây là một chủ
trương chiến lược có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển,
đảo của đất nước. Chủ trương này đã và đang được hiện thực hóa, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế biển đi đôi với bảo đảm Quốc phòng và an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền của
Việt Nam trên biển.
Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, công tác dân sự hóa trên các
vùng biển, đảo, nhất là ở những vùng biển, đảo chiến lược đã được đẩy mạnh, tác động tích
cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để củng cố và xây dựng thế trận
lòng dân trên biển. Ở một số đảo có vị trí đặc biệt quan trọng về an ninh, quốc phòng, quá
trình dân sự hoá bước đầu được thực hiện có hiệu quả, tạo được dư luận tốt đối với quần
chúng nhân dân trong và ngoài nước. Cơ sở hạ tầng trên nhiều đảo được xây dựng ngày càng
khang trang; đời sống của nhân dân trên các đảo từng bước đi vào ổn định; tư tưởng của
nhân dân định cư trên các đảo tiền tiêu của Tổ quốc hoàn toàn tin tưởng vào chủ trương,
chính sách của Đảng.
Kết hợp chặt chẽ hơn nữa giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường QP&AN.
Việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các khu vực ven biển, trên biển và các đảo phải
tuân thủ các yêu cầu đặt ra trong kế hoạch tổng thể của khu vực phòng thủ địa phương, phải
mang tính hệ thống, bảo đảm sự liên kết chặt chẽ giữa biển, đảo với đất liền; kết hợp chặt
chẽ giữa thế trận “tĩnh” của đảo và bờ với thế “động” của lực lượng tác chiến cơ động trên
biển tạo nên thế trận liên hoàn, vững chắc. Trang bị kỹ thuật phục vụ cho mục đích kinh tế -
xã hội phải phù hợp với hệ thống trang bị kỹ thuật QP&AN trong hệ thống các cụm lực
lượng trên biển, thực hiện kiểm soát, giám sát, báo động, chi viện, hỗ trợ nhau trong đấu
tranh phòng chống các hoạt động xâm phạm chủ quyền, lợi ích quốc gia. Các cơ sở hậu cần,
kỹ thuật kinh tế - xã hội ven bờ, trên biển và trên các đảo phải sẵn sàng huy động cho nhiệm
vụ quốc phòng, ưu tiên xây dựng các đảo tiền tiêu xa bờ có công sự kiên cố, trang bị hoả lực
mạnh, có khả năng tác chiến dài ngày. Quá trình thiết kế, xây dựng hạ tầng cơ sở trên biển,
đảo phải mang tính lưỡng dụng cao, không chỉ bền vững trước tác động của môi trường biển
mà còn phải bền vững khi chuyển sang phục vụ mục đích QP&AN.
Xây dựng lực lượng kiểm ngư đủ mạnh để bảo vệ việc khai thác, đánh bắt hải sản của
ngư dân trên biển, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn trên biển; đồng thời kiểm
tra, giám sát, phát hiện, ngăn chặn các hành động khai thác hải sản trái phép của nước ngoài
trên vùng biển của Việt Nam. Các địa phương ven biển, huyện đảo phải có lực lượng dân
quân tự vệ vừa tham gia sản xuất, khai thác hải sản, vừa làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự
trên biển, kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các hành động xâm phạm lợi ích, chủ
quyền quốc gia.
Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, có vị trí đặc biệt
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước hiện nay và mai sau.
Phát huy lợi thế, khai thác tiềm năng thế mạnh kết hợp với bảo vệ chủ quyền biển, đảo là
nhiệm vụ trọng yếu và là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Để hoàn thành
nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả đó, hơn lúc nào hết phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả
nước, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất
của Nhà nước, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, toàn vẹn
vùng biển nói riêng và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc nói chung, xây dựng một nước Việt
Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, góp phần thực hiện mục tiêu
xây dựng nước ta thực sự trở thanh quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển.
8.1.4. Mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp cơ bản của Đảng, Nhà nước về xây dựng và
bảo vệ chủ quyền biển đảo quốc gia
8.1.4.1. Mục tiêu
Nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững
chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
XHCN...
8.1.4.2. Nhiệm vụ
Trước yêu cầu bức thiết của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Đảng ta
nhận thức sâu sắc và thể hiện rõ quan điểm về phát triển kinh tế độc lập tự chủ, kinh tế biển,
bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế. Quan điểm đó
được thể hiện tập trung trong các nghị quyết, chỉ thị như: Nghị quyết 03/-NQ/TW ngày 6-5-
1993 của Bộ Chính trị (khóa VII) về “Một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những
năm trước mắt”1, Chỉ thị 20-CT/TW ngày 22-9-1997 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về “Đẩy
mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng CNH, HĐH”, Nghị quyết TW 4 (khoá X) “Chiến
lược biển Việt Nam đến năm 2020” và Nghị quyết Trung ương 8 khóa XII về Chiến lược
phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam là trách nhiệm thiêng liêng của mỗi
công dân Việt Nam đối với lịch sử dân tộc, là nhân tố quan trọng bảo đảm cho dân tộc ta
phát triển bền vững. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Mục tiêu, nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ;
giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ XHCN…”. Đó là ý chí sắt đá, quyết tâm không gì lay chuyển được của dân tộc Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản .

1
Nghị quyết 03/-NQ/TW ngày 6-5-1993 của Bộ Chính trị (khóa VII)
8.1.4.3. Các giải pháp
Thời gian qua, sự biến đổi khôn lường của tình hình thế giới, khu vực và trên biển
Đông khiến nhiệm vụ phòng thủ, bảo vệ đất nước, nhất là an ninh trên biển trở thành nhiệm
vụ nhiều khó khăn, thách thức. Để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, điều tiên quyết đặt ra là phải không ngừng củng cố, tăng cường sức mạnh quốc gia, xây
dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển. Trong đó, xây dựng thế trận lòng dân, đảm bảo
bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc là vấn đề chiến lược, mang
tính cấp bách, then chốt. Vì vậy, chúng ta cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề sau đây:
Một là: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo
Công tác tuyên truyền biển, đảo cần bám sát thực tiễn tình hình, không ngừng đổi mới
nội dung, đa dạng hóa hình thức, phương pháp tuyên truyền phù hợp với trình độ nhận thức
của từng đối tượng, đồng thời tận dụng có hiệu quả các phương tiện kỹ thuật và chú trọng
mở rộng phạm vi tuyên truyền.
Công tác tuyên truyền về chủ quyền quốc gia trên biển đòi hỏi có sự phối hợp đồng
bộ giữa các cấp, các ngành và các địa phương; phải có sự chỉ đạo thống nhất, chặt chẽ từ
Trung ương tới cơ sở về nội dung và phương pháp tuyên truyền. Nội dung tuyên truyền phải
đa dạng và phong phú trên các phương tiện thông tin đại chúng trong nước và quốc tế, lồng
ghép chặt chẽ giữa các hoạt động đối ngoại, chính trị, kinh tế, quân sự, quốc phòng… Qua
đó, nhân dân Việt Nam cũng như cộng đồng quốc tế hiểu và nắm vững các vùng, khu vực
thuộc chủ quyền lịch sử lâu đời của Việt Nam cũng như chủ quyền biển Việt Nam được xác
lập trên cơ sở các điều khoản quy định trong Công ước quốc tế về Luật Biển 1982.
Tuyên truyền về các điều khoản và nghĩa vụ cần phải chấp hành các quy định của luật
pháp Việt Nam khi hoạt động hoặc tham gia giao thông trong phạm vi lãnh hải, các vùng nội
thuỷ, vùng đảo, quần đảo và khu vực đặc quyền kinh tế trên biển Việt Nam; về các quan
điểm chủ đạo và nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong thực thi quyền tài phán
quốc gia trên các vùng biển, đảo, quần đảo và các khu vực đặc quyền kinh tế biển. Đặc biệt,
chú trọng nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành, nhất là các cấp, ngành ở địa phương
ven biển, nhận thức rõ tính chất phức tạp của nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong bối
cảnh mở cửa, hội nhập quốc tế; khẳng định, củng cố niềm tin cho nhân dân cả nước, cộng
đồng quốc tế về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; làm
chuyển biến ý thức, trách nhiệm của mỗi người… Qua đó phát huy sức mạnh của toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân và của cả hệ thống chính trị, kết hợp sức mạnh trong và ngoài nước,
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Công tác tuyên truyền phải được tiến hành sâu rộng trong và ngoài nước, phải gắn kết
giữa lịch sử với hiện tại để người dân thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của biển, đảo
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước; làm cho mỗi công dân Việt Nam thấy được
trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với chủ quyền biển, đảo quốc gia. Từ đó đoàn kết, chung
sức đồng lòng quyết tâm làm chủ, bảo vệ biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Hai là: Ưu tiên nguồn lực cho phát triển kinh tế biển, đảo và thực hiện có hiệu quả
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trên các vùng ven biển, hải đảo
Biển Việt Nam chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn về kinh tế. Vì vậy, để khai thác, sử
dụng hiệu quả và biến các tiềm năng ấy thành nguồn lực, động lực đẩy mạnh sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước, Đảng và Nhà nước cần tập trung đầu tư nguồn lực thích đáng cho các
ngành kinh tế mũi nhọn, có thế mạnh ở các vùng ven biển, trên các đảo và quần đảo như:
Khai thác, chế biến dầu khí; hệ thống cảng và dịch vụ vận tải biển; khai thác, chế biến hải
sản, du lịch... Trong đó, ưu tiên xây dựng các trung tâm dịch vụ, thành lập các tập đoàn kinh
tế mạnh có đủ khả năng vươn xa, kết hợp phát triển kinh tế với làm chủ biển, đảo; tập trung
nguồn vốn, khoa học, công nghệ, nguồn lao động để khai thác có hiệu quả các tiềm năng của
biển; ưu tiên phát triển hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội và Quốc phòng và an ninh trên khu vực
quần đảo Trường Sa và các đảo lớn xa bờ, tạo điều kiện thuận lợi đẩy nhanh tốc độ sản xuất
của nhân dân đang sinh sống trên các đảo và quần đảo.
Quá trình thu hút nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội biển, đảo đòi hỏi các ngành
chức năng và địa phương cần phối hợp nghiên cứu, khảo sát tổng thể, xác định rõ tiềm năng,
thế mạnh của từng vùng, từng khu vực, đánh giá đúng, đủ các yếu tố tự nhiên cũng như xu
thế phát triển. Việc quy hoạch phải tính đến sự kế thừa, phát triển, tính liên kết giữa các
vùng và các khu vực; phải gắn bờ, biển, đảo và quần đảo trong một không gian sinh tồn về
kinh tế và quốc phòng. Vì vậy, nếu không khảo sát đầy đủ, đánh giá một cách khoa học thì
kết quả sẽ thấp, thậm chí không mang lại hiệu quả mà còn phá vỡ tính cân bằng trong quá
trình phát triển kinh tế biển.
Phát triển kinh tế biển phải gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội và nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân, coi đó như một vấn đề then chốt trong xây dựng thế
trận lòng dân trên biển. Lịch sử đã chứng minh, ở bất cứ thời đại, chế độ nào, nguyện vọng
sâu xa của nhân dân vẫn là đời sống vật chất và tinh thần được đảm bảo, “khoan thư sức
dân” - cách thức tốt nhất để quy tụ lòng dân, làm cơ sở, nền tảng để xây dựng thế trận lòng
dân. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta thời gian qua rất chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng
cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần cho nhân dân các vùng ven biển và hải đảo, nhất là
ở các vùng biển, đảo giữ vai trò quan trọng về QP&AN của đất nước.
Ba là: Kết hợp chặt chẽ giữa thúc đẩy nhanh quá trình dân sự hóa trên biển với xây
dựng thế trận QP&AN ninh trên biển vững mạnh, đủ khả năng bảo vệ chủ quyền quốc gia
trên biển.
Dân sự hóa các vùng biển, đảo vừa là cơ sở để chúng ta khai thác có hiệu quả các
nguồn tài nguyên trên biển, vừa là tiền đề để xây dựng, củng cố và phát huy lực lượng tại
chỗ phục vụ chiến lược QP&AN trên biển. Đảng ta đã khẳng định trong Chiến lược biển
Việt Nam đến năm 2020: “Thực hiện quá trình dân sự hóa trên biển, đảo gắn với tổ chức dân
cư, tổ chức sản xuất và khai thác biển. Có chính sách đặc biệt để khuyến khích mạnh mẽ
nhân dân ra định cư ổn định và làm ăn dài ngày trên biển; thí điểm xây dựng các khu quốc
phòng - kinh tế tại các đảo, quần đảo Trường Sa, vùng biển, đảo của Tổ quốc”51. Đây là một
chủ trương chiến lược có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền
biển, đảo của đất nước. Chủ trương này đã và đang được hiện thực hóa, đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế biển đi đôi với bảo đảm QP&AN, bảo vệ vững chắc chủ quyền của Việt
Nam trên biển.
Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, công tác dân sự hóa trên các
vùng biển, đảo, nhất là ở những vùng biển, đảo chiến lược đã được đẩy mạnh, ảnh hưởng tốt
đến sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để củng cố và xây dựng thế trận
lòng dân trên biển. Ở một số đảo có vị trí đặc biệt quan trọng về an ninh, quốc phòng như:
Quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa… quá trình dân sự hoá bước đầu được thực hiện có hiệu
quả, tạo được dư luận tốt đối với quần chúng nhân dân trong và ngoài nước. Cơ sở hạ tầng
trên nhiều đảo ở Trường Sa được xây dựng ngày càng khang trang. Đời sống của nhân dân

1
Luật biên giới quốc gia, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.9.
từng bước đi vào ổn định. Nhân dân Trường Sa hoàn toàn tin tưởng vào chủ trương, chính
sách của Đảng.
Cùng với quá trình dân sự hóa ở các vùng biển, đảo, việc bảo vệ chủ quyền biển đảo
và duy trì lợi ích quốc gia trên biển giai đoạn hiện nay cần kết hợp chặt chẽ hơn nữa giữa
phát triển KT-XH với tăng cường QP&AN. Việc quy hoạch phát triển KT-XH hội ở các khu
vực ven biển, trên biển và các đảo phải tuân thủ các yêu cầu đặt ra trong kế hoạch tổng thể
của khu vực phòng thủ địa phương, phải mang tính hệthống, bảo đảm sự liên kết chặt chẽ
giữa biển, đảo với đất liền; kết hợp chặt chẽ giữa thế trận “tĩnh” của đảo và bờ với thế
“động” của lực lượng tác chiến cơ động trên biển tạo nên thế trận liên hoàn, vững chắc 2.
Trang bị kỹ thuật phục vụ cho mục đích KT-XH phải phù hợp với hệ thống trang bị kỹ
thuật QP&AN trong hệ thống các cụm lực lượng trên biển, thực hiện kiểm soát, giám sát,
báo động, chi viện, hỗ trợ nhau trong đấu tranh phòng chống các hoạt động xâm phạm chủ
quyền, lợi ích quốc gia. Các cơ sở hậu cần, kỹ thuật kinh tế - xã hội ven bờ, trên biển và trên
các đảo phải sẵn sàng huy động cho nhiệm vụ quốc phòng, ưu tiên xây dựng các đảo tiền
tiêu xa bờ có công sự kiên cố, trang bị hoả lực mạnh, có khả năng tác chiến dài ngày. Quá
trình thiết kế, xây dựng hạ tầng cơ sở trên biển, đảo phải mang tính lưỡng dụng cao, không
chỉ bền vững trước tác động của môi trường biển mà còn phải bền vững khi chuyển sang
phục vụ mục đích QP&AN.
Bên cạnh đó, cần xây dựng một lực lượng kiểm ngư đủ mạnh để bảo vệ việc khai thác,
đánh bắt hải sản của ngư dân trên biển, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn trên
biển; đồng thời kiểm tra, giám sát, phát hiện, ngăn chặn các hành động khai thác hải sản trái
phép của nước ngoài trên vùng biển của Việt Nam. Các địa phương ven biển, huyện đảo
phải có lực lượng dân quân tự vệ vừa tham gia sản xuất, khai thác hải sản, vừa làm nhiệm vụ
giữ gìn an ninh trật tự trên biển, kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các hành động xâm
phạm lợi ích, chủ quyền quốc gia.
Bốn là: Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở các huyện
đảo đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Hệ thống chính trị ở các huyện đảo, nhất là những huyện đảo xa bờ, vừa là “cầu nối”
đưa chủ trương, chính sách của Đảng đến với quần chúng, vừa là chủ thể trực tiếp tổ chức
lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện các chủ trương của Đảng trên các địa bàn biển, đảo. Vì vậy,
xây dựng hệ thống chính trị ở các huyện đảo vững mạnh là một giải pháp quan trọng để củng
cố thế trận quốc phòng toàn dân trên biển đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ
quốc hiện nay. Quy trình thực hiện là phải hoàn thiện hệ thống chính trị với các thiết chế đầy
đủ, cơ cấu hợp lý và cơ chế hoạt động hiệu quả, phù hợp với điều kiện hoạt động đặc thù
trên các địa bàn biển, đảo. Trong đó phát huy vai trò và chức năng hoạt động của các tổ chức
trong hệ thống chính trị, nhất là tổ chức Đảng; thực hiện tốt các chính sách xã hội đối với
các huyện đảo xa bờ và các địa bàn trọng điểm, chiến lược; coi trọng giải quyết tốt mối quan
hệ và sự phối hợp hoạt động giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị ở mỗi huyện đảo và
giữa các huyện đảo với nhau, tạo ra thế trận liên hoàn trên biển để có thể nhanh chóng tập
hợp và sử dụng hiệu quả sức mạnh của các lực lượng tại chỗ phục vụ cho QP&AN trên biển.
8.2. Xây dư ̣ng và bảo vê ̣ biên giới quố c gia.
8.2.1. Biên giới quốc gia

2
Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển Năm1982, nhà suất bản chính trị quốc gia, 1999
Luật Biên giới quốc gia của Việt Nam năm 2003 xác định: “Biên giới quốc gia của
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là đường và mặt phẳng thẳng đứng theo đường đó để xác
định giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo, trong đó có quần đảo Hoàng Sa và
quần đảo Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”1.
Biên giới quốc gia của Việt Nam được xác định bằng hệ thống các mốc quốc giới trên
thực địa, được đánh dấu bằng các tọa độ trên hải đồ và thể hiện bằng mặt phẳng thẳng đứng
theo lãnh thổ Việt Nam. Biên giới quốc gia Việt Nam bao gồm: biên giới quốc gia trên đất
liền, trên biển, trên không, trong lòng đất.
8.2.1.1. Biên giới quốc gia trên đất liền
Là phân định lãnh thổ trên bề mặt đất liền của vùng đất quốc gia. Trong thực tế, biên
giới quốc gia trên đất liền được xác lập dựa vào các yếu tố địa hình (núi, sông, suối, hồ
nước, thung lũng…); thiên văn (theo kinh tuyến, vĩ tuyến); hình học (đường nối liền các
điểm quy ước). Biên giới quốc gia trên đất liền được xác lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các
quốc gia có lãnh thổ tiếp giáp với nhau và được thể hiện bằng các điều ước hoạch định biên
giới giữa các quốc gia liên quan. Việt Nam có đường biên giới quốc gia trên đất liền dài
4.550 km tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, với Lào và Campuchia ở phía Tây, phía
Đông giáp Biển Đông.
- Tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc.
+ Hiệp định tạm thời về giải quyết công việc trên vùng biên giới hai nước giữa Chính
phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, ký
kết ngày 07 tháng 11 năm 1991.
+ Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa
Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa, ký kết ngày 19 tháng 10 năm 1993.
+ Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, ký kết ngày 30 tháng 12 năm 1999, chính thức có hiệu lực từ
ngày 06 tháng 7 năm 2000.
+ Nghị định thư phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc;
Hiệp định về quy chế quản lý biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc; Hiệp định về
cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, ký kết
ngày 19 tháng 11 năm 2009 (gọi tắt là ba văn kiện biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung
Quốc, chính thức có hiệu lực từ ngày 14 tháng 7 năm 2010).
+ Hiệp định về tàu thuyền đi lại tại khu vực tàu thuyền đi lại tự do ở cửa sông Bắc
Luân giữa Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa, ký kết ngày 05 tháng 11 năm 2015, chính thức có hiệu lực từ ngày 16 tháng
6 năm 2016.
+ Hiệp định hợp tác bảo vệ và khai thác tài nguyên du lịch thác Bản Giốc (Đức Thiên,
Trung Quốc) giữa Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Chính phủ nước Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa ngày 05 tháng 11 năm 2015, chính thức có hiệu lực từ tháng 6 năm
2016.
- Tuyến biên giới Việt Nam - Lào
+ Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, ký kết ngày 18 tháng 7 năm 1977.
1
Luật biên giới quốc gia, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
+ Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới; Nghị định thư về phân giới trên
thực địa và cắm mốc quốc giới giữa nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và nước Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào, ký kết ngày 24 tháng 01 năm 1986.
+ Nghị định thư bổ sung Nghị định thư về việc phân giới trên thực địa và cắm mốc
toàn bộ đường biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và nước Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào, ký kết ngày 24 tháng 01 năm 1986.
+ Hiệp định về quy chế biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, ký kết ngày 01 tháng 3 năm 1990.
+ Nghị định thư sửa đổi và bổ sung Hiệp định về quy chế biên giới quốc gia giữa
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, ký kết ngày 31
tháng 8 năm 1997.
+ Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào về việc sửa đổi điểm khởi đầu
của đường biên giới quốc gia Việt Nam - Lào, ký kết ngày 16 tháng 11 năm 2007.
+ Hiệp ước xác định giao điểm đường biên giới giữa nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam với Vương quốc Campuchia và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, ký kết ngày 26
tháng 8 năm 2008.
+ Nghị định thư về đường biên giới và mốc quốc giới giữa nước Cộng XHCN Việt
Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, ký kết ngày 16 tháng 3 năm 2016, chính thức
có hiệu lực từ ngày 05 tháng 9 năm 2017.
+ Hiệp định về quy chế quản lý biên giới đất liền và cửa khẩu biên giới trên đất liền
giữa Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào, ký kết ngày 16 tháng 3 năm 2016.
- Tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia
+ Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và
Vương quốc Campuchia, ký kết ngày 18 tháng 02 năm 1979.
+ Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết các vấn đề về biên giới; Hiệp định về quy chế
biên giới giữa nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Vương quốc Campuchia, ký kết ngày 20
tháng 7 năm 1983.
+ Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và
Vương quốc Campuchia, ký kết ngày 27 tháng 12 năm 1985.
+ Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia Việt Nam - Campuchia,
ký kết ngày 10 tháng 10 năm 2005.
+ Bản ghi nhớ về việc điều chỉnh đường biên giới trên bộ đối với một số khu vực tồn
đọng giữa Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Chính phủ Vương quốc
Campuchia, ký kết ngày 23 tháng 4 năm 2011.
- Tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Lào - Trung Quốc
Hiệp ước xác định giao điểm đường biên giới giữa nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, ký kết ngày
10 tháng 10 năm 2006.
- Tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Lào - Campuchia
Hiệp ước xác định giao điểm đường biên giới giữa nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
Vương quốc Campuchia và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, ký kết ngày 26 tháng 8
năm 2008.
8.2.1.2. Biên giới quốc gia trên biển
Là phân định lãnh thổ trên biển giữa các quốc gia có bờ biển liền kề hay đối diện
nhau; là ranh giới phía ngoài của lãnh hải. Biên giới quốc gia trên biển của quốc gia quần
đảo là đường biên giới quốc gia phân định lãnh thổ quốc gia với biển cả. Đối với các đảo của
một quốc gia nằm ngoài phạm vi lãnh hải của quốc gia, biên giới quốc gia trên biển là đường
ranh giới phía ngoài của lãnh hải bao quanh đảo.
Biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam được hoạch định và đánh dấu bằng các tọa
độ trên hải đồ là ranh giới phía ngoài lãnh hải của đất liền, lãnh hải của đảo, lãnh hải của
quần đảo của Việt Nam, được xác định theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm
1982 và các điều ước quốc tế giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam và các quốc gia hữu quan.
- Hiệp định về vùng nước lịch sử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Vương
quốc Campuchia, ký kết ngày 07 tháng 7 năm 1982.
- Thỏa thuận về hợp tác thăm dò khai thác chung vùng chồng lấn Việt Nam -
Malaixia, ký kết ngày 05 tháng 6 năm 1992.
- Thỏa thuận về những nguyên tắc ứng xử ở khu vực quần đảo Trường Sa giữa Việt
Nam và Philíppin, ký kết tháng 11 năm 1995.
- Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Chính phủ Vương
quốc Thái Lan về phân định ranh giới trên biển giữa hai nước trong vịnh Thái Lan, ký kết
ngày 09 tháng 8 năm 1997.
- Thỏa thuận thăm dò địa chấn giữa nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, nước Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa và nước Cộng hòa Philíppin tại khu vực quần đảo Trường Sa, ký
kết ngày 14 tháng 3 năm 2005.
- Bản ghi nhớ giữa nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Malaixia về xây dựng Báo
cáo chung theo Điều 76 Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 và khảo sát
chung, ký kết ngày 27 tháng 02 năm 2009.
- Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh
Bắc Bộ giữa nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, ký
kết ngày 25 tháng 12 năm 2000.
- Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ giữa Chính phủ nước Cộng XHCN Việt
Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, ký kết ngày 25 tháng 12 năm 2000.
- Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, ký kết ngày 11 tháng
10 năm 2011.
- Hiệp định phân định ranh giới thềm lục địa giữa Chính phủ nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Inđônêxia, ký kết ngày 26 tháng 6 năm 2003.
8.2.1.3 Biên giới quốc gia trên không
Là biên giới phân định vùng trời giữa các quốc gia liền kề hoặc các vùng trời quốc tế,
được xác định bởi mặt phẳng thẳng đứng từ biên giới quốc gia trên đất liền và biên giới quốc
gia trên biển lên trên vùng trời. Trong điều kiện khoa học và công nghệ phát triển, việc xác
lập biên giới quốc gia trên không có ý nghĩa ngày càng quan trọng trong việc thực hiện chủ
quyền đối với vùng trời quốc gia. Đến nay chưa có quốc gia nào quy định độ cao cụ thể của
biên giới quốc gia trên không.
8.2.1.4. Biên giới quốc gia trong lòng đất
Là phân định lãnh thổ quốc gia trong lòng đất phía dưới vùng đất quốc gia, nội thủy
và lãnh hải. Được xác định bởi mặt phẳng thẳng đứng từ biên giới quốc gia trên đất liền và
biên giới quốc gia trên biển xuống lòng đất. Độ sâu cụ thể của biên giới trong lòng đất được
xác định bằng độ sâu mà kĩ thuật khoan có thể thực hiện. Đến nay chưa có quốc gia nào quy
định độ sau cụ thể của biên giới trong lòng đất.
8.2.1.5. Khu vực biên giới
Là vùng lãnh thổ tiếp giáp biên giới quốc gia có quy chế, quy định đặc biệt do Chính
phủ ban hành nhằm bảo vệ an toàn biên giới. Khu vực biên giới Việt Nam bao gồm: khu vực
biên giới trên đất liền gồm xã, phường, thị trấn có một phần địa giới hành chính trùng hợp
với biên giới quốc gia Việt Nam trên đất liền; khu vực biên giới quốc gia Việt Nam trên biển
được tính từ biên giới quốc gia trên biển vào hết địa giới hành chính xã, phường, thị trấn
giáp biển và đảo, quần đảo; khu vực biên giới trên không gồm phần không gian dọc theo
biên giới quốc gia có chiều rộng 10 km tính từ biên giới Việt Nam trở vào.
8.2.2. Quan điểm, nội dung và giải pháp của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và bảo vệ
biên giới quốc gia Việt Nam
8.2.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ,
biên giới quốc gia Việt Nam
- Xây dựng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là một nội dung quan
trọng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tổ quốc Việt Nam XHCN được hình thành và phát triển trong quá trình đấu tranh
cách mạng của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; là sự kế thừa và
phát triển đất nước, dân tộc và con người Việt Nam suốt chiều dài lịch sự mấy ngàn năm
dựng nước và giữ nước trong điều kiện mới.
Lãnh thổ và biên giới quốc gia Việt Nam là một bộ phận hợp thành quan trọng không
thể tách rời của Tổ quốc Việt Nam XHCN. Lãnh thổ và biên giới quốc gia là yếu tố cơ bản
bảo đảm cho sự ổn định, bền chắc của đất nước Việt Nam.
Chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là sự khẳng định chủ quyền của nhà nước Việt
Nam, bao gồm cả quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong phạm vi lãnh thổ, gồm cả
vùng đất, vùng trời, nội thủy, lãnh hài và lãnh thổ đặc biệt của nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam. Vì vậy, xây dựng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là một nội dung đặc
biệt quan trọng của xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN không thể thành công nếu chủ quyền lãnh thổ, biên giới
quốc gia không được xây dựng và bảo vệ tốt, bị xâm phạm.
- Chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm của dân
tộc Việt Nam.
Lãnh thổ quốc gia Việt Nam là nơi sinh ra và lưu giữ, phát triển con người và những
giá trị của dân tộc Việt Nam. Trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, các thế hệ
người Việt Nam đã phải đổ biết bao mồ hôi, xương máu mới xây dựng nên, mới giữ gìn, bảo
vệ được lãnh thổ quốc gia toàn vẹn, thống nhất và tươi đẹp như ngày hôm nay. Nhờ đó mà
con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam có thể tồn tại, sinh sống, vươn lên và phát triển một
cách độc lập, bình đẳng với các quốc gia, dân tộc khác trong cộng đồng quốc tế; những giá
trị, truyền thống, bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam được khẳng định, lưu truyền và phát
triển sánh vai với các cường quốc năm châu.
Chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là kết quả đấu tranh dựng nước và giữ nước
của dân tộc Việt Nam suốt chiều dài hàng ngàn năm lịch sử. Từ thuở Hùng Vương dựng
nước đến thời đại Hồ Chí Minh, đứng trước những kẻ thù to lớn và hung bạo, dân tộc Việt
Nam luôn có ý thức và quyết tâm bảo vệ. Dù phải trải qua hàng chục cuộc chiến tranh lớn
nhỏ, phải chịu dưới ách đô hộ của các thế lực phong kiến, thực dân, đế quốc, người Việt
Nam luôn phất cao hào khí anh hùng, lòng tự hào, tự tôn dân tộc trong dựng nước và giữ
nước, xây dựng và giữ gìn biên cương lãnh thổ quốc gia, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tư
tưởng “Sông núi nước Nam vua Nam ở”, của ông cha ta được tiếp nối, khẳng định và nâng
lên tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Các vua
Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia Việt Nam là quyền thiêng liêng, bất khả xâm
phạm của dân tộc Việt Nam. Nhà nước Việt Nam, nhân dân Việt Nam quyết tâm giữ gìn và
bảo vệ quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm đó. Luật Biên giới quốc gia của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định: “Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, góp phần
giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh đất
nước”1.
- Xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định: giải quyết các vấn đề tranh chấp
thông qua đàm phán hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích
chính đáng của nhau.
Xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định là vấn đề đặc biệt quan trọng của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta.
Quan điểm này phù hợp với lợi ích và luật pháp Việt Nam, phù hợp với công ước và luật
pháp quốc tế, cũng như lợi ích của các quốc gia có liên quan. Đảng và Nhà nước ta coi việc
giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển KT-XH, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của đất nước.
Trong giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ, biên giới, Đảng và Nhà nước ta luôn
nhất quán thực hiện quan điểm giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hòa bình, tôn
trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của nhau.
Về những vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trên bộ, trên biển do lịch sử để lại
mới nảy sinh, Đảng và Nhà nước ta khẳng định: “Việt Nam luôn sẵn sàng thương lượng hòa
bình để giải quyết một cách có lí, có tình”2. Việt Nam ủng hộ giải quyết các mâu thuẫn, bất
đồng trong khu vực thông qua đối ngoại, thương lượng hòa bình, không sử dụng vũ lực hay
đe dọa sử dụng vũ lực. Nhưng Việt Nam cũng sẵn sàng tự vệ chống lại mọi hành động xâm
phạm lãnh thổ đất liền, vùng trời, vùng biển và lợi ích quốc gia của Việt Nam.
Về vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, quan điểm nhất quán của Việt Nam là:
Việt Nam khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi đối với vùng biển, đảo của Việt Nam
trên Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việt Nam có đầy đủ
chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lí về vấn đề này. Tuy nhiên, vì lợi ích an ninh chung của các
bên hữu quan, Việt Nam sẵn sàng đàm phán hòa bình để giải quyết, trước mắt là đạt tới sự

1
Luật biên giới guốc gia, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.7.
2
Quốc phòng Việt Nam, NXB Thế giới, Hà Nội, 2004, tr.14
thỏa thuận về “Bộ quy tắc ứng xử” trong khi tiếp tục tìm kiếm giải pháp lâu dài cho vấn đề
Biển Đông.
- Xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là sự nghiệp của toàn
dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí thống nhất của Nhà nước, LLVT là nòng cốt.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Nhà nước thống nhất quản lí việc xây dựng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia;
có chính sách ưu tiên đặc biệt xây dựng khu vực biên giới vững mạnh về mọi mặt.
Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong phạm vi chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của mình, vận động các tầng lớp nhân dân nghiêm chỉnh chấp hành đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới …
Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt với nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia.
Bộ đội Biên phòng là lực lượng nòng cốt chuyên trách, phối hợp với lực lượng công
an nhân dân, các ngành hữu quan và chính quyền địa phương trong hoạt động quản lý, bảo
vệ biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới theo quy
định của pháp luật.
8.2.2.2. Nội dung xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam
Xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia là thực hiện tổng thể các biện pháp để bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ, bảo vệ tài nguyên, môi sinh, môi trường, lợi ích quốc gia trên khu vực biên giới;
giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới.
Do vị trí địa lí và chính trị, trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam, việc xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia luôn là một vấn đề đặc biệt quan trọng đối
với sự ổn định và phát triển đất nước. Xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia là một nội
dung của xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, là một biện pháp hiệu quả chống
lại sự xâm phạm chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
Trong hòa bình, bảo vệ biên giới quốc gia là tổng thể các biện pháp mà hệ thống
chính trị, xã hội, các lực lượng vũ trang khu vực biên giới áp dụng nhằm tuần tra, giữ gìn
nguyên vẹn, chống lại sự xâm phạm biên giới quốc gia. Bộ đội Biên phòng là lực lượng
chuyên trách và làm nòng cốt trong bảo vệ biên giới quốc gia. Khi có xung đột hoặc chiến
tranh, các biện pháp bảo vệ biên giới quốc gia được thể hiện rõ qua các trạng thái sẵn sàng
chiến đấu: thường xuyên, tăng cường và cao.
Luật Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2003 xác định:
“Xây dựng, quản lí, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới là sự nghiệp của toàn dân
do Nhà nước thống nhất quản lí. Nhà nước và nhân dân thực hiện kết hợp phát triển kinh tế -
xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại”1. Xây dựng, bảo vệ bao gồm các
nội dung sau:
- Ưu tiên đầu tư xây dựng khu vực biên giới vững mạnh toàn diện về chính trị, kinh tế
- xã hội, QP&AN; có chính sách ưu tiên tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân khu vực biên
giới định cư ổn định, phát triển và sinh sống lâu dài ở khu vực biên giới; điều chỉnh dân cư
theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và củng cố QP&AN khu vực biên giới.

1
Luật biên giới guốc gia, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.13
- Tăng cường, mở rộng quan hệ đối ngoại các cấp trên khu vực biên giới; phát triển
kinh tế đối ngoại, tăng cường hợp tác nhiều mặt nhằm xây dựng biên giới hòa bình, hữu
nghị, ổn định lâu dài với các nước láng giềng.
- Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Sử dụng tổng hợp các lực lượng và biện pháp
của Nhà nước chống lại sự xâm phạm, phá hoại dưới mọi hình thức để giữ gìn toàn vẹn chủ
quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia.
- Bảo vệ tài nguyên, môi sinh, môi trường. Sử dụng tổng hợp các biện pháp đấu tranh
ngăn chặn mọi hành động xâm phạm tài nguyên, đặc biệt là xâm phạm tài nguyên trong lòng
đất, trên biển, trên không, thềm lục địa của Việt Nam. Ngăn chặn, đấu tranh với mọi hành
động phá hoại, hủy hoại, gây ô nhiễm môi sinh, môi trường khu vực biên giới, bảo đảm cho
người Việt Nam, nhân dân khu vực biên giới có môi trường sinh sống bền vững, ổn định và
phát triển lâu dài.
- Bảo vệ lợi ích quốc gia trên khu vực biên giới. Thực thi quyền lực chính trị tối cao
(quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp) của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam trên khu
vực biên giới; chống lại mọi hành động xâm phạm về lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội của đất
nước trên khu vực biên giới. Bảo đảm mọi lợi ích của người Việt Nam phải được thực hiện ở
khu vực biên giới theo pháp luật Việt Nam, phù hợp với Luật pháp quốc tế và các hiệp định
mà Việt Nam ký kết với các nước hữu quan.
- Giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới. Đập tan mọi âm
mưu và hành động gây mất ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội khu vực biên giới quốc
gia. Đấu tranh chống mọi tư tưởng và hoạt động chia rẽ đoàn kết dân tộc, phá hoại sự ổn
định, phát triển khu vực biên giới.
- Phối hợp với các nước, đấu tranh ngăn chặn mọi hành động phá hoại tình đoàn kết,
hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước láng giềng. Trấn áp mọi hành động
khủng bố, tội phạm xuyên biên giới quốc gia.
8.2.2.3. Một số giải pháp bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước về biên giới quốc gia
Tăng cường sự lãnh đạo tập trung , thống nhất của Trung ương Đảng , quản lý của
Nhà nước, mà trực tiếp là các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương có biên giới đối với
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ biên giới là nhân tố quyết định ổn định lâu dài biên giới quốc
gia. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với biên giới quốc gia trước hết cần tập trung vào
nội dung chủ yếu:
Bộ Chính trị Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo các vấn đề đối nội, đối
ngoại, quan hệ biên giới; đàm phán giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ, xây dựng khu
vực biên giới vững mạnh toàn diện.
Cấp uỷ đảng địa phương có biên giới lãnh đạo, chỉ đạo các vấn đề cụ thể thuộc thẩm
quyền địa phương như: Xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân và
củng cố hệ thống chính trị cơ sở, phát triển kinh tế, văn hoá xã hội, quản lý bảo vệ an ninh,
trật tự, chống tội phạm, chống buôn lậu trên biên giới.
Tăng cường và nâng cao chất lượng lãnh đạo của các tổ chức Đảng đối với các nhiệm
vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh, biên giới quốc gia nhằm bảo đảm kết hợp chặt chẽ thế
và lực tổng hợp an ninh biên giới với an ninh quốc gia; giữa an ninh biên giới với quốc
phòng; giữa an ninh biên giới với xây dựng KT-XH.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý Nhà nước về biên giới, lãnh thổ, bảo vệ
vững chắc chủ quyền an ninh biên giới trong mọi điều kiện, hoàn cảnh cần phải củng cố,
phát huy vai trò quản lý thống nhất của Nhà nước đối với biên giới quốc gia ; quy định
nhiệm vụ của các Bộ, ngành , các lực lượng và phân cấp trách nhiệm cho các địa phương có
biên giới trong nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới, an ninh, trật tự phù hợp với các hiệp
định, quy chế về biên giới.
Mọi chủ trương giải quyết về lãnh thổ, biên giới; ký kết các hiệp định với nước ngoài
liên quan đến biên giới quốc gia đều phải do Nhà nước thống nhất quản lý, khắc phục tình
trạng tuỳ tiện, lạm quyền làm tổn hại đến lợi ích quốc gia. Xây dựng hệ thống văn bản pháp
luật về biên giới và các văn bản dưới luật để điều chỉnh các quan hệ về biên giới tạo hành
lang pháp lý cho các lực lượng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về biên giới quốc gia.
- Huy động toàn dân tham gia bảo vệ biên giới
+ Theo quan điểm của chủ nghĩa MLN và TTHCM, cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng. Đảng, Nhà nước ta trong quá trình lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng
và bảo vệ tổ quốc đã vận dụng sáng tạo quan điểm này, luôn lấy dân làm gốc trong mọi hoạt
động của mình.
+ Kế thừa truyền thống của ông cha ta về chính sách “kinh tế kết hợp giữ biên cương
Tổ quốc”; lập các đồn điền rồi đưa dân ra lập thành các làng bản ở vùng biên cương, hình
thành từng cụm từng khu dân cư và được giao quản lý, bảo vệ từng đoạn, từng vùng biên
giới của đất nước, với hệ thống, tổ chức, hình thức phương pháp theo quy định của từng giai
đoạn, từng thời kỳ.
+ Thực tiễn, sự thành công của nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, vùng biên
giới dưới sự lãnh đạo của Đảng ta trong những năm vừa qua đã được chứng minh. Trước mọi
diễn biến tình hình khó khăn phức tạp trong nước, trên thế giới cũng như mối quan hệ biên giới
với các nước láng giềng tiếp giáp đều có sự tham gia đóng góp, công sức to lớn của nhân dân.
Trên các mặt xây dựng vùng biên giới ổn định vững mạnh, tạo môi trường, địa bàn, cơ sở thuận
lợi cho hoạt động bảo vệ chiến đấu. Trực tiếp tham gia bảo vệ biên giới quốc gia, bảo vệ vùng
biên giới trong trạng thái thường xuyên và tham gia đấu tranh, chiến đấu khi có tranh chấp, xung
đột, chiến tranh xảy ra.
Lịch sử dụng nước và giữ nước của dân tộc ta, lúc bình thường cũng như khi có đụng
độ xâm lấn, chiến tranh xâm lược của giặc ngoại xâm qua các triều đại, chính quyền Nhà
nước đều dựa và huy động đến sức người, sức của trong dân, đặc biệt là sức dân tại chỗ để
bảo vệ vùng biên giới (vùng biên cương, biên ải).
Trong bối cảnh tiềm lực, khả năng của đất nước ta hiện nay và những năm sắp tới,
việc tập trung đầu tư trang bị, phương tiện thiết bị hiện đại có tính năng chiến đấu cao, chưa
thể đáp ứng đầy đủ trong thời gian ngắn, cho nên vấn đề dựa vào dân và lấy quần chúng
nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia, bảo vệ vùng biên giới càng không
thể thiếu.
+ Nội dung cơ bản của giải pháp huy động sử dụng lực lượng toàn dân bảo vệ biên
giới quốc gia bảo vệ vùng biên giới trong tình hình mới là:
Nhân dân các dân tộc, cấp uỷ, chính quyền địa phương, các lực lượng, các ngành
chức năng ở vùng biên giới, trực tiếp tham gia quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, vùng biên
giới theo chức năng và cơ chế tự quản đối với đường biên, cột mốc, dấu hiệu đường biên
giới, lãnh thổ tài nguyên, môi trường theo luật pháp và sự hướng dẫn của lực lượng chuyên
ngành. Tích cực xây dựng nên biên phòng toàn dân vững mạnh và trực tiếp thực hiện trách
nhiệm chính trị của tổ chức, nghĩa vụ của công dân gắn với giữ gìn bảo vệ quyền lợi của dân
cư ở vùng biên giới. Các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị, xã hội ở tuyến sau thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia, bảo vệ vùng biên giới bằng sự hỗ trợ giúp đỡ theo các
kế hoạch, chương trình cho vùng biên giới. Khi xung đột hoặc chiến tranh biên giới xảy ra
thì chi viện sức người, sức của cho vùng biên giới theo sự điều động của Nhà nước.
- Xây dựng chiến lược quốc gia về biên giới
Xây dựng chiến lược quốc gia về biên giới là một trong những giải pháp chủ yếu, có
tính cấp bách đối với nước ta để bảo vệ và giữ vững được ổn định lâu dài vệ biên giới, nội
dung chiến lược bao gồm:
+ Xây dựng các chương trình quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời
sống cho nhân dân ở khu vực biên giới.
+ Xây dựng, củng cố cơ sở chính trị xã hội các huyện, thị, xã biên giới vững mạnh,
xây dựng kết cấu hạ tầng ở biên giới.
+ Xây dựng lực lượng vũ trang nòng cốt chuyên trách bảo vệ biên giới vững mạnh về
mọi mặt. Xây dựng nền biên phòng toàn dân và thế trận biên phòng toàn dân, gắn với thế
trận Quốc phòng và an ninh bảo vệ biên giới.
+ Xây dựng công trình bảo vệ biên giới, công trình phòng thủ, chiến đấu .
+ Phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, trực tiếp là sức mạnh của lực lượng tại
chỗ biên giới, đấu tranh chống tội phạm, nhất là hoạt động tình báo, gián điệp, sẵn sàng
chiến đấu khi chiến tranh xảy ra .
- Thực hiện phương châm tạo thế từ xa, thông qua hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc
tế, củng cố phát triển quan hệ láng giềng hữu nghị với các nước tiếp giáp.
Tạo thế từ xa để giữ vững ổn định lâu dài biên giới quốc gia thông qua các hoạt động
tăng cường hợp tác toàn diện với các nước láng giềng (các nước có chung biên giới và
ASEAN), thực hiện chính sách mở cửa, hợp tác hữu nghị, mở rộng hợp tác đa phương, giao
lưu, hợp tác kinh tế biên giới hợp tác liên doanh, phát triển kinh tế biển, kinh tế biên giới
trên các lĩnh vực: Dầu khí, hải sản, khoáng sản, lâm nghiệp, du lịch bảo vệ môi trường, kết
hợp với hoạt động ngoại giao quốc phòng.
+ Đối với các tuyến biên giới phía Bắc: Giữ vững ổn định, thực hiện phương châm
vừa hợp tác vừa đấu tranh để giữ vững biên giới, bảo vệ chủ quyền đi đôi với tăng cường
hữu nghị, thực hiện phương châm mềm mà chặt. Trong phát triển kinh tế cần chú ý khai thác
lợi thế của ta đối với thị trường Trung Quốc.
+ Đối với các tuyến biên giới phía Tây, Tây Nam: Giữ vững ổn định, đẩy mạnh hợp
là toàn diện với Lào. Tập trung phát triển kinh tế, quan hệ buôn bán với Lào và Campuchia
để thông qua hợp tác để hạn chế bất đồng và loại trừ tác nhân bên ngoài gây mất đoàn kết,
chia rẽ quan hệ Việt Nam với Lào và Campuchia.
+ Đối với vùng biển, đảo; Tăng cường đầu tư, xây dựng cơ sở đánh bắt, chế biến,
hoạt động xa bờ, kết hợp kinh tế với QP&AN. Đầu tư xây dựng các đảo, quần đảo C dân và
các lực lượng phòng thủ thành cơ sở kinh tế quốc phòng vững mạnh, tăng cường sự mạnh
kinh tế và phòng thủ biển từ xa.
+ Đối với các nước ASEAN: Có chính sách ưu đãi để thu hút các công ty đa quốc gia
vào làm ăn với Việt Nam, nhất là các dự án trên biển, thông qua lợi ích kinh tế để ràng buộc
họ với ta tạo đối trọng trong quan hệ đối tác, quan hệ khu vực và quốc tế.
- Đàm phán giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới với các nước có liên quan
Đàm phán để giải quyết các vấn đề về biên giới, lãnh thổ là giải pháp chủ yếu, phổ
biến hiện nay của cộng đồng quốc tế Điều 33, Hiến chương Liên hợp quốc quy định: Các
bên trong một vụ tranh chấp mà việc kéo dài có thể đe doạ việc duy trì hoà bình và an ninh
quốc tế phải cố gắng giải quyết trước hết bằng con đường đàm phán, điều tra, trung gian,
hoà giải, trọng tài, toà án, cầu viện những cơ quan hoặc hiệp định khu vực hoặc bằng các
phương thức hoả bình khác tuỳ theo sự lựa chọn của họ.
Mục tiêu đàm phán của ta với các nước là giải quyết dứt điểm các vấn đề tranh chấp,
xác lập đường biên giới hoà bình, bền vững, ổn định lâu dài, xoá bỏ những nguyên nhân dẫn
đến tranh chấp, lấn chiếm và sự quản lý tạm thời hiện nay. Dựa vào những yếu tố pháp lý
(luật pháp quốc tế, tư liệu, bản đồ, bằng chứng quản lý lâu đời để tham khảo trong đàm
phán), cùng nhau đàm phán, ký kết hiệp ước bổ sung biên giới cũ và phân giới, cắm mốc
trên thực địa. Trong đàm phán giải quyết các vấn đề biên giới với các nước láng giềng nên
tiến hành theo cách: Dễ trước khó sau, đủ điều kiện, cơ sở pháp lý, tài liệu giải quyết trước;
chưa đủ tài liệu, chứng cứ pháp lý giải quyết sau; giải quyết vấn đề biển, đảo phải kiên trì,
kiềm chế, khôn khéo, không để sơ hở để họ tạo cớ gây căng thẳng, xung đột.
8.3. Trách nhiê ̣m của sinh viên trong xây dưṇ g và bảo vê ̣ chủ quyề n biể n đảo, biên giới
quố c gia Viêṭ Nam trong tin ̀ h hiêṇ nay.
̀ h hin
- Sinh viên là lực lượng trẻ, có tri thức trong xã hội, là tương lai của đất nước, là tầng
lớp đi tiên phong trong các hoạt động thúc đẩy cộng đồng quan tâm và có trách nhiệm đối
với những vấn đề liên quan đến bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Chúng ta cần quán
triệt lập trường nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là Việt Nam khẳng định chủ quyền đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; chủ quyền đối với vùng nội thủy, lãnh hải; quyền
chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa theo
quy định của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
- Sinh viên phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ nhận thức về mọi mặt, hiểu
biết sâu sắc về truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, truyền thống đấu tranh cách
mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; từ đó xây dựng, củng
cố lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý chí tự chủ, tự lập, tự cường, nâng cao ý thức
bảo vệ Tổ quốc XHCN.
- Thấy rõ ý nghĩa thiêng liêng, cao quý và bất khả xâm phạm về chủ quyền lãnh thổ,
biên giới quốc gia của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; xác định rõ vinh dự và trách nhiệm
của công dân trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên
giới quốc gia của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
- Thực hiện tốt chương trình môn học GDQP&AN đối với sinh viên các trường đại
học, cao đẳng; hoàn thành tốt các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong thời gian học tập tại
trường.
- Sau khi tốt nghiệp, sẵn sàng tự nguyện, tự giác tham gia quân đội nhân dân, công an
nhân dân khi Nhà nước yêu cầu. Tình nguyện tham gia xây dựng và phục vụ lâu dài tại các
khu kinh tế - quốc phòng, góp phần xây dựng khu vực biên giới, hải đảo vững mạnh, phát
triển KT-XH, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, thực hiện
nghiêm chỉnh Luật Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN


1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về biển, đảo trong tình hình mới.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc.
3. Những giải pháp chủ yếu để củng cố, tăng cường tiềm lực bảo vệ biển, đảo trong tình
hình mới.
4. Nội dung xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia như thế nào?
5. Trách nhiệm của sinh viên trong xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo biên giới quốc
gia trong tình hình hiện nay?

Chương 6
KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG, AN NINH VÀ ĐỐI NGOẠI

6.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng
cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở Việt Nam.
6.1.1. Nhận thức chung về việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng
cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở nước ta hiện nay
6.1.1.1 Một số khái niệm:
- Hoạt động kinh tế là hoạt động cơ bản, thường xuyên gắn liền với sự tồn tại của xã
hội loài người. Đó là toàn bộ quá trình lao động sản xuất và tái sản xuất của cải vật chất cho
xã hội, phục vụ cho nhu cầu đời sống con người.
- Quốc phòng“Quốc phòng là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn
dân tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng
cốt”1.
- An ninh: “An ninh là trạng thái bình yên của xã hội, của nhà nước, sự ổn định vững
chắc của chế độ chính trị xã hội”2.
- Đố i ngoại: Chính sách đối ngoại của một quốc gia là tổng hợp các chiến lược, chính
sách mà quốc gia đó sử dụng trong quá trình tương tác với các quốc gia khác và các tổ chức
quốc tế trên lĩnh vực chính trị, quốc phòng, kinh tế, văn hóa và xã hội nhằm đạt được những
mục tiêu phù hợp với lợi ích quốc gia.
6.1.1.2. Vị trí, ý nghĩa của việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố
quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở nước ta hiện nay
- Kết hợp kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại là một tất yếu khách quan của sự
nghiệp xây dựng và BVTQ. Bản chất của kết hợp kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại
là sự gắn kết quá trình xây dựng, phát triển KT-XH với củng cố quốc phòng - an ninh và đối
ngoại thành một thể thống nhất, thúc đẩy lẫn nhau phát triển, cùng hướng đến mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Mục tiêu cốt lõi của sự kết hợp này là tạo
nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi từng nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng, an ninh và
đối ngoại nhằm tạo môi trường hòa bình, ổn định cho sự nghiệp xây dựng và BVTQ. Thực
hiện có hiệu quả việc kết hợp này sẽ tạo được sức mạnh tổng hợp để xây dựng và BVTQ;
ngược lại, không chỉ khó có sức mạnh thật sự, mà còn là kẽ hở để các thế lực thù địch lợi
dụng chống phá cách mạng nước ta.
- Kết hợp kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại là một phương thức xây dựng lực
lượng quốc phòng. Đây là sự kết hợp đồng thời các lĩnh vực, các lực lượng chủ yếu nhằm
tạo thế, tạo lực, tạo thời để tranh thủ cơ hội, giữ vững hòa bình, mở rộng hợp tác, nâng cao
thế và lực của đất nước, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và BVTQ trong tình hình mới.
Quốc phòng, an ninh và đối ngoại vững chắc là điều kiện cơ bản để bảo vệ hòa bình, ổn định
cho phát triển KT-XH; ngược lại, kinh tế phát triển bền vững là nền tảng vật chất cho tăng
cường tiềm lực QP, sức mạnh AN và mở rộng đối ngoại. Bối cảnh quốc tế, khu vực và trong
nước đang đặt ra nhiều nội dung mới, toàn diện hơn về nhiệm vụ xây dựng và BVTQ, đòi
hỏi sự kết hợp kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại càng phải chặt chẽ, thống nhất để
xây dựng lực lượng quốc phòng, bảo đảm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng và BVTQ.
- Kết hợp kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoạilà một trong các nguồn lực tạo
thành sức mạnh quốc gia. Ngày nay, sức mạnh quốc gia không chỉ được tạo bởi sức mạnh
của thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể mà phải được khai thác, huy động từ mọi
thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Theo nghĩa hẹp, kết hợp
kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại là sự kết hợp giữa đối ngoại kinh tế với đối ngoại
quốc phòng, đối ngoại an ninh và đối ngoại nhân dân. Các lực lượng này cùng với cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài làm nòng cốt thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng.
Đây là các lực lượng có vai trò quan trọng trong nghiên cứu, xử lý thông tin liên quan
đến kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Nếu sự kết hợp này có hiệu quả sẽ là một
nguồn lực quan trọng tạo thành sức mạnh quốc gia.
- Kết hợp kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại là phương thức hiệu quả để thực
hiện hài hoà lợi ích giữa nước ta với các đối tác. Kết hợp tốt các yếu tố đó sẽ hình thành thế
trận kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại trên cơ sở phát huy sức mạnh nội lực, cộng
hưởng với sức mạnh ngoại lực. Mặt khác, BVTQ trong tình hình mới đòi hỏi phải xây dựng
các phòng tuyến bảo vệ không chỉ ở tuyến biên giới và nội địa vững chắc mà còn phải có các
phòng tuyến ở ngoài lãnh thổ quốc gia. Phòng tuyến này được hình thành từ các lực lượng
đang thực hiện nhiệm vụ ở những nước là đối tác của Việt Nam. Đây là một phương thức
BVTQ, là cụ thể hoá quan điểm kết hợp xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận quốc
phòng toàn dân gắn với xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân; nền
đối ngoại nhân dân và thế trận đối ngoại nhân dân để thực hiện hài hoà lợi ích giữa nước ta
với các đối tác vì mục tiêu xây dựng và BVTQ.
- Kết hợp kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại là sự kết hợp nhiều yếu tố, cả yếu
tố bên trong với yếu tố bên ngoài, yếu tố dân tộc với yếu tố thời đại. Sự kết hợp này là nghệ
thuật quy tụ, liên kết những nhân tố không đồng nhất, nhiều hoạt động khác nhau tuân theo
quy luật đặc thù để tạo thành sức mạnh tổng hợp xây dựng và BVTQ. Đây là sự kết hợp các
lực lượng, cả nội lực và ngoại lực, cả vũ trang và phi vũ trang nhằm tạo môi trường hòa
bình, ổn định cho phát triển bền vững. Sức mạnh BVTQ không chỉ là sức mạnh của LLVT,
mà là sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Lực lượng
tiến hành sự nghiệp này không chỉ riêng LLVT mà phải là nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền
lợi của mọi lực lượng, mọi thành phần kinh tế, mọi tổ chức trong hệ thống chính trị. Vì vậy,
kết hợp kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại sẽ cho phép kết hợp được nhiều yếu tố, cả
yếu tố bên trong với yếu tố bên ngoài, yếu tố dân tộc với yếu tố thời đại trong sự nghiệp xây
dựng và BVTQ.
- Kết hợp kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại là yếu tố quan trọng góp phần
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh
toàn cầu hóa, sự hội nhập của nước ta vào môi trường quốc tế không chỉ tác động đến phát
triển kinh tế và an sinh xã hội mà còn tác động đến lĩnh vực QP&AN và đối ngoại. Vì vậy,
làm thế nào để vừa chủ động hội nhập quốc tế an toàn, vừa giữ vững, tăng cường tính độc
lập, tự chủ của nền kinh tế là một nghệ thuật. Kết hợp kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối
ngoại là một giải pháp quan trọng để giải quyết mối quan hệ đó trong tình hình mới.
Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố QP, AN và đối ngoại là
hoạt động tích cực, chủ động của Nhà nước và nhân dân trong việc gắn kết chặt chẽ hoạt
động kinh tế - xã hội, QP, AN và đố i ngoa ̣i trong một chỉnh thế thống nhất trên phạm vi cả
nước cũng như ở từng địa phương, thúc đẩy nhau cùng phát triển, góp phần tăng cường sức
mạnh tổng hợp của quốc gia, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng Chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta xác
định, để thực hiện thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, chúng ta phải
kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối
ngoạitrong một chỉnh thể thống nhất. Quan điểm trên là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, có cơ
sở lý luận và thực tiễn.
6.1.2. Cơ cở lí luận của sự kết hợp.
- Kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại là những mặt hoạt động cơ bản của mỗi
quốc gia, dân tộc độc lập có chủ quyền. Mỗi lĩnh vực có mục đích, cách thức hoạt động
riêng và chịu sự chi phối của hệ thống quy luật riêng. Song giữa chúng lại có mối quan hệ,
tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó kinh tế là yếu tố suy cho đến cùng quyết định đến quốc
phòng, an ninh và đối ngoại; ngược lại quốc phòng, an ninh và đối ngoại cũng có tác động
tích cực trở lại với kinh tế, bảo vệ và tạo điều kiện thúc đẩy cho kinh tế phát triển.
- Kinh tế quyết định đến nguồn gốc ra đời, sức mạnh của QP&AN, lợi ích kinh tế suy
cho đến cùng là nguyên nhân làm nảy sinh các mâu thuẫn và xung đột xã hội. Để giải quyết
các mâu thuẫn đó phải có hoạt động quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
- Bản chất của chế độ kinh tế - xã hội quyết định đến bản chất của quốc phòng, an
ninh và đối ngoại. Xây dựng sức mạnh QP&AN nhằm mục đích bảo vệ và đem lại lợi ích
cho mọi thành viên trong xã hội là do bản chất của chế độ xã hội XHCN quy định; còn tăng
cường sức mạnh QP&AN vì mục đích bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản cầm quyền, thực
hiện chiến tranh xâm lược là do bản chất của chế độ kinh tế - xã hội Tư bản chủ nghĩa quyết
định.
- Kinh tế còn quyết định đến việc cung cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, nhân lực cho hoạt
động QP&AN. Ph. Ănggen đã khẳng định: “Không có gì phụ thuộc vào kinh tế tiên quyết
hơn là chính quân đội và hạm đội”1; “Thắng lợi hay thất bại của chiến tranh đều phụ thuộc
vào điều kiện kinh tế,...”1. Vì vậy, để xây dựng QP&AN vững mạnh phải xây dựng, phát
triến kinh tế.
- Kinh tế quyết định đến số lượng, chất lượng nguồn nhân lực cho quốc phòng, an
ninh và đối ngoại, qua đó quyết định đến tổ chức biên chế của LLVT; quyết định đến đường
lối chiến lược quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Để xây dựng chiến lược quốc phòng, an
ninh và đối ngoạicủa mỗi nước, phải căn cứ vào nhiều yếu tố, trong đó tổ chức biên chế của
LLVT và trang bị vũ khí kỹ thuật hiện có là căn cứ đặc biệt quan trọng. Những yếu tố này
đều phụ thuộc vào nền kinh tế.
- Quốc phòng, an ninh và đối ngoạikhông chỉ phụ thuộc vào kinh tế mà còn tác động
trở lại với kinh tế, xã hội trên cả góc độ tích cực và tiêu cực. QP&AN vững mạnh, đường lối

1
C.Mác, Ph. Ănggen, Toàn tập, tập 20, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.235
đối ngoại tốt sẽ tạo môi trường hòa bình, ổn định lâu dài, tạo điều kiện thuận lợi cho phát
triển kinh tế – xã hội. Quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và đối ngoạitrong
thời bình, ở mức độ nhất định cũng có tác dụng kích thích kinh tế phát triển. Tiêu dùng cho
hoạt động QP&AN một mặt đặt ra cho nền kinh tế phải sản xuất ra sản phẩm hoặc thông qua
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nó; mặt khác, sẽ tạo ra
thị trường tiêu thụ sản phẩm của nền kinh tế.
- Hoạt động QP&AN tiêu tốn đáng kể một phần nguồn nhân lực, vật lực, tài chính
của xã hội. Những tiêu dùng này (theo Lênin) “mất đi” không quay vào tái sản xuất xã hội.
Do đó sẽ ảnh hưởng đến tiêu dùng của xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế.
Hoạt động QP&AN còn ảnh hưởng đến đường lối phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế. Hoạt
động QP&AN còn có thể dẫn đến hủy hoại môi trường sinh thái, để lại hậu quả nặng nề cho
nền kinh tế, nhất là khi chiến tranh xảy ra. Để hạn chế những tác động tiêu cực này, phải kết
hợp tốt tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoạivới phát triển kinh tế - xã hội
vào một chỉnh thể thống nhất.
- Hoạt động đối ngoại: Là tổng thể các hoạt động và quan hệ của một nước vối bên
ngoài.Công tác đối ngoại là lĩnh vực hoạt động phong phú và phức tạp. Các hoạt động đối
ngoại có thể diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, có thể xảy ra trên lãnh thổ của một quốc gia
khác, cũng có thể đồng thời diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới. Các hoạt động đó được tiến
hành nhằm đạt những mục đích chính trị, kinh tế, văn hoá, quốc phòng, an ninh... hoặc kết
hợp các mục đích khác nhau.
Các hoạt động đối ngoại có thể do cơ quan Đảng, Nhà nước, có thể do tổ chức xã hội tiến
hành hoặc cơ quan nhà nước và tổ chức xã hôi phối hợp cùng thực hiện.
- Từ phân tích trên cho thấy, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng
cố QP, AN và đối ngoại là một tất yếu khách quan. Mỗi lĩnh vực hoạt động có nội dung,
phương thức riêng nhưng lại có sự thống nhất ở mục đích chung, cái này là điều kiện tồn tại
của cái kia và ngược lại. Tuy nhiên, cần phải nhận thức rõ mỗi lĩnh vực có quy luật phát
triển đặc thù, do đó, việc kết hợp phải được thực hiện một cách khoa học, hợp lý, cân đối và
hài hòa.
6.1.3. Cơ sở thực tiễn của sự kết hợp.
- Nhìn vào tiến trình phát triển của các quốc gia trên thế giới chúng ta thấy, dù là
nước lớn hay nước nhỏ; kinh tế phát triển hay không phát triển; dù chế độ chính trị như thế
nào thì mỗi quốc gia cũng đều chăm lo thực hiện kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường
cùng cố QP, AN và đối ngoại, kể cả những nước mà hàng trăm năm nay chưa có chiến tranh.
- Tuy nhiên các nước khác nhau, với chế độ chính trị xã hội khác nhau, điều kiện,
hoàn cảnh khác nhau thì sự kết hợp cũng có sự khác nhau về mục đích, nội dung, phương
thức và kết quả. Ngay trong một nước, trong mỗi giai đoạn phát triển thì sự kết hợp cũng
khác nhau.
- Ở Việt Nam, sự kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc
phòng, an ninh và đối ngoại đã có lịch sử lâu dài. Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật
tổn tại, phát triển của dân tộc ta.
- Đứng trước nguy cơ thường xuyên bị đe dọa, xâm lược và thôn tính của các thế lực
thù địch, để xây dựng và phát triển đất nước ông cha ta đã có những chủ trương, kế sách
thực hiện sự kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh
và đối ngoạitrong quá trình dựng nước và giữ nước. Các triều đại phong kiến Việt Nam luôn
lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm trọng, đề ra kế sách giữ nước với tư tưởng “lấy dân làm
gốc”; “dân giàu nước mạnh”; “phú quốc binh cường”; thực hiện “khoan thư sức dân làm kế
sâu rễ bền gốc”; chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc để “yên dân” và “vẹn đất”.
Thực hiện kế sách “ngụ binh ư nông”; “động vi binh, tĩnh vi dân” để vừa phát triển kinh tế,
vừa tăng cường sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc.
- Trong xây dựng, phát triển kinh tế, đã sử dụng nhiều chính sách như khai hoang lập
ấp ở những nơi xung yếu để: “Phục binh sẵn để phá thế giặc dữ” từ xa, phát triển nghề thủ
công để vừa sản xuất ra các công cụ sản xuất vừa sản xuất ra các vũ khí, phương tiện phục
vụ cho toàn dân đánh giặc; chăm lo mở mang đường xá, đào sông ngòi, kênh rạch, xây đắp
đê điều để vừa phát triển kinh tế vừa tạo thế trận đánh giặc, cơ động lực lượng trong chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc.
- Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng, do nắm vững quy
luật và biết kế thừa kinh nghiệm của lịch sử nên đã thực hiện sự kết hợp phát triển kinh tế xã
hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoạimột cách nhất quán bằng
những chủ trương sáng tạo, phù hợp với từng thời kì của cách mạng.
- Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954): Đảng ta đề ra chủ trương:
“vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, “Vừa chiến đấu vừa tăng gia sản xuất, thực hành tiết
kiệm”; vừa thực hiện phát triển kinh tế ở địa phương vừa tiến hành chiến tranh nhân dân
rộng khắp; “Xây dựng làng kháng chiến”. Địch đến thì đánh, địch lui ta lại tăng gia sản xuất.
- Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975): Việc kết hợp phát triển
kinh tế với QP&AN được Đảng ta chỉ đạo thực hiện ở mỗi miền với nội dung và hình thức
thích hợp.
- Ở miền bắc: Để bảo vệ chế độ XHCN và xây dựng hậu phương lớn cho miền nam
đánh giặc Đảng đã đề ra chủ trương: “Trong xây dựng kinh tế, phải thấu suốt nhiê ̣m vụ phục
vụ quốc phòng, cũng như trong củng cố quốc phòng phải khéo sắp xếp cho ăn khớp với công
cuộc xây dựng kinh tế”1. Theo tinh thần đó miền bắc đã xây dựng và phát triển chế độ xã hội
mới, nền kinh tế, văn hóa mới, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; đồng thời kết hợp
chặt chẽ với chăm lo củng cố QP&AN vững mạnh, đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mĩ, bảo vệ vững chắc miền bắc XHCN và chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến
lớn miền nam đánh thắng giặc Mĩ xâm lược.
- Ở miền nam: Đảng chỉ đạo quân và dân ta kết hợp chặt chẽ giữa đánh địch với củng
cố mở rộng hậu phương, xây dựng căn cứ địa miền nam vững mạnh. Đây chính là một điều
kiện cơ bản bảo đảm cho cách mạng nước ta đi đến thắng lợi.
- Ở thời kỳ này, chúng ta phải tập trung cao độ cho nhiệm vụ xây dựng bảo vệ miền
bắc XHCN và giải phóng miền nam, nên việc phát triển kinh tế với tăng cường củng cố
QP&AN được thực hiện dưới nhiều hình thức phong phú, sinh động và thiết thực, đã tạo
được sức mạnh tổng hợp đánh thắng giặc Mĩ xâm lược để lại nhiều bài học quý giá cho thời
kì sau.
- Thời kì cả nước độc lập, thống nhất và đi lên CNXH (từ 1975 đến nay) kết hợp phát
triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoạiđược Đảng ta
khẳng định là một nội dung quan trọng trong đường lối triển khai trên quy mô rộng lớn, toàn
diện hơn. Từ 1986 đến nay, với tư duy mới về kinh tế và quốc phòng, an ninh và đối ngoại,
việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 21, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 535
(1)
ngoại trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, bộ, ban ngành có bước chuyển biến
cả trong nhận thức và tổ chức thực hiện, đã thu được nhiều kết quả quan trọng.
Nhờ chính sách nhất quán về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng
cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoạichúng ta đã phát huy được mọi tiềm năng
cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Trong thời bình, cùng với phát triển kinh tế là chăm lo
củng cố tiềm lực quốc phòng,thế trận quốc phòng. Nhờ vậy khi đất nước bị xâm lược chúng
ta đã động viên được cả nước đồng lòng, toàn dân đánh giặc; kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù. Do vậy, đã góp phần
gìn giữ và phát triển đất nước cho đến ngày hôm nay.
6.2. Nội dung kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc
phòng, an ninh và đối ngoại ở nước ta hiện nay.
6.2.1. Kết hợp trong xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
- Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố QP&AN phải được thể
hiện ngay trong việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia. Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XIII đề ra mục tiêu và phương hướng tổng quát phát triển kinh tế - xã hội 10
năm 2021 - 2030 “Phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại,
thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế
phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ,
đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế;
khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy sức sáng tạo, ý chí và sức mạnh toàn dân
tộc, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương, an toàn, bảo đảm
cuộc sống hạnh phúc của người dân; không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt của nhân
dân; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; nâng
cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường Quốc tế. Phấn đấu đến năm 2045 trở thành
nước phát triển, thu nhập cao”(1).
- Như vậy trong mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã bao quát toàn diện các vấn đề
của đời sống xã hội, trong đó nổi lên 4 vấn đề lớn là: Tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ xã
hội, tăng cường quốc phòng và an ninh và mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm giải quyết hài
hòa 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
- Sự kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối
ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế được thể hiện ngay trong việc hoạch định mục tiêu
phát triển quốc gia, trong huy động nguồn lực, trong lựa chọn và thực hiện các giải pháp
chiến lược.
- Sự kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoạisẽ
phát huy sức mạnh của từng lĩnh vực kết hợp với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp, quy tụ
mọi lực lượng, nguồn lực trong nước và quốc tế nhằm hoàn thành thắng lợi mục tiêu của
chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.
6.2.2. Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và
đối ngoại trong phát triển các vùng lãnh thổ.
- Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố QP&AN theo vùng lãnh thổ là
sự gắn kết chặt chẽ phát triển vùng kinh tế chiến lược với xây dựng chiến lược quốc phòng
và an ninh nhằm tạo ra thế bố trí chiến lược mới về cả kinh tế lẫn QP&AN trên địa bàn từng

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
(1)

2021, tr. 217-218.


tỉnh, từng vùng lãnh thổ, thành phố theo ý đồ phòng thủ chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam bền vững trên toàn cục và mạnh ở từng trọng điểm.
- Hiện nay nước ta đã phân chia thành các vùng kinh tế lớn và các vùng chiến lược, các quân
khu (Sự phân vùng chiến lược QP&AN là sự phân vùng theo ý đồ phòng thủ và tác chiến
bảo vệ Tổ quốc trên từng chiến trường, từng hướng chiến lược của đất nước). Mỗi vùng đều
có vị trí chiến lược về phát triển kinh tế và chiến lược phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, về
lâu dài đều phải quan tâm chỉ đạo kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế xã hội với xây dựng lực
lượng, thế trận QP&AN trên từng vùng lãnh thổ và giữa các vùng với nhau, trong thế trận
phòng thủ chung.
- Các vùng chiến lược khác nhau có sự khác nhau về đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ phát triển
kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoạinên nội dung kết hợp cụ thể trong mỗi vùng có thể
có sự khác nhau, Song việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối
ngoạiở vùng lãnh thổ cũng như ở địa bàn mỗi tỉnh, thành phố phải được thể hiện 5 nội dung
chủ yếu sau:
Một là: Kết hợp trong xây dựng chiến lược quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội với
quốc phòng an ninh của vùng, cũng như trên địa bàn từng tỉnh, thành phố.
Hai là: Kết hợp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, địa phương với xây dựng
khu vực phòng thủ then chốt, cụm chiến đấu liên hoàn, xã, phường, huyện, tỉnh.
Ba là: Kết hợp trong quá trình phân công lại lao động của vùng, phân bố lại dân cư với tổ
chức xây dựng, điều chỉnh, sắp xếp, bố trí lực lượng quốc phòng và an ninh trên từng địa
bàn, lãnh thổ cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội và kế hoạch phòng thủ và
bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm ở đâu có đất, có biển, đảo là ở đó có dân và lực lượng QP&AN để
bảo vệ cơ sở, bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là: Kết hợp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế với công trình quốc phòng quân sự,
phòng thủ dân sự, thiết bị chiến trường. Đảm bảo tính lưỡng dụng trong mỗi công trình được
xây dựng.
Năm là: Kết hợp xây dựng sơ cở, kinh tế vững mạnh toàn diện rộng khắp với căn cứ chiến
đấu, căn cứ hậu phương vững chắc cho mỗi vùng và ở các địa phương để sẵn sàng đối phó
khi có chiến tranh xâm lược.
Trên cơ sở kết hợp quan điểm toàn cục nói trên, xuất phát từ sự phân tích đặc điểm tiềm
năng phát triển kinh tế cũng như vị trí địa lý, chính trị, quân sự, QP&AN của các vùng lãnh
thổ, kinh tế trọng điểm trong cả nước. Hiện nay Đảng ta xác định “Kết hợp chặt chẽ phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh trên từng vũng
lãnh thổ, trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển đảo, khu kinh tế, khu công nghiệp trọng
điểm”(1).
6.2.2.1. Đối với các vùng kinh tế trọng điểm.
Hiện nay, nước ta xác định 4 vùng kinh tế trọng điểm: Vùng kinh tế trọng điểm Bắc
bộ (Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc); Vùng
Kinh tế trọng điểm Nam bộ (TP.HCM, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Tây
Ninh, Bình Phước, Long An, Tiền Giang); Vùng Kinh tế trọng điểm Trung bộ (Đà Nẵng,
Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định); Vùng Kinh tế trọng điểm Đồng

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
(1)

2021, tr. 278.


bằng sông Cửu Long (TP Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Cà mau). Các vùng kinh tế trọng
điểm nói trên đều là nòng cốt cho việc phát triển kinh tế của từng miền và cho cả nước.
Về kinh tế, các vùng kinh tế trọng điểm là nơi có mật độ dân cư và tính chất đô thị hóa cao,
gắn liền với các khu công nghiệp lớn, đặc khu kinh tế, các liên doanh có vốn đầu tư nước
ngoài. Đây cũng là nơi tập trung các đầu mối giao thông quan trọng, các sân bay, bến cảng,
kho tàng, dịch vụ…
Về QP&AN, mỗi vùng kinh tế trọng điểm thường nằm trong các khu vực phòng thủ và
phòng thủ then chốt của đất nước, nơi nhiều đối tượng, mục tiêu quan trọng phải được bảo
vệ; đồng thời cũng là nơi nằm trên các hướng có khả năng là hướng tiến công chiến lược chủ
yếu trong chiến tranh xâm lực của địch; hoặc đã và đang là địa bàn trọng điểm để địch thực
hiện chiến lược “DBHB”, BLLĐ với nước ta. Vì vậy, phải thực hiện thật tốt phát triển kinh
tế, gắn với củng cố tăng cường QP&AN trên các vùng này.
* Nội dung:
- Trong quy hoạch, kế hoạch xây dựng các thành phố, các khu công nghiệp cần lựa chọn quy
mô trung bình, bố trí phân tán, trải đều trên diện rộng, không nên xây dựng tập trung thành
siêu đô thị lớn để thuận lợi cho quản lí, giữ gìn an ninh chính trị trong thời bình và hạn chế
hậu quả tiến công hỏa lực của địch khi có chiến tranh.
- Phải kết hợp chặt chẽ trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với kết cấu hạ tầng của nền
QPTD. Gắn xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với xây dựng các công trình phòng thủ, các
thiết bị chiến trường, các công trình phòng thủ dân sự…về lâu dài, ở các thành phố đô thị
các khu kinh tế tập trung cần có quy hoạch từng bước xây dựng hệ thống “công trình ngầm
lưỡng dụng”. Phải bảo vệ, bảo tồn các địa hình địa vật, các khu vực có giá trị về phòng thủ,
khi bố trí các cơ sở sản xuất, các công trình kinh tế, phê duyệt dự án đầu tư nước ngoài.
Khắc phục tình trạng chỉ chú ý quan tâm đến lợi thế, hiệu quả kinh tế trước mắt mà quên đi
nhiệm vụ QP&AN và ngược lại khi bố trí các khu vực phòng thủ, các công trình quốc
phòng, chỉ chú ý đến các yếu tố bảo đảm QP&AN mà không tính đến lợi ích kinh tế.
- Trong quá trình xây dựng các khu công nghiệp tập trung, đặc khu kinh tế phải có sự gắn
kết với quy hoạch xây dựng lực lượng QP&AN, các tổ chức chính trị đoàn thể trong các tổ
chức kinh tế đó. Lựa chọn đối tác đầu tư, bố trí xen kẽ, tạo thế đan cài lợi ích giữa các nhà
đầu tư nước ngoài trong khu công nghiệp, đặc khu kinh tế, khu chế xuất.
- Việc xây dựng, phát triển kinh tế ở các vùng kinh tế trọng điểm phải nhằm đáp ứng nhu
cầu dân sinh thời bình và cho việc chuẩn bị đáp ứng nhu cầu chi viện cho các chiến trường
khi xảy ra chiến tranh. Kết hợp phát triển kinh tế tại chỗ với xây dựng căn cứ hậu phương
của từng vùng kinh tế trọng điểm để sẵn sàng chủ động di dời, sơ tán đến nơi an toàn khi có
tình huống chiến tranh xâm lược.
6.2.2.2. Đối với các vùng núi, biên giới.
Vùng núi biên giới của nước ta có chiều dài tiếp giáp với Trung Quốc, Lào, Campuchia. Đây
là địa bàn sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc ít người, mật độ dân số thấp (trung bình
20 - 40 người/1km2), kinh tế chưa phát triển, trình độ dân trí thấp, đời sống dân cư còn nhiều
khó khăn. Vùng núi biên giới có tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phòng thủ bảo vệ
Tổ quốc. Trước đây các vùng này đã từng là căn cứ địa kháng chiến, hậu phương chiến lược
của cả nước. Ngày nay, trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, các vùng núi biên giới vẫn là vùng
chiến lược hết sức trọng yếu. Trong khi đó, ở đây còn nhiều khó khăn yếu kém về kinh tế xã
hội QP&AN dễ bị kẻ thù lợi dụng để lôi kéo, kích động đồng bào để thực hiện âm mưu
chiến lược “DBHB” bạo loạn lật đổ, nhiều nơi tình hình rất phức tạp. Vì vậy, trước mắt cũng
như lâu dài việc phát triển kinh tế với quốc phòng ở vùng biên giới là cực kì quan trọng.
* Nội dung:
- Phải quan tâm đầu tư phát triển kinh tế củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoạiở các
vùng cửa khẩu các vùng giáp biên giới với các nước.
- Phải tổ chức tốt việc định canh định cư tại chỗ và có chính sách phù hợp để động viên điều
chỉnh dân số từ các nơi đến vùng núi biên giới.
- Tập trung xây dựng các xã trọng điểm về kinh tế quốc phòng. Trước hết, cần phải tập trung
xây dựng phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở mới. Mở và nâng cấp các tuyến đường dọc ngang
và các tuyến đường vành đai kinh tế.
- Thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo chương trình 135 về phát triển kinh tế xã
hội đối với các xã nghèo.
- Đối với những nơi có địa thế quan trọng, vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn cần kết hợp
mọi nguồn lực, lực lượng của cả trung ương và địa phương để cùng giải quyết.
- Đặc biệt với các địa bàn chiến lược trọng yếu dọc sát biên giới, cần có chính sách động
viên và sử dụng lực lượng vũ trang, lực lượng quân đội làm nòng cốt xây dựng các khu kinh
tế quốc phòng hoặc các khu quốc phòng - kinh tế, nhằm tạo thế lực mới cho phát triển kinh
tế xã hội và tăng cường sức mạnh QP&AN.
6.2.2.3. Đối với các vùng biển, đảo
Nước ta có vùng biển vừa dài vừa rộng, có diện tích hơn 1 triệu km2 (gấp 3 lần diên tích đất
liền). Vùng biển đảo nước ta có nhiều tiềm năng về hải sản và khoáng sản, là cửa ngõ thông
thương giao lưu quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài có khả năng phát triển một số ngành mũi
nhọn của đất nước trong tương lai. Tuy nhiên, việc khai thác lợi thế đó của ta còn nhiều hạn
chế, đặc biệt, vùng biển đảo của ta hiện nay đang có nhiều tranh chấp phức tạp, chứa đựng
nhiều nguy cơ đe dọa chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc rất dễ bùng nổ xung đột. Trong khi
đó, chúng ta lại chưa có chiến lược tổng thể hoàn chỉnh về việc phát triển kinh tế biển và bảo
vệ biển đảo. Lực lượng trên còn quá mỏng. Vì vậy, việc quan tâm thực hiện sự phát triển
kinh tế xã hội với tăng cường QP&AN trên vùng biển đảo đòi hỏi bức bách và rất quan trọng
cả trước mắt cũng như lâu dài, nhằm nhanh chóng tạo ra thế và lực đủ sức bảo vệ, làm chủ
toàn diện vùng biển đảo, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế biển phát triển nhằm làm giàu
cho Tổ quốc.
6.2.3. Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố, quốc phòng, an ninh và
đối ngoại trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế chủ yếu
6.2.3.1. Kết hợp trong công nghiệp:
Công nghiệp là nghành kinh tế quan trọng của quốc gia, cung cấp máy móc, nguyên
nhiên liệu cho các nghành kinh tế khác và cho chính nó cũng như cho công nghiệp quốc
phòng; sản xuất sản phẩm tiêu dùng cho xã hội, phục vụ sản xuất; sản xuất ra vũ khí, trang
thiết bị quân sự đáp ứng nhu cầu của hoạt động QP&AN. Nội dung kết hợp kinh tế xã hội
với quốc phòng, an ninh và đối ngoạitrong phát triển công nghiệp là:
- Kết hợp ngay từ khâu quy hoạch bố trí các đơn vị kinh tế của nghành công nghiệp.
Bố trí một cách hợp lí trên các vùng lãnh thổ, quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế
kém phát triển, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
- Tập trung đầu tư phát triển một số nghành công nghiệp liên quan đến quốc phòng
như cơ khí chế tạo, điện tử, công nghiệp, điện tử kĩ thuật cao, luyện kim, hóa chất, đóng tàu
để vừa đáp ứng nhu cầu trang bị cơ giới cho nền kinh tế, vừa có thể sản xuất ra một số sản
phẩm kĩ thuật công nghệ cao phục vụ QP&AN.
- Phát triển công nghiệp quốc gia theo hướng mỗi nhà máy, xí nghiệp vừa có thể sản
xuất hàng dân dụng, vừa có thể sản xuất hàng quân sự. Kết hợp trong đầu tư nghiên cứu,
sáng chế, chế tạo, sản xuất các mặt hàng có tính lưỡng dụng cao trong các nhà máy và ở một
số cơ sở công nghiệp nặng.
- Các nhà máy công nghiệp quốc phòng trong thời bình, ngoài việc sản xuất ra hàng
quân sự phải tham gia sản xuất hàng dân sự chất lượng cao, phục vụ tiêu dùng trong nước và
suất khẩu. Nhà nước cần tập trung xây dựng một số nhà máy mũi nhọn, có thể tham gia
nghiên cứu, sáng chế và sản xuất một số mặt hàng quân sự đáp ứng trang bị cho LLVT,
trong đó tập trung vào một số nghành như cơ khí luyện kim, cơ khí chế tạo, điện tử, tin học,
hóa dầu.
- Mở rộng liên doanh, liên kết giữa nghành công nghiệp nước ta (bao gồm cả công
nghiệp quốc phòng) với công nghiệp của các nước tiên tiến trên thế giới; ưu tiên những
nghành có tính lưỡng dụng cao.
- Thực hiện chyển giao công nghệ hai chiều, từ công nghiệp quốc phòng vào công
nghiệp dân dụng và ngược lại.
- Phát triền hệ thống phòng không không nghiệp và phát triển lực lượng tự vệ để bảo
vệ các nhà máy, xí nghiệp trong cả thời bình và thời chiến.
- Xây dựng kế hoạch động viên công nghiệp quốc gia phục vụ thời chiến; thực hiện
dự trữ chiến lược các nguyên, nhiên vật liệu quý hiểm cho sản xuất quân sự.
6.2.3.2. Kết hợp trong nông, lâm, ngư nghiệp:
Kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại
trong các lĩnh vực này cần tập trung chú ý các vấn đề sau:
- Kết hợp nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đất, rừng, biển, đảo và lực lượng lao
động để phát triển đa dạng các nghành trong nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, làm ra nhiều sản phẩm hàng hóa có giá trị cao
phục vụ tiêu dùng trong nước, xuất khẩu và có lượng dự trữ dồi dào về mọi mặt cho
QP&AN.
- Kết hợp trong nông, lâm, ngư nghiệp gắn với việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội
như xóa đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, chăm sốc sức khỏe, đền ơn đáp nghĩa, nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, xây dựng nông thôn mới văn minh và hiện đại.
Bảo đảm an ninh lương thực và an ninh nông thôn, góp phần tạo thế trận phòng thủ, “thế
trận lòng dân” vững chắc.
- Phải kết hợp gắn việc động viên đưa dân ra lập nghiệp ở các đảo để xây dựng các
làng, xã, huyện đảo vững mạnh với chú trọng đầu tư xây dựng phát triển các hợp tác xã, các
đội tàu thuyền đánh cá xa bờ, xây dựng lực lượng tự vệ, lực lượng dân quân biển, đảo; phối
hợp chặt chẽ với lực lượng Hải quân và Cảnh sát biển để bảo về biển, đảo.
- Phải đẩy mạnh phát triển trồng rừng gắn với công tác định canh định cư, xây dựng
các cơ sở chính trị vững chắc ở các vùng rừng núi biên giới nước ta, đặc biệt là ở Tây Bắc,
Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.
6.2.3.3. Kết hợp giao thông vận tải, bưu điện, y tế, khoa học - công nghệ, giáo dục và xây
dựng cơ bản
* Kết hợp giao thông vận tải
- Phát triển trong hệ thống giao thông vận tải đồng bộ cả đường bộ, đường sắt, đường
không, đường thủy, đáp ứng nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa trong nước vào mở rộng
giao lưu ở bên ngoài.
- Trong xây dựng các mạng đường bộ cần chú trọng mở rộng, nâng cấp cáo tuyến trục
đường Bắc - Nam với tuyến đường trục dọc Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh. Từ các tuyến
đường này phải phát triển các tuyến đường ngang, nối liền giữa các tuyến trục dọc với nhau
và phát triển đến các huyện, xã trong nước, nhất là đến các xã vùng cao, vùng sâu, miền núi
biên giới, xây dựng các tuyến đường vành đai biên giới.
- Trong thiết kế, thi công các công trình giao thông vận tải, đặc biệt là các tuyến vận
tải chiến lược, phải tính đến cả nhu cầu hoạt động thời bình và thời chiến, nhất là cho các
phương tiện cơ động của lực lượng vũ trang có trọng tải và lưu lượng vận chuyển lớn, liên
tục. Ở những đầu nút giao thông, nhưng nơi dự kiến địch có thể đánh phá trong chiến tranh,
phải có kế hoạch làm nhiều đường vòng tránh. Bên cạnh các cây cầu lớn qua sông, phải làm
sẵn những bến phà, bến vượt ngầm. Ở những đoạn đường có địa hình cho phép thì làm
những đường hầm xuyên núi, cải tạo các hang động sẵn có dọc hai bên đường làm kho trạm,
nơi trú quân khi cần thiết.
- Phải thiết kế, xây dựng lại hệ thống đường ống dẫn dầu Bắc - Nam, chôn sâu bí mật,
có đường vòng tránh trên từng cung đoạn, bảo đảm hoạt động an toàn cả thời bình và thời
chiến.
- Ở các vùng đồng bằng ven biển, đi đôi với phát triển hệ thống đường bộ, cần chú
trọng cải tạo, phát triển đường sông, đường biển, xây dựng các cảng sông, cảng biển, bảo
đảm đi lại, bốc dỡ thuận tiện.
- Việc mở rộng nâng cấp sân bay phải chú ý cả sân bay ở chuyến sau, ở sâu trọng nội
địa, sân bay dã chiến và có kế hoạch sử dụng cả đường cao tốc làm đường băng cho máy bay
khi cần thiết trong chiến tranh.
- Trong một số tuyến đường xuyên Á, sau này được xây dựng qua Việt Nam, ở những
nơi của khẩu, nơi tiếp giáp các nước bạn phải có kế hoạch xây dựng các khu vực phòng thủ
kiên cố, vững chắc, đề phòng khả năng địch sử dụng các tuyến đường này khi tiến công xâm
lược nước ta với quy mô lớn.
- Xây dựng kế hoạch động viên giao thông vận tải cho thời chiến.
* Kết hợp Bưu chính viễn thông
- Phải kết hợp chặt chẽ giữa nghành bưu điện quốc gia với nghành thông tin quân đội,
công an để phát triển hệ thống thông tin quốc gia hiện đại, đảm bảo nhanh chóng, chính xác,
an toàn thông tin liên lạc phục vụ lãnh đạo chỉ huy, điều hành đất nước trong mọi tình
huống, cả thời bình và thời chiến
- Có phương án thiết kế xây dựng và bảo vệ hệ thống thông tin liên lạc một cách vững
chắc trong mọi tình huống.
- Có phương tiện thông tin liên lạc và điện tử cần phải được bảo đảm bí mật và có khả
năng chống nhiễu cao, lựa chọn đối tác, có phương án chống âm mưu phá hoại của địch.
- Xây dựng kế hoạch động viên thông tin liên lạc cho thời chiến.
* Kết hợp trong xây dựng cơ bản
- Đây là lĩnh vực sẽ có nhiều phát triển cả quy mô và trình độ trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những công trình này không dễ gì có thể phá đi làm lại,
cho nên việc thực hiện trong ngành xây dựng phải được tiến hành ngay từ đầu, từ khảo sát
điều tra, thiết kế, quy hoạch dự án đầu tư đến thi công trong xây dựng.
- Khi xây dựng bất cứ công trình nào, ở đâu, quy mô nào cũng phải tính đến yếu tố tự
bảo vệ và có thể chuyển hóa phục vụ được cả trong QP&AN, cho phòng thủ tác chiến và
phòng thủ dân sự.
- Khi xây dựng các thành phố đô thi, phải gắn với các khu vực phòng thủ địa phương,
phải xây dựng các công trình ngầm (nhà cao tầng có tầng ngầm,giao thông có đường giao
thông ngầm).
- Khi xây dựng các khu công nghiệp tập trung, các nhà máy, xí nghiệp lớn, quan
trọng đều phải tính đến khả năng bảo vệ và di dời khi cần thiết. Nếu điều kiện cho phép, phải
biết tận dụng các địa hình, địa vật sẵn có để tăng tính bảo vệ cho công trình. Hạn chế xâm
phạm các địa hình có giá trị về phòng thủ quân sự, quốc phòng, và bảo vệ Tổ quốc.
- Đối với các xí nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, cần kết hợp trong nghiên cứu sáng
chế, chế tạo những vật liệu siêu bền, có khả năng chống xuyên, chông mặn, chống bức xạ,
dễ vận chuyển phụ vụ xây dựng các công trình phòng thủ, công sự địa chất của lực lượng vũ
trang và của các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố.
- Khi cấp phép đầu tư xây dựng cho các đối tác nước ngoài, phải có sự tham gia ý
kiến của cơ quan quân sự có thẩm quyền.
* Kết hợp trong khoa học - công nghệ và giáo dục
Đây là lĩnh vực đóng vai trò nền tảng, động lực, là quốc sách hàng đầu đối với sự
phát triển của quốc gia. Vì vậy, sự kết hợp là tất yếu, không chỉ là vấn đề cơ bản lâu dài mà
còn là vấn đề cấp bách hiện nay. Nội dung kết hợp cần tập trung vào:
- Phải phối hợp chặt chẽ và toàn diện hoạt động giữa các nghành khoa học và công
nghệ then chốt của các nước và các nghành khoa học của QP&AN trong việc hoạch định
chiến lược nghiên cứu phát triển và quản lí sử dụng phục vụ cho cả xây dựng và bảo vê Tổ
quốc.
- Nghiên cứu ban hành chính sách khuyến khích các tổ chức,cá nhân có đề tài khoa
học, dự án công nghệ và sản xuất các sản phẩm có ý nghĩa vừa phục vụ cho nhu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đât nước, vừa phục vụ nhu cầu QP&AN, bảo vệ Tổ quốc. Đồng
thời, có chính sách đầu tư thỏa đáng cho lĩnh vực nghiên cứu khoa học quân sự, khoa học xã
hội nhân văn quân sự, khoa học kĩ thuật quân sự, khoa học xã hội nhân văn quân sự, khoa
học kĩ thuật quân sự.
- Coi trọng giáo dục bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài của đất nước, đáp ứng cả sự
nghiệp xây dựng phát triển kinh tế xã hội, cả quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Thực hiện có
hiệu quả công tác giáo dục QP&AN cho các đối tượng, đặc biệt là trong các trường thuộc hệ
thống giáo dục quốc dân.
* Kết hợp trong lĩnh vực y tế
- Phối hợp, kết hợp chặt chẽ giữa các nghành y tế dân sự với y tế quân sự trong
nghiên cứu, ứng dụng, trong đào tạo nguồn nhân lực, trong khám chữa bệnh cho nhân dân,
bộ đội và cho người nước ngoài.
- Xây dựng mô hình quân dân y kết hợp trên các địa bàn, đặc biệt là ở miền núi, biên
giới, hải đảo.
- Xây dựng kế hoạch động viên y tế dân sự cho quân sự khi có chiến tranh xảy ra.
- Phát huy vai trò của y tế quân sự trong phòng chống, khám chữa bệnh cho nhân dân
thời bình và thời chiến.
6.2.4. Kết hợp trong thực hiện nhiệm vụ chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
- Tổ chức biên chế và bố trí LLVT phải phù hợp với điều kiện kinh tế và nhu cầu
phòng thủ trong nước.
- Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất kĩ thuật trong huấn
luyện, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của LLVT.
- Khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của quân đội, công an cho phát triển kinh
tế - xã hội.
- Phát huy tốt vai trò tham mưu của các cơ quan quân sự, công an các cấp trong việc
thẩm định, đánh giá các dự án đầu tư, nhất là các dự án đầu tư có vốn nước ngoài.
6.2.5. Kết hợp trong hoạt động đối ngoại
Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII thì phương hướng đối ngoại trong thời gian
tới, đó là:
Một là, “Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất
nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước “Vai trò tiên phong của đối ngoại” không chỉ có
ngoại giao mà cả quốc phòng, an ninh và các binh chủng khác, trong sự phối hợp liên ngành
dưới sự chỉ đạo và quản lý thống nhất của Đảng và Nhà nước. Trong thời bình, công tác đối
ngoại sẽ tiếp tục là một mặt trận quan trọng, cùng với quốc phòng - an ninh đóng vai trò tiên
phong, góp phần bảo vệ an ninh, độc lập và chủ quyền đất nước.
Hai là,Đối ngoại phải “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác,
cùng có lợi”. Lợi ích quốc gia - dân tộc đã, đang và sẽ tiếp tục là kim chỉ nam, tiêu chí cao
nhất trong triển khai hoạt động đối ngoại.
Ba là,“Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc
lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu
quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”. Độc lập, tự
chủ là cơ sở, tạo ra sức mạnh nội sinh để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế.
Bốn là, Tư duy về đối ngoại song phương và đa phương có những bước phát triển
mới. Về song phương, chúng ta cần tiếp tục đưa các mối quan hệ đối ngoại song phương đi
vào chiều sâu, đồng thời cần “tạo thế đan xen lợi ích” và “tăng độ tin cậy”. Đối ngoại đa
phương cần “Chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong
xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế” và “trong
những vấn đề, các cơ chế quan trọng, có tầm chiến lược đối với lợi ích Việt Nam, phù hợp
với khả năng và điều kiện cụ thể
Năm là, Đối ngoại tham gia cùng quốc phòng, an ninh và cả hệ thống chính trị vào
việc bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định của đất nước, giữ nước từ sớm, từ xa. Về an ninh
quốc gia, văn kiện nêu rõ “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành
động can thiệp của các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước”. Về bảo vệ
chủ quyền, biển đảo: “Tiếp tục thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển, an ninh, an toàn
hàng hải, hàng không trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về
Luật Biển năm 1982. Củng cố đường biên giới hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển; giải
quyết các vấn đề còn tồn tại liên quan đến đường biên giới trên bộ với các nước láng giềng”.
Đối ngoại cũng phải “Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối
ngoại, không để bị động, bất ngờ”.
Sáu là, Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát
triển kinh tế và đời sống, hòa nhập xã hội nước sở tại. Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ
công dân, quản lý lao động, du học sinh… Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản
sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc.
Bảy là,“xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng,
ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”.
Tám là, Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi mới
sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng
trước chuyển biến của tình hình.
6.3. Một số giải pháp chủ yếu thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng
cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở Việt Nam hiện nay
6.3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lí nhà nước, của chính quyền
các cấp trong thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc
phòng, an ninh và đối ngoại.
- Kết hợp kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại vừa là chủ trương chiến lược của
Đảng, vừa là phương thức xây dựng và BVTQ trong thời kỳ mới. Vì vậy, cần thường xuyên
quán triệt sâu sắc chủ trương này trong toàn xã hội, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ trì trong
hệ thống chính trị, nhằm thống nhất cả nhận thức và hành động. Phải thấy rằng, kết hợp kinh
tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại là chủ trương đầu tư cho phát triển bền vững, là trách
nhiệm của toàn dân, trong đó sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng; trách nhiệm quản lý nhà nước
của Chính phủ giữ vai trò quyết định.
- Sự kết hợp này chỉ đạt hiệu quả cao khi mọi tổ chức và cá nhân trong hệ thống
chính trị có nhận thức đầy đủ và phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của mình. Do vậy, cần làm
tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nhất là công tác GDQP&AN, để toàn dân nhận thức sâu
sắc trách nhiệm và tự giác tham gia thực hiện kết hợp kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối
ngoại. Cùng với đó là năng lực, trình độ về chuyên môn nghiệp vụ, trình độ về chính trị và ý
thức quốc phòng, BVTQ, xây dựng đất nước giàu mạnh của các chủ thể phải không ngừng
được bồi đắp, ngày càng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.
- Để nâng cao hiệu lực quản lí nhà nước của chính quyền các cấp trong kết hợp phát
triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoạiphải:
+Từng cấp làm đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật và nghị định
119/2004/NĐ - CP của chính phủ đã ban hành ngày 11/5/2004.
+Xây dựng chỉ đạo, thực hiện các kế hoạch quy hoạch kết hợp phát triển kinh tế xã
hội với củng cố QP&AN ở ngành, bộ, địa phương dài hạn, hàng năm.
+Đổi mới, nâng cao quy trình, biện pháp quản lí điều hành của các cấp từ khâu lập kế
hoạch, quy hoạch, nắm tình hình, thu thập, xử lí thông tin, định hướng hoạt động…
6.3.2. Bồi dưỡng, nâng cao kiến thức kinh nghiệm kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với
củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại cho các đối tượng.
Sự kết hợp này chỉ đạt hiệu quả cao khi mọi tổ chức và cá nhân trong hệ thống chính
trị có nhận thức đầy đủ và phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của mình. Do vậy, cần làm tốt
công tác bồi dưỡng, tuyên truyền, giáo dục, nhất là công tác giáo dục QP&AN, để toàn dân
nhận thức sâu sắc trách nhiệm và tự giác tham gia thực hiện kết hợp kinh tế, quốc phòng, an
ninh và đối ngoại. Cùng với đó là năng lực, trình độ về chuyên môn nghiệp vụ, trình độ về
chính trị và ý thức quốc phòng, BVTQ, xây dựng đất nước giàu mạnh của các chủ thể phải
không ngừng được bồi đắp, ngày càng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.
- Đối tượng bồi dưỡng:
Phổ cập kiến thức QP&AN cho toàn dân, đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp, bộ, ngành,
đoàn thể.
- Nội dung bồi dưỡng:
Căn cứ vào đối tượng, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra để lựa chọn nội dung chương trình bồi
dưỡng phù hợp thiết thực nhằm nâng cao kiến thức kinh nghiệm năng lực thực tiễn của từng
loại đối tượng.
- Hình thức bồi dưỡng:
Kết hợp bồi dưỡng tại trường với tại chức, lí thuyết với thực hành.
6.3.3. Xây dựng chiến lược tổng thể kết hợp phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh và đối ngoại.
Trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch chiến lược tổng thể về kết hợp phát triển kinh tế
- xã hội với QP&AN và đối ngoại trong thời kì mới phải có sự kết hợp đồng bộ giữa các bộ
ngành địa phương từ khảo sát, đánh giá nguồn lực. Trên cơ sở đó xác định mục tiêu, phương
hướng phát triển và đề ra các chính sách đúng đắn.
6.3.4. Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật cơ chế chính sách có liên quanđến thực hiện kết
hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại
trong thời kì mới.
- Để tạo hành lang pháp lý cho việc quản lý, điều hành của Chính phủ và cơ sở pháp
lý để các bộ, ngành, địa phương tổ chức thực hiện, cần thể chế hoá chủ trương kết hợp kinh
tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Đảng bằng hệ thống luật và văn bản quy phạm
pháp luật; trong đó, quy định rõ trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương trong lãnh đạo,
chỉ đạo và tổ chức thực hiện.
- Trước mắt, cần có quy chế phối hợp giữa các bộ: Quốc phòng, Công an, Ngoại giao,
Công thương… và một số ngành kinh tế chủ đạo. Về lâu dài, cần có các chế tài bắt buộc
thực hiện kết hợp kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; gắn kết các chiến lược và chính
sách phát triển KT-XH với chiến lược, chính sách QP-AN và đối ngoại; đồng thời, cần
nghiên cứu xây dựng chiến lược kết hợp kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong
phạm vi cả nước.
- Đảng và Nhà nước có chính sách khai thác nguồn lực và vốn đầu tư trong và ngoài
nước để thưc hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội và QP&AN, nhất là đối với công trình
trọng điểm.
- Phải có chính sách khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần với các tổ chức, các
nhân, nhà đầu tư có đề tài khoa học, dự án công nghệ sản xuất, xây dựng có hiệu quả cao.
6.3.5. Củng cố kiện toàn và phát huy vai trò tham mưu của cơ quan chuyên trách quốc
phòng, an ninh các cấp.
-Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội và QP, AN và đối goại là tất yếu khách quan, nội
dung quan trọng trong đường lối phát triển của đất nước. Thực hiện thắng lợi 2 nhiệm vụ
chiến lược, xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
- Để thực hiện tốt nhiệm vụ kết hợp phát triển kinh tế - xã hội, QP-AN và đối goại cần quán
triệt thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó phải quán triệt sâu sắc 2 nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng Việt Nam cho toàn dân, nhất là sinh viên. Quá trình kết hợp phải đươc triển
khai có kế hoạch, có cơ chế chính sách cụ thể, chặt chẽ và đồng bộ.

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN

1. Phân tích tính tất yếu phải kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố QP,
ANvà đối ngoại ở nước ta hiện nay ?
2. Nội dung, phương thức kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố QP, AN
và đối ngoại ở nước ta hiện nay ?
3. Các biê ̣n pháp chủ yếu thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng
cố QP, AN và đối ngoại ở Việt Nam hiện nay ?

Chương 7
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LỊCH SỬ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ
VIỆT NAM

7.1. Truyền thống và nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta
7.1.1. Đất nước trong buổi đầu lịch sử
Cách đây mấy nghìn năm từ khi các Vua Hùng mở nước Văn Lang lịch sử dân tộc
Việt Nam bắt đầu thời đại dựng nước và giữ nước. Do yêu cầu tự vệ trong chống giặc ngoại
xâm và yêu cầu làm thủy lợi của nền kinh tế đã tác động mạnh mẽ đến sự hình thành của nhà
nước đầu tiên của nước ta, có lãnh thổ rộng và vị trí địa lý quan trọng nằm trên đầu mối giao
thông quan trọng qua bán đảo Đông Dương và vùng Đông Nam Á.
Nền văn minh sông hồng còn gọi là văn minh Văn Lang mà đỉnh cao là văn hóa Đông
Sơn thành quả đáng tự hào của thời đại Hùng Vương.
Do có vị trí địa lý thuận lợi, nước ta luôn bị các thế lực ngoại xâm nhòm ngó. Sự xuất
hiện các thế lực thù địch và âm mưu thôn tính mở rộng lãnh thổ của chúng là nguy cơ đe dọa
trực tiếp vận mệnh đất nước ta. Do vậy yêu cầu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập và
cuộc sống đã sớm xuất hiện trong lịch sử dân tộc ta. Người Việt Nam muốn tồn tại bảo vệ
cuộc sống và nền văn hóa của mình chỉ có con đường duy nhất là đoàn kết đứng lên đánh
giặc giữ nước.
7.1.2. Những yếu tố tác động đến việc hình thành nghệ thuật đánh giặc
7.1.2.1. Về địa lý
- Nhà nước Văn Lang trước kia, nhà nước Việt Nam ngày nay có vị trí chiến lược
quan trọng ở khu vực Đông Nam Á và biển Đông, có hệ thống giao thông đường bộ, đường
biển, đường sông, đường không bảo đảm giao lưu trong khu vực châu Á và thế giới thuận
lợi.
- Đã từ lâu, nhiều kẻ thù luôn nhòm ngó, đe dọa và tiến công xâm lược. Để bảo vệ đất
nước, bảo vệ sự trường tồn của dân tộc, ông cha ta đã đoàn kết và phát huy tối đa ưu thế của
địa hình để lập thế trận đánh giặc. Như Nguyễn Trãi đã viết “Quan hà bách nhị do thiên
thiết” nghĩa là địa hình nước Nam hiểm yếu, dễ phòng thủ khó tiên công hai người có thể
chống được trăm người.
7.1.2.2. Về kinh tế
- Kinh tế nước ta là nền kinh tế tự cung, tự cấp, sản xuất nông nghiệp là chính, trong
đó trồng trọt, chăn nuôi là chủ yếu trình độ canh tác thấp.
- Trong quá trình phát triển, tổ tiên ta đã kết hợp chặt chẽ tư tưởng dựng nước phải đi
đôi với giữ nước, thực hiện nhiều kế sách như: “phú quốc, binh cường”, “ngụ binh ư nông”
xây dựng các công trình lưỡng dụng… Tích cực phát triển sản xuất, chăn nuôi để ổn định
nâng cao đời sống của nhân dân, đồng thời phát huy tính sáng tạo trong lao động, tự tạo ra
vũ khí để chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc.
7.1.2.3. Về chính trị, văn hóa - xã hội.
- Nước Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng chung sống hòa thuận, đoàn kết trong
quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã sớm xây dựng được Nhà nước, xác định
được chủ quyền lãnh thổ, tổ chức ra quân đội để cùng toàn dân đánh giặc, xây dựng nền văn
hóa mang bản sắc Việt Nam. Đất nước bao gồm làng xã, thôn bản có nhiều dân tộc cùng
chung sống, mỗi dân tộc có phong tục tập quán riêng tạo nên nét đặc sắc văn hóa dân tộc
Việt Nam.
- Trong quá trình đó, dân tộc ta đã xây dựng được nền văn hóa truyền thống: Đoàn
kết, yêu nước, thương nòi, sống hòa thuận, thủy chung; lao động cần cù, sáng tạo, đấu tranh
anh dũng kiên cường bất khuất.
7.1.3. Các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược
7.1.3.1. Những cuộc chiến tranh giữ nước đầu tiên
- Cuộc chiến tranh giữ nước đầu tiên mà sử sách ghi lại là cuộc kháng chiến chống
quân Tần. Đó là cuộc kháng chiến gian khổ (Từ năm 214 trước công nguyên) dưới sự lãnh
đạo của Vua Hùng và Thục Phán, nhân sự suy yếu của triều đại hùng vương cuối cùng. Thục
Phán, một thủ lĩnh người Âu Việt đã thay thế Vua Hùng, thống nhất 2 bộ tộc Lạc Việt và Âu
Việt thành lập nhà nước Âu Lạc, dời đô về Cổ Loa, Hà Nội. Nhà nước Âu Lạc kế thừa Nhà
nước Văn Lang trên mọi lĩnh vực.
- Sau cuộc kháng chiến chống quân Tần, cuộc kháng chiến của nhân dân Âu Lạc dưới
sự lãnh đạo của An Dương Vương chống quân xâm lược của Triệu Đà (từ năm 184 đến năm
179 trước công nguyên) bị thất bại, nước ta rơi vào thời kỳ bắc thuộc (hơn 1000 năm bị
phong kiến Trung Hoa đô hộ).
7.1.3.2. Những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh từ thế kỷ thứ II trước công nguyên đến thế kỷ
thứ X.
- Trong hơn một nghìn năm (từ năm 179 trước công nguyên đến năm 938) đất nước ta
luôn bị các triều đại phong kiến phương bắc đô hộ từ Triệu, Hán, Lương đến nhà Tùy,
Đường… Nhân dân ta luôn nêu cao tinh thần bất khuất kiên cường và bền bỉ đấu tranh bảo
tồn cuộc sống, giữ gìn, phát huy tinh hoa của nền văn hóa dân tộc và quyết đứng lên đấu
tranh giành lại độc lập dân tộc.
- Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào mùa xuân năm 40 đã giành được độc lập.
Nền độc lập được khôi phục và giữ vững trong vòng 3 năm.
- Năm 248 Triệu Thị Trinh (Triệu Sơn - Thanh Hóa) đã phất cờ khởi nghĩa. Nghĩa
quân của người con gái núi Nưa (Triệu Sơn - Thanh Hóa) làm cho kẻ thù nhiều phen kinh
hồn bạt vía. Sau gần nửa năm chiến đấu khiến cho toàn thể Giao Châu đều trấn động. Mặc
dù bà Triệu cùng nghĩa quân chiến đấu rất anh dũng, nhưng kẻ thù có sức mạnh vượt trội và
đàn áp rất khốc liệt nên khởi nghĩa cũng thất bại.
- Mùa xuân năm 542 phong trào yêu nước của người Việt lại bùng lên mạnh mẽ, rầm
rộ. Dưới sự tổ chức và lãnh đạo của Lý Bôn, anh hùng hào kiệt bốn phương cùng toàn dân
đứng lên lật đổ chính quyền nhà Lương. Sau đó, nghĩa quân liên tiếp đánh thắng hai cuộc
phản công của kẻ thù. Đầu năm 544 Lý Bôn lên ngôi hoàng đế (Lý Nam Đế) đặt quốc hiệu
là Vạn Xuân.
- Khởi nghĩa Lý Tự Tiên và Đinh Kiến năm 687.
- Khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế) năm 722.
- Khởi nghĩa Phùng Hưng (Bố Cái Đại Vương) năm 766 đến năm 791.
- Trước hành động phản bội của Kiều Công Tiễn và họa xâm lăng của quân Nam
Hán, Ngô Quyền (danh tướng của Dương Đình Nghệ) đã đứng lên lãnh đạo quân dân ta kiên
quyết đánh giặc, bảo vệ chủ quyền dân tộc. Trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng, Ngô
Quyền cùng quân và dân ta đã nhấn chìm toàn bộ đoàn thuyền của quân Nam Hán, khiến
Hoàng Thao phải bỏ mạng, Vua Nam Hán phải bãi binh, chấm dứt hơn 1000 năm bắc thuộc,
đất nước ta mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên của độc lập, tự chủ.
7.1.3.3. Các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII
- Cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ nhất năm 981 của nhà tiền Lê. Thời nhà
Đinh, công cuộc xây dựng đất nước đang được xúc tiến thì năm 979 Đinh Tiên Hoàng bị ám
hại. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước thừa dịp âm mưu lật đổ và thôn tính. Lúc bấy
giờ ở Trung Quốc nhà Tống đã thành lập và đang phát triển. So với Nam Hán, thì nhà Tống
là một triều đại cường thịnh của một quốc gia lớn nhất châu Á đương thời. Nhân dịp suy yếu
của nhà Đinh, nhà Tống quyết định phát động cuộc chiến tranh xâm lược Đại Cồ Việt (Vua
Đinh còn nhỏ) triều thần đã suy tôn Lê Hoàn. (đang làm thập đạo tướng quân) lên làm vua
và đã lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Tống.
- Cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ hai (từ năm 1075 đến năm 1077) của
nhà Lý. Tuy bị đại bại trong lần xâm lược 981, nhà Tống vẫn chưa chịu từ bỏ tham vọng
xâm lược nước ta. Khoảng giữa thế kỉ XI vua Tống Thần Tông ra lệnh chuẩn bị lực lượng
đánh Đại Việt lần nữa, nhằm giành thắng lợi ở Đại Việt để tạo uy thế uy hiếp nước Liêu,
nước Hạ. Trước nguy cơ xâm lược của nhà Tống, Lý Thường Kiệt lúc đó nắm giữ binh
quyền đã trực tiếp lãnh đạo kháng chiến với chủ trương chủ động tiến công trước để đẩy kẻ
thù vào thế bị động “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của
chúng” (đốt phá kho lương thảo của giặc ở thành Ung Châu). Khẩn trương thành lập phòng
tuyến sông Như Nguyệt để chặn giặc và đã giành thắng lợi.
- Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên của nhà Trần (từ năm 1258 đến năm 1288)
+ Cuộc kháng chiến lần thứ nhất năm 1258 quân và dân ta đã đánh thắng 3 vạn quân
Nguyên.
+ Cuộc kháng chiến lần thứ hai năm 1285 quân và dân ta đã đánh thắng 60 vạn quân
Nguyên.
+ Cuộc kháng chiến lần thứ ba từ năm 1287 đến năm 1288 quân và dân ta đã đánh
thắng 50 vạn quân Nguyên.
- Cuộc kháng chiến chống Minh do Hồ Quý Ly lãnh đạo. Trong tác chiến quá thiên
về phòng thủ coi đó là phương thức cơ bản dẫn đến sai lầm về chỉ đạo chiến lược, mặt khác
không phát động được toàn dân đánh giặc nên bị thất bại, đất nước ta một lần nữa lại bị
phong kiến phương bắc đô hộ.
- Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo
(năm 1418 - 1427) đã chiến đấu bền bỉ, ngoan cường. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã phát
triển thành cuộc chiến tranh giải phóng hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang quét sạch kẻ thù ra
khỏi bờ cõi. Sau khi Lê Lợi lên ngôi lập nên triều Hậu Lê (Lê Sơ).
- Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn chống quân Xiêm (1784-1785) kháng chiến chống quân
xâm lược Mãn Thanh (1788-1789).
+ Năm 1784 quân Tây Sơn tiêu diệt 5 vạn quân Xiêm và tiến quân ra bắc xóa bỏ giới
tuyến sông Gianh chấm dứt toàn bộ thể chế “Vua Lê - Chúa Trịnh”.
+ Năm 1788 Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế (hiệu là Quang Trung) thực hiện cuộc
hành quân thần tốc tiêu diệt 29 vạn quân Mãn Thanh vào mùa xuân năm 1789. tiếp theo là
các triều đại Nguyễn ánh (Gia Long), Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, và Bảo Đại là vị vua
cuối cùng của nhà nước phong kiến Việt Nam.
7.1.4. Nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta
Lịch sử đã đặt ra cho dân tộc ta biết bao thử thách ngặt nghèo trong quá trình dựng
nước và giữ nước. Nhưng với tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường với truyền thống
đoàn kết vươn lên trong đấu tranh và xây dựng, với tài thao lược kiệt xuất của ông cha ta,
nhân dân đã vượt qua tất cả mọi trở ngại đánh thắng kẻ thù, bảo vệ vững chắc nền độc lập
dân tộc. Từ trong thực tiễn chống giặc ngoại xâm, dân tộc ta đã hình thành nghệ thuật chiến
tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, nghệ thuật lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy chất
lượng cao thắng số lượng đông. Trong quá trình đó, nghệ thuật quân sự Việt Nam từng bước
phát triển và được thể hiện rất sinh động trong khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh giải phóng,
trên các phương diện tư tưởng chỉ đạo tác chiến, âm mưu đánh giặc.
7.1.4.1. Về tư tưởng chỉ đạo tác chiến
- Giải phóng bảo vệ đất nước là nhiệm vụ quan trọng, là mục tiêu cao nhất; nắm vững
tư tưởng tiến công coi đó như một quy luật để giành thắng lợi. Thực hiện tiến công liên tục,
mọi lúc, mọi nơi. Từ cục bộ đến toàn bộ (Đánh thành Ung Châu của Lý Thường Kiệt).
+ Giải phóng, bảo vệ đất nước là nhiệm vụ quan trọng, là mục tiêu cao nhất của các
triều đại phong kiến trong chiến tranh giữ nước. Do đó, ông cha ta luôn nắm vững tư tưởng
tiến công, coi đó như một quy luật để giành thắng lơi trong suốt quá trình chiến tranh.
+ Thực hiện tiến công liên tục mọi lúc, mọi nơi, từ cục bộ đến toàn bộ, để quét sạch
quân thù ra khỏi bờ cõi. Tư tưởng tiến công được xem như sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá
trình chuẩn bị và tiến hành chiến tranh giữ nước. Tư tưởng đó thể hiện rất rõ trong đánh giá
đúng kẻ thù, chủ động đề ra kế sách đánh, phòng, khẩn trương chuẩn bị lực lượng kháng
chiến, tìm mọi biện pháp làm cho địch suy yếu, tạo ra thế và thời cơ có lợi để tiến hành phản
công, tiến công.
+ Sử sách còn ghi lại, thời nhà Lý đã chủ động đánh bại kẻ thù ở phía Nam (quân
Chiêm Thành), phá tan âm mưu liên kết của nhà Tống với Chiêm Thành. Trước nguy cơ
xâm lược của nhà Tống, Lý Thường Kiệt đã sử dụng biện pháp “tiên phát chế nhân” chủ
động tiến công trước để đẩy kẻ thù vào thế bị động. Ông đã tận dụng “thiên hiểm” của địa
hình, xây dựng tuyến phòng thủ sông Như Nguyệt, thực hiện trận quyết chiến, chủ động
chặn và đánh địch từ xa để bảo vệ Thăng Long.
+ Vào thế kỉ XIII, các quốc gia châu Âu, châu Á đang run sợ vó ngựa của giặc
Nguyên Mông, thì cả ba lần tiến quân xâm lược Đại Việt vào các năm 1258, 1285, 1288,
giặc Nguyên Mông đều thảm bại, mặc dù có số quân lớn hơn nhiều quân đội nhà Trần. Có
được thắng lợi đó là do ta đã thực hiện toàn dân đánh giặc, “cả nước chung sức, trăm họ là
binh”, trong đó, tích cực chủ động tiến công giặc là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong các
cuộc chiến tranh.
- Nhanh chóng thay đổi phương thức tác chiến, tránh quyết chiến với địch khi chúng
còn mạnh, chủ động rút lui chiến lược, bảo toàn lực lượng và tạo thế, tạo thời cơ để phản
công (tạm thời nhường thành Thăng Long cho giặc).
+ Trước đối tượng tác chiến là giặc Nguyên Mông có sức mạnh lớn hơn, ông cha ta
đã kịp thời thay đổi phương thức tác chiến, tránh quyết chiến với địch khi chúng còn rất
mạnh, chủ động rút lui chiến lược bảo toàn lực lượng và tạo thế, thời cơ phản công. Rút lui
chiến lược, tạm nhường Thăng Long cho giặc trong một thời gian nhất định, là để bảo toàn
lực lượng và đó là một nét độc đáo trong nghệ thuật tác chiến, chứ không phải là tư tưởng
rút lui. Quân địch tạm chiến được Thăng Long mà không chiếm được “Thủ đô” của kháng
chiến, bởi vì chỉ chiếm được “thành không nhà trống”. Trong khoảng thời gian đó, quân đội
nhà Trần và nhân dân cả nước đã tích cực tác chiến nhỏ lẻ, tiêu hao nhiều lực lượng địch,
làm cho chúng rơi vào trạng thái “tiến thoái lưỡng nan” tạo thời cơ tốt nhất để phản công
chiến lược, quét sạch quân thù ra khỏi đất nước (lần thứ nhất sau 9 ngày tính từ khi giặc
Nguyên - Mông vào Thăng Long, lần thứ hai sau 5 tháng, lần thứ ba sau 3 tháng).
+ Đến thời Nguyễn Huệ, tư tưởng chủ động tiến công địch để giải phóng thăng long
lại được phát triển lên một tầm cao mới. Với cách đánh táo bạo, thần tốc, bất ngờ và mạnh
mẽ, giải quyết chiến tranh nhanh gọn trong một tổng giao chiến, ông đã chủ động tiến công
địch khi chúng còn rất mạnh (29 vạn quân Thanh và bè lũ bán nước Lê Chiêu Thống) nhưng
chúng lại rất chủ quan, kiêu ngạo, thiếu phòng bị (quân Thanh và bè lũ bán nước đang chuẩn
bị đón tết Kỉ Dậu năm 1789), do đó, đã dành thắng lợi trọn vẹn.
7.1.4.2. Về mưu kế đánh giặc:
+ Mưu: Mưu là lừa địch, để ta đánh vào chỗ yếu, chỗ sơ hở, chỗ ít phòng bị, làm cho
chúng bị động, buộc chúng phải đánh theo cách của ta.
Trong các cuộc chiến tranh giải phóng, với ý chí kiên cường của dân tộc, triều đại nhà
Lý, Trần, hậu Lê... đã tạo được thế trận chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc,
kết hợp các cách đánh, các lực lượng cùng đánh. Trong chống giặc ngoại xâm để bảo vệ đất
nước, ông cha ta đã kết hợp chặt chẽ giữa quân triều đình, quân địa phương và dân binh, thổ
binh các làng xã cùng đánh địch, làm cho lực lượng địch luôn bị phân tán, không thực hiện
được hợp quân tại Thăng Long. Để bảo vệ Thăng Long, Lý Thường Kiệt đã xây dựng tuyến
phòng ngự sông Cầu để chặn đánh giặc, khi quân nhà Tống tiến công vượt sông không thành
phải chuyển vào phòng ngự, ông đã dùng quân địa phương và dân binh liên tục quấy rối, làm
cho địch mệt mỏi, căng thẳng, tạo thời cơ cho quân đội nhà Lý chuyển sang phản công giành
thắng lợi hoàn toàn.
+ Kế: Kế sách đánh giặc của ông cha ta không những sáng tạo, mà còn hết sức mềm
dẻo, khôn khéo đó là “biết tiến, biết thoái, biết công, biết thủ”. Biết kết hợp chặt chẽ giữa
tiến công quân sự với binh vận, ngoại giao, tạo thế mạnh cho ta, biết phá thế mạnh của giặc,
trong đó tiến công quân sự luôn giữ vai trò quyết định.
Lê Lợi, Nguyễn Trãi không những giỏi bày mưu, lập kế để đánh thắng giặc trên chiến
trường, mà còn thực hiện “mưu phạt công tâm”, đánh vào lòng người. Sau khi đánh tan đạo
quân viện binh do Liễu Thăng chỉ huy, đã vây chặt thành Đông Quan, buộc Vương Thông
phải đầu hàng vô điều kiện, nhưng các ông đã cấp thuyền, ngựa và lương thảo cho hàng binh
nhà Minh về nước trong danh dự, để muôn đời dập tắt chiến tranh.
+ Ông cha ta đã phát triển mưu, kế đánh giặc, biến cả nước thành một chiến trường,
tạo ra một “thiên la, địa vọng” để diệt địch. Làm cho “địch đông mà hóa ít, địch mạnh mà
hóa yếu”, đi đến đâu cũng bị đánh, luôn bị tập kích, phục kích, lực lượng bị tiêu hao, tiêu
diệt, rơi vào trạng thái “tiến thoái lưỡng nan”. Trong tác chiến, ông cha ta đã triệt để khoét
sâu điểm yếu của địch là tác chiến ở chiến trường xa, tiếp tế khó khăn nên đã tập trung triệt
phá lương thảo, hậu cần của địch. Ngoài thực hiện kế “thanh dã”, làm cho kẻ thù rơi vào
trạng thái “người không có lương ăn, ngựa không có nước uống”, quân đội nhà Trần tổ chức
lực lượng đón đánh các lực lượng vận chuyển lương thực, hậu cần và đánh phá kho tàng của
địch. Điển hình như quân đội của Trần Khánh Dư đã tiêu diệt toàn bộ đoàn thuyền lương
thảo của giặc do Trương Văn Hổ chỉ huy ở bến Vân Đồn, làm cho giặc Nguyên - Mông ở
Thăng Long vô cùng hoảng loạn.
7.1.4.3. Nghệ thuật chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc.
- Thực hiện toàn dân đánh giặc là một trong những nét độc đáo trong nghệ thuật quân
sự của ông cha ta, được thể hiện cả trong khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng. Nét độc đáo
đó xuất phát từ lòng yêu nước thương nòi của nhân dân ta, từ tính chất tự vệ, chính nghĩa của
các cuộc kháng chiến. Hễ kẻ thù động đến nước ta, thì “vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục,
cả nước chung sức, trăm họ là binh”, giữ vững quê hương, bảo vệ xã tắc.
- Từ lời thề của Hai Bà Trưng nghĩa quân: “Một xin rửa sạch nước thù; Hai xin đem
lại nghiệp xưa họ Hùng; Ba kẻo oan ức lòng chồng; Bốn xin vẻn vẹn sở công lệnh này” 1,
đến Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo, nghệ thuật “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân
thay cường bạo”, nghệ thuật quân sự Việt Nam đã liên tục phát triển dựa trên nền tảng của
chiến tranh nhân dân, thực hiện tốt đổi yếu thành mạnh, kết hợp lực, thế, thời, mưu kế, để
đạt mục đích là cùng giành lại và giữ vững chủ quyền đất nước với tư tưởng “dập tắt muôn
đời chiến tranh”, “đem lại thái bình muôn thuở”.
- Nội dung cơ bản của thực hiện toàn dân đánh giặc là: “Mỗi người dân là một người
lính, đánh giặc theo cương vị, chức trách của mình. Mỗi thôn, xóm, bản, làng là một pháo
đài giết giặc. Cả nước là một chiến trường, tạo ra thế trận chiến tranh nhân dân liên hoàn,
vững chắc làm cho địch đông mà hóa ít, mạnh mà yếu, rơi vào trạng thái bị động, lúng túng
và bị sa lầy”. Trong đánh giặc, ông cha ta đã tận dụng địa hình, xậy dựng thế trận làng, nước
vững chắc vận dụng sáng tạo cánh đánh của nhiều lực lượng, nhiều thứ quân. Vận dụng rộng

1
Giáo trình Lịch sử quân sự, Tập 2, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997, tr. 33.
rãi, sáng tạo nhiều hình thức đánh giặc để đạt hiệu quả cao như: phòng ngự sông cầu, phục
kích Chi Lăng, phản công Chương Dương, Hàn Tử, tiến công Ngọc Hồi, Đống Đa...
7.1.4.4. Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh.
Đây là nét đặc sắc trong nghệ thuật quân sự của ông cha ta, khi dân tộc luôn phải
chống lại các quân đội xâm lược của quân số, vũ khí trang bị lớn hơn nhiều lần. Nghệ thuật
lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh chính là sản phẩm của lấy “thế”
thắng “lực”. Quy luật của chiến tranh là mạnh được, yếu thua, nhưng trong thực tiễn chống
giặc ngoại xâm, cha ông ta đã sớm xác định đúng về sức mạnh trong chiến tranh, đó là: sức
mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, chứ không thuần túy là sự so sánh, hơn kém về quân số, vũ
khí của mỗi bên tham chiến.
- Để chống lại 30 vạn quân xâm lược Tống (1077), nhà Lý trong khi chỉ có khoảng 10
vạn quân, Lý Thường Kiệt đã tận dụng được ưu thế địa hình và các yếu tố khác để tạo ra sức
mạnh hơn địch và đánh thắng địch.
- Thời nhà Trần có khoảng 15 vạn quân, chống lại giặc Nguyên – Mông, lần thứ 2 là
60 vạn, lần 3 là khoảng 50 vạn. Nhà Trần đã “lấy đoản binh để chế trường trận”, hạn chế sức
mạnh của giặc, để đánh thắng giặc.
- Cuộc khởi nghĩa của Lam Sơn, quân số lúc cao nhất có khoảng 10 vạn, nhưng đã
đánh thắng 80 vạn quân Minh xâm lược. Vì Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã vận dụng “tránh thế ban
mai, đánh lúc chiều tà” và vận dụng cách đánh “vây thành để diệt viện”.
- Trong cuộc kháng chiến chống quân Mãn Thanh xâm lược, nhà Tây Sơn có khoảng
10 vạn quân, nhưng đã đánh thắng 29 vạn quân xâm lược và quân bán nước Lê Chiếu Thống
vì Nguyễn Huệ đã dùng lối đánh táo bạo, thần tốc, bất ngờ.
7.1.4.5. Nghệ thuật kết hợp đấu tranh giữa các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao và
binh vận.
Chiến tranh là sự thử thách toàn diện đối với mỗi quốc gia tham chiến vì vậy phải biết
kết hợp chặt chẽ giữa các mặt trận để tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh thắng kẻ thù. Mỗi
mặt trận có một vị trí, tác dụng khác nhau nhưng thống nhất ở chỗ tạo nên sức mạnh để đánh
thắng kẻ thù.
+ Mặt trận quân sự: Là mặt trận quyết liệt nhất, nhưng là mặt trận quyết định giành
thắng lợi trực tiếp của chiến tranh, tạo đà, tạo thế cho các mặt trận khác phát triển. (Thắng
trận Điện Biên Phủ năm 1954 buộc Pháp phải ký hiệp định Giơnevơ, Chiến dịch Điện Biên
Phủ trên không giành thắng lợi buộc địch phải ký hiệp định Pari năm 1972, Chiến dịch Hồ
Chí Minh thắng lợi kết thúc chiến tranh, đất nước hoàn toàn giải phóng).
+ Mặt trận chính trị: Nhằm cổ vũ tinh thần yêu nước của nhân dân, quy tụ sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở tạo ra sức mạnh quân sự (huy động sức người, sức của cho
tiền tuyến).
+ Mặt trận ngoại giao: Có vị trí rất quan trọng đề cao tính chính nghĩa của nhân dân
ta, phân hóa, cô lập kẻ thù, tạo thế có lợi cho cuộc chiến để kết thúc chiến tranh càng sớm
càng tốt.
+ Mặt trận binh vận: Làm tan rã hàng ngũ của giặc, góp phần quan trọng làm hạn chế
thấp nhất tổn thất của quân và dân ta trong chiến tranh.
7.1.4.6. Nghệ thuật tổ chức và thực hành các trận đánh lớn.
Trong các triều đại phong kiến, ông cha ta đã tổ chức và tiến hành các trận đánh
quyết liệt để gải phóng đất nước, kết thúc chiến tranh.
+ Thời nhà Lý có phòng ngự sông cầu (Như Nguyệt), đây là một điển hình về kết hợp
chặt chẽ hai hình thức tác chiến phòng ngự và phản công trên cả quy mô chiến lược, chiến
thuật. Tác chiến phòng ngự ở Như Nguyệt không chỉ chặn đứng 30 vạn quân Tống, mà còn
làm thất bại ý đồ đánh nhanh, thắng nhanh để chiếm Thăng Long của chúng, khiến quân
định phải chủ động tiến công sang bị động phòng ngự .
+ Thời nhà Trần, chống giặc Nguyên - Mông lần thứ hai, Trấn Quốc Tuấn đã tổ chức
một cuộc rút lui chiến lược, làm thất bại kế hoạch hợp vây của định. Trong cuôc truy đuổi,
giặc Nguyên - Mông không thực hiện được những đoàn quyết chiến với chủ lực ta, trái lại,
chúng vấp phải một cuộc chiến tranh của toàn dân Đại Việt. Do vậy, quân Nguyên - Mông
đã sa vào tình trạng muốn đánh mà không đánh được, “lực càng yếu, thế càng suy”, điều đó
tạo ra thời cơ phản công cho quân ta.
+ Thời Hậu Lê, sau 10 năm bền bỉ, gian khổ, ngoan cường, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
do Lê Lợi lãnh đạo đã hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang giải phóng dân tộc, giải phóng Thăng
Long. Thắng lợi đó là kết quả nhiều yếu tố, trong đó nghệ thuật tổ chức và tiến hành các trận
đánh quyết liệt giữa một vai trò rất quan trọng, đặc biệt ở giai đoạn cuối của chiến tranh.
Trong chỉ đạo tác chiến, Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương “tránh chỗ thực, đánh chỗ hư
tránh nơi vững chắc, đánh nơi sơ hở”. Khi nghe tin viện binh nhà Minh sắp sang, nhiều
tướng sĩ đề nghị Lê Lợi đánh gấp thành Đông Quan (Thăng Long) để diệt trừ nội ứng, rồi
sau đó sẽ dốc toàn lực để đánh viện binh. Lê Lợi đã phân tích một cánh sáng suốt và quyết
định: “đánh thành hạ sách ... Sao bằng nuôi dưỡng sức quân, giữ lấy nhuệ khí để đợi viện
binh của giặc. Viện binh bị phá thì thành tất phải hàng. Làm một việc mà được cả hai, đó
mới là kế sách vẹn toàn”. Việc lựa chọn rất đúng mục tiêu tiến công chiến lược và kiệt xuất
trong tổ chức, thực hành trận chiến Xương Giang - Chi Lăng, buộc lũ giặc Vương Thông
trong thành Đông Quan không đánh mà bị bắt đã chứng tỏ tài năng quân sự xuất sắc của ông
trong tổ chức và thực hành các trận đánh lớn của cha ông ta.
+ Thời nhà nguyễn: Nghệ thuật quân sự của Nguyễn Huệ và quân Tây Sơn được biểu
hiện tập trung nhất, rực rỡ nhất trong việc tổ chức và thực hành trong các trận quyết chiến
chiến lược, đặc biệt là giải phóng Thăng Long trong mùa xuân Kỷ Dậu 1789. Khi chọn đánh
vào Thăng Long là địa bàn tập trung hầu hết quân địch, là nơi bộ chỉ huy quân Thanh và
triều đình Lê Chiêu Thống, Nguyễn Huệ đã nhìn thấy rõ trong cái mạnh của địch, chúng bốc
lộ những điểm yếu và sơ hở. Điểm yếu cơ bản của quân tướng nhà Thanh là rất chủ quan,
ngạo mạn, cho rằng, Tây Sơn không dám và không thể tiến công chúng, do đó thế trận rất
lỏng lẻo.
Trong thực hành tác chiến, Nguyễn Huệ đã thiết lập một hệ thống tổ chức hành quân
đạt hiệu quả tối đa, khi quân địch hoàn toàn bị động. Trong cách đánh, Nguyễn Huệ rất chú
trọng trường hợp vây chiến dịch, chiến thuật và tiến công địch bằng các đoàn thọc sâu, hiểm
hóc. Đây vừa là nghệ thuật kết hợp tiến công chính diện với bên sườn, vừa là tiến hành nhiều
trận đánh diễn ra đồng thời, liên tiếp nhanh mạnh, bất ngờ, khiêu khích không thể ứng cứu
được cho nhau và nhanh chóng thất bại.
7.2. Nghệ thuật quân sự Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo
Kế thừa, phát triển nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên, nghệ thuật quân sự Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã không ngừng phát triển, gắn liền với sự thắng lợi của hai cuộc
kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ. Nghệ thuật quân sự Việt Nam gồm ba bộ phận hợp
thành: chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật. Ba bộ phận của nghệ thuật
quân sự là một thể thống nhất có quan hệ biện chứng chặt chẽ, thúc đẩy nhau phát triển,
trong đó chiến lược quân sự đóng vai trò chủ đạo.
7.2.1. Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo
7.2.1.1. Truyền thống đánh giặc của tổ tiên
Trải qua mấy nghìn năm chống giặc ngoại xâm, nghệ thuật quân sự của tổ tiên đã hình
thành và không ngừng phát triển trở thành bài học vô cùng quý giá, nhiều tư tưởng kiệt xuất
như: “Binh thư yếu lược”; “Bình ngô đại cáo”; những trận đánh điển hình như: Như Nguyệt,
Chi Lăng, Tây Kết, Ngọc Hồi, Đống Đa…đã để lại những kinh nghiệm quý giá. Kinh
nghiệm truyền thống đó là cơ sở để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kế thừa, vận dụng
trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ và trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc XHCN.
7.2.1.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc.
Đảng Cộng sản Việt Nam lấy CNMLN, TTHCM làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho mọi hành động. Học thuyết chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc XHCN và kinh
nghiệm nghệ thuật quân sự được đúc rút qua các cuộc chiến tranh do C.Mác, Ăngghen,
Lênin tổng kết là cơ sở để Đảng ta vận dụng, định ra đường lối quân sự trong khởi nghĩa vũ
trang, chiến tranh giải phóng ở Việt Nam.
7.2.1.3. Tư tưởng quân sự của Hồ Chí Minh.
- Tư tưởng quân sự HCM là sự tiếp thu, kế thừa truyền thống đánh giặc của tổ tiên,
vận dụng lí luận Mác - Lênin về quân sự, kinh nghiệm của các nước trên thế giới vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam, là cơ sở cho sự hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam.
- Hồ Chí Minh đã từng biên dịch “binh pháp Tôn Tử”, viết về “kinh nghiệm du kích
Tàu”; “du kích Nga”… phát triển nguyên tắc chiến đấu tiến công, chiến đấu phòng ngự…
qua các thời kì đấu tranh cách mạng Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra phương châm chỉ đạo
chiến tranh, phương thức tác chiến chiến lược, nắm bắt đúng thời cơ, đưa chiến tranh Việt
Nam kết thúc thắng lợi.
7.2.2. Nội dung nghệ thuật quân sự Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo
7.2.2.1. Chiến lược quân sự.
“Chiến lược quân sự là tổng thể phương châm, chính sách và mưu lược được hoạch định
để ngăn ngừa và sẵn sàng tiến hành chiến tranh (xung đột vũ trang) thắng lợi; bộ phận hợp
thành (quan trọng nhất) có tác dụng chủ đạo trong nghệ thuật quân sự”1
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, chiến lược quân sự Việt Nam đã
thể hiện các nội dung chủ yếu sau:
- Xác định đúng kẻ thù, đúng đối tượng tác chiến: Đây là vấn đề quan trọng của chiến
tranh cách mạng, nhiệm vụ của chiến lược quân sự phải xác định chính xác để từ đó có đối
sách và phương thức đối phó hiệu quả nhất. Thực tiễn ở nước ta sau Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, lúc đó xuất hiện nhiều kẻ thù: quân đội Anh, Tưởng, Ấn Độ, Nhật và quân Pháp.
Tất cả kẻ thù trên đều có cùng chung một mục đích là tiêu diệt nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa non trẻ. Trước tình hình đó, Đảng ta xác định kẻ thù nguy hiểm, trực tiếp của cách
mạng Việt Nam là thực dân Pháp. Đây là tư duy chính xác, khoa học của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong thời điểm lịch sử “ngàn cân treo sợi tóc”. Từ đó, đối tượng tác chiến của
quân và dân ta là quân đội Pháp xâm lược.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, khi đế quốc Mĩ không chịu kí hiệp định
Giơnevơ, tạo cớ áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, ngay từ tháng
9/1954, Đảng ta nhận định, đế quốc Mĩ đang dần trở thành kẻ thù trực tiếp, nguy hểm của

1
Bộ Quốc Phòng, Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 153.
nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia. Đây là sự phán đoán chính xác trong xác định kẻ thù
của cách mạng nói chung, của chiến lược quân sự nói riêng.
- Đánh giá đúng kẻ thù: Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích đánh giá đúng
mạnh yếu của kẻ thù. Bước vào kháng chiến chống Pháp, so sánh lực lượng địch, ta hết sức
chênh lệch nhưng với phương pháp xem xét biện chứng, Đảng ta đã phân tích, chỉ ra sự phát
triển trong so sánh lực lượng mà cho rằng: “Lực lượng của Pháp như Mặt Trời lúc hoàng
hôn, hống hách lắm nhưng đã gần tắt nghỉ” còn “lực lượng ta ngày càng thêm mạnh, như
suối mới chảy, như lửa mới nhen, chỉ có tiến...”2. Đối với đế quốc Mĩ, dù có quân đông,
súng tốt, tiền nhiều, nhưng chúng có điểm yếu căn bản là đi xâm lược, bị nhân dân thế giới
và ngay cả nhân dân nước Mĩ phản đối, Đảng ta đã đánh giá đúng kẻ thù, đưa ra nhận định
“Mĩ giàu nhưng không mạnh”, đây là một tư duy chính xác, khoa học vượt trên mọi tư duy
của thời đại trong thời điểm lịch sử. Từ những nhận định trên của Đảng ta, chiến lược quân
sự Việt Nam đã tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân ta quyết tâm đánh Mĩ và biết thắng Mĩ.
+ Mở đầu và kết thúc chiến tranh đúng lúc: Mở đầu và kết thúc chiến tranh đúng lúc
là một vấn đề mang tính nghệ thuật cao trong chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta, nhằm giành
thắng lợi trọn vẹn nhất nhưng hạn chế tổn thất đến mức thấp nhất.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, chúng ta mở đầu chiến tranh
đều vào những thời điểm đáp ứng mọi điều kiện của hoàn cảnh lịch sử do đó có sức lôi cuốn
toàn dân tộc và có sức thuyết phục trên trường quốc tế mạnh mẽ. Trong kháng chiến chống
Pháp, mở đầu chiến tranh vào ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến, đây là thời điểm ta không thể lùi bước được nữa sau các hành động thiện
chí nhằm ngăn ngừa, không để chiến tranh xảy ra.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “... Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân
nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, giặc Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp
nước ta một lần nữa ...”. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, Đảng ta đã chọn đúng thời điểm
sau năm 1960, chuyển từ khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng, cách mạng miền
Nam đã có bước trưởng thành, đây là thời điểm sau đồng khởi và không cho Mĩ tạo cớ phá
hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Trong kháng chiến chống Pháp, chúng ta chọn thời điểm sau khi giành thắng lợi ở
chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong kháng chiến chống Mĩ, ta chọn thời điểm kết thúc thắng lợi
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Tại các thời điểm đó, thế và lực cách mạng đều mạnh, có
đủ điều kiện để quyết định kết thúc chiến tranh, tự quyết định vận mệnh của đất nước, mà
không phụ thuộc vào những yếu tố tác động khách quan.
+ Phương châm tiến hành chiến tranh: Để chống lại chiến tranh xâm lược của những
kẻ thù có sức mạnh hơn ta nhiều lần về kinh tế, quân sự, khoa học, công nghệ, Đảng ta chỉ
đạo tiến hành chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc, đánh giặc toàn diện trên
tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao ..., trong đó, mặt trận quân
sự giữ vai trò quyết định nhất. Đảng ta chỉ đạo tiến hành chiến tranh với tinh thần “tự lực
cánh sinh, đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính”, nhưng kháng chiến lâu dài không đồng
nghĩa với kéo dài vô thời hạn, mà phải biết lựa chọn thời điểm có lợi nhất để kết thúc chiến
tranh càng sớm càng tốt.
+ Phương thức tiến hành chiến tranh: Cuộc chiến tranh chống quân xâm lược nước
ta là chiến tranh cách mạng, chính nghĩa và tự vệ. Do đó, Đảng ta chỉ đạo: phương thức tiến
hành chiến tranh là chiến tranh nhân dân kết hợp giữa lực lượng vũ trang địa phương với các
2
Giáo trình Lịch sử quân sự, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997, tập 3. tr. 65.
binh đoàn chủ lực, kết hợp chặt chẽ tiến công địch bằng hai lực lượng chính trị, quân sự,
bằng ba mũi giáp công quân sự, chính trị, binh vận; trên cả 3 vùng chiến lược: rừng núi,
nông thôn đồng bằng và đô thị, làm cho địch bị động, lúng túng trong đối phó, dẫn đến sai
lầm về chiến lược, sa lầy về chiến thuật và thất bại .
7.2.2.2. Nghệ thuật chiến dịch.
- Nghệ thuật chiến dịch: “Nghệ thuật chiến dịch, là lí luận và thực tiễn chuẩn bị thực
hành chiến dịch và các hoạt động tác chiến tương đương; bộ phận hợp thành của nghệ thuật
quân sự, khâu nối liền giữa chiến lược quân sự và chiến thuật”1.
- Chiến dịch được hình thành trong kháng chiến chống Pháp, được đánh dấu bằng
chiến dịch Việt Bắc - Thu Đông 1947. Trong kháng chiến chống Pháp, ta đã tiến hành hơn
40 chiến dịch ở các quy mô khác nhau và hơn 50 chiến dịch trong kháng chiến chống Mĩ. Sự
hình thành chiến dịch và phát triển của nghệ thuật chiến dịch, bộ phận hợp thành của nghệ
thuật quân sự Việt Nam là toàn diện, tập trung những vấn đề chủ yếu sau.
- Loại hình chiến dịch: Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, Quân đội nhân dân
Việt Nam và các lực lượng vũ trang đã tổ chức và thực hành các loại hình chiến dịch:
+ Chiến dịch tiến công như: Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, Chiến dịch Tây
Nguyên, Chiến dịch Hồ Chí Minh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975.
+ Chiến dịch phản công như: Chiến dịch phản công Việt Bắc năm 1947, Chiến dịch
phản công đường số 9 - Nam Lào năm 1971.
+ Chiến dịch phòng ngự như: Chiến dịch Phòng ngự Quảng Trị năm 1972.
+ Chiến dịch phòng không như: Chiến dịch Phòng không Hà Nội, 1972.
+ Chiến dịch tiến công tổng hợp như: Chiến dịch Tiến công tổng hợp khu 8.
- Quy mô chiến dịch: Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, quy mô chiến dịch
được phát triển cả về số lượng và chất lượng.
+ Những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, quy mô chiến dịch của ta còn rất nhỏ bé,
lực lượng tham gia từ 1 đến 3 trung đoàn, vũ khí, trang bị chiến đấu thô sơ. Đến cuối cuộc
kháng chiến chống Pháp, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, lực lượng tham gia đã lên tới 5 đại
đoàn cùng nhiều lực lượng khác.
+ Trong kháng chiến chống Mĩ, giai đoạn đầu lực lượng tham gia chiến dịch chỉ có từ
1 đến 2 trung đoàn, sau đó phát triển đến sư đoàn. Đến cuối cuộc kháng chiến, đặc biệt là
chiến dịch Hồ Chí Minh, lực lượng bộ binh là 5 quân đoàn và nhiều binh chủng, quân chủng
khác, phối hợp chặt chẽ với nổi dậy của quần chúng. Trong hai cuộc kháng chiến, ở những
giai đoạn đầu, các chiến dịch diễn ra chủ yếu ở địa hình rừng núi, nhưng giai đoạn cuối đã
diễn ra trên tất cả địa hình để nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
- Nghệ thuật chiến dịch và cách đánh chiến dịch.
+ Thời kì đầu, do so sánh lực lượng giữa ta và địch rất chênh lệch, bộ đội ta mới có
kinh nghiệm chiến đấu những trận đánh đơn lẻ, chưa có kinh nghiệm tác chiến ở quy mô
chiến dịch. Nhưng từ trong thực tiễn chiến tranh, trình độ chỉ huy và thực hành tác chiến của
bộ đội ta đã ngày càng trưởng thành. Từ chiến dịch Việt Bắc 1947 đến chiến dịch Biên giới
1950 và đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ, nghệ thuật chiến dịch đã có bước phát triển
vượt bậc như: nghệ thuật lựa chọn khu vực tác chiến chủ yếu, nghệ thuật chuẩn bị thế trận

1
Bộ Quốc Phòng, Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 153.
chiến dịch, nghệ thuật tập trung ưu thế lực lượng bảo đảm đánh chắc thắng trận mở màn
chiến dịch, nghệ thuật xử trí chính xác các tình huống trong tác chiến chiến dịch ...
+ Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, nghệ thuật chiến dịch đã có bước phát triển vượt
bậc, đó là: Xác định đúng phương châm tác chiến chiến dịch, việc thay đổi phương châm tác
chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc’’ thể hiện sự phân tích khoa
học, khách quan tình hình địch, ta và địa hình. Xây dựng thế trận chiến dịch vững chắc, thực
hiện bao vây rộng lớn, chia cắt và cô lập Điện Biên Phủ với các chiến trường khác. Phát huy
cao nhất sức mạnh tác chiến hiệp đồng các quân, binh chủng, tập trung ưu thế binh hỏa lực
đánh dứt điểm từng trận then chốt, tiêu diệt từng bộ phận địch, phá vỡ từng mảng phòng ngự
của chúng.
Vận dụng sáng tạo cách đánh chiến dịch, dựa vào hệ thống trận địa, thực hành vây
hãm kết hợp với đột phá, kết hợp đánh chính diện với các mũi thọc sâu, luồn sâu, tạo thế
chia cắt địch; kết hợp các đợt đánh lớn, đánh vừa và thường xuyên vây lấn, ngày càng siết
chặt vòng vây, tạo thời cơ thực hành tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch.
+ Trong kháng chiến chống Mĩ, nghệ thuật chiến dịch đã kế thừa những kinh nghiệm
của kháng chiến chống Pháp và nâng lên một tầm cao mới. Nghệ thuật chiến dịch đã chỉ đạo
chiến thuật đánh bại tất cả các chiến lược quân sự, biện pháp , thủ đoạn tác chiến của quân
Mĩ, Ngụy và Chư hầu. Đặc biệt, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975,
nghệ thuật chiến dịch đã có bước phát triển nhảy vọt, được thể hiện ở các nội dung sau:
Nghệ thuật tạo ưu thế lực lượng, đảm bảo đánh địch trên thế mạnh, hình thành sức
mạnh áp đảo địch trong chiến dịch. Nghệ thuật vận dụng sáng tạo cách đánh chiến dịch (vận
dụng hai cách đánh lần lượt và đồng loạt). Nghệ thuật phát huy sức mạnh của các binh
chủng, quân chủng trong tác chiến hiệp đồng quy mô lớn. Nghệ thuật kết hợp tiến công với
nổi dậy, phối hợp tác chiến ba thứ quân, lấy đòn đánh lớn của chủ lực làm trung tâm phối
hợp. Nghệ thuật chỉ đạo vận dụng chiến thuật sáng tạo để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến
dịch. Nghệ thuật khuếch trương kết quả của trận then chốt trước với trận then chốt sau trong
chiến dịch tiến công.
7.2.2.3. Chiến thuật
“Chiến thuật là lí luận, thực tiễn và tổ chức thực hành chiến đấu của phân đội, binh
đội, binh đoàn lực lượng vũ trang, bộ phận hợp thành của nghệ thuật quân sự Việt nam”1.
- Nội dung.
+ Hình thức chiến thuật.
Giai đoạn đầu của 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ, lực lượng, vũ khí, trang bị
của ta còn hạn chế do đó tư tưởng tác chiến của quân đội ta là: “Quán triệt tư tưởng tiến
công, triệt để dùng du kích chiến, vận động chiến để tiêu diệt địch”. Giai đoạn này các trận
chiến đấu chủ yếu diễn ra ở quy mô trung đội, đại đội, tiểu đoàn, lấy đánh địch ở ngoài công
sự là chủ yếu, chiến thuật thường vận dụng là tập kích, phục kích, vận động tiến công.
Các giai đoạn sau của 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ, bộ đội ta đã trưởng
thành không những đánh giỏi địch ngoài công sự mà từng bước vận dụng đánh địch trong
công sự.

1
Bộ Quốc Phòng, Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 217.
Giai đoạn cuối của 2 cuộc kháng chiến chóng Pháp và Mĩ chiến thuật phòng ngự xuất
hiện (Trận phòng ngự đồi A1, Quảng Trị năm 1972, Thượng Đức năm 1974). Ngoài ra còn
vận dụng chiến thuật truy kích, đánh địch đổ bộ đường không.
+ Quy mô.
Giai đoạn đầu của 2 cuộc kháng chiến chủ yếu trong biên chế và được tăng cường 1
số hỏa lực như cối 82, ĐKZ…
Các giai đoạn sau quy mô ngày càng lớn đã có trận hiệp đồng quân binh chủng giữa
bộ binh, xe tăng, pháo binh, phòng không… Hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng Bộ đội
chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ.
+ Cách đánh.
Mỗi hình thức chiến thuật, mỗi binh chủng đều có cách đánh cụ thể đều được phát
triển từ cách đánh của bộ binh cho đến cách đánh hiệp đồng quân binh chủng, được kết hợp
chặt chẽ giữa hành động tiến công với phòng ngự của 3 thứ quân để hoàn thành nhiệm vụ
cấp trên giao.
7.3. Vận dụng một số bài học kinh nghiệm về nghệ thuật quân sự vào sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc trong thời kỳ mới và trách nhiệm của sinh viên.
7.3.1. Bài học kinh nghiệm:
Nghệ thuật quân sự Việt Nam đã hình thành, phát triển trong quá trình dựng và giữ
nước của dân tộc. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
nghệ thuật quân sự ngày càng phát triển, đó là nghệ thuật chiến tranh nhân dân, nghệ thuật
lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh...Những bài học kinh nghiệm về
nghệ thuật quân sự vẫn còn giữ nguyên giá trị để chúng ta tiếp tục nghiên cứu và vận dụng
vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong thời kì mới.
7.3.1.1. Quán triệt tư tưởng tích cực tiến công.
- Trong lịch sử chiến tranh giữ nước, nghệ thuật quân sự của cha ông ta trước đây
luôn nhấn mạnh tư tưởng tích cực, chủ động tiến công địch. Ngày nay, với sức mạnh của cả
nước đánh giặc dưới sự lãnh đạo của Đảng, nghệ thuật quân sự của ta càng có điều kiện phát
huy mặt mạnh của mình, khoét sâu chỗ yếu của địch để “kiên quyết không ngừng thế tiến
công”, tiếng công địch vào đúng thời cơ, địa điểm thích hợp.
- Ngày nay, kẻ thù của đất nước ta là chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, có ưu
thế về tiềm lực kinh thế, quân sự, khoa học công nghệ mạnh, nhưng do tiến hành chiến tranh
xâm lược, phi nghĩa, nên chúng sẽ bộc lộ nhiều sơ hở. Trên cơ sở đánh giá đúng mạnh, yếu
của địch và ta, chúng ta phải biết phát huy sức mạnh của mọi lực lượng, vận dụng linh hoạt
mọi hình thức và quy mô tác chiến, mọi cách đánh, mới có thể tiến công địch một cách liên
tục mọi lúc, mọi nơi. Không chỉ tiến công trên mặt trận quân sự, mà phải tiến công toàn diện
trên mọi mặt trận, đặc biệt là mặt trận chính trị, binh vận, thực hiện “mưu phạt công tâm”,
đánh vào lòng người, góp phần thay đổi cục diện chiến tranh.
- Như vậy, trên cơ sở không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, phát huy lòng
dũng cảm, trí thông minh sáng tạo giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa con người và vũ
khí, nắm vững tư tưởng tích cực tiến công, chúng ta hoàn toàn có thể dành quyền chủ động
trên chiến trường và kết thúc chiến tranh trong điều kiện có lợi nhất.
7.3.1.2. Nghệ thuật quân sự toàn dân đánh giặc.
- Đây là sự kế thừa và phát huy lên một trình độ mới từ nghệ thuật quân sự truyền
thống của dân tộc. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, nghệ thuật quân sự
chỉ đạo mọi hoạt động tác chiến của LLVTND. Đó là một nguyên tắc trong nghệ thuật quân
sự của toàn dân đánh giặc. Nguyên tắc đó phải được thể hiện cụ thể trong việc xác định
phương hướng, mục tiêu, đối phương và thời cơ tiến công... Trong kế hoạch chiến lược,
chiến dịch, cũng như từng trận đánh cu thể.
- Trong hoạt động tác chiến của các LLVT, kết hợp đánh phân tán với đánh tập
trung, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn. Mỗi lực lượng, mỗi thứ quân đều có vị trí tác
dụng và có những quy luật hoạt động riêng. Vì vậy, cần phải phối hợp tác chiến của các lực
lượng, các thứ quân cả về chiến lược cũng như trong chiến dịch và chiến đấu. Có kết hợp
đánh phân tán, rộng khắp của LLVTND địa phương với đánh tập trung của lực lượng cơ
động, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn mới phát huy được uy lực của mọi vũ khí từ thô
sơ đến hiện đại, làm cho binh lực của địch bị phân tán, dàn mỏng, khiến cho chúng đông mà
hóa ít, mạnh mà hóa yếu và luôn bị động đối phó; trên cơ sở đó, thực hiện những đòn đánh
quyết định, tạo sự thay đổi trên chiến trường có lợi cho ta.
7.3.1.3. Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời và mưu kế.
- Trong đấu tranh vũ trang, trước một đối tượng có sức mạnh vượt trội về quân sự,
khoa học công nghệ phải biết kết hợp chặt chẽ các yếu tố: lực lượng, thế trận, thời cơ và
mưu trí, sáng tạo. Dùng lực phải dựa vào thế có lợi, dùng đúng nơi, đúng lúc mới đạt hiệu
quả cao, lực nhỏ hóa lớn, yếu hóa mạnh. Tạo thế, tạo lực để sẵn sàng đánh địch khi thời cơ
có lợi nhất. Đặt thế, lực vào đúng thời cơ có lợi thì “sức dùng một nửa mà công được gấp
đôi”. Muốn đánh thắng, còn phải dùng mưu kế, hạn chế cái mạnh của địch, phát huy cái
mạnh của ta. Luôn chú ý lừa địch và giữ bí mật, bất ngờ. Đánh bất ngờ, tạo hiệu quả diệt
địch, nhất là trong điều kiện lực lượng quân sự địch mạnh, có vũ khí công nghệ cao.
- Nghệ thuật quân sự của ta còn phải biết đánh giá đúng và triệt để khai thác các yếu
tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Đó là nghệ thuật nắm bắt và phát huy sức mạnh của thời
đại, phát huy tiềm năng, thế mạnh của đất nước, con người Việt Nam, trong đó, cần đặc biệt
chú trọng “nhân hòa”. Chỉ có kết hợp chặt chẽ lực, thế, thời, mưu và các yếu tố khác, ta mới
có thể tạo ra sức mạnh tổng hợp, đánh thắng kẻ thù có kinh tế, quân sự mạnh khi chúng liều
lĩnh xâm lược nước ta.
7.3.1.4. Quán triệt tư tưởng lấy ít địch nhiều, biết tập trung ưu thế lực lượng cần thiết để
đánh thắng địch.
- Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, ông cha ta luôn phải chống lại kẻ
thù xâm lược lớn hơn nhiều lần. Đứng trước thực tế đó, ông cha ta đã sáng tạo ra nghệ thuật
“lấy ít địch nhiều”, nhưng biết tập trung ưu thế lực lượng trong những thời điểm quan trọng
để đánh thắng quân xâm lược.
- Ngày nay, vận dụng tư tưởng lấy ít đánh nhiều, ta phải phát huy được khả năng
đánh giặc của toàn dân, của cả ba thứ quân, tạo ra sức mạnh tổng hợp hơn địch để đánh
thắng địch trong mọi tình thế. Mặt khác, phải tận dụng địa hình, tận dụng được yếu tố bí
mật, bất ngờ, tiết kiệm được lực lượng để đánh lâu dài, cành đánh càng mạnh, càng đánh
càng thắng.
7.3.1.5. Kết hợp tiêu hao,, tiêu diệt địch với bảo vệ vững chắc các mục tiêu.
Từng trận đánh, từng chiến dịch có mục đích cụ thể khác nhau, nhưng mục đích
chung nhất của mọi hoạt động tác chiến trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là tiêu diệt lực
lượng địch phải đi đôi với bảo vệ vững chắc mục tiêu. Muốn giành thắng lợi triệt để trong
chiến tranh, chúng ta phải kết hợp đánh tiêu hao với đánh tiêu diệt lớn quân địch. Đánh tiêu
hao rộng rãi bằng đánh nhỏ, đánh vừa của chiến tranh nhân dân địa phương sẽ tạo điều kiện
cho tác chiến tập trung của chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực, thực hiện đánh lớn, tiêu
diệt lớn quân địch. Đi đôi với tiêu hao, tiêu diệt lực lượng của địch, phải bảo vệ vững chắc
mục tiêu của ta, là vấn đề có tính quy luật trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
7.3.2. Trách nhiệm của sinh viên.
- Nghiên cứu nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta, để tự hào về tinh thần dũng cảm, ý
chí kiên cường bất khuất trong chống giặc ngoại xâm của dân tộc, xây dựng ý thức để bảo vệ
non sông đất nước.
- Phải phát huy tinh thần tự giác, tích cực tự lực, tự cường khắc phục mọi khó khăn
học tập để không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết mọi mặt, nâng cao ý thức, bồi dưỡng
tình yêu quê hương đất nước.
- Phải thường xuyên tu dưỡng và rèn luyện để chở thành những công dân tốt sẵn sàng
nhận và hoàn thành nhiệm vụ khi Tổ quốc cần. Luôn đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu
thủ đoạn của kẻ thù.

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN

1. Phân tích truyền thống và nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên ?
2. Trình bày nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo?

Chương 5
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VIỆT NAM
5.1. Đặc điểm và những quan điểm nguyên tắc cơ bản xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân.
5.1.1. Khái niệm
LLVTND Việt Nam là các tổ chức vũ trang và bán vũ trang của nhân dân Việt Nam
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam quản lí, có
nhiệm vụ “Chiến đấu giành và giữ vững độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, bảo vệ ANQG và TTATXH, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ XHCN và những
thành quả cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước. Là lực lượng xung kích trong khởi
nghĩa toàn dân giành chính quyền, là lực lượng nòng cốt của QPTD, ANND và chiến tranh
nhân dân”. LLVTND bao gồm Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và Dân quân tự vệ.
- Nội dung chủ yếu của khái niệm:
+ Là tổ chức vũ trang và bán vũ trang của nhân dân Việt Nam
+ Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước XHCN Việt Nam quản lí.
+ Nhiệm vụ: Chiến đấu giành và giữ độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ. Bảo vệ ANQG, TTATXH, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ XHCN và những thành quả
cách mạng; cùng toàn dân xây dựng đất nước.
+ Là lực lượng nòng cốt trong khởi nghĩa giành chính quyền, xây dựng nền QPTD,
ANND và chiến tranh nhân dân.
+ LLVTND bao gồm: Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, Dân quân tự vệ.
5.1.2. Đặc điểm liên quan đến xây dựng vũ trang nhân dân
5.1.2.1. Cả nước đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
XHCN, trong khi các thế lực thù địch chống phá ta quyết liệt trên mọi lĩnh vực:
- Đất nước đã hòa bình thống nhất, đi lên CNXH với hai nhiệm vụ chiến lược, đây là
điều kiện thuận lợi cho xây dựng LLVTND. Hai nhiệm vụ chiến lược có mối quan hệ chặt
chẽ, tác động với nhau để cùng thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ công
bằng, văn minh”. Do đó, trong khi chúng ta đặt nhiệm vụ trọng tâm vào xây dựng CNXH
không được một chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
- Các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “DBHB” chống phá cách mạng. Đây là
một khó khăn lớn cho ta trong xây dựng LLVTND, vì chiến lược “DBHB” của các thế lực
thù địch, chúng xác định chống phá ta về mọi mặt, trong đó LLVTND là một trọng điểm,
với mục tiêu là vô hiệu hóa, phi chính trị hóa LLVTND. Do đó cần phải nắm chắc âm mưu,
thủ đoạn chiến lược “DBHB” của địch để có kế hoạch phòng ngừa đảm bảo xây dựng
LLVTND vững mạnh về mọi mặt.
5.1.2.2. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong điều kiện quốc tế đã thay đổi có nhiều
diễn biến phức tạp.
- Tình hình thế giới:
Chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu, Liên Xô sụp đổ, phong trào cách mạng giải phóng dân
tộc trên thế giới gặp nhiều khó khăn, nhưng trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn
là xu thế lớn. Đánh giá nhận định về vấn đề này Đại hội đại quốc lần thứ XIII của Đảng đã
nêu: “Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng phức tạp,
khó dự báo. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn song đang đứng trước nhiều trở
ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra
dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường
kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế”1
- Khu vực Đông Nam Á tiềm ẩn nhiều yếu tố mất ổn định, các nước lớn đang tăng
cường ảnh hưởng của mình để lôi kéo các nước ASEAN “Đông Nam Á có vị trí chiến lược

(1-6) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2021, tr. 31, 92, 105, 107.
ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều
bất ổn”2.
- Tình hình biể n Đông thời gian gầ n đây có nhiề u diễn biế n phức ta ̣p khó lường
“Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết
liệt...Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột3.
5.1.2.3. Sự nghiệp đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đất nước ta bước sang thời kì
đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập kinh tế thế giới toàn diện và sâu rộng
hơn.
- Thuận lợi:
Tiềm lực và vị thế của nước ta được tăng cường, Đảng ta có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo, nhân dân ta có truyền thống yêu nước, đoàn kết,
tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. LLVT ta tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân
dân “Sau 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin
của nhân dân ngày càng được nâng lên, tạo những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc”4.
Trên cơ sở phát huy những thuận lợi của nước ta trong hiệp hội ASEAN, thành viên
tổ chức thương mại thế giới để giữ vững môi trường hòa bình và phát triển kinh tế theo định
hướng XHCN. Đó là nền tảng vững chắc để xây dựng LLVTND.
- Thách thức:
Nước ta vẫn tồn tại những thách thức lớn được đại hội Đảng lần thứ XIII đề cập: Tụt
hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới “...đất nước ta vẫn
đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và hạn chế. Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với
tiềm năng... Tính tự chủ và khả năng chống chịu của nền kinh tế chưa cao”5
Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng lãng phí là nghiêm trọng; những
biểu hiện xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa “Một bộ phận cán bộ đảng viên phai nhạt lý
tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống,
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa6.
Các thế lực thù địch thực hiện chiến lược “DBHB”, BLLĐ. Hiện nay và trong những
năm tới, chúng ta đang đứng trước nhiều vấn đề phải giải quyết, trong đó có những có mâu
thuẫn chủ yếu là: Nhu cầu phải đầu tư cho quốc phòng và an ninh cho xây dựng LLVTND
dân ngày càng lớn và cấp thiết, nhưng khả năng của nền kinh tế, ngân sách của Nhà nước là
rất hạn hẹp.
5.1.2.4. Thực trạng của lực lượng vũ trang nhân dân ta.
Trong những năm qua, LLVTND ta đã có bước trưởng thành vững mạnh cả về bản
lĩnh chính trị, chất lượng tổng hợp, trình độ chính quy, sức mạnh chiến đấu không ngừng
được nâng lên. Đã hoàn thành tốt cả ba chức năng, xứng đáng là lực lượng nòng
cốt đi đầu giải quyết hiệu quả những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp mà Đảng, Nhà nước giao
cho. Song, trên thực tế cần tập trung tháo gỡ một số vấn đề sau:
- Về chất lượng chính trị: Trên thực tế, trình độ lí luận, tính nhạy bén, sắc xảo và bản
lĩnh chính trị của không ít cán bộ, chiến sĩ ta chưa tương xứng với vị trí, yêu cầu, nhiệm vụ
của LLVT trong cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc XHCN.
- Về khả năng chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của LLVT còn có những mặt
hạn chế, chưa đáp ứng được các tình huống phức tạp (nếu chiến tranh xảy ra). Công tác
huấn luyện, đào tạo cán bộ còn có những nội dung bất cập, chưa thật sát nhiệm vụ và năng
lực thực hành theo cương vị đảm nhiệm.
- Về trình độ chính quy của quân đội: Chưa đáp ứng được yêu cầu tác chiến hiện đại
và chưa tương xứng với công tác xây dựng. Chấp hành kỉ luật của một bộ phận LLVT còn
chuyển biến chậm, vẫn để xảy ra những vụ việc, ảnh hưởng đến sức mạnh chiến đấu của
LLVT.
- Về trang bị của LLVT: Một số đơn vị, lực lượng còn lạc hậu và thiếu đồng bộ.
- Vấn đề nghiên cứu phát triển toàn diện nền khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam
trong thời kì mới cần được tổ chức một cách khoa học, phối hợp chặt chẽ giữa viện nghiên
cứu, cơ sở đào tạo và thực tiễn.
5.1.3. Những quan điểm, nguyên tắc cơ bản xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong
thời kì mới.
Đại hội XIII của Đảng đã xác định “Xây dựng, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh
quốc gia là nhiệm vụ thường xuyên, trọng yếu của Đảng, Nhà nước và của hệ thống chính
trị, trong đó các LLVT đóng vai trò nòng cốt”1
Những quan điểm, nguyên tắc cơ bản xây dựng LLVTND trong thời kì mới:
5.1.3.1. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với LLVTND.
- Ý nghĩa:
Đây là quan điểm, nguyên tắc cơ bản nhất trong xây dựng LLVTND. Sự lãnh đạo của
Đảng đối với các LLVT sẽ quyết định bản chất cách mạng, mục tiêu, phương hướng chiến
đấu, đường lối tổ chức và cơ chế hoạt động của LLVTND, bảo đảm nắm chắc quân đội trong
mọi tình huống. Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong mấy chục năm qua đã minh chứng
điều đó.
- Nội dung:
Đảng Cộng sản Việt Nam độc tôn duy nhất nắm quyền lãnh đạo LLVTND theo
nguyên tắc “Tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt”, Đảng không nhường hoặc chia sẻ quyền lãnh
đạo cho bất cứ giai cấp, lực lượng, tổ chức nào. Đảng có hệ thống từ Trung ương cho đến cơ
sở lãnh đạo mọi hoạt động của LLVT.
- Tổ chức:
Trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Đảng lãnh đạo theo hệ thống dọc từ Quân uỷ
trung ương đến các đơn vị cơ sở trong toàn quân. Trực tiếp lãnh đạo các đơn vị ở địa phương
(bộ đội địa phương và dân quân tự vệ) là các cấp ủy đảng địa phương.
- Phương pháp:
Đảng lãnh đạo trên mọi hoạt động của LLVTND dân trên tất cả mọi lĩnh vực chính
trị, tư tưởng, tổ chức… cả trong xây dựng và chiến đấu.
5.1.3.2. Tự lực tự cường xây dựng lực lượng vũ trang.
- Cơ sở:

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2021
Từ truyền thống, kinh nghiệm trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Từ
tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng LLVT, vào thực tiễn xây dựng LLVTND
Việt Nam trong mấy chục năm qua.
- Nội dung:
Tự lực tự cường dựa vào sức mình để xây dựng, để giữ vững tính độc lập tự chủ, chủ
động không bị chi phối ràng buộc.
+ Nâng cao tinh thần trách nhiệm, khắc phục mọi khó khăn xây dựng đơn vị vững
mạnh rèn luyện.
+ Triệt để tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi về khoa học - công nghệ, để
xây dựng và phát triển LLVT nhân dân.
+ Tập trung từng bước hiện đại hóa trang bị kĩ thuật, quản lí khai thác và có hiệu quả
trang bị hiện có…
+ Tích cực đẩy mạnh phát triển kinh tế và thực hành tiết kiệm.
5.1.3.3. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, lấy chất lượng làm chính, lấy xây dựng
chính trị làm cơ sở.
- Cơ sở:
+ Xuất phát từ lí luận Mác - Lênin về mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng.
Truyền thống xây dựng LLVT của ông cha ta “Binh quí hổ tinh, bất quí hổ đa”…
+ Từ đòi hỏi yêu cầu cao của nhiệm vụ đối với LLVTND.
+ Từ thực tiễn xây dựng LLVTND. Đảng ta luôn coi trọng xây dựng chất lượng, lấy
chất lượng chính trị làm cơ sở…Do đó, LLVTND của ta hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng
và Nhà nước giao cho.
+ Từ sự chống phá của kẻ thù trong chiến lược “DBHB”, BLLĐ nhằm phi chính trị
hóa quân đội…
- Nội dung:
+ Nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng lấy nâng cao
chất lượng là chính, đồng thời có số lượng phù hợp với tình hình nhiệm vụ và khả năng kinh
tế của đất nước.
+ Phải có cơ cấu hợp lí giữa các thứ quân, giữa lực lượng thường trực với lực lượng
dự bị động viên.
+ Thường xuyên làm tốt công tác huấn luyện diễn tập để nâng cao trình độ sẵn sàng
chiến đấu của LLVTND.
+ Xây dựng LLVTND có chất lượng toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Về
chính trị phải thường xuyên làm tốt công tác quán triệt, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ trong
LLVTND, tin tưởng vào đường lối quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước. Tin
tưởng tuyệt đối, tự giác chấp hành nghiêm mọi đường lối, chủ trương chính sách pháp luật.
+ Chăm lo xây dựng củng cố các tổ chức chính trị trong LLVTND vững mạnh (Tổ
chức Đảng, Đoàn thanh niên, Hội đồng quân nhân…) chăm lo xây dựng cơ quan chính trị
vững mạnh, đội ngũ cán bộ chính trị đảng viên có phẩm chất năng lực tốt, đủ sức lãnh đạo
đơn vị.
5.1.3.4. Bảo đảm lực lượng vũ trang nhân dân luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và chiến
đấu thắng lợi.
- Cơ sở:
Đây là quan điểm phản ánh chức năng, nhiệm vụ chủ yếu cơ bản, thường xuyên của
LLVTND, có ý nghĩa quan trọng đảm bảo cho LLVTND chủ động đối phó kịp thời và thắng
lợi trong mọi tình huống có thể xảy ra.
- Nội dung:
+ Lực LLVTND phải luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu đánh địch kịp thời, bảo vệ
được mình, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong mọi tình huống.
+ Xây dựng LLVTND vững mạnh về mọi mặt, duy trì và chấp hành nghiêm các chế
độ, qui định về sẵn sàng chiến đấu, trực ban, trực chiến, trực chỉ huy…
5.2. Phương hướng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn mới.
5.2.1. Phương hướng chung:
Đa ̣i hô ̣i XIII của Đảng ta khẳng định “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân
dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên
hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”; “Xây dựng dân quân tự vệ vững mạnh
và rộng khắp, coi trọng lực lượng dân quân tự vệ biển và dân quân tự vệ ở các địa phương
trọng điểm1.
- Những quan điểm trên thể hiện sự kế thừa, phát triển trong tư duy lý luận của Đảng
ta về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam nhưng cũng thể hiện những nét mới rất quan
trọng trong chủ trương, đường lối tăng cường QP&AN bảo vệ vững chắt Tổ quốc Việt Nam
XHCN.
- Đây là cơ sở để xác định phương hướng xây dựng LLVT. Đối với quân đội phải tiếp
tục đẩy mạnh “Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng chính quy tinh nhuệ, từng bước hiện
đại” một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại.
- Xây dựng lựng lượng dự bị động viên hùng hậu, được huấn luyện và quản lý tốt,
bảo đảm khi cần thiết có thể động viên nhanh theo kế hoạch.
- Trong quá trình thực hiện phải quán triệt đầy đủ tinh thần các Nghị quyết của Đảng
về tăng cường QP&AN, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kì mới.
5.2.2. Phương hướng cụ thể.
5.2.1. “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng: hải
quân, phòng không - không quân, tác chiến điện tử, trinh sát kỹ thuật, cảnh sát biển, tình
báo, cơ yếu, an ninh, cảnh sát cơ động, kỹ thuật nghiệp vụ, an ninh mạng và đấu tranh
phòng chống tội phạm công nghệ cao”2.
* Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng:
- Đây là vấn đề cơ bản hàng đầu trong nhiệm vụ xây dựng quân đội, công an trong
mọi giai đoạn cách mạng.
- Nội dung:
+ Xây dựng bản chất giai cấp, công nhân cho quân đội, công an làm cho lực lượng
này tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân “Quân đội ta trung với Đảng,

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2021, tr. 336.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2021, tr. 277.
hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thủ nào cũng đánh thắng” 1.
+ Chấp hành mọi đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước.
+ Kiên định mục tiêu lí tưởng xã hội chủ nghĩa, vững vàng trước mọi khó khăn thử
thách, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
+ Trước diễn biến tình hình phải phân biệt được đúng sai.
+ Có tinh thần đoàn kết quân dân, đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế tốt.
+ Kỉ luật tự giác nghiêm minh, dân chủ rộng rãi…
* Xây dựng quân đội, công an chính quy:
Là thực hiện thống nhất về mọi mặt (tổ chức biên chế, trang bị). Dựa trên những chế
độ, điều lệnh qui định, đưa mọi hoạt động của quân đội, công an vào nề nếp. Nhằm thống
nhất ý chí và hành động về chính trị, tư tưởng và tổ chức của mọi cán bộ, chiến sỹ, để tăng
cường sức mạnh chiến đấu tổng hợp của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân.
- Nội dung:
Thống nhất về bản chất Cách mạng, mục tiêu chiến đấu, về ý chí quyết tâm, nguyên
tắc xây dựng quân đội, công an về tổ chức biên chế trang bị. Thống nhất về quan điểm tư
tưởng quân sự, nghệ thuật quân sự, về phương pháp huấn luyện giáo dục. Thống nhất về tổ
chức thực hiện chức trách nề nếp, chế độ chính qui, về quản lí cán bộ, chiến sỹ, quản lí trang
bị.
* Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân tinh nhuệ:
Biểu hiện mọi hoạt động của quân đội và công an trên các lĩnh vực đạt hiệu quả cao.
- Nội dung:
+ Tinh nhuệ về chính trị: Đứng trước diễn biến của tình hình, có khả năng phân tích
và kết luận chính xác đúng, sai, từ đó có thái độ đúng đắn với sự việc đó.
+ Tinh nhuệ về tổ chức: Tổ chức gọn nhẹ nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu được
giao.
+ Tinh nhuệ về kĩ - chiến thuật: Phải giỏi sử dụng các loại binh khí, kĩ thuật hiện có,
biết sử dụng trang bị vũ khí hiện đại, giỏi các cách đánh, vận dụng mưu trí, sáng tạo các hình
thức chiến thuật.
* Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân từng bước hiện đại:
Đi đôi với chính qui, tinh nhuệ, tiếp tục từng bước hiện đại hóa quân đội, công an về
trang bị, vũ khí. Hiện đại hóa là một tất yếu, nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân
đội và công an.
- Nội dung:
+ Từng bước đổi mới vũ khí, trang bị kĩ thuật quân đội, công an.
+ Xây dựng rèn luyện quân nhân, cán bộ chiến sỹ công an bản lĩnh trí tuệ và năng lực
hành động, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phức tạp và tác chiến hiện đại.
+ Phát triển các quân binh chủng kĩ thuật trong quân đội, có nghệ thuật quân sự hiện đại,
khoa học quân sự hiện đại, có hệ thống công nghệ quốc phòng hiện đại. Bảo đảm cho quân
đội hoạt động trong mọi điều kiện chiến tranh hiện đại .

1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, 6, 7, 8, 12, 14, 15, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
+ Những nội dung trên là cả một quá trình phấn đấu lâu dài mới đạt được, hiện nay ta
phải thực hiện bước đi: “Từng bước” nghĩa là phải dần dần bằng khả năng kinh tế và trình
độ khoa học của đất nước. Quá trình hiện đại hóa quân đội, công an phải gắn với quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với từng bước phát triển công nghiệp quốc phòng,
sản xuất mới, kết hợp phục hồi sửa chữa cải tiến vũ khí trang thiết bị hiện có và mua một số
vũ khí cần thiết.
* Để xây dựng được Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, bảo vệ Tổ quốc, đối phó với
chiến tranh công nghệ cao cần tập trung xây dựng các tiềm lực chủ yếu sau:
- Xây dựng về chính trị - tinh thần
Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị - tinh thần là nguyên
tắc trong tổ chức và hoạt động của Quân đội; thể hiện quan điểm coi con người là yếu tố
quyết định thắng, bại trên chiến trường “Trong mọi cuộc chiến tranh rốt cuộc thắng lợi đều
tùy thuộc vào tinh thần quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”1; nhằm tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, giữ vững bản chất giai cấp công nhân,
tính dân tộc, tính nhân dân của quân đội.
Xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, trung thành vô hạn với
Đảng, Tổ quốc và nhân dân, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước; vững tin vào sự nghiệp đổi mới và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; nâng cao
cảnh giác, làm thất bại chiến lược “DBHB”, BLLĐ của các thế lực thù địch, âm mưu “phi
chính trị hóa” Quân đội; gắn bó mật thiết với nhân dân; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc
lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Xây dựng, phát huy vai trò hệ thống cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị các
cấp; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị; quan tâm
chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cấp chiến lược, chiến dịch; thường xuyên làm tốt
công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác kiểm tra, giám sát, không để thế lực thù địch xâm
nhập, cài cắm, móc nối, phá hoại, làm lộ bí mật quân sự.
- Tổ chức, biên chế và xây dựng nguồn nhân lực
Quân đội nhân dân Việt Nam được tổ chức và xây dựng phù hợp với quan điểm,
đường lối QPTD, CTND của Đảng; đồng bộ, cân đối giữa Bộ đội chủ lực, Bộ đội địa
phương và Dân quân tự vệ; lực lượng thường trực và lực lượng dự bị động viên; lực lượng
chiến đấu với bảo đảm chiến đấu; lục quân với các quân chủng, binh chủng; tổng quân số
với khả năng bảo đảm vũ khí, trang bị.
Đầu tư, bảo đảm nguồn lực thực hiện mục tiêu xây dựng quân đội, các chương trình,
dự án trọng điểm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật;
nghiên cứu ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến; làm chủ công nghệ chế tạo một số loại
vũ khí, trang bị hiện đại cho lục quân, các quân, binh chủng; tiến tới thiết kế, sản xuất một số
vũ khí, trang bị quốc phòng có ý nghĩa chiến lược.
- Đào tạo, huấn luyện, diễn tập
Đi đôi với xây dựng về chính trị - tinh thần, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn coi
trọng công tác đào tạo, huấn luyện, diễn tập; thường xuyên đổi mới toàn diện công tác đào
tạo, huấn luyện, diễn tập phù hợp với tổ chức biên chế, trang bị và sự phát triển của nghệ
thuật quân sự Việt Nam.

1
V.I. Lênin, Toàn tập, tập 41, Bản tiếng việt, NXB Tiến bộ, Matsxcơva, 1997. tr.147.
Tập trung đào tạo cán bộ lãnh đạo, chỉ huy có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất
đạo đức tốt; nắm chắc nghệ thuật quân sự, nghệ thuật tác chiến quân, binh chủng, ngành, tác
chiến của các binh đoàn chủ lực và của chiến tranh nhân dân địa phương (tác chiến của khu
vực phòng thủ tỉnh, thành phố), trong các loại hình tác chiến của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc;
có năng lực toàn diện về lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, huấn luyện, tiến hành công tác đảng,
công tác chính trị; hiểu biết cơ bản về khoa học - công nghệ quân sự; có trình độ công nghệ
thông tin, ngoại ngữ và kiến thức về pháp luật, xã hội đáp ứng yêu cầu của từng cấp.
Chú trọng huấn luyện kỹ năng chiến đấu cá nhân, tác chiến hiệp đồng quân, binh
chủng, ngành; khai thác, làm chủ, phát huy tính năng, hiệu quả của các loại vũ khí, trang bị
hiện có bằng nghệ thuật quân sự Việt Nam theo phương châm “cơ bản, thiết thực, vững
chắc”. Đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp huấn luyện phù hợp với tổ chức,
trang bị và điều kiện thực tế của từng đơn vị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu
và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thường xuyên tổ chức diễn tập nhằm rèn luyện năng lực toàn diện về lãnh đạo, chỉ
huy, điều hành của người chỉ huy cơ quan đối với các lực lượng; nâng cao trình độ tổ chức
chỉ huy, hiệp đồng bảo đảm tác chiến, xử trí tình huống chiến lược; bổ sung hoàn thiện
phương án tác chiến đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Việt Nam chủ trương tham gia huấn luyện, diễn tập đối phó các tình huống an ninh
phi truyền thống, tìm kiếm cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, hỗ trợ nhân
đạo,... với một số nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền lãnh thổ của các nước, bảo
đảm lợi ích quốc gia - dân tộc; phù hợp luật pháp quốc tế, pháp luật và điều kiện, khả năng
của Việt Nam; tăng cường hợp tác, góp phần duy trì hòa bình, ổn định của khu vực và trên
thế giới.
- Nghiên cứu khoa học:
Nghiên cứu khoa học bao gồm khoa học nghệ thuật quân sự, khoa học xã hội nhân
văn quân sự, khoa học hậu cần, kỹ thuật quân sự,... Cụ thể là:
Củng cố nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam; giáo dục, bồi dưỡng lòng
trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do
của Tổ quốc.
Đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam, lý luận chiến tranh
nhân dân trong điều kiện mới, sẵn sàng đánh thắng các hình thái chiến tranh mới. Coi trọng
nghiên cứu việc tổ chức chuẩn bị, tiến hành chiến tranh; tư tưởng chỉ đạo, phương châm,
phương thức, nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh và tác chiến chiến lược, xây dựng lực lượng vũ
trang; huy động, khai thác các tiềm lực của đất nước phục vụ cho chiến tranh...; lý luận và
thực tiễn chuẩn bị và thực hành các chiến dịch (trận đánh) trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn chuyên ngành, huy động tiềm lực, nâng cao khả năng
cơ động, vận tải, bảo đảm đời sống, quân y, xăng dầu,... Nghiên cứu ứng dụng công nghệ
thông tin, tự động hóa, khai thác, làm chủ công nghệ cao, vũ khí, trang bị hiện đại; cải tiến,
nâng cấp, chế tạo các loại vũ khí, phương tiện, trang thiết bị quân sự đáp ứng chiến tranh
công nghệ cao; nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, bảo đảm giành thắng lợi
trong mọi tình huống, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
- Vũ khí, trang bị kỹ thuật, hậu cần:
Vũ khí, trang bị kỹ thuật, hậu cần có vai trò rất quan trọng trong chiến tranh hiện đại.
Là quốc gia đang phát triển, trình độ khoa học - công nghệ còn có mặt hạn chế, song Nhà
nước Việt Nam rất chú trọng bảo đảm cho quân đội những loại vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện
đại cần thiết để bảo vệ Tổ quốc.
Coi trọng giữ gìn, bảo quản tốt, cải tiến có chọn lọc những vũ khí, trang bị hiện có;
đầu tư thích đáng để tự sản xuất một số phương tiện, vũ khí phù hợp với khả năng công
nghệ; đồng thời mua sắm một số vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, đáp ứng yêu cầu tăng
cường sức mạnh chiến đấu cho quân đội. Tiếp tục đổi mới tổ chức, phương thức bảo đảm
hậu cần, kỹ thuật; hình thành các cơ sở bảo đảm nòng cốt theo vùng, miền; kết hợp với xã
hội hóa; sử dụng có hiệu quả, tập trung nguồn lực đầu tư, phát triển tiềm lực quốc phòng;
tích cực tham gia đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước.
- Công nghiệp quốc phòng: Công nghiệp quốc phòng là bộ phận cấu thành của nền
công nghiệp quốc gia, được xây dựng, phát triển theo hướng từng bước hòa nhập với công
nghiệp quốc gia, thúc đẩy công nghiệp quốc gia phát triển. Việt Nam chủ trương xây dựng,
phát triển công nghiệp quốc phòng đạt trình độ khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại, góp
phần từng bước hiện đại hóa, nâng cao sức mạnh, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu của
Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu nâng cao tiềm lực QP&AN quốc gia. Đẩy
mạnh việc ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại và thành tựu của
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; nâng cao năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sửa
chữa, cải tiến, hiện đại hóa các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật có tính năng kỹ thuật, chiến
thuật cao.
Việt Nam chủ trương xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng có quy mô, tổ
chức, cơ cấu quản lý phù hợp, bảo đảm tập trung, thống nhất về quản lý nhà nước; phát huy
vai trò, trách nhiệm tự chủ của các cơ sở công nghiệp quốc phòng và sự tham gia tích cực,
hiệu quả của các bộ phận, thành phần kinh tế quốc dân. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp
quốc phòng theo hướng lưỡng dụng và thực sự trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc
gia. Phấn đấu đến năm 2030, công nghiệp quốc phòng sẽ có sức cạnh tranh quốc tế, tham gia
sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu; hoàn thành quy hoạch các doanh nghiệp công nghiệp quốc
phòng; sắp xếp các cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt trên cả ba miền Bắc, Trung,
Nam phù hợp với thế trận phòng thủ chiến lược của đất nước. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về
đào tạo, nghiên cứu, chế tạo, tiêu thụ các sản phẩm quốc phòng; đa phương hóa, đa dạng hóa
hợp tác, mua sắm vũ khí, phương tiện, trang bị quân sự bảo đảm các tiêu chí về chất lượng,
giá thành, làm chủ công nghệ; đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, phương thức
tác chiến trong các hình thái chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
- Xây dựng, phát triển kỹ thuật quân sự:
Cùng với sự phát triển khoa học quân sự, ngành kỹ thuật quân sự đang phát huy
truyền thống “chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường” trong nghiên cứu, phát triển và ứng dụng
công nghệ mới; ứng dụng công nghệ thông tin, tự động hóa, khai thác, làm chủ công nghệ
cao, vũ khí, trang bị hiện đại; bảo đảm phòng, chống hiệu quả và giành thắng lợi, đáp ứng
yêu cầu tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện đối phương sử dụng
vũ khí công nghệ cao. Tập trung đầu tư, bảo đảm nguồn lực thực hiện mục tiêu xây dựng
Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
5.2.2.2. Xây dựng lực lượng dự bị động viên
Nghị quyết Đại hổi Đảng lần thứ XIII đảng ta xác định: “Xây dựng lực lượng dự bị động
viên hùng hậu, chất lượng ngày càng cao”1, đồng thời lực lượng dự bị động viên cần được

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2021, tr. 277
quan tâm huấn luyện và quản lí tốt, bảo đảm khi cần thiết có thể đảm bảo động viên nhanh
theo kế hoạch.
Theo bảng tổng hợp số liệu năm 2021, nguồn của Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
(tham khảo)
TT Tổng số Số quân
Lực lượng
Quân chính Lực lượng Tổng số quân chính
Quốc gia bán quân
quy dự bị quân trên 1000 quy trên
sự
dân 1000 dân
I Một số nước lớn và một số nước quan tâm
1 Hoa Kỳ 1.771.995 1.458.500 41.000 3.271.495 10,4 5,6
2 Trung Quốc 2.285.000 800.000 3.969.000 7.054.000 5,2 1,7
3 Nga 766.000 2.035.000 449.000 3.250.000 22,7 5,3
4 Nhật Bản 230.300 41.800 12.250 284.350 2,2 1,8
5 Anh và Bắc
205.850 181.720 0 387.570 6,3 3,4
Ireland
6 Pháp 222.215 93.099 98.155 413.469 6,4 3,4
7 Ấn Độ 1.325.000 2.142.821 1.300.586 4.768.407 3,9 1,1
8 Israel 176.500 445.000 7.650 629.150 79,2 22,2
9 CHDCND
1.106.000 8.200.000 189.000 9.495.000 386,7 45
Triều Tiên
10 Hàn Quốc 687.000 1.000.000 3.500.000 5.187.000 103,6 13,7
II Các nước trong khối ASIAN
1 Brunei 7.000 700 2.250 9.950 25,6 18
2 Singapore 72.500 356.500 93.800 522.800 112,2 15,6
3 Myanmar 406.000 0 107.250 513.250 10,7 8,4
4 Campuchia 124.300 0 67.000 191.300 13,2 8,6
5 Việt Nam 455.000 5.000.000 40.000 5.495.000 62 5,1
6 Thái Lan 305.860 245.000 113.700 664.560 10,1 4,6
7 Lào 29.100 0 100.000 129.100 18,9 4,3
8 Malaysia 109.000 296.300 24.600 429.900 16,7 4,2
9 Philippines 220.000 430.000 140.000 790.000 8,1 2,2
10 Indonesia 438.410 400.000 280.000 1.118.410 4,6 1,8
11 Đông Timor 1.332 0 0 1.332 1,3 1,3

5.2.2.3. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ:


Nghị quyết Đại hổi Đảng lần thứ XIII đảng ta xác định: “Xây dựng dân quân tự vệ
vững mạnh và rộng khắp, coi trọng lực lượng dân quân tự vệ biển và dân quân tự vệ ở các
địa phương trọng điểm”1
Bác Hồ nói: “Dân quân tự vệ và du kích là một lực lượng vô địch, là bức tường sắt
của Tổ quốc, vô luận kẻ thù hung bạo thế nào, hễ đụng đến lực lượng đó, bức tường đó thì
địch nào cũng phải tan rã”.
+ Năm 1990, chính phủ đã ban hành điều lệ dân quân tự vệ.
+ Pháp lệnh dân quân tự vệ năm 2004, đây là sự thể chế hóa đường lối quan điểm của Đảng
về nhiệm vụ xây dựng LLVT quần chúng.
+ Luật Dân quân tự vệ được ban hành và có hiệu lực thi hành ngày 15 tháng 7 năm 2019 dựa
trên cơ sở pháp lệnh DQTV.
Nội dung:
Dân quân tự vệ được xây dựng rộng khắp ở tất cả thôn, xóm bản làng, nông trường, công
trường, doanh nghiệp, nhưng có trọng điểm, chú ý có hình thức phù hợp trong các thành
phần kinh tế.
Chú trọng xây dựng cả số lượng và chất lượng, lấy chất lượng làm chính, tổ chức biên chế
phải phù hợp. Huấn luyện phải thiết thực hiệu quả.
Có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo cán bộ dân quân tự vệ.
Thực hiện tốt các chính sách với dân quân tự vệ.
5.3. Những biện pháp chủ yếu xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
5.3.1. Chấn chỉnh tổ chức biên chế lực lượng vũ trang nhân dân.
- Bộ đội chủ lực: Tổ chức các đơn vị phải gọn, mạnh, cơ động, có sức chiến đấu cao. Bố trí
các binh đoàn chủ lực gắn với thế trận QP&AN nhân dân trên cả nước cũng như từng vùng
chiến lược.
- Bộ đội địa phương: Phải căn cứ vào tình hình cụ thể để tổ chức và bố trí cho phù hợp với
từng địa phương và thế trận cả nước.
- Bộ đội biên phòng: Cần có số lượng phù hợp, chất lượng cao, tổ chức hợp lý để hoàn thành
nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, anh ninh biên giới quốc gia, vùng biển, đảo…theo
nhiệm vụ được giao.
- Dân quân tự vê ̣: Được tổ chức trên cơ sở lực lượng chính trị ở từng đơn vị hành chính, đơn
vị sản xuất và dân cư ở cơ sở đó, có số lượng phù hợp, chất lượng cao.
5.3.2. Nâng cao chất lượng huấn luyện, giáo dục, xây dựng và phát triển khoa học kỹ
thuật quân sự Việt Nam (Khoa học công an)
5.3.3. Từng bước giải quyết yêu cầu về vũ khí, trang bị kĩ thuật của lực lượng vũ trang
nhân dân.
5.3.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ lực lượng vũ trang nhân dân có phẩm chất năng lực tốt.
5.3.5. Thực hiện nghiêm túc và đẩy đủ các chính sách của Đảng, Nhà nước đối với
lực lượng vũ trang nhân dân.

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2021, tr. 277
1. Quan điể m, nguyên tắc xây dựng LLVT nhân dân Việt Nam ?
2. Phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân trong tình hình hiện nay ?

Chương 4
CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

4.1. Những vấ n đề chung về chiế n tranh nhân dân bảo vê ̣ Tổ quố c Viêṭ Nam xã hô ̣i chủ
̃
nghia.
4.1.1. Mục đích, đối tượng của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
4.1.1.1. Khái niệm.
“CTND là cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, lấy LLVT nhân dân làm nòng cốt
nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và bảo vệ Nhân
dân, Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN”1.
4.1.1.2. Mục đích của chiến tranh nhân dân.
CTND bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là cuộc chiến tranh do toàn thể nhân dân
Việt Nam tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, nhằm:
- Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa.
- Bảo vệ Đảng, nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới,
CNH - HĐH đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc.
- Bảo vệ an ninh chính trị, TTATXH và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và
môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
4.1.1.3. Đối tượng tác chiến của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

1
. Luật quốc phòng, Điều 3, 2019, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2019.
* Đối tượng tác chiến của CTND bảo vệ Tổ quốc:
Là các thế lực thù địch có hành động phá hoại, xâm lược lật đổ cách mạng. Hiện nay
chúng thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ để xóa bỏ chủ nghĩa xã hội
ở nước ta và sẵn sàng sử dụng LLVT, hành động quân sự can thiệp khi có thời cơ.
Hiện nay, QP&AN đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức. Các thế lực thù
địch câu kết với các phần tử phản động, cơ hội chính trị trong nước chưa từ bỏ âm mưu
chống phá cách mạng Việt Nam, nhất là phá hoại nền tảng chính trị, tư tưởng, nhằm xóa bỏ
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ XHCN ở Việt Nam; âm mưu “phi chính trị
hóa” Quân đội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ nhân dân với Đảng và Quân
đội.
- Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã dự báo tình hình
quốc tế, khu vực và trong nước là: “Hòa bình, hợp tác, liên kết và phát triển vẫn là xu thế lớn
nhưng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn rất phức tạp, gay gắt; cục diện đa cực ngày
càng rõ nét. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng gặp nhiều trở ngại,
thách thức; chủ nghĩa dân túy, bảo hộ có xu hướng tăng lên; sự điều chỉnh chính sách, quan
hệ đối ngoại của các nước lớn trong khu vực và trên thế giới diễn biến khó lường. Tăng
trưởng kinh tế thế giới và thương mại, đầu tư quốc tế có xu hướng giảm; nợ công toàn cầu
tăng, rủi ro trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng. Đặc biệt, đại dịch Covid-19
diễn biến phức tạp, khó kiểm soát, gây ra suy thoái trầm trọng và khủng hoảng kinh tế toàn
cầu, có khả năng kéo dài sang đầu thập niên 20; làm thay đổi sâu sắc trật tự, cấu trúc kinh tế,
phương thức quản trị toàn cầu, cách thức hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống xã hội của
thể giới…Khu vực châu Á - thái Bình Dương, có vị trí trọng yếu trên thế giới, tiềm ẩn những
nhân tố gây mất ổn định, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên đặc biệt là Biển Đông diễn biến
ngày càng phức tạp và khó lường.”1
- Trong tình hình đó, đòi hỏi chúng ta phải nắm vững đối tượng chiến lược của cách
mạng và đối tượng tác chiến để khắc phục tư tưởng mơ hồ mất cảnh giác “để có phương án
chủ động phòng ngừa, tránh bị động phòng ngừa, tránh bị động đối đầu, cô lập. Kiên quyết
không để xảy ra những diễn biến xấu.
- Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không để lâm vào bị động, đảm bảo đủ sức đối
phó thắng lợi. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa IX của Đảng ta đã xác định: “Đối
tượng trực tiếp của cách mạng nước ta là tất cả những thế lực cản trở, xâm hại đến sự
nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, đối tượng tác chiến của quân
và dân ta là những lực lượng gây bạo loạn lật đổ, gây xung đột vũ trang và gây chiến tranh
xâm lược”2.
* Âm mưu, thủ đoạn.
Xuất phát từ bản chất phản động, hiếu chiến, chủ nghĩa đế quốc đang lợi dụng “vấn
đề khủng bố” và “chống khủng bố” để thi hành học thuyết “đánh đòn phủ đầu”, nhằm áp đặt
các giá trị của chúng đối với các quốc gia, dân tộc. Âm mưu xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên đất
nước ta là mục tiêu nhất quán của của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
Hiện nay, chúng đang đẩy mạnh thực hiện chiến lược “DBHB” kết hợp với BLLĐ và
khi điều kiện cho phép, chúng sẽ sẵn sàng tiến hành phát động chiến tranh với việc sử dụng

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII , NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.
207, 208.
2.
Bộ Quốc phòng - Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019, NXB Chính trị Quốc gia sự thật, 2019, Tr, 6.
vũ khí công nghệ cao để xâm lược nước ta, chúng đang triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo, dân chủ, nhân quyền, để tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của ta. Cho nên, chúng
ta phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, phải tỉnh táo, thận trọng trong
xử lý các “điểm nóng” không thể để địch tạo nguyên cớ can thiệp vào công việc nội bộ của
ta hoặc tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta.
Thực hiện đánh nhanh, thắng nhanh, kết hợp tiến công quân sự từ bên ngoài vào với
hành động bạo loạn lật đổ từ bên trong; đồng thời kết hợp với các biện pháp phi vũ trang để
lừa bịp dư luận.
* Khi tiến hành chiến tranh xâm lược địch có những mạnh, yếu sau:
- Điểm mạnh:
Có ưu thế tuyệt đối về sức mạnh quân sự, kinh tế và tiềm lực khoa học công nghệ, có
thể cấu kết được với lực lượng phản động nội địa, thực hiện trong đánh ra ngoài đánh vào.
Nếu địch tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta, chúng sẽ triệt để sử dụng ưu thế vũ
khí công nghệ hiện đại để đánh phủ đầu, liên tục ngày đêm trong phạm vi cả nước với
phương châm đánh nhanh, giải quyết nhanh, nhằm triệt phá tiềm lực kinh tế - quân sự, quốc
phòng làm mất khả năng đề kháng của quân và dân ta, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ binh
đánh chiếm những mục tiêu quan trọng.
- Điểm yếu:
Tuy nhiên, cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù cũng bộc lộ những mặt yếu cơ bản
không thể khắc phục được: Cuộc chiến tranh đó là phi nghĩa, phản cách mạng sẽ bị nhân dân
trong nước và trên thể giới phản đối mạnh mẽ, phát sinh nhiều mâu thuẫn nội bộ, khó thực
hiện được chiến lược đánh nhanh, giải quyết nhanh, dễ bị sa lầy trong thế trận chiến tranh
nhân dân rộng khắp. Chúng buộc phải phân tán, đối phó khắp nơi, vấp phải mâu thuẫn khó
giải quyết của chiến tranh xâm lược, dẫn đến bị động, lúng túng, tinh thần hoang mang dao
động, giảm sút ý chí.
Địa hình, thời tiết nước ta hiểm trở, phức tạp nên vũ khí hiện đại của địch không thể triển
khai và phát huy hiệu quả. Mỗi loại vũ khí trang bị đều có nhược điểm của nó và nhất định
quân và dân ta cũng sẽ tìm được cách đối phó thắng lợi trong thế trận chiến tranh nhân dân
rộng khắp. Chi phí chiến tranh công nghệ cao rất lớn, bảo đảm vật chất kỹ thuật tốn kém và
gặp nhiều khó khăn, nhất là khi chiến tranh kéo dài. Do đó, chúng nhất định bị thất ba ̣i.
4.1.2. Tính chất, đặc điểm của chiến tranh nhân dân Việt Nam bảo vệ Tổ quốc.
4.1.2.1. Tính chất:
- Là cuộc CTND toàn dân, toàn diện lấy LLVT ba thứ quân làm nòng cốt, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
CTND bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là cuộc chiến tranh vì nhân dân và do nhân
dân thực hiện, phát huy nhân tài dân, sức dân để thực hiện chiến tranh, nhân dân thực sự là
chủ thể của cuộc chiến tranh rộng khắp đất nước; đánh địch toàn diện trên tất cả các lĩnh vực
để thực hiện mục đích chính trị của cuộc chiến tranh là bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa trong bất cứ tình huống nào. Đồng thời, thực hiện mục tiêu chiến lược là
tiêu diệt và đập tan lực lượng bạo loạn, tiêu hao, tiêu diệt, đánh bại ý chí xâm lược của địch,
giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, giữ vững địa bàn,
bảo vệ dân, bảo vệ thành quả của cách mạng và giành thắng lợi trong chiến tranh
CTND bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là cuộc chiến tranh mang tính toàn dân, toàn
diện, độc lập, tự chủ, tự cường nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong mọi
tình huống đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý, điều hành của
Nhà nước với lực lượng của toàn dân tham gia đánh giặc; bao gồm cả lực lượng quân sự, lực
lượng chính trị, trong đó LLVT nhân dân làm nòng cốt. Vì vậy, phải thường xuyên giáo dục
cho nhân dân về nhiệm vụ QP&AN, không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ sâu sắc về hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về mục đích chính trị của cuộc chiến
tranh là bảo bệ nhân dân, vì cuộc sống hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Qua
đó, làm cho nhân dân luôn nêu cao tinh thần cách mạng, đề cao trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc,
chủ động đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, không mơ hồ mất cảnh giác, sẵn
sàng đối phó khi tình huống chiến tranh xảy ra.
- Là cuộc chiến tranh chính nghĩa, tự vệ cách mạng, nhằm bảo vệ độc lập tự do dân
tộc, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của đất nước bảo vệ Đảng, bảo
vệ chế độ XHCN, bảo vệ nhân dân và mọi thành quả của cách mạng.
Đây là cuộc chiến tranh chính nghĩa, cách mạng, tự vệ, bảo vệ thành quả cách
mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm bảo vệ nền độc lập tự do
của dân tộc, cuộc sống hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân, góp phần bảo
vệ hòa bình trên thế giới. Vì vậy, tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh không
những là nguồn sức mạnh to lớn, động viên, cổ vũ nhân dân đấu tranh chống kẻ thù
xâm lược, mà còn quyết định đến việc huy động lực lượng, trí tuệ, tinh thần và cơ sở
vật chất của toàn dân tạo thành sức mạnh tổng hợp của cả nước đánh giặc. Đồng thời,
chúng ta sẽ nhận được sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân tiến bộ trên thế
giới, kể cả nhân dân nước đi xâm lược. Do đó, tính chất chính nghĩa của cuộc chiến
tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa sẽ phát huy cao độ chủ
nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam đánh thắng mọi kẻ thù xâm
lược.
- Là cuộc chiến tranh mang tính hiện đại về vũ khi trang bị, tri thức và nghệ thuật
quân sự.
Cuộc chiến tranh mà nhân dân Việt Nam tiến hành diễn ra trong điều kiện chiến tranh hiện
đại với trang bị vũ khí hiện đại hơn, tính chất, mức độ của chiến tranh sẽ khốc liệt hơn, mức độ
chính xác, tính hủy diệt lớn hơn, đòi hỏi sự hy sinh gian khổ nhiều hơn, tinh thần chịu đựng căng
thẳng hơn, yêu cầu về bản lĩnh chính trị của nhân dân vững vàng và cao hơn. Đồng thời, phản ánh
nước ta vẫn là một nước có tiềm lực kinh tế, quân sự và khoa học công nghệ yếu hơn
địch. Điều cơ bản là phải phát huy truyền thống nghệ thuật quân sự của dân tộc ta: lấy nhỏ
thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy chất lượng cao, sức sức mạnh tổng hợp của toàn dân để đánh
lại kẻ thù có quân số đông, vũ khí, trang bị hiện đại, có tiềm lực lớn về kinh tế và quân sự.
4.1.2.2. Đặc điểm của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc:
Chúng ta tiến hành chiến tranh chống xâm lược trong điều kiện mới của đất nước, có
nhiều thuận lợi do thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước đem lại, tạo lên sự thay
đổi sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của xã hội về chính trị, quân sự, kinh tế, tinh thần, văn
hoá xã hội, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đây là những điều kiện cơ bản để
Đảng, Nhà nước và nhân dân thực hiện cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, nước ta
đã hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, có những thời cơ và thách thức đối với lĩnh vực
QP&AN. Vì vậy, chúng ta phải biết tận dụng tối đa thời cơ để xây dựng, phát triển đất nước
làm cho dân giàu, nước mạnh xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Đồng thời, phải hạn
chế thấp nhất những thách thức, những cản trở tác động vào công cuộc xây dựng và bảo Tổ
quốc.
Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, chúng ta phải đối phó với
kẻ thù xâm lược có tiềm lực về kinh tế, quân sự, có vũ khí công nghệ cao, sức tàn phá lớn,
trong lúc các nguồn viền trợ của các nước đối với ta như trong chiến tranh giải phóng trước
đây không còn nữa. Bởi vậy, cách mạng Việt Nam phải dựa vào sức mình là chính, phát huy
cao độ tính độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, trí tuệ, bản lĩnh và nghị lực phi thường của nhân
dân; của các cấp, các ngành, các địa phương tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả nước chung
sức, đồng lòng đứng lên đánh địch bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ
của nhân dân yêu chuộng hoà bình và các lực lượng tiến bộ trên thế giới tạo ra lực lượng
đông đảo, một mặt trận rộng rãi cùng Việt Nam đấu tranh, lên án hành động xâm lược của kẻ
thù.
Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay, là cuộc chiến tranh
toàn diện, với mục đích chiến tranh đối với cả hai bên tham chiến đều rất kiên quyết và triệt
để. Đối với địch, chúng dùng mọi âm mưu, thủ đoạn vừa tinh vi, vừa xảo quyệt và thâm độc
chống phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”…
chúng đánh Việt Nam một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội về kinh
tế, chính trị - xã hội, văn hóa, QPAN và đối ngoại... nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam và chế độ XHCN ở nước ta, đè bẹp ý chí để kháng của nhân dân, buộc
Việt Nam phải khuất phục đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Để đạt được mục đích trên,
kẻ thù dùng nhiều chiêu thức, lợi dụng mọi phương tiện, đánh chúng ta mọi lúc, mọi nơi,
vào các tổ chức, mọi con người, trên mọi không gian, thời gian…. Đồng thời, kẻ thù tìm mọi
cách tạo dựng thời cơ để tạo nguyên cớ xâm lược nước ta.
Đối với Việt Nam, phải luôn chủ động, bình tĩnh, tỉnh tảo, sáng suốt trong đánh giá
âm mưu, thủ đoạn, hành động của kẻ thù và bằng mọi biện pháp phát huy sức mạnh tổng
hợp của cả dân tộc đánh bại hành động xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
CTND bảo vệ Tổ quốc sẽ diễn ra hết sức gay go, quyết liệt và phức tạp, đan xen nhau
ngay từ đầu cũng như suốt quá trình chiến tranh. Tuy nhiên, đấu tranh quân sự với địch trên
chiến trường vẫn giữ vai trò chủ yếu quyết định. Vì vậy, chúng ta vừa phải xây dựng quân
đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, lực lượng
dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên đông đảo, rộng khắp và vững mạnh; lực lượng
này, phải được thường xuyên huấn luyện, nâng cao chất lượng chiến đấu. Đồng thời, phải vũ
trang cho toàn dân, xây dựng mỗi người dân thực sự là người chiến sĩ vừa sản xuất, vừa sẵn
sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc; xây dựng thế trận CTND vững mạnh và nền quốc phòng
toàn dân vững chắc bảo đảm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Trong chiến tranh, chiến sự diễn ra rất quyết liệt, phức tạp, khẩn trương, ngay từ đầu,
trên không gian rộng, nhiều chiều, trên toàn bộ hay trên một phần đất nước. Nước ta với
chiều sâu lớn, do đó hình thái chiến tranh xen kẽ, không phân tuyến, không có sự phân biệt
giữa hậu phương và tiền tuyến. Chúng ta vừa phải chống cuộc tiến công đường không, vừa
chống cuộc tiến công đường bộ với sức mạnh áp đảo từ ngoài vào, đồng thời vừa phải đối
phó với lực lượng phản động gây bạo loạn từ bên trong. Quy mô chiến tranh lớn diễn ra từ
đầu, thương vong về người, tiêu hao về vật chất kỹ thuật sẽ rất lớn, nhu cầu bảo đảm cho
chiến tranh đòi hỏi rất cao và khẩn trương. Đây là sự khắc nhiệt và thử thách rất cao của
cuộc chiến tranh hiện đại mà kẻ thù thực hiện đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN của
nhân dân Việt Nam. Đòi hỏi chiến tranh nhân dân Việt Nam phải nâng lên tâm cao mới về
chất, mới đáp ứng được yêu cầu mục tiêu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Những đặc điểm trên, tác động rất lớn đến tinh thần, tâm lý của mọi người dân, đến công
tác chuẩn bị đầy đủ mọi mặt cho chiến tranh để giành và giữ quyển chủ động đánh địch ngay từ
đầu và suốt quá trình chiến tranh. Đòi hỏi sự hy sinh và lòng dũng cảm, ý chí bền bỉ kiên cường và
quyết tâm rất cao của toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem hết tinh thần và lực lượng, tính mạng
và của cải để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
4.2. Quan điể m của Đảng trong chiế n tranh nhân dân bảo vê ̣ Tổ quố c.
Từ trong thực tiễn, Đảng ta nhận định: “Trong một vài thập kỉ tới, ít có khả năng xảy
ra chiến tranh thế giới. Nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ
trang, hoạt động can thiệp lật đổ còn xảy ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp.
Nếu đất nước phải đối mặt với một cuộc chiến tranh xâm lược mới của kẻ thù, chúng ta cần
nắm vững sáu quan điểm cơ bản của Đảng trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam”1.
4.2.1. Tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân đành giặc, lấy lực lượng vũ trang nhân
dân làm nòng cốt. Kết hợp tác chiến của lực lượng vũ trang địa phương với tác chiến của
các binh đoàn chủ lực.
* Vị trí:
Đây là quan điểm cơ bản xuyên suốt, thể hiện tính nhân dân sâu sắc trong chiến tranh.
Khẳng định đây là cuộc chiến tranh của dân, do dân và vì dân với tinh thần đầy đủ nhất. Là
điều kiện để phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp trong cuộc chiến tranh.
* Nội dung:
Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN mang tính chất hoàn toàn
chính nghĩa và tính chất nhân dân thực sự. Vì vậy, phải dựa vào sức mạnh của toàn dân, phải
huy động được sức mạnh tinh thần và vật chất của mọi tầng lớp nhân dân, phải huy động
mọi lực lượng tham gia chiến đấu tạo nên thế trận “thiên la địa võng” đẩy địch vào thế bị
động, bị tiêu hao lớn về sinh lực, vật lực và cuối cùng nhất định địch phải chịu thất bại.
- Phải kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến của LLVT địa phương với tác chiến của các
đơn vị chủ lực để thực hiện việc tiêu hao địch rộng rãi và thực hiện hững đòn tiêu diệt tập
trung với quy mô vừa và lớn.
- Trong điều kiện mới ta phải lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều để đánh thắng
những đội quân mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Đảng ta không chỉ dựa vào LLVT mà phải dựa
vào sức mạnh của toàn dân, tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc…
- Động viên toàn dân đánh giặc, chúng ta phải động viên và tổ chức quần chúng cùng LLVT
nhân dân trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống lại chiến tranh xâm lực của kẻ thù.
Đánh giặc bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, bằng những cách đánh độc đáo sáng tạo…
- Toàn dân đánh giặc phải có lực lượng nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân gồm
3 thứ quân Bộ đội chủ lực, Bộ đội địa phương và Dân quân tự vệ. Dân quân tự vệ là lực
lượng nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc ở cơ sở, Bộ đội địa phương và Dân quân
tự vệ làm nòng cốt cho phong trào chiến tranh nhân dân ở địa phương. Bộ đội chủ lực cùng
lực lượng vũ trang địa phương làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc trên chiến trường cả
nước.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết TW8/ khóa IX, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2001, tr 5.
Xây dựng LLVT nhân dân ba thứ quân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân,
với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân.
- Tiến hành chiến tranh toàn dân, đó là truyền thống đồng thời là quy luật giành thắng
lợi trong chiến tranh của dân tộc ta chống những kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn ta gấp nhiều
lần, từ xa xưa tổ tiên ta đã tiến hành chiến tranh nhân dân để đánh thắng các triều đại phong
kiến phương bắc, cũng như dưới sự lãnh đạo của Đảng dân tộc ta đã đánh thắng thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, ngày nay chúng ta kế thừa và phát huytruyền thống ấy lên một trình độ
mới phù hợp với điều kiện mới thực hiện chiến tranh toàn dân đánh thắng một cuộc tiến
công xâm lược của địch.
* Biện pháp:
- Tăng cường GDQP&AN cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ nói chung và
sinh viên nói riêng.
- Không ngừng chăm lo xây dựng LLVT vững mạnh toàn diện, đặc biệt là chất lượng
chính trị.
- Không ngừng nghiên cứu nghệ thuật quân sự, nghiên cứu các cuộc chiến tranh gần
đây trên thế giới để phát triển nghệ thuật quân sự lên một tầm cao mới. Xây dựng tỉnh, thành
phố thành khu vực phòng thủ vững chắc.
4.2.2. Tiến hành chiến tranh toàn diện, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự, chính
trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa và tư tưởng lấy đấu tranh quân sự là chủ yếu, lấy thắng
lợi trên chiến trường là yếu tố quyết định để giành thắng lợi trong chiến tranh.
* Vị trí:
Quan điểm trên có vai trò quan trọng vừa mang tính chỉ đạo và hướng dẫn hành động
cụ thể để giành thắng lợi trong chiến tranh.
* Nội dung:
Chiến tranh là một cuộc thử thách toàn diện đối với sức mạnh vật chất, tinh thần của
quốc gia. Để phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của toàn dân đánh bại chiến tranh tổng
lực của địch, chúng ta phải đánh địch trên tất cả các mặt trận: Quân sự, chính trị, ngoại giao,
kinh tế, văn hóa tư tưởng. Mỗi mặt trận đấu tranh đều có vị trí quan trọng của nó.
- Về đấu tranh vũ trang:
Đây là một hình thức đấu tranh cơ bản, giữ vai trò quyết định trực tiếp trong việc tiêu
hao, tiêu diệt lực lượng quân sự của địch. Đấu tranh vũ trang được tiến hành bởi lực lượng
của toàn dân, trong đó LLVT giữ vai trò nòng cốt.
- Về đấu tranh chính trị:
Đây là một hình thức đấu tranh cơ bản, thông qua đó mà nêu cao được chính nghĩa
của ta, vạch trần bản chất xâm lược, phi nghĩa và tội ác dã man của địch. Tiến hành đấu
tranh chính trị sẽ góp phần đập tan mọi luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, lừa gạt và chia rẽ
của địch, làm cho bọn hiếu chiến, xâm lược ngày càng bị cô lập và suy yếu về chính trị, tạo
điều kiện thuận lợi cho các mặt trận đấu tranh khác. Nội dung đấu tranh về chính trị rất
phong phú. Trong đó, phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục làm cho toàn thể nhân dân
hiểu rõ bản chất phi nghĩa của chiến tranh xâm lược do địch tiến hành, vạch trần bộ mặt “tự
do”, “dân chủ”, “nhân quyền” giả hiệu và những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của
chúng. Đồng thời, khẳng định tính đúng đắn của con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, khơi dậy trong nhân dân truyền thống quật cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm,
ý chí độc lập, tự chủ, tự giác, tự cường, lòng căm thù giặc sâu sắc, làm cho mọi người đồng
lòng chống giặc.
- Về đấu tranh tư tưởng, văn hoá:
Đây là cuộc đấu tranh nhằm “nâng cao cảnh giác cách mạng, vạch trần các thủ đoạn
phá hoại về tư tưởng, góp phần làm thất bại một bước “diễn biến hòa bình” của các thế lực
thù địch”, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa MLN, TTHCM, bảo vệ đường lối quan điểm
của Đảng; kiên định mục tiêu, bảo vệ đường lối quan điểm của Đảng; kiên định mục tiêu, lý
tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Nội dung đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, văn hóa bao gồm nhiều vấn đề, trong đó cần phải
chủ động tiến công làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn
hóa của các thế lực thù địch ngay tại địa phương, cơ sở. Phải đấu tranh chống địch xuyên
tạc, bóp méo chủ nghĩa MLN, TTHCM, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; phải
nắm chắc mọi diễn biến, kịp thời xử trí những tình huống phức tạp, đề phòng nguy cơ “tự
diễn biến” từ trong nội bộ. Đề cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, tổ chức Đảng; đấu
tranh loại trừ tham nhũng, lãng phí, quan liêu; ngăn chặn sự suy thoái về đạo đức, lối sống
và đầy lùi các tệ nạn xã hội tại cường cơ sở địa phương, giữ gìn và phát huy những tinh hoa
trong bản sắc văn hóa dân tộc.
- Về đấu tranh kinh tế:
Phải làm thất bại âm mưu và hành động phá hoại về kinh tế của địch, bảo vệ bằng
được tiềm lực kinh tế của ta, bảo vệ các trung tâm kinh tế, các khu công nghiệp, khu chế
xuất trước mọi thủ đoạn đánh phá của địch, bảo vệ sản xuất và ổn định đời sống cho nhân
dân, bảo vệ định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế. Phát huy tinh thần tự lực,
tự cường, phát triển sản xuất ở các địa phương, góp phần xây dựng tiềm lực kinh tế cho đất
nước; đồng thời phải sử dụng tốt mọi nguồn viện trợ của các nước, các lực lượng tiến bộ trên
thế giới.
- Về đấu tranh ngoại giao:
Đây là mặt trận đấu tranh có ý nghĩa chiến lược quan trọng nhằm phát huy thế mạnh
của ta trên trường quốc tế. Phải vạch trần bản chất xâm lược phi nghĩa của địch, tính chất
chính nghĩa của ta, triệt để lợi dụng những mâu thuẫn trong hàng ngũ địch làm cho chúng
ngày càng bị cô lập, lúng túng và bị động trên chiến trường, trong nước và trên thế giới. Phải
thực hiện chính sách nhất quán thêm bạn, bớt thù và nguyên tắc lợi dụng những mâu thuẫn
trong hàng ngũ kẻ thù.
* Biện pháp:
- Đảng phải có đường lối chiến lược, sách lược đúng tạo thế và lực cho từng mặt trận
để tạo nên sức mạnh, trước mắt chống âm mưu “DBHB” BLLĐ của địch. Động viên sức
mạnh của toàn dân tiến hành đấu tranh trên các mặt trận khi kẻ thù phát động chiến tranh
xâm lược.
- Phải vận dụng nhiều hình thức, biện pháp đấu tranh thích hợp trên từng mặt; đồng
thời có nghệ thuật chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ giữa các mặt trận đấu tranh trong từng giai
đoạn cũng như cả quá trình phát triển của cuộc chiến tranh. Song phải quán triệt lấy đấu
tranh quân sự là chủ yếu, lấy thắng lợi trên chiến trường là yếu tố quyết định để kết thúc
chiến tranh.
4.2.3. Chuẩn bị mọi mặt trên cả nước cũng như từng khu vực để đủ sức đánh được lâu
dài, ra sức thu hẹp không gian, rút ngắn thời gian của chiến tranh giành thắng lợi càng
sớm càng tốt.
Kẻ thù xâm lược ta là nước lớn, có quân đông, trang bị vũ khí kỹ thuật cao, tiềm lực
quân sự, kinh tế mạnh hơn ta nhiều lần, chúng thực hiện đánh nhanh giải quyết nhanh theo
học thuyết “Không - Bộ - Biển” để đạt mục đích chiến tranh xâm lược.
Vì vậy ta phải chuẩn bị trên cả nước cũng như từng khu vực để đánh được lâu dài, ra
sức tạo thời cơ, nắm vững thời cơ chủ động đối phó và giành thắng lợi trong thời gian cần
thiết. Trên cơ sở đó ta mới dồn sức để rút ngắn thời gian của chiến tranh giành thắng lợi
càng sớm càng tốt. Ta kiên quyết ngăn chặn địch không cho chúng mở rộng để thu hẹp
không gian của chiến tranh. Mặt khác cũng phải chuẩn bị sẵn sàng để thắng địch trong điều
kiện chiến tranh mở rộng.
- Chuẩn bị đầy đủ mọi mặt trên cả nước và từng khu vực.
Đây là nhiệm vụ vừa là giải pháp trọng yếu, cấp bách và thường xuyên. Nó bao gồm
mọi hoạt động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiến hành chuẩn bị nhằm tăng nhanh các
tiềm lực của từng địa phương, của đất nước, bảo đảm đủ khả năng chủ động, tự lực đánh
địch giành thắng lợi trong bất cứ tình huống nào, bảo vệ vững chắc địa phương, góp phần
bảo vệ vững chắc đất nước. Nội dung chuẩn bị phải toàn diện trên tất cả các mặt chính trị,
kinh tế, QP&AN, không ngừng xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an
ninh nhân dân phù hợp với hoàn cảnh mới.
- Thu hẹp không gian chiến tranh:
Chiến tranh xâm lược của địch nếu xảy ra có thể sẽ diễn ra cả trên bộ, trên biển, trên
không,trên biên giới, trong đất liền, hải đảo. Chúng ta phải tạo được thế, tạo được lực, tạo
thời cơ để thu hẹp không gian chiến tranh, không cho địch mở rộng chiến tranh ra phạm vi
cả nước.
Đối với từng địa phương cơ sở phải tự lực đánh địch, bảo vệ địa phương mình, thực
hiện tỉnh giữ tỉnh, huyện giữ huyện, xã giữ xã; phải bám trụ kiên cường để chủ động đánh
địch, kìm giữ địch, buộc địch phải đối phó mọi nơi, tạo điều kiện cho quân chủ lực đánh đòn
quyết định.
- Rút ngắn thời gian chiến tranh :
Trong chiến tranh tương lai, địch vẫn dựa vào vũ khí trang bị hiện đại, tiềm lực kinh
tế, quân sự hơn chúng ta để thực hiện chiến lược “đánh nhanh, giải quyết nhanh” nhằm đạt
mục đích chiến tranh xâm lược. Đối với ta, để đánh bại ý đồ đó, một mặt ta buộc chúng phải
sa lầy kéo dài chiến tranh, mặt khác ta phải tập trung mọi nỗ lực tạo ra thời cơ có lợi, tranh
thủ thời cơ giành thắng lợi trong thời gian ngắn để hạn chế bớt tổn thất. Từng địa phương
phải chuẩn bị chu đáo mọi mặt từ thời bình. Khi chiến tranh xảy ra cần phải tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, của toàn dân, vận dụng linh
hoạt các hình thức và phương pháp đấu tranh với sự nỗ lực cao nhất, tạo ra điều kiện, thời cơ
có lợi cho bộ đội chủ lực và cùng với bộ đội chủ lực khi thời cơ xuất hiện thì kịp thời nắm
lấy thời cơ, tiến công kiên quyết và mạnh mẽ, đánh bại ý chí xâm lược của địch trong thời
gian ngắn hoặc tương đối ngắn.
4.2.4. Kết hợp kháng chiến với xây dựng, vừa kháng chiến vừa xây dựng, ra sức sản xuất
thực hành tiết kiệm giữ gìn và bồi dưỡng lực lượng ta càng đánh càng mạnh.
- Đây là quan điểm cơ bản của Đảng ta chỉ đạo xuyên suốt quá trình đấu tranh cách
mạng, thể hiện ở sự kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ chống xâm lược để bảo vệ Tổ quốc với
nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ngay trong quá trình chiến tranh. Muốn duy trì được
sức mạnh đánh thắng kẻ thù xâm lược, phải kiên cường trụ bám, củng cố và giữ vững hậu
phương chiến lược và hậu phương trên từng hướng chiến trường, trên từng địa phương.
Từng địa phương cũng như cả nước phải phát huy cao nhất nội lực vừa chiến đấu, vừa xây
dựng, vừa tích cực đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, tích cực lấy vũ khí của địch để
đánh địch.
- Đây là một kinh nghiệm đồng thời là một truyền thống chống giặc ngoại xâm trước
đây cũng như cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nếu chiến tranh có xảy ra chúng
ta phải tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, cuộc chiến đó sẽ diễn ra quyết
liệt ngay từ đầu.
- Quy mô chiến tranh, thương vong về người, hao tổn về vật chất kỹ thuật sẽ rất lớn,
nhu cầu bảo đảm cho chiến tranh và ổn định đời sống nhân dân đòi hỏi cao và khẩn trương.
Vì vậy muốn duy trì được sức mạnh để đánh thắng kẻ thù xâm lược, ta cần phải có tiềm lực
kinh tế, quân sự nhất định bảo đảm cho tác chiến giành thắng lợi.
- Vì vậy trong chiến tranh ta phải: vừa kháng chiến vừa duy trì và đẩy mạnh sản xuất
bảo đảm nhu cầu vật chất kỹ thuật cho chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân.
- Ta phải thực hành tiết kiệm trong xây dựng và trong chiến tranh, lấy của địch đánh
địch, giữ gìn và bồi dưỡng lực lượng ta. Không ngừng tăng thêm tiềm lực cho chiến tranh,
càng đánh càng mạnh.
4.2.5. Kết hợp đấu tranh quân sự với bảo đảm an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã
hội, trấn áp kịp thời mọi âm mưu và hành động phá hoại gây bạo loạn.
- Hiện nay kẻ địch đang đẩy mạnh chiến lược “DBHB”, BLLĐ để chống phá cách
mạng nước ta nếu chiến tranh xảy ra địch sẽ tăng cường đánh phá bằng nhiều biện pháp, tiến
hành chiến tranh tâm lý, chiến tranh gián điệp, lợi dụng dân tộc, tôn giáo, các tổ chức phản
động chống đối để kích động, chia rẽ, làm mất ổn định chính trị, gây rối bạo loạn lật đổ ở
hậu phương ta để phối hợp với lực lượng tiến công từ ngoài vào.
- Vì vậy đi đôi với đấu tranh quân sự trên chiến trường ta phải kịp thời trấn áp mọi
âm mưu và hành động phá hoại của địch ở hậu phương ta, bảo đảm giữ vững an ninh chính
trị trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc hậu phương, giữ vững sự chi viện sức người, sức
của cho tiền tuyến, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng.
4.2.6. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy tinh thần tự lực tự
cường, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế, sự đồng tình ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế
giới.
- Cuộc chiến tranh xâm lược của địch là tàn bạo và vô nhân đạo sẽ bị nhân dân tiến
bộ trên thế giới phản đối. Đây là truyền thống và bài học kinh nghiệm trong đấu tranh dựng
nước, giữ nước của dân tộc ta. Truyền thống của dân tộc ta là tự lực, tự cường, kiên cường,
bất khuất, mưu trí, sáng tạo trong lao động, sản xuất, trong chiến đấu. Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: mang sức ta mà giải phóng cho ta.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy tinh thần tự lực, tự
cường, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế. Đoàn kết mở rộng quan hệ tranh thủ sự ủng hộ của nhân
dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới, kể cả nhân dân đất nước có quân xâm lược. Mục đích
là phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để tạo sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi trong chiến
tranh. Tuy nhiên, sức mạnh nội lực là chủ yếu, sức mạnh ngoại lực là quan trọng.
* Các quan điểm cơ bản của Đảng về chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc có mối
quan hệ khăng khít, tác động, bổ trợ cho nhau. Mỗi quan điểm của Đảng chỉ đạo sâu sắc, cụ
thể về một yếu tố của chiến tranh nhân dân. Nghiên cứu và quán triệt đầy đủ các quan điểm
của Đảng vừa làm cơ sở vận dụng, vừa củng cố niềm tin vào khả năng bảo vệ Tổ quốc của
nhân dân ta. Đồng thời, là vũ khí lí luận đấu tranh với những nhận thức, tư tưởng lệch lạc,
mơ hồ xem nhẹ vai trò của chiến tranh nhân dân hoặc thiếu lòng tin vào khả năng bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
4.3. Mô ̣t số nô ̣i dung chủ yế u của chiế n tranh nhân dân bảo vê ̣ Tổ quố c.
4.3.1. Tổ chức thế trận chiến tranh nhân dân:
- Thế trận chiến tranh nhân dân là sự tổ chức bố trí lực lượng để tiến hành chiến
tranh và hoạt động tác chiến.
- Nội dung
Thế trận chiến tranh bố trí rộng trên cả nước nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm.
Xây dựng khu vực phòng thủ vững mạnh toàn diện, có khả năng độc lập tác chiến, đồng thời
phối hợp với bộ đội chủ lực và đơn vị bạn đánh địch liên tục dài ngày, liên kết thành thế trận
làng nước.
Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp
quốc phòng Việt Nam, nhằm bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;
giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước; bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng và
cả hệ thống chính trị.
Thế trận chiến tranh nhân dân được xây dựng trên nền tảng “thế trận lòng dân”, biểu
hiện ở lòng trung thành vô hạn với Tổ quốc, nhân dân và chế độ XHCN; lòng yêu nước,
niềm tự hào dân tộc, sự đồng thuận, tin tưởng tuyệt đối của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước; vững tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và
chế độ XHCN ở Việt Nam, vào khả năng và sức mạnh tổng hợp của đất nước, sức mạnh vô
địch của nhân dân và của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; quan tâm đến nguyện vọng chính
đáng của nhân dân; kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc nảy sinh, tạo sự đồng thuận xã
hội, góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; động viên toàn dân tham gia xây
dựng nền QP&AN nhân dân; nêu cao tinh thần đấu tranh tự bảo vệ mình, bảo vệ lợi ích quốc
gia - dân tộc và hướng tới mục tiêu xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt trong xây dựng “thế trận lòng
dân”, tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị, giúp nhân dân phát triển sản xuất, xóa đói,
giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa,
đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, nhất là
ở các địa bàn chiến lược, trọng yếu về quốc phòng và an ninh; giữ vững bản chất, truyền
thống, phẩm chất tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, tăng cường mối quan hệ mật thiết quân - dân,
tạo niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, Quân đội và chế độ xã hội chủ nghĩa.
4.3.2. Tổ chức lực lượng chiến tranh nhân dân
- Lực lượng chiến tranh nhân dân là toàn dân đánh giặc, đánh giặc toàn diện lấy lực
lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân làm nòng cốt.
Lực lượng toàn dân gồm các ngành, các cấp và quần chúng nhân dân; là lực lượng
đông đảo nhất, nhanh nhất, kịp thời nhất và là chỗ dựa vững chắc nhất của quốc phòng. Việt
Nam chủ trương xây dựng lực lượng quốc phòng toàn dân của dân, do dân, vì dân; phát huy
sức mạnh tổng hợp của toàn dân để xây dựng lực lượng quốc phòng bảo vệ Tổ quốc, thông
qua việc củng cố vững chắc hệ thống chính trị, bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân, trong đó hệ thống chính trị là hạt nhân của lực lượng quốc phòng,
có vai trò quyết định trong huy động, phát huy sức mạnh quốc phòng của đất nước. Việc xây
dựng, củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức quần chúng có ý nghĩa rất
quan trọng trong tập hợp, vận động quần chúng thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh;
trực tiếp đấu tranh bảo vệ địa phương, cơ quan, đơn vị mình, góp phần giữ vững ổn định
chính trị, trật tự an toàn xã hội.
- Lực lượng toàn dân được tổ chức chặt chẽ thành lực lượng quần chúng rộng rãi và
lực lượng quân sự.
- Lực lượng vũ trang nhân dân được xây dựng vững mạnh toàn diện, coi trọng cả số
lượng và chất lượng trong đó lấy chất lượng là chính, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở.
LLVT nhân dân ba thứ quân bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự
vệ, là nòng cốt xây dựng nền Quốc phòng toàn dân; có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có sức mạnh chiến đấu ngày càng cao; tổ
chức tinh, gọn, mạnh, cơ động, linh hoạt, hiệu quả; cơ cấu tổ chức đồng bộ, hợp lý; phù hợp
với quan điểm, đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân; đồng thời sẵn sàng
phát triển lực lượng đáp ứng yêu cầu của chiến tranh.
Bộ đội chủ lực được tổ chức tinh nhuệ, có hỏa lực mạnh; trang bị phương tiện cơ
động nhanh, có thể đảm nhiệm tác chiến độc lập và tác chiến hợp đồng quân, binh chủng;
chú trọng xây dựng các đơn vị đặc nhiệm, đặc công tinh nhuệ.
Bộ đội địa phương được tổ chức phù hợp với đặc điểm tình hình, nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh của từng địa phương, trên từng địa bàn lãnh thổ, vùng, miền, biên giới, ven
biển, hải đảo; được trang bị vũ khí phù hợp, phát huy hiệu quả trong khu vực phòng thủ.
4.3.3. Phối hợp chặt chẽ chống quân địch tiến công từ bên ngoài vào và bạo loạn lật đổ từ
bên trong.
Kẻ thù xâm lược nước ta có thể sẽ sử dụng lực lượng tiến công từ bên ngoài vào và
bạo loạn lật đổ ở bên trong, đánh nhanh giải quyết nhanh, vì vậy buộc ta phải chủ động ngăn
chặn ý đồ của chúng, không để kẻ địch cấu kết với nhau.
Trong quá trình chuẩn bị lực lượng vũ trang phải có kế hoạch, phương án chiến đấu và được
quán triệt tới mọi người, kết hợp giải quyết tốt các tình huống chiến đấu diễn ra .

KẾT LUẬN:
Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ta vẫn phải “lấy ít
đánh nhiều”, “lấy nhỏ đánh lớn”, chống lại kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn
hơn ta nhiều lần. Con đường đi đến thắng lợi của nhân dân ta vẫn phải tiến hành chiến tranh
nhân dân, toàn dân, toàn diện, đánh địch bằng cả quân sự, chính trị, ngoại giao… bằng lực
lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp lực lượng tại chỗ và lực lượng cơ động, đánh
địch trên mọi địa bàn, địa hình của đất nước ta. Từ tính chất và đặc điểm của chiến tranh
hiện nay, chúng ta phải nắm vững và vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của Đảng
trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc để xây dựng phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Trước mắt mỗi sinh viên phải gắng sức học tập tốt, góp sức mình vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN


1. Mục đích, tính chất, đặc điểm của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc?
2. Quan điểm của Đảng về chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Viê ̣t Nam XHCN?
Chương 1
PHÒNG CHỐNG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”, BẠO LOẠN LẬT
ĐỔ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM

1.1. Chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù
địch chống phá chủ nghĩa xã hội
1.1.1. Khái niệm
“DBHB” là chiến lược cơ bản nhằm lật đổ chế độ chính trị của các nước tiến
bộ, trước hết là các nước XHCN từ bên trong bằng biện pháp phi quân sự do chủ nghĩa
đế quốc và các thế lực phản động tiến hành1
- Nội dung chính: Là kẻ thù sử dụng mọi thủ đoạn kinh tế, chính trị, tư tưởng,
văn hóa xã hội, đối ngoại và an ninh… để phá hoại, làm suy yếu từ bên trong các nước
XHCN, kích động mâu thuẫn, tạo lực lượng chính trị đối lập, núp dưới chiêu bài tự do,
dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, làm mơ hồ giai cấp và đấu tranh giai cấp,
khích lệ lối sống tư sản làm phai nhạt lý tưởng sống nhất là lớp trẻ. Chúng triệt để khai
thác và lợi dụng những khó khăn sai sót trong lãnh đạo của một số nước XHCN như
cải tổ, cải cách. Tạo sức ép từng bước chuyển hóa và thay đổi đường lối chính trị, chế
độ xã hội theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.
1.1.2. Sự hình thành và phát triển của chiến lược “Diễn biến hòa bình”
Chiến lược “diễn biến hòa bình” đã ra đời và phát triển cùng với sự điều chỉnh
phương thức, thủ đoạn chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động
quốc tế để chống phá các nước XHCN. Chiến lược “DBHB” của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau.
1.1.2.1. Giai đoạn 1945 - 1980
Đây là giai đoạn manh nha hình thành chiến lược “DBHB” được bắt nguồn từ
nước Mỹ
- Tháng 3 năm 1947 chủ nghĩa đế quốc đề ra chiến lược “ngăn chặn” nhằm
chống cộng sản và chống Liên Xô làm suy yếu và thu hẹp địa bàn ảnh hưởng của Liên
Xô và XHCN trên thế giới.
+ Thông qua con đường viện trợ kinh tế nhằm phục hưng nền kinh tế Tây Âu và
Nhật Bản.
+ Lợi dụng chủ nghĩa dân tộc để chia rẽ khối đại đoàn kết của phong trào Cộng
sản Quốc tế.
+ Bằng các thủ đoạn quân sự, chính trị, kinh tế và ngoại giao buộc Liên Xô và
các nước XHCN phải thay đổi chính sách trong quan hệ quốc tế.
+ Trong “DBHB” thủ đoạn chính là chính trị và kinh tế, dùng viện trợ kinh tế
cho các nước bên cạnh Liên Xô (Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ) trợ giúp tiền của cho các nước
Tây Âu (Ba Lan và Hung Ga Ri) và Nhật Bản.
- Tháng 4 năm 1948: Quốc hội Mỹ phê chuẩn kế hoạch Mắc - San tăng viện trợ
để khích lệ lực lượng dân chủ, cài cắm gián điệp vào các Đảng Cộng sản để phá hoại
các nước XHCN và ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Tây Âu.

Bộ Quốc Phòng, Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự - Bộ Quốc phòng (2005), Từ điển Bách khoa quân sự Việt nam, Nxb
1

Quân đội nhân dân, Hà Nội tr.303


- Tháng 12 năm 1957: Tổng thống Aixenhao đã tuyên bố: “Mỹ sẽ giành thắng
lợi bằng hòa bình”
- Tư tưởng “ngăn chặn phi quân sự” của Kaiman; “chiến lược hòa bình” của
Kennơđi; “thúc đẩy phong trào dân chủ” của Rigân; “không đánh mà thắng” của
Níchxơn…
- Từ những năm 1960 đến năm 1980 nhất là sau thất bại ở Việt Nam, Mỹ đã
thay đổi chiến lược chuyển từ tiến công bằng sức mạnh quân sự là chính sang tiến
công bằng chiến lược “DBHB” là chủ yếu.
1.1.2.2. Giai đoạn từ năm 1980 đến nay
Đây là giai đoạn chiến lược “DBHB” đã từng bước hoàn thiện và gặt được
thành công đáng kể.
- Từ năm 1980 đến năm 1990: Do phát hiện thấy những sai lầm, khuyết điểm
của các Đảng Cộng sản và nhà nước XHCN trong cải tổ, cải cách, chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực thì địch đã sử dụng chiến lược “DBHB” nhằm lật đổ một số nước như:
Liên Xô và các nước Đông Âu (Ba Lan và Hung Ga Ri).
- Năm 1989 chiến lược toàn cầu “Vượt trên ngăn chặn” ra đời là sự hoàn thiện
chiến lược “DBHB”.
- Từ năm 1990 đến nay: Chúng tiếp tục tìm mọi cách chống phá các nước
XHCN còn lại như: (Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Cu Ba) trong đó có Việt Nam,
chúng coi Việt Nam là một trọng điểm chống phá.
1.1.3. Bạo loạn lật đổ
1.1.3.1. Khái niệm
Là hành động chống phá bằng bạo lực có tổ chức do lực lượng phản động hay
lực lượng ly khai, đối lập trong nước hoặc cấu kết với nước ngoài tiến hành gây rối
loạn an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội hoặc lật đổ chính quyền ở địa phương hay
trung ương1
1.1.3.2. Hình thức
Bạo loạn chính trị, bạo loạn vũ trang hoặc bạo loạn chính trị kết hợp với vũ
trang.(Năm 2001, 2004 ở Tây Nguyên, Hiện nay ở Thái Lan…).
1.1.3.3. Quy mô
Có thể diễn ra ở nhiều mức độ khác nhau, từ quy mô nhỏ đến lớn, phạm vi địa
bàn xảy ra bạo loạn có thể ở nhiều nơi, nhiều vùng của đất nước, trọng điểm là những
vùng trung tâm về kinh tế, chính trị, văn hóa của trung ương và địa phương, nơi nhạy
cảm về chính trị hoặc ở các khu vực, địa bàn mà cơ sở chính trị của địa phương yếu
kém.
1.1.4. Phân biệt bạo loạn lật đổ và gây rối
1.1.4.1. Bạo loạn lật đổ
- BLLĐ là hoạt động bằng bạo lực có tổ chức của Chủ nghĩa Đế quốc và lực
lượng phản động để chống phá các nước tiến bộ trước hết là các nước XHCN.

1
Bộ Quốc Phòng,Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự - Bộ Quốc phòng (2005), Từ điển Bách khoa quân sự
Việt nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr.63.
- Mục đích của BLLĐ là nhằm lật đổ chính quyền tiến bộ thiết lập chính quyền
phản động ở địa phương hoặc Trung ương.
1.1.4.2. Gây rối
- Gây rối là hành động quá khích của một số người làm mất ổn định trật tự an
toàn xã hội ở một khu vực (thường hẹp) trong một thời gian nhất định (thường là ngắn)
- Đặc điểm của gây rối thường diễn ra tự phát hoặc do các phần tử chống đối
trong xã hội kích động, đôi khi lôi kéo được một bộ phận quần chúng (quá khích, hiếu
kỳ) tham gia. Nếu chúng ta không ngăn chặn kịp thời sẽ bị kẻ địch lợi dụng, mua
chuộc thành một đợt tập duyệt hay mở màn cho BLLĐ.
1.1.4.3. Sự giống nhau và khác nhau giữa bạo loạn lật đổ và gây rối
- Giống nhau: Bạo loạn lật đổ và gây rối đều làm rối loạn an ninh trật tự an toàn
xã hội.
- Khác nhau: Bạo loạn lật đổ và gây rối khác nhau về bản chất, mục đích, phạm
vi, quy mô, thời gian và cách thức tổ chức.
1.2. Chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù
địch chống phá cách mạng Việt Nam
1.2.1. Âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “Diễn biến hòa bình”đối với Việt
Nam
1.2.1.1. Âm mưu
- Chủ nghĩa đế quốc cùng các thế lực thù địch luôn coi Việt Nam là một trọng
điểm trong chiến lược “DBHB” chống CNXH, từ đầu năm 1950 đến năm 1975 đế
quốc Mỹ dùng hành động quân sự nhằm xâm lược và muốn biến Việt Nam thành
thuộc địa vĩnh viễn của chúng nhưng cuối cùng đã bị thất bại hoàn toàn. Chúng đã
chuyển sang chiến lược mới như “bao vây, cấm vận kinh tế”, “cô lập về ngoại giao”
kết hợp với chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ nhằm xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt
Nam. Lợi dụng thời kỳ nước ta gặp nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội, từ năm 1975
đến năm 1994 do hậu quả của chiến tranh để lại và sự biến động chế độ XHCN ở Liên
Xô và các nước ở Đông Âu các thế lực thù địch càng ráo riết đẩy mạnh chiến lược
“DBHB” đối với Việt Nam.
- Từ năm 1995 đến nay, trước những thắng lợi to lớn của công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước theo định hướng XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng
và lãnh đạo thì các thế lực thù địch lại tiếp tục điều chỉnh thủ đoạn chống phá cách
mạng nước ta. Chúng đã tuyên bố xóa bỏ “cấm vận kinh tế” và bình thường hóa quan
hệ ngoại giao chuyển sang thủ đoạn mới, đẩy mạnh hoạt động xâm nhập như: “Dính
líu”, “ngầm”,“ sâu, hiểm” nhằm chống phá cách mạng Việt Nam.
- Mục tiêu nhất quán của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trong sử
dụng chiến lược “DBHB” đối với Việt Nam là của chúng là thực hiện âm mưu xóa bỏ
vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ XHCN, lái nước ta đi theo con đường TBCN
và lệ thuộc vào chủ nghĩa đế quốc. Để đạt được mục tiêu đó, các thế lực thù địch
không từ bỏ bất kỳ thủ đoạn chống phá nào như sử dụng bạo lực phi vũ trang, bạo lực
vũ trang, kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội. chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch
chống phá cách mạng nước ta hiện nay là toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, tinh vi thâm độc xảo quyệt và khó nhận biết.
1.2.1.2. Thủ đoạn
- Thủ đoạn về kinh tế.
Chúng muốn chuyển hóa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
dần dần theo quỹ đạo kinh tế thị trường TBCN. Khích lệ thành phần kinh tế tư nhân
phát triển, từng bước làm mất vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Lợi
dụng sự giúp đỡ, viện trợ kinh tế, đầu tư vốn, chuyển giao công nghệ cho Việt Nam để
đặt ra điều kiện và gây sức ép về chính trị, từng bước chuyển hóa Việt Nam theo con
đường TBCN.
- Thủ đoạn về chính trị.
Các thế lực thù địch kích động đòi thực hiện chế độ “đa nguyên chính trị, đa
Đảng đối lập”, “tự do hóa” mọi mặt đời sống xã hội, từng bước xóa bỏ vai trò lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam, chế độ XHCN ở Việt Nam. Chúng tập hợp, nuôi dưỡng
các tổ chức, phần tử phản động trong nước, ngoài nước, lợi dụng các vấn đề “dân tộc”,
“tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền”, để chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân
và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất đi vai trò lãnh đạo của Đảng, tận dụng
những sơ hở trong đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách của nhà nước ta, sẵn sàng
can thiệp trắng trợn bằng sức mạnh quân sự để lật đổ chế độ XHCN ở Việt Nam.
- Thủ đoạn về tư tưởng - văn hóa.
Chúng thực hiện nhiều hoạt động nhằm xóa bỏ CNMLN, tư tưởng HCM, phá
vỡ nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam, ra sức truyền bá tư tưởng văn hóa
tư sản vào các tầng lớp nhân dân. Lợi dụng xu thế mở rộng hợp tác quốc tế, du nhập
những sản phẩm văn hóa đồi trụy, lối sống phương tây, để kích động lối sống tư bản
trong thanh niên từng bước làm phai mờ bản sắc văn hóa và giá trị văn hóa của dân tộc
Việt Nam.
- Thủ đoạn trong lĩnh vực tôn giáo, dân tộc.
Chúng lợi dụng những khó khăn ở những vùng đồng bào dân tộc ít người,
những tồn tại do lịch sử để lại, trình độ dân trí của một bộ phận đồng bào còn thấp và
những khuyết điểm trong thực hiện các chính sách dân tộc, tôn giáo của một bộ phận
cán bộ để kích động tư tưởng đòi li khai, tự quyết dân tộc. Lợi dụng chính sách tự do
tôn giáo của Đảng, nhà nước ta để truyền đạo trái phép nhằm thực hiện âm mưu tôn
giáo hóa dân tộc, từng bước gây mất ổn định xã hội và làm chệch hướng chế độ
XHCN ở Việt Nam.
- Thủ đoạn trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
Các thế lực thù địch lợi dụng xu thế mở rộng hợp tác quốc tế, thực hiện xâm
nhập, tăng cường hoạt động tình báo, thu thập bí mật quốc gia. Chúng kích động đòi
phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh và đối với
lực lượng vũ trang. Đối với quân đội và công an, các thế lực thù địch chủ trương vô
hiệu hóa sự lãnh đạo của đảng với luận điểm “phi chính trị hóa” làm cho các lực lượng
này xa rời mục tiêu chiến đấu.
+ Biện pháp chiến lược của chúng là: Tiến hành trên tất cả các lĩnh vực trong
đó lĩnh vực chính trị tư tưởng là mặt trận hàng đầu, là khâu đột phá.
+ Thủ đoạn chống phá của chúng là: Tuyên truyền mô hình “xã hội dân chủ” tư
tưởng dân chủ tư sản, phủ nhận đấu tranh giai cấp, mơ hồ địch ta, đề cao chủ nghĩa
thực dụng, cá nhân.
+ Lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm trong lãnh, chỉ đạo thực hiện đường
lối, chính sách của một số cán bộ đảng viên để kích động tuyên truyền hạ uy tín của
Đảng.
+ Sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng của nước ngoài (Đài BBC,
RFI, Trung hoa Dân quốc…) các nhân vật thoái hóa biến chất để tuyên truyền kích
động lợi dụng tự do, dân chủ, nhân quyền.
- Thủ đoạn trên lĩnh vực đối ngoại.
Các thế lực thù địch lợi dụng chủ trương Việt Nam mở rộng hội nhập quốc tế,
mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới để tuyên truyền và hướng Việt
Nam đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Hạn chế sự mở rộng quan hệ hợp tác của
Việt Nam đối với các nước lớn trên thế giới, tìm cách ngăn cản những dự án đầu tư
quốc tế vào Việt Nam. Đặc biệt, chúng rất coi trọng việc chia rẽ tình đoàn kết hữu nghị
giữa Việt Nam với Lào, Campuchia và các nước xã hội chủ nghĩa, hạ thấp uy tín của
nước ta trên trường quốc tế.
1.2.2.Bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt
Nam
1.2.2.1. Âm mưu
- Các thế lực thù địch đã chú trọng nuôi dưỡng các tổ chức phản động sống lưu
vong ở nước ngoài (Việt Quốc, Việt Cách, Tân Việt…) và kết hợp với các phần tử cực
đoan, bất mãn, phản động trong nước gây rối làm mất ổn định chính trị xã hội, kích
động, mua chuộc, lôi kéo quần chúng nhân dân nhẹ dạ cả tin ở các vùng sâu vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng nhạy cảm (Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ).
Chúng tiến hành nhiều hoạt động xảo quyệt để lôi kéo mua chuộc quần chúng nhân
dân lao động đứng lên biểu tình chống lại chính quyền địa phương. Vùng Tây Bắc
chúng kích động người H’Mông đòi thành lập khu tự trị riêng. Vùng Tây Nguyên,
chúng ra sức tuyên truyền đòi thành lập nhà nước Đề Ga độc lập, chờ thời cơ thuận lợi
để tiến hành lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
1.2.2.2. Thủ đoạn
Các thế lực thù địch đã sử dụng để tiến hành bạo loạn lật đổ chính quyền ở một
số địa phương; kích động sự bất bình của quần chúng, dụ dỗ và cưỡng ép quần chúng
nhân dân biểu tình làm chỗ dựa cho bọn phản động trà trộn hoạt động đập phá trụ sở,
rồi uy hiếp khống chế cơ quan quyền lực của địa phương. Trong quá trình gây bạo
loạn, bọn phản động tìm mọi cách để mở rộng phạm vi, quy mô, lực lượng và kêu gọi
sự tài trợ tiền của, vũ khí ở ngoài nước vào để tăng sức mạnh.
1.2.2.3. Yêu cầu
Phải nâng cao cảnh giác cách mạng, kịp thời phát hiện âm mưu bạo loạn lật đổ
của các thế lực thù địch, dự báo đúng thủ đoạn, quy mô, địa điểm và thời gian. Nắm
vững nguyên tắc sử lí trong đấu tranh chống bạo loạn lật đổ là: nhanh gọn, kiên quyết,
đúng đối tượng, sử dụng lực lượng và phương thức đấu tranh phù hợp, không để lan
rộng và kéo dài.
1.3. Mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm và phương châm phòng chống chiến
lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của Đảng và Nhà nước ta.
1.3.1. Mục tiêu
Mục tiêu của chiến lược “DBHB” mà các thế lực thù địch tiến hành ở Việt Nam
là làm chuyển hóa chế độ XHCN ở nước ta theo con đường TBCN. Vì vậy, toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta phải làm thất bại âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “DBHB”,
bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam là: Giữ vững ổn
định chính trị - xã hội của đất nước, tạo môi trường hòa bình để đẩy mạnh CNH -
HĐH đất nước. Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; bảo vệ sự nghiệp
đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc.
1.3.2. Nhiệm vụ
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng
định phải kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chiến lược “DBHB”, bạo loạn
lật đổ.
- Đây là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ quốc phòng và an
ninh hiện nay đồng thời còn là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của Đảng và Nhà nước
ta.
- Chủ động phát hiện âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối
với nước ta, kịp thời tiến công ngay từ đầu. Xử lí nhanh chóng, hiệu quả khi có bạo
loạn xảy ra và luôn bảo vệ tốt chính trị nội bộ.
1.3.3. Quan điểm chỉ đạo
- Đấu tranh chống “DBHB” là một cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc
hết sức gay go, quyết liệt lâu dài và phức tạp trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Thực chất chiến lược “DBHB” mà các thế lực thù địch sử dụng để chống phá
cách mạng nước ta là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phản cách mạng của
chủ nghĩa đế quốc. Mục tiêu của chiến lược đó là nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng,
làm sụp đổ chế độ XHCN ở Việt Nam và chuyển hóa theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư
bản. Do đó cuộc đấu tranh sẽ hết sức gay go, quyết liệt và lâu dài trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội.
- Chống chiến lược “DBHB” là cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ quốc
phòng và an ninh hiện nay để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Xuất phát từ các thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt mà các thế lực thù địch sử dụng
trong chiến lược “DBHB” với nhiều đòn tấn công “mềm” trên tất cả các lĩnh vực để
chống phá cách mạng nước ta. Vì thế, Đảng ta đã xác định rõ nội dung bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN hiện nay là toàn diện, coi trọng giữ vững an ninh, kinh tế, chính trị,
văn hóa, tư tưởng.
- Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị,
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong đấu tranh chống chiến lược
“DBHB”.
Các thế lực thù địch sử dụng sức mạnh tổng hợp để chống phá công cuộc xây
dựng CNXH ở nước ta, đánh vào mọi tầng lớp nhân dân lao động, mọi tổ chức chính
trị - xã hội, mọi lĩnh vực. Do đó phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống
chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam.
1.3.4. Phương châm tiến hành
Kết hợp chặt chẽ giữa giữ vững bên trong với chủ động ngăn chặn phòng ngừa
và chủ động tiến công làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “DBHB” của các thế lực thù
địch. Do đó mọi cấp, mọi ngành, mọi người dân phải thấy rõ tính chất nham hiểm của
chiến lược “DBHB”. Từ đó phải nâng cao cảnh giác cách mạng, chủ động tiến công
làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “DBHB” của kẻ thù nhằm chống
phá cách mạng nước ta.
- Chủ động, kiên quyết khôn khéo xử trí linh hoạt các tình huống và giải quyết
hậu quả kịp thời khi có bạo loạn xảy ra, giải quyết các vụ gây rối, không để phát triển
thành bạo loạn.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch bao giờ cũng chủ động chống phá
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, từng bước làm suy yếu từ bên trong và khi có
thời cơ tiến hành lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Thực tế chứng minh, chủ động tiến
công sẽ tạo thuận lợi giành thắng lợi trong chiến tranh nói chung và trong phòng chống
chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ của kẻ thù đối với nước ta nói riêng.
- Xây dựng tiềm lực mọi mặt vững mạnh của đất nước, tranh thủ sự ủng hộ của
nhân dân trong nước và quốc tế, kịp thời làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống
phá của kẻ thù đối với Việt Nam.
Trên thực tế kẻ thù thường cấu kết lực lượng phản động ở ngoài nước với
những phần tử cực đoan, chống đối ở trong nước bằng nhiều thủ đoạn tinh vi và nham
hiểm. Do vậy, phải thường xuyên coi trọng xây dựng tiềm lực kinh tế, chính trị, quân
sự, văn hóa- xã hội, xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về mọi mặt. Chú trọng
tuyên truyền giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân lao động hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn
cơ bản trong chiến lược “DBHB” mà kẻ thù sử dụng để chống phá sự nghiệp cách
mạng Việt Nam.
1.4. Những giải pháp phòng, chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo
loạn lật đổ ở Việt Nam hiện nay
1.4.1. Đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong xã hội, giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực, chống nguy cơ tụt hậu về kinh tế
Muốn ngăn chặn, đấu tranh đạt hiệu quả, làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn
trong chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ của kẻ thù đối với nước ta thì phải giữ vững
sự ổn định xã hội và làm cho đất nước ngày càng vững mạnh về mọi mặt. Tệ quan
liêu, tham nhũng được kẻ thù lợi dụng để khoét sâu mâu thuẫn nội bộ, kích động nhân
dân lao động đứng lên biểu tình chống lại chính quyền địa phương, chống Đảng và
Nhà nước ta, gây mất ổn định xã hội. Do đó, việc đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng,
tiêu cực trong xã hội, giữ vững định hướng XHCN trên các lĩnh vực, chống nguy cơ
tụt hậu về kinh tế là giải pháp hữu hiệu để giữ vững và thúc đẩy yếu tố bên trong của
đất nước luôn ổn định.
1.4.2. Nâng cao nhận thức về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch,
nắm chắc mọi diễn biến không để bị động bất ngờ
Chủ động nắm địch, phát hiện kịp thời những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực
thù địch sử dụng để chống phá cách mạng nước ta có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Do
vậy phải giáo dục rộng rãi trong toàn xã hội để mọi người dân Việt Nam, mọi tổ chức
chính trị - xã hội đều nhận thức sâu sắc âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “DBHB”
của kẻ thù chống phá cách mạng Việt Nam. Cần phải đấu tranh phê phán những biểu
hiện mơ hồ mất cảnh giác cách mạng trong một bộ phận nhân dân, sinh viên trước âm
mưu, thủ đoạn thâm hiểm trong chiến lược “DBHB” của kẻ thù chống phá cách mạng
nước ta hiện nay.
Mỗi người dân Việt Nam đều phải có tri thức, có bản lĩnh chính trị, có phương
pháp xem xét, phát hiện và báo cáo kịp thời thủ đoạn chống phá của kẻ thù cho cơ
quan chức năng xử lí, không để bất ngờ.
1.4.3. Xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc cho toàn dân nhất là lớp trẻ
Đối với nước ta, bảo vệ Tổ quốc là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân. Hiện nay tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến
phức tạp, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mĩ và các thế lực thù địch lợi dụng
sự sụp đổ của XHCN ở Liên Xô và Đông Âu, lợi dụng cuộc chiến chống khủng bố, tấn
công quyết liệt vào độc lập chủ quyền của các quốc gia, dân tộc, đặc biệt là các nước
XHCN trong đó có nước ta. Vì vậy, khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước,
nhân dân ta phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội và các thành quả cách mạng.
Giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN cho các tầng lớp nhân dân phải mang
tính toàn diện, nhưng tập trung vào: Giáo dục tình yêu quê hương đất nước, tinh thần
cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù chống phá đất nước ta; quan điểm,
đường lối của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN trong giai đoạn cách mạng
mới, tinh thần sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc, quyết tử để Tổ quốc quyết sinh. Hình thức
giáo dục phải đa dạng phù hợp với từng đối tượng.
1.4.4. Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh về mọi mặt
Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh để bảo đảm cho chế độ xã hội
luôn ổn định, phát triển. Do vậy phải luôn luôn chú trọng xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc vững mạnh. Theo quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay là
đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp nhân dân, mọi thành phần kinh tế,
mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng, mọi miền đất nước; đoàn kết trong Đảng và ngoài
Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, người trong nước và người đang
sinh sống ở nước ngoài.
Nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, phẩm chất, đạo đức, lối sống của đảng
viên, năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng ở các cấp, nhất là ở cơ sở. Thực hiện tốt quy
chế dân chủ ở cơ sở, củng cố, nâng cao chất lượng, hiệu quả, nề nếp hoạt động của các
tổ chức quần chúng. Duy trì nghiêm kỷ luật của Đảng ở các cấp, xử lí kịp thời những
đảng viên, tổ chức đảng có khuyết điểm, khen thưởng kịp thời những đảng viên, tổ
chức đảng và quần chúng thực hiện tốt đường lối, chủ trương, điều lệ đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước.
1.4.5. Chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh sẵn sàng chiến đấu
tốt
Xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ, dự bị động viên phải rộng khắp ở tất cả
các làng, bản, phường, xã, thị trấn, các cơ quan, tổ chức và đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Bảo đảm triển khai thế trận phòng thủ ở các địa phương, cơ sở. Phải chú trọng
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng, lấy chất lượng là chính.
Ở mỗi địa phương phải chú trọng phát động phong trào quần chúng bảo vê an
ninh Tổ quốc và xây dựng lực lượng vũ trang ở cơ sở. Quần chúng là nền tảng, là gốc
rễ của dân tộc, là động lực chính để thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Vì vậy quần
chúng cũng là đối tượng chính để kẻ thù lợi dụng mua chuộc nhằm thực hiện âm mưu,
thủ đoạn trong chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng nước ta.
1.4.6. Xây dựng và luyện tập các phương án, các tình huống chống “Diễn
biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của địch
Mỗi thủ đoạn, hình thức, biện pháp mà kẻ thù sử dụng trong chiến lược
“DBHB”, bạo loạn lật đổ cần có phương thức xử lí cụ thể, hiệu quả.
Khi mỗi tình huống bạo loạn xảy ra, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn
dân và của cả hệ thống chính trị, xử trí theo nguyên tắc nhanh gọn, kiên quyết, linh
hoạt, đúng đối tượng, không để lan rộng, kéo dài. Từ đó xây dựng đầy đủ, luyện tập
các phương án sát với diễn biến từng địa phương, từng đơn vị, từng cấp, từng ngành.
Hoạt động xử lí bạo loạn phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, điều hành của chính
quyền, các cơ quan ban ngành làm tham mưu theo chức năng, cơ quan quân đội, công
an làm trung tâm hiệp đồng.
1.4.7. Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chăm
lo nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân lao động
Đẩy mạnh sự nghiệp CNH - HĐH đất nước theo định hướng XHCN thực chất
là để tạo ra cơ sở, vật chất, phát triển lực lượng sản xuất và từng bước hoàn thiện quan
hệ sản xuất XHCN; đồng thời là điều kiện để tăng năng xuất lao động của xã hội, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân lao động, để tạo nên sức mạnh của thế
trận “lòng dân”.
Những giải pháp trên đây có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành một chỉnh thể
thống nhất nhằm đấu tranh ngăn ngừa âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “DBHB”,
bạo loạn lật đổ của kẻ thù sử dụng để chống phá cách mạng Việt Nam hiện nay. Vì
vậy, trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ này không thể coi nhẹ hoặc tuyệt đối
hóa một giải pháp nào.
Sinh viên là thế hệ tương lai của đất nước, đồng thời cũng là một đối tượng mà
các thế lực thù địch lợi dụng, chống phá nhằm làm suy thoái về đạo đức, lối sống và
phai nhạt niềm tin, lí tưởng XHCN. Vì vậy, mỗi người phải nỗ lực học tập và rèn
luyện để trở thành những công dân tốt, cống hiến cho đất nước, phải thường xuyên nêu
cao tinh thần cảnh giác cách mạng, phát hiện và đấu tranh ngăn ngừa, đánh bại mọi âm
mưu, thủ đoạn của kẻ thù trong chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ.

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN

1. Âm mưu, thủ đoạn chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch sử dụng chống phá các nước XHCN như thế nào?
2. Chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch chống phá cách mạng Việt Nam hiện nay?
3. Phương hướng, giải pháp cơ bản của Đảng, nhà nước ta trong phòng, chống
“DBHB”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch? Liên hệ trách nhiệm của sinh viên?

Chương 6
AN TOÀN THÔNG TIN VÀ PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM
PHÁP LUẬT TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG
6.1. THỰC TRẠNG AN TOÀN THÔNG TIN HIỆN NAY
6.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính
sách và các biện pháp đẩy mạnh phát triển ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), gắn
liền với công tác bảo đảm an toàn, an ninh thông tin trên không gian mạng. Nghị quyết
số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển
CNTT, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế đã chỉ rõ “phải gắn
kết chặt chẽ việc ứng dụng, phát triển CNTT phải đi đôi với bảo đảm an toàn, an ninh
và bảo mật hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu quốc gia”, đặc biệt cần “phát huy vai
trò các lực lượng chuyên trách bảo vệ an toàn, an ninh thông tin và bí mật Nhà nước.
Thực hiện cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng công an, quân đội, ngoại giao,
cơ yếu, thông tin và truyền thông” để có các biện pháp về tổ chức và kỹ thuật, sẵn sàng
đối phó với các cuộc chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng, bảo đảm chủ quyền quốc
gia, trật tự an toàn xã hội.
Theo Nghị định 64-2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ về ứng dụng
CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước: “An toàn thông tin là an toàn kỹ thuật
cho các hoạt động của các cơ sở hạ tầng thông tin, trong đó bao gồm an toàn phần
cứng và phần mềm theo các tiêu chuẩn kỹ thuật do Nhà nước ban hành; duy trì các
tính chất bí mật, toàn vẹn, sẵn sàng của thông tin trong lưu trữ, xử lý và truyền dẫn
trên mạng”.
Luật An toàn thông tin mạng được ban hành năm 2015 đã thể chế hóa các chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về an toàn thông tin, đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững kinh tế - xã hội, bảo vệ thông tin và hệ thống thông tin, góp
phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, chủ quyền và lợi ích quốc gia trên không gian
mạng. Theo đó: “An toàn thông tin mạng là sự bảo vệ thông tin, hệ thống thông tin
trên mạng tránh bị truy nhập, sử dụng, tiết lộ, gián đoạn, sửa đổi hoặc phá hoại trái
phép nhằm bảo đảm tính nguyên vẹn, tính bảo mật và tính khả dụng của thông tin”.
Ngày 12/6/2018, Luật An ninh mạng được Quốc hội khóa XIV thông qua với tỷ
lệ 86.86%, gồm 7 chương, 43 điều, quy định những nội dung cơ bản về bảo vệ an ninh
mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; phòng ngừa, xử lý
hành vi xâm phạm an ninh mạng; triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng và quy
định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Sự ra đời của Luật An ninh mạng là
bước đột phá trong lịch sử lập pháp của Việt Nam, đảm bảo quyền và nghĩa vụ công
dân trên không gian mạng. Theo đó: “An ninh mạng là sự bảo đảm hoạt động trên
không gian mạng không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Khác với Luật An toàn
thông tin mạng 2015 với mục đích để bảo vệ sự an toàn thông tin trên 03 phương diện:
Tính nguyên vẹn của thông tin, tính bảo mật thông tin và tính khả dụng của thông tin;
Luật An ninh mạng 2018 quy định tập trung vào chống lại các thông tin độc hại, xâm
phạm đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá
nhân, tổ chức, cơ quan trên môi trường mạng.
Xét về khái niệm “Tội phạm sử dụng công nghệ cao”, hiện nay luật pháp của
nhiều nước trên thế giới như Australia, Mỹ, Anh đã có định nghĩa liên quan đến tội
phạm này như: Tội phạm công nghệ cao (high-tech crime), Tội phạm máy tính
(computer crime), Tội phạm liên quan đến máy tính (computer-related crime); tội
phạm mạng (cybercrime)... Trong Luật Hình sự của Australia, tội phạm công nghệ cao
(high-tech crime) được định nghĩa là “sự xâm nhập máy tính một cách trái phép; sự
sửa đổi trái phép dữ liệu bao gồm việc phá hủy dữ liệu; tấn công từ chối dịch vụ
(DoS); tấn công từ chối dịch vụ phân tán (DDoS); tạo ra và phân phối phần mềm độc
hại”.
Theo Từ điển luật học Black’s Law, tội phạm máy tính (computer crime) được
định nghĩa là: “tội phạm đòi hỏi về kiến thức công nghệ máy tính chẳng hạn như phá
hoại hoặc ăn cắp dữ liệu máy tính hay sử dụng máy tính để thực hiện một số tội phạm
khác”.
Tại Việt Nam, theo Khoản 1 điều 3 Nghị định số 25/2014/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 07 tháng 4 năm 2014 quy định: “Tội phạm có sử dụng công nghệ cao là hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự có sử dụng công nghệ
cao”. Theo Khoản 1 Điều 3 của Luật Công nghệ cao năm 2008 quy định: “Công nghệ
cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ;
được tích hợp từ thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; tạo ra sản phẩm có chất
lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường; có vai trò
quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa
ngành sản xuất, dịch vụ hiện có”.
Theo Từ điển Nghiệp vụ Công an nhân dân Việt Nam (2019), “tội phạm sử dụng
công nghệ cao là loại tội phạm sử dụng những thành tựu mới của khoa học - kỹ thuật
và công nghệ hiện đại làm công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội một
cách cố ý hoặc vô ý, gây nguy hiểm cho xã hội. Chủ thể của loại tội phạm này thường
là những người có trình độ học vấn, chuyên môn cao, có thủ đoạn rất tinh vi, khó phát
hiện”.1
Giáo trình “Những vấn đề cơ bản về phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ
cao” của Học viện Cảnh sát nhân dân (2015) có đề cập đến khái niệm về tội phạm sử
dụng công nghệ cao. Theo đó, tội phạm sử dụng công nghệ cao là: “Tội phạm được
thực hiện bằng việc cố ý sử dụng tri thức, kỹ năng, công cụ, phương tiện công nghệ
thông tin ở trình độ cao tác động trái pháp luật đến thông tin số được lưu trữ, xử lý,
truyền tải trong hệ thống máy tính, xâm phạm đến trật tự an toàn thông tin, gây tổn hại
lợi ích của Nhà nước, quyền và các lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân”2.
Nghiên cứu các định nghĩa và khái niệm trên có thế thấy điểm chung trong nội
hàm của các khái niệm này đều chỉ các hành vi liên quan đến việc sử dụng máy tính,
thiết bị số, khai thác mạng máy tính, mạng viễn thông để gây tổn hại cho lợi ích của
các tổ chức, cá nhân và toàn xã hội. Tội phạm sử dụng công nghệ cao là tội phạm sử
dụng tri thức, kỹ năng, công cụ, phương tiện công nghệ ở trình độ cao tác động trái
pháp luật đến thông tin, dữ liệu, tín hiệu được lưu trữ, xử lý, truyền tải trong hệ thống
mạng máy tính, mạng viễn thông, thiết bị số, xâm phạm đến trật tự an toàn thông tin,
gây tổn hại lợi ích của Nhà nước, quyền và các lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá
nhân. Trong những hành vi phạm tội sử dụng công nghệ cao có những hành vi tác
động trực tiếp đến ba đặc điểm quan trọng nhất của an toàn thông tin (ATTT). ATTT
yêu cầu đảm bảo ba đặc điểm là: Tính bí mật (Confidentiality), tính toàn vẹn

1
“Từ điển Nghiệp vụ Công an nhân dân Việt Nam”, Hội đồng Lý luận Công an nhân dân, 2019.
2
“Giáo trình Những vấn đề cơ bản về phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao”, Học viện Cảnh
sát nhân dân, 2015.
(Integrity) và tính sẵn sàng (Availability) - được mô hình hóa gọi là tam giác bảo mật
CIA.

Hình 1. Tam giác bảo mật CIA


Một giải pháp an toàn bảo mật xây dựng cần nhằm đạt được cả ba mục tiêu cơ
bản trên. Cần phân biệt sự khác biệt giữa tính bí mật và tính toàn vẹn. Có những tấn
công phá vỡ tính toàn vẹn nhưng không phá vỡ tính bí mật và ngược lại. Nếu ta gửi
thông tin trên đường truyền mạng công cộng mà có kẻ bên ngoài xem được thông tin,
đó là tính bí mật đã bị vi phạm. Nếu kẻ gian can thiệp sửa đổi, dù chỉ một bit trên
những gói tin này và người nhận tin không phát hiện ra sự thay đổi đó, thì tính toàn
vẹn đã bị xâm phạm. Mặc dù ta không thể ngăn chặn việc sửa đổi khi các gói tin đi
qua các điểm trung gian không thuộc quyền kiểm soát, nếu ta phát hiện được sự thay
đổi trái phép, thì ta có thể yêu cầu phát lại. Như vậy tính toàn vẹn vẫn được coi là đảm
bảo. Các kỹ thuật mật mã là các công cụ cơ bản nhằm xây dựng dịch vụ đảm bảo tính
bí mật và tính toàn vẹn.
6.1.2. Thực trạng an toàn thông tin trong khu vực và trên thế giới
Trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, thông tin là một dạng tài nguyên. Chính vì
thế, đảm bảo an ninh, ATTT là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết. Tuy nhiên hiện nay,
các mối đe dọa từ không gian mạng không ngừng tăng lên và thay đổi nhanh chóng. An
ninh mạng đang trở thành vấn đề nóng, đặt ra nhiều thách thức đối với tất cả các quốc
gia trên toàn thế giới. Tình hình ATTT mạng diễn biến phức tạp, liên tục xảy ra các vụ
tấn công, xâm nhập, đánh cắp dữ liệu trên hệ thống mạng của các cơ quan chính phủ,
các cơ sở an ninh quốc phòng, tập đoàn kinh tế, cơ quan truyền thông của nhiều quốc
gia, như các vụ tấn công vào hệ thống thư điện tử của Bộ Ngoại giao Mỹ, hệ thống máy
tính của Nhà trắng, Hạ viện Đức, Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại và Cảnh sát liên bang
Australia,…
Các mục tiêu tấn công đã thay đổi, kỹ thuật trở nên phức tạp hơn, hướng tấn công
đa dạng hơn và công cụ tấn công được thiết kế chuẩn xác hơn. Những kẻ tấn công đã
nghiên cứu kỹ các nạn nhân để có những chiến lược tấn công phù hợp, nhằm tạo ra
những ảnh hưởng lớn nhất có thể.
Tài chính là mục tiêu lớn nhất thúc đẩy tin tặc hành động, với 73% số lượng các
cuộc tấn công mạng; chính trị, tình báo là mục tiêu lớn thứ hai, với 21% các cuộc tấn
công.
Các nhóm tội phạm mạng có tổ chức xuất hiện nhiều hơn. Chiến tranh mạng và
đội quân tác chiến mạng cũng được chú trọng hơn. Trong cuộc chạy đua vũ trang trên
không gian mạng toàn cầu, các quốc gia đang xây dựng các trung tâm chỉ huy không
gian mạng, nhằm củng cố hệ thống phòng thủ chống lại các cuộc tấn công mạng vào
các cơ quan và cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó, sự phát triển và phổ biến của mạng xã hội
đã làm nảy sinh một nguy cơ ATTT nữa đó là việc lan truyền tin tức giả mạo thông
qua mạng xã hội, gây ảnh hưởng đến cá nhân, tổ chức, thậm chí là tình hình an ninh,
chính trị của cả một đất nước. Tiền ảo và các hành vi tội phạm liên quan đến tiền ảo
cũng đang tiếp tục phát triển, bao gồm lây nhiễm phần mềm độc hại đào tiền ảo tới
máy tính, máy chủ; lây nhiễm mã độc đào tiền ảo tới một trang web, sử dụng tài
nguyên thiết bị của người tải trang web; đánh cắp tiền từ giao dịch tiền ảo. Hình dưới
đây mô tả xu thế chung của tấn công mạng hiện nay.

Hình 2. Xu thế tấn công mạng hiện nay


6.1.3. Thực trạng an toàn thông tin ở Việt Nam
Tại Việt Nam, tình hình an toàn an ninh mạng tiếp tục diễn biến phức tạp, tồn tại
nhiều cơ sở gây nguy cơ bị tấn công, phá hoại hạ tầng mạng thông tin, ảnh hưởng tới an
ninh quốc gia. Báo cáo của hãng bảo mật Kaspersky và Symantec cho thấy, Việt Nam
đứng thứ 3 (3,96%) sau Nga (4%) và Ấn Độ (8%) về số người dùng di động bị mã độc
tấn công nhiều nhất trên thế giới; thứ 6 trên thế giới về số lượng địa chỉ IP trong nước
được dùng trong các mạng máy tính ma tấn công nước khác; thứ 7 trên thế giới về phát
tán tin nhắn rác và đứng thứ 12 trên thế giới về các hoạt động tấn công mạng. Đáng chú
ý là hoạt động tấn công mạng nhằm vào Việt Nam gia tăng về số lượng, gây nguy cơ bị
kiểm soát, khống chế hệ thống thông tin. Tin tặc nước ngoài thường xuyên lợi dụng các
điểm yếu về an ninh mạng của hệ thống thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của
Việt Nam để tấn công, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, chỉnh sửa nội dung.
Năm 2011 có trên 1.500 cổng thông tin Việt Nam bị tin tặc sử dụng mã độc gián
điệp dưới hình thức tập tin hình ảnh xâm nhập, kiểm soát, cài mã độc thay đổi giao
diện trang chủ. Trong năm 2012 - 2013, Bộ Công an đã phát hiện gần 6.000 lượt cổng
thông tin, trang tin điện tử của Việt Nam (trong đó có hơn 300 trang của cơ quan nhà
nước) bị tấn công, chỉnh sửa nội dung và cài mã độc. Năm 2014, Bộ Công an phát hiện
gần 6.000 trang bị tấn công, chiếm quyền quản trị, chỉnh sửa nội dung (có 246 trang
tên miền gov.vn). Đặc biệt, sau sự kiện giàn khoan HD 981 hạ đặt trái phép trong vùng
đặc quyền kinh tế Việt Nam, tin tặc nước ngoài đã tấn công hơn 700 trang mạng Việt
Nam và hơn 400 trang trong dịp Quốc khánh (2/9) để chèn các nội dung xuyên tạc chủ
quyền của Việt Nam với quần đảo Hoàng Sa. Vào cuối năm 2014, tin tặc cũng đã mở
đợt tấn công vào trung tâm dữ liệu của VCCorp khiến nhiều tờ báo mà công ty này
đang vận hành kỹ thuật như Dân trí, Người lao động, Soha, VNEconomy, Kenh14…
bị tê liệt. Năm 2015 có trên 2.460 website của các cơ quan, doanh nghiệp bị xâm nhập.
Nguy cơ từ mã độc và Internet of Things (IoT) bùng nổ tạo “thị trường” lớn cho
hacker là hai trong số những nguy cơ an ninh mạng mà người dùng phải đối mặt. Cuối
năm 2016, thông tin hơn 73.000 camera IP, trong đó có gần 1.000 camera tại Việt
Nam có thể bị theo dõi được công bố rộng rãi. Nguyên nhân là do người dùng chưa có
thói quen quan tâm đến an ninh của những thiết bị này, không thay đổi mật khẩu mặc
định của hệ thống trước khi kết nối Internet. Bảo mật các thiết bị IoT là rất quan trọng,
đặc biệt khi người dùng chưa có thói quen quan tâm đến an ninh cho các thiết bị này.

Hình 3. Màn hình thông tin thông báo chuyến bay bị thay đổi giao diện
Trong năm 2016, nổi bật là cuộc tấn công mạng vào một số màn hình hiển thị thông
tin chuyến bay tại khu vực làm thủ tục chuyến bay của các sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất,
Sân bay quốc tế Nội Bài, sân bay quốc tế Đà Nẵng, sân bay Phú Quốc. Các màn hình của
sân bay đã bị chèn những hình ảnh và nội dung xuyên tạc về biển Đông. Hệ thống phát
thanh của sân bay cũng phát đi những thông điệp tương tự. Đồng thời website của
Vietnam Airlines cũng bị tấn công với 411.000 dữ liệu của hành khách đi máy bay đã bị
hacker thu thập và phát tán.
Năm 2017 mã độc tống tiền (ransomware) có tên là Wanna Cry trở thành mối
nguy hiểm của ngành công nghệ thông tin và nó lây nhiễm với tốc độ chóng mặt ở gần
100 quốc gia, hơn 100 nghìn máy tính. Tại Việt Nam, ghi nhận hơn 100 máy tính bị
nhiễm độc. Wanna Cry là một loại mã nhiễm độc tấn công vào máy nạn nhận qua tệp
tin đính kèm email hoặc đường link độc hại, như các dòng ransomware khác. Mối
nguy hiểm nhất ở mã độc này là nó có khả năng lây nhiễm trên các máy tính ngang
hàng. Cụ thể, Wanna Cry sẽ quét toàn bộ các máy tính trong cùng mạng để tìm kiếm
thiết bị chứa lỗ hổng của dịch vụ đọc và ghi file từ máy trạm yêu cầu đến máy chủ
trong hệ thống Windows. Từ đó, mã độc có thể lây lan vào các máy có lỗ hổng mà
không cần người dùng phải thao tác trực tiếp với file đính kèm hay link độc hại.

Hình 4. Màn hình thông tin đòi tiền chuộc khi nhiễm mã độc WannaCry
Năm 2018, thiệt hại do virus máy tính gây ra đối với người dùng Việt Nam đã lên
mức kỷ lục 14.900 tỷ đồng, tương đương 642 triệu USD, nhiều hơn 21% so với mức
thiệt hại của năm 2017. Đây là kết quả được đưa ra từ chương trình đánh giá an ninh
mạng do Tập đoàn công nghệ Bkav thực hiện tháng 12/2018. Trên phạm vi toàn cầu,
tội phạm mạng gây thiệt hại lên tới khoảng 600 tỷ USD mỗi năm, tương đương 0,8%
GDP toàn cầu. Trong đó, khu vực Đông Á thiệt hại ước tính từ 120 – 200 tỷ USD,
tương đương 0,53 – 0,89% GDP khu vực. Mức thiệt hại 642 triệu USD tương đương
0,26% GDP của Việt Nam tuy chưa phải cao so với khu vực và thế giới, nhưng cũng là
kỷ lục đáng báo động. 60% hệ thống mạng cơ quan, doanh nghiệp bị nhiễm mã độc
đào tiền ảo. Theo Bkav, có tới hơn 60% cơ quan, doanh nghiệp tại Việt Nam bị nhiễm
mã độc đào tiền ảo. Trung bình cứ 10 cơ quan, doanh nghiệp, thì có 6 nơi bị mã độc
chiếm quyền điều khiển máy tính đào tiền ảo, gây mất an ninh thông tin.

Hình 5. Tình hình an toàn thông tin tại Việt Nam năm 2017 – 2018
Trong năm 2019, số cuộc tấn công mạng vào các hệ thống thông tin Việt Nam có
chiều hướng giảm. Trong 6 tháng đầu năm 2019, Bộ TT&TT ghi nhận 3.159 cuộc tấn
công mạng vào các hệ thống thông tin tại Việt Nam, giảm 2.684 cuộc, tương đương
45,9% so với cùng kỳ năm 2018. Theo Cục ATTT (Bộ TT&TT) trong 4 tháng đầu
năm 2020 tổng cộng 1.056 cuộc tấn công mạng vào các hệ thống thông tin tại Việt
Nam dẫn đến sự cố (553 cuộc Phishing, 280 cuộc Deface, 223 cuộc Malware), đã giảm
51,4% với 4 tháng đầu năm 2019.
Đạt được những kết quả trên cho thấy việc nâng cao nhận thức, kỹ năng về đảm
bảo an toàn, an ninh mạng cho các cơ quan, tổ chức và người dùng, thông qua các hội
nghị, hội thảo cũng như các chương trình tập huấn, diễn tập. Bên cạnh đó, các quy
định, chế tài pháp luật đã đầy đủ và có tính răn đe hơn như sự ra đời của Luật An ninh
mạng có hiệu lực từ ngày 01/01/2019. Sự phối hợp và tuân thủ của các tổ chức Internet
lớn trên thế giới với luật pháp Việt Nam cũng tốt hơn. Đặc biệt, nhận thức về ATTT
của tổ chức, cá nhân đã được nâng cao, các biện pháp phòng vệ chủ động đã tốt hơn,
công tác đánh giá an toàn thông tin được thực hiện nhiều hơn.
Trong Chỉ thị 01 về định hướng phát triển ngành TT&TT năm 2020, Bộ trưởng
Bộ TT&TT đã nhấn mạnh, an toàn, an ninh mạng là điều kiện tiên quyết để phát triển
Chính phủ điện tử và chuyển đổi số, do đó phải đi trước một bước. Chỉ thị 01 cũng nêu
rõ các chỉ tiêu cần đạt được trong năm 2020 của lĩnh vực an toàn, an ninh mạng như:
100% cơ quan, tổ chức tại Việt Nam triển khai bảo vệ an toàn, an ninh mạng theo mô
hình 4 lớp; 100% bộ, ngành, địa phương triển khai các giải pháp điều hành, giám sát
an toàn, an ninh mạng, phòng chống mã độc tập trung, kết nối chia sẻ thông tin với
Trung tâm giám sát an toàn không gian mạng quốc gia của Bộ TT&TT...
6.2. CÁC HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG
6.2.1. Tin rác (Spam), tin giả trên mạng xã hội, thư điện tử
6.2.1.1. Tin rác (Spam)
Spam hay còn gọi là tin rác, là viết tắt của Stupid Pointless Annoying Messages,
từ này có ý nghĩa là những thông điệp vô nghĩa và gây phiền toái cho người nhận,
được gửi đến nhiều người dùng với cùng một nội dung.
Thuật ngữ spam lần đầu xuất hiện vào năm 1978, khi một người đàn ông gửi thư
có nội dung y hệt nhau đến 393 người cùng lúc để quảng cáo sản phẩm mới của mình.
Ngày nay, spam xuất hiện trên nhiều phương tiện như spam chat, spam tin tức, spam
tin nhắn, spam trong forum, spam trên những mạng xã hội.
6.2.1.2. Tin giả
Theo định nghĩa của từ điển Collins, tin giả là “những thông tin sai sự thật,
thường là tin giật gân, được phát tán dưới vỏ bọc tin tức”1.
Tin giả được tạo ra bằng nhiều hình thức tinh vi. Đặc biệt, hiện nay nhiều đối tượng đã sử
dụng CNTT làm giả tiếng, giả hình, giả video để tạo ra tin giả.
- Giả hình: Công nghệ cắt ghép tạo hình ảnh người giả y như thật để tạo ra tin tức giả,
nhiều người nổi tiếng đã là nạn nhân. Và nguy hại hơn nếu họ cắt ghép với hình ảnh những
chính trị gia, người có uy tín cộng đồng để tạo dư luận giả.
- Giả tiếng: Sử dụng công nghệ TTP (công cụ chuyển văn bản thành tiếng nói -
text to speech) để tạo ra các cuộc gọi tự động với giọng robot thu sẵn. Từ nhiều năm
trước đã có những người sử dụng công nghệ này để thay họ đọc thông tin, tin tức do
họ "xào nấu" ra. Hiện nhiều người đang dùng công nghệ này cho các chương trình trên
YouTube.
- Giả video: Thực hiện bằng cách cắt ghép hình ảnh người dẫn chương trình lồng
vào dẫn bản tin giả. Clip giả nhưng có người dẫn chương trình sống động như thật.
Loại hình ảnh giả này "buộc" người xem nghĩ đó là những thông tin thật vì có hình ảnh
quen mặt của người dẫn chương trình truyền hình.
Tin giả có thể được tạo và lan truyền nhằm các mục đích sau:
- Chính trị: Tin giả được lợi dụng vào các âm mưu chính trị và làm rối loạn XH.
- Thương mại: Ngày càng nhiều người biết cách tận dụng công cụ hiện đại, những
nền tảng mạng xã hội để phát tán thông tin giả. Số lượng tin giả đối với doanh nghiệp,
kinh doanh cũng tăng lên tỷ lệ thuận với tin giả trong các lĩnh vực khác nói chung. Các
cách thức phát tán tin giả với doanh nghiệp phổ biến như, đối thủ cạnh tranh sử dụng tin
giả để tấn công phía bên kia, dùng những cách thức để bôi xấu về những sự cố đã từng
xảy ra trong quá khứ và khi một sự cố vừa xảy ra thì họ sẽ tìm mọi cách để họ nhân rộng
sự lên. Hay những tin giả hoàn toàn không có thật liên quan đến vấn đề kinh doanh, vấn
đề quan hệ cá nhân của những cán bộ cấp cao, vấn đề bằng cấp, đầu tư mờ ám, liên quan
đến nguồn tiền bất hợp pháp có rất nhiều cách thức để làm ảnh hưởng đến một doanh
nghiệp, đối thủ. Tin giả bịa đặt để gây bức xúc, tâm lý "tăng tương tác, tăng bán hàng" đã
khiến một bộ phận bán hàng trực tuyến chủ động tạo và lan truyền tin giả với mục đích
kinh tế hết sức rõ ràng.
6.2.1.3. Xử lý hành vi tạo và lan truyền tin giả:
Nghị định 15 có hiệu lực từ ngày 15-4-2020 thay thế cho Nghị định 174/2013/NĐ-
CP ngày 13-11-2013 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông,
công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện. Một nội dung đáng chú ý trong Nghị định 15
đó là quy định rõ hơn về hành vi vi phạm và trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội,
kèm theo là mức xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi tung thông tin giả mạo,
gây hoang mang dư luận trên mạng XH.
- Điều 101, Nghị định 15 quy định phạt tiền từ 10-20 triệu đồng đối với hành vi lợi
dụng mạng xã hội để cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc,

1
Vụ Giáo dục Quốc phòng và an ninh (2020), Tài liệu tập huấn giáo viên Giáo dục quốc phòng và an ninh, Hà
Nội, tr.9.
vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân; cung
cấp, chia sẻ thông tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân, kích động bạo lực, tội ác,
tệ nạn xã hội, đánh bạc hoặc phục vụ đánh bạc.
- Nghị định 15 quy định rất cụ thể các hành vi vi phạm về chống thư rác, tin nhắn
rác và cung cấp dịch vụ nội mạng. Mức phạt lên đến 80 triệu đồng đối với hành vi gửi
hoặc phát tán thư điện tử rác, tin nhắn rác, phần mềm độc hại (tăng cao so với mức xử
phạt được quy định tại Nghị định 174/2013/NĐ-CP chỉ từ 40-50 triệu đồng). Riêng đối
với hành vi không ngăn chặn, thu hồi số thuê bao được dùng để phát tán tin nhắn rác thì
mức phạt tiền sẽ từ 180-200 triệu đồng.
Đối với các hành vi kể trên, ngoài phạt tiền còn bị áp dụng thêm các hình thức xử
phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả như: đình chỉ hoạt động cung cấp dịch vụ
từ 1-3 tháng; tước quyền sử dụng mã số quản lý, tên định danh từ 1-3 tháng; buộc thu
hồi đầu số, kho số viễn thông.
Ngoài phạt tiền, người vi phạm còn bị buộc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu
quả: gỡ bỏ thông tin sai sự thật, gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp luật do
thực hiện hành vi vi phạm.
Theo thông tin từ đại diện Bộ Công an tại cuộc họp báo Chính phủ thường kỳ
tháng 1-2020, liên quan đến việc xử lý người dân đăng tin sai lệch về tình hình dịch
bệnh viêm đường hô hấp do chủng mới của vi rút Corona, Bộ đã chỉ đạo các đơn vị,
địa phương vào cuộc đấu tranh, triệu tập các đối tượng, xử lý, yêu cầu cam kết gỡ bỏ,
căn cứ theo Khoản 3, Nghị định của Chính phủ quy định về xử phạt trong lĩnh vực bưu
chính, viễn thông và quy định trong việc loan tin đồn sai qua mạng, xử phạt vi phạm
hành chính khoảng 800 người.
6.2.2. Đăng tải các thông tin độc hại vi phạm ANQG, trật tự ATXH
6.2.2.1. Theo Điều 8 Luật An ninh mạng (2018), các hành vi bị nghiêm cấm bao gồm
- Sử dụng không gian mạng để thực hiện hành vi sau đây. Hành vi được quy định
tại Khoản 1 Điều 18 của Luật này. Cụ thể:
+ Tổ chức, hoạt động, câu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo,
huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
+ Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc
+ Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong Nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt
động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người
thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác
+ Hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô,
đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe
của cộng đồng
+ Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội.
- Thực hiện tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm mạng;
gây sự cố, tấn công, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, làm sai lệch, gián đoạn,
ngưng trệ, tê liệt hoặc phá hoại hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.
- Sản xuất, đưa vào sử dụng công cụ, phương tiện, phần mềm hoặc có hành vi
cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính,
hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện điện tử; phát
tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng viễn thông, mạng Internet,
mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện
điện tử; xâm nhập trái phép vào mạng viễn thông, mạng máy tính, hệ thống thông tin,
hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu, phương tiện điện tử của người
khác.
- Chống lại hoặc cản trở hoạt động của lực lượng bảo vệ an ninh mạng; tấn công,
vô hiệu hóa trái pháp luật làm mất tác dụng biện pháp bảo vệ an ninh mạng.
- Lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ
quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi.
- Hành vi khác vi phạm quy định của Luật này.
6.2.2. 2. Theo Khoản 1, Điều 16. Thông tin trên không gian mạng có nội dung
tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm:
- Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;
- Chiến tranh tâm lý, kích động chiến tranh xâm lược, chia rẽ, gây thù hận giữa
các dân tộc, tôn giáo và nhân dân các nước;
- Xúc phạm dân tộc, quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, vĩ nhân, lãnh tụ, danh nhân,
anh hùng dân tộc.
6.2.2.3. Theo Khoản 2, Điều 16. Thông tin trên không gian mạng có nội dung kích
động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng bao gồm:
- Kêu gọi, vận động, xúi giục, đe dọa, gây chia rẽ, tiến hành hoạt động vũ trang
hoặc dùng bạo lực nhằm chống chính quyền nhân dân;
- Kêu gọi, vận động, xúi giục, đe dọa, lôi kéo tụ tập đông người gây rối, chống
người thi hành công vụ, cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức gây mất ổn định về an
ninh, trật tự.
6.2.3. Chiếm đoạt tài khoản mạng xã hội
6.2.3.1. Một số hình thức, thủ đoạn được các đối tượng sử dụng để chiếm đoạt
mạng xã hội
- Hình thức Phishing: Đây là hình thức chiếm đoạt một tài khoản facebook phổ
biến nhất hiện nay và cho đến bây giờ nó vẫn là cách được hacker sử dụng nhiều nhất.
Không riêng gì facebook mà hầu hết các loại website nào mà có account đăng nhập
đều sử dụng được hình thức này. Sau đây là nguyên lý hoạt động:
+ Kẻ tấn công sẽ phát tán một đường link ở nhiều nơi và nhất là trên Facebook
với những tiêu đề gây sốc như: Click vào đây để xem xxx .... gây kích thích và sự tò
mò cho người xem.
+ Khi người dùng click vào đường dẫn sẽ được đưa đến một website có giao diện
giống 100% facebook và yêu cầu bạn đăng nhập tài khoản của mình. Đây không phải
là trang facebook mà chỉ là một website có giao diện giống facebook. Nếu người dùng
đăng nhập tài khoản facebook vào thì tất cả tài khoản, mật khẩu sẽ được gửi về email
hay sever của kẻ tấn công, như vậy các hacker đã dễ dàng lấy được nick facebook của
người dùng.
- Dò mật khẩu: Sau phishing facebook thì đây là một hình thức phổ biến tuy xác
xuất thành công không cao nhưng không thể không nói đến nó vì có nhiều người dùng
sử dụng những mật khẩu quá đơn giản kiểu như: 123456, matkhau, số điện thoại, họ
và tên.... Đây là những sai lầm ở phía người dùng khi đặt mật khẩu facebook. Hacker
sử dụng những phần mềmn chuyên dò pass để đi dò mật khẩu nick facebook của người
dùng. Với cách này bản chất nó không phải hack mà là mò pass facebook nhưng một
khi bị mất mật khẩu thì đồng nghĩa với việc bạn bị mất tài khoản.
- Sử dụng trojan, Keylog: Kẻ tấn công sẽ chèn một đoạn mã vào một ứng dụng,
tập tin nào đó rồi gửi thông qua inbox, comment trên facebook hay bất cứ đâu. Khi
người dùng click vào đường dẫn đó thì ứng dụng, tập tin đó sẽ được tự động tải về
máy, sau đó keylog sẽ ghi lại tất cả những thao tác trên bàn phím của người dùng rồi
gửi về cho kẻ tấn công.
- Sử dụng chương trình khuyến mãi - trúng thưởng hay Mini Game: Hacker sẽ giả
chương trình trúng thưởng - khuyến mãi trên danh nghĩa của Facebook (trúng thưởng xe
máy, ô tô, tiền mặt… có giá trị cao) và yêu cầu người dùng xác nhận bằng cách truy cập
vào đường link lạ. Các Mini game trên facebook như: "Bạn giống cầu thủ bóng đá nào?",
"Tương lai bạn sẽ kết hôn với ai?", "Ai là người quan tâm bạn nhất?",... Cũng được những
kẻ này sử dụng để chiếm lấy tài khoản facebook bằng cách buộc người chơi đăng nhập
mật khẩu trước khi tham gia.
- Lỗ hổng bảo mật facebook: Là hình thức tấn công nick facebook mạng tên “3
Friends”. Đây là hình thức lấy lại mật khẩu của facebook thông qua việc sử dụng 3 người
bạn facebook bất kì trong danh sách bạn bè. Ví dụ khi bạn quên mật khẩu thì bạn có thể
gửi yêu cầu để facebook gửi 3 mã code về cho 3 người bạn này.
6.2.3.2. Mục đích tấn công chiếm đoạt tài sản mạng xã hội
- Lừa đảo, chiếm đoạt tài sản.
- Hack nick facebook vì những thù hằn của cá nhân.
6.2.4. Chiếm quyền giám sát Camera IP
Trong những năm gần đây, thị trường Camera IP wifi phát triển nhanh chóng do
nhu cầu sử dụng của người dân tăng mạnh. Những thiết bị này chủ yếu có nguồn gốc
xuất xứ từ Trung Quốc, Đài Loan với giá thành rất rẻ. Tuy nhiên, đi kèm theo đó là các
rủi ro và nguy cơ bảo mật. Đã có nhiều gia đình, cá nhân bị lộ clip riêng tư do camera
giám sát bị các đối tượng xấu chiếm quyền giám sát. Một số thủ đoạn:
Cách thứ nhất: Tấn công trực tiếp vào thiết bị Camera bằng cách Quét (Scan) IP và
Port của Camera rồi sau đó Hacker tìm cách xâm nhập vào hệ thống để xem hình ảnh,
video trái phép. Cách này rất phổ biến, bởi đa số người dùng camera hiện tại thường sử
dụng Password mặc định của nhà cung cấp.
Cách thứ hai: Hacker sẽ dùng một phần mềm gián điệp cài trên Camera quan sát
để tạo thành một mạng Botnet sử dụng trong một hình thức tấn công nổi tiếng đó là
DDOS.
Ví dụ: Ngày 28/12/2019, video được đăng trên một trang web phim người lớn được
cho là quay lại cảnh sinh hoạt của ca sĩ Văn Mai Hương. Những video này được ghi lại từ
năm 2015 qua camera IP (camera giám sát) trong căn hộ của nữ ca sĩ.
6.2.5. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Kịch bản lừa đảo thông báo trúng thưởng với giải thưởng cực lớn đang quay trở
lại hoành hành trên Facebook. Sau khi chiếm đoạt tài khoản Facebook cá nhân, nhiều
đối tượng còn tung ra nhiều chiêu trò để lừa đảo khiến nhiều người dùng mất đi một
khoản tiền không hề nhỏ. Ngay sau khi có tài khoản đã được đánh cắp, đối tượng sẽ
thực hiện ngay việc chat với bạn bè/người thân hỏi thăm về sức khỏe, công việc và sau
đó nhờ nhận hộ một số tiền chuyển từ nước ngoài về. Nạn nhân không biết tài khoản
Facebook kia đã bị tấn công nên tin tưởng và sẵn sàng giúp đỡ.
Không chỉ vậy, nạn nhân còn có nguy cơ bị tấn công lấy tài khoản ngân hàng
thông qua hình thức tấn công phishing. Sau khi thống nhất số tiền sẽ chuyển, đối tượng
lừa đảo dùng một số điện thoại từ nước ngoài sẽ gửi 1 tin nhắn giả mạo thông báo từ
Western Union đến số điện thoại của nạn nhân với nội dung đề nghị truy cập đường
link trong tin nhắn SMS và xác nhận để có thể nhận được tiền Western Union.
Nạn nhân không biết đây là trang web phishing (một hình thức lừa đảo giả mạo
các tổ chức uy tín như ngân hàng) nên đã nhập các thông tin tài khoản, mật khẩu
internet banking vào trang web giả mạo rồi gửi đi và đối tượng lừa đảo sẽ nhận được.
Từ đó, đối tượng lừa đảo dùng thông tin internet banking vừa chiếm được từ nạn nhân
để thực hiện giao dịch qua cổng thanh toán trực tuyến VTC Pay và cổng thanh toán
VNPAY.
6.2.6. Web chìm (Deep web) và Web tối (Dark web)

Hình 10. Surface web, Deep web và Dark web


6.2.6.1. Web chìm (Deep web)
Thuật ngữ Internet và World Wide Web thường được sử dụng thay cho nhau,
nhưng thực ra chúng không phải là một. Internet đề cập đến một mạng lưới rộng lớn
của các mạng, hàng triệu kết nối máy tính trên khắp thế giới, nơi bất kỳ máy tính nào
cũng có thể giao tiếp với nhau, miễn là chúng được kết nối Internet. World Wide Web
là một mô hình chia sẻ thông tin, được xây dựng trên Internet, sử dụng giao thức
HTTP, các trình duyệt như Chrome, Firefox và các trang web để chia sẻ thông tin.
Web là một phần to lớn của Internet nhưng không phải là thành phần duy nhất. Ví dụ:
email, tin nhắn không phải là một phần của web nhưng là một phần của Internet.
Web trên bề mặt (tiếng Anh: Surface web): Theo tạp chí PC Magazine, web bề mặt là
một phần web có sẵn cho công chúng, hoàn chỉnh với những liên kết được công cụ tìm
kiếm lập chỉ mục. BrightPlanet, một dịch vụ web thông minh, xác định web bề mặt chỉ
chứa những trang web được lập chỉ mục và có thể được tìm kiếm bởi các công cụ tìm kiếm
phổ biến như Google, Bing, Yahoo. Đôi khi, chúng còn được gọi là web hữu hình. Web bề
mặt thường bao gồm những trang web có tên miền kết thúc bằng .com, .org, .net, .vn hoặc
các biến thể tương tự. Nội dung của các trang web này không yêu cầu bất kỳ cấu hình đặc
biệt nào để truy cập.
Web chìm (tiếng Anh: Deep web) hay còn gọi là web ẩn (invisible web,
undernet, hay hidden web) là từ dùng để chỉ các trang hoặc nội dung trên thế giới
mạng World Wide Web không thuộc về Web nổi (surface Web). Chúng gồm những
trang không được đánh dấu, chỉ mục (index) và không thể tìm kiếm được khi dùng các
công cụ tìm kiếm thông thường.
Web chìm bao gồm nhiều ứng dụng rất phổ biến như web mail và ngân hàng trực
tuyến nhưng nó cũng bao gồm các dịch vụ mà người dùng phải trả tiền và được bảo vệ
bởi một paywall, như video theo yêu cầu, một số tạp chí và báo chí trực tuyến, và nhiều
hơn nữa. Nó bao gồm email trong tài khoản Gmail, các bản kê ngân hàng trực tuyến,
mạng nội bộ, tin nhắn trực tiếp qua Twitter, hình ảnh được đánh dấu riêng tư khi tải lên
Facebook. Chính phủ, các nhà nghiên cứu và các công ty lưu trữ dữ liệu thô không thể
tiếp cận được với công chúng. Nội dung này được lưu trữ trên các trang web động (được
xây dựng dựa trên thông tin truy vấn) và những trang bị khóa, những trang cá nhân không
liên kết ra bên ngoài. Theo Trend Micro, một phần quan trọng của Deep Web là được
dành riêng cho những blog cá nhân hoặc chính trị, các trang tin tức, diễn đàn thảo luận,
các trang web tôn giáo và thậm chí đài phát thanh.
6.2.6.2. Web tối (Dark web)
Mỗi thiết bị được kết nối với Internet đều có địa chỉ IP (Internet protocol) duy
nhất. Tên và địa chỉ vật lý của một người có thể có được thông qua một nhà cung cấp
dịch vụ Internet với sự cho phép hợp pháp, còn IP cho phép bất cứ ai xác định vị trí
của máy tính được kết nối. Do đó, các bên liên quan sẽ dễ dàng tìm được một người sử
dụng Internet cụ thể.
Với mong muốn ẩn danh - đặc biệt là chính phủ khi tìm cách bảo vệ những thông
tin, mạng lưới tình báo nhạy cảm - đã dẫn đến sự ra đời và phát triển của The Onion
Router (Tor) do đội ngũ nhân viên phòng thí nghiệm nghiên cứu Hải Quân Hoa Kỳ tạo
ra. Tên Onion (củ hành) bắt nguồn từ việc bạn phải lột ra nhiều "lớp vỏ" để có thể tìm
thấy danh tính thật sự của người dùng.
Tor, được phát hành miễn phí cho người dùng vào năm 2004, cung cấp sự riêng
tư bằng cách mã hóa và điều hướng lưu lượng truy cập thông qua một sê-ri "đường
hầm ảo (virtual tunnel)", phân phối các giao dịch qua nhiều máy tính ngẫu nhiên trên
Internet, do đó, không một máy tính nào liên kết người dùng đến cơ sở hoặc điểm đến
của họ. Không giống như những trang web bề mặt (kết thúc bằng .com, .org, .net hoặc
các biến thể tương tự), các trang Tor kết thúc bằng .onion và chỉ có thể được mở bằng
phần mềm Tor.
Dark web (tạm dịch: web tối) là những nội dung mạng World Wide Web không
thể truy cập bằng những cách thông thường mà phải sử dụng các phần mềm chuyên
biệt1. Dark web là một phần nhỏ của deep web, một thế giới mạng mà các công cụ tìm
kiếm như Google hay Bing không hiển thị ra.
Một số hoạt động thường thấy ở Dark Web:
- Chợ đen: Nhiều hoạt động thương mại bất hợp pháp diễn ra trên Dark web, ví dụ
như: buôn bán tiền giả, thẻ ngân hàng hay tài khoản mạng bị đánh cắp, súng, ma túy và
các chất kích thích, các sản phẩm không rõ nguồn gốc khác.
- Khủng bố: Vì tính ẩn danh cao, nhiều tổ chức tội phạm khủng bố như IS sử
dụng không gian Dark web để phát tán các nội dung đến người dùng. Nói đến khủng
bố thì không chỉ là IS mà còn có các tổ chức Mafia khác sử dụng mạng lưới này, đã
từng có trường hợp chúng nhận hợp đồng thanh toán một người và hợp đồng đó đã ở
trạng thái được thực thi.

1
“Inside the Dark Web”, Erdal Ozkaya, Rafiqul Islam, 2019.
- Khiêu dâm: Khiêu dâm trẻ em, ngược đãi hoặc làm tình với động vật, phát tán
video quay lén là những nội dung hiện hữu trên dark web. Các nội dung này đều bị các
tổ chức bảo vệ trẻ em cũng như các nước trên thế giới lên án và cố gắng dẹp bỏ
- Lừa đảo: Không hiếm những trường hợp lừa tiền hoặc thanh toán người khác
trên Dark Web được thực thi.
6.3. PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT TRÊN KHÔNG GIAN
MẠNG
6.3.1. Cơ sở pháp lý
6.3.1.1. Bộ luật Hình sự năm 2015
- Hoàn cảnh ra đời:
Ngày 27/11/2015, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ luật
Hình sự. Ngày 20/6/2017, tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13. BLHS số
100/2015/QH13 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã đánh dấu một bước tiến quan
trọng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu
quả; góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ chức, bảo vệ và thúc đẩy kinh
tế thị trường xã hội chủ nghĩa phát triển đúng hướng, tạo môi trường xã hội và môi
trường sinh thái an toàn, lành mạnh cho mọi người dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế của nước ta.
- Hiệu lực thi hành:
Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Gọi tắt là Bộ luật Hình
sự) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018.
- Bố cục của Bộ luật Hình sự:
Bộ luật hình sự gồm 26 Chương và 526 Điều, bao gồm:
- Chương I. Điều khoản cơ bản (Điều 01 – Điều 04).
- Chương II. Hiệu lực của bộ luật hình sự (Điều 05 – Điều 07)
- Chương III. Tội phạm (Điều 8 – Điều 19).
- Chương IV. Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự (Điều 20– Điều
26).
- Chương V. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự
(Điều 27 – Điều 29).
- Chương VI. Hình phạt (Điều 30 – Điều 45).
- Chương VII. Các biện pháp tư pháp (Điều 46 – Điều 49).
- Chương VIII. Quyết định hình phạt (Điều 50 – Điều 59).
- Chương IX. Thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời
hạn chấp hành hình phạt (Điều 60 – Điều 68).
- Chương X. Xóa án tích (Điều 69– Điều 73).
- Chương XI. Những quy định đối với pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 74
– Điều 89).
- Chương XII. Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (Điều 90 –
Điều 107).
- Chương XIII. Các tội xâm phạm an ninh quốc gia (Điều 108 – Điều 122).
- Chương XIV. Các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh
dự của con người (Điều 123 – Điều 156).
- Chương XV. Các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dân
chủ của công dân (Điều 157 – Điều 167).
- Chương XVI. Các tội xâm phạm sở hữu (Điều 168 – Điều 180).
- Chương XVII. Các tội phạm chế độ hôn nhân và gia đình (Điều 181 – Điều
187).
- Chương XVIII. Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (Điều 188 – Điều
234).
- Chương XIX. Các tội phạm về môi trường (Điều 235 – Điều 246).
- Chương XX. Các tội phạm về ma túy (Điều 247 – Điều 259).
- Chương XXI. Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (Điều
260 – Điều 329).
- Chương XXII. Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính (Điều 330 – Điều
351).
- Chương XXIII. Các tội phạm về chức vụ (Điều 352 – Điều 366).
- Chương XXIV. Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp (Điều 367– Điều 391).
- Chương XXV. Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách
nhiệm của người phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu (Điều
392– Điều 420).
- Chương XXVI. Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến
tranh (Điều 421– Điều 426).
Trong đó các Điều khoản trong luật thực hiện với các hành vi vi phạm pháp luật
trên không gian mạng được quy định tại Mục 2. Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ
thông tin, mạng viễn thông Chương XII gồm các Điều 285 đến 294.
+ Điều 285. Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần
mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật.
+ Điều 286. Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng
máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử.
+ Điều 287. Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng
viễn thông, phương tiện điện tử.
+ Điều 288. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn
thông.
+ Điều 289. Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc
phương tiện điện tử của người khác.
+ Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
+ Điều 291. Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép
thông tin về tài khoản ngân hàng.
+ Điều 292. Tội cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông
+ Điều 293. Tội sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích
cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh.
+ Điều 294. Tội cố ý gây nhiễu có hại.
6.3.1.2. Luật An toàn thông tin 2015
- Hoàn cảnh ra đời:
Hiện nay, mạng Internet đã trở thành công cụ trung tâm để phát triển nền kinh tế
và xã hội của mọi quốc gia. Đối với Việt Nam, mạng internet cũng được coi là công
cụ, phương tiện quan trọng để thực hiện mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển mạnh trong một thế giới cạnh tranh và toàn cầu
hóa. Vì vậy, Việt Nam cần có các quy định pháp lý về an toàn thông tin để nội luật hóa
các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; phù hợp với thông lệ quốc tế, bảo
đảm ATTT, tạo môi trường bình đẳng cho các tổ chức, doanh nghiệp hoạt động sản
xuất, kinh doanh tại Việt Nam.
- Hiệu lực thi hành: Luật An toàn thông tin có hiệu lực thi hành từ ngày
01/7/2016.
- Bố cục của Luật An toàn thông tin:
Luật An toàn thông tin mạng gồm 08 Chương và 54 Điều, bao gồm:
- Chương I. Những quy định chung (Điều 01 – Điều 08) Chương này quy định về
phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, giải thích từ ngữ, nguyên tắc bảo đảm an toàn
thông tin mạng, chính sách của nhà nước, hợp tác quốc tế, những hành vi bị cấm trong
hoạt động an toàn thông tin mạng và xử lý vi phạm pháp luật về an toàn thông tin
mạng.
- Chương II. Bảo đảm an toàn thông tin mạng (Điều 09 – Điều 29) Chương này
quy định 04 mục: Bảo vệ thông tin mạng; Bảo vệ thông tin cá nhân; Bảo vệ hệ thống
thông tin; Ngăn chặn xung đột thông tin trên mạng.
- Chương III. Mật mã dân sự (Điều 30 – Điều 36) Chương này quy định các nội
dung liên quan đến sản phẩm, dịch vụ mật mã dân sự và các hoạt động có liên quan
đến kinh doanh sản phẩm, dịch vụ mật mã dân sự.
- Chương IV. Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật an toàn thông tin mạng (Điều 37 – Điều
39) Chương này quy định các nội dung về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật an toàn thông tin
mạng; quản lý tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật an toàn thông tin mạng và chứng nhận, công
bố hợp quy và đánh giá, kiểm định an toàn thông tin mạng.
Chương V. Kinh doanh trong lĩnh vực an toàn thông tin mạng (Điều 40 – Điều
48), gồm 02 mục: Giấy phép kinh doanh sản phẩm an toàn thông tin mạng; Quản lý
nhập khẩu sản phẩm an toàn thông tin mạng.
Đây là lĩnh vực rất mới, hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh sản phẩm,
dịch vụ an toàn thông tin mạng còn chưa đầy đủ, nên Luật an toàn thông tin mạng
hướng tới việc hoàn thiện hành lang pháp lý đảm bảo thông thoáng, công bằng, phù
hợp với thông lệ quốc tế, thúc đẩy thị trường phát triển bền vững
- Chương VI. Phát triển nguồn nhân lực an toàn thông tin mạng (Điều 49 – Điều
50). Chương này quy định về các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về an toàn
thông tin mạng, văn bằng, chứng chỉ đào tạo về an toàn thông tin mạng tại Việt Nam,
thể hiện đúng đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian vừa qua.
- Chương VII. Quản lý nhà nước về an toàn thông tin mạng (Điều 51 – Điều 52).
Hệ thống hoá thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước các cấp, qua
đó giúp các cơ quan này có thể tham chiếu một cách hệ thống, cơ bản về các quyền
hạn và trách nhiệm của mình trong quá trình đảm bảo an toàn thông tin bên cạnh việc
xác định các nội dung cụ thể xoay quanh nội dung quản lý nhà nước về an toàn thông
tin mạng, bao gồm các hoạt động xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; hoạt
động xây dựng và hoàn thiện thể chế; tổ chức thực thi các văn bản; quản lý nhà nước
trên các lĩnh vực; hoạt động thanh tra kiểm tra; hợp tác quốc tế...
- Chương VIII. Điều khoản thi hành (Điều 53 – Điều 54) quy định về hiệu lực thi
hành.
6.3.1.3.Luật An ninh mạng 2018
- Hoàn cảnh ra đời:
Trước yêu cầu cấp bách của tình hình an ninh mạng trong bảo vệ an ninh quốc gia,
bảo đảm trật tự an toàn xã hội; khắc phục những tồn tại, hạn chế cơ bản trong công tác
bảo vệ an ninh mạng; thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng về
an ninh mạng; bảo đảm sự phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con
người, quyền cơ bản của công dân và bảo vệ Tổ quốc. Ngày 12/6/2018, Quốc hội khóa
XIV, kỳ họp thứ 5 đã thông qua dự thảo Luật An ninh mạng với 86,86% đại biểu đồng ý.
- Hiệu lực thi hành: Luật An ninh mạng có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2019.
- Bố cục của Luật An ninh mạng
Luật An ninh mạng gồm 07 Chương, 43 Điều. Bố cục của Luật cụ thể như
sau:
Chương I. Những quy định chung, gồm 9 điều, (từ Điều 1 đến Điều 9) quy
định về phạm vi điều chỉnh; giải thích từ ngữ; chính sách của Nhà nước về an ninh
mạng; nguyên tắc bảo vệ an ninh mạng; biện pháp bảo vệ an ninh mạng; bảo vệ không
gian mạng quốc gia; hợp tác quốc tế về an ninh mạng; các hành vi bị nghiêm cấm về
an ninh mạng; xử lý vi phạm pháp luật về an ninh mạng.
Chương II. Bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về
an ninh quốc gia, gồm 6 điều (từ Điều 10 đến Điều 15), quy định về hệ thống thông
tin quan trọng về an ninh quốc gia; thẩm định an ninh mạng đối với hệ thống thông tin
quan trọng về an ninh quốc gia; đánh giá điều kiện an ninh mạng đối với hệ thống
thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; kiểm tra an ninh mạng đối với hệ thống
thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; giám sát an ninh mạng đối với hệ thống
thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; ứng phó, khắc phục sự cố an ninh mạng đối
với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.
Chương III. Phòng ngừa, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng, gồm 7 điều
(từ Điều 16 đến Điều 22), quy định về phòng ngừa, xử lý thông tin trên không gian
mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng; làm nhục, vu
khống; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; phòng, chống gián điệp mạng; bảo vệ thông
tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật
gia đình và đời sống riêng tư trên không gian mạng; phòng, chống hành vi sử dụng
không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tấn công mạng; phòng, chống
khủng bố mạng; phòng ngừa, xử lý tình huống nguy hiểm về an ninh mạng; đấu tranh
bảo vệ an ninh mạng.
Chương IV. Hoạt động bảo vệ an ninh mạng, gồm 7 điều (từ Điều 23 đến Điều
29), quy định về triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng trong cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị ở trung ương và địa phương; kiểm tra an ninh mạng đối với hệ thống
thông tin của cơ quan, tổ chức không thuộc Danh mục hệ thống thông tin quan trọng
về an ninh quốc gia; bảo vệ an ninh mạng đối với cơ sở hạ tầng không gian mạng quốc
gia; cổng kết nối mạng quốc tế; bảo đảm an ninh thông tin trên không gian mạng;
nghiên cứu, phát triển an ninh mạng; nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng; bảo
vệ trẻ em trên không gian mạng.
Chương V. Bảo đảm hoạt động bảo vệ an ninh mạng, gồm 6 điều (từ Điều 30
đến Điều 35), quy định về lực lượng bảo vệ an ninh mạng; bảo đảm nguồn nhân lực
bảo vệ an ninh mạng; tuyển chọn, đào tạo, phát triển lực lượng bảo vệ an ninh mạng;
giáo dục, bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ an ninh mạng; phổ biến kiến thức về an ninh
mạng; kinh phí bảo vệ an ninh mạng.
Chương VI. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân, gồm 7 điều (từ Điều
36 đến Điều 42), quy định về trách nhiệm của Bộ Công an; trách nhiệm của Bộ Quốc
phòng; trách nhiệm của Bộ Thông tin và Truyền thông; trách nhiệm của Ban Cơ yếu
Chính phủ; trách nhiệm của Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; trách nhiệm của
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên không gian mạng; trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức, cá nhân sử dụng không gian mạng.
Chương VII. Điều khoản thi hành, gồm 01 điều (Điều 43), quy định về hiệu
lực thi hành.
6.3.2. Các biện pháp phòng chống
6.3.2.1. Giáo dục nâng cao nhận thức về bảo vệ chủ quyền quốc gia, các lợi ích
và sự nguy hại đến từ không gian mạng.
Ngày nay, quan niệm về lãnh thổ, chủ quyền, biên giới của một quốc gia không
chỉ là đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời, mà cả lãnh thổ không gian mạng, chủ
quyền không gian mạng. Theo đó, lãnh thổ không gian mạng là một bộ phận hợp thành
lãnh thổ quốc gia, nơi xác định biên giới mạng và thực thi chủ quyền quốc gia trên
không gian mạng.
Bảo vệ chủ quyền quốc gia còn là bảo vệ không gian mạng của quốc gia, bao
gồm, bảo vệ các hệ thống thông tin; các chủ thể hoạt động trên không gian mạng; hệ
thống dữ liệu, tài nguyên mạng; các quy tắc xử lý và truyền số liệu. Đảm bảo quyền
bình đẳng trong tham dự quản lý mạng Internet quốc tế; độc lập trong vận hành hạ
tầng cơ sở thông tin thuộc lãnh thổ quốc gia; bảo vệ không gian mạng quốc gia không
bị xâm phạm và quyền quản trị truyền tải cũng như xử lý số liệu của quốc gia.
Cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân cần nhận thức rõ các nguy cơ đến từ
không gian mạng như: tấn công mạng, gián điệp mạng, khủng bố mạng, tội phạm
mạng, đặc biệt là nguy cơ chiến tranh mạng đang là thách thức gay gắt về an ninh, và
bảo đảm an ninh mạng đang trở thành trọng tâm ưu tiên của quốc gia. Vì vậy, cần
quán triệt các quan điểm của Đảng về phát triển khoa học công nghệ và chiến lược bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới, các định hướng hành động của Việt Nam trong bảo vệ
chủ quyền và lợi ích quốc gia trên không gian mạng và nhận thức rõ rằng, đe dọa trên
không gian mạng là một trong những mối đe dọa thực tế và nguy hiểm nhất đối với an
ninh quốc gia hiện nay.
6.3.2.1. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các quy định của pháp luật về quản lý
không gian mạng.
Phổ biến các điều khoản của Bộ luật Hình sự 2015 (Mục 2, Điều 285-294) liên
quan đến lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông; Nghị định số 72/2013/NĐ-
CP ngày 15-7-2013 của Chính phủ và Thông tư số 09/2014/BTTTT ngày 19-8-2014
của Bộ Thông tin và Truyền thông về hoạt động quản lý, cung cấp, sử dụng thông tin
trên trang thông tin điện tử và mạng xã hội, những hành vi bị nghiêm cấm trong sử
dụng mạng xã hội.
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Luật An ninh mạng năm 2018. Luật An ninh mạng
được xây dựng nhằm bảo vệ người dùng hợp pháp trên không gian mạng; phòng ngừa,
đấu tranh, làm thất bại hoạt động sử dụng không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia,
chống Nhà nước, tuyên truyền phá hoại tư tưởng, phá hoại nội bộ, kích động biểu tình,
phá rối an ninh trên mạng của các thế lực phản động. Phòng ngừa, ngăn chặn, ứng phó,
khắc phục hậu quả của các đợt tấn công mạng, khủng bố mạng và phòng, chống nguy cơ
chiến tranh mạng.
Tuyên truyền sâu rộng về những hành vi bị cấm trong Luật An ninh mạng, nhất
là các hành vi sử dụng không gian mạng để tuyên truyền chống Nhà nước; tổ chức,
hoạt động, cấu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người
chống Nhà nước; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng
tộc; thông tin sai sự thật; hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội; phá hoại thuần phong, mỹ
tục; xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội; thực hiện tấn công mạng, khủng
bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm mạng; lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ
an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi.
Các hình thức giáo dục cần được vận dụng đa dạng, phong phú và linh hoạt như:
phối hợp giữa cơ quan chức năng với các cơ quan, địa phương, đơn vị, doanh nghiệp,
cơ sở giáo dục tổ chức nói chuyện chuyên đề, phổ biến pháp luật; tuyên tuyền Luật An
ninh mạng; các cuộc thi tìm hiểu về an toàn thông tin; góp ý xây dựng chương trình
giáo dục an toàn thông tin mạng của các cơ sở giáo dục hoặc tham gia biên soạn các
tài liệu liên quan đến an toàn thông tin mạng.
6.3.2.3. Bồi dưỡng kỹ năng nhận diện các âm mưu, thủ đoạn tấn công mạng và
các hình thái phát sinh trên không gian mạng.
Hoạt động tấn công không gian mạng rất đa dạng và tinh vi như: làm mất kết nối
Internet, đánh sập các website của chính phủ, cơ quan, đơn vị, nhà trường, doanh nghiệp;
giả mạo các website nhằm lừa đảo; cài gắm vào máy tính cá nhân hoặc lấy tài khoản và
mật khẩu; đánh cắp dữ liệu cá nhân (hình ảnh, file, video); tấn công bằng mã độc (theo tệp
đính kèm trong email hoặc ẩn trong quảng cáo Skype); tấn công ẩn danh bằng những
phần mềm độc hại (phần mềm diệt virus, các trình duyệt); tấn công qua usb, đĩa CD, địa
chỉ IP, server…
Ở mức độ cao hơn, các thế lực thù địch có thể thông qua block cá nhân lôi kéo, kích
động các phần tử bất mãn, tập hợp lực lượng, thành lập các tổ chức chống đối như Việt
Tân, Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời, Thanh Niên Dân Chủ,… núp dưới vỏ bọc
các tổ chức “xã hội dân sự”, “diễn đàn dân chủ” để xuyên tạc cương lĩnh, đường lối, quan
điểm, nền tảng tư tưởng của Đảng.
Các thế lực thù địch còn lợi dụng báo điện tử, các website, dịch vụ thư điện tử,
mạng xã hội facebook, Zalo, Twitter, diễn đàn,... để phát tán các tài liệu, kêu gọi tuần
hành, biểu tình, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, chống phá
chính quyền, chia rẽ mối đoàn kết giữa Đảng và Nhân dân hoặc sử dụng “khoảng trống
thông tin” để tấn công vào sự hiếu kỳ của công chúng; làm mới thông tin cũ, bịa đặt
thông tin mới để chống phá. Các trang mạng có nhiều nội dung thông tin xấu, độc như
Dân Làm Báo, Quan Làm Báo; Boxit, Dân Luận, Chân Dung Quyền Lực…
6.3.2.4. Nâng cao ý thức phòng tránh, tự vệ và sử biện pháp kỹ thuật để khắc phục hậu
quả trong trường hợp bị tấn công trên không gian mạng.
Nêu cao ý thức chính trị, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân đối với nhiệm vụ bảo vệ
không gian mạng quốc gia. Tuân thủ quy định của pháp luật về bảo vệ an ninh mạng; kịp
thời cung cấp thông tin liên quan đến an ninh mạng, nguy cơ đe dọa an ninh mạng và các
hành vi xâm phạm khác, thực hiện yêu cầu và hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước
có thẩm quyền; giúp đỡ, tạo điều kiện cho người có trách nhiệm tiến hành các biện pháp
bảo vệ an ninh mạng.
Mỗi người cần nghiên cứu và sử dụng tốt các biện pháp kỹ thuật bảo đảm an toàn
thông tin như bảo vệ tài khoản cá nhân bằng xác thực mật khẩu đa lớp; tạo thói quen
quét virus trước khi mở file; thực hiện sao lưu dự phòng trên ổ cứng ngoài, mạng nội
bộ hoặc trên các dịch vụ lưu trữ đám mây (Google Drive, OneDrive); kiểm tra lộ lọt
thông tin tài khoản cá nhân qua Trung tâm xử lý tấn công mạng Việt Nam.
Người dùng không nên vào những trang web lạ (hoặc trang web đen), những
email chưa rõ danh tính và đường dẫn đáng nghi ngờ; cập nhật bản trình duyệt, hệ điều
hành và các chương trình sử dụng; dùng những phần mềm diệt virus uy tín và được
cập nhật thường xuyên, không tắt chương trình diệt virus trong mọi thời điểm. Khi
phát hiện bị tấn công trên không gian mạng, nhanh chóng ngắt kết nối mạng; sử dụng
các công cụ giải mã độc; báo cho người có trách nhiệm qua đường dây nóng.
6.3.2.5. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chuyên trách an ninh
mạng, lãnh đạo, quản lý các địa phương, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, nhà trường
trong giáo dục nâng cao ý thức làm chủ và bảo vệ không gian mạng.
Các cơ quan chuyên trách an ninh mạng (Cục An ninh mạng và phòng, chống tội
phạm sử dụng công nghệ cao, Bộ Công an; Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng,
Bộ Quốc phòng; lực lượng bảo vệ an ninh mạng tại bộ, ngành, ủy ban nhân dân tỉnh,
cơ quan, tổ chức quản lý trực tiếp hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia)
cung cấp đầy đủ thông tin về xu hướng phát triển, các nguy cơ từ không gian mạng;
các biện pháp phòng, chống tấn công trên không gian mạng.
Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên không gian mạng tăng cường cảnh báo
khả năng mất an ninh mạng do đơn vị mình cung cấp và hướng dẫn biện pháp phòng
ngừa; xây dựng các phương án xử lý với sự cố an ninh mạng; phối hợp, tạo điều kiện
cho lực lượng chuyên trách trong hoạt động bảo vệ an ninh mạng. Các cơ sở giáo dục
sớm đưa nội dung giáo dục bảo đảm an ninh không gian mạng quốc gia vào chương
trình dạy học phù hợp với ngành học, cấp học.
Lãnh đạo, quản lý các địa phương, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, nhà trường cần
nắm vững mọi hoạt động và tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên, quần chúng, có nội
dung giáo dục, định hướng, điều chỉnh nhận thức đúng đắn, kịp thời; có trách nhiệm trong
quản lý thông tin có liên quan tới cán bộ, đảng viên và quần chúng, có kế hoạch bảo vệ
chính trị nội bộ trên không gian mạng.
6.4. THÔNG TIN CẦN THIẾT CỦA BỘ CÔNG AN VỀ TIẾP NHẬN
THÔNG TIN TỐ GIÁC TỘI PHẠM
6.4.1.Đường dây nóng tố giác vi phạm pháp luật trên không gian mạng
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể trực tiếp phản ánh thông tin đến đường dây điện
thoại nóng của Bộ Công an, theo số điện thoại: 069.234.2593
6.4.2. Điều kiện phản ánh thông tin tố giác vi phạm pháp luật trên không gian
mạng đến cơ quan chức năng
Thông tin phản ánh đến đường dây điện thoại nóng phải sử dụng bằng ngôn ngữ
Tiếng Việt và có nội dung cụ thể về họ tên, địa chỉ, số điện thoại của cơ quan, tổ chức, cá
nhân trực tiếp phản ánh thông tin đến đường dây điện thoại nóng.
Thông tin phản ánh đến đường dây điện thoại nóng có thể bị từ chối tiếp nhận khi
cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin không nêu rõ họ tên, địa chỉ, số điện
thoại liên hệ hoặc nội dung thông tin cung cấp không có cơ sở, căn cứ rõ ràng, không
đủ điều kiện để tiếp nhận, giải quyết; quá trình trao đổi cung cấp thông tin có lời lẽ,
thái độ lăng mạ, xúc phạm, không đúng mực.
6.4.3. Địa chỉ Văn phòng tiếp nhận, giải quyết tố giác tin báo về tội phạm
Địa chỉ Văn phòng tiếp nhận, giải quyết tố giác tin báo về tội phạm:
- Số 47 Phạm Văn Đồng, Mai Dịch, Cầu Giấy, TP. Hà Nội (Điện thoại:
069.2345860)
- Số 497 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, TP. Hà Nội (Điện thoại: 069.2321667)
- Nhà C1, 358 Nguyễn Trãi, Nguyễn Cư Trinh, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh (Điện
thoại: 069.3376809)
6.4.4. Địa chỉ tải biểu mẫu trên Cổng thông tin điện tử Bộ Công an
Các biểu mẫu có thể tải về từ Cổng thông tin điện tử Bộ Công an theo địa chỉ:
http://bocongan.gov.vn/vanban/Pages/van-ban-moi.aspx?ItemID=460

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN


1. Trình bày thực trạng an toàn thông tin ở Việt Nam từ năm 2011 đến nay ?
2. Nêu và phân tích hành vi đăng tải các thông tin độc hại vi phạm ANQG, trật
tự ATXH, chiếm đoạt tài sản ?
3. Nêu và phân tích các biện pháp phòng, chống vi phạm pháp luật trên không
gian mạng?
Chương 7
AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG VÀ CÁC MỐI ĐE DỌA AN NINH
PHI TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM

7.1. Nhận thức chung về an ninh phi truyền thống


7.1.1. Quan niệm về an ninh phi truyền thống
7.1.1.1. Quan niệm an ninh phi truyền thống trên thế giới
Cho đến nay, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu và nhiều khái niệm về
an ninh phi truyền thống được đưa ra, nhưng vẫn chưa có sự thống nhất về nội hàm.
Cho nên, các quốc gia thường dựa vào cách xác định, đánh giá của Liên hợp quốc làm
quy chuẩn.
Theo Liên hợp quốc, an ninh phi truyền thống gồm 7 lĩnh vực chủ yếu là: kinh
tế, lương thực, sức khỏe, môi trường, con người, xã hội, chính trị và văn hóa.
Bên cạnh đó, có một số quan điểm cho rằng, nó được biểu hiện trên 5 lĩnh vực
cơ bản là: kinh tế, môi trường, xã hội, chính trị và văn hóa.
Có quan điểm khác lại khẳng định nó gồm 6 nhóm chính là: ô nhiễm môi
trường, tình trạng thiếu hụt tài nguyên, tội phạm xuyên quốc gia, nạn khủng bố, dịch
bệnh và thảm họa thiên tai...
Điều dễ nhận thấy, các quan điểm trên tuy không hoàn toàn thống nhất về phạm
vi, lĩnh vực quy chuẩn, nhưng đều có điểm chung là: An ninh phi truyền thống không
phải là an ninh quân sự, mà là an ninh tổng hợp, có thể do con người gián tiếp gây ra,
tác động xấu tới các lĩnh vực của đời sống xã hội và đe dọa nghiêm trọng đến sự tồn
vong của con người ở một quốc gia, khu vực hoặc trên toàn thế giới.
7.1.1.2. Quan niệm an ninh phi truyền thống ở Việt Nam.
Trước Đại hội IX, Đảng Cộng sản Việt Nam tuy chưa chính thức sử dụng khái
niệm an ninh phi truyền thống trong Văn kiện chính trị của mình nhưng đã từng chỉ ra
những dấu hiệu, những vấn đề của an ninh phi truyền thống.
- Đại hội VIII (6-1996) cho rằng: Thế giới đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn
cầu (bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những
bệnh tật hiểm nghèo...), không một quốc gia nào có thể tự giải quyết, mà phải có sự
hợp tác đa phương
- Đại hội IX (tháng 01-2001) tiếp tục khẳng định các tinh thần của Đại hội VIII
và bổ sung thêm vấn đề chống tội phạm quốc tế vào nội dung này.
- Đại hội X bổ sung và phát triển: Nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc đòi hỏi các
quốc gia và các tổ chức phối hợp giải quyết; khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm
nước giàu và nước nghèo ngày càng lớn; sự gia tăng dân số cùng với các luồng di cư;
tình trạng khan hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt tài nguyên, môi trường tự nhiên bị
hủy hoại; khí hậu diễn biến ngày càng xấu, kèm theo những thiên tai khủng khiếp; các
dịch bệnh lớn, các tội phạm xuyên quốc gia có chiều hướng tăng
- Phải đến Đại hội XI của Đảng (tháng 4-2011) mới chính thức sử dụng khái
niệm an ninh phi truyền thống với các vấn đề được chỉ ra, như: chống khủng bố, bảo
vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, hạn chế bùng nổ dân số, phòng ngừa
và hạn chế dịch bệnh hiểm nghèo1
- Đại hội XII Đảng ta chỉ rõ: “những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an
ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai,
dịch bệnh có nhiều diễn biến phức tạp. Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng
quyết liệt hơn với các hình thức an ninh truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các
hình thái chiến tranh kiểu mới”2 với hàm ý khả năng chuyển hóa giữa an ninh phi
truyền thống và an ninh truyền thống.
- Có thể liệt kê nhiều hơn nữa các quan niệm rất phong phú, đa dạng của giới
nghiên cứu trong nước và quốc tế, nhưng tựu trung, các quan niệm nêu trên có thể xếp
theo hai trường phái:
+ Trường phái thứ nhất, quan niệm an ninh phi truyền thống là an ninh tổng
hợp, bao gồm an ninh quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường. An ninh phi
truyền thống không đối lập với an ninh truyền thống mà là mở rộng nội hàm của khái
niệm an ninh truyền thống vốn lấy an ninh quân sự làm trung tâm. Căn cứ xuất phát
của quan niệm này là do tính tương đối của an ninh phi truyền thống, một mối đe dọa
an ninh phi quân sự có thể chuyển hóa thành xung đột vũ trang, chiến tranh.
+ Trường phái thứ hai, quan niệm an ninh phi truyền thống đối lập với an ninh
truyền thống, không bao hàm an ninh quân sự. Trường phái thứ hai rõ ràng hơn về mặt
ngữ nghĩa, nhưng cũng thừa nhận, các vấn đề an ninh phi truyền thống có thể dẫn tới
xung đột, chiến tranh. Ở Việt Nam, quan điểm chính thống và quan niệm của hầu hết
các học giả theo cách tiếp cận của trường phái thứ hai, tức quan niệm an ninh phi
truyền thống là đối lập với an ninh truyền thống, tức không bao gồm các lĩnh vực an
ninh quân sự.
An ninh phi truyền thống là sự mở rộng an ninh trên nhiều lĩnh vực như kinh tế,
xã hội, môi trường, sức khoẻ, quyền con người... bên ngoài lĩnh vực quân sự, chính trị.
An ninh phi truyền thống hướng đến bảo đảm các giá trị sống còn của quốc gia, dân
tộc với trung tâm là con người với các giá trị truyền thống, sự hài hoà và ổn định của
các quan hệ dân tộc; sự toàn vẹn văn hoá, sự thịnh vượng kinh tế và các điều kiện sống
về môi trường, nguồn nước, lương thực... trước các mối đe dọa từ bên ngoài lẫn bên
trong, do con người lẫn tự nhiên, có thể đã từng xuất hiện từ rất lâu, gắn bó với lịch sử
phát triển con người hoặc mới xuất hiện. Có nhiều quan điểm khác nhau về an ninh phi
truyền, những khái quát nhất có thể hiểu: An ninh phi truyền thống là sự ổn định và
phát triển bền vững của các lợi ích quốc gia cơ bản, quan trọng mang tính phi quân sự
có mối liên hệ, tương tác chặt chẽ với an ninh, phát triển của khu vực và thế giới.
7.1.2. Đặc điểm chủ yếu của an ninh phi truyền thống
Một là, an ninh phi truyền thống bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan đến an
ninh quốc gia và khó đối phó hay giải quyết đơn phương bằng biện pháp quân sự.
Hai là, có thể chia các vấn đề an ninh phi truyền thống thành hai nhóm: Nhóm
bạo lực phi quân sự và nhóm phi bạo lực, trong đó nhóm bạo lực phi quân sự bao gồm

1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội (tr.28).
2
Văn phòng Trung ương Đảng, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội (tr.72).
khủng bố, tội phạm có tổ chức…; còn nhóm các hoạt động phi bạo lực bao gồm kinh
tế, văn hóa, môi trường và dịch bệnh…
Ba là, an ninh phi truyền thống và an ninh truyền thống là hai mặt của khái
niệm an ninh toàn diện. Do vậy, trong những điều kiện nhất định các mối đe dọa an
ninh phi truyền thống có thể bùng phát thành các vấn đề an ninh truyền thống. Chủ
nghĩa khủng bố là một ví dụ tiêu biểu có cả hai mặt an ninh truyền thống và phi truyền
thống.
Bốn là, các vấn đề an ninh phi truyền thống đều mang tính xuyên quốc gia thậm
chí là xuyên khu vực.
Năm là, các vấn đề an ninh phi truyền thống ảnh hưởng và hủy hoại an ninh
quốc gia dần dần và lâu dài hơn so với các vấn đề an ninh truyền thống.
Như vậy các mối đe dọa an ninh truyền thống là nói đến nguy cơ xảy ra chiến
tranh xâm lược hoặc xung đột vũ trang về biên giới, lãnh hải; nguy cơ xảy ra đảo chính
quân sự nhằm lật đổ một chính quyền hoặc làm thay đổi thể chế chính trị của mỗi quốc
gia. Các mối đe dọa này thường mang tính cá biệt và có thể dễ dàng nhận biết. Trong
khi các mối đe dọa an ninh phi truyền thống thường mang tính phổ biến rộng rãi, thậm
trí là toàn cầu và không phải bao giờ cũng dễ dàng nhận biết.
7.1.3. An ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống
7.1.3.1. Xác định an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống.
An ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống đều nằm trong nhóm các vấn
đề an ninh, là hai mặt của khái niệm an ninh toàn diện. An ninh truyền thống và an ninh
phi truyền thống cùng tác động đến xây dựng chiến lược an ninh quốc gia, bảo đảm sự
ổn định và phát triển của quốc gia. Tuy nhiên, an ninh truyền thống nhấn mạnh tới việc
sử dụng các biện pháp quân sự để chống lại sự tấn công bằng quân sự nhằm uy hiếp,
xâm phạm độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. An ninh phi truyền thống sử dụng
các biện pháp phi vũ lực để phòng chống những uy hiếp có nguồn gốc phi quân sự liên
quan đến sự phát triển của con người và môi trường sống.
Về chủ thể: An ninh truyền thống có thể xác định được rõ ràng nhưng an ninh
phi truyền thống thì có vấn đề xác định được nhưng có vấn đề lại không xác định
được. An ninh truyền thống là sự xung đột giữa quân đội các nhà nước còn các mối đe
dọa an ninh phi truyền thống thường do các tác nhân tự nhiên hoặc do các tổ chức
ngoài nhà nước, nhóm người hoặc cá nhân tiến hành.
Về đối tượng đe dọa xâm phạm: Với an ninh truyền thống đó chính là chủ
quyền lãnh thổ quốc gia, dân tộc còn với an ninh phi truyền thống là sự tồn tại, phát
triển bền vững của con người, xã hội, môi trường sống… Các mối đe dọa an ninh phi
truyền thống uy hiếp trực tiếp đến cá nhân con người hoặc cộng đồng, quốc gia - dân
tộc; còn an ninh truyền thống uy hiếp trực tiếp đến chủ quyền lãnh thổ quốc gia - dân
tộc, uy hiếp an ninh quốc gia.
Về không gian và phạm vi của mối đe dọa xâm phạm: An ninh truyền thống chủ
yếu diễn ra giữa hai quốc gia, nhóm liên minh các quốc gia còn an ninh phi truyền
thống có thể xuất phát từ nội tại một hoặc nhiều quốc gia sau đó có thể lan tỏa ảnh
hưởng tới cả khu vực và thậm chí toàn thế giới.
7.1.3.2. Mối quan hệ giữa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống
An ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống là hai mặt của khái niệm an
ninh nhưng chúng lại có quan hệ đan xen với nhau, trong những điều kiện nhất định có
khả năng chuyển hóa cho nhau.
Thứ nhất, nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống là hậu quả trực tiếp của các
vấn đề an ninh truyền thống. (Chẳng hạn như vấn đề người tị nạn do chiến tranh).
Thứ hai, một số vấn đề an ninh truyền thống có thể phát triển thành các vấn đề
an ninh phi truyền thống. (Ví dụ, sự hình thành của chủ nghĩa khủng bố liên quan chặt
chẽ đến các vấn đề an ninh truyền thống như tâm lý đấu tranh gây ra bởi chủ nghĩa bá
quyền, xung đột và bởi các vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, và những vấn đề lịch sử hình
thành bởi mâu thuẫn dân tộc và tôn giáo).
Thứ ba, một số vấn đề an ninh phi truyền thống cũng có thể gây ra mâu thuẫn và
xung đột trong an ninh truyền thống. Nếu các tổ chức khủng bố tìm kiếm các phương tiện
công nghệ cao như hạt nhân và hóa sinh, nó sẽ liên quan đến sự gia tăng vũ khí hủy diệt
hàng loạt. Sự tương tác giữa các mối đe dọa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền
thống tưởng như biệt lập, nhưng khi xét tới nguyên nhân, sự hình thành, thì chúng lại có
quan hệ tương hỗ lẫn nhau, bởi có cái này mà có cái kia và ngược lại.
7.1.4. Thách thức an ninh phi truyền thống đối với các nước trên thế giới và đối
với Việt Nam
7.1.4.1. Thách thức của an ninh phi truyền thống đối với các nước trên thế giới
Có một điểm cần nhấn mạnh là, không phải đến bây giờ, nhiều vấn đề được gọi
là mối đe dọa đối với an ninh phi truyền thống, như giá lương thực tăng cao, biến đổi
khí hậu, thiên tai, dịch bệnh…, mới gây cho con người những lo lắng về sự an nguy và
tồn vong của mình.
- Lịch sử nhân loại đã từng chứng kiến những trận đói, nạn dịch khủng khiếp
cướp đi sinh mạng của hàng triệu con người. Tuy nhiên, trong bối cảnh bùng nổ cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại, quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ đã làm
cho biên giới địa lý giữa các quốc gia trở nên "mềm” hơn, dễ vượt qua hơn; mạng In-
tơ-nét đã tạo ra một "thế giới ảo” với các xa lộ thông tin toàn cầu, hoàn toàn không còn
biên giới ngăn cách.
- Cùng với đó là sự hủy hoại của con người đối với tự nhiên, môi trường; sự
phát triển kinh tế thiếu kiểm soát, chạy theo lợi nhuận thuần túy, lợi ích trước mắt; sự
chi phối của những tư tưởng chính trị cực đoan, sự tha hóa và suy thoái về đạo đức của
chính con người… đã làm cho những vấn đề mà ngày nay được gọi là an ninh phi
truyền thống trở nên trầm trọng hơn, phức tạp hơn, có quy mô lớn hơn rất nhiều. Phạm
vi tác động của vấn đề đã vượt ra khỏi biên giới lãnh thổ và lợi ích an ninh quốc gia
dân tộc của một nước.
- Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh
chóng lan rộng tới nhiều nước, kéo cả nền kinh tế thế giới rơi vào tình trạng suy thoái,
là một ví dụ.
- Vấn đề môi trường, cạn kiệt nguồn tài nguyên, nguồn nước sạch, vấn đề biến
đổi khí hậu, nước biển dâng… đôi khi lại đe dọa nhiều hơn đối với cuộc sống của
người dân ở những quốc gia không phải là "thủ phạm” gây ra những biến đổi, cạn kiệt
đó.
- Các hoạt động tội phạm, khủng bố quốc tế, nhất là khủng bố bằng vũ khí sinh
học, hóa học, bệnh dịch…, có quy mô xuyên biên giới. Những mối đe dọa an ninh phi
truyền thống, vì thế, trở thành những thách thức mang tính toàn cầu.
- Tính chất nguy hiểm của các mối đe dọa an ninh phi truyền thống không chỉ
biểu hiện ở mức độ hủy hoại, sự tàn phá của nó đối với cuộc sống của con người, mà
còn đặt ra nhiều thách thức đối với sự ổn định xã hội, sự tồn vong của cả cộng đồng,
hiệu quả thực tế của hợp tác và hội nhập toàn cầu; thậm chí còn làm nảy sinh các vấn
đề về an ninh quân sự.
- Các thảm họa thiên tai, động đất, sóng thần, bão lụt, dịch bệnh, cạn kiệt tài
nguyên thiên nhiên… ngày càng thách thức các thành tựu của khoa học, kỹ thuật hiện
đại và khả năng, nỗ lực của con người.
- Khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao, những vấn đề
tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực… đang thử thách nghiệt ngã năng
lực điều hành của các chính phủ, sự vững chắc của các thể chế chính trị và các nền
kinh tế, kể cả nền kinh tế giàu mạnh nhất, cũng như tính khả thi, bền vững của các liên
kết quốc tế.
- Trong bối cảnh toàn cầu hóa, tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia tăng
lên, thế giới dường như trở nên nhỏ bé hơn, nhưng lại khó kiểm soát hơn, kém an toàn
hơn bởi các mối đe dọa an ninh phi truyền thống có mức độ nguy hiểm cao hơn, sức
ảnh hưởng lớn hơn, tầm ảnh hưởng rộng hơn và tốc độ lây lan cũng nhanh hơn.
- Chính vì vậy, để giải quyết và đối phó với những vấn đề này đòi hỏi phải có
sự nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế, sự cố gắng của mỗi cộng đồng, quốc gia, con
người, với những giải pháp và bước đi phù hợp, kết hợp tổng lực các biện pháp kinh
tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, pháp luật, khoa học, kỹ thuật, văn hóa, xã
hội.
7.1.4.2. Thách thức an ninh phi truyền thống đối với Việt Nam
Việt Nam là quốc gia đang phát triển, có vị trí địa lý đặc thù, nằm trên dải khí hậu
xích đạo nhiệt đới, nên chịu tác động rất nặng nề từ an ninh phi truyền thống, nhất là những
mối hiểm họa từ thiên tai, bão lụt, sự biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, xâm nhập nước
mặn, các loại dịch bệnh (SARS, cúm gia cầm H5N1, AIDS, COVID-19…). Cùng với đó,
những vấn đề về buôn lậu, vận chuyển trái phép vũ khí, ma túy, cướp biển, tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia, khủng bố, nhập cư và di cư trái pháp luật, ô nhiễm môi trường,… đã
và đang tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của Việt
Nam. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, bên cạnh thời cơ,
thuận lợi, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với không ít thách thức, trong đó có thách thức
từ an ninh phi truyền thống trên các lĩnh vực.
- Đối với lĩnh vực kinh tế:
Tác động xấu từ những hiểm họa của an ninh phi truyền thống làm cho nền
kinh tế nước ta suy thoái, kém phát triển, gây ra những hệ lụy nguy hiểm, khó lường.
Trong đó, biến đổi khí hậu làm cho nhiệt độ tăng, nước biển dâng,… là nguyên nhân,
“thủ phạm” gây nên các trận bão, lũ lớn, phá hoại mùa màng và các công trình giao
thông, công trình xã hội, cơ sở sản xuất, làm ô nhiễm môi trường, dịch bệnh,… chúng
ta phải tốn kém nhiều tiền của để khắc phục. Cũng do biến đổi khí hậu, các địa bàn
ven biển, nhất là khu vực thành phố Hồ Chí Minh, mực nước biển dâng cao, diện tích
canh tác, trồng trọt bị xâm mặn, ảnh hưởng lớn đến thu hẹp mục tiêu, quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội. Cùng với đó, thời tiết nhiều nơi, nhất là khu vực miền Trung,
thường xuyên nắng nóng, hạn hán kéo dài, dẫn đến khan hiếm nước ngọt phục vụ sinh
hoạt và sản xuất, làm cho mùa màng thất thu, đe dọa đến an ninh lương thực. Khi bùng
phát dịch bệnh, ví như đại dịch Covid-19 vừa qua đã tác động tiêu cực tới nhiều mặt
đời sống kinh tế - xã hội nước ta, nhất là hoạt động sản xuất, kinh doanh gặp rất nhiều
khó khăn, thách thức... Tác động của an ninh phi truyền thống trong lĩnh vực kinh tế
để lại hậu quả rất nặng nề, nó làm cho giá cả các mặt hàng của đất nước ngày một leo
thang, nhân dân lao động phải đối mặt với nạn thất nghiệp, đói nghèo, tham nhũng, tội
phạm, dịch bệnh tràn lan, môi trường ô nhiễm,... nhà nước phải chi phí lớn về ngân
sách để khắc phục.
- Đối với lĩnh vực chính trị - xã hội:
Tác động của an ninh phi truyền thống làm hạn chế hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước và chính quyền các cấp, nhất là trong
việc thực hiện các chủ trương, quyết sách về phát triển kinh tế - xã hội, gây tâm lý
nhân dân hoang mang, hoài nghi, thiếu niềm tin đối với chế độ xã hội chủ nghĩa của
nước ta. Trong xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay là điều
kiện cho các luồng tư tưởng, văn hóa khác nhau của nước ngoài du nhập vào nước ta.
Vì thế, Việt Nam phải chịu tác động không nhỏ từ thứ văn hóa, đạo đức, lối sống độc
hại, không lành mạnh du nhập từ nước ngoài; thậm chí làm lệch chuẩn về tư tưởng,
phẩm chất đạo đức, lối sống của giới trẻ và biến dạng bản sắc văn hóa truyền thống
nghìn năm văn hiến của dân tộc Việt Nam.
- Đối với lĩnh vực quốc phòng - an ninh:
Những tác động từ các hiểm họa của an ninh phi truyền thống đã ảnh hưởng lớn
đến nguồn lực tăng cường quốc phòng - an ninh, trực tiếp là xây dựng lực lượng, thế
trận, các công trình phòng thủ và các mặt bảo đảm cho hoạt động của lực lượng vũ
trang thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự, bảo vệ Tổ quốc trong thời bình, hoạt
động tác chiến khi đất nước có chiến tranh, xung đột. Mặt khác, trong điều kiện bùng
phát của công nghệ thông tin, truyền thông, đang xuất hiện một loại tội phạm mới rất
nguy hiểm, đe dọa trực tiếp tới quốc phòng - an ninh quốc gia, đó là: tội phạm an ninh
mạng, tội phạm công nghệ cao. Các đối tượng này tìm cách đánh cắp các thông tin mật
về an ninh quốc gia, về quân sự, quốc phòng, đối ngoại của đất nước, gây tổn hại
nghiêm trọng đến quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế của ta đối với các quốc gia, khu
vực. Thậm chí, tội phạm an ninh mạng có thể sử dụng những loại vi-rút độc hại để phá
hủy, làm tê liệt hệ thống máy tính, trung tâm chỉ huy, điều hành, gây ảnh hưởng lớn
đến công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu trong hệ thống máy tính nối mạng ở các
cơ quan, đơn vị trọng yếu. Đặc biệt, một số quốc gia phát triển còn sử dụng lực lượng
“tình báo mạng”, ngoài việc xâm nhập đánh cắp thông tin còn có thể tiến hành tác
chiến mạng, tác chiến điện tử khi cần thiết.
An ninh phi truyền thống có thể tác động sâu sắc đến quốc phòng của đất nước
và khi các tác động đó lớn đến mức không thể kiểm soát được hoặc xử lý không hiệu
quả sẽ tạo thành nguy cơ cho quốc phòng. Sự tác động của an ninh phi truyền thống
cần được xem xét với 3 nguy cơ chính sau:
Thứ nhất, làm suy giảm sức mạnh quốc phòng của đất nước. Với tiềm lực chính
trị - tinh thần, nó tác động tạo tâm lý hoang mang, làm suy giảm ý chí, quyết tâm và
lòng tin của nhân dân đối với chế độ; đồng thời, có thể làm gia tăng mâu thuẫn xã hội,
nhất là giữa các tầng lớp dân cư. Với tiềm lực kinh tế, tác động từ an ninh phi truyền
thống sẽ làm kìm hãm, thậm chí phá hoại sự phát triển của nền kinh tế, gây khó khăn
trong việc kết hợp kinh tế với quốc phòng và mở rộng hợp tác quốc tế về kinh tế; làm
suy giảm đáng kể khả năng dự trữ và huy động cơ sở vật chất từ nền kinh tế cho các
nhiệm vụ quốc phòng cũng như khả năng đầu tư cho quốc phòng nói chung, cho hiện
đại hóa quân đội nói riêng. Tác động của an ninh phi truyền thống còn ảnh hưởng
không nhỏ đến khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ vào lĩnh vực
quốc phòng, chất lượng xây dựng lực lượng và thế trận quốc phòng cũng như xây
dựng các khu vực phòng thủ, công trình quốc phòng, nhất là sự tàn phá do thảm họa,
thiên tai gây ra.
Thứ hai, gây mất ổn định của quốc gia. Mục tiêu tập trung nhất của quốc
phòng Việt Nam là phải giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất
nước. Thực tiễn cho thấy, mất ổn định đất nước do nhiều nguyên nhân; trong đó, tác
động từ an ninh phi truyền thống là một trong những nguyên nhân quan trọng, khó
lường. Hậu quả từ an ninh phi truyền thống có thể gây ra mất ổn định đất nước trên
nhiều lĩnh vực, như: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh và đối
ngoại, v.v. Trong đó, tác động từ tình hình biến đổi khí hậu, dịch bệnh, xung đột sắc
tộc, tôn giáo, khủng bố và tội phạm ma túy,... sẽ có tác động trực tiếp làm kìm hãm
phát triển kinh tế, gia tăng đói nghèo. Ngoài ra, tác động của an ninh thông tin với các
biểu hiện là “chiến tranh thông tin”, “chiến tranh mạng” cũng tạo ra nguy cơ mất ổn
định đất nước. Đặc biệt hiện nay, an ninh thông tin có thể gây rối loạn hệ thống mạng
của đất nước, dẫn đến sự sụp đổ toàn bộ hệ thống điều khiển quốc gia; tạo ra các luồng
thông tin xuyên tạc, bóp méo sự thật, gây chia rẽ nội bộ lãnh đạo, làm mất lòng tin của
nhân dân, dẫn đến sai lệch định hướng của quốc gia. Lợi dụng điều đó, các thế lực thù
địch đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”, kích động gây rối, biểu tình, bạo loạn, làm mất ổn định đất nước, tạo cớ can
thiệp từ bên ngoài.
Thứ ba, tác động hình thành nguy cơ xung đột và chiến tranh. Xét về tổng thể,
nguy cơ xung đột và chiến tranh được hình thành từ nhiều nguyên nhân, cả chủ quan
và khách quan, cả bên trong và bên ngoài; trong đó có các nguyên nhân từ tác động
của an ninh phi truyền thống, nhất là từ khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, ma túy,
xung đột dân tộc, sắc tộc và khai thác tài nguyên, v.v. Vì vậy, ngăn chặn, đẩy lùi nguy
cơ xung đột và chiến tranh đến với nhiều quốc gia thực chất là ngăn chặn, đối phó với
các thách thức an ninh phi truyền thống. (Trên thực tế, hai cuộc chiến tranh tại I-rắc
năm 1991, 2003 xét cho cùng cũng có nguyên nhân từ nguồn lợi dầu lửa; chiến tranh
Nam Tư xảy ra từ xung đột dân tộc, sắc tộc; chiến tranh Áp-ga-ni-xtan xuất phát từ
chống khủng bố). Đối với Việt Nam, nguy cơ xung đột và chiến tranh từ tác động của
an ninh phi truyền thống có thể ít xảy ra nhưng không thể không dự báo. Hiện nay, các
loại tội phạm về an ninh mạng, ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em, tội rửa tiền và các
loại tội phạm trên lĩnh vực thương mại, đầu tư,... vẫn diễn biến phức tạp và là một
trong những nhân tố gây mất ổn định, nhất là trên các tuyến biên giới, có thể làm tổn
hại tới quan hệ với các nước. Điều đó cho thấy, nguy cơ từ an ninh phi truyền thống
tác động đến quốc phòng Việt Nam không chỉ từ các vấn đề trong nước mà còn từ các
vấn đề khu vực và thế giới, cần được coi trọng và kiểm soát có hiệu quả.
7.2. Nội dung của an ninh phi truyền thống
Mặc dù an ninh phi truyền thống mang tính xuyên quốc gia, tác động đến nhiều
lĩnh vực của đời sống xã hội nhưng khi xác định các mối đe dọa an ninh phi truyền
thống để cộng đồng quốc tế tập trung giải quyết thì mỗi quốc gia đều căn cứ vào lợi
ích của quốc gia mình để xác định. Chuyên đề này đề cập đến một số nội dung cơ bản
của an ninh phi truyền thống sau:
7.2.1. Biến đổi khí hậu
7.2.1.1. Khái niệm biến đổi khí hậu.
- Khí hậu là tổng hợp các điều kiện thời tiết trong một khu vực nhất định, được
xác định bằng những thông số ổn định và dài hạn. Khí hậu ổn định là điều kiện đảm
bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người.
- Biến đổi khí hậu là vấn đề có tính toàn cầu, tác động sâu sắc đến đời sống của
nhân loại, thách thức sự ổn định quốc gia, xâm hại đến tất cả các lĩnh vực an ninh:
năng lượng, lương thực, nguồn nước...
- Có thể hiểu biến đổi khí hậu là sự thay đổi có tính tiêu cực của trạng thái khí
hậu so với trung bình, do các quá trình tự nhiên hoặc do tác động của con người.
- Về bản chất biến đổi khí hậu thể hiện sự nhiễu loạn, thay đổi những quy luật
thông thường của hệ thống khí hậu với những biểu hiện như thay đổi nhiệt độ trung
bình của trái đất, xuất hiện tượng thời tiết cực đoan, dị thường, mực nước biển dâng,
xâm nhập mặn....
- Về nguồn gốc xảy ra biến đổi khí hậu: bên cạnh nguyên nhân từ quá trình tự
nhiên nhưng chủ yếu từ con người với các hoạt động tàn phá tự nhiên như xây dựng
các nhà máy thủy điện tràn lan, phá rừng...
- Về mức độ và hậu quả tác động: biến đổi khí hậu dù biểu hiện dưới hình thức
nào thì cũng mang tính tiêu cực, phá vỡ sự ổn định và tác động đến đời sống của con
người. Phạm vi tác động của khí hậu thường diễn ra trong phạm vi có thể trong một
khu vực, có thể diễn ra trên toàn thế giới.
7.2.1.2. Biểu hiện của biến đổi khí hậu.
Theo báo cáo của Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) năm 2007,
trong khoảng 100 năm qua nhiệt độ trung bình đã tăng 0,74°C, với tốc độ gia tăng
nhiệt độ của 50 năm sau gấp đôi so với 50 năm trước, nhiệt độ trung bình của Bắc cực
tăng 1,5%, ở đỉnh lớp băng vĩnh cửu ở Bắc Bán cầu tăng 3ºC, mực nước biển trung
bình toàn cầu tăng 0,31m.
Các hiện tượng thời tiết cực đoan, dị thường xuất hiện với tần xuất ngày càng
tăng tại những thời điểm, không gian trái với quy luật bình thường về loại hình, thời
điểm, cường độ và các đặc tính khác như một số khu vực sa mạc Nam Mĩ rất hiếm xảy
ra mưa nhưng mấy năm gần đây đã xuất hiện mưa tuyết và băng đá...
Biến đổi khí hậu là thách thức lớn nhất đến loài người trong thế kỷ XXI. Tại hội
nghị Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP 23) ở Bom, Đức (11/2017), số liệu
thống kê cho thấy, thiên tai từ biến đổi khí hậu làm chết 520.000 người, thiệt hại về
kinh tế là 3.160 tỷ USD...
Biến đổi khí hậu xuất phát từ nhiều nguyên nhân, bên cạnh các nguyên nhân
khách quan như sự thay đổi cường độ hoạt động và bức xạ của mặt trời, hoạt động của
núi lửa.. thì chủ yếu xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan. Con người khai thác và sử
dụng 50% nhiên liệu hóa thạch, góp phần làm gia tăng 50% nồng độ khí nhà kính
trong khí quyển. Hiện nay, có khoảng 25 - 30 tỉ tấn cacbonic thải vào môi trường khí
quyển mỗi năm. Cùng với đó, là sự suy giảm diện tích và chất lượng rừng do các hoạt
động phát triển của con người góp phần thúc đẩy biến đổi khí hậu.
7.2.1.3. Biến đổi khí hậu tại Việt Nam.
Việt Nam được đánh giá là một trong 5 nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của
biến đổi khí hậu do có đường bờ biển dài. Nhiệt độ trung bình hàng năm tăng, lượng
mưa có xu hướng biến động thất thường. Năm 2016, mùa khô nhiều nơi ở miền Nam
và miền Trung lượng nước thiếu 30 - 40%, tình - trạng xâm nhập mặn diễn ra sớm hơn
1 tháng, nhiều nơi đã vào sâu 80-100 km.
Từ năm 2005 đến 2014, trung bình hàng năm Việt Nam có khoảng 649 đợt
thiên tai như lũ lụt, hạn hán, mưa đá... trong đó lũ lụt xảy ra nhiều nhất chiếm 49% số
đợt thiên tai. Trung bình hàng năm, Việt Nam phải gánh chịu 469.526 ngôi nhà bị phá
hủy, 175.653 ngôi nhà bị hư hỏng, gây thiệt hại khoảng 5,2 tỷ USD, khoảng 3 triệu
người chịu tác động của thiên tai. Tính riêng năm 2007, thiên tai đã làm thiệt hại
11.600 tỷ đồng, 400 người chết, ngập và hư hại 113.800 ha lúa, phá hủy 1.300 công
trình đập, cống thủy lợi.
Theo các kịch bản về biến đổi khí hậu đối với Việt Nam, dự kiến đến cuối thế
kỷ XXI, 40% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long (là 1 trong 3 đồng bằng dễ bị tổn
thương nhất do nước biển dâng cùng với đồng bằng sông Nile, Ai Cập và đồng bằng
sông Ganges của Bangladesh), 11% diện tích Đồng bằng sông Hồng và 35 diện tích
của các địa phương khác thuộc khu vực ven biển bị ngập mặn, đặc biệt thành phố Hồ
Chí Minh bị ngập trên 20% diện tích thành phố. Khi đó 10-12% dân số Việt Nam bị
tác động với tổn thất kinh tế khoảng 10% GDP.
7.2.2. An ninh tài chính tiền tệ
7.2.2.1. Khái niệm an ninh tài chính tiền tệ.
Thập niên 80 - 90 thế kỷ XX, kinh tế thế giới bước vào thời đại toàn cầu hóa,
tạo ra sự liên kết giữa các nền tài chính tiền tệ các quốc gia. Sau cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ Mexico năm 1994- 1995 và khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á năm
1997 - 1998 sau đó lan ra nhiều quốc gia khác khiến tình hình chính trị xã hội rối loạn,
các chính phủ mới thay đổi liên tục. Từ đó, an ninh tài chính tiền tệ trở thành mối đe
dọa an ninh phi truyền thống được các quốc gia đề cập và nghiên cứu sâu rộng. Hiện
nay, có nhiều quan điểm khác nhau về an ninh tài chính - tiền tệ giữa các quốc gia và
trong nội bộ các ngân hàng như Ngân hàng Dự trữ Úc (Reserve bank of Australia),
Ngân hàng Trung ương Châu Âu (European Central Bank)... Các khái niệm này đều
hướng đến sự ổn định tài chính bắt nguồn từ các chức năng cơ bản của hệ thống tài
chính. Có thể hiểu: An ninh tài chính - tiền tệ là sự bảo đảm an toàn cho hệ thống tài
chính - tiền tệ, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội và ổn định an ninh quốc gia,
an ninh quốc tế.
An ninh tài chính - tiền tệ phải đảm bảo hệ thống tài chính thực hiện đầy đủ
chức năng, hoạt động ổn định, hiệu quả, an toàn, bền vững, có khả năng chống đỡ và
phục hồi trước những cú sốc kinh tế, các cuộc suy thoái, khủng hoảng. An ninh tài
chính - tiền tệ là một khái niệm có tính động.
An ninh tài chính - tiền tệ là một bộ phận cấu thành của an ninh kinh tế. Bảo vệ
an ninh tài chính - tiền tệ là việc thực hiện những nhiệm vụ phòng ngừa, đấu tranh giữ
vững sự an toàn các hoạt động của hệ thống tài chính - tiền tệ. Ở mỗi nước, an ninh
kinh tế trong đó có an ninh tài chính - tiền tệ là thành tố quan trọng của an ninh quốc
gia, có mối quan hệ biện chứng với các lĩnh vực an ninh khác như an ninh quân sự, an
ninh chính trị...
7.2.2.2. Các mối đe dọa an ninh tài chính - tiền tệ
Các mối đe dọa đến an ninh tài chính - tiền tệ là những yếu tố tiêu cực làm hệ
thống tài chính không thực hiện được chức năng và tác động đến nền kinh tế, trong đó
như: khủng hoảng ngân hàng, khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng nợ, khủng hoảng tài
chính... Ở cấp độ cao nhất, mối đe dọa an ninh tài chính - tiền tệ là khủng hoảng với
bốn mô hình.
Mô hình khủng hoảng tài chính thế hệ thứ nhất được Krugman giới thiệu năm
1979 và được Flood và Garber hoàn thiện vào năm 1984. Thâm hụt ngân sách chính
phủ triền miên làm cạn kiệt nguồn dự trữ để ổn định tỷ giá và cuối cùng các quốc gia
phải từ bỏ chế độ tỷ giá cố định. Khi dự trữ ngoại tệ giảm, sự tấn công của đầu cơ vào
đồng nội tệ sẽ gây ra thâm hụt tài khóa và thâm hụt thương mại. Vì vậy, đòi hỏi chính
phủ bảo vệ tỷ giá đã được ấn định bằng nguồn dự trữ ngoại tệ. Mô hình khủng hoảng
tài chính thế hệ thứ hai xuất phát từ quan điểm của Obstfed (1986) mô tả chính xác
những diễn biến ngay trước khủng hoảng, phản ánh chủ yếu mang tính “tự phát”. Đặc
trưng của mô hình này là đánh giá quá cao sự kỳ vọng và hình thành các ngòi nổ bởi
làn sóng bi quan dẫn đến phá giá đồng tiền. Những thay đổi trong giá cả và các chỉ tiêu
kinh tế vĩ mô này nảy sinh từ sự thay đổi trong kỳ vọng vào việc suy đoán phản ứng
của chính phủ đối với những biến đổi của môi trường vĩ mô của các nhà đầu tư, xoay
vòng tạo ra cuộc khủng hoảng. Mô hình này thể hiện rất rõ tại cuộc khủng hoảng của
cơ chế tỷ giá Châu Âu năm 1992.
Mô hình khủng hoảng tài chính tiền tệ thứ ba được xây dựng sau cuộc khủng
hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á năm 1997. Cuộc khủng hoảng này là mô tả các bong
bóng đầu tư, nổ qua bong bóng đầu tư và tác động đến nền kinh tế. Đối tượng là các
nền kinh tế mở, vốn tự do chu chuyển, là cuộc khủng hoảng ngân hàng gắn với khủng
hoảng tiền tệ thông qua một khu vực tài chính dễ đổ vỡ như tháng 7 năm 1997 đồng
Banh bị tấn công bởi các đợt đầu cơ vào, buộc chính phủ Thái Lan phải sử dụng ngoại
tệ. Khi dự trữ ngoại tệ cạn kiệt, chính phủ Thái Lan buộc thả trôi tỷ giá, phá giá đồng
nội tệ dẫn đến nhiều doanh nghiệp vay vốn bằng ngoại tệ phá sản, tạo ra khủng hoàng
ngân hàng, lan rộng ra các quốc gia khác.
Mô hình khủng khủng hoảng tài chính tiền tệ thứ tư được dự báo là cuộc khủng
hoảng được tích hợp từ nhiều vấn đề và giá các tài sản là ngòi nổ. So với các mô hình
khác, mô hình thức này xem xét các nhân tố thể chế là một yếu tố quan trọng gây ra
khủng hoảng.
7.2.2.3. An ninh tài chính tiền tệ tại Việt Nam
Giai đoạn trước năm 2007 là giai đoạn tương đối ổn định với tốc độ tăng trưởng
khoảng 7,88% mỗi năm. Từ sau năm 2007, kinh tế Việt Nam có sự bất ổn trong các
biến số kinh tế vĩ mô. Thâm hụt vãng lai tăng đột ngột vượt ngưỡng an toàn, đặc biệt
là năm 2008 xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ khủng hoảng nợ dưới
chuẩn của Mỹ. Tốc độ gia tăng nợ công tăng nhanh, ngân sách trung hạn thiếu bền
vững. Từ năm 2007 đến 2011, lạm phát tăng vọt, định điểm là năm 2008 và 2011. Tín
dụng nền kinh tế luôn ở mức cao chỉ có năm 2009 là giảm so với năm 2007.
Từ năm 2012 trở lại đây, kinh tế từng bước ổn định và phát triển, có thặng dư
thương mại, có thặng dư cán cân vãng lai, tăng dự trữ ngoại tệ tăng... Chính phủ nâng
cao hiệu quả trong quản lý các dự án đầu tư, kịp thời điều chỉnh chính sách như mua
bán ngoại hối, điều chỉnh lãi xuất...
7.2.3. An ninh năng lượng
7.2.3.1. Khái niệm an ninh năng lượng
Năng lượng được hiểu là tất cả các nguồn tài nguyên, nhiên liệu cung cấp, phục
vụ cho đời sống, sản xuất và các nhu cầu thiết yếu của con người.
An ninh năng lượng là một lĩnh vực quan trọng gắn với vấn đề an ninh và an
ninh quốc gia. Nội hàm của an ninh năng lượng thay đổi theo sự phát triển của nền
kinh tế xã hội. An ninh năng lượng được hiểu là: Sự đảm bảo cung ứng năng lượng
thường xuyên, ổn định, quản lý và sử dụng năng lượng an toàn, bền vững, đáp ứng đời
sống con người, sự ổn định và phát triển của quốc gia.
An ninh năng lượng phải đảm bảo về nguồn cung ứng năng lượng thường
xuyên và ổn định thông qua quá trình khai thác, nhập khẩu và tích trữ của mỗi quốc
gia, gắn với quản lý năng lượng nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững, phòng, chống ô
nhiễm môi trường. Việc sử dụng năng lượng lãng phí, không hiệu quả sẽ gây ra những
tác động tiêu cực cho cuộc sống con người và các quốc gia, đặc biệt trong điều kiện
hiện nay, trữ lượng tài nguyên năng lượng truyền thống như than đá, khí đốt, dầu lửa...
đang có xu hướng giảm.
Đảm bảo an ninh năng lượng phải hướng đến tìm kiếm và khai thác các nguồn
năng lượng mới, sạch và an toàn. Cần lưu ý rằng năng lượng tồn tại dưới nhiều dạng
khác nhau, phụ thuộc vào khả năng nhận biết, phát hiện và sử dụng của con người, đòi
hỏi các quốc gia đầu tư nghiên cứu, áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ trong
tìm kiếm, sử dụng, khai thác các nguồn năng lượng mới.
7.2.3.2. Các mối đe dọa an ninh năng lượng
Mối đe dọa lớn nhất đối với an ninh năng lượng hiện nay là trữ lượng tài
nguyên năng lượng truyền thống đang có xu hướng giảm. Theo số liệu nghiên cứu của
văn phòng tổ chức kiểm soát năng lượng Anh (EWG) dưới lòng đất hiện nay còn
khoảng 1.255 tỉ thùng dầu, đủ để con người khai thác trong 42 năm. Trữ lượng than đá
còn khoảng 2.000 tỉ tấn, đủ dùng gần 100 năm và dữ trữ gas còn khoảng 187.300 tỷ
Mỹ đủ dùng trong 15 năm với mức tiêu thu hiện nay...
Tuy nhiên, nhu cầu sử dụng năng lượng có xu hướng tăng. Theo Bộ năng lượng
Mỹ, năm 2025 nhu cầu dầu lửa thế giới sẽ tăng 35% và đến năm 2030 là 60% với mức
tiêu thụ 116 triệu thùng/năm so với 86 triệu thùng/năm như hiện nay. Nhưng với tốc
độ khai thác như hiện nay, thế giới chỉ sản xuất được 39 triệu thùng/ngày, không đủ
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trung bình 3,5 - 4% toàn cầu và dân số tăng lên 8,3
tỉ người. Trong các nước phát triển, nhu cầu về năng lượng của Trung Quốc và Ấn Độ
chiếm hơn 50%. Ấn Độ sẽ sớm trở thành nước tiêu thụ năng lượng lớn thứ 4 thế giới
sau Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản với 33% nhu cầu năng lượng và 65% lượng dầu
nhập khẩu.
Các nguồn năng lượng phi truyền thống như năng lượng hạt nhân, năng lượng
mặt trời gặp nhiều khó khăn trong ứng dụng trên phạm vi rộng. Sau sự cố Fukushima
tại Nhật Bản năm 2011, các quốc gia đang xem xét việc sử dụng năng lượng hạt nhân.
Đức tuyên bố bỏ sử dụng năng lượng hạt nhân vào năm 2022.
Để đảm bảo sự ổn định và phát triển, các quốc gia xây dựng chiến lược an ninh
năng lượng trong đó ưu tiên hàng đầu là đảm bảo nguồn cung ứng năng lượng ổn định
và an toàn. Các khu vực chiến lược về tài nguyên năng lượng như Trung Đông, Bắc
Phi... sẽ vẫn tiếp tục là “điểm nóng” của thế giới với nhiều cuộc xung đột, tranh chấp
tài nguyên.
7.2.3.3. An ninh năng lượng tại Việt Nam
Hệ thống năng lượng Việt Nam dựa trên ba trụ cột chính là dầu khí, than đá và
điện lực. Tuy nhiên, quy mô và hiệu quả ngành năng lượng còn thấp, an ninh năng
lượng chưa được đảm bảo (dữ trữ dầu quốc gia chưa đủ khả năng bình ổn giá khi xảy
ra khủng hoảng, điện không đủ cung ứng...). Trung bình mỗi năm, nhu cầu sử dụng
năng lượng tăng gấp 2 nhưng khả năng cung ứng trong nước chỉ đạt 60%; hiệu suất sử
dụng thấp, chỉ đạt 28-32%. Hiện nay, Việt Nam đã bắt đầu nhập khẩu năng lượng và
theo dự kiến thì đến năm 2020, nước ta phải nhập 20-30 triệu tấn than, 2.300 MW
điện...
Các nguồn năng lượng chủ yếu của Việt Nam chưa được đảm bảo. Trữ lượng
dầu lửa và khí đốt ở Biển Đông do nhiều nguyên nhân khách lẫn chủ quan sẽ ngày
càng khó khai thác. Trữ lượng than đá đang dần cạn kiệt, năm 2020, khả năng khai
thác chỉ đáp ứng khoảng 60% nhu cầu trong nước và đến năm 2035 là 34%. Các nguồn
năng lượng khác như năng lượng sóng, năng lượng gió, năng lượng mặt trời... chưa
được sử dụng phổ biến. Kế hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân đã dừng triển khai.
7.2.4. An ninh môi trường
7.2.4.1. Khái niệm an ninh môi trường
Môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đến
sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật. Môi trường cần nhìn nhận dưới tư
cách là không gian sống của con người gồm hai loại là môi trường tự nhiên cung cấp
không khí để thở, đất để trồng trọt, khoáng sản để chế tạo các công cụ... Môi trường
nhân tạo là hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện... do con người chế tạo phục
vụ đời sống.
Từ thập niên 1950 - 1960, một số nước phương tây bắt đầu quan tâm đến quan
hệ giữa vấn đề môi trường với phát triển kinh tế. Năm 1972, Liên hợp quốc tổ chức
Hội nghị môi trường con người ở Xtốckhom (Thụy Điển) và vấn đề an ninh môi
trường được đưa vào chương trình nghị sự. Đến đầu thập niên 1980, đưa ra khái niệm
“an ninh môi trường” và ngày càng được nâng tầm trong mối quan hệ với an ninh quốc
gia, là bộ phận của an ninh tổng hợp.
Có thể hiểu: An ninh môi trường là sự an toàn của trạng thái hệ thống môi
trường lành mạnh, đáp ứng điều kiện sống, sản xuất của con người, đảm bảo sự phát
triển của quốc gia.
Một hệ thống môi trường bị mất an ninh có thể do các nguyên nhân tự nhiên
(thiên tai), do hoạt động của con người (gây suy thoái môi trường, cạn kiệt tài
nguyên...) hoặc do phối hợp cả hai nguyên nhân trên. An ninh môi trường có đặc trưng
là các mối đe dọa tách biệt, cụ thể; đối tượng là “chính chúng ta”.
Suy thoái môi trường dẫn đến sự cố môi trường, thảm hoạ môi trường là một
quá trình diễn ra từ từ, có thể trong vài năm, hàng chục, hàng trăm hoặc hơn nữa. Các
mối đe dọa phi quân sự này thường ít được con người nhìn nhận rõ ràng và nếu như
không nhận ra thì điều nguy hại là đến một lúc nào đó khó có thể đảo ngược được tình
hình, ví như sự biến đổi khí hậu do ô nhiễm môi trường, thủng tầng ôzôn, mưa axít...
7.2.4.2. Các mối đe dọa an ninh ninh môi trường
Thiên tai là những biến đổi của thiên nhiên làm thiệt hại đến con người và sản
xuất. Nguyên nhân xảy ra thiên tai ở một mức độ nào đó còn do hoạt động của con
người gây nên hoặc do chính con người dẫn tới như: Chặt phá rừng gây ra hạn hán, lũ
lụt...
Khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên: Các tài nguyên không thể hồi đang
cạn dần. Theo ước tính của các chuyên gia Liên hợp quốc, giọt dầu cuối cùng của các
mỏ dầu đang hoạt động trên trái đất sẽ được hút lên vào năm 2045 đến 2050. Sau nguy
cơ về dầu mỏ, loài người đang và sẽ phải đối mặt với nguy cơ phổ biến là thiếu các
nguồn nước sạch cần thiết cho duy trì và phát triển đời sống kinh tế, xã hội của mình.
Nguy cơ này xuất phát từ các lý do: nước ngọt là nguồn tài nguyên có hạn và phân bố
không đều (chỉ có 2,53% tổng lượng nước trên trái đất là nước ngọt có thể dùng cho
sản xuất và sinh hoạt của con người); Sự ô nhiễm các nguồn nước đang có nguy cơ gia
tăng và nhu cầu tiêu dùng nước sạch cũng ngày càng tăng do sự gia tăng dân số và nhu
cầu phát triển kinh tế.
Các tài nguyên sinh học bị cạn kiệt và đa dạng sinh học bị suy giảm. Những
hoạt động gây ô nhiễm môi trường, thu hẹp, phá huỷ nơi sinh sống của các giống loài
và đặc biệt là sự khai thác, săn bắt quá mức có tính huỷ diệt (sử dụng mìn, xung điện,
chất độc...) làm cạn kiệt nguồn tài nguyên sinh học và diệt chung các loài, làm mất đi
nguồn tài nguyên quan trọng cho nhiều ngành công, nông nghiệp trong đó có ngành
dược phẩm (80% dược phẩm trong các nước đang phát triển và 40% dược phẩm trong
các nước phát triển có nguồn gốc thiên nhiên) đồng thời tạo ra sự mất cân bằng sinh
thái dẫn đến suy thoái môi trường nghiêm trọng.
Ô nhiễm đất, nước, không khí, sinh học do các hoạt động sản xuất công, nông,
lâm nghiệp, y tế, giao thông vận tải... và sinh hoạt của con người như: Thay đổi cân
bằng loài; tạo ra và sử dụng các sinh vật biến đổi gen (GMO); vũ khí sinh học, các sự
cố của con người... Năm 2010, sự cố nổ giàn khoan của hãng dầu khí BP, ngoài biển
Louisiana, Mỹ gây ra vụ tràn 5 triệu thùng dầu vào khu vực vịnh Mexico gây ảnh
hưởng đến 400 loài sinh vật sống tại vùng biển, phá huy hệ sinh thái.
Sự khan hiếm về tài nguyên thiên nhiên có thể gây tác động qua lại với các
nhân tố khác như chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá và trí tuệ gây ra tình trạng bất ổn
định, đặc biệt là ở những nước đang phát triển. Sự bất ổn định có liên quan đến vấn đề
môi trường ngày càng có nhiều khả năng diễn ra ở các quốc gia chiến lược then chốt
hoặc dẫn đến tình trạng khẩn cấp, phức tạp về nhân quyền đi kèm làn sóng di cư ồ ạt.
Một số tranh chấp nổi nên và đang có những diễn biến phức tạp như: Tranh chấp tài
nguyên dầu mỏ. Tháng 8/1990, Irắc cho quân đội xâm lược Côoét để giành nguồn tài
nguyên dầu mỏ. Quân đội của nhiều nước đứng đầu là Mỹ trong 42 ngày của chiến
tranh vùng Vịnh đã đánh đuổi được quân Irắc về nước. Trước khi rút lui, quân Irắc đã
phá huỷ hơn 700 giếng dầu của Côoét gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng làm khí
hậu ở Bắc bán cầu thay đổi. Mới đây, xung đột sắc tộc giữa các nhóm ở Nigieria mà
nguyên nhân là do tranh dành dầu mỏ; Tranh chấp tài nguyên nước ngọt. Hiện nay,
trên thế giới có trên 200 con sông chính, hơn 70% trong số đó là do 2 hay nhiều nước
cùng sử dụng. Sự khan hiếm tài nguyên nước ngọt có thể là tiềm tàng dẫn đến những
xung đột quốc tế. Cuộc chiến tranh Israel-Arập (1967) là hậu quả của những căng
thẳng ngày càng tăng giữa hai nước sau cuộc tranh chấp nguồn nước từ năm 1965-
1966. Phần lớn các cuộc tranh chấp về quyền sử dụng và chất lượng của các nguồn
nước đã được giải quyết thông qua con đường ngoại giao như các cuộc tranh chấp giữa
Hungari và Cộng hoà Slovak; Cameroon và Nigieria, Burkina Faso và Mali; Sudan, Ai
cập và Ethiopia: Thổ Nhĩ Kỳ và Irắc...
7.2.4.3. An ninh môi trường tại Việt Nam
Với chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, Việt Nam đã thu hút được nhiều dự
án đầu tư từ nước ngoài. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, chúng ta đã không dành
sự quan tâm đúng mức đến an ninh môi trường nên để lại nhiều hậu quá phức tạp về
môi trường.
Nạn khai thác tài nguyên khoáng sản trái phép, săn bắt, buôn bán, vận chuyển
trái phép động, thực vật hoang dã, quý hiếm, tàn phá rừng diễn ra ở nhiều địa phương.
Trong vòng 30 năm qua, xuất hiện 40 loại bệnh tật mới có nguồn gốc từ ô nhiễm môi
trường, nhiều dịch bệnh nguy hiểm như H5N1, SARS...
Trong sản xuất công nghiệp, ô nhiễm môi trường diễn ra nghiêm trọng với
khoảng 60% lượng nước thải hàng ngày từ các khu, cụm công nghiệp được xả thẳng ra
nguồn tiếp cận không qua xử lý như vụ sự cố môi trường tại 4 tỉnh miền Trung (Hà
Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế) do hành vi xả chất thải từ công ty
Formosa Hà Tĩnh đã ảnh hưởng trực tiếp đến hơn 100.000 người do không có việc làm
ổn định, thu nhập thấp và 176.285 người phụ thuộc, thiệt hại sản lượng hải sản khai
thác ven bờ và vùng lộng ước tính khoảng 1.600 tấn/tháng; diện tích nuôi tôm bị chết
hoàn toàn là 5,7 ha tương đương 9 triệu tôm giống và khoảng 7 tấn tôm thương phẩm
sắp đến kỳ thu hoạch; có trên 3.000 ha nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh đã thả
giống bị ô nhiễm nặng, hệ sinh thái biển ảnh hưởng nghiêm trọng.
Tình trạng nhập khẩu trái phép rác thải công nghiệp, chất thải nguy hại, phế liệu
chưa được làm sạch vào Việt Nam diễn biến phức tạp. Từ năm 2003 đến nay, lực
lượng chức năng Việt Nam đã phát hiện gần 3.000 container chứa hàng chục nghìn tấn
ắc quy chì phế thải và chất thải công nghiệp các loại nhập trái phép vào các cảng.
7.2.5. An ninh thông tin
7.2.5.1. Khái niệm an ninh thông tin
An ninh thông tin là sự an toàn, ổn định và phát triển các loại hình thông tin
trước các hoạt động truy nhập, sử dụng, tiết lộ, gián đoạn, sửa đổi và phá hoại nhằm
bảo đảm tính nguyên vẹn, bảo mật, kịp thời, khả dụng, chính xác.
Thông tin là một dạng tài sản quan trọng, được bảo vệ theo quy định của pháp
luật. Thông tin được thể hiện dưới nhiều hình thức: nói, viết, dưới dạng điện tử... có
ảnh hưởng đến đời sống xã hội, tác động đến nhận thức, tâm tư, tình cảm của con
người.
Thông tin chỉ có giá trị cao khi đảm bảo được đầy đủ các thuộc tính với nhiều
yêu cầu phức tạp đối với công tác quản lý, đặc biệt là đối với thông tin mạng do kỹ
thuật truyền nhận và xử lý thông tin ngày càng phát triển, mức độ rủi ro ngày càng lớn.
Quản lý an toàn và sự rủi ro được gắn chặt với quản lý chất lượng. Khi đánh giá độ an
toàn thông tin cần phải dựa trên phân tích các rủi ro, khả năng ứng phó, trình độ, năng
lực của các chủ thể... Các đánh giá cần hài hoà với đặc tính, cấu trúc hệ thống và quá
trình kiểm tra chất lượng.
7.2.5.2. Các mối đe dọa an ninh thông tin
Thời đại bùng nổ thông tin với nhiều loại hình thông tin qua Internet ra đời như:
Facebook, zalo, twiter, instagram... đã biến mỗi cá nhân trở thành những người cung
cấp tin cho đại chúng. Các nguồn tin đó chưa được kiểm duyệt nhưng lại có tốc độ lan
truyền nhanh, ảnh hưởng đến đời sống xã hội như tháng 4/2013 trên mạng xã hội
Twitter của hãng AP đăng tin “hai vụ nổ xảy ra ở Nhà Trắng và tổng thống Barack
Obama bị thương” đã lan truyền nhanh chóng, khiến Phố Wall mất khoảng 200 tỷ
USD trong vòng 3 phút. AP sau đó đã thông báo tài khoản bị đánh cắp và đính chính
lại thông tin.
Hiện nay, các đối tượng tội phạm tấn công mạng có xu hướng chuyển từ hành
động phá hoại, quấy rối sang tấn công nhằm vào các mục tiêu chứa đựng các thông tin
có giá trị. Theo cảnh sát hình sự quốc tế, có một số xu hướng mới sau: chuyển đổi mục
tiêu tấn công chủ yếu nhằm vào các hệ thống máy tính sử dụng hệ điều hành Windows
sang các hạng hệ nền tảng khác gồm cả điện thoại di động, máy tính bảng..., phát tán
và sử dụng phần mềm độc hại với các dạng chủ yếu là vi rút hay sâu máy tính để đánh
cắp dữ liệu... Thực tế cho thấy, các tập đoàn hàng đầu thế giới như: Sony, Honda,
Lockheed Martin... đã bị đánh cắp thông tin về sở hữu trí tuệ; CitiBank, Global
Payments... đã bị đánh cắp các tài khoản ngân hàng, tài chính... Theo thống kê của các
cơ quan an ninh mạng quốc tế, trong năm 2012, thiệt hại kinh tế cho tội phạm mạng
gây ra lên đến 388 tỷ USD.
7.2.5.3. An ninh thông tin tại Việt Nam
Tình trạng lộ, lọt thông tin bí mật nhà nước diễn ra ngày càng nghiêm trọng.
Một số cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước đã sử dụng máy tính có kết nối Internet để
soạn thảo và lưu giữ thông tin mật mà không có các biện pháp bảo vệ. Nhiều tài liệu
có độ mật cao về an ninh - quốc phòng đã bị lộ như các nghị quyết, kế hoạch, đề án,
dự án của khối cơ quan đảng, nhà nước, ban, ngành, chương trình làm việc của các
đồng chí lãnh đạo cấp cao...
Tình trạng tung tin giả trên các trang mạng xã hội diễn biến phức tạp. Riêng
năm 2016, bộ Thông tin và truyền thông đã xử phạt 4 trường hợp tung tin giả, tin đồn
thất thiệt. Nhiều vụ việc tung tin giả, tin đồn chỉ nhằm mục đích thu hút nhiều lượt
người theo dõi như Phạm Thị Mùi sử dụng Facebook tung tin đồn máy bay rơi tại Hà
Nội... Tuy nhiên, nhiều vụ việc diễn ra với mục đích gây mất ổn định về trật tự như
năm 2016, đối tượng Nguyễn Xuân Long (34 tuổi, thường trú tại Đồng Nai) cùng đồng
bọn đã tung tin Việt Nam sắp đổi tiền và kêu gọi mọi người ra ngân hàng rút tiền mua
vàng và đôla...
Các thế lực thù địch và đối tượng phản động gia tăng các hoạt động tuyên
truyền, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, tung tin, bịa đặt gây hoang mang dư
luận, kích động biểu tình, bạo loạn; đẩy mạnh các hoạt động tấn công vào cơ sở dữ
liệu của các cơ quan, tổ chức, tập đoàn kinh tế nhằm thu thập các thông tin, dữ liệu...
Ý thức bảo vệ thông tin của người dân còn thấp, dễ bị dụ dỗ, tin theo các thông
tin sai sự thật. Theo số liệu thống kê từ chương trình đánh giá an ninh mạng của Bkav
cho thấy, 63% người dùng thường xuyên độc được tin tức giả mạo trên Facebook và
trong đó có 40% là nạn nhân hàng ngày.
7.2.6. An ninh nguồn nước
7.2.6.1. Khái niệm an ninh nguồn nước
Nước là sinh mệnh toàn cầu, là tài nguyên chiến lược quan trọng gắn liền với sự
sinh tồn, phát triển và phồn vinh của xã hội loài người. Với sự khai thác quá độ và sử
dụng một cách lãng phí, thiếu hiệu quả đã làm cho nguồn tài nguyên nước ngày càng
bị thiếu hụt, với sự ô nhiễm tài nguyên nước ngày càng nghiêm trọng.
An ninh tài nguyên nước là sự cung ứng, quản lý và sử dụng bền vững tài
nguyên nước, phục vụ đời sống con người và sự phát triển của mỗi quốc gia cũng như
của tất cả các quốc gia trên thế giới.
Vấn đề an ninh tài nguyên nước không những trở thành vấn đề môi trường sinh
thái ngày càng quan trọng, mà còn ngày càng trở thành vấn đề có tính tổng hợp quyết
định sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, sự sinh tồn và phồn vinh của xã hội
loài người. Vì thế, giải quyết vấn đề phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo an ninh
nguồn nước là yêu cầu có tính bắt buộc cần nghiên cứu, đánh giá và xác lập các chiến
lược có tính tổng hợp cao.
7.2.6.2. Các mối đe dọa an ninh nguồn nước
Theo báo cáo của WB, có hơn 80 quốc gia đối mặt với khủng hoảng tài nguyên
nước, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Theo tính toán có khoảng 20 quốc gia bị liệt
vào quốc gia thiếu nước, chủ yếu tập trung ở khu vực Bắc Phi, Trung Đông và Nam
Sahara. Đặc biệt là 3 nước Djibouti, Côoét, Manta. Bên cạnh đó, 20% tầng nước ngầm
của trái đất đang cạn kiệt, đến năm 2050 nhu cầu nước của toàn thế giới tăng lên 55%
và 40%, dân cư trái đất sống trong tình trạng khan hiếm, căng thẳng về nguồn nước.
Ô nhiễm nước ngày càng mở rộng. Hiện nay, hơn 90% dòng sông ao hồ trên
toàn cầu dùng để thoát nước thải công nghiệp và nước thải của đời sống thành thị.
Hàng năm, nước ô nhiễm thải ra dòng sông lên tới 400 nghìn tỉ tấn làm cho hơn 5.500
tỉ tấn nước ngọt bị ô nhiễm, tương đương với 14% tổng lượng nước các dòng sông
chảy trên thế giới. Theo thống kê của WHO, hiện có khoảng 1 tỷ người không có nước
sạch để dùng, 80% bệnh tật do uống nước không sạch gây ra, làm chết hơn 10 triệu
người mỗi năm.
Nguyên nhân hình thành việc uy hiếp an ninh tài nguyên nước là phức tạp, cụ
thế: Lượng nước tiêu thụ tăng trưởng chưa từng thấy; Ô nhiễm công, nông nghiệp trầm
trọng; Hiện tượng lãng phí nước nghiêm trọng; khai thác quá độ gây ra thảm họa hạn
hán lũ lụt. Nông, công nghiệp và thành thị là “3 hộ” lớn dùng nước, nhưng rất lãng
phí, đặc biệt là nông nghiệp, nước để tưới tiêu ruộng đồng thường có % lượng nước đã
bị thẩm thấu hoặc đã bị bốc hơi trước khi đến ruộng đồng…
Thế kỷ XX, đại đa số các nước trên thế giới với những mức độ khác nhau đều
tồn tại hiện tượng khai thác quá độ tài nguyên thiên nhiên đặc biệt là chăn thả gia súc
và canh tác quá độ, chặt phá rừng tràn lan gây nên đất màu trôi đi thổ nhưỡng sa mạc
hóa. Chính là nạn chặt phá rừng thổ nhưỡng sa mạc hóa đã dẫn đến chuỗi sinh thái tự
nhiên bị phá hoại, thường gây ra tai họa tự nhiên như lụt lội hạn hán và lờ đất. Tình
hình hạn hán của đại lục Châu Phi nghiêm trọng, hiện tượng sa mạc hóa ngày càng đẩy
mạnh; khí hậu toàn cầu nóng lên hình thành hiệu ứng nhà kính. Do nhiệt độ không khí
tiếp tục tăng lên, thôi thúc tuần hoàn nước nhanh lên, khi nước từ đại dương tràn vào
lục địa bị khí hậu hanh khô của đại lục làm cho bay hơi, dẫn đến tài nguyên nước của
tầng nấc bề mặt trái đất ngày càng ít. Các nhà khoa học tính toán nhiệt độ bình quân
tăng lên thì vĩ độ ôn đới địa cầu lại xa thêm xích đạo, cũng có nghĩa là khu vực hạn
hán dần mở rộng hơn nữa.
7.2.6.3. An ninh nguồn nước tại Việt Nam
Việt Nam có hơn 2.360 con sông có chiều dài từ 10 km trở lên, 108 lưu vực
sống trong đó có 16 lưu vực sông với diện tích lưu vực lớn hơn 2.500km. Tổng lượng
nước mặt trung bình khoảng 830 tỷ/năm (nguồn nước dưới đất khoảng 63 tỷ/năm) và
tập trung chủ yếu trên một số lưu vực sông lớn. Tuy nhiên, khoảng 63% tổng dòng
chảy sông ngòi Việt Nam đến từ các nước láng giềng, riêng với khu vực sông Mê
Công, tỷ lệ này là 90% và lưu vực sông Hồng là hơn 50%. Từ đó, tạo sự bất lợi trong
chủ động ứng phó, giải quyết các mối đe dọa an ninh nguồn nước.
Việt Nam hiện đang nằm trong nhóm các quốc gia thiếu nước (lượng nước bình
quân đầu người hiện là 3.850 m/người/năm thấp hơn ngưỡng 4.000 m/người/năm do
Hội tài nguyên nước quốc tế quy định). Cùng với đó, nhu cầu về nước có xu hướng gia
tăng. Năm 1990, nhu cầu nước cho dân dụng và công nghiệp khoảng 50 tỷ, năm 2000
là 65 tỷ, năm 2010 là 72 tỷ. Dự kiến năm 2020 là 80 tỷ và đến năm 2030 là khoảng 87-
90 m. Tuy nhiên, theo dự báo, nguồn nước Việt Nam giảm cả về số lượng lẫn chất
lượng, đến năm 2025, giảm 40 tỷ, tổng lượng nước mùa khô giảm đi khoảng 13 tỷ,
37% lượng nước hàng năm phát sinh ngoài lãnh thổ sẽ trở nên phức tạp khi diễn ra các
tranh chấp nguồn nước.
Theo thống kê của dự án “Các cuộc chiến tranh thế giới” của Viện Thái Bình
Dương (Mỹ), có 225 cuộc chiến tranh xung đột liên quan đến tài nguyên nước, trong
đó châu Đại Dương có 3 cuộc, châu Mỹ Latinh có 9 cuộc, Bắc Mỹ có 31 cuộc, Châu
Phi có 36 cuộc, châu Âu có 40 cuộc, châu Á có 46 cuộc, Trung Đông với 60 cuộc. Nếu
phân kỳ theo lịch sử thì thế kỷ XX có 100 cuộc xung đột. Từ năm 2000 đến nay có 69
cuộc xung đột.
7.2.7. Vấn đề dân tộc
7.2.7.1. Các mối đe dọa từ vấn đề dân tộc
Ở các nước đang phát triển, hậu di chứng của sự thống trị thực dân, đế quốc, sự
can dự của chủ nghĩa bá quyền đương đại, sự tác động của toàn cầu hóa, sự mất cân
bằng trong phát triển xã hội đều có thể trở thành nguyên nhân nảy sinh các vấn đề dân
tộc.
Chủ nghĩa dân tộc là hệ tư tưởng với chính sách đề cao, bảo vệ lợi ích, đặc
trưng, truyền thống của dân tộc mình, tách rời hoặc đối lập với các dân tộc khác. Nói
cách khác, đó là hệ tư tưởng chính trị và biểu hiện tâm lý đòi quyền lợi, độc lập, tự chủ
và phát triển của cộng đồng quốc gia dân tộc.
Chủ nghĩa dân tộc mang tính 2 mặt: Trong phong trào giải phóng dân tộc chống
lại chủ nghĩa đế quốc, cường quyền, bá quyền, bảo vệ chủ quyền quốc gia nó có tác
dụng tích cực hiệu triệu nhân dân, kích thích tự tôn dân tộc, tăng cường sức ngưng tụ.
Nhưng khi quá nhấn mạnh, khuyếch trương sẽ xuất hiện khuynh hướng chủ nghĩa dân
tộc lớn, gây ra áp bức dân tộc, dẫn đến đối kháng dân tộc nảy sinh trong nước. Chủ
nghĩa dân tộc còn mang tính tiêu cực hẹp hòi, chỉ theo đuổi lợi ích dân tộc của mình và
có tính bài ngoại. Điều đó đã khiến cho một số những người theo chủ nghĩa dân tộc đi
đến cực đoan không để ý đến hiện thực khách quan hoặc lợi ích toàn dân, có những
hành vi cản trở sự phát triển quốc gia thậm chí hại đến an ninh quốc gia, nảy sinh chủ
nghĩa dân tộc cực đoan hoặc chủ nghĩa chia rẽ dân tộc. Vì thế trào lưu tư tưởng chủ
nghĩa dân tộc nếu dẫn dắt không thỏa đáng thì vấn đề dân tộc khó giải quyến có thể
dẫn đến bùng nổ nội chiến thậm chí chia rẽ quốc gia khiến cho an ninh quốc gia sụp đồ
toàn diện.
“Ly khai” dân tộc là hiện tượng từ một dân tộc, tộc người, hay một nhóm dân
tộc, tộc người tách ra thành nhiều bộ phận riêng rẽ hoặc tách ra thành lập nhà nước
riêng. Ly khai dân tộc có thể xuất hiện từ nhiều nguyên nhân như vấn đề lãnh thổ tộc
người, lợi ích văn hóa dân tộc.... Ly khai có thể là bước tiếp nối của tự trị dân tộc. “Tự
trị” dân tộc là hình thức giành cho một vùng, khu vực trong đó có một hay một nhóm
dân tộc, tộc người cư trú những quy chế riêng về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội...
Hiện nay, vấn đề “ly khai”, “tự trị” dân tộc là vấn đề phức tạp diễn ra phổ biến ở các
quốc gia đa dân tộc với nhiều cấp độ khác nhau như: Catalana ở Tây Ban Nha, Uyghur
tại Trung Quốc, Wales ở Vương quốc Anh...
Xung đột sắc tộc là hình thái phản ánh mâu thuẫn giữa các dân tộc (thường là
hai dân tộc), giữa một bên là dân tộc với bên kia là nhà nước hoặc giữa hai nhà nước
độc lập, có chủ quyền với nhau. Sự đấu tranh này thể hiện các bình diện khác nhau:
Xung đột giữa các tầng lớp, giai cấp trong nội bộ một dân tộc, xung đột giữa các dân
tộc trong một quốc gia đa dân tộc; hoặc là xung đột giữa các quốc gia với nhau. Cấp
độ của các xung đột dân tộc, sắc tộc rất đa dạng: Chiến tranh khu vực giữa các quốc
gia, ở cấp độ thấp đó là sự va chạm về sinh hoạt văn hóa, kinh tế - văn hóa giữa hai
dân tộc, giữa dân tộc với nhà nước hay ngay trong nội bộ một dân tộc. Xung đột sắc
tộc có thể dẫn đến chiến tranh, hình thành các quốc gia riêng biệt như: Nam Xudan,
Đông Timor...
7.2.7.2. Vấn đề dân tộc tại Việt Nam
Việt Nam là ngôi nhà chung của 54 dân tộc với nguồn gốc lịch sử khác nhau: có
dân tộc có nguồn gốc tại chỗ (dân tộc bản địa) như dân tộc Tày, dân tộc Mường, dân
tộc Thổ..., có dân tộc có nguồn gốc từ nơi khác đến như: dân tộc Thái, dân tộc Dao,
dân tộc Nùng... Các dân tộc Việt Nam chung sống hòa bình, đoàn kết, giúp đỡ lẫn
nhau trong quá trình phát triển.
Vấn đề dân tộc luôn bị các thế lực thù địch, đối tượng phản động lợi dụng nhằm
thực hiện các hoạt động chống phá cách mạng. Với chính sách “chia để trị”, thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ đẩy mạnh các hoạt động kích động, chia rẽ khối đoàn kết toàn
dân, tạo dựng các xứ, các vùng dân tộc tự trị giả hiệu, biến nhiều vùng dân tộc thiểu số
thành căn cứ phản cách mạng và lấy đó làm bàn đạp khống chế các khu vực xung
quanh, như thành lập “Xứ Tây Kỳ tự trị”, “Xứ Thái tự trị”, “Xử Nùng tự trị”, “Xứ
Mường tự trị”... Hiện nay, các thế lực thù địch, đối tượng phản động gia tăng các hoạt
động tuyên truyền các tư tưởng dân tộc hẹp hòi, ly khai, tự trị; kích động các hoạt
động bạo loạn, phá rối an ninh... phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đặc biệt, ở
Tây Nguyên đã xảy ra 2 vụ bạo loạn vào năm 2001 và năm 2004.
7.2.8. Vấn đề tôn giáo
7.2.8.1. Khái niệm vấn đề tôn giáo
Theo Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, tôn giáo được hiểu là niềm tin của
con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ,
giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức.
Trong đời sống xã hội, tôn giáo là một cộng đồng xã hội với các yếu tố: Hệ
thống giáo lí, giáo luật tôn giáo; lễ nghi tôn giáo; tổ chức tôn giáo; cơ sở vật chất phục
vụ cho hoạt động tôn giáo.
Tôn giáo là một loại ý thức xã hội ra đời, phát triển hàng ngàn năm và được lịch
sử loài người chứng minh là một vấn đề phức tạp, nhạy cảm và tiềm ẩn nhiều nguy cơ,
có khả năng lan rộng và tác động trên toàn thế giới.
7.2.8.2. Các mối đe dọa từ vấn đề tôn giáo
Hình thành chủ nghĩa tôn giáo cực đoan: Cuối thế kỷ XX, ở một số quốc gia
xuất hiện hiện tượng chủ nghĩa ly khai dân tộc phất ngọn cờ tôn giáo, lợi dụng chủ
nghĩa cực đoan tôn giáo mê hoặc quần chúng, áp dụng thủ đoạn khủng bố bạo lực,
thậm chí là đấu tranh quân sự hòng cưỡng bức ly khai, trực tiếp gây nguy hại đến chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Chủ nghĩa tôn giáo cực đoạn kích động các tín đồ
thực hiện các hành vi chống phá đặc biệt là các đối tượng cuồng đạo.
Một số thế lực với những mưu đồ chính trị đã lợi dụng tầm ảnh hưởng của tôn
giáo đối với công dân các nước sở tại, câu kết với thế lực cực đoan tôn giáo để nhằm
kích động tình cảm tôn giáo, cổ vũ chính trị và tôn giáo hợp nhất hòng lấy tôn giáo
thay thế chính trị, cướp đoạt quyền lực cao nhất của quốc gia.
Thúc đẩy khủng bố, kích động xung đột giáo phái, gây rối ren xã hội. Phần từ
cực đoan trải qua sự “tẩy não” tư tưởng chủ nghĩa cực đoan tôn giáo thường sẽ áp
dụng thủ đoạn tàn bạo hơn so với phần tử khủng bố thế tục, tiến hành hoạt động khủng
bố đẫm máu giết hại dân thường, phá hủy cơ sở vật chất, trở thành nguy cơ đe dọa đối
với an ninh quốc gia.
7.2.8.3. Vấn đề tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo và nhiều người tin theo các tôn giáo. Từ
ngàn xưa đến nay đã tồn tại nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo đa dạng và phong
phú: từ hình thức tôn giáo sơ khai đến hiện đại, từ tôn giáo phương Đông cổ đại đến
tôn giáo phương Tây cận đại, từ tôn giáo thế giới, khu vực đến tôn giáo dân tộc. Đến
thời điểm tháng 12/2020, có 16 tôn giáo được phép hoạt động trên lãnh thổ Việt
Nam, bao gồm: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, Phật giáo Hòa Hảo, Hồi
giáo, Tôn giáo Baha ’ I, Tịnh độ Cư sỹ Phật hội, Cơ đốc Phục lâm, Phật giáo Tứ ân
Hiếu nghĩa, Minh Sư đạo, Minh lý đạo - Tam Tông Miếu, Bà-la-môn giáo, Mặc
môn, Phật giáo Hiếu nghĩa tà lơn, Bữu Sơn Kỳ hương1.
Trong những năm gần đây, các tôn giáo đẩy mạnh hoạt động nhằm phát triển tổ
chức, phát huy ảnh hưởng trong đời sống tinh thần xã hội. Các giáo hội đều tăng
cường hoạt động mở rộng ảnh hưởng, thu hút tín đồ; tăng cường quan hệ với các tổ
chức tôn giáo thế giới. Các cơ sở tôn giáo được tu bổ, xây dựng mới khang trang đẹp
đẽ; các lễ hội tôn giáo diễn ra sôi động ở nhiều nơi.
Tuy nhiên tình hình tôn giáo còn có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những
nhân tố gây mất ổn định. Vẫn còn có chức sắc, tín đồ mang tư tưởng chống đối, cực
đoan, quá khích gây tổn hại đến lợi ích dân tộc; vẫn còn các hoạt động tôn giáo xen lẫn
với mê tín dị đoan, còn các hiện tượng tà giáo hoạt động làm mất trật tự an toàn xã hội.
Các thế lực thù địch, đối tượng phản động thường lợi dụng các vấn đề tôn giáo
để chống phá cách mạng Việt Nam như tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo Việt Nam
“không có tự do tôn giáo, đàn áp tôn giáo, vi phạm nhân quyền”, phát triển tôn giáo
trái phép, kích động các hoạt động biểu tình, phá rối an ninh, bạo loạn, đưa ra các yêu
sách... nhằm tách tôn giáo ra khỏi hoạt động quản lý của Nhà nước, biến tôn giáo trở
thành lực lượng đối trọng với Đảng và Nhà nước. Cùng với đó, các đối tượng đẩy
mạnh quốc tế hóa vấn đề tôn giáo, tạo cớ để nước ngoài can thiệp vào công việc nội
bộ.
7.2.9. Chủ nghĩa khủng bố
7.2.9.1. Khái niệm chủ nghĩa khủng bố
Chủ nghĩa khủng bố đương đại là một vấn đề của an ninh phi truyền thống, là
một mối đe dọa đến an ninh của các quốc gia trên toàn thế giới. Chủ nghĩa khủng bố là

1
Bộ Nội vụ, Danh mục các tổ chức tôn giáo, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo tính đến
tháng 12/2020 (Kèm theo Công văn số 6955/BNV-TGCP ngày 28/12/2020 của Bộ Nội vụ)
hệ tư tưởng tiêu cực, lấy phương thức bạo lực là phương thức chính trong đòi hỏi các
yêu sách, thỏa mãn các yêu cầu.
Chủ nghĩa khủng bố đương đại có một số đặc trưng sau:
- Tính chủ thể phi quốc gia. Cái khác biệt so với an ninh truyền thống của chủ
nghĩa khủng bố đối với an ninh quốc gia là không được cấu thành bởi quốc gia có chủ
quyền, mà là được tạo nên bởi chủ thể hành vi phi quốc gia bao gồm các tổ chức
khủng bố và các phần tử khủng bố.
Tính xuyên quốc gia. Một đặc điểm khác nữa của chủ nghĩa khủng bố đương
đại là tính xuyên quốc gia, tức là chủ nghĩa khủng bố quốc tế. Các phần từ khủng bố
quốc tế “lập kế hoạch ở một nơi, thực thi ở một nơi khác”. Với đặc điểm này, chủ
nghĩa khủng bố quốc tế không chỉ là vấn đề pháp luật của nội bộ một quốc gia, mà nó
còn chịu sự ràng buộc của hệ thống pháp luật quốc tế.
- Tính nguy hại. Tấn công chủ nghĩa khủng bố quốc tế đương đại không giống
như tác chiến truyền thống, và cũng khác với chiến tranh du kích, sự nguy hại của nó
không chỉ biểu hiện ở số người thương vong lớn, mà nghiêm trọng hơn là nó gây nên
một không khí khủng bố, làm cho môi trường an ninh trên toàn cầu bị xấu đi, tăng
thêm mâu thuẫn trong nước và quốc tế, ảnh hưởng nặng nề đến an ninh chính trị và sự
yên ổn thường ngày của đời sống con người, làm giảm đi tinh thần an ninh xã hội.
Các loại hình chủ nghĩa khủng bố đương đại bao gồm: Chủ nghĩa khủng bố
mang sắc thái tôn giáo; Chủ nghĩa khủng bố cực hữu; Chủ nghĩa khủng bố tả; Chủ
nghĩa khủng bố chia rẽ dân tộc; Chủ nghĩa khủng bố kiểu xã hội đen; Chủ nghĩa khủng
bố quốc gia.
7.2.9.2. Các mối đe dọa của chủ nghĩa khủng bố
Chủ nghĩa khủng bố được thể hiện thông qua các hoạt động khủng bố thể với
những hậu quả nghiêm trọng. Thông qua các kênh làm ăn phi pháp để vơ vết số lượng
tiền lớn, trực tiếp phá hoại nền kinh tế quốc gia; Gây thương vong lớn về người, thiệt
hại nguồn nhân lực; Tác động đến tâm lý con người khiến công dân mất niềm tin vào
chính phủ; truyền tải thông điệp của đối tượng khủng bố và gia tăng sự lan tràn của
chủ nghĩa khủng bố.
Theo thống kê từ năm 1975 đến 2015, trên toàn cầu xảy ra 24.774 vụ khủng bố,
làm thương vong hơn 300.000 người (trong đó 72.556 người chết, 231.320 người bị
thương). Riêng số tiền mà nước Mỹ bỏ ra cho đảm bảo an ninh sau sự kiện 11/9 là 100
tỷ USD.
Để tạo được mối liên hệ lẫn nhau giữa cá nhân và đoàn thể, các phần tử khủng
bố ra sức xây dựng “tư tưởng xuyên quốc gia” để khích lệ thực hiện các mục tiêu
khủng bố, lôi kéo thêm nhân lực. Tổ chức khủng bố quốc tế có sự phân bố theo mạng
lưới, giữa các cấp có mối liên hệ chặt chẽ và rộng khắp theo từng mắt xích, từng khâu
và từng bộ phận, sử dụng công nghệ thông tin, các trang mạng xã hội là công cụ quan
trọng để tán phát, khuếch trương tư tưởng...
7.2.9.3. Chủ nghĩa khủng bố tại Việt Nam
Với âm mưu lật đổ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý xã hội của Nhà nước, các
thế lực thù địch gia tăng các hoạt động kích động các hoạt động khủng bố, tạo bất ổn
trong đời sống xã hội. Các đối tượng phản động người Việt tăng cường các hoạt động
chống phá. Hiện nay, ở nước ngoài có trên 300 tổ chức phản động người Việt lưu
vong, trong đó có 30 tổ chức có thực lực, 12 tổ chức đã tiến hành xâm nhập đối tượng
về nước chống phá, 06 tổ chức từng có hoạt động phá hoại, khủng bố Việt Nam như
“Chính phủ Việt Nam tự do”, “Biệt đoàn sao trắng” của Nguyễn Hữu Chánh, “Việt
Tân”...
Trong thời gian tới, Việt Nam có nguy cơ là đối tượng bị khủng bố quốc tế tấn
công và trên lãnh thổ nước ta có mục tiêu tấn công (người Mỹ và các cơ quan đại diện
Mỹ), các tổ chức khủng bố ở các nước láng giềng bị truy quét nên chạy sang nước ta...
7.3. Một số giải pháp cơ bản để phòng ngừa, ứng phó với các mối đe dọa an
ninh phi truyền thống ở Việt Nam
7.3.1. Nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và của toàn dân về các
mối đe dọa an ninh phi truyền thống
- Đây là giải pháp có tính chiến lược, được Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh tại Đại
hội lần thứ XI “làm cho mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực tiếp đến
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, như: Chiến tranh bằng vũ khí công
nghệ cao, tranh chấp chủ quyền biển đảo, vùng trời, “diễn biến hòa bình”, bạo loạn
chính trị, khủng bố, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia...”.
- Nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống có nguồn gốc do chính con người tạo
ra một cách vô tình hoặc cố ý, rồi từ đó, các mối đe dọa tác động đến an ninh con
người, an ninh cộng đồng, an ninh quốc gia và rộng hơn là an ninh nhân loại. Vì vậy,
nâng cao nhận thức là nâng cao ý thức trách nhiệm đối với từng cá nhân và cộng đồng
xã hội thông qua các hành vi cụ thể trong đời sống hằng ngày, như tự ý thức trong bảo
vệ môi trường, tỉnh táo trước mặt trái của kinh tế thị trường và toàn cầu hóa, thông thái
trong sử dụng thành tựu khoa học công nghệ, tôn trọng các giá trị khác biệt và chia sẻ
lợi ích giữa các nhóm cộng đồng với mức sống khác nhau trong xã hội...
- Công tác nâng cao nhận thức có thể được tiến hành bằng nhiều cách thức khác
nhau như đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên cả báo nói, báo hình, báo viết và mạng
Internet; lồng ghép trong các chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
bảo vệ môi trường sinh thái..., răn đe thông qua các chế tài xử lý bằng pháp luật...
- Để làm tốt công tác nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và toàn dân
về các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp
sau:
+ Đưa các nội dung an ninh phi truyền thống vào chương trình giáo dục và áp
dụng linh hoạt, phù hợp với từng cấp học, ngành học trong hệ thống giáo dục quốc
dân.
+ Đẩy mạnh xây dựng và tổ chức triển khai các chương trình, dự án phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái... gắn với chương trình, chiến
dịch tuyên truyền về an ninh phi truyền thống, các nguy cơ đe dọa an ninh phi truyền
thống.
+ Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là các dự án luật có mức
phủ sóng cao trong đời sống xã hội.
7.3.2. Tăng cường tiềm lực quốc gia, xây dựng nền tảng kinh tế - xã hội vững
chắc, tập trung giải quyết các mâu thuẫn, xung đột xã hội
- Sức mạnh một quốc gia được xác định trên nền tảng an ninh tổng hợp với các
ưu thế trên từng lĩnh vực như kinh tế, quân sự, văn hóa, khoa học - kỹ thuật... trong đó
kinh tế là một trọng ưu thế hàng đầu.
- Để làm tốt công tác tăng cường tiềm lực, tạo nền tảng kinh tế - xã hội vững
chắc cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
+ Đảm bảo phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định
kinh tế vĩ mô, tạo môi trường và động lực cho phát triển kinh tế - xã hội.
+ Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng
cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh.
+ Phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; phòng, chống tham
nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
+ Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và bảo đảm quyền tự do, dân
chủ của người dân trong phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tuân thủ pháp luật.
+ Chủ động giải quyết các mâu thuẫn xã hội, xung đột xã hội, giảm thiểu chênh
lệch giàu nghèo...
7.3.3. Tăng cường công tác nghiên cứu, đánh giá tình hình, dự báo kịp thời
các mối đe dọa an ninh phi truyền thống
- Mặc dù, an ninh phi truyền thống đã được nhiều học giả trong và ngoài nước
nghiên cứu, tuy nhiên với sự biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới, khu vực và
trong nước, đòi hỏi công tác nghiên cứu, đánh giá, nhận diện và dự báo phải chủ động,
kịp thời, đảm bảo giải quyết tận gốc các nguyên nhân, ngăn chặn từ xa, từ sớm, từ lúc
mới phát sinh là chính.
- Để góp phần nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu tổng kết thực tiễn, nhận
diện và dự báo kịp thời các mối đe doạ an ninh phim truyền thống, cần tập trung:
+ Phân định và tổ chức nghiên cứu các dự án có tính chiến lược, các vấn đề nổi
cộm trong xã hội.
+ Xây dựng cơ chế, chính sách thu hút nhân tài trong và ngoài nước tham gia
nghiên cứu, dự báo, đề xuất giải pháp giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống.
+ Nâng cao chất lượng công tác giáo dục, đào tạo, tập huấn chuyên sâu đặc biệt
là đối với đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, dự báo.
+ Tăng cường công tác tổng kết lý luận, nghiên cứu khoa học trong các trường,
Học viện và các đơn vị công tác thực tiễn.
7.3.4. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong ứng phó
với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống
Mặc dù ứng phó các mối đe dọa an ninh phi truyền thống là trách nhiệm chung
của cả hệ thống chính trị và toàn dân nhưng phải được đặt dưới sự quản lý thống nhất
của nhà nước. Các cơ quan nhà nước căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ để kiểm tra và
xử lý những vấn đề liên quan đến an ninh phi truyền thống như xâm nhập mặn, dịch
bệnh, khủng bố, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia,...
Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả và đảm bảo sự thống nhất
quản lý nhà nước trong xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống cần tập trung giải
quyết các biện pháp sau:
- Tăng cường hoàn thiện hệ thống pháp luật, phân công, phân cấp rõ ràng trong
quản lý và xử lý các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
- Đẩy mạnh cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước theo hướng tinh gọn,
hiệu quả; điều chỉnh lại chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhiều đơn vị; tăng cường
công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị...
- Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực quản lý nhà
nước nhất là thủ tục hành chính liên quan đến người dân và doanh nghiệp.
- Nâng cao năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức và nhận thức của đội ngũ cán
bộ.
- Đảm bảo cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nghiên cứu và tổ chức triển khai các
kế hoạch phòng, chống các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.

7.3.5. Phát huy các nguồn lực xã hội, tăng cường hợp tác quốc tế trong ứng
phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống
Trong thời gian tới, để phát huy các nguồn lực xã hội, tăng cường hợp tác quốc
tế trong ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống cần tập trung tổ chức
đồng bộ các biện pháp sau:
- Xây dựng cơ chế, chính sách rộng mở huy động nguồn lực từ doanh nghiệp, tư
nhân, các tổ chức phi chính phủ vào quá trình ứng phó với các nguy cơ đe dọa an ninh
phi truyền thống.
- Khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân áp dụng các thành tựu khoa học kỹ
thuật nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
- Hợp tác đa phương trên lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật, biến đổi khí hậu
toàn cầu...
- Hợp tác quốc tế trong đấu tranh chống các loại tội phạm có tổ chức, tội phạm
xuyên quốc gia, khủng bố...
- Đối thoại với các quốc gia, tổ chức quốc tế về các vấn đề dân chủ, nhân
quyền.
- Chủ động giải quyết các tranh chấp, xung đột về chủ quyền biển đảo thông
qua đối thoại.

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN


1. Nêu đặc điểm chủ yếu và mối quan hệ giữa an ninh truyền thống và an ninh
phi truyền thống?
2. Làm rõ những nội dung của an ninh phi truyền thống?
3. Một số giải pháp cơ bản để phòng ngừa, ứng phó với các mối đe dọa an ninh
phi truyền thống ở Việt Nam hiện nay?

Chương 4
PHÒNG CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN
TOÀN GIAO THÔNG
4.1. Nhận thức chung về vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao
thông
4.1.1. Các khái niệm và nội dung cơ bản về vi phạm pháp luật về bảo đảm
trật trật tự an toàn giao thông
4.1.1.1. Các khái niệm cơ bản
- An toàn giao thông
An toàn giao thông (ATGT) là sự an toàn, thông suốt và không bị xâm hại đối
với người và phương tiện tham gia giao thông khi hoạt động trên các tuyến đường bộ,
đường sắt, đường thủy và đường hàng không.
An toàn giao thông phụ thuộc vào các yếu tố như: người tham gia giao thông,
phương tiện tham gia giao thông, kết cấu hạ tầng giao thông và môi trường.
Một trong những yếu tố này có sự bất bình thường đều có thể dẫn đến tai nạn
hoặc mất an toàn giao thông.
- Trật tự an toàn giao thông
Trật tự an toàn giao thông (TTATGT), bản chất của nó là trạng thái giao thông
công cộng ổn định, văn minh, không có sự cố đột xuất bất ngờ xảy ra đối với hoạt
động giao thông công cộng, được thiết lập và điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật
trong lĩnh vực giao thông vận tải (GTVT) công cộng mà mọi người tham gia giao
thông phải tuân theo, nhờ đó mà hoạt động giao thông được thông suốt, trật tự, an
toàn, hạn chế đến mức thấp nhất vi phạm, tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông, gây
thiệt hại về người và tài sản.
Quản lý TTATGT là sự tác động có hướng đích của chủ thể quản lý Nhà nước
về TTATGT trong đó Cảnh sát giao thông (CSGT) là lực lượng nòng cốt, dựa trên cơ
sở hệ thống pháp luật về Giao thông vận tải (GTVT) của nhà nước để điều chỉnh quá
trình hoạt động GTVT và hành vi hoạt động của người tham gia giao thông nhằm duy
trì ổn định và phát triển các yếu tố cấu thành hoạt động giao thông theo mục tiêu đã đề
ra.
- Khái niệm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
Pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông là một bộ phận của hệ thống
pháp luật hành chính Nhà nước, bao gồm hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ
chức, thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước,
tổ chức xã hội và công dân trên lĩnh vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông.
4.1.1.2. Vai trò và nội dung cơ bản của pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn
giao thông
- Vai trò của pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
+ Pháp luật về bảo đảm TTATGT là ý chí của Nhà nước để chỉ đạo và tổ chức
thực hiện bảo đảm TTATGT.
+ Pháp luật về bảo đảm TTATGT là cơ sở, công cụ pháp lý quan trọng để thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước về bảo đảm TTATGT.
- Nội dung cơ bản của pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
+ Các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước do Quốc hội ban hành có
liên quan đến bảo đảm TTATGT.
+ Các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan hành chính ở trung ương, địa
phương, các cơ quan liên ngành, liên bộ ban hành có liên quan đến bảo đảm TTATGT.
+ Các văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, ngành ban hành có liên quan
đến bảo đảm TTATGT.
Vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông có 2 dạng vi phạm: Vi
phạm hành chính và vi phạm hình sự (cấu thành các tội xâm phạm an toàn giao thông),
cụ thể như sau:
- Vi phạm hành chính xảy ra trong lĩnh bảo đảm trật tự, an toàn giao thông là
hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về bảo
đảm trật tự, an toàn giao thông mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp
luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
- Vi phạm hình sự xảy ra trong lĩnh bảo đảm trật tự, an toàn giao thông là hành
vi những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ Luật hình sự, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm vào những quy định của Nhà nước về an
toàn giao thông mà theo quy định của Bộ Luật hình sự phải bị xử lý hình sự.
4.1.1.3 Dấu hiệu vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
- Các dấu hiệu cơ bản của vi phạm hành chính xảy ra trong bảo đảm trật tự, an
toàn giao thông:
+ Tính nguy hiểm cho xã hội.
+ Tính trái pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông.
+ Tính có lỗi.
+ Vi phạm hành chính xảy ra trong bảo đảm trật tự, an toàn giao thông là hành vi
bị xử phạt hành chính.
- Các dấu hiệu pháp lý của tội phạm an toàn giao thông:
+ Khách thể của các tội phạm xâm phạm an toàn giao thông.
+ Chủ thể của các tội phạm xâm phạm an toàn giao thông.
+ Mặt khách quan của các tội phạm xâm phạm an toàn giao thông.
+ Mặt chủ quan của các tội phạm xâm phạm an toàn giao thông.
4.2. Nhận thức về phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an
toàn giao thông
4.2.1. Khái niệm phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn
giao thông.
4.2.1.1. Phòng ngừa vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông.
Là hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân bằng
nhiều hình thức, biện pháp hướng đến việc triệt tiêu các nguyên nhân, điều kiện của vi
phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông nhằm ngăn chặn, hạn chế làm
giảm và từng bước loại trừ vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông ra
khỏi đời sống xã hội.
4.2.1.2, Đấu tranh chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông.
Là hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào các
quy định của pháp luật, tiến hành tổng hợp các biện pháp theo quy định để chủ động
nắm tình hình, phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn
giao thông do cá nhân, tổ chức thực hiện, từ đó áp dụng các biện pháp xử lý tương ứng
với mức độ của các hành vi vi phạm đó, góp phần bảo đảm trật tự, an toàn giao thông.
4.2.2. Chủ thể và mối quan hệ phối hợp trong thực hiện phòng, chống vi
phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
- Đảng Cộng sản Việt Nam, chủ động và kịp thời ban hành chỉ thị, nghị quyết
sát, đúng, lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan tổ chức thực hiện nghiêm túc và triệt để các
chủ trương, biện pháp phòng chống vi phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT
- Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp chủ động, kịp thời ban hành các đạo
luật, nghị quyết, các văn bản pháp lý về phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm
TTATGT, làm cơ sở cho các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, mỗi công dân làm tốt
công tác phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT
- Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp cụ thể hóa chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, pháp luật của Nhà nước thành những văn bản pháp quy, hướng dẫn, tổ chức các
lực lượng phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT
- Các cơ quan bảo vệ pháp luật (Các cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án).
Nghiên cứu, phân tích tình trạng vi phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT, xác định chính
xác những nguyên nhân, điều kiện vi phạm, soạn thảo đề xuất các biện pháp phòng, chống
thích hợp
- Các tổ chức xã hội và tổ chức quần chúng tự quản phối hợp hỗ trợ chính
quyền, các cơ quan chuyên môn, tuyên truyền cho hội viên, trực tiếp huy động các hội
viên tham gia đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT
- Các cơ quan quản lý kinh tế, giao thông, văn hóa, giáo dục, dịch vụ, du lịch cụ
thể hóa chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về bảo đảm TTATGT vào
lĩnh vực hoạt động của mình và duy trì thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc.
- Các công dân thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ của công dân…Tích cực, chủ
động phát hiện mọi hoạt động vi phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT
4.2.3. Nội dung nhiệm vụ hoạt động phòng chống vi phạm pháp luật về bảo
đảm trật tự an toàn giao thông
4.2.3.1. Nghiên cứu xác định rõ các nguyên nhân, điều kiện của tình trạng vi
phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT.
Thứ nhất, do sự tác động tiêu cực của các yếu tố môi trường xã hội đối với
người tham gia giao thông.
Môi trường xã hội có ảnh hưởng nhất định đến tình trạng vi phạm hành chính
về TTATGT như: thói quen tùy tiện, cẩu thả, tự do của người tham gia giao thông, sự
xuống cấp của hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, nhận thức lạc hậu của một bộ phận
không nhỏ dân cư, nhất là dân cư sinh sống hai bên đường giao thông đường bộ ở các
khu đô thi.
Thứ hai, sự không tương thích giữa các yếu tố cơ bản cấu thành hoạt động giao
thông vận tải.
Hoạt động giao thông vận tải được cấu thành bởi ba yếu tố cơ bản là con người,
phương tiện và kết cấu hạ tầng giao thông vận tải (hệ thống đường, cầu, cống, công
trình giao thông…)
Những năm gần đây, lượng phương tiện giao thông cơ giới đường bộ tăng quá
nhanh, trong điều kiện kết cấu hạ tầng giao thông phát triển chưa đáp ứng được yêu
cầu của tình hình. Hiện nay kết cấu hạ tầng giao thông đã và đang được nâng cấp song
cơ bản mới chỉ tập trung cho các công trình quan trọng. Hành lang an toàn giao thông
đường bộ chưa được đảm bảo theo đúng quy định.
Thứ ba, do công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông còn bộc lộ
nhiều hạn chế, bất cập.
Hệ thống văn bản pháp luật nhà nước về đảm bảo TTATGT nhất là giao thông
đường bộ chậm được sửa đổi, thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất, nhiều nội dung đến nay
chưa thực sự phù hợp với thực tiễn công tác quản lý TTATGT gây khó khăn cho việc
tổ chức thực hiện của các lực lượng thực thi nhiệm vụ.
Việc phát hiện xử lý vi phạm về giao thông của các chủ thể có chức năng chính
trong phát hiện xử lý vi phạm về TTATGT chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.
Hoạt động quản lý TTATGT của các chủ thể này chưa thực sự phát huy hết vai trò của
mình.
4.2.3.2. Nghiên cứu, soạn thảo đề ra các chủ trương, giải pháp, biện pháp
nhằm từng bước không để tình trạng vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn
giao thông.
Tùy thuộc vào nguyên nhân điều kiện cụ thể của tình trạng vi phạm TTATGT ở
từng khu vực để soạn thảo đề xuất các biện pháp khắc phục tình trạng vi phạm về
TTATGT.
Nhà nước phải soạn thảo Luật Bảo đảm trật tự an toàn giao thông, nhất là vấn
đề bảo đảm TTATGT đường bộ. Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, sử
dụng đồng bộ các biện pháp để bảo đảm TTATGT.
Mỗi địa phương nhất là những địa phương nơi đô thị tùy thuộc vào tình hình
thực tế địa phương xây dựng chương trình biện pháp bảo đảm TTATGT cụ thể bảo
đảm thiết thực.
Mỗi công dân phải nhận thức rõ trách nhiệm nghĩa vụ của mình trong công tác
bảo đảm trật TTATGT.
Nhà nước, chính quyền các cấp phải thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở, chấn
chỉnh kịp thời những sai phạm đồng thời kiên quyết xử lý nghiêm những biểu hiện cố
tình sai phạm.
4.2.3.3. Tổ chức tiến hành các hoạt động không để xảy ra vi phạm pháp luật về
bảo đảm trật tự an toàn giao thông.
Các cấp các nghành, các tổ chức xã hội căn cứ vào chức năng nhiệm vụ cụ thể
của mình để có nội dung biện pháp cụ thể nhằm bảo đảm TTATGT.
Chính quyền các cấp triển khai đồng bộ các biện pháp nhằm khắc phục nguyên
nhân điều kiện của tình trạng gây mất TTATGT.
Từng hộ gia đình và mỗi cá nhân trực tiếp có những hoạt động thiết thực ý
nghĩa nhằm bảo đảm TTATGT trước hết là địa bàn mình sinh sống.
4.2.3.4. Tổ chức, tiến hành các hoạt động phát hiện, điều tra, xử lý vi phạm
pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông.
Các cơ quan chức năng có nhiệm vụ tiến hành phát hiện, xử lý nghiêm các
trường hợp vi phạm về bảo đảm TTATGT theo đúng quy định của pháp luật. Chủ
động phối kết hợp với chính quyền địa phương kịp thời nhắc nhở, chấn chỉnh những
biểu hiện vị phạm hành chính về bảo đảm TTATGT.
Tổ chức xử phạt hành chính và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm về bảo
đảm TTATGT, nhất là những trường hợp đã được nhắc nhở mà không có biểu hiện
sửa sai, tiến bộ hay cố tình vi phạm.
4.3. Mục tiêu, nhiệm vụ biện pháp phòng chống vi phạm pháp luật về bảo
đảm trật tự an toàn giao thông trong giai đoạn hiện nay
4.3.1. Mục tiêu, nhiệm vụ phòng chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự
an toàn giao thông
4.3.1.1. Tình hình trật tự an toàn giao thông ở nước ta hiện nay.
Trong những năm gần đây thực hiện công cuộc đổi mới, cùng với những thành
tựu to lớn toàn diện về kinh tế xã hội; tình hình giao thông vận tải và bảo đảm
TTATGT ở nước ta đã được cải thiện và có bước phát triển đáng kể:
Trước hết, công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển kết cấu
hạ tầng giao thông được tăng cường, đáp ứng tường bước yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội; phương tiện giao thông hiện đại hơn và ý thức pháp luật của người tham gia
giao thông dần được cải thiện nâng lên.
Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật tạo hành lang
pháp lý khá đầy đủ cho thực hiện ATGT như Luật Giao thông đường bộ (2001), Luật
Giao thông đường thủy nội địa (2005), Luật Đường sắt (2005), Luật Hàng không dân
dụng Việt Nam (2006) cùng với hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật khác về
giao thông vận tải được ban hành và đã đi vào thực tiễn góp phần quan trọng nâng cao
chất lượng đảm bảo TTATGT.
Trước khi hệ thống pháp luật về GTVT và TTATGT được xây dựng, tình hình
tai nan giao thông và vi phạm TTATGT ở Việt Nam rất nhức nhối, số vụ tai nạn giao
thông liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước. Trước tình hình đó, thực hiện đường
lối chủ trương của Đảng, Quốc hội đã ban hành Luật Giao thông đường bộ năm 2008,
được đánh giá là cải cách mạnh mẽ so với Luật năm 2001 và đã thu được nhiều kết
quả tích cực, những thành quả về ATGT, TTATGT là không thể phủ nhận của cả hệ
thống chính trị và toàn thể nhân dân. Tuy nhiên đi sâu vào phân tích còn nhiều vấn đề
cần phải nỗ lực và quyết tâm nhiều hơn nữa thì tình hình đảm bảo TTATGT mới đáp
ứng được kỳ vọng của nhân dân. Một số vấn đề cần quan tâm:
Một là, kết quả kiềm chế làm giảm tai nạn giao thông chưa vững chắc, xu
hướng chung là giảm dần số người chết, số vụ tai nạn, vụ tai nạn nghiêm trọng có
những năm có sự đột biến không theo quy luật này. Số người chết và bị thương do tai
nạn giao thông vẫn rất cao, còn tiềm ẩn nhiều nhân tố mất ổn định, nguy cơ gia tăng tai
nạn giao thông, nhất là những vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng.
Hai là, trong số nạn nhân tử vong vì tai nạn giao thông ở Việt Nam, đa số là lực
lượng đang trong độ tuổi lao động (75% nạn nhân tử vong vì tai nạn giao thông là
những người trẻ tuổi - học sinh, sinh viên, lao động chính của gia đình).
Ba là, các hành vi vi phạm về TTATGT vẫn diễn ra phổ biến, người tham gia
giao thông chưa thực sự tự giác, còn hiện tượng đối phó thậm chí chống đối người thi
hành công vụ.
Bốn là, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông còn nhiều hạn chế, bất cập, còn
nhiều manh mối, tình trạng làm đường đến đâu, xây nhà đến đó, xây nhà ven quốc lộ,
vi phạm hành lang an toàn giao thông đường bộ vẫn diễn ra gây ảnh hưởng lớn đến
việc đảm bảo TTATGT.
Năm là, Đảng, Nhà nước rất coi trọng vấn đề bảo đảm TTATGT với những
quyết tâm cao và nỗ lực lớn, nhưng thực tế công tác này chưa phát huy được hết sức
mạnh của toàn hệ thống chính trị và nhân dân. Một số cấp ủy, chính quyền, người
đứng đầu cơ quan, tổ chức chưa quan tâm đúng mức trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, huy
động sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong lĩnh vực này.
Thiệt hại do tai nạn giao thông đã và đang ảnh hưởng tiêu cực đến những thành
quả tăng trưởng kinh tế và gây tổn thương cho hình ảnh một đất nước Việt Nam hòa
bình, an toàn, thân thiện.
4.3.1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ và phương châm phòng chống vi phạm pháp luật về
bảo đảm trật tự an toàn giao thông.
- Mục tiêu: Phát triển bền vững các giải pháp và chính sách an toàn giao thông,
nhất là giao thông đường bộ đáp ứng các yêu cầu hiện tại và tương lai, giảm tai nạn
giao thông và ùn tắc giao thông đường bộ một cách bền vững, tiến tới xây dựng một xã
hội có giao thông an toàn, văn minh, hiện đại, thân thiện và bền vững, phát triển kết
cấu hạ tầng giao thông đường bộ đáp ứng nhu cầu giao thông vận tải và bảo đảm an
toàn giao thông.
- Nhiệm vụ và phương châm phòng chống vi phạm pháp luật về bảo đảm
TTATGT:
+ Một là, các bộ ngành tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách về
bảo đảm TTATGT, chống ùn tắc giao thông.
+ Hai là, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về
TTATGT, kiên trì xây dựng văn hóa giao thông an toàn và thân thiện môi trường cho
mọi tầng lớp nhân dân.
+ Ba là, nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo đảm TTATGT
và hiệu lực, hiệu quả tuần tra, kiểm soát xử lý vi phạm.
+ Bốn là, tiếp tục đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng công tác đầu tư
xây dựng, nâng cao hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông gắn với duy trì bảo đảm
ATGT và khai thác có hiệu quả các công trình hạ tầng hiện hữu và bảo vệ hành lang
ATGT.
+ Năm là, tiếp tục tập trung cải thiện chất lượng để nâng cao thị phần vận tải
thủy và vận tải ven biển để giảm lưu lượng vận tải hàng hóa bằng xe tải trên đường bộ.
+ Sáu là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong đối với công tác quản
lý, điều hành GTVT và bảo đảm TTATGT.
+ Bảy là, thực hiện đồng bộ các giải pháp, hạn chế sử dụng phương tiện cơ giới
cá nhân, kiểm soát chặt điều kiện về an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của các
phương tiện cơ giới, đặc biệt là trong các khu vực trung tâm đô thị.
+ Tám là, tiếp tục quản lý chặt chẽ công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch
xây dựng bảo đảm việc đầu tư, xây dựng mới hoặc điều chỉnh, sắp xếp các khu công
nghiệp, đô thị, các trung tâm thương mại, trường học, bệnh viện… trong các đô thị phù
hợp với năng lực kết cấu hạ tầng giao thông và vận tải công cộng.
4.3.2. Một số nội dung biện pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo
đảm trật tự, an toàn giao thông trong giai đoạn hiện nay
4.3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, hiệu lực, hiệu quả quản
lý Nhà nước của chính quyền đối với công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông
Đây là một nhiệm vụ chính trị thường xuyên của cả hệ thống chính trị, sự tham
gia tích cực của nhân dân. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về
TTATGT của các ngành chức năng và chính quyền các cấp; tăng cường việc kiểm tra,
đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện.
Phát huy vai trò của cơ quan chuyên trách về duy trì bảo đảm TTATGT trong
việc tham mưu, đề xuất cho cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp đề ra chủ trương, biện
pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông phù hợp
với điều kiện thực tế ở từng địa phương cụ thể.
4.3.2.2. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn
giao thông để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông cho người dân.
Đẩy mạnh phổ biến, giáo dục pháp luật về TTATGT với nhiều hình thức và nội
dung phù hợp, nâng cao trách nhiệm và tính tự giác chấp hành pháp luật về giao thông,
thực hiện nếp sống “văn hóa giao thông”, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp
giảng dạy pháp luật về TTATGT. Để pháp luật giao thông thực sự đi vào đời sống của
nhân dân và trở thành “văn hóa giao thông” thì cần tăng cường công tác tuyên truyền
Luật giao thông, nhất là Luật giao thông đường bộ cho người tham gia giao thông dưới
nhiều hình thức khác nhau. Vấn đề tuyên truyền cho các cá nhân, tổ chức nghiêm
chỉnh chấp hành các quy định về bảo đảm TTATGT có ý nghĩa hết sức quan trọng,
giúp giảm số vụ việc vi phạm hành chính về TTATGT.
Tổ chức phát động phong trào toàn dân tham gia phòng, chống vi phạm pháp
luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, gắn với vận động thực hiện phong trào
“Toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc”, đảm bảo huy động sức mạnh của cả hệ
thống chính trị, nhất là ở cơ sở tham gia phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm
trật tự, an toàn giao thông.
4.2.2.3. Rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực vi phạm về đảm bảo trật tự an toàn giao thông.
Hiện nay hệ thống pháp luật về giao thông và bảo đảm TTATGT đặc biệt là xử
phạt hành chính trong lĩnh vực này cơ bản đã được quan tâm đúng mức. Song để tăng
cường hiệu quả của xử phạt vi phạm hành chính góp phần đảm bảo TTATGT nhằm
thực hiện mục tiêu kiềm chế và giảm tai nạn giao thông trong quá trình thực hiện cần
điều chỉnh một số nội dung cho phù hợp như: Cần tăng cường cải cách hành chính
trong quá trình xử phạt của lực lượng cảnh sát giao thông; kiên quyết loại bỏ những
thủ tục không cần thiết trong quy trình xử phạt hành chính đồng thời xây dựng quy
trình xử phạt đơn giản,cụ thể,rõ ràng…; đổi mới phong cách làm việc của cán bộ,
chiến sỹ CSGT đồng thời ban hành và thực hiện có hiệu quả chế độ công tác, tiếp xúc
với nhân dân. Kiên quyết đấu tranh, lên án loại bỏ hành vi tiêu cực của cán bộ, chiến
sỹ CSGT khi làm công tác xử lý vi phạm hành chính về TTATGT.
4.2.2.4. Cần tăng cường quy chuẩn hóa đối với các chủ thể có chức năng xử
phạt vi phạm hành chính về đảm bảo trật tự an toàn giao thông.
Cùng với việc tổ chức bố trí lại lực lượng CSGT vấn đề ý nghĩa quyết định để
nâng cao hiệu quả công tác là phải xây dựng được tiêu chuẩn người CSGT có phẩm
chất đạo đước tốt, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ.
Hiện nay một bộ phận trong lực lượng CSGT, trong đó có lực lượng làm nhiệm
vụ xử phạt vi phạm hành chính về đảm bảo TTATGT chưa được quy chuẩn hóa (về
đạo đức nghề nghiệp, về hình thể, về năng lực, trình độ); việc điều động cán bộ có lúc
chưa thực sự hợp lý, làm ảnh hưởng tới chất lượng, hiệu quả công việc. Do đó, cần xây
dựng tiêu chuẩn CSGT làm nhiệm vụ xử phạt vi phạm hành chính về TTATGT đường
bộ, tiêu chuẩn này có thể lồng ghép với tiêu chuẩn của cán bộ chiến sĩ tuần tra kiểm
soát để làm tiêu chí đánh giá, rà soát, sắp xếp bổ sung cán bộ chiến sĩ.
4.2.2.5. Tập trung các nguồn lực xây dựng và phát triển đồng bộ kết cấu hạ
tầng giao thông, nâng cao năng lực vận tải, bảo đảm giao thông thông suốt, an toàn.
Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết hội nghị Trung ương 4 khóa XI,
về “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”. Hoàn chỉnh quy hoạch giao
thông và tổ chức thực hiện nghiêm túc quy hoạch đã được phê duyệt. Có cơ chế, chính
sách thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong nước, quốc tế đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng giao thông.
4.2.2.6. nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao
thông.
Tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hệ thống pháp luật; đẩy mạnh
cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực bảo đảm TTATGT. Xây dựng chiến lược
phát triển phương tiện giao thông phù hợp với phát triển kết cấu hạ tầng giao thông.
Tăng cường quản lý, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ trong hoạt động GTVT,
bảo đảm hợp lý, khoa học và phù hợp. Đổi mới tổ chức giao thông đường bộ bảo đảm
hợp lý, phù hợp với điều kiện kết cấu hạ tầng giao thông và an toàn thuận lợi cho hoạt
động GTVT.
4.2.3. Phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông trong nhà trường
4.2.3.1. Trách nhiệm của nhà trường.
Thực hiện đầy đủ chương trình giáo dục của nhà trường về công tác an toàn
giao thông và bảo đảm TTATGT, nhất là những vấn đề về ATGT đường bộ. Tuyên
truyền, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên trong chấp hành pháp luật khi
tham gia giao thông và các biện pháp bảo đảm TTATGT. Giáo dục cho sinh viên nêu
cao tính tự giác và nếp sống văn hóa khi tham gia giao thông.
Giáo dục cho sinh viên nhận thức rõ tác hại, hậu quả của việc vi phạm pháp luật
về giao thông, bảo đảm trật TTATGT; phối hợp với các cơ quan chức năng, lãnh đạo,
chỉ đạo các tổ chức đoàn, hội phụ nữ đồng thời phối kết hợp với lực lượng chức năng
ở cơ sở, chính quyền địa phương và gia đình nhắc nhở, uốn nắn sinh viên khi có những
biểu hiện vi phạm bảo đảm TTATGT.
Làm cho sinh viên hiểu rõ ý nghĩa của việc bảo đảm TTATGT. Tổ chức cho
sinh viên đăng ký cam kết chấp hành nghiêm các quy định và pháp luật về bảo đảm
TTATGT. Tổ chức các hoạt động thi tìm hiểu pháp luật, các văn bản của Đảng, Nhà
nước về bảo đảm TTATGT. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa văn hóa, văn nghệ, thể
thao kết hợp tuyên truyền xây dựng ý thức trách nhiệm chấp hành quy định và pháp
luật về bảo đảm TTATGT.
4.2.3.2. Trách nhiệm của sinh viên
- Nhận thức rõ hậu quả của việc vi phạm các quy định về bảo đảm TTATGT,
nêu cao ý thức trách nhiệm khi tham gia giao thông chấp hành nghiêm các quy định và
pháp luật về bảo đảm TTATGT. Xây dựng văn hóa tham gia giao thông văn minh,
nghiêm túc.
- Không có các hành vi và biểu hiện vi phạm các quy định và pháp luật về bảo
đảm trật tự an toàn giao thông; cam kết chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật
khi tham gia giao thông.
- Có thái độ học tập nghiêm túc, có lối sống lành mạnh, tích cực tham gia các
hoạt động của nhà trường, nhất là ác hoạt động xung kích, tình nguyện kiểm soát bảo
vệ ký túc xá, bảo vệ nhà trường.

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN


1. Làm rõ mục tiêu, nhiệm vụ phòng chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật
tự an toàn giao thông ?
2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn
giao thông hiện nay ?
3. Những biện pháp phòng chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn
giao thông đoạn hiện nay ?
Chương 5
PHÒNG CHỐNG MỘT SỐ LOẠI TỘI PHẠM XÂM HẠI DANH DỰ,
NHÂN PHẨM CỦA NGƯỜI KHÁC

5.1. Nhận thức về tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người
khác
5.1.1. Khái niệm về nhân phẩm và danh dự
5.1.1.1. Khái niệm về nhân phẩm:
Nhân phẩm là toàn bộ những phẩm chất mà mỗi con người có được. Nói cách
khác, nhân phẩm là giá trị làm người của mỗi con người.
Người có nhân phẩm là người có lương tâm, có nhu cầu vật chất và tinh thần
lành mạnh, luôn thực hiện tốt các nghĩa vụ đạo đức đối với xã hội và người khác, biết
tôn trọng các quy tắc, chuẩn mực đạo đức tiến bộ.
Người có nhân phẩm được xã hội đánh giá cao và được kính trọng. Người thiếu
nhân phẩm hoặc tự đánh mất nhân phẩm sẽ bị xã hội đánh giá thấp, bị coi thường và
khinh rẻ, bị tố cáo và lên án.
Trong cuộc sống, đa số mọi người đều ý thức quan tâm giữ gìn nhân phẩm của
mình nhưng vẫn có những kẻ coi thường nhân phẩm của chính mình, của người khác,
có suy nghĩ và hành vi đi ngược lại với lợi ích của cộng đồng.
Để trở thành người có nhân phẩm, con người cần phải có lương tâm trong sáng,
nhu cầu vật chất và tinh thần lành mạnh, thực hiện tốt nghĩa vụ đạo đức, thực hiện tốt
chuẩn mực đạo đức, tôn trọng nhân phẩm của chính mình cũng như của mọi người
xung quanh.
5.1.1.2. Khái niệm về danh dự
Danh dự là sự coi trọng, đánh giá cao của dư luận xã hội đối với một người dựa
trên các giá trị tinh thần, đạo đức của người đó.
Khi con người tạo ra được cho mình những giá trị tinh thần, đạo đức và những
giá trị đó được xã hội đánh giá, công nhận thì người đó có danh dự.
Danh dự có cơ sở từ những cống hiến thực tế của con người đối với xã hội, với
người khác. Là con người, ai cũng đóng góp ít nhiều cho cuộc sống, cho xã hội, do đó,
ai cũng có danh dự. Tuy nhiên, mỗi chúng ta phải luôn giữ gìn và bảo vệ danh dự của
mình và tôn trọng danh dự của người khác. Khi chúng ta biết giữ gìn danh dự của
mình, của các cá nhân có được một sức mạnh tinh thần để làm điều tốt, hướng chúng
ta đến điều thiện và tránh xa các điều xấu.
5.1.2. Dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con
người
5.1.2.1. Khách thể của các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người.
Khách thể của các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người được thể
hiện ngay trong tên gọi của Chương. Đó là, các tội phạm này xâm phạm đến quyền
được bảo hộ về nhân phẩm, danh dự của con người. Đối tượng tác động của các tội
phạm này là con người cụ thể. Theo đó, con người phải là một cơ thể còn sống và có
thời điểm tính từ khi sinh ra cho đến khi chết. Điều này để nhằm phân biệt các tội xâm
phạm nhân phẩm, danh dự của con người với một số tội phạm cũng có những hành vi
phạm tội tương tự nhưng tác động tới đối tượng không phải là con người (người đã
chết…). Điều này cho thấy, không thể coi một con người đang còn sống khi chưa lọt
lòng mẹ (còn ở trong bào thai) hoặc khi người đó đã chết.
Nhân phẩm được hiểu là phẩm chất, giá trị của một con người cụ thể và được
pháp luật bảo vệ. Nhân phẩm là tổng hợp những phẩm chất mang tính đặc trưng của
mỗi cá nhân, những yếu tố đặc trưng này tạo nên giá trị một con người.
Danh dự là sự coi trọng của dư luận xã hội, dựa trên giá trị tinh thần, đạo đức
tốt đẹp và là cái nhằm mang lại danh dự, nhằm tỏ rõ sự kính trọng của xã hội, của tập
thể.
Hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người là làm cho người đó bị
xúc phạm, bị coi thường, bị khinh rẻ trong gia đình, tập thể, trong nhân dân, trong xã
hội tùy thuộc vào vị thế, vai trò và nhiệm vụ, tuổi tác của người đó và mức độ của
hành vi phạm tội.
5.1.2.2. Mặt khách quan của các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con
người.
Mặt khách quan của các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người thể
hiện ở những hành vi nguy hiểm cho xã hội (hành động hoặc không hành động) xâm
phạm trực tiếp tới nhân phẩm, danh dự của con người. Trong Chương XIV của Bộ luật
hình sự, đa số các hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện bằng hành động phạm
tội như: sử dụng các công cụ, phương tiện khác nhau để gây nên sự tác động tới con
người cụ thể, gây ra những thiệt hại hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại cho con người
đó. Đối với hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người thường được thể
hiện bằng lời nói, cử chỉ, hành vi phát tán… xâm phạm tới uy tín, danh dự, nhân phẩm
của người khác…
Mặt khách quan của tội phạm còn thể hiện ở hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của các tội phạm này là những thiệt hại về thể chất như
gây tổn hại về tinh thần như xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự của con người. Phần
lớn các tội phạm thuộc Chương XIV Bộ luật hình sự đều có cấu thành vật chất, tức là
hậu quả là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm. Để truy cứu trách nhiệm hình sự về
các tội phạm này cần phải làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả do
hành vi đó gây ra.
5.1.2.3. Chủ thể của các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người.
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện. Tuy nhiên do phần Chung của Bộ luật hình sự quy định pháp
nhân thương mại chỉ có thể là chủ thể của một số tội phạm nhất định, trong đó không
có các tội phạm xâm phạm nhân phẩm, danh dự nên các tội phạm này chủ thể chỉ có
thể là cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt một độ tuổi nhất định. Tuy
nhiên, đối với một số tội phạm, thì ngoài dấu hiệu chung, chủ thể của tội phạm còn
cần có các dấu hiệu đặc biệt như: người đang thi hành công vụ trong Điều 137; người
có chức vụ, quyền hạn hoặc có quan hệ nhất định đối với người bị lệ thuộc (Điều 130,
Điều 140).
5.1.2.4. Mặt chủ quan của các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con
người phần lớn các tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.
Đối với một số tội, mục đích và động cơ phạm tội là dấu hiệu bắt buộc trong
cấu thành tội phạm. Ngoài ra, Bộ luật hình sự còn quy định động cơ hoặc mục đích
phạm tội là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tăng nặng ở một số cấu thành tăng nặng
như động cơ đê hèn (điểm c khoản 2 các điều 151, 152, 153 - các tội mua bán, đánh
tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em); để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo, để đưa ra nước
ngoài (điểm b khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 150 - tội mua bán người, điểm h, e khoản
2 các Điều 151, 152, 153 - các tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em) Đối với
các tội khác, động cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc.
5.1.3. Phân loại tội phạm xâm phạm danh dự nhân phẩm
5.1.3.1. Các tội xâm phạm tình dục:
Nhóm tội này gồm các tội sau: Tội hiếp dâm; tội cưỡng dâm; tội dâm ô với
người dưới 16 tuổi; tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích
khiêu dâm.
Theo Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) Việt Nam, các tội xâm
phạm tình dục bao gồm: Tội hiếp dâm (Điều 111); tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112); tội
cưỡng dâm (Điều 113); tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114); tội giao cấu với trẻ em (Điều
115); tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 116). Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) đã bổ sung và quy định rõ thêm một số tội danh xâm phạm tình dục, đặc biệt đối
với tội danh xâm phạm tình dục đối với trẻ em: Tội hiếp dâm (Điều 141); tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi (Điều 142); tội cưỡng dâm (Điều 143); tội cưỡng dâm người từ đủ
13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144); tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình
dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145); tội dâm ô đối với người
dưới 16 tuổi (Điều 146); tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm
(Điều 147).
5.1.3.2. Các tội mua bán người:
Nhóm tội này gồm: Tội mua bán người (chủ yếu là tội mua bán phụ nữ, trẻ em);
tội mua bán người dưới 16 tuổi; tội đánh tráo người dưới 1 tuổi; tội chiếm đoạt người
dưới 16 tuổi; tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người.
Thực tế hiện nay ở nước ta, lợi dụng nhu cầu của những bệnh nhân cần thay thế
mộ bộ phận cơ thể, trong xã hội đã xuất hiện những nhóm người môi giới, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người. Điển hình như ngày
31/01/2019 Cục Cảnh sát hình sự Bộ Công an triệt phá đường dây buôn bán nội tạng
người với quy mô xuyên quốc gia, bắt giữ 05 đối tượng do Tôn Nữ Thị Huyền cầm
đầu (chỉ tính từ tháng 5/2017 đến tháng 01/2019 các đối tượng chủ yếu hoạt động mua
bán thận, mỗi lần bán thận thành công các đối tượng thu số tiền giao động từ 15.000
đến 17.000 USD).
Theo Bộ luật hình sự 1999 (Sửa đổi, bổ sung 2009) Việt Nam, các tội mua bán
người gồm: Tội mua bán người (Điều 119); tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ
em (Điều 120). Đến Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã bổ sung và
quy định rõ thêm một số tội danh mua bán người, gồm: Tội mua bán người (Điều
150); tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151); tội đánh tráo người dưới 01 tuổi
(Điều 152); tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153); tội mua bán, chiếm đoạt mô
hoặc bộ phận cơ thể người (Điều 154).
5.1.3.3. Các tội làm nhục người khác:
Nhóm tội này gồm: Tội làm nhục ngươi khác; tội vu khống; tội hành hạ người
khác.
Theo Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) Việt Nam, các tội làm nhục
người khác gồm: Tội hành hạ người khác (Điều 110); tội làm nhục người khác (Điều
121); tội vu khống (Điều 122); đến Bộ luật hình sự 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017)
tiếp tục quy định các tội danh này tại Điều 140, Điều 155 và Điều 156.
5.1.3.4. Nhóm tội khác như: Tội lây truyền HIV cho người khác; tội cố ý truyền
HIV cho người khác; tội chống người thi hành công vụ.
Các hành vi phạm tội lây truyền HIV cho người khác và cố ý truyền HIV cho
người khác làm tổn thương đến sức khoẻ của người khác, bên cạnh đó, các hành vi
phạm tội này còn làm ảnh hưởng đến tinh thần của nạn nhân. Trên thực tế, nạn nhân
của những hành vi phạm tội này sẽ bị nhiễm HIV, vì thế họ mang tâm lý mặc cảm, lo
sợ người khác kỳ thị; khi bị cộng đồng, tập thể, gia đình phát hiện HIV, bản thân nạn
nhân khó chứng minh bản thân là nạn nhân của các hành vi phạm tội trên mà thường bị
quy chụp là “vi phạm các tệ nạn xã hội” (như quan hệ tình dục với người hành nghề
mại dâm hoặc sử dụng ma tuý). Chính những hệ luỵ của hành vi phạm tội này đã làm
cho nạn nhân ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự nhân phẩm của bản thân họ. Cùng
với đó, hành vi chống người thi hành công vụ không những xâm phạm đến hoạt động
quản lý xã hội nói chung và hoạt động quản lý hành chính nói riêng của cơ quan Nhà
nước và nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của cán bộ trực
tiếp thi hành nhiệm vụ. Do đó, tội lây truyền HIV cho người khác; tội cố ý truyền HIV
cho người khác và tội chống người thi hành công vụ vẫn được xếp vào nhóm các tội
xâm phạm danh dự nhân phẩm của con người.
Nhằm đáp ứng yêu cầu phòng ngừa tội phạm nói chung, trong đó bao gồm cả
tội xâm phạm danh dự nhân phẩm của con người, ngày 22/10/2010, Bộ Chính trị đã
ban hành Chỉ thị số 48-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tội phạm trong tình hình mới; ngày 31/12/2015, Chính phủ ban hành
Quyết định số 2546/QĐ-Tg về Phê duyệt chương trình phòng, chống mua bán người
giai đoạn 2016 - 2020 và ngày 14/4/2016, Chính phủ đã ban hành Quyết định số
623/QĐ-TTg về Phê duyệt chiến lược quốc gia phòng chống tội phạm giai đoạn 2016
- 2025 và định hướng đến năm 2030; ngày 24/10/2017, Chính phủ ban hành Chỉ thị
số 39/CT-TTg về tăng cường công tác phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm và vi
phạm pháp luật về chống người thi hành công vụ. Trong đó nêu rõ:
- Đối với chỉ thị 48-CT/TW: Trong thời gian tới, công tác phòng, chống tội
phạm phải kiềm chế, làm giảm các loại tội phạm, nhất là tội phạm nghiêm trọng, tội
phạm mới; tạo ra môi trường lành mạnh, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh
tế, xã hội, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc và bình yên của nhân dân.
- Đối với chương trình phòng, chống mua bán người giai đoạn 2016 - 2020:
Giảm nguy cơ mua bán người; giảm tội phạm mua bán người; thực hiện có hiệu quả
công tác tiếp nhận, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về.
5.1.4. Nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội danh dự, nhân phẩm
Để phòng ngừa có hiệu quả tội phạm đòi hỏi các cơ quan chức năng phải xác định
chính xác những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm xây dựng chiến lược phòng ngừa
phù hợp. Những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm hiện nay bao gồm:
- Sự tác động bởi những mặt trái của nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị
trường, bên cạnh những mặt ưu điểm cũng bộc lộ nhiều mặt trái trở thành những
nguyên nhân làm phát sinh tội phạm, đó là:
+ Hình thành lối sống hưởng thụ xa hoa, trụy lạc của một bộ phận người trong
xã hội.
+ Đã làm xuống cấp nhiều mặt về văn hoá, đạo đức, lối sống làm mất đi
truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc.
+ Đẩy mạnh tốc độ phân tầng xã hội, tạo ra sự phân hoá giàu nghèo sâu sắc, một
bộ phận giàu lên nhanh chóng trong đó có một số người làm giàu bất chính từ đó dẫn đến
phạm tội, mặt khác không ít người không có tư liệu sản xuất phải ra thành phố, thị xã làm
thuê kiếm sống bị tác động bởi những hiện tượng tiêu cực dễ dẫn đến phạm tội.
- Tác động trực tiếp, toàn diện của những hiện tượng xã hội tiêu cực do chế độ
cũ để lại:
+ Hậu quả của chế độ thực dân, đế quốc cùng với chiến tranh kéo dài trong
nhiều năm đã phá hoại cơ sở vật chất, hình thành lối sống hưởng thụ, tư tưởng tham
lam, ích kỉ, sa đọa truy lạc trong một bộ phận nhân dân.
+ Tư tưởng trọng nam, coi thường phụ nữ; những tác động tiêu cực, tàn dư của
chế độ xã hội cũ còn tồn tại lâu dài tác động vào đời sống xã hội làm nảy sinh các hiện
tượng tiêu cực trong đó có tội phạm.
- Sự thâm nhập ảnh hưởng của tội phạm, tệ nạn xã hội của các quốc gia khác.
- Những sơ hở, thiếu sót trong các mặt công tác quản lí của Nhà nước, các cấp,
các ngành bao gồm: Sơ hở thiếu sót trong quản lí con người, quản lí văn hoá, quản lí
nghề nghiệp kinh doanh...
- Những thiếu sót trong giáo dục đạo đức, lối sống, nâng cao trình độ văn hoá
của người dân.
- Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, việc thực thi pháp luật kém hiệu quả, một
số chính sách về kinh tế, xã hội chậm đổi mới tạo sơ hở cho tội phạm hoạt động phát
triển. Sự chậm đổi mới chủ trương chính sách về kinh tế xã hội và pháp luật đã bộc lộ
những sơ hở khiến cho một số đối tượng lợi dụng để hoạt động phạm tội.
- Công tác đấu tranh chống tội phạm của các cơ quan chức năng nói chung và của
ngành công an nói riêng còn bộc lộ nhiều yếu kém, thiếu sót; thể hiện trên các mặt:
+ Trình độ nghiệp vụ, pháp luật của một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu
thực tiễn dẫn đến hữu khuynh né tránh, thậm chí có một số cán bộ biến chất, tiếp tay
cho tội phạm, buông lỏng công tác đấu tranh trấn áp tội phạm.
+ Mối quan hệ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa thực sự đồng bộ, thiếu
thống nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, giáo dục, cải tạo phạm
nhân. Hoạt động trao đổi thông tin giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật còn chưa tốt.
+ Số vụ phát hiện, điều tra ít hơn so với thực tế tội phạm xảy ra, tội phạm ẩn
còn nhiều.
+ Hoạt động điều tra, xử lí tội phạm chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao, xử lí
chưa nghiêm minh.
+ Hệ thống tổ chức bộ máy, phân công chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan
bảo vệ pháp luật và trong nội bộ từng cơ quan chưa thực sự khoa học, hiệu quả vận
hành chưa cao.
- Công tác quản lí Nhà nước về an ninh trật tự còn bộc lộ nhiều sơ hở. Công tác
giáo dục cải tạo chưa xoá bỏ được tư tưởng phạm tội của các đối tượng, số đối tượng
phạm tội trở lại còn nhiều.
- Phong trào quần chúng tham gia đấu tranh chống tội phạm ở một số nơi chưa
thực sự mạnh mẽ, chưa hiệu quả. Chưa phát huy được sức mạnh của quần chúng trong
công tác giáo dục, cải tạo và tái hoà nhập cộng đồng cho người phạm tội.
5.2. Nhận thức về công tác phòng, chống tội phạm xâm phạm danh dự,
nhân phẩm của người khác
5.2.1. Khái niệm phòng chống tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm của
người khác
Phòng ngừa tội phạm là việc các cơ quan của Nhà nước, các tổ chức xã hội và
công dân bằng nhiều biện pháp nhằm khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của
tình trạng phạm tội nhằm ngăn chặn, hạn chế và làm giảm từng bước, tiến tới loại trừ
tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.
- Phòng ngừa tội phạm là phương hướng chính, là tư tưởng chỉ đạo trong công
tác đấu tranh phòng chống tội phạm, phòng ngừa không để tội phạm xảy ra.
- Phòng ngừa mang ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc, làm tốt công tác phòng
ngừa giúp giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của xã hội,
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, phẩm giá của mọi người dân.
- Làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm mang ý nghĩa kinh tế sâu sắc, tiết kiện
ngân sách Nhà nước, sức lao động của các nhân viên Nhà nước, của côrg dân trong các
hoạt động điều tra truy tố xét xử và giáo dục cải tạo người phạm tội, cũng như trong
việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến tội phạm.
Phòng chống tội phạm được tiến hành theo hai hướng cơ bản sau :
+ Hướng thứ nhất : Phát hiện, khắc phục, hạn chế và đi đến thủ tiêu các hiện
tượng xã hội tiêu cực là những nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội và
phạm tội cụ thể. Đây là hướng mang tính cơ bản, chiến lược và lâu dài.
+ Hướng thứ hai: Hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả, tác hại khi tội phạm xảy
ra. Đây cũng là một hướng quan trọng không thể xem nhẹ, bởi trong thực tế những
nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển tội phạm vẫn tồn tại, hoạt động phòng
ngừa tội phạm còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết nên tội phạm vẫn xảy ra. Hướng này đòi
hỏi các cơ quan chức năng phối hợp kịp thời phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội
phạm, cải tạo người phạm tội trở thành người công dân lương thiện.
- Phòng chống tội phạm mang tính đồng bộ, hệ thống và có sự phối kết hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các công dân.
Mục đích của công tác phòng ngừa tội phạm là khắc phục, thủ tiêu các nguyên
nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội nhằm ngăn chặn, hạn chế, làm giảm từng bước
tiến tới loại trừ tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội.
5.2.2. Chủ thể và nguyên tắc phối hợp trong phòng, chống tội phạm xâm
phạm danh dự, nhân phẩm của người khác
5.2.2.1. Chủ thể hoạt động phòng chống tội phạm
- Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp tiến hành phòng ngừa tội phạm trên
các phương diện sau:
Chủ động, kịp thời ban hành các đạo luật, nghị quyết, các văn bản pháp lí về
phòng chống tội phạm, từng bước hoàn thiện pháp luật, làm cơ sở cho các cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội, mỗi công dân làm tốt công tác phòng chống tội phạm.
Thành lập các uỷ ban, các tiểu ban giúp cho Quốc hội soạn thảo ban hành các
văn bản pháp luật có liên quan đến công tác đấu tranh chống tội phạm nói chung (Uỷ
ban sửa đổi Hiến pháp, Pháp luật, Uỷ ban Quốc phòng và An ninh Quốc hội).
Giám sát chặt chẽ việc tuân thủ pháp luật trong công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm của các cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội.
Hội đồng nhân dân địa phương ra các nghị quyết về phòng chống tội phạm ở
địa phương mình.
- Chính phủ và uỷ ban nhân dân các cấp. Chức năng chính của Chính phủ và Uỷ
ban nhân dân các cấp trong phòng chống tội phạm là quản lí, điều hành, phối hợp, đảm
bảo các điều kiện cần thiết, thế hiện:
Cụ thể hoá các chỉ thị, nghị quyết của Đảng thành những văn bản pháp quy
hướng dẫn, tổ chức các lực lượng phòng chống tội phạm.
Sử dụng các cơ quan chuyên trách của Chính phủ tiến hành hoạt động phòng
chống tội phạm: Công an, Viện kiểm sát, Toà án.
Phối hợp tiến hành đồng bộ hoạt động giữa các chủ thể khác nhau thuộc cấp
mình quản lí theo kế hoạch thống nhất.
Đảm bảo các điều kiện vật chất cho hoạt động phòng chống tội phạm: ngân
sách, phương tiện, điều kiện làm việc.
Tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ và phối hợp điều chỉnh hoạt động
phòng chống tội phạm đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Đề ra các biện pháp nhằm động viên, huy động sức mạnh của toàn xã hội tham
gia hoạt động phòng chống tội phạm: khen thưởng, nhân rộng các điển hình tiên tiến.
Các cơ quan quản lí kinh tế, văn hoá, giáo dục, dịch vụ, du lịch trong phạm vi
tổ chức hoạt động chuyên môn.
Phát hiện những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh phát triển tội phạm thuộc
lĩnh vực mình quản lí.
Đề ra những quy định thích hợp, tham mưu cho Nhà nước ban hành các chủ
trương, chính sách đúng đắn góp phần khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của
tội phạm.
Xây dựng và tổ chức thực hiện các phương án phòng ngừa tội phạm trong phạm
vi cơ quan có hiệu quả.
Phối hợp chặt chẽ với chính quyền các cấp, làm tốt công tác phòng chống trong
nội bộ, ngoài xã hội theo chương trình chung của Chính phủ.
- Các tổ chức xã hội, các tổ chức quần chúng tự quản.
Các tổ chức đoàn thể trên giữ vị trí vô cùng quan trọng trong công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm, cụ thể:
Phối hợp, hỗ trợ chính quyền địa phương, các cơ quan chuyên môn soạn thảo,
tham gia kế hoạch phòng ngừa tội phạm.
Tuyên truyền cho hội viên thấy được tính chất, thủ đoạn hoạt động của tội phạm
nâng cao ý thức cảnh giác.
Trực tiếp huy động các hội viên tham gia chương trình phòng chống tội phạm
của Chính phủ trong phạm vi địa phương, nội bộ hiệp hội của mình.
- Các cơ quan bảo vệ pháp luật: Công an, Viện kiểm sát, Toà án
Nghiên cứu, phân tích tình trạng phạm tội, xác định chính xác những nguyên
nhân, điều kiện của tội phạm, soạn thảo đề xuất các biện pháp phòng chống thích hợp.
Sử dụng các biện pháp luật định và các biện pháp nghiệp vụ chuyên môn theo
chức năng, trực tiếp tiến hành các hoạt động phòng ngừa tội phạm.
Đối với lực lượng công an phải trực tiếp tổ chức, triển khai các hoạt động
phòng ngừa tội phạm theo hai hướng: Tham gia phòng ngừa xã hội (phòng ngừa
chung) và trực tiếp tiến hành toàn diện hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ, điều tra tội
phạm.
Viện kiểm sát: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt động điều tra,
xét xử, thi hành án, giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân, giữ quyền công tố.
Toà án các cấp: Thông qua hoạt động xét xử các vụ án đảm bảo công minh,
đúng pháp luật; phát hiện những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm để Chính phủ,
các ngành, các cấp kịp thời có biện pháp ngăn chặn, loại trừ.
Bộ Tư pháp trực tiếp tham gia xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có
liên quan đến công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, khắc phục những sơ hở thiếu
sót là nguyên nhân, điều kiện của tội phạm.
Công dân có nghĩa vụ và quyền lợi trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự. Công
dân với tư cách là chủ thể trong phòng chống tội phạm phải quán triệt:
Thực hiện tốt các quyền, nghĩa vụ của công dân đã được quy định trong Hiến
pháp, tích cực tham gia hoạt động phòng ngừa tội phạm.
Tích cực, chủ động phát hiện mọi hoạt động của tội phạm và thông báo cho các
cơ quan chức năng.
Tham gia nhiệt tình vào công tác giáo dục, cảm hoá các đối tượng có liên quan
đến hoạt động phạm tội tại cộng đồng dân cư.
Phối hợp tham gia, giúp đỡ các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội thực hiện tốt
“Chiến lược quốc gia phòng chống tội phạm”. Thực hiện tốt các phong trào: “Toàn
dân tham gia phòng chống tội phạm, tố giác tội phạm, cảm hoá giáo dục người phạm
tội tại gia đình và cộng đồng dân cư”, làm tốt công tác tái hoà nhập cộng đồng cho
người phạm tội khi trở về địa phương.
Trực tiếp làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm ngay trong phạm vi gia đình
(quản lí, giáo dục các thành viên trong gia đình).
5.2.2.2. Nguyên tắc tổ chức hoạt động phòng chống tội phạm.
- Nguyên tắc pháp chế: Mọi hoạt động phòng ngừa tội phạm của các cơ quan
nhà nước, tổ chức, các công dân phải hợp hiến và hợp pháp.
- Nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa: mọi cơ quan tổ chức công dân đều có
thể tham gia hoạt động phòng ngừa tội phạm và nhà nước phải tạo mọi điều kiện cho
các chủ thể tham gia hoạt động phòng ngừa tội phạm được phát huy mọi nguồn lực
trong xã hội vào việc phòng ngừa tội phạm.
- Nguyên tắc nhân đạo trong phòng ngừa: các biện pháp phòng ngừa tội phạm
không được hạ thấp danh dự nhân phẩm con người mà phải nhằm khôi phục con người
và tạo điều kiện để con người phát triển.
- Nguyên tắc khoa học và tiến bộ trong phòng ngừa: các biện pháp phòng ngừa
tội phạm phải được xây dựng trên cơ sở khoa học, các thành tựu khoa học nhất định,
phải ứng dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ trong việc xây dựng các biện
pháp phòng ngừa tội phạm. Các biện pháp phòng ngừa tội phạm luôn phải đảm bảo
cho mọi người có cơ hội phát triển bình đẳng, không được phân biệt chủng tộc, tôn
giáo, giới tính, thái độ chính trị.
- Nguyên tắc phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể trong công tác phòng ngừa tội
phạm: mỗi chủ thể khi tham gia phòng ngừa tội phạm trong phạm vi và nhiệm vụ
phòng ngừa ở từng địa phương, từng ngành mà mình quản lý đồng thời có sự phối hợp
chặt chẽ với các chủ thể khác để có thể thực hiện một cách tốt nhất hoạt động phòng
ngừa tội phạm.
- Nguyên tắc cụ thể hóa trong phòng ngừa tội phạm: biện pháp phòng ngừa tội
phạm luôn được nhận thức rõ ràng, chứa đựng các giải pháp khả thi và phù hợp với
điều kiện đặc thù về phòng chống tội phạm ở mỗi địa phương mỗi ngành mỗi lĩnh vực.
5.2.3. Nội dung hoạt động phòng chống tội phạm xâm phạm danh dự, nhân
phẩm
- Tổ chức tiến hành các hoạt động phòng ngừa tội phạm:
+ Đổi mới và hoàn thiện thể chế, chính sách kinh tế, xã hội góp phần bảo đảm
an sinh xã hội, nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm
Gắn việc hoạch định, thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, xã hội với
công tác phòng, chống tội phạm, khắc phục sơ hở, thiếu sót mà tội phạm có thể lợi
dụng hoạt động. Đặc biệt trong quá trình hoạch định, thực hiện các chính sách kinh tế
như: Góp vốn, cho vay vốn đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, các dự án đầu tư
của nước ngoài, chính sách tái cơ cấu kinh tế, tái cơ cấu doanh nghiệp, cổ phần hóa
doanh nghiệp cần công khai, minh bạch, có giám sát chặt chẽ của cơ quan tài chính,
kiểm toán để tránh tình trạng tài sản nhà nước bị thất thoát; cần có cơ chế, chính sách
quản lý chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng thương mại; thị trường vốn; thị trường
chứng khoán, bất động sản; đổi mới các chính sách tạm nhập, tái xuất; chính sách về
thuế, chính sách quản lý đất đai... Nghiên cứu đổi mới các chính sách xã hội liên quan
đến phòng, chống tội phạm, như: Chính sách giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động,
chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách tôn giáo, chính sách dân tộc, chính sách
giáo dục, cảm hóa người lầm lỗi. Ban hành quy định việc thẩm định về bảo đảm yêu
cầu an ninh, trật tự đối với các dự án phát triển kinh tế, xã hội trọng điểm quốc gia.
Tăng cường công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh, nhất
là kiến thức về phòng, chống tội phạm cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân,
nhất là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy; coi trọng giáo dục đạo đức, pháp luật, văn hóa, lối
sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp, đưa chương trình
giáo dục phòng, chống tội phạm vào các nhà trường. Xây dựng môi trường giáo dục
lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội.
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tập trung nghiên cứu dự báo,
luật hóa kịp thời các hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện. Xây dựng, ban hành
kịp thời văn bản hướng dẫn thi hành sau khi các luật, bộ luật có hiệu lực.
Hoàn thiện chế độ, chính sách đặc thù đối với các cán bộ kiêm nhiệm và những
người không hưởng lương từ ngân sách nhà nước tham gia công tác phòng, chống tội
phạm.
+ Nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Đổi mới về nội dung, hình thức, biện pháp xây dựng phong trào toàn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc phù hợp và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự trong
từng thời kỳ; tập trung xây dựng và củng cố phong trào ở các địa bàn trọng điểm,
chiến lược, vùng dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo, vùng biên giới, biển đảo, khu công
nghiệp và các thành phố lớn; lồng ghép với các cuộc vận động, phong trào thi đua,
chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc, Ban, ngành, đoàn thể và địa phương, gắn kết thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ
sở, kịp thời phát hiện, giải quyết ngay tại cơ sở các vấn đề có liên quan đến lợi ích
chính đáng của người dân, hạn chế không để xảy ra “Điểm nóng” trong cộng đồng
dân cư, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ
quan bảo vệ pháp luật.
Thường xuyên cải tiến hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục nâng cao
nhận thức trách nhiệm của nhân dân về phòng, chống tội phạm: Kết hợp nhiều hình
thức tuyên truyền, vừa rộng rãi, vừa mở đợt tập trung, vừa tuyên truyền cá biệt, tuyên
truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng, các cuộc họp của tổ chức Đảng, cơ
quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị xã hội, đơn vị, trường học, tổ dân
phố, cụm dân cư. Chú trọng hình thức tuyên truyền, vận động cá biệt đối với các đối
tượng có nguy cơ phạm tội, tái phạm và tại các địa bàn trọng điểm về trật tự, an toàn
xã hội. Thành lập trang thông tin điện tử phong trào toàn dân bảo vệ an ninh, trật tự.
Đẩy mạnh công tác xây dựng mô hình, nhân điển hình tiên tiến trong phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; chú trọng phát triển và nâng cao chất lượng các
mô hình tổ chức quần chúng tự quản, tự phòng, tự bảo vệ, tự hòa giải về an ninh, trật
tự ngay từ gia đình, cộng đồng dân cư, trong từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và
nhà trường, thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, nhân rộng mô hình
có hiệu quả cao, nghiên cứu xây dựng những mô hình mới phù hợp với tình hình đặc
điểm từng địa bàn. Tổ chức cho nhân dân, cán bộ, công nhân viên, học sinh, sinh viên
ký cam kết xây dựng khu dân cư, xã, phường, cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường “An
toàn về an ninh, trật tự”. Kịp thời khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất
sắc trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, có chính sách thỏa đáng đối với
những trường hợp bị thương, hy sinh hoặc thiệt hại về tài sản khi tham gia phòng,
chống tội phạm.
Tăng cường nguồn lực cho công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc. Tiếp tục kiện toàn bộ máy tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
chuyên trách, bán chuyên trách, nhất là các lực lượng Công an xã, Dân quân tự vệ,
Bảo vệ dân phố, Bảo vệ chuyên trách các cơ quan, doanh nghiệp, phát huy vai trò Bí
thư chi bộ, Trưởng khu dân cư, Trưởng Ban công tác mặt trận và các đoàn thể ở cơ sở,
những người có uy tín trong dòng họ; dân tộc, tôn giáo, các vị chức sắc tiêu biểu, các
điển hình... làm chỗ dựa cho nhân dân trong phòng, chống tội phạm ở cơ sở; đầu tư
ngân sách, cơ sở vật chất và Điều kiện bảo đảm phục vụ công tác xây dựng phong trào.
+ Quản lý, giáo dục cải tạo và tái hòa nhập cộng đồng đối với người phạm tội,
vi phạm pháp luật và đối tượng có nguy cơ phạm tội.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giam giữ, quản lý, giáo dục cải tạo các
loại đối tượng; tập trung giáo dục cá biệt đối với số phạm nhân thường xuyên vi phạm
nội quy cơ sở giam giữ, giảm tỷ lệ phạm nhân cải tạo kém. Chủ động phát hiện và
chấn chỉnh kịp thời những sơ hở, thiếu sót trong công tác giam giữ, quản lý, giáo dục
cải tạo và thực hiện chế độ, chính sách đối với các loại đối tượng giam giữ, quản lý
không để phát sinh bức xúc, phản ứng tiêu cực, gây rối, chống đối tập thể, gây mất an
ninh, an toàn cơ sở giam giữ, quản lý.
Chủ động thực hiện các biện pháp giúp phạm nhân chuẩn bị tái hòa nhập ngay
trong quá trình chấp hành án, đồng thời thực hiện có hiệu quả các biện pháp bảo đảm
tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù. Tiếp tục đổi mới
công tác giáo dục dạy nghề, truyền nghề, tạo việc làm cho phạm nhân, trại viên, học
sinh. Tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ người được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành
án, người được tha tù trước thời hạn có điều kiện.
Lồng ghép công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án
phạt tù với các chương trình, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội và công
tác phòng, chống tội phạm ở từng địa phương. Cân đối, bố trí nguồn lực của Trung
ương và các địa phương, nguồn lực xã hội bảo đảm thực hiện có hiệu quả các biện
pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù.
Xác định trách nhiệm của cấp ủy Đảng, chính quyền, hiệu quả phối hợp của các
ngành, đoàn thể, tổ chức, cá nhân trong quản lý và giám sát thi hành các hình phạt
ngoài hình phạt tù, các đối tượng được áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn và các đối tượng có nguy cơ phạm tội trên địa bàn.
+ Tăng cường hiệu lực công tác quản lý nhà nước về trật tự xã hội, tập trung
quản lý nhà nước về cư trú, xuất cảnh, nhập cảnh, quản lý trong lĩnh vực công nghệ
thông tin, truyền thông, xuất bản... Đổi mới phương thức quản lý một số ngành nghề
kinh doanh có điều kiện không để tội phạm lợi dụng hoạt động, nhất là dịch vụ cầm
cố, thế chấp tài sản, vũ trường, quán bar, karaoke, game, bán hàng đa cấp.... Tăng
cường quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ. Đổi mới chính sách, biện pháp
quản lý và xử lý đối với các hoạt động tệ nạn xã hội (mại dâm, cờ bạc, nghiện ma túy).
+ Đẩy mạnh hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ.
Chấn chỉnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện các biện pháp công tác
nghiệp vụ, đổi mới phương pháp, nâng cao hiệu quả công tác nắm tình hình, thống kê
tội phạm, chủ động nắm diễn biến tình hình hoạt động của các loại tội phạm trên các
tuyến, địa bàn, lĩnh vực trọng điểm; chủ động rà soát, lập hồ sơ quản lý đối với các đối
tượng có dấu hiệu hoạt động phạm tội “đâm thuê, chém mướn”, “bảo kê”, “xiết
nợ”, đòi nợ thuê, cho vay lãi nặng, cưỡng đoạt tài sản, tổ chức trái phép các hoạt động
cờ bạc, cá độ thể thao, các hoạt động chuyển giá, sở hữu chéo, các hoạt động lợi dụng
kinh doanh để phạm tội; các đường dây buôn lậu, mua bán và vận chuyển trái phép các
chất ma túy lớn.
Kịp thời lập hồ sơ đưa đối tượng vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng và cơ
sở chữa bệnh bắt buộc; quản lý chặt chẽ những người bị áp dụng biện pháp giáo dục
tại cấp xã, người đang trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
Chú trọng bắt, vận động đầu thú đối tượng truy nã, tập trung số đối tượng nguy
hiểm, đặc biệt nguy hiểm. Xây dựng, nâng cao chất lượng các hoạt động tuần tra kiểm
soát kết hợp với các hoạt động nghiệp vụ chủ động phòng ngừa tội phạm trên các
tuyến giao thông, các địa bàn trọng điểm, địa bàn đô thị và giáp ranh.
Đẩy mạnh hoạt động phòng ngừa tội phạm theo chức năng, nhiệm vụ của các
lực lượng trong Quân đội, Hải quan, Kiểm lâm, Thanh tra, Quản lý thị trường…, kịp
thời phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm; phát hiện những thiếu sót, sơ
hở của chính sách, cơ chế quản lý nhà nước từ đó kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện. Phát huy vai trò của các lực lượng Cảnh sát Biển, Bộ đội Biên phòng, Hải quan,
Công an, An ninh Hàng không trong phối hợp tổ chức tuần tra, kiểm soát đường biên
giới trên đất liền, trên biển, đảo, đường Bưu điện, đường Hàng không.
- Tổ chức tiến hành các hoạt động phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm.
Xây dựng, triển khai các chương trình, kế hoạch chuyên đề đấu tranh với các
loại tội phạm nổi lên ở từng giai đoạn. Mở các đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm
bảo vệ an toàn các sự kiện chính trị, văn hóa của đất nước.
Thường xuyên rà soát xác định các địa bàn trọng điểm về trật tự, an toàn xã hội
để tập trung lực lượng chuyển hóa thành địa bàn không có tội phạm hoặc giảm tội
phạm đến mức thấp nhất.
Nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, kết hợp chặt
chẽ giữa hoạt động trinh sát và hoạt động điều tra tố tụng hình sự; không để lọt tội
phạm; không làm oan người vô tội; đảm bảo điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, kịp
thời những vụ án lớn, dư luận xã hội quan tâm; tăng cường xét xử lưu động để răn đe
tội phạm và tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân.
Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Cơ quan điều tra với Viện Kiểm sát,
cơ quan Thanh tra của Chính phủ, Thanh tra của các Bộ, ngành, cơ quan Thuế và
Kiểm toán. Tập trung phát hiện, điều tra xử lý các vụ án về kinh tế, chức vụ và tham
nhũng; kịp thời xác minh, truy tìm tài sản bị chiếm đoạt, nâng cao tỷ lệ thu hồi tiền, tài
sản bị chiếm đoạt.
Nghiên cứu xử lý, giải quyết thu hồi tài sản được thu giữ trong quá trình phát
hiện, điều tra, truy tố, xét xử có hiệu quả nhất, nhằm tránh hư hao, thất thoát, mất giá
trị khi thanh lý, đấu giá làm giảm thu cho ngân sách nhà nước.
5.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa các tội
phạm xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
5.3.1. Các biện pháp về kinh tế - xã hội
Biện pháp kinh tế - xã hội là biện căn bản, có ảnh hưởng rất lớn về mặt xã hội
nhằm hạn chế và loại trừ dần những nguyên nhân làm phát sinh tội xâm phạm danh dự
nhân phẩm của con người, cho nên để phòng ngừa tội xâm phạm danh dự nhân phẩm
của con người ở các địa phương trong thời gian tới cần phải tập trung vào những nội
dung sau:
- Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn các tỉnh.
- Nâng cao dân trí, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo và bất bình đẳng xã hội.
Các địa phương huy động, lồng ghép các nguồn lực xã hội để đẩy mạnh đầu tư ở vùng
dân tộc thiểu số và miền núi, vùng khó khăn, nhằm giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo; thực
hiện tốt chính sách an sinh xã hội, chế độ, chính sách với người có công, đối tượng bảo
trợ xã hội và hộ nghèo.
- Tăng cường mở các lớp đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn ở các địa phương, đặc biệt ưu tiến đối với đồng bào dân tộc thiểu số, người
dân ở vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, chính quyền các cấp cần có chính sách xoá mù
chữ cho phụ nữ, đồng bào dân tộc thiểu số, tạo cơ hội học tập cho trẻ em thông qua các
biện pháp miễn giảm học phí, hỗ trợ cơ sở vật chất; mở các lớp tình thương cho trẻ em
mồ côi, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Trong đó, đặc biệt chú trọng gắn kiến thức
văn hoá cho học sinh với giáo dục kỹ năng sống để trẻ em, phụ nữ tự bảo vệ mình
trước các nguy cơ bị xâm hại.
5.3.2. Các biện pháp về văn hoá - giáo dục
Trong thời gian qua, các vụ án xâm phạm danh dự nhân phẩm của con người
chủ yếu ở nhóm có trình độ dân trí còn thấp, trình độ học vấn còn thấp, có nhân thân
xấu hoặc có những đặc điểm đạo đức, tâm lý lệch chuẩn, cùng với, hủ tục của một số
đồng bào dân tộc thiểu trên địa bàn còn phổ biến (hủ tục này dẫn đến việc tảo hôn).
Ngoài ra, nhận thức của người dân (phụ huynh của nạn nhân hoặc bản thân nạn nhân)
về tội phạm nói chung và tội xâm phạm danh dự nhân phẩm của con người chưa đầy
đủ, có tâm lý e ngại, xấu hổ cho nên không dám tối giác tội phạm (đặc biệt tội xâm
phạm tình dục). Vì vậy, phòng ngừa tội xâm phạm danh dự nhân phẩm của con người
trong thời gian tới cần phải tập trung vào những nội dung sau:
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về tội phạm và
vi phạm pháp luật nói chung, tội phạm và vi phạm pháp luật về xâm phạm danh dự
nhân phẩm nói riêng trong cộng đồng dân cư, xác định đây là nhiệm vụ thường xuyên,
liên tục cần được triển khai sâu rộng với nhiều hình thức, đa dạng, phong phú, có nội
dung, hình thức phù hợp với từng đối tượng, vùng miền và địa phương.
- Đổi mới hình thức, nội dung, biện pháp tuyên truyền phù hợp với từng vùng,
miền, từng đối tượng, coi trọng các biện pháp truyền thống như: Truyền miệng, in ấn
tờ rơi, pa nô, áp phích, tranh ảnh biếm họa, nhất là tuyên truyền qua hệ thống loa
truyền thanh của các thôn, bản, khu phố...
- Các cơ quan thông tấn báo chí, phát thanh, truyền hình tập trung tuyên truyền
về giá trị đạo đức, truyền thống gia đình, xóm, làng, truyền thống của dân tộc; lên án
mạnh mẽ những người có hành vi phản văn hóa, vi phạm pháp luật; tuyên truyền về
quyền và nghĩa vụ của người dân trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày như: Giải
quyết tranh chấp mâu thuẫn về dân sự, kinh tế, đất đai, hôn nhân và gia đình...; Bộ luật
Hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Tổ chức cơ quan điều tra, Luật
thi hành tạm giữ, tạm giam, đặc biệt chú ý đến các điều luật quy định các tội xâm
phạm danh dự nhân phẩm.
- Tổ chức tuyên truyền sâu rộng, dưới nhiều hình thức (băng zôn, khẩu hiệu,
phát thanh, truyền hình, phóng sự, kịch, sân khấu hóa....) về phương thức, thủ đoạn
hoạt động và hậu quả tác hại cũng như tính nghiêm khắc của chế tài xử lý hình sự đối
với các loại tội phạm, nhất là tội phạm xâm phạm danh dự nhân phẩm để nhân dân
hiểu rõ và chủ động phòng ngừa, đấu tranh.
- Nâng cao kỹ năng của mọi tổ chức, công dân trong phát hiện, phòng ngừa, xử
lý đối với những biểu hiện, hành vi và hậu quả tác hại của tội phạm xâm phạm danh dự
nhân phẩm đối với mỗi cá nhân, gia đình và toàn xã hội.
- Đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hoá, nếp sống văn minh ở các
cộng đồng dân cư ở các địa phương; xoá bỏ những hủ tục của người dân, đặc biệt của
các đồng bào dân tộc thiểu số.
Đối với mỗi gia đình phải thực hiện tốt việc xây dựng gia đình văn hoá, thực
hiện nếp sống văn hoá văn mình là hành lang để bảo vệ hạnh phúc bền vững cho các
gia đình; các thành viên gia đình thường xuyên chăm sóc, quan tâm đến nhau, con
cháu vâng lời ông bà, cha mẹ; ông bà, cha mẹ chăm sóc, giáo dục con cháu mình về
đạo đức, lễ phép, tác phong, phẩm hạnh theo triết lý “tiên học lễ, hậu học văn”; kiểm
soát chặt chẽ để con cháu không sử dụng những sản phẩm văn hoá phẩm đồi truỵ,
khiêu dâm, v.v…
Đối với cộng đồng phải thường xuyên phát động phong trào “toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, xoá bỏ những phong tục, tập quán không
còn phù hợp; thực hiện tốt phong trào “quản lý, giáo dục, giúp đỡ những người lỗi lầm
tại cộng đồng, dân cư” và phong trào “quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc”; v.v…
- Tăng cường giáo dục của gia đình, nhà nước và xã hội.
Đối với mỗi gia định cần phải quan tâm và có chiến lược giáo dục con cháu
hiệu quả, tạo nên một gia đình có truyền thống, nền nếp gia phong để con cháu phấn
đấu để xứng đáng với truyền thống của gia đình. Giáo dục bằng cách cách nêu gương
của cha mẹ, anh chị trong gia định của như lối sống, ứng xử đúng mực của mình người
xung quanh để từ đó con cái học tập, noi theo; cha mẹ phải gương mẫu trong mọi lời
nói, hành động, tránh xa các vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật, tệ nạn xã hội, v.v...
Bên cạnh việc yêu thương, giáo dục thương yêu con cháu, các gia đình cũng phải
nghiêm khắc để giúp con cháu nhận ra những sai phạm và sửa chữa và không mắc phải
những sai phạm đó sau này.
Đối với nhà trường cần chú trọng đến giáo dục cả đạo đức lẫn kiến thức; lồng
ghép nội dung giáo dục giới tính, sức khoẻ sinh sản cho học sinh; giáo dục cho học
sinh (đặc biệt bé gái) biết cách phòng vệ và tránh những nguy cơ có thể dẫn đến các
hành vi xâm phạm tình dục và buôn bán người.
Đối với đoàn thể xã hội (Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân) tăng
cường các hình thức tuyên truyền, giáo dục để mọi người cảnh giác trước các hành vi
phạm tội xâm phạm danh dự nhân phẩm của con người. Trong đó, Đoàn thanh niên,
Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh tăng cường giáo dục hội viên và nhân
dân trên địa bàn, tình hình tội xâm phạm danh dự nhân phẩm của con người trên địa
bàn tỉnh; phổ biến những nội dung pháp luật liên quan đến tội xâm phạm danh dự nhân
phẩm của con người như Bộ luật Hình sự, để người dân nâng cao cảnh giác và từ đó
nhận thức rõ các hình thức, thủ đoạn của loại tội phạm này; Đoàn thanh niên tiếp tục
phát huy tốt tinh thần xung kích, tình nguyện; thông qua hình thức sân khấu hóa với
những tiểu phẩm về tuyên truyền phòng, chống tội phạm, trong đó đặc biệt tội xâm
phạm danh dự nhân phẩm của con người, từ đó nhằm nâng cao nhận thức của thanh
thiếu niên về các vấn đề pháp luật. Ngoài ra, trong bối cảnh phát triển khoa học, công
nghệ hiện nay, đặc biệt công nghệ thông tin, truyền thống, các đoàn thể nhân dân cần
tuyên truyền và hướng dẫn người dân những kỹ năng cần thiết khi sử dụng Internet,
Facebook, Mail, Twitter, Zalo, Instagram, v.v... để không mắc phải những sai sót đặc
biệt lộ thông tin cá nhân, để không bị đối tượng xấu lợi dụng, khống chế (đặc biệt liên
qua đến tội mua bán người và tội làm nhục người khác).
5.3.3. Trách nhiệm của nhà trường và sinh viên trong phòng chống tội phạm
xâm hại danh dự, nhân phẩm của người khác
5.3.3.1. Đối với nhà trường:
Thực hiện đầy đủ chương trình giáo dục trong nhà trường về phòng chống tệ
nạn xã hội; tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên trong phòng
chống các tệ nạn về tội phạm danh dự và nhân phẩm, phân định rõ mê tín dị đoan với
hoạt động tôn giáo, tự do tín ngưỡng của quần chúng nhân dân, giáo dục lối sông lành
mạnh, đấu tranh chống lối sống buông thả, lối sống truỵ lạc, sống gấp.
Xác định rõ hậu quả tác hại từng loại tệ nạn xã hội, nguyên nhân và con đường
lây lan, phối hợp các với các cơ quan chức năng, lãnh đạo chỉ đạo các tổ chức
Đoàn.Trong đấu tranh phòng tệ nạn xã hội, phối kết hợp với lực lượng công an cơ sở,
chính quyền địa phương và gia đình quản lý chặt chẽ sinh viên ngoại trú để chủ động
phát hiện các hành vi hoạt động ma tuý, mại dâm, cờ bạc, đồng bóng bói toán, … có
biện pháp ngăn chặn kịp thời.
Nắm chắc tình hình sinh viên có hành vi hoạt động tệ nạn xã hội, cung cấp cho
lực lượng bảo vệ, cơ quan công ann những tụ điểm, tổ chức, đường dây hoạt động tệ
nạn xã hội, phối hợp xử lý theo quy định của pháp luật. Phối hợp cùng quyền địa
phương, lực lượng bảo vệ văn hoá làm trong sạch địa bàn trường và khu vực xung
quanh.
Tổ chức cho sinh viên kí cam kết không tham gia các hoạt động tệ nạn xã hội,
xây dựng các nội quy, quy chế quản lý ký túc xá, xây dựng các tổ tự quản trong học
tập, rèn luyện, vui chơi. Tổ chức hoạt động thi tìm hiểu luật, pháp lệnh, các loại văn
bản của Đảng, Nhà nước về phòng chống tệ nạn xã hội, đặc biệt tệ nạn xâm hại về
danh dự, nhân phẩm đang có dấu hiệu tăng nhanh trong giới trẻ. Tổ chức hoạt động
văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao để thu hút sinh viên tham gia.
5.3.3.2. Đối với sinh viên:
Không xúc phạm nhân phẩm, danh dự, uy tín, xâm phạm thân thể đối với nhà
giáo, cán bộ quản lý, viên chức, người lao động và học sinh, sinh viên khác trong nhà
trường.
Không gian lận trong học tập, thi, kiểm tra và làm giả hồ sơ để hưởng các
chính sách đối với học sinh, sinh viên.
Không tự ý nghỉ học, nghỉ thực tập, thực hành khi chưa được sự đồng ý của
nhà trường.
Cấm sản xuất, mua bán, vận chuyển, phát tán, sử dụng, tàng trữ hoặc lôi kéo
người khác sử dụng vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, ma túy, chất gây nghiện và
các loại chất cấm khác, các tài liệu, ấn phẩm có nội dung chứa thông tin phản động,
đồi trụy đi ngược với truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc và các tài liệu cấm khác
theo quy định của Nhà nước, tổ chức, tham gia hoạt động, truyền bá mê tín dị đoan và
các hành vi vi phạm khác trong nhà trường.
Không đăng tải, bình luận, chia sẻ các bài viết, hình ảnh có nội dung dung tục,
đồi trụy, bạo lực, phản động, xâm phạm an ninh quốc gia, chống phá Đảng và Nhà
nước, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá
nhân trên mạng Intenet.

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN


1. Nêu khái niệm về danh dự, nhân phẩm và mối quan hệ giữa danh dự và nhân
phẩm?
2. Phân tích nội dung công tác phòng chống tội phạm danh dự, nhân phẩm của
người khác?
3. Nêu một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa các tội
phạm về danh dự, nhân phẩm?
Chương 2
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO VÀ ĐẤU
TRANH PHÒNG CHỐNG CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ
DÂN TỘC TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM

2.1. Một số vấn đề cơ bản về dân tộc


2.1.1. Một số vấn đề chung về dân tộc
2.1.1.1. Khái niệm:
Dân tộc là cộng đồng người ổn định, hình thành trong lịch sử, tạo lập một quốc
gia, trên cơ sở cộng đồng bền vững về: lãnh thổ quốc gia, kinh tế, ngôn ngữ, truyền
thống, văn hóa, đặc điểm tâm lý, ý thức về dân tộc và tên gọi của dân tộc 1. Khái niệm
được hiểu:
- Các thành viên cùng dân tộc sử dụng một ngôn ngữ chung (tiếng mẹ đẻ) để
giao tiếp nội bộ dân tộc. Các thành viên cùng chung những đặc điểm sinh hoạt văn hóa
vật chất, văn hóa tinh thần, tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc.
- Dân tộc được hiểu theo nghĩa cộng đồng quốc gia dân tộc, là một cộng đồng
chính trị - xã hội, được quản lý, điều hành bởi một Nhà nước, thiết lập trên một lãnh
thổ chung như: dân tộc Việt Nam, dân tộc Trung Hoa…
2.1.1.2. Tình hình quan hệ dân tộc trên thế giới:
Hiện nay trước sự tác động của cách mạng khoa học công nghệ, xu thế toàn cầu
hóa kinh tế diễn ra mạnh mẽ, làm cho quan hệ giai cấp, dân tộc diễn biến phức tạp,
khó lường. Như Đảng ta đã nhận định: Trên thế giới hòa bình, hợp tác phát triển vẫn là
xu thế lớn trong quan hệ giữa các dân tộc, toàn cầu hóa và các vấn đề toàn cầu làm cho
sự hiểu biết lẫn nhau và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các dân tộc tăng lên, thúc đẩy xu
thế khu vực hóa. Đồng thời các dân tộc đề cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực tự cường,
chống can thiệp, áp đặt và cường quyền.
Mặt khác, quan hệ dân tộc, sắc tộc hiện nay trên thế giới vẫn diễn ra hết sức
phức tạp, nóng bỏng ở cả phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế mâu thuẫn xung đột
dân tộc, sắc tộc, xu hướng li khai, chia rẽ dân tộc, đang diễn ra ở khắp các quốc gia,
các khu vực, các châu lục trên thế giới…, đúng như Đảng ta nhận định:
Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo,
chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, li khai, hoạt động khủng bố, những
tranh chấp biên giới lãnh thổ, biển đảo và các tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở
nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Vấn đề quan hệ dân tộc, sắc tộc đó gây
nên những hậu quả nặng nề về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường cho các
quốc gia đe dọa hòa bình an ninh khu vực và thế giới.
2.1.1.3. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và
giải quyết vấn đề dân tộc.
- Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc.

1
Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự - Bộ Quốc phòng (2005), Từ điển Bách khoa quân sự Việt nam, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội tr.300.
+ Vấn đề dân tộc là những nội dung nảy sinh trong quan hệ giữa các dân tộc
diễn ra trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội tác động xấu đến mỗi dân tộc và quan hệ
giữa các dân tộc, các quốc gia dân tộc với nhau cần phải giải quyết.
Thực chất của vấn đề dân tộc là sự va chạm, mâu thuẫn lợi ích giữa các dân tộc
trong quốc gia đa dân tộc và giữa các quốc gia dân tộc với nhau trong quan hệ quốc tế
diễn ra trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Bởi do dân số và trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc không đều
nhau, do sự khác biệt về lợi ích, do sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa, tâm lý, do tàn
dư tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, tự ti dân tộc, do thiếu sút, hạn chế trong
hoạch định, thực thi chính sách kinh tế - xã hội của nhà nước cầm quyền; do sự thống
trị, kích động chia rẽ của các thế lực phản động đối với các dân tộc.
Vấn đề dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề
dân tộc gắn kết chặt chẽ với vấn đề giai cấp. Giải quyết vấn đề dân tộc vừa là mục tiêu
vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm của V.I.Lênin.
Đó là các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên
hiệp giai cấp công nhân tất cả các dân tộc.
Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng là các dân tộc không phân biệt lớn, nhỏ, trình
độ phát triển cao hay thấp, đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trên mọi lĩnh vực
trong quan hệ giữa các dân tộc trong quốc gia đa dân tộc và giữa các quốc gia dân tộc
với nhau trong quan hệ quốc tế; xóa bỏ mọi hình thức áp bức, bóc lột dân tộc. Quyền
bình đẳng dân tộc phải được pháp luật hóa và thực hiện trên thực tế. Đây là quyền
thiêng liêng, là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết, xây dựng quan hệ hữu nghị
hợp tác giữa các dân tộc.
Các dân tộc được quyền tự quyết là quyền làm chủ vận mệnh của mỗi dân tộc:
quyền tự quyết định chế độ chính trị, con đường phát triển của dân tộc mình, bao gồm
cả quyền tự do phân lập thành quốc gia riêng và quyền tự nguyện liên hiệp với các dân
tộc khác trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện, phù hợp với lợi ích chính đáng của các dân
tộc. Kiên quyết đấu tranh chống việc lợi dụng quyền tự quyết để can thiệp, chia rẽ, phá
hoại khối đoàn kết dân tộc.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là sự đoàn kết công nhân các dân tộc
trong phạm vi quốc gia và quốc tế và cả sự đoàn kết quốc tế của các dân tộc, các lực
lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân để giải quyết tốt vấn đề dân
tộc, giai cấp, quốc tế. Đây là nội dung vừa phản ánh bản chất quốc tế của giai cấp công
nhân, vừa phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai
cấp, đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh và khả năng để giành thắng lợi.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc.
Trung thành với quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lênin, bám sát thực tiễn cách
mạng, đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có quan điểm dân
tộc đúng đắn, góp phần cùng toàn Đảng, lãnh đạo nhân dân ta giải phóng dân tộc, xây
dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế của dân tộc Việt Nam. Tư
tưởng về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh về nội dung toàn diện,
phong phú, sâu sắc, khoa học và cách mạng đó là những luận điểm cơ bản chỉ đạo,
lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ độc lập
dân tộc, xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt
Nam và giữa dân tộc Việt Nam với các quốc gia dân tộc trên thế giới.
Khi Tổ quốc bị thực dân Pháp xâm lược, đô hộ, Hồ Chí Minh đã tìm ra con
đường cứu nước, cùng Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo nhân dân đấu tranh
giải phóng dân tộc, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Khi Tổ quốc được độc lập, tự do, Người đã cùng toàn Đảng lãnh đạo nhân dân
xây dựng mối quan hệ mới, tốt đẹp giữa các dân tộc: bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp đỡ nhau cùng phát triển đi lên con đường ấm no, hạnh phúc. Người rất quan tâm
chăm sóc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Khắc phục tàn dư tư tưởng phân biệt, kỳ thị dân tộc, tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp
hòi. Người quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc, lên án, vạch trần
mọi âm mưu thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết
của dân tộc Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán,
Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu
Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau,
no đói giúp nhau. Nhờ sức đoàn kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt
Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng các dân tộc
Việt Nam, tất cả đều như anh chị em trong một nhà, không còn có sự phân chia nòi
giống, tiếng nói gì nữa. Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ
để giữ lấy nền độc lập càng cần đoàn kết hơn nữa1.
2.1.2. Đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam và quan điểm, chính sách dân tộc
của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
Dân tộc Việt Nam gồm 54 dân tộc anh em đoàn kết thủy chung, do vị trí địa lý
nước ta giao lưu hết sức thuận lợi về đường không, đường thủ, đường bộ với các nước
trong khu vực và trên thế giới. Từ vị trí địa lý như vậy mà giặc ngoại xâm luôn tìm
mọi cách xâm chiếm Việt Nam..
Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, dân số giữa các dân tộc rất không đều
nhau, có dân tộc có số dân trên một triệu người như Tày, Thái... nhưng cũng có dân
tộc chỉ có vài trăm người như PuPéo, Rơ-măm, Brâu... Trong đó, dân tộc Kinh là dân
tộc đa số, chiếm tỷ lệ lớn nhất trong dân cư nước ta, có trình độ phát triển cao hơn, là
lực lượng đoàn kết, đóng vai trò chủ lực và đi đầu trong quá trình đấu tranh lâu dài
dựng nước và giữ nước, góp phần to lớn vào việc hình thành, củng cố và phát triển
cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Tuy số dân có sự chênh lệch đáng kể, nhưng các dân tộc vẫn coi nhau như anh
em một nhà, quý trọng, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, chung sức xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, cả khi thuận lợi cũng như lúc khó khăn. Ở nước ta không có tình trạng dân
tộc đa số cưỡng bức, đồng hoá, thôn tính các dân tộc ít người, do đó cũng không có
tình trạng dân tộc ít người chống lại dân tộc đa số. Ngày nay, trước yêu cầu phát triển
mới của đất nước, các dân tộc anh em trên đất nước ta tiếp tục phát huy truyền thống
tốt đẹp, tăng cường đoàn kết, nỗ lực phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam độc lập,
thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi
lên chủ nghĩa xã hội.

1
Trang tin điện tử Ủy ban Dân tộc.
Theo ngôn ngữ văn hoá, các dân tộc Việt Nam được xếp vào 8 nhóm ngôn ngữ
tộc người khác nhau. Đó là2:
- Nhóm Việt - Mường có 4 dân tộc là: Chứt, Kinh, Mường, Thổ.
- Nhóm Tày - Thái có 8 dân tộc là: Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Tày,
Thái.
- Nhóm Môn - Khmer có 21 dân tộc là: Ba na, Brâu, Bru-Vân kiều, Chơ-ro, Co,
Cơ-ho, Cơ-tu, Gié-triêng, Hrê, Kháng, Khmer, Khơ mú, Mạ, Mảng, M'Nông, Ơ-đu,
Rơ-măm, Tà-ôi, Xinh-mun, Xơ-đăng, Xtiêng.
- Nhóm Mông - Dao có 3 dân tộc là: Dao, Mông, Pà thẻn.
- Nhóm Kađai có 4 dân tộc là: Cờ lao, La Chí, La ha, Pu péo.
- Nhóm Nam đảo có 5 dân tộc là: Chăm, Chu-ru, Ê đê, Gia-rai, Ra-glai.
- Nhóm Hán có 3 dân tộc là: Hoa, Ngái, Sán dìu.
- Nhóm Tạng có 6 dân tộc là: Cống, Hà nhì, La hủ, Lô lô, Phù lá, Si la.
Mặc dù tiếng nói của các dân tộc thuộc nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau, song
do các dân tộc sống rất xen kẽ với nhau nên một dân tộc thường biết tiếng các dân tộc
có quan hệ hàng ngày, và dù sống xen kẽ với nhau, giao lưu văn hoá với nhau, nhưng
các dân tộc vẫn lưu giữ được bản sắc văn hoá riêng của dân tộc mình.
Các dân tộc ở nước ta được chia thành 2 nhóm: “Dân tộc thiểu số” và “Dân tộc
đa số”. Dân tộc thiểu số là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên
phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Dân tộc đa số là dân tộc
có số dân chiếm trên 50% tổng dân số của cả nước, theo điều tra dân số quốc gia1.
Theo kết quả Tổng điều tra Dân số và nhà ở năm 2019, tổng số dân của nước ta
là 96.208.984 người. Trong 54 dân tộc sống trên đất Việt Nam, thì dân tộc đông nhất
là dân tộc Kinh, chiếm 86,2% dân số.
2.1.2.1. Đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam
- Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh
dựng nước và giữ nước, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất2.
Các dân tộc có cùng nguồn gốc lịch sử, có nhiều điểm tương đồng là điều kiện
thuận lợi dễ gần gũi gắn bó với nhau. Song dù cùng hoặc không cùng một nguồn gốc
sinh ra, có sự khác nhau về tâm lý, phong tục, tập quán... thì đều là người trong một
nước, con trong một nhà, vận mệnh gắn chặt với nhau, các dân tộc nước ta luôn kề vai
sát cánh bên nhau, thương yêu đùm bọc lẫn nhau.
Nước ta ở khu vực địa lý có nhiều thuận lợi song điều kiện tự nhiên cũng rất
khắc nghiệt. Do nắng lắm mưa nhiều nên hàng năm thường bị hạn hán, lũ lụt. Do yêu
cầu tồn tại và phát triển ở một nước nông nghiệp, trồng lúa nước là chính, cư dân ở
Việt Nam phải liên kết nhau lại, hợp sức để khai phá đất hoang, chống thú dữ, xây
dựng các hệ thống thuỷ lợi (mương, phai), đê, đập, nhằm đảm bảo phát triển sản xuất.
Trải qua nhiều thế kỷ dựng nước và giữ nước, sự gắn bó, giúp đỡ nhau trong lao động
sản xuất của đồng bào các dân tộc đã được coi như một tiêu chuẩn đạo đức.
Ngày nay, trước những biến đổi bất lợi về khí hậu, thời tiết có tính toàn cầu,
càng đòi hỏi nhân dân các dân tộc nước ta chung lòng hợp sức phòng tránh, giảm nhẹ

2
Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam.
1
Nghị định 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ về Công tác dân tộc.
2
Trang tin điện tử Ủy ban Dân tộc.
thiên tai cũng như khắc phục hậu quả do bão lụt, hạn hán gây ra. Cuộc đấu tranh chinh
phục thiên nhiên vẫn đòi hỏi tiếp tục phát huy sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc và
thông qua cuộc đấu tranh đó, đại gia đình các dân tộc Việt Nam càng thêm gắn bó chặt
chẽ.
Cùng với lịch sử chinh phục thiên nhiên, nhân dân ta còn có lịch sử chống giặc
ngoại xâm vô cùng oanh liệt. Ðất nước ta ở vào nơi thuận tiện trên trục đường giao
thông Bắc-Nam, Ðông-Tây của thế giới, có tài nguyên thiên nhiên phong phú và vị trí
địa lý-chính trị có tính chiến lược. Do đó, các thế lực bành trướng và xâm lược luôn
nhòm ngó và tìm cách thôn tính nước ta. Ðặc điểm nổi bật của lịch sử Việt Nam là lịch
sử chống ngoại xâm liên tục và nhiều lần, trong đó có nhiều cuộc đấu tranh chống lại
những thế lực thù địch hùng mạnh, giàu có và hung bạo nhất thế giới. Chính vì vậy mà
cộng đồng các dân tộc Việt Nam luôn sát cánh bên nhau, liên tục đứng lên chống giặc
ngoại xâm, đánh thắng quân xâm lược.
Ðoàn kết trong lao động và trong chiến đấu là truyền thống nổi bật nhất của các
dân tộc Việt Nam được hun đúc qua mấy ngàn năm lịch sử. Trong sự nghiệp cách
mạng do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, truyền thống đoàn kết dân tộc được phát
huy cao độ, là một trong những nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước
ta.
Những thành tựu đạt được trong quá trình đổi mới rất to lớn và đáng tự hào cho
thấy khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta đã có tầm cao mới và chiều sâu mới, là động
lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của đất nước, làm cho thế và lực của cách mạng nước
ta ngày càng được tăng cường.
Tuy vậy, bên cạnh mặt đoàn kết là cơ bản, có nơi, có lúc vẫn xảy ra những va
chạm trong quan hệ dân tộc, còn có những biểu hiện mặc cảm, thành kiến dân tộc.
Chính vì thế ở một số nơi, các lực lượng thù địch đã lợi dụng để kích động chia rẽ dân
tộc. Do đó việc tăng cường đoàn kết, nâng cao cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm mưu
và hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ của mỗi người
dân Việt Nam.
- Các dân tộc ở Việt Nam cư trú phân tán và xen kẽ nhau1.
Ở một số vùng nhất định có dân tộc cư trú tương đối tập trung. Song nhìn chung
các dân tộc nước ta sống xen kẽ nhau, không có lãnh thổ riêng biệt như một số nước
trên thế giới. Ðịa bàn cư trú của người Kinh chủ yếu ở đồng bằng, ven biển và trung
du; còn các dân tộc ít người cư trú chủ yếu ở các vùng miền núi và vùng cao, một số
dân tộc như Khơ me, Hoa, một số ít vùng Chăm sống ở đồng bằng. Các dân tộc thiểu
số có sự tập trung ở một số vùng, nhưng không cư trú thành những khu vực riêng biệt
mà xen kẽ với các dân tộc khác trong phạm vi của tỉnh, huyện, xã và các bản mường.
Cách đây chưa lâu (khoảng bốn, năm chục năm), Tây Nguyên nói chung, Ðắc Lắc nói
riêng, hầu hết cư dân vẫn là người tại chỗ, mỗi dân tộc đều có khu vực cư trú riêng,
ranh giới giữa các tộc người, giữa các bản làng còn rõ ràng thì nay tình hình đã khác
xa và xu hướng này còn tiếp tục gia tăng. Hiện nay dân tộc Kinh cư trú ở Ðắc Lắc
chiếm tỷ lệ khá lớn. Cùng với người Kinh, các dân tộc ít người miền Bắc gần đây cũng
di chuyển vào khu vực này (kể cả di chuyển theo kế hoạch và không kế hoạch) với số
lượng khá lớn. Tới nay, ở miền núi hầu như không có tỉnh, huyện nào chỉ có một dân
tộc cư trú. Nhiều tỉnh có tới trên 20 dân tộc cư trú như Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hà

1
Trang tin điện tử Ủy ban Dân tộc.
Giang, Tuyên Quang, Lâm Ðồng... Phần lớn các huyện có từ 5 dân tộc trở lên cư trú,
nhiều xã, bản có tới 3-4 dân tộc cùng sinh sống.
Tình trạng cư trú phân tán, xen kẽ giữa các dân tộc ở nước ta, một mặt có điều
kiện để tăng cường hiểu biết nhau, hoà hợp và xích lại gần nhau; mặt khác cần đề
phòng trường hợp do chưa thật hiểu nhau, khác nhau về phong tục tập quán nên xuất
hiện mâu thuẫn, tranh chấp về lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế, dẫn đến va chạm giữa
những người thuộc các dân tộc cùng sống trên một địa bàn. Ngày nay, tình trạng cư trú
xen kẽ của các dân tộc chủ yếu dẫn tới sự giao lưu kinh tế - văn hoá giữa các dân tộc
cũng như sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Do sống gần nhau, việc kết hôn giữa thanh niên
nam nữ thuộc các dân tộc khác nhau ngày càng phổ biến, càng có thêm điều kiện đoàn
kết và hoà hợp giữa các dân tộc anh em.
- Các dân tộc ít người ở nước ta chủ yếu cư trú trên các vùng rừng núi, có
vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, môi trường sinh thái1.
Phần lớn các dân tộc ít người ở nước ta cư trú ở miền núi, chiếm 3/4 diện tích
cả nước. Ðây là khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế to lớn mà trước hết là tiềm lực
về tài nguyên rừng và đất rừng. Không những thế, miền núi còn có vai trò đặc biệt
quan trọng về môi trường sinh thái đối với cả nước như điều hoà khí hậu, điều tiết
nguồn nước, bảo vệ lớp đất màu trong mùa mưa lũ.
Vị trí chiến lược quan trọng của miền núi đã được thực tế lịch sử khẳng định.
Từ xưa đến nay, các thế lực thù địch bên ngoài đều sử dụng địa bàn miền núi để xâm
lược, xâm nhập, phá hoại sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.
Rừng núi đã từng là căn cứ địa cách mạng trong kháng chiến chống Pháp, Nhật,
Mỹ. Trong giai đoạn hiện nay, miền núi - biên giới là thành luỹ vững chắc của Tổ
quốc, là địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh trong việc bảo vệ vững chắc chủ
quyền quốc gia, chống âm mưu xâm nhập, gây bạo loạn, lật đổ, bảo vệ sự nghiệp hoà
bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ở vùng biên giới, một số dân tộc có quan hệ đồng tộc với dân tộc của các nước
láng giềng, nên khách quan có nhu cầu thăm thân, mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa
giữa các dân tộc ở hai bên biên giới. Bởi vậy, chính sách dân tộc của Ðảng và Nhà
nước ta không chỉ vì lợi ích các dân tộc ít người mà còn vì lợi ích của cả nước, không
chỉ là đối nội mà còn là đối ngoại, không chỉ về kinh tế -xã hội, mà cả về chính trị,
quốc phòng, an ninh quốc gia.
- Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều
2
nhau .
Do những nguyên nhân lịch sử, xã hội và hoàn cảnh tự nhiên nên các dân tộc ở
Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau. Các dân tộc sống ở
vùng thấp có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn các dân tộc ít người sống ở
vùng sâu, vùng xa, vùng cao.
Có những dân tộc ít người có đời sống kinh tế - xã hội còn thấp kém. Nhiều dân
tộc cư trú trên địa bàn có điều kiện tự nhiên hết sức khó khăn, khắc nghiệt. Ðiều kiện
canh tác nương rẫy không ổn định nên đời sống của đồng bào thường bấp bênh. Cuộc
sống du canh, du cư thường dẫn tới đói nghèo, bệnh tật.

1
Trang tin điện tử Ủy ban Dân tộc.
2
Trang tin điện tử Ủy ban Dân tộc.
3
Trang tin điện tử Ủy ban Dân tộc.
Bên cạnh nguyên nhân lịch sử và hoàn cảnh tự nhiên, còn có nguyên nhân chủ yếu là
do hậu quả của sự áp bức, bóc lột của chế độ thực dân, phong kiến và đất nước phải liên tục
đối phó với chiến tranh xâm lược trong nhiều năm. Ðây là những nguồn gốc của sự không
bình đẳng giữa các dân tộc trên thực tế. Giải quyết hậu quả lịch sử này phải có quá trình phấn
đấu tích cực, bền bỉ, lâu dài mới làm cho các dân tộc từng bước tiến kịp trình độ chung.
- Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, mỗi dân
tộc anh em có những giá trị và sắc thái văn hoá riêng3.
Cùng với nền văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, mỗi dân tộc đều có
một nền văn hoá mang bản sắc riêng từ lâu đời, phản ánh truyền thống, lịch sử và niềm
tự hào dân tộc. Bản sắc văn hoá dân tộc là tất cả những giá trị vật chất và tinh thần,
bao gồm tiếng nói, chữ viết, văn học, nghệ thuật, kiến trúc, y phục, tâm lý, tình cảm,
phong tục, tập quán, tín ngưỡng... được sáng tạo trong quá trình phát triển lâu dài của
lịch sử. Sự phát triển rực rỡ bản sắc văn hoá mỗi dân tộc càng làm phong phú nền văn
hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Thống nhất trong đa dạng là nét riêng, độc
đáo của nền văn hoá các dân tộc Việt Nam. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá
Việt Nam trong thời kỳ mới phải hướng vào việc củng cố và tăng cường sự thống nhất,
nhân lên sức mạnh tinh thần chung của toàn dân tộc. Ðồng thời phải khai thác và phát
triển mọi sắc thái và giá trị văn hoá của các dân tộc, đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần
ngày càng cao và nhu cầu phát triển từng dân tộc.
2.1.2.2. Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay.
- Quan điểm của Đảng về chính sách dân tộc
Trong các giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn có quan điểm nhất quán: “Thực
hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để
các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát
triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”1.
Công tác dân tộc ở nước ta hiện nay, Đảng, Nhà nước ta tập trung:
Khắc phục sự cách biệt về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc;
nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
các dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, kỳ thị, chia rẽ dân tộc, lợi
dụng vấn đề dân tộc để gây mất ổn định chính trị - xã hội, chống phá cách mạng; thực
hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp đỡ nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc nhằm
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm cho tất cả các dân tộc ở Việt Nam đều phát
triển, ấm no, hạnh phúc.
Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về
công tác dân tộc xác định: “Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc. Phát
triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn
vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội,
thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm
lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc
văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng
đồng dân tộc Việt Nam thống nhất. Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng
dân tộc và miền núi, trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng,
xóa đói, giảm nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi

ĐCS Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991.
1
với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường
của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của trung ương và
sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước. Công tác dân tộc và thực hiện chính
sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành,
của toàn bộ hệ thống chính trị”.
Văn kiện Đại hội X chỉ rõ quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước
ta hiện nay là: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trị chiến lược lâu dài
trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa
đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng
nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách
mạng; làm tốt công tác định canh, định cư và xây dựng vùng kinh tế mới. Quy hoạch,
phân bổ, sắp xếp lại dân cư, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc phòng,
củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức là người dân
tộc thiểu số. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần gũi, hiểu
phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác dân vận. Chống
các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc”.
- Chính sách dân tộc của nhà nước
Nghị định 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ về Công tác dân tộc quy định các
hoạt động về công tác dân tộc nhằm đảm bảo và thúc đẩy sự bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ giúp nhau cùng phát triển, tôn trọng và giữ gìn bản sắc văn hóa của các dân
tộc cùng chung sống trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nghị
định 05/2011/NĐ-CP quy định chính sách dân tộc như sau:
+ Chính sách đầu tư và sử dụng nguồn lực:
1) Kinh phí thực hiện các chính sách dân tộc được bố trí từ nguồn ngân sách
nhà nước theo quy định về phân cấp ngân sách nhà nước hiện hành và các nguồn kinh
phí hợp pháp khác để phát triển toàn diện kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số, xóa
đói, giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách giữa vùng dân tộc với các vùng khác.
2) Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, quản lý nguồn lao động là người
dân tộc thiểu số tại chỗ, có chế độ đãi ngộ hợp lý.
3) Khai thác, sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên vùng dân tộc thiểu số
và đầu tư trở lại phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương.
4) Ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, đưa khoa học và công nghệ tiên tiến vào sản
xuất nhằm nâng cao đời sống của đồng bào vùng dân tộc thiểu số.
+ Chính sách đầu tư phát triển bền vững:
1) Đảm bảo việc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, kết cấu hạ tầng thiết yếu
vùng dân tộc thiểu số; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, bảo
vệ môi trường sinh thái, phát huy tinh thần tự lực, tự cường của các dân tộc.
2) Tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong
nước và nước ngoài đầu tư phát triển ở vùng dân tộc thiểu số; ưu tiên đặc biệt đối với
dân tộc thiểu số rất ít người và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt
khó khăn; chú trọng đào tạo nghề, sử dụng lao động là người tại chỗ, đảm bảo thu
nhập ổn định, xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi công cộng khác.
3) Khôi phục và phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống của đồng bào
các dân tộc thiểu số, phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường.
4) Chủ đầu tư các dự án quy hoạch, xây dựng có ảnh hưởng tới đất đai, môi
trường, sinh thái và cuộc sống của đồng bào các dân tộc, phải công bố công khai và
lấy ý kiến của nhân dân nơi có công trình, dự án được quy hoạch, xây dựng quy định
của pháp luật; tổ chức tái định cư, tạo điều kiện để người dân đến nơi định cư mới có
cuộc sống ổn định tốt hơn nơi ở cũ.
Chính quyền ở nơi có người đến định cư có trách nhiệm phối hợp với chủ đầu
tư đảm bảo định canh, định cư lâu dài, tạo điều kiện để đồng bào ổn định cuộc sống.
5) Thực hiện quy hoạch, sắp xếp các điểm dân cư tập trung một cách hợp lý đối
với những địa bàn khó khăn, đảm bảo cho đồng bào phát triển sản xuất phù hợp với
đặc điểm dân tộc, vùng miền.
6) Thực hiện các chương trình, đề án xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm,
giải quyết cơ bản vấn đề vốn, đất ở, đất sản xuất, công cụ sản xuất cho nông dân thiếu
đất, nhà ở, nước sinh hoạt, hỗ trợ phát triển kinh tế, giao đất, giao rừng cho hộ gia đình
ở vùng dân tộc thiểu số, chuyển dịch cơ cấu lao động, ngành nghề, theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững.
7) Tổ chức phòng, chống thiên tai và ứng cứu người dân ở vùng bị thiên tai, lũ
lụt.
8) Có chính sách hỗ trợ kịp thời những dân tộc thiểu số có khó khăn đặc biệt để
ổn định và phát triển
+ Chính sách phát triển giáo dục và đào tạo:
1) Phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số theo chương trình chung quốc gia;
xây dựng chính sách giáo dục ở tất cả các cấp học phù hợp với đặc thù dân tộc.
2) Phát triển trường mầm non, trường phổ thông, trường phổ thông dân tộc nội
trú, phổ thông dân tộc bán trú, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập
cộng đồng, trường dạy nghề, trường dự bị đại học; nghiên cứu hình thức đào tạo đa
ngành bậc đại học cho con em các dân tộc thiểu số để đẩy nhanh việc đào tạo nguồn
nhân lực phục vụ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
3) Quy định các điều kiện và biện pháp cụ thể, phù hợp để hỗ trợ cho học sinh,
sinh viên là người dân tộc thiểu số; giải quyết chỗ ở, học bổng và cho vay vốn trong
thời gian học tập phù hợp với ngành nghề đào tạo và địa bàn cư trú của sinh viên dân
tộc thiểu số.
Học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số rất ít người, ở vùng có điều kiện kinh
tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn được miễn học phí ở tất cả các cấp học,
ngành học.
4) Đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo nghề cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số
phù hợp với đặc điểm từng vùng, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập Quốc tế.
5) Quy định việc hỗ trợ giáo viên giảng dạy tại các vùng có điều kiện kinh tế -
xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn; đào tạo giáo viên là người dân tộc thiểu số và
giáo viên dạy tiếng dân tộc.
6) Tiếng nói, chữ viết và truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc được đưa
vào chương trình giảng dạy trong các trường phổ thông, trường phổ thông dân tộc nội
trú, phổ thông dân tộc bán trú, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập
cộng đồng, trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học phù hợp
với địa bàn vùng dân tộc.
7) Chính quyền địa phương, nơi có con em dân tộc thiểu số thi đỗ vào đại học,
cao đẳng và sinh viên được cử đi học hệ cử tuyển, có trách nhiệm tiếp nhận và phân
công công tác phù hợp với ngành nghề đào tạo sau khi tốt nghiệp.
+ Chính sách cán bộ người dân tộc thiểu số:
1) Cán bộ người dân tộc thiểu số có năng lực và đủ tiêu chuẩn phù hợp quy
định của pháp luật, được bổ nhiệm vào các chức danh cán bộ chủ chốt, cán bộ quản lý
các cấp.
Ở các địa phương vùng dân tộc thiểu số, nhất thiết phải có cán bộ chủ chốt
người dân tộc thiểu số.
2) Đảm bảo tỷ lệ hợp lý cán bộ người dân tộc thiểu số, ưu tiên cán bộ nữ, cán
bộ trẻ tham gia vào các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp.
3) Các Bộ, ngành, địa phương có trách nhiệm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng,
bổ nhiệm, sử dụng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.
+ Chính sách đối với người có uy tín ở vùng dân tộc thiểu số:
Người có uy tín ở vùng dân tộc thiểu số được bồi dưỡng, tập huấn, được hưởng
chế độ đãi ngộ và các ưu đãi khác để phát huy vai trò trong việc thực hiện chính sách
dân tộc ở địa bàn dân cư, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương.
+ Chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa:
1) Hỗ trợ việc sưu tầm, nghiên cứu, bảo vệ, bảo tồn và phát huy những giá trị
văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam.
2) Hỗ trợ việc giữ gìn và phát triển chữ viết của các dân tộc có chữ viết. Các
dân tộc thiểu số có trách nhiệm gìn giữ văn hóa truyền thống tốt đẹp, tiếng nói, chữ
viết của dân tộc mình phù hợp với quy định của pháp luật.
3) Xây dựng, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia để bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống; hỗ trợ việc đầu tư, giữ gìn, bảo tồn các di tích lịch sử,
văn hóa đã được Nhà nước xếp hạng.
4) Đồng bào dân tộc thiểu số được ưu đãi, hưởng thụ văn hóa; hỗ trợ xây dựng,
khai thác sử dụng có hiệu quả hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở ở vùng đồng bào dân
tộc thiểu số.
5) Bảo tồn, phát huy các lễ hội truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc,
định kỳ tổ chức ngày hội văn hóa - thể thao dân tộc theo từng khu vực hoặc từng dân
tộc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
+ Chính sách phát triển thể dục, thể thao vùng dân tộc thiểu số:
1) Bảo tồn và phát triển các môn thể dục, thể thao truyền thống của các dân tộc.
2) Đầu tư xây dựng và hỗ trợ các hoạt động thể dục, thể thao, xây dựng sân vận
động, nhà thi đấu, trung tâm tập luyện thể dục thể thao ở vùng dân tộc thiểu số.
+ Chính sách phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số:
Tập trung hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch gắn với bảo vệ môi
trường, sinh thái; hỗ trợ quảng bá, đa dạng hóa các loại hình, các sản phẩm du lịch,
khai thác hợp lý các tiềm năng, danh lam thắng cảnh, phát triển du lịch.
+ Chính sách y tế, dân số:
1) Đảm bảo đồng bào các dân tộc thiểu số được sử dụng các dịch vụ y tế; thực
hiện chương trình chăm sóc sức khoẻ, bảo hiểm y tế cho đồng bào dân tộc thiểu số
theo quy định của pháp luật.
2) Tập trung xây dựng, củng cố, mở rộng cơ sở y tế, khám chữa bệnh; bảo đảm
thuốc phòng và chữa bệnh cho đồng bào các dân tộc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã
hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.
3) Hỗ trợ việc bảo tồn, khai thác, sử dụng những bài thuốc dân gian và phương
pháp chữa bệnh cổ truyền có giá trị của đồng bào các dân tộc đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền công nhận.
4) Bảo đảm nâng cao chất lượng dân số, phát triển dân số hợp lý của từng dân
tộc theo quy định của pháp luật.
5) Đẩy mạnh sự nghiệp xã hội hóa y tế, thực hiện chính sách ưu tiên đối với các
tổ chức, cá nhân tham gia vào các hoạt động đầu tư, phát triển y tế ở vùng dân tộc
thiểu số.
+ Chính sách thông tin - truyền thông:
1) Đầu tư phát triển thông tin - truyền thông vùng dân tộc thiểu số, cung cấp
một số phương tiện thiết yếu nhằm đảm bảo quyền tiếp cận và hưởng thụ thông tin.
2) Xây dựng, củng cố hệ thống thông tin tình hình dân tộc và tổ chức thực hiện
chính sách dân tộc.
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia về dân tộc; thực hiện chế độ
thông tin, báo cáo định kỳ, đột xuất về tình hình kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng,
thiên tai, lũ lụt ở vùng dân tộc thiểu số.
3) Áp dụng công nghệ thông tin, xây dựng và tổ chức thực hiện trong hệ thống
cơ quan công tác dân tộc.
4) Tăng cường và nâng cao chất lượng sử dụng ngôn ngữ dân tộc trên các
phương tiện thông tin đại chúng.
+ Chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý:
1) Đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn được hưởng các dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí theo quy định của pháp luật.
2) Chính quyền các cấp có trách nhiệm xây dựng và thực hiện các chương trình,
đề án phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý phù hợp với từng đối tượng và địa
bàn vùng dân tộc thiểu số.
3) Sử dụng có hiệu quả các phương tiện thông tin đại chúng, đa dạng hóa các
hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với phong tục, tập quán của đồng bào
dân tộc thiểu số.
+ Chính sách bảo vệ môi trường, sinh thái:
1) Sử dụng, khai thác và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường,
sinh thái vùng dân tộc thiểu số theo quy định của pháp luật.
2) Bảo vệ, cải tạo và đảm bảo cho vùng có tài nguyên được đầu tư trở lại phù
hợp.
3) Tuyên truyền, giáo dục, vận động đồng bào ở vùng có tài nguyên để nâng
cao nhận thức bảo vệ môi trường, sinh thái, đa dạng sinh học.
+ Chính sách quốc phòng, an ninh:
1) Xây dựng, củng cố, quốc phòng, an ninh ở các địa bàn xung yếu, vùng sâu,
vùng xa, vùng biên giới, hải đảo gắn với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh
chính trị và giữ vững trật tự an toàn xã hội ở vùng dân tộc thiểu số.
2) Cơ quan nhà nước, đồng bào các dân tộc ở vùng biên giới và hải đảo có trách
nhiệm cùng các cơ quan, tổ chức, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân và chính quyền
địa phương bảo vệ đường biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội và
tăng cường quan hệ hữu nghị với nhân dân các nước láng giềng ở vùng biên giới và
hải đảo theo quy định của pháp luật.
2.2. Một số vấn đề cơ bản về tôn giáo
2.2.1. Một số vấn đề chung về tôn giáo
2.2.1.1.Khái niệm tôn giáo:
Theo Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, tôn giáo được hiểu là niềm tin của
con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ,
giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức.
Trong đời sống xã hội, tôn giáo là một cộng đồng xã hội với các yếu tố: Hệ
thống giáo lí, giáo luật tôn giáo; lễ nghi tôn giáo; tổ chức tôn giáo; cơ sở vật chất phục
vụ cho hoạt động tôn giáo.
- Giáo lý: Là biểu thị chân lý cơ bản, bất di bất dịch, trong một tôn giáo hay một trường
phái triết học1.
- Giáo luật: Giáo luật là những qui định về nghĩa vụ và quyền lợi của các phần
tử trong Giáo hội mà mọi người phải tôn trọng theo lẽ công bằng để duy trì trật tự
trong đời sống cộng đoàn2.
- Lễ nghi (nghi lễ) tôn giáo: Là hình thức, phương tiện để chuyển tải niềm tin
tôn giáo. Bao gồm những biểu tượng mang tính thần thánh và những điều răn dạy,
kiêng kỵ. Trong hệ thống lễ nghi thì hoạt động thờ cúng là yếu tố cơ bản, là sự hiện
thực hóa ý thức tôn giáo3
- Tổ chức tôn giáo: Là tập hợp tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành của một
tôn giáo được tổ chức theo một cơ cấu nhất định được nhà nước công nhận nhằm thực
hiện các hoạt động tôn giáo4.
2.2.1.2. Phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo với mê tín dị đoan
- Tín ngưỡng: Là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi
gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho
cá nhân và cộng đồng5.

1
Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016.
2
Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016.
3
Trần Đăng Sinh- Đào Đức Doãn, Giáo trình Tôn giáo học, Nhà Xuất bản Đại học Sư phạm, Tháng 9- 2007
4
Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016.
5
Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016.
- Mê tín dị đoan: Là những hiện tượng (ý thức, hành vi) cuồng vọng của con
người đến mức mê muội, trái với lẽ phải và hành vi đạo đức, văn hóa cộng đồng, gây
hậu quả tiêu cực trực tiếp đến đời sống vật chất, tinh thần của cá nhân, cộng đồng xã
hội6. Đây là một hiện tượng xã hội tiêu cực, phải kiên quyết bài trừ, nhằm lành mạnh
hóa đời sống tinh thần xã hội.
2.2.2. Tình hình Tôn giáo trên thế giới và quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin
về giải quyết vấn đề tôn giáo trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
2.2.2.1. Tình hình Tôn giáo trên thế giới
Trong những năm gần đây hoạt động của các tôn giáo khá sôi động, diễn ra theo
nhiều xu hướng. Các tôn giáo đều có xu hướng mở rộng ảnh hưởng ra toàn cầu; các
tôn giáo cũng có xu hướng dân tộc hóa, bình dân hóa, mềm hóa các giới luật lễ nghi để
thích nghi và tồn tại, phát triển trong từng quốc gia dân tộc; các tôn giáo cũng tăng các
hoạt động giao lưu, thực hiện thêm chức năng phi tôn giáo theo hướng thế tục hóa, tích
cực tham gia các hoạt động xã hội để mở rộng ảnh hưởng làm cho sinh hoạt tôn giáo
đa dạng, sôi động và không kém phần phực tạp.
Đáng chú ý là gần đây, xu hướng đa thần giáo phát triển song song với xu
hướng nhất thần giáo, tuyệt đối hóa, thần bí hóa giáo chủ đang nổi lên; đồng thời,
nhiều “hiện tượng tôn giáo lạ” ra đời, trong đó có không ít tổ chức tôn giáo là một
trong những tác nhân gây xung đột tôn giáo, xung đột dân tộc gay gắt trên thế giới
hiện nay. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiếp tục lợi dụng tôn giáo để
chống phá, can thiệp vào các quốc gia dân tộc độc lập.
Tình hình, xu hướng hoạt động của các tôn giáo thế giới có tác động, ảnh hưởng
không nhỏ đến sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam. Một mặt, việc mở rộng giao lưu giữa
các tổ chức tôn giáo Việt Nam với các tổ chức tôn giáo thế giới đó giúp cho việc tăng
cường trao đổi thông tin, góp phần xây dựng tin thần hợp tác hữu nghị, hiểu biết lẫn
nhau vì lợi ích của các giáo hội và đất nước; góp phần đấu tranh bác bỏ những luận
điệu sai trái, xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch với Việt Nam; góp phần đào
tạo chức sắc tôn giáo Việt Nam. Mặt khác, các thế lực thù địch cũng lợi dụng sự mở
rộng giao lưu đó để tuyên truyền, kích động đồng bào tôn giáo trong và ngoài nước
chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.2.2.2. Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa
Giải quyết vấn đề tôn giáo là một quá trình lâu dài gắn với quá trình phát triển
của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo
dục, khoa học công nghệ nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, cần thực hiện các vấn đề có tính nguyên tắc
sau:
Một là, giải quyết vấn đề tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, chỉ có thể giải phóng quần chúng khỏi ảnh
hưởng tiêu cực của tôn giáo bằng cách từng bước giải quyết nguồn gốc tự nhiên,
nguồn gốc xã hội của tôn giáo . Đó phải là kết quả của sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới một cách toàn diện. Theo đó, giải quyết vấn đề tôn giáo phải sử dụng
tổng hợp các giải pháp trên tất cả các lĩnh vực nhằm xác lập được một thế giới hiện

Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016.


6
thực không có áp bức, bất công, nghèo đói, dốt nát. Tuyệt đối không được sử dụng
mệnh lệnh hành chính cưỡng chế để tuyên chiến, xóa bỏ tôn giáo.
Hai là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của
công dân, kiên quyết bài trừ mê tín dị đoan.
Trong chủ nghĩa xã hội, tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, còn tồn tại lâu dài. Bởi vậy, phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và
quyền tự do không tín ngưỡng tôn giáo của công dân.
Nội dung cơ bản của quyền tự do tín ngưỡng là : bất kì ai cũng được tự do theo
tôn giáo mà mình lựa chọn, tự do không theo tôn giáo, tự do chuyển đạo hoặc bỏ đạo.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa bảo đảm cho mọi công dân, không phân biệt tín ngưỡng
tôn giáo đều được bình đẳng trước pháp luật. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động
theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Mọi tổ chức và cá nhân đều phải tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng tôn giáo của công
dân. Tôn trọng gắn liền với không ngừng tạo điều kiện cho quần chúng tiến bộ mọi
mặt, bài trừ mê tín dị đoan, bảo đảm cho tín đồ, chức sắc tôn giáo hoạt động theo đúng
pháp luật.
Ba là, quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Tôn giáo có tính lịch sử, nên vai trò, ảnh hưởng của từng tôn giáo đối với đời
sống xã hội cũng thay đổi theo sự biến đổi của tồn tại xã hội. Bởi vậy, khi xem xét,
đánh giá, giải quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo cần phải quán triệt quan điểm
lịch sử, cụ thể, tránh giáo điều, máy móc, rập khuôn cứng nhắc. Những hoạt động tôn
giáo đúng pháp luật được tôn trọng, hoạt động ích nước lợi dân được khuyến khích,
hoạt động trái pháp luật, đi ngược lại lợi ích dân tộc bị xử lý theo pháp luật.
Bốn là, phân biệt rõ mối quan hệ giữa hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải
quyết vấn đề tôn giáo.
Trong xã hội, sinh hoạt tôn giáo tồn tại hai loại mâu thuẫn: Mâu thuẫn đối
kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp bóc lột và thế lực lợi dụng tôn giáo
chống lại cách mạng với lợi ích của nhân dân lao động, đó là mặt chính trị của tôn
giáo. Mâu thuẫn không đối kháng giữa những người có tín ngưỡng khác nhau hoặc
giữa người có tín ngưỡng và không có tín ngưỡng, đó là mặt tư tưởng củatôn giáo.
Cho nên, một mặt phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, mặt
khác phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động của các thế lực lợi
dụng tôn giáo. Việc phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề
tôn giáo nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quần chúng nhân
dân, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo; phát huy tinh thần yêu nước của những chức
sắc tiến bộ trong các tôn giáo; kiên quyết vạch trần và xử lý kịp thời theo pháp luật
những phần tử lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống phá cách mạng.
2.2.3. Tình hình tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà
nước ta hiện nay
2.2.3.1.Khái quát tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo và nhiều người tin theo các tôn giáo.
Đến thời điểm tháng 12/2020, có 16 tôn giáo được phép hoạt động trên lãnh thổ
Việt Nam, bao gồm: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, Phật giáo Hòa Hảo,
Hồi giáo, Tôn giáo Baha ’ I, Tịnh độ Cư sỹ Phật hội, Cơ đốc Phục lâm, Phật giáo
Tứ ân Hiếu nghĩa, Minh Sư đạo, Minh lý đạo - Tam Tông Miếu, Bà-la-môn giáo,
Mặc môn, Phật giáo Hiếu nghĩa tà lơn, Bữu Sơn Kỳ hương1 .
Trong những năm gần đây, các tôn giáo đẩy mạnh hoạt động nhằm phát triển tổ
chức, phát huy ảnh hưởng trong đời sống tinh thần xã hội. Các giáo hội đều tăng
cường hoạt động mở rộng ảnh hưởng, thu hút tín đồ; tăng cường quan hệ với các tổ
chức tôn giáo thế giới. Các cơ sở tôn giáo được tu bổ, xây dựng mới khang trang đẹp
đẽ; các lễ hội tôn giáo diễn ra sôi động ở nhiều nơi.
Tuy nhiên tình hình tôn giáo còn có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những
nhân tố gây mất ổn định. Vẫn còn có chức sắc, tín đồ mang tư tưởng chống đối, cực
đoan, quá khích gây tổn hại đến lợi ích dân tộc; vẫn còn các hoạt động tôn giáo xen lẫn
với mê tín dị đoan, còn các hiện tượng tà giáo hoạt động làm mất trật tự an toàn xã hội.
Các thế lực thù địch vẫn luôn lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng
Việt Nam. Chúng gắn vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” với cái gọi là “tự do tôn giáo”
để chia rẽ tôn giáo, dân tộc; tài trợ, xúi giục các phần tử xấu trong các tôn giáo truyền
đạo trái phép, lôi kéo các tôn giáo vào những hoạt động trái pháp luật, gây mất ổn định
chính trị.
2.2.3.2. Quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về
công tác tôn giáo chỉ rõ: “Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo phải nhằm tăng
cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy
sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ
tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào
các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo
đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước
pháp luật.
Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và
đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền
thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân.
Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng
thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động
trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân
tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, các cấp,
các ngành, các địa bàn. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống
chính trị do Đảng lãnh đạo. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công

1
Bộ Nội vụ, Danh mục các tổ chức tôn giáo, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo tính đến
tháng 12/2020 (Kèm theo Công văn số 6955/BNV-TGCP ngày 28/12/2020 của Bộ Nội vụ)
tác tôn giáo có trách nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và kiện toàn. Công tác quản lý
nhà nước đối với các tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối
chế độ chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng.
Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp
theo quy định của pháp luật.
Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật
và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà
tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của
mình theo đúng quy định của pháp luật.
Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân
thủ hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt
động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ
chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các
quy định của hiến pháp và pháp luật.
Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm
phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp
luật”.
2.3. Đấu tranh phòng chống địch lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo chống
phá cách mạng Việt Nam.
2.3.1. Âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt
Nam của các thế lực thù địch.
Chống phá cách mạng Việt Nam là âm mưu không bao giờ thay đổi của các thế
lực thù địch. Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc đang đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa
bình” chống Việt Nam với phương châm lấy chống phá về chính trị, tư tưởng làm
hàng đầu, kinh tế làm mũi nhọn, ngoại giao làm hậu thuẫn, tôn giáo, dân tộc làm ngòi
nổ, kết hợp với bạo loạn lật đổ, uy hiếp, răn đe, gây sức ép về quân sự.
Như vậy, vấn đề dân tộc, tôn giáo là một trong những lĩnh vực trọng yếu mà các
thế lực thù địch lợi dụng để chống phá cách mạng, cùng với việc lợi dụng trên các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, tư tưởng để chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam;
xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng với toàn xã hội, thực hiện âm mưu “không đánh mà
thắng”.
Để thực hiện âm mưu chủ đạo đó, chúng lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo
nhằm các mục tiêu cụ thể sau:
Trực tiếp phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ dân tộc đa số với dân
tộc thiểu số với nhau, chia rẽ đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa
đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, hòng làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
Kích động các dân tộc thiểu số, tín đồ chức sắc các tôn giáo chống lại chính
sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước; đối lập các dân tộc, các tôn
giáo với sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp
cách mạng Việt Nam; vô hiệu hóa sự quản lí của Nhà nước đối với các lĩnh vực đời
sống xã hội, gây mất ổn định chính trị - xã hội, nhất là vùng dân tộc, tôn giáo. Coi tôn
giáo là lực lượng đối trọng với Đảng, Nhà nước ta, nên chúng thường xuyên hậu
thuẫn, hỗ trợ về vật chất, tinh thần để các phần tử chống đối trong các dân tộc, tôn giáo
chống đối Đảng, Nhà nước, chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam.
Chúng tạo dựng các tổ chức phản động trong các dân tộc thiểu số, các tôn giáo
như Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, Hội thánh Tin Lành Đề Ga, Nhà nước
Đề Ga độc lập, Mặt trận giải phóng Khơme Crôm, Mặt trận Chămpa để tiếp tục chống
phá cách mạng Việt Nam.
2.3.2. Thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt
Nam của các thế lực thù địch
Thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của
các thế lực thù địch rất thâm độc, tinh vi, xảo trá, đê tiện dễ làm cho người ta tin và
làm theo. Chúng thường sử dụng chiêu bài “nhân quyền”, “dân chủ”, “tự do”; những
vấn đề lịch sử để lại; những đặc điểm văn hóa, tâm lí của đồng bào các dân tộc, các tôn
giáo; những khó khăn trong đời sống vật chất, tinh thần của các dân tộc, các tôn giáo ;
những thiếu sót trong thực hiện chính sách kinh tế - xã hội, chính sách dân tộc, tôn
giáo của Đảng, Nhà nước ta để chống phá cách mạng Việt Nam.
Thủ đoạn đó được biểu hiện cụ thể ở các dạng sau:
Một là, chúng tìm mọi cách xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, mà trực tiếp là quan điểm, chính
sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Chúng lợi dụng những thiếu sót, sai lầm
trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo để gây mâu thuẫn, tạo cớ can thiệp vào
công việc nội bộ của Việt Nam.
Hai là, chúng lợi dụng những vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động tư tưởng
dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, li khai; kích động, chia rẽ quan hệ lương - giáo và
giữa các tôn giáo hòng làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, chúng tập trung phá hoại các cơ sở kinh tế - xã hội; mua chuộc, lôi kéo,
ép buộc đồng bào các dân tộc, tôn giáo chống đối chính quyền, vượt biên trái phép,
gây mất ổn chính trị - xã hội, bạo loạn, tạo các điểm nóng để vu khống Việt Nam, đàn
áp các dân tộc, các tôn giáo vi phạm dân chủ, nhân quyền để cô lập, làm suy yếu cách
mạng Việt Nam.
Bốn là, chúng tìm mọi cách để xây dựng, nuôi dưỡng các tổ chức phản động
người Việt Nam ở nước ngoài; tập hợp, tài trợ, chỉ đạo lực lượng phản động trong các
dân tộc, các tôn giáo ở trong nước hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam như:
truyền đạo trái phép để “tôn giáo hóa” các vùng dân tộc, lôi kéo, tranh giành đồng bào
dân tộc, gây đối trọng với Đảng, chính quyền. Điển hình là các vụ bạo loạn ở Tây
Nguyên năm 2001, 2004, việc truyền đạo Tin Lành trái phép về các vùng dân tộc thiểu
số Tây Bắc, Tây Nguyên, vụ 178 Nguyễn Lương Bằng; 42 Nhà Chung Hà Nội...
Âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt
Nam của các thế lực thù địch rất nham hiểm. Tuy nhiên, âm mưu thủ đoạn đó của
chúng có thực hiện được hay không thì không phụ thuộc hoàn toàn vào chúng, mà chủ
yếu phụ thuộc vào tinh thần cảnh giác, khả năng ngăn chặn, sự chủ động tiến công của
chúng ta.
2.3.3. Giải pháp đấu tranh phòng, chống sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo
chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch.
Để vô hiệu hóa sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam của các thế lực
thù địch thì giải pháp chung cơ bản nhất là thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế -
xã hội mà trực tiếp là chính sách dân tộc, tôn giáo, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân các dân tộc, các tôn giáo, củng cố xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hiện nay cần tập trung vào những giải pháp cơ bản,
cụ thể sau:
Một là, ra sức tuyên truyền, quán triệt quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo
của Đảng, Nhà nước; về âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống
phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.
Đây là giải pháp đầu tiên, rất quan trọng. Chỉ trên cơ sở nâng cao nhận thức, tư tưởng
của cả hệ thống chính trị, của toàn dân mà trực tiếp là của đồng bào các dân tộc, tôn
giáo về các nội dung trên, thì chúng ta mới thực hiện tốt chính sách dân tộc tôn giáo,
vô hiệu hóa được sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch.
Nội dung tuyên truyền giáo dục phải mang tính toàn diện, tổng hợp. Hiện nay
cần tập trung vào phổ biến sâu rộng các chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã
hội vùng dân tộc, tôn giáo, chính sách dân tộc, tôn giáo cho đồng bào các dân tộc, các
tôn giáo. Phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của Nhà nước,
khơi dậy lòng tự tôn tự hào dân tộc, truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thường xuyên tuyên truyền và giáo dục
để đồng bào hiểu rõ âm mưu thủ đoạn chia rẽ dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù
địch, để đồng bào đề cao cảnh giác không bị chúng lừa gạt lôi kéo lợi dụng. Vận động
đồng bào các dân tộc, tôn giáo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, thực hiện đúng
chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo.
Hai là, tăng cường xây dựng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững
ổn định chính trị - xã hội. Đây là một trong những giải pháp quan trọng nhằm nâng cao
nội lực, tạo nên sức đề kháng trước mọi âm mưu thủ đoạn nham hiểm của kẻ thù. Cần
tuân thủ những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải dựa trên
nền tảng khối liên minh công–nông–trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực hiện đại
đoàn kết phải rộng rãi, lâu dài. Mở rộng, đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân,
nâng cao vai trò của mặt trận và các đoàn thẻ nhân dân. Kiên quyết đấu tranh loại trừ
nguy cơ phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Riêng đối với vấn đề dân tộc, tôn giáo, trước tiên cần phải thực hiện tốt chính
sách dân tộc, tôn giáo. Thực hiện bình đẳng đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau giữa các
dân tộc, các tôn giáo. Chống kì thị chia rẽ dân tộc, tôn giáo, chống tư tưởng dân tộc
lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, tự ti mặc cảm dân tộc, tôn giáo. Chủ động giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở các vùng dân tộc, tôn giáo, bảo vệ chủ
quyền an ninh quốc gia. Đây là tiền đề quan trọng để vô hiệu hóa sự chống phá của kẻ
thù.
Ba là, chăm lo nâng cao đời sống vật chất tinh thần của đồng bào các dân tộc,
các tôn giáo. Đây cũng là một trong những giải pháp quan trọng, xét đến cùng có ý
nghĩa nền tảng để vô hiệu hóa sự lợi dụng của kẻ thù. Khi đời sống vật chất, tinh thần
được nâng cao, đồng bào sẽ đoàn kết, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, thực hiện tốt
quyền lợi, nghĩa vụ công dân thì không kẻ thù nào có thể lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo để chống phá cách mạng Việt Nam.
Bởi vậy, phải đẩy nhanh tiến độ và hiệu quả các chương trình, dự án ưu tiên
phát triển kinh tế - xã hội miền núi vùng dân tộc, vùng tôn giáo, tạo mọi điều kiện giúp
đỡ đồng bào các dân tộc, các tôn giáo nhanh chóng xóa đói giảm nghèo nâng cao dân
trí, sức khỏe, bảo vệ bản sắc văn hóa các dân tộc. Khắc phục sự chênh lệch về phát
triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc, các tôn giáo; sự kì thị, chia rẽ dân tộc, tôn giáo.
Thực hiện bình đẳng đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo phải bằng những hành động
thiết thực cụ thể như: ưu tiên đầu tư sức lực tiền của giúp đồng bào phát triển sản xuất.
Bốn là, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị; của những người có uy tín
trong các dân tộc, tôn giáo tham gia vào phòng chống sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch. Tích cực xây dựng hệ
thống chính trị ở cơ sở vùng dân tộc, vùng tôn giáo. Thực hiện chính sách ưu tiên
trong đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ cả cán bộ lãnh đạo quản lí và cán bộ
chuyên môn kĩ thuật, giáo viên là người dân tộc thiểu số, và người tôn giáo. Bởi đây là
đội ngũ cán bộ sở tại có rất nhiều lợi thế trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo.
Đổi mới công tác dân vận vùng dân tộc, tôn giáo theo phương châm: chân thành, tích
cực, thận trọng, kiên trì, vững chắc; sử dụng nhiều phương pháp phù hợp với đặc thù
từng dân tộc, từng tôn giáo.
Năm là, chủ động đấu tranh trên mặt trận tư tưởng làm thất bại mọi âm mưu thủ
đoạn lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch; kịp
thời giải quyết tốt các điểm nóng. Cần thường xuyên vạch trần bộ mặt phản động của
kẻ thù để nhân dân nhận rõ và không bị lừa bịp. Đồng thời, vận động, bảo vệ đồng bào
các dân tộc, tôn giáo để đồng bào tự vạch mặt bọn xấu cùng những thủ đoạn xảo trá
của bọn chúng. Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong cuộc
đấu tranh này.
Kịp thời chủ động giải quyết tốt các điểm nóng liên quan đến vấn đề dân tộc,
tôn giáo. Chủ động, kịp thời phát hiện, dập tắt mọi âm mưu, hành động lợi dụng vấn
đề dân tộc, tôn giáo kích động lôi kéo đồng bào gây bạo loạn. Khi xuất hiện điểm
nóng, cần tìm rõ nguyên nhân, biện pháp giải quyết kịp thời, không để lan rộng, không
để kẻ thù lấy cớ can thiệp; xử lí nghiêm minh theo pháp luật những kẻ cầm đầu, ngoan
cố chống phá cách mạng. Đồng thời, kiên trì thuyết phục vận động những người nhẹ
dạ, cả tin nghe theo kẻ xấu quay về với cộng đồng; đối xử khoan hồng, độ lượng, bình
đẳng với những người lầm lỗi đó ăn năn hối cải, phục thiện.
CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề dân tộc?
2. Âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng
Việt Nam của các thế lực thù địch.
3. Những giải pháp cơ bản đấu tranh phòng chống sự lợi dụng vấn đề dân tộc,
tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch.

Chương 3
PHÒNG CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

3.1. Nhận thức chung đối với vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
3.1.1. Khái niệm, vai trò và thực trạng của môi trường hiện nay
3.1.1.1. Khái niệm môi trường:
Tại khoản 1, Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường ngày 17 tháng 11 năm 2020 quy
định: “Môi trường bao gồm các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo quan hệ mật thiết
với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế, xã hội, sự tồn tại,
phát triển của con người, sinh vật và tự nhiên”1.
3.1.1.2. Vai trò của môi trường đối với con người
Để đảm bảo sự sống của con người thì môi trường là yếu tố đầu tiên và quan
trọng bậc nhất, bởi lẽ:
Thứ nhất, môi trường là nơi chứa đựng các nguồn tài nguyên cần thiết cho đời
sống và sản xuất của con người. Rất dễ dàng nhận thấy mọi ngành sản xuất đều gắn
với các tài nguyên của người mẹ thiên nhiên như:
+ Trồng lúa cần có đất nông nghiệp, ngành xây dựng cần vật liệu xây dựng thô như
đất, đá và các vật liệu xây dựng qua chế biến như xi măng, sắt, thép...;
+ Rừng tự nhiên phục vụ chức năng cung cấp nước, gỗ, bảo vệ sự đa dạng sinh
học và thông qua đó cải thiện môi trường chung của hệ sinh thái;
+ Biển cung cấp các nguồn hải sản, nước... phục vụ nhu cầu sinh tồn của con
người....
+ Động vật và thực vật cung cấp nguồn lương thực dồi dào trực tiếp phục vụ
đời sống của con người.
+ Không khí, nhiệt độ, năng lượng mặt trời, gió... là nguồn cung cấp điện năng,
sự sống trực tiếp cho con người.
Do vậy, có thể thấy rằng con người phụ thuộc trực tiếp và gián tiếp vào môi
trường. Không có môi trường sẽ không có sự sống của con người.
Thứ hai, môi trường cũng chính là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người
tạo ra.
Trong quá trình sinh sống, con người gần như đảo thải tất cả các chất rác thải,
phế thải vào môi trường. Các chất này dưới tác động của các vi sinh vật sẽ phân hủy,
biến đổi theo các quá trình sinh địa hóa rất phức tạp khác nhau. Qua các quá trình biến
đổi tự nhiên các chất thải có thể tái sử dụng dưới các dạng thức khác nhau và một phần
tạo thành các độc tố gây hại cho môi trường sống.
Thứ ba, môi trường giữ chức năng lưu trữ và cung cấp các thông tin cho con
người.
Môi trường trái đất được xem là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con
người. Bởi vì chính môi trường trái đất là nơi:
- Cung cấp sự ghi chép và lưu trữ lịch sử trái đất, lịch sử tiến hoá của vật chất
và sinh vật, lịch sử xuất hiện và phát triển văn hoá của loài người.
- Cung cấp các chỉ thị không gian và tạm thời mang tín chất tín hiệu và báo
động sớm các hiểm họa đối với con người và sinh vật sống trên trái đất như phản ứng
sinh lý của cơ thể sống trước khi xảy ra các tai biến tự nhiên và các hiện tượng tai biến
tự nhiên, đặc biệt như bão, động đất, núi lửa...

1
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2020), Luật bảo vệ môi trường.
- Cung cấp và lưu giữ cho con người các nguồn gen, các loài động thực vật, các
hệ sinh thái tự nhiên và nhân tạo, các vẻ đẹp, cảnh quan có giá trị thẩm mỹ để thưởng
ngoạn và phát triển văn hoá.
Thứ tư, bảo vệ con người và sinh vật khỏi những tác động từ bên ngoài.
Các thành phần trong môi trường còn có vai trò trong việc bảo vệ cho đời sống
của con người và sinh vật tránh khỏi những tác động từ bên ngoài như: tầng Ozon
trong khí quyển có nhiệm vụ hấp thụ và phản xạ trở lại các tia cực tím từ năng lượng
mặt trời.
Thực trạng môi trường hiện nay đang bị làm bẩn nghiêm trọng. Điều này gây ra
những ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái cũng như sức khỏe của con
người. Nếu tình trạng ô nhiễm môi trường tiếp tục kéo dài thì sẽ vô cùng nguy hiểm.
3.1.1.3. Thực trạng vấn đề môi trường hiện nay ở Việt Nam
Vấn đề ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay cũng đã tác động rất lớn
đến sức khỏe của con người, đến hệ sinh thái và ảnh hưởng tới sự phát triển kinh
tế, văn hóa xã hội của đất nước… Cụ thể nó tác động lên 3 linh vực môi trường
đó là:
- Ô nhiễm môi trường đất
- Ô nhiễm môi trường nước
- Ô nhiễm môi trường không khí
3.1.2. Vai trò và quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường
3.1.2.1. Vai trò của pháp luật trong công tác bảo vệ môi trường
Pháp luật có vai trò rất quan trọng trong công tác bảo vệ môi trường. Môi
trường bị hủy hoại chủ yếu là do sự “tác động quá mức” của con người đối với các
thành phần cấu tạo nên môi trường tự nhiên. Chính con người trong quá trình khai thác
các yếu tố (thành phần) của môi trường đã làm mất sự cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm,
suy thoái thậm chí hủy hoại môi trường. Vì vậy, muốn bảo vệ môi trường trước hết
phải tác động đến con người bằng những chế tài nhất định. Pháp luật với tư cách là hệ
thống các quy phạm điều chỉnh hành vi xử sự của con người sẽ có tác dụng rất lớn
trong việc bảo vệ môi trường. Vai trò của pháp luật trong bảo vệ môi trường được thể
hiện qua những khía cạnh sau:
- Pháp luật quy định những quy tắc xử sự mà con người phải thực hiện khi khai
thác và sử dụng các yếu tố (thành phần) của môi trường.
Môi trường vừa là điều kiện sống, vừa là đối tượng tác động hàng ngày của con
người. Sự tác động đó làm thay đổi rất nhiều hiện trạng của môi trường theo chiều
hướng làm suy thoái môi trường, chính vì lý do đó mà con người cần phải có ý thức
trách nhiệm trong việc khai thác, sử dụng các yếu tố (thành phần) của môi trường có
tính định hướng. Pháp luật với tư cách là công cụ điều tiết các hành vi của các thành
viên trong xã hội có tác dụng rất to lớn trong việc định hướng quá trình khai thác và sử
dụng môi trường. Các chế định hay điều luật cụ thể quy định những quy tắc xử sự
buộc mỗi cá nhân, tổ chức phải tuân theo những quy định đó.
- Pháp luật xây dựng hệ thống các quy chuẩn môi trường, tiêu chuẩn môi
trường để bảo vệ môi trường.
Các quy chuẩn môi trường, tiêu chuẩn môi trường này thực chất là những quy
chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật (dựa trên các thông số môi trường cụ thể đất, nước, không
khí,…) được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành bằng các văn bản pháp lý nên
chúng trở thành tiêu chuẩn pháp lý (có tính bắt buộc áp dụng) mà các cá nhân, tổ chức
trong xã hội phải tuân thủ nghiêm ngặt khi khai thác, sử dụng các yếu tố (thành phần)
của môi trường. Các quy chuẩn môi trường, tiêu chuẩn môi trường là cơ sở pháp lý
cho việc xác định có vi phạm pháp luật về môi trường hay không, đồng thời cũng là cơ
sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc xử lý vi phạm hành chính đối với những
hành vi vi phạm cụ thể về môi trường.
- Pháp luật quy định các chế tài hình sự, kinh tế, hành chính, dân sự buộc các
cá nhân, tổ chức phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu đòi hòi pháp luật trong việc khai
thác, sử dụng các yếu tố của môi trường.
Việc xây dựng và đưa ra các tiêu chuẩn để định hướng quá trình khai thác, sử
dụng các thành phần của môi trường có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, trong thực tế
không phải tất cả các quy tắc, các tiêu chuẩn được quy định đều được tuân thủ một
cách nghiêm túc và triệt để. Quá trình tham gia khai thác, sử dụng các thành phần của
môi trường, con người thường có xu hướng vi phạm vào các tiêu chuẩn đó ở các mức
độ khác nhau, tùy theo tính chất mức độ nhưng có xu hướng ngày càng đa dạng về
hành vi, nghiêm trọng về hậu quả tác hại, nếu ở đó có sự hiện diện mâu thuẫn giữa nhu
cầu bức bách của cuộc sống và yêu cầu bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, bằng các chế tài hình sự, hành chính, dân sự, kinh tế… pháp luật đã
tác động đến những hành vi vi phạm. Các chế tài này hoặc cách ly những kẻ vi phạm
nguy hiểm ra khỏi đời sống xã hội (tội phạm) hoặc bị áp dụng những hậu quả vật chất,
tinh thần đối với họ. Những chế tài này được sử dụng trong lĩnh vực BVMT vừa có tác
dụng ngăn chặn các hành vi vi phạm vừa có tác dụng giáo dục công dân tôn trọng pháp
luật BVMT.
- Pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức,
cá nhân tham gia bảo vệ môi trường.
Bảo vệ môi trường là một công việc rất khó khăn và phức tạp, các thành phần
của môi trường rất phức tạp, có kết cấu đa dạng và phạm vi rộng mà một cơ quan, tổ
chức hay cá nhân không thể bảo vệ hoặc kiểm soát được mà đòi hỏi phải có một hệ
thống các cơ quan thích hợp. Pháp luật có tác dụng rất lớn trong việc tạo ra cơ chế hoạt
động hiệu quả cho các tổ chức bảo vệ môi trường. Cụ thể là thông qua pháp luật, nhà
nước quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức trong công tác bảo vệ
môi trường.
- Giải quyết các tranh chấp liên quan đến bảo vệ môi trường.
Trong quá trình khai thác, sử dụng các thành phần của môi trường thì giữa các
cá nhân, tổ chức có thể xảy ra những tranh chấp. Các tranh chấp đó có thể là giữa cá
nhân với cá nhân, cá nhân với doanh nghiệp; giữa cá nhân, doanh nghiệp với nhà
nước… và pháp luật với tư cách là “hệ thống các quy phạm điều chỉnh hành vi xử sự”
sẽ giải quyết các tranh chấp đó trên cơ sở những quy định đã được ban hành.
3.1.2.2. Quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Pháp luật về tổ chức, quản lý các hoạt động bảo vệ môi trường
+ Hiến pháp (1980, 1992, 2013) quy định về công tác bảo vệ môi trường
+ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2020), Luật bảo vệ môi
trường.
+ Luật, Pháp lệnh quy định về bảo vệ môi trường
+ Nghị định, Nghị quyết, Quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
+ Các văn bản hướng dẫn của các Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các
cấp về công tác bảo vệ môi trường
- Pháp luật xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
+ Xử lý hình sự
+ Xử lý vi phạm hành chính
+ Xử lý trách nhiệm dân sự trong bảo vệ môi trường
3.1.3. Khái niệm, dấu hiệu của vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
3.1.3.1. Khái niệm
Vi phạm pháp luật về môi trường là một loại vi phạm pháp luật nói chung. Hiện
nay có nhiều quan điểm, góc độ tiếp cận khác nhau của các nhà khoa học khi nghiên
cứu vi phạm pháp luật về môi trường. Tuy nhiên, dưới góc độ tội phạm học và phòng
ngừa tội phạm, vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường được tiếp cận bao gồm cả tội
phạm về môi trường và vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường. Theo đó:
Tội phạm về môi trường là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về bảo vệ
môi trường, xâm phạm đến các thành phần của môi trường làm thay đổi trạng thái, tính
chất của môi trường gây ảnh hưởng xấu tới sự tồn tại, phát triển con người và sinh vật,
mà theo quy định phải bị xử lý hình sự 1.
Như vậy, tội phạm về môi trường trước hết phải là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, có tác động tiêu cực và gây tổn hại ở mức độ đáng kể đến các yếu tố của môi
trường, tài nguyên gây thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp đến tính mạng, sức khỏe, tài
sản của con người, đến sự sống của động vật, thực vật sống trong môi trường đó.
Tiếp theo, tội phạm về môi trường phải xâm hại đến các quan hệ được luật hình
sự bảo vệ. Đó là sự trong sạch, tính tự nhiên của các thành phần môi trường, sự cân
bằng sinh thái, tính đa dạng sinh học,… tạo nên điều kiện sống, tồn tại và phát triển
của con người và sinh vật.
Ngoài ra, để phân biệt tội phạm về môi trường với các loại tội phạm khác cần
dựa vào yếu tố môi trường. Sự khác biệt đó thể hiện, tội phạm về môi trường tác động
đến các thành phần của môi trường dẫn đến làm thay đổi trạng thái, tính chất của môi
trường hoặc xâm phạm đến quyền con người được sống trong môi trường trong lành.
3.1.3.2. Dấu hiệu vi phạm pháp luật về môi trường
- Dấu hiệu pháp lý của tội phạm về môi trường
Tội phạm về môi trường được quy định tại Chương 19 - Bộ luật Hình sự 2015
(sửa đổi, bổ sung 2017) bao gồm 12 tội danh được quy định từ Điều 235 đến điều 246.
Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm về môi trường được thể hiện dưới 4 yếu
tố cấu thành tội phạm sau đây:
+ Khách thể của tội phạm
Khách thể của các tội phạm về môi trường là sự xâm phạm vào các quy định
của Nhà nước trong việc bảo vệ môi trường, xâm phạm vào sự trong sạch, tính tự

1
Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Môi trường (tái bản lần thứ 4), Hà Nội.
nhiên của môi trường thiên nhiên vượt quá mức giới hạn cho phép, xâm phạm vào sự
ổn định của môi trường sống gây ảnh hưởng hoặc làm tổn hại đến tính mạng, sức khoẻ
của con người và các loài sinh vật.
Đối tượng tác động của các tội phạm về môi trường chủ yếu là các thành phần
môi trường như đất, nước, không khí, hệ sinh thái, đa dạng sinh học, khu bảo tồn thiên
nhiên, các loài động vật, thực vật sống trong môi trường tự nhiên. Ngoài ra trong một
số tội danh, đối tượng tác động của tội phạm về môi trường còn trực tiếp xâm phạm
đến tính mạng, sức khỏe của con người hoặc gây thiệt hại về tài sản như ‘‘Điều 237,
Điều 238 BLHS hiện hành”1
+ Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của các tội phạm về môi trường được thể hiện bởi những hành
vi nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động.
Hầu hết các tội phạm về môi trường có cấu thành tội phạm (CTTP) vật chất.
Mặt khách quan của tội phạm về môi trường được thể hiện dưới các nhóm hành
vi cụ thể sau:
Nhóm các hành vi gây ô nhiễm môi trường (quy định tại các điều 235, 236, 237,
239 - Bộ luật Hình sự hiện hành): đây là các hành vi chôn, lấp, đổ, thải, xả thải trái
pháp luật các chất thải ra môi trường (đất, nước, không khí,…), cho phép chôn, lấp,
đổ, thải trái quy định của pháp luật về chất thải nguy hại, vi phạm quy định về phòng
ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường; đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam.
Nhóm các hành vi hủy hoại tài nguyên, môi trường (quy định tại các điều 238,
242, 243, 244, 245, 246 - Bộ luật hình sự hiện hành), bao gồm các hành vi:
Tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng,
chống thiên tai, vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông (Điều 238), bao gồm các
hành vi: Xây nhà, công trình trái phép trong phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi, đê
điều, công trình phòng, chống thiên tai. Làm hư hỏng công trình thủy lợi, đê điều,
công trình phòng, chống thiên tai, công trình bảo vệ, khai thác, sử dụng, quan trắc,
giám sát tài nguyên nước, công trình phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do
nước gây ra. Khoan, đào thăm dò, khảo sát, khai thác đất, đá, cát sỏi, khoáng sản, nước
dưới đất trái phép. Sử dụng chất nổ, gây nổ, gây cháy trong phạm vi bảo vệ công trình
thủy lợi, đê điều, công trình phòng, chống thiên tai, công trình bảo vệ, khai thác, sử
dụng, quan trắc, giám sát tài nguyên nước, công trình phòng, chống và khắc phục hậu
quả tác hại do nước gây ra, trừ trường hợp có giấy phép hoặc trường hợp khẩn cấp do
luật định. Vận hành hồ chứa nước không đúng quy trình vận hành hồ chứa, quy trình
vận hành liên hồ chứa, vận hành công trình phân lũ, làm chậm lũ không đúng với quy
trình, quy chuẩn kỹ thuật cho phép, trừ trường hợp đặc biệt thực hiện theo quyết định
của người có thẩm quyền.
Tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản (Điều 242), bao gồm các hành vi:
Sử dụng chất độc, chất nổ, các hoá chất khác, dòng điện hoặc các phương tiện, ngư
cụ khác bị cấm để khai thác thuỷ sản hoặc làm huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản.
Dùng chất độc, chất nổ, các hoá chất khác, để khai thác thuỷ sản là hành vi
dùng các loại bom, mìn, thủ pháo, bộc phá, lựu đạn, thuốc trừ sâu, thuốc diệt chuột,
các chất hoá học vô cơ và hữu cơ để đánh bắt các loại thuỷ sản dưới nước như: dùng
1
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Bộ luật hình sự (Sửa đổi năm 2017)
mìn ném xuống biển làm cho cá chết, dùng thuốc trừ sâu đổ xuống sông làm cho cá
chết. Dùng dòng điện để khai thác thuỷ sản dùng dòng điện chạy qua nước để thủy sản
bị điện giật chết như: dùng bình ắc quy cho dòng điện chạy qua nước làm cho cá bị
điện giật chết, câu móc điện và cho dòng điện chạy qua nước để cá hoặc các loài thuỷ
sản bị điện giật chết. Khi dùng chất độc, chất nổ, các hoá chất khác hoặc dùng điện để
đánh bắt thuỷ sản thường làm cho thủy sản chết hàng loạt không phân biệt loài nào,
lớn hay bé, có thể có loài nặng hàng chục ki-lô-gam, có loài chỉ nhỏ như con tép
không chỉ huỷ diệt nguồn thuỷ sản mà còn huỷ hoại cả môi trường thuỷ sản. Dùng các
phương tiện, ngư cụ bị cấm để khai thác thuỷ sản tuy không gây ra sự huỷ diệt như
dùng chất độc, chất nổ nhưng cũng gây tác hại lớn đối với nguồn lợi thuỷ sản như:
Nhà nước quy định chỉ được dùng lưới có mắt lưới 20cm x 20cm để đánh bắt cá ngoài
khơi nhưng ngư dân đã dùng lưới vét (loại lưới có mắt nhỏ) để đánh bắt cả loài thuỷ
sản nhỏ bé.
Khai thác thuỷ sản tại khu vực bị cấm, trong mùa sinh sản của một số loài hoặc
vào thời gian khác mà pháp luật cấm. (Để bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, Nhà nước quy
định một số khu vực cấm khai thác, cấm khai thác trong mùa sinh sản của một loài
thuỷ sản hoặc cấm khai thác vào những thời gian nhất định. Nếu đã có lệnh cấm và
biết đã bị cấm mà vẫn khai thác là vi phạm). Khai thác các loài thuỷ sản quý hiếm bị
cấm theo quy định của Chính phủ (Cùng với các động vật quý hiếm bị cấm săn bắt,
Nhà nước cũng quy định một số loài thuỷ sản không được khai thác vì đó là các loài
thủy sản quý hiếm nằm trong danh mục cấm). Các loài thủy sản quý hiếm bị cấm khai
thác do Chính phủ quy định ban hành kèm theo danh mục, nếu thuỷ sản mà ngư dân
đánh bắt được ngoài biển là loài hiếm chưa thấy bao giờ nhưng Chính phủ chưa quy
định đó là loài thủy sản quý hiếm bị cấm khai thác thì cũng không vi phạm.
Phá hoại nơi cư ngụ của các loài thuỷ sản quý hiếm được bảo vệ theo quy định
của Chính phủ. (Bảo vệ nơi cư ngụ của các loài thủy sản quý hiếm cũng chính là bảo
đảm cho loài thuỷ sản quý hiếm có điều kiện tồn tại và phát triển, phá hoại nơi cư ngụ
của các loài thuỷ sản này cũng chính là hành vi huỷ hoại nguồn thủy sản). Vi phạm các
quy định khác về bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản (Vi phạm các quy định khác về bảo vệ
nguồn lợi thuỷ sản là ngoài hành vi sử dụng chất độc, chất nổ, các hoá chất khác, dòng
điện hoặc các phương tiện, ngư cụ khác bị cấm để khai thác thuỷ sản hoặc làm huỷ
hoại nguồn lợi thuỷ sản, khai thác thuỷ sản tại khu vực bị cấm, trong mùa sinh sản của
một số loài hoặc vào thời gian khác mà pháp luật cấm, khai thác các loài thuỷ sản quý
hiếm bị cấm theo quy định của Chính phủ và phá hoại nơi cư ngụ của các loài thuỷ sản
quý hiếm được bảo vệ theo quy định của Chính phủ, thì bất cứ hành vi nào khác mà
huỷ hoại nguồn lợi thủy sản đều bị coi là hành vi phạm tội này).
Tội hủy hoại rừng (Điều 243), bao gồm các hành vi: Đốt rừng là dùng lửa hoặc
các hoá chất phát lửa làm cho rừng bị cháy, có thể cháy toàn bộ hoặc chỉ cháy một
phần. Hành vi đốt rừng làm rẫy của đồng bào ở vùng cao nếu được chính quyền cho
phép thì không coi là huỷ hoại rừng. Tuy nhiên, việc đốt rừng làm rẫy cho đến nay hầu
như không được phép. Phá rừng là chặt phá cây trong rừng hoặc khai thác tài nguyên
của rừng không được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép như: khai thác
gỗ, khai thác các lâm sản trái phép v.v…. Hành vi khác hủy hoại rừng là ngoài hai
hành vi đốt rừng và phá rừng trái phép thì bất cứ hành vi nào làm cho rừng bị tàn phá
đều là hủy hoại rừng như: Dùng hoá chất độc phun hoặc rải xuống đất làm cho cây
rừng bị chết khô, thả gia súc vào rừng mới trồng để gia súc phá hoại cây rừng v.v…
Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm (Điều 244): Cá
nhân hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một hoặc một số hành vi sau đây:
Săn bắt, giết, nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật thuộc Danh
mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ.
Săn bắt động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm là dùng các loại vũ
khí hoặc phương tiện khác để bắt sống hoặc có thể bắn chết.
Giết là làm cho động vật nguy cấp, quý, hiếm hoang dã quý hiếm chết sau khi
đã bắt được.
Nuôi, nhốt là việc đưa (mang) động vật nguy cấp, quý, hiếm còn sống đem đi
giam cầm, nhốt giữ hoặc chăm nuôi mà không được cơ quan có thẩm quyền cấp phép
hoặc cho phép nuôi, nhốt.
Vận chuyển động vật nguy cấp, quý, hiếm là hành vi dịch chuyển động vật
hoang dã quý hiếm từ này sang nơi khác bằng bất cứ phương tiện gì, không bao gồm
hành vi buôn bán, nếu người buôn bán động vật hoang dã quý hiếm đồng thời vận
chuyển động vật đó thì chỉ coi là buôn bán.
Buôn bán trái phép động vật nguy cấp, quý, hiếm là mua để bán động vật hoang
dã quý hiếm nhằm thu lợi nhuận. Nếu săn bắt được động vật hoang dã quý hiếm rồi
bán lại cho người khác thì không coi là buôn bán.
Tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép cá thể, bộ phận cơ thể không thể tách
rời sự sống hoặc sản phẩm của động vật quy định tại điểm a khoản này.
Tàng trữ là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp cá thể, bộ phận cơ thể không thể tách
rời sự sống hoặc sản phẩm của động vật nguy cấp, quý, hiếm.
Ngà voi có khối lượng từ 02 kilôgam đến dưới 20 kilôgam, sừng tê giác có khối
lượng từ 0,05 kilôgam đến dưới 01 kilôgam.
Săn bắt, giết, nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật thuộc danh
mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm nhóm IB hoặc phụ lục I Công
ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp mà không
thuộc loài quy định tại Điểm a khoản này với số lượng từ 03 đến 07 cá thể lớp thú, từ
07 đến 10 cá thể lớp chim, bò sát hoặc từ 10 đến 15 cá thể động vật lớp khác.
Tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép bộ phận cơ thể không thể tách rời sự
sống của từ 03 đến 07 cá thể lớp thú, từ 07 đến 10 cá thể lớp chim, bò sát hoặc từ 10
đến 15 cá thể động vật lớp khác quy định tại Điểm c khoản này.
Săn bắt, giết, nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật hoặc tàng trữ,
vận chuyển, buôn bán trái phép bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống của động
vật có số lượng dưới mức quy định tại các Điểm c, d và đ khoản này nhưng đã bị xử
phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại điều này hoặc đã bị kết
án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Nhóm các hành vi làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm (quy định tại các điều 240,
241- Bộ luật Hình sự hiện hành): bao gồm các hành vi cụ thể như làm lây lan dịch
bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người là hành vi đưa ra hoặc cho phép đưa ra khỏi
vùng có dịch bệnh động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác
có khả năng lây truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người, đưa vào hoặc cho phép đưa
vào lãnh thổ Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm
bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng lây truyền cho người hoặc có hành
vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người. (Dịch bệnh truyền nhiễm nguy
hiểm cho người là những bệnh có khả năng lây lan nhanh chóng từ người này sang
người khác tại cộng đồng dân cư và được thể hiện qua các triệu chứng như gây chết
người nhanh chóng hoặc chết người hàng loạt hoặc những căn bệnh có khả năng gây
tổn hại nặng cho sức khỏe người bị nhiễm bệnh hay khó chữa trị như các bệnh dịch,
cúm, lao, bệnh lở mồm long móng, dịch tai xanh,...). Làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm
cho động vật, thực vật là hành vi đưa vào hoặc mang ra khỏi khu vực hạn chế lưu
thông động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác bị nhiễm
bệnh hoặc mang mầm bệnh, đưa vào hoặc cho phép đưa vào Việt Nam động vật, thực
vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật thuộc đối tượng kiểm dịch mà không thực hiện
các quy định của pháp luật về kiểm dịch, hoặc có hành vi khác làm lây lan dịch bệnh
nguy hiểm cho động vật, thực vật.
+ Chủ thể của tội phạm:
Về cá nhân, đa số các tội phạm về môi trường được thực hiện bởi chủ thể là bất
kỳ người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo qui định của Bộ
luật Hình sự. Bên cạnh đó cũng có tội phạm được thực hiện bởi chủ thể đặc biệt là
người có chức vụ quyền hạn.
Về pháp nhân thương mại phải đảm bảo các quy định: được thành lập hợp pháp
theo quy định của Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan, có cơ cấu tổ chức theo quy
định của Bộ luật Dân sự, có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu
trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một
cách độc lập, có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các
thành viên. Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều
kiện: Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại, hành vi
phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại, hành vi phạm tội được
thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại, chưa
hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Bộ luật Hình sự.
+ Mặt chủ quan của tội phạm:
Các tội phạm về môi trường được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc vô ý.
Hầu hết tội phạm về môi trường thực hiện hành vi phạm tội dưới hình thức lỗi cố ý. Có
nghĩa là chủ thể thực hiện tội phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho
xã hội và sẽ gây ra hậu quả nhất định cho xã hội, nhưng vẫn thực hiện hành vi. Động
cơ, mục đích phạm tội đa dạng, nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành
tội phạm của các tội phạm về môi trường.
- Dấu hiệu của vi phạm hành chính về môi trường
+ Về chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính:
Bao gồm các cá nhân hoặc tổ chức có đủ điều kiện về chủ thể.
Đối với cá nhân, người vi phạm phải có khả năng nhận thức và điều khiển hành
vi, đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật.
Đối với tổ chức vi phạm phải có tư cách pháp nhân, nghĩa là các tổ chức này
được thành lập hợp pháp, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có tài sản độc lập với cá nhân, tổ
chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản độc lập đó, đồng thời được nhân danh
mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
+ Về hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Hành vi vi phạm các quy định về cam kết bảo vệ môi trường, báo cáo đánh giá
tác động môi trường, đề án bảo vệ môi trường.
Hành vi gây ô nhiễm môi trường; hành vi vi phạm các quy định về quản lý chất
thải.
Hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập khẩu
máy móc, thiết bị, phương tiện giao thông vận tải, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, phế
liệu, chế phẩm sinh học.
Hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch và
khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên.
Hành vi vi phạm các quy định về thực hiện phòng, chống, khắc phục ô nhiễm,
suy thoái, sự cố môi trường.
Hành vi vi phạm về đa dạng sinh học bao gồm: Bảo tồn và phát triển bền vững
hệ sinh thái tự nhiên.
Hành vi vi phạm các quy định về bảo tồn và phát triển bền vững các loài sinh
vật và bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên di truyền.
Hành vi cản trở hoạt động quản lý nhà nước, kiểm tra, phối hợp thanh tra, xử
phạt vi phạm hành chính.
Các vi phạm quy định khác về bảo vệ môi trường.
+ Hình thức lỗi: Các chủ thể thực hiện hành vi vi phạm bởi lỗi cố ý hoặc vô ý.
Tuy nhiên, vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường chủ yếu được thực hiện dưới
hình thức lỗi cố ý. Các tổ chức, cá nhân nhận thức được hành vi của mình xâm phạm
đến môi trường nhưng vẫn cố ý thực hiện.
+ Hình thức xử lý: Hành vi vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường sẽ bị xử
lý theo quy định của pháp luật hành chính bao gồm phạt tiền, cảnh cáo, tịch thu tang
vật, phương tiện vi phạm và áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành chính khác.
3.1.4. Nguyên nhân, điều kiện của vi phạm pháp luật về môi trường
3.1.4.1. Nguyên nhân, điều kiện khách quan
Sự phát triển “quá nhanh” và “nóng” của kinh tế - xã hội không tính đến yếu tố
bảo vệ môi trường của các ngành, các lĩnh vực kinh tế - xã hội là một trong những
nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh tội phạm môi trường và là mảnh đất tốt để tội
phạm môi trường phát triển.
- Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhiều chính sách ưu đãi để
phát triển kinh tế mà không quan tâm đến bảo vệ môi trường.
Đất nước ta trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại
nhằm thu hút đầu tư với nhiều chính sách ưu đãi, nhập khẩu máy móc, phương tiện,
thiết bị phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhưng công tác kiểm tra, kiểm soát và
quản lý xuất nhập khẩu chưa chặt chẽ để các đối tượng lợi dụng thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật về môi trường.
Việc mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện phát triển cho các ngành
công nghiệp, khai thác khoáng sản, xuất nhập khẩu, sản xuất hàng hóa sẽ có điều kiện
phát triển, song cũng sẽ phải đối mặt với một thách thức đó là các hành vi gây ô
nhiễm, huỷ hoại môi trường, khai thác cạn kiệt tài nguyên môi trường, vi phạm các chế
độ về BVMT, đặc biệt đối với các hành vi vận chuyển chất thải nguy hại, phóng xạ trái
phép qua biên giới, xả thải không qua xử lý ra môi trường… với tính chất, mức độ
ngày càng phức tạp và đa dạng. Các doanh nghiệp nước ngoài sẽ lợi dụng những hạn
chế trong công tác quản lý môi trường, sơ hở của pháp luật, thiếu kinh nghiệm, non
kém về kiến thức khoa học - kỹ thuật hoặc lợi dụng những cán bộ thoái hóa biến chất
ký cấp phép các dự án mà không chú trọng các cam kết bảo vệ môi trường.
- Áp lực tăng trưởng kinh tế, các cơ quan ở địa phương mới chỉ quan tâm đến
lợi ích kinh tế trước mắt, chưa chú trọng đúng mức đến công tác bảo vệ môi trường,
thậm chí nhận thức không đầy đủ về công tác BVMT đã kêu gọi đầu tư dàn trải, cấp
phép kinh doanh ồ ạt, không quan tâm đến việc thẩm định ảnh hưởng của các dự án
đối với môi trường. Bên cạnh đó, việc giải quyết “mâu thuẫn” giữa phát triển tăng
trưởng kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm, an sinh xã hội với công tác BVMT là một
“bài toán” hết sức nan giải chưa thể giải quyết một sớm một chiều đối với nhiều cấp,
nhiều ngành.
- Công tác quản lý nhà nước về môi trường:
Việc phân định chức năng quản lý nhà nước và phân công trách nhiệm giữa các
Bộ, ban ngành trong công tác bảo vệ môi trường nói chung, bảo vệ các thành phần môi
trường nói riêng còn chồng chéo, trùng dẫm về chức năng nhiệm vụ hoặc mỗi một Bộ
lại quản lý một khâu, một hoạt động nên việc thống nhất quản lý xuyên suốt có sơ hở,
để cho các đối tượng lợi dụng thực hiện tội phạm, vi phạm pháp luật về môi trường.
Một số bất cập công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường:
+ Quản lý nhà nước đối với nước thải.
+ Quản lý nhà nước đối với chất thải rắn.
+ Quản lý nhà nước đối với môi trường không khí.
+ Thẩm định công nghệ môi trường.
+ Ban hành các quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường.
- Hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường còn thiếu và chưa đồng bộ.
Văn bản pháp luật về môi trường hiện nay đang trong giai đoạn xây dựng, bổ
sung và hoàn thiện. Hệ thống các văn bản pháp luật về môi trường hiện nay “vừa thiếu
lại vừa thừa”. Thiếu những văn bản pháp quy mang tính thống nhất và có hiệu lực cao.
Nhiều văn bản pháp luật còn chồng chéo, trùng dẫm. Trong khi đó, thiếu các thông tư
hướng dẫn thực hiện dẫn đến khó khăn cho lực lượng thực hiện nhiệm vụ.
3.1.4.2. Nguyên nhân, điều kiện chủ quan
- Nhận thức của một số bộ phận các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường chưa cao, ý thức BVMT của các cơ quan, doanh nghiệp và công dân còn kém,
chưa tự giác, vấn đề bảo vệ môi trường chưa được quan tâm chú trọng đúng mức.
Chính quyền các cấp, các ngành chỉ chú trọng phát triển kinh tế chưa coi trọng công
tác bảo vệ môi trường, thực hiện các biện pháp thu hút đầu tư, cấp phép dự án nhưng
chưa quan tâm chỉ đạo thực hiện các cam kết bảo vệ môi trường, đầu tư hệ thống hạ
tầng đảm bảo cho công tác xử lý chất thải, rác thải.
- Các cơ quan chức năng chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm trong phòng,
chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Đây là những thiếu sót thuộc về chủ quan của các ngành, các cấp trong toàn xã
hội dẫn đến vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường có điều kiện còn tồn tại và phát
triển.
+ Trước hết đó là những tồn tại, thiếu sót của lực lượng trực tiếp phòng, chống
vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Đội ngũ cán bộ chiến sĩ trực tiếp đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường còn thiếu, chưa đủ biên chế ở các cấp công an, dẫn đến công tác
quản lý địa bàn, quản lý đối tượng có điều kiện, khả năng phạm tội về môi trường còn
có những thiếu sót, bất cập, một số địa bàn còn bỏ trống, đối tượng đi đâu, làm gì chưa
nắm bắt. Vì vậy, dẫn đến các hành vi vi phạm hành chính về môi trường ngay từ ban
đầu còn chưa kịp thời phát hiện, giải quyết triệt để đã trở thành tội phạm.
Bên cạnh đó, một số cán bộ trong lực lượng trực tiếp đấu tranh phòng, chống
còn yếu về năng lực nghiệp vụ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác
phòng, chống tội phạm môi trường thời kỳ hội nhập, thời kỳ CNH - HĐH. Phần lớn
cán bộ trong lực lượng trực tiếp đấu tranh phòng, chống còn thiếu các kiến thức
chuyên sâu về môi trường, đặc biệt là trong các lĩnh vực quản lý môi trường, công
nghệ môi trường, xử lý chất thải. Một số được tuyển dụng từ ngành ngoài vào có kiến
thức về môi trường song lại hạn chế về năng lực nghiệp vụ, dẫn đến những bất cập
trong phát hiện, xử lý các hành vi phạm tội và vi phạm pháp luật về môi trường.
Công tác quản lý địa bàn, lĩnh vực trọng điểm, quản lý đối tượng có biểu hiện
vi phạm pháp luật về môi trường của lực lượng trực tiếp đấu tranh phòng, chống còn
chưa tốt. Các đối tượng có biểu hiện vi phạm pháp luật về môi trường còn có điều kiện
để lợi dụng thực hiện hành vi vi phạm.
Trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật cho lực lượng trực tiếp đấu tranh phòng, chống
còn chưa đáp ứng được với yêu cầu thực tiễn của công tác đấu tranh đòi hỏi như về
kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị, công cụ phương tiện công tác cùng các điều
kiện làm việc chưa được đảm bảo... đây là các điều kiện yếu tố có tác động trực tiếp
đến sự tồn tại, phát sinh, phát triển của các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường
trong giai đoạn hiện nay.
+ Các cơ quan chức năng có liên quan trong đấu tranh phòng, chống tội phạm,
vi phạm pháp luật về môi trường như: Bộ Tài nguyên & Môi trường, Hải quan, Kiểm
lâm, quản lý thị trường, Thanh tra của ngành y tế, xây dựng,... còn chưa làm hết chức
năng của mình trong phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về môi
trường, còn cho đó là nhiệm vụ của cơ quan công an, chưa phát huy hết trách nhiệm
của mình trong phòng, chống vi phạm pháp luật về môi trường.
+ Công tác phối hợp giữa các lực lượng trong phòng, chống tội phạm về môi trường
còn chưa tốt, chưa xây dựng được cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, việc phối hợp
chặt chẽ giữa các lực lượng chưa đồng bộ, chưa thường xuyên.
Những tồn tại, thiếu sót nêu trên của các cơ quan chức năng là những điều kiện
thuận lợi cho tội phạm, vi phạm pháp luật về môi trường tồn tại và phát triển. Do đó,
cần chăm lo xây dựng lực lượng chuyên trách đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp
luật về môi trường vững mạnh, giỏi về pháp luật, tinh thông về nghiệp vụ chuyên môn,
có mối quan hệ chặt chẽ với các lực lượng có liên quan sẽ có ý nghĩa quan trọng trong
công tác phòng ngừa, phát hiện và ngăn chặn tội phạm, vi phạm pháp luật khác về môi
trường, góp phần quan trọng vào công tác đảm bảo an ninh trật tự và phát triển bền
vững của đất nước.
3.1.4.3. Nguyên nhân thuộc về phía đối tượng vi phạm
Vi phạm pháp luật về môi trường nói chung phần lớn đều có động cơ, mục đích
tư lợi cá nhân, đặc biệt là đối tượng phạm tội về môi trường. Hầu hết các tội phạm cụ
thể trong lĩnh vực môi trường đều có động cơ, mục đích vụ lợi, đều nhằm mục đích thu
lợi bất chính về kinh tế. Các đối tượng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trong
từng lĩnh vực cụ thể nhằm mục đích làm sao để kiếm được nhiều lợi nhuận nhất và chi
phí bỏ ra ít nhất như trong các lĩnh vực gây ô nhiễm, suy thoái môi trường. Phần lớn
các đối tượng đều biết song do chi phí cho xử lý chất thải thường tốn kém nên giá
thành sản phẩm sẽ cao, không cạnh tranh được trên thị trường nên các đối tượng
không đầu tư, chấp nhận bị xử phạt còn rẻ hơn là đầu tư xử lý chất thải.
Ý thức coi thường pháp luật, sống thiếu kỷ cương không tuân thủ các quy tắc,
chuẩn mực xã hội cùng với việc ý thức sai lệch về cách thỏa mãn nhu cầu cá nhân là
yếu tố chủ quan dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường của các
đối tượng. Do đó, việc tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao
nhận thức cho mọi người về công tác bảo vệ môi trường, về ý thức tuân thủ pháp luật
cũng như những chuẩn mực của cuộc sống sẽ góp phần quan trọng vào phòng, chống
vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhận thức đối với phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
3.2.1. Khái niệm, đặc điểm
3.2.1.1. Khái niệm
Phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường (hiểu theo nghĩa rộng
bao gồm cả tội phạm và vi phạm hành chính) là thuật ngữ được sử dụng tương đối phổ
biến trong xã hội, được nhìn nhận và đánh giá từ nhiều góc độ, phạm vi khác nhau.
Nhưng nhìn chung nó hàm chứa các nội dung liên quan đến các biện pháp nhằm loại
trừ các nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm, vi phạm pháp luật khác về bảo
vệ môi trường, phát hiện, ngăn chặn tội phạm, vi phạm pháp luật khác về bảo vệ môi
trường cũng như tiến hành điều tra, xử lý tội phạm, vi phạm pháp luật khác về bảo vệ
môi trường nhằm hạn chế hậu quả tác hại do các hành vi này gây ra cho xã hội.
“Phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường là hoạt động các cơ
quan nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân bằng việc sử dụng tổng hợp các biện
pháp, phương tiện nhằm ngăn chặn, hạn chế tình hình vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường; phát hiện, loại trừ các nguyên nhân, điều kiện của vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường; khi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường xảy ra thì hạn chế đến
mức thấp nhất hậu quả tác hại, kịp thời phát hiện, điều tra, xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường”1
Từ nhận thức như trên có thể thấy: phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường cũng có đặc trưng chung của hoạt động phòng, chống các loại tội phạm, vi
phạm pháp luật khác nói chung, đó là tiến hành có hệ thống các biện pháp nhằm ngăn
chặn, hạn chế không để vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường xảy ra, đảm bảo môi
trường không bị ô nhiễm, suy thoái, đồng thời đảm bảo kịp thời các hoạt động điều tra,
xử lý người có hành vi phạm tội hoặc vi phạm hành chính để giáo dục, cải tạo họ tiến
bộ, trở thành công dân có ích cho xã hội, tôn trọng pháp luật và các quy tắc của cuộc
sống xã hội chủ nghĩa.
1
Vụ giáo dục quốc phòng và an ninh (2020), Tài liệu tập huấn giáo viên Giáo dục quốc phòng và an
ninh, Hà Nội, tr.89.
Chủ thể tiến hành phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường là cơ
quan, tổ chức xã hội và mọi công dân trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
được phân công sẽ tác động vào các yếu tố làm phát sinh các hành vi vi phạm pháp
luật về bảo vệ môi trường để kịp thời phòng ngừa, ngăn chặn không để cho tội phạm
và các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường xảy ra cũng như tiến hành các
biện pháp điều tra, xử lý để răn đe, giáo dục và cảm hóa họ trở thành người có ích cho
xã hội.
3.2.1.2. Đặc điểm
- Chủ thể tiến hành tham gia phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường rất đa dạng. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hành được quy định trong
các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để tiến hành các
hoạt động phòng ngừa cũng như điều tra, xử lý phù hợp.
- Biện pháp tiến hành phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
được triển khai đồng bộ, có sự kết hợp hài hòa giữa các biện pháp phòng ngừa (phòng
ngừa xã hội và phòng ngừa nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn) với các biện pháp
điều tra, xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường (cả tội
phạm và vi phạm hành chính).
- Phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường có liên quan trực tiếp
đến việc sử dụng các công cụ phương tiện nghiệp vụ và ứng dụng tiến bộ của khoa học
công nghệ.
- Phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường có sự phối kết hợp chặt
chẽ giữa các chủ thể tham gia trên cơ sở chức năng, quyền hạn được phân công.
3.2.2. Nội dung, biện pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường
3.2.2.1. Nội dung phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Nắm tình hình vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, nghiên cứu làm rõ
những vấn đề có tính quy luật trong hoạt động vi phạm pháp luật của các đối tượng.
Trong phạm vi nhiệm vụ, các cơ quan chuyên môn cần nắm vững:
+ Số vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường xảy ra trong từng thời gian (từng
quý, năm) trên từng địa bàn cụ thể gắn với lĩnh vực công tác chuyên môn.
+ Các loại vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường xảy ra phổ biến (tội phạm vi
phạm hành chính, các hành vi vi phạm cụ thể về gây ô nhiễm môi trường, hủy hoại tài
nguyên, môi trường, làm lây lan dịch bệnh,...).
+ Lĩnh vực xảy ra nhiều là những lĩnh vực nào.
+ Đối tượng gây ra các vụ vi phạm thuộc loại người nào trong xã hội quốc tịch,
dân tộc (nhân thân của đối tượng); các pháp nhân thương mại nào là chủ yếu (công ty
cổ phần, công ty TNHH, các cơ sở sản xuất, kinh doanh có đăng ký pháp nhân,...).
+ Phương thức, thủ đoạn hoạt động, hậu quả, tác hại gây ra cho xã hội và cho
nhân dân…
- Xác định và làm rõ các nguyên nhân, điều kiện của vi phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường.
Tiến hành nghiên cứu tìm ra những nguyên nhân, điều kiện của tình trạng vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trong giai đoạn hiện nay và nguyên nhân, điều
kiện của từng loại vi phạm cụ thể, từng vụ việc vi phạm cụ thể. Xác định rõ các
nguyên nhân và điều kiện thuộc ngành nào, lĩnh vực nào cụ thể. Trên cơ sở đó, cần
kiến nghị với các ngành, các cấp và trực tiếp tiến hành bịt kín những sơ hở thiếu sót,
những hiện tượng tiêu cực làm phát sinh vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Xây dựng các kế hoạch, biện pháp, các giải pháp chủ động hạn chế các nguyên
nhân, khắc phục các điều kiện của vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Nội dung này đòi hỏi các cơ quan, tổ chức phải xây dựng các phương án, các kế
hoạch cụ thể, những giải pháp để phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường. Trong đó phải xác định rõ những công việc phải làm trước mắt, những việc
phải làm lâu dài, các lực lượng tham gia hỗ trợ, các biện pháp cụ thể sẽ sử dụng,…
- Tổ chức lực lượng tiến hành các hoạt động khắc phục các nguyên nhân, điều
kiện của tội phạm về môi trường, từng bước kiềm chế, đẩy lùi tình trạng vi phạm pháp
luật về bảo vệ môi trường.
Đây là nội dung cụ thể đòi hỏi các lực lượng, cơ quan chuyên môn tổ chức thực
hiện các phương án, kế hoạch đã đề ra. Huy động sức mạnh tổng hợp của các ngành,
các cấp, các đoàn thể, các tổ chức quần chúng tham gia vào cuộc đấu tranh. Trong đó
lực lượng Công an là lực lượng chủ công, nòng cốt, xung kích sử dụng đồng bộ các
biện pháp bao gồm các biện pháp chung của toàn xã hội và các biện pháp nghiệp vụ
chuyên môn của mình để đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực xã hội là nguyên nhân
nảy sinh vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở từng lĩnh vực, trên từng địa bàn
nhằm hạn chế sự gia tăng tội phạm về môi trường, tiến tới loại trừ vi phạm pháp luật
về bảo vệ môi trường ra khỏi đời sống xã hội trong tương lai.
- Tiến hành các hoạt động điều tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Khi tội phạm về môi trường xảy ra, căn cứ vào tính chất mức độ, mức độ của
hành vi phạm tội mà các cơ quan chuyên môn có thẩm quyền (Công an, Viện Kiểm
sát, Tòa án,...) sẽ tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Đối với các vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường tùy theo cơ quan chuyên
môn nào phát hiện (Công an, Thanh tra chuyên ngành, Quản lý thị trường, Hải Quan,
Kiểm lâm,...) sẽ tiến hành xử lý hành chính theo thẩm quyền.
3.2.2.2. Biện pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
- Các biện pháp phòng, chống chung:
+ Biện pháp tổ chức - hành chính: Xây dựng, hoàn thiện cơ cấu tổ chức các cơ
quan quản lý nhà nước về môi trường, các chủ thể tham gia bảo vệ môi trường, nâng
cao năng lực các cơ quan nhà nước, đơn vị kinh tế, các tổ chức xã hội, đoàn thể quần
chúng và nhân dân trong bảo vệ môi trường, thể chế hoá đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ môi trường...
+ Biện pháp kinh tế: Biện pháp này chủ yếu dùng các lợi ích vật chất để kích
thích chủ thể thực hiện những hoạt động có lợi cho môi trường, bảo vệ môi trường và
ngược lại xử lý, hạn chế lợi ích kinh tế của chủ thể vi phạm.
+ Biện pháp khoa học - công nghệ: Là ứng dụng các biện pháp khoa học công
nghệ vào giải quyết những vấn đề môi trường.
+ Biện pháp tuyên truyền, giáo dục: là giáo dục, tuyên truyền đường lối chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng vào
việc bảo vệ môi trường.
+ Biện pháp pháp luật là biện pháp xây dựng các quy phạm pháp luật và tổ chức
thực hiện, áp dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc bảo
vệ môi trường.
- Các biện pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường cụ thể:
+ Tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền và các cơ quan, ban ngành có liên
quan trong đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Tham mưu là một chức năng quan trọng của các cơ quan, tổ chức khi tham gia
các hoạt động nói chung. Trong phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các lực lượng có liên quan tới hoạt
động phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường mà các cơ quan, tổ chức
sẽ có các hoạt động tham mưu cụ thể khác nhau, nội dung, phương pháp khác nhau.
Nhìn chung, hoạt động tham mưu của các chủ thể bao gồm:
Một là, tham mưu về nội dung của công tác phòng, chống vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường như trong việc kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, xã hội, phát
triển bền vững gắn với công tác bảo vệ môi trường, đảm bảo cho sự trong lành của môi
trường sống, an sinh xã hội. Thể hiện ở các phương diện như: tham mưu cho các cơ
quan chức năng có thẩm quyền trong xây dựng, ban hành hệ thống các văn bản pháp
luật về môi trường, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về môi
trường. Trong đó, tập trung nêu rõ các hành vi bị nghiêm cấm, nghĩa vụ, trách nhiệm
của cơ quan, đoàn thể và của công dân trong công tác bảo vệ môi trường, những
khuyến cáo cần thực hiện trong đấu tranh phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật
về bảo vệ môi trường.
Hai là, tham mưu cho các cơ quan chức năng có liên quan về phương pháp,
cách thức tổ chức các hoạt động phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường, theo chức năng nhiệm vụ của ngành đó như: cách thức tổ chức các hoạt động
phòng ngừa, phương pháp huy động lực lượng, phương tiện tham gia vào công tác
phòng chống, các hình thức phát động quần chúng tham gia vào phòng, chống… gắn
với việc thực hiện các phong trào, công tác chuyên môn của các cơ quan ban ngành
đó.
Ba là, phối hợp với các cơ quan có liên quan tiến hành các hoạt động tuyên
truyền, giáo dục quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm, vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Đây là một hoạt động mang
tính xã hội và mang tính chiến lược cơ bản, lâu dài có ý nghĩa quan trọng trong biện
pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Chỉ khi nào quần chúng
trong xã hội tự giác tham gia vào các hoạt động phòng, chống cụ thể thì khi đó hiệu
quả của công tác phòng ngừa cũng như điều tra khám phá tội phạm và vi phạm pháp
luật về môi trường mới được nâng cao, đáp ứng được với mục tiêu, yêu cầu đề ra.
Để thực hiện tốt nội dung nêu trên các lực lượng có liên quan làm tốt những
nội dung cụ thể sau:
Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho quần chúng nhân dân về ý thức trách nhiệm
trong công tác bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên. Trên cơ sở đó đề xuất quần
chúng nhân dân tự giác tham gia vào phòng ngừa và đấu tranh.
Tuyên truyền cho quần chúng nhân dân thấy được hậu quả trước mắt cũng như
lâu dài do các hành vi phạm tội, vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, tài nguyên
gây ra cho xã hội và cho nhân dân, những ảnh hưởng nặng nề cho đời sống xã hội hiện
tại và tương lai. Trên cơ sở đó để quần chúng nhân dân không có các hành vi phạm tội
và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Tuyên truyền cho mọi người trong xã hội thấy được phương thức thủ đoạn hoạt
động của tội phạm, vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, để quần chúng nhân dân
cảnh giác không bị lôi kéo vào các hoạt động phạm tội; chủ động phát hiện và báo cho
cơ quan chức năng (Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án, Thanh tra chuyên ngành, Kiểm
lâm, Hải quan,...) biết các hành vi vi phạm, đối tượng nghi vấn có liên quan đến tội
phạm và vi phạm pháp luật khác về bảo vệ môi trường, có biện pháp ngăn chặn, xử lý
kịp thời.
Tuyên truyền cho quần chúng nhân dân nắm được những kiến thức cơ bản về
bảo vệ môi trường và phòng, chống tội phạm về môi trường.
Về hình thức tuyên truyền, lực lượng Cảnh sát môi trường có thể trực tiếp tiến
hành các hoạt động tuyên truyền thông qua các buổi nói chuyện chuyên đề hoặc qua
các hội nghị. Hình thức về chuyên đề bảo vệ môi trường có thể phối hợp với các cơ
quan thông tin đại chúng như đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, các loại báo viết,
… hoặc thông qua nhà trường để có các nội dung tuyên truyền phù hợp; có sự phối
hợp với các cơ quan văn hóa trong kẻ vẽ pano, áp phích. Hoặc tiến hành sân khấu hóa
các nội dung cần tuyên truyền. Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về môi trường
cho các thành viên trong xã hội. Tùy theo từng đối tượng cụ thể mà có các nội dung
tuyên truyền, hình thức tuyên truyền cho phù hợp.
+ Phối hợp với các lực lượng, các ngành có liên quan để vận động quần chúng
tham gia tích cực vào hoạt động phòng, chống tội phạm, vi phạm hành chính về môi
trường và bảo vệ môi trường.
Tội phạm và vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường đều là các hiện tượng
tiêu cực xã hội, có nguyên nhân phát sinh bởi các nhân tố tiêu cực ngay trong xã hội.
Vì vậy, để đấu tranh loại trừ hiện tượng tiêu cực xã hội này cần phải huy động được
đông đảo lực lượng của toàn xã hội tham gia. Muốn vậy, các cơ quan chuyên môn cần
làm tốt công tác vận động quần chúng, tổ chức cho quần chúng tham gia một cách tự
giác vào các tổ chức phù hợp để đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội
về bảo vệ môi trường môi trường nhằm bảo vệ môi trường.
Nội dung tổ chức vận động quần chúng tham gia tích cực vào công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm về môi trường bao gồm:
Tổ chức cho quần chúng tham gia vào các tổ chức xã hội phù hợp với điều kiện
cụ thể của mỗi người, mỗi vùng để thông qua đó vận động quần chúng tham gia tích
cực vào công tác bảo vệ môi trường, có các hành vi xâm hại đến môi trường.
Vận động quần chúng tham gia phát hiện, tố giác các hành vi vi phạm pháp
luật, phạm tội về bảo vệ môi trường cho cơ quan công an và các cơ quan chức năng để
có biện pháp ngăn chặn, xử lý.
Vận động quần chúng tham gia vào việc quản lý, giám sát, giáo dục các đối
tượng có điều kiện, khả năng, có biểu hiện nghi vấn phạm tội về môi trường, tác động
để các đối tượng từ bỏ ý định phạm tội về môi trường trở thành người có ích cho xã
hội.
Vận động, tổ chức cho quần chúng tham gia trực tiếp vào công tác đấu tranh
với các hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội về môi trường phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh của mỗi người như: Tham gia vào công tác kiểm điểm, giáo dục đối tượng,
ngăn chặn hành vi phạm tội về môi trường.
Về hình thức tổ chức vận động quần chúng:
Phối hợp với các lực lượng có liên quan vận động quần chúng tham gia vào các
hoạt động phòng ngừa tội phạm môi trường ở tại địa bàn cơ sở, nơi cư trú, cam kết thi
đua giữ gìn môi trường xanh, sạch, đẹp, cam kết không vi phạm pháp luật về môi
trường. Sử dụng những người có uy tín trong dòng họ, thôn xóm, khu phố, già làng,
trưởng bản... để vận động quần chúng nhân dân ở địa bàn cơ sở tham gia vào công tác
bảo vệ môi trường và đấu tranh chống các hành vi phạm tội, vi phạm pháp luật về môi
trường.
Tổ chức cho quần chúng tham gia vào các tổ chức xã hội phù hợp như: Tổ dân
phố, các câu lạc bộ, các tổ chức của các học sinh trong các nhà trường để thực hiện các
hoạt động: xây dựng khu phố văn minh, đường phố, thôn xóm xanh, sạch, đẹp... góp
phần bảo vệ môi trường.
Sử dụng những người có uy tín để cảm hóa, giáo dục các đối tượng trong diện
quản lý, tổ chức cho quần chúng tham gia kiểm điểm, giáo dục các đối tượng vi phạm,
tổ chức tái hòa nhập cộng đồng cho các đối tượng phạm tội, vi phạm pháp luật về môi
trường đi cơ sở giáo dục, trại cải tạo trở về địa phương.
Phối hợp với lực lượng có liên quan xây dựng lực lượng nòng cốt ở cơ sở (thôn
xóm, khối phố, bản làng) để thực hiện nhiệm vụ xung kích trong bảo vệ môi trường ở
địa bàn cơ sở, giáo dục đối tượng thuộc diện giáo dục ở cơ sở, vận động đối tượng
phạm tội về môi trường ra đầu thú, ngăn chặn các hành vi xâm hại trực tiếp đến môi
trường.
Việc tổ chức vận động quần chúng tham gia vào công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm về môi trường, bảo vệ môi trường phải được tiến hành một cách
thường xuyên, phải được lồng ghép vào việc thực hiện các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phương. Đặc biệt là phải gắn giữa phát triển bền vững với bảo vệ
môi trường. Bên cạnh đó phải căn cứ vào từng đối tượng cụ thể để có các hình thức tổ
chức vận động cụ thể phù hợp với điều kiện cụ thể của quần chúng, có như vậy mới
phát huy được hiệu quả công tác vận động quần chúng trong đấu tranh phòng, chống
tội phạm về môi trường.
+ Sử dụng các hoạt động nghiệp vụ chuyên môn để phòng, chống vi phạm pháp
luật về bảo vệ môi trường.
Các cơ quan chuyên môn như Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án, Thanh tra
chuyên ngành, Kiểm Lâm, Hải Quan, Quản lý Thị trường,... trong phạm vi chức năng,
nhiệm vụ và thẩm quyền của mình được sử dụng các biện pháp nghiệp vụ để tiến hành
các hoạt động phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường một cách hiệu
quả.
3.2.3. Chủ thể và quan hệ phối hợp trong phòng, chống vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường
3.2.3.1. Chủ thể tham gia phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
Phòng ngừa tội phạm và VPPL khác về môi trường là một bộ phận của công tác
BVMT có liên quan tới nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Do vậy, hoạt
động này không phải là trách nhiệm của riêng một cơ quan hay tổ chức nào mà là trách
nhiệm của toàn xã hội.
Trong Hiến pháp 2013, tại Điều 43, quy định: “Mọi người có quyền được sống
trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”, cũng tại Điều 63,
khẳng định: “Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường, quản lý, sử dụng hiệu quả,
bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, chủ
động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Nhà nước khuyến khích
mọi hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái
tạo. Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và
suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi
thường thiệt hại”1 Khoản 1, Điều 4, Luật BVMT 2014 quy định: “Bảo vệ môi trường
là trách nhiệm và nghĩa vụ mọi của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân”2 Do
vậy, để công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác về
bảo vệ môi trường đạt kết quả đòi hỏi phải có sự chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, sự tham
gia, phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng của các cấp, các ngành và toàn xã hội, trên cơ sở
phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể. Theo đó, các chủ thể có trách
nhiệm trong bảo vệ môi trường và phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường như sau:
- Đảng lãnh đạo Nhà nước, các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị và
quần chúng nhân dân tham gia vào phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường thông qua việc hoạch định các chủ trương, chính sách, ban hành các văn bản
hướng dẫn, nghị quyết, chỉ thị. Đảng lãnh đạo trực tiếp, nhiều mặt đối với các cơ quan
trực tiếp phòng, chống tội phạm về môi trường như Công an nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân, Toà án nhân dân... Kiểm tra, giám sát, kịp thời uốn nắn nhằm khắc phục
những sai sót, tồn tại, bất cập của công tác phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường.
- Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp: Là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà
nước và từng địa phương. Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp ban hành và hoàn
thiện hệ thống pháp luật, ban hành các pháp lệnh, nghị quyết về công tác bảo vệ môi
trường trong đó có công tác phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp: Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp
thống nhất quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường trong phạm vi cả nước, ban hành
các nghị định, nghị quyết, quyết định,… về công tác bảo vệ môi trường. Trực tiếp tiến
hành:
+ Chỉ đạo và phân công, phân cấp cụ thể cho các Bộ, Ngành, các cơ quan đoàn
thể xã hội trong phòng ngừa tội phạm và VPPL về BVMT.
+ Đề ra các chế độ, chính sách, cung cấp kinh phí, tạo điều kiện thuận lợi cho
các cơ quan tổ chức tiến hành hoạt động phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường.
+ Sử dụng các cơ quan chuyên trách trực thuộc phạm vi quản lý tiến hành các
hoạt động phòng, chống tội phạm về môi trường (Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án,
…).

1
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
2
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật bảo vệ môi trường.
+ Chỉ đạo tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống tội
phạm, vi phạm pháp luật khác về bảo vệ môi trường của các cơ quan do mình quản lý,
kịp thời sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cả về tổ chức và các văn bản đáp ứng yêu cầu
phòng, chống tội phạm.
+ Có chính sách, biện pháp nhằm động viên, huy động sức mạnh toàn dân tham
gia phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường...
- Nhiệm vụ của Bộ Tài nguyên và môi trường: Bộ Tài nguyên và môi trường
chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thực hiện quản lý Nhà nước về bảo vệ
môi trường và có trách nhiệm ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp
luật về bảo vệ môi trường trong các lĩnh vực, ban hành hệ thống quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia làm tiêu chuẩn đánh giá, xác định môi trường phục vụ công tác phòng, chống
vi phạm pháp luật về môi trường, trình Chính phủ quyết định chính sách, chiến lược,
kế hoạch quốc gia về bảo vệ môi trường, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra và xử lý vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Nhiệm vụ của Bộ Xây dựng: Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ
môi trường trong phạm vi trách nhiệm được phân công. Trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn,
kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các hoạt động xây dựng
cơ bản, xử lý chất thải rắn trong phạm vi trách nhiệm quản lý.
- Nhiệm vụ của Bộ Y tế: Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường trong phạm vi trách nhiệm được phân công. Trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm
tra, ban hành quy chế quản lý chất thải y tế, công tác bảo vệ môi trường tại các cơ sở y
tế.
- Nhiệm vụ của Bộ Thông tin truyền thông: Thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về bảo vệ môi trường trong phạm vi trách nhiệm được phân công. Trực tiếp chỉ
đạo các cơ quan chức năng thuộc Bộ phối hợp với các ngành liên quan thống nhất nội
dung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục phòng, chống tội phạm và VPPL khác
về bảo vệ môi trường nói riêng và công tác bảo vệ môi trường nói chung.
- Bộ Tư pháp: Bộ Tư pháp nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản
pháp luật về BVMT trong lĩnh vực y tế, tạo hành lang pháp lý đầy đủ, vững chắc phục
vụ công tác phòng ngừa VPPL môi trường.
- Bộ Tài chính: Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường
trong phạm vi trách nhiệm được phân công. Trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn Tổng cục
Hải Quan kiểm tra, giám sát chặt chẽ các hoạt động nhập khẩu từ nước ngoài vào Việt
Nam có biểu hiện vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Các tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng và công dân: Các tổ chức xã hội
gồm: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên như Tổng liên đoàn Lao
động Việt Nam, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên Cộng sản, Hội Phụ nữ, ... là cơ sở
chính trị vững chắc của Nhà nước có vị trí quan trọng trong công tác bảo vệ môi
trường nói chung, trong phòng, chống tội phạm và VPPL khác về môi trường nói
riêng. Những tổ chức này phối hợp, hỗ trợ cho chính quyền địa phương và các cơ quan
chuyên trách soạn thảo, tham gia xây dựng kế hoạch phòng, chống tội phạm và VPPL
khác về môi trường; trực tiếp tham gia thực hiện công tác phòng ngừa và tuyên truyền
pháp luật về bảo vệ môi trường, phòng chống tội phạm, VPPL khác về môi trường.
- Trách nhiệm hộ gia đình và công dân: thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ
công dân đã được Hiến pháp, pháp luật quy định về công tác bảo vệ môi trường; chủ
động phát hiện, tố giác các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; tham gia
cảm hoá giáo dục người phạm tội, giáo dục các thành viên trong gia đình mình có
trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ môi trường..., tích cực hợp tác, chia sẻ thông tin với
các cơ quan Nhà nước, cơ quan bảo vệ pháp luật trong phát hiện, điều tra, xử lý các tội
phạm về môi trường cũng như các hành vi vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường...
- Các cơ quan bảo vệ pháp luật (Công an, Viện kiểm sát, Toà án,...): cần chủ
động thực hiện các biện pháp phòng ngừa tội phạm về môi trường, tham mưu cho các
cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương đề ra các chủ trương, chính sách phù hợp, kịp
thời để phòng ngừa tội phạm, điều tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường, cụ thể là:
+ Nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình trạng tội phạm và VPPL khác về môi
trường; xác định nguyên nhân, điều kiện của nó, từ đó tham mưu, đề xuất, kiến nghị
trong việc hoạch định các chính sách, áp dụng các biện pháp hành vi vi phạm pháp luật
về bảo vệ môi trường có hiệu quả.
+ Sử dụng các biện pháp theo luật định và các biện pháp nghiệp vụ chuyên môn
theo chức năng cụ thể để trực tiếp tiến hành phòng, chống tội phạm về môi trường.
+ Làm lực lượng nòng cốt, xung kích trong việc phối hợp, hướng dẫn các cơ
quan nhà nước khác, các tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng và nhân dân trong quá
trình phòng, chống tội phạm về môi trường.
Theo quy định thì Bộ Công an có trách nhiệm tiến hành các biện pháp phòng
ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm và các VPPL khác về BVMT; phối hợp xây
dựng các văn bản pháp luật về phòng ngừa tội phạm và BVMT; huy động lực lượng
ứng phó, khắc phục sự cố môi trường; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra công tác
BVMT trong lực lượng vũ trang thuộc thẩm quyền quản lý.
Trong các cơ quan bảo vệ pháp luật thì lực lượng CAND là lực lượng chính,
tham gia trực tiếp, toàn diện vào phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường. Là lực lượng nòng cốt, xung kích trong phòng, chống vi phạm pháp luật
về bảo vệ môi trường.
Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân trong quá trình truy tố, xét xử phát
hiện ra nguyên nhân điều kiện của tội phạm về môi trường, từ đó đề xuất các giải pháp
khắc phục, phối hợp với lực lượng công an trong điều tra, truy tố, xét xử, giáo dục,
cảm hoá người phạm tội về môi trường.
3.2.3.2. Quan hệ phối hợp giữa các chủ thể trong phòng, chống vi phạm pháp
luật về bảo vệ môi trường.
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định, các chủ
thể tham gia phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường thường phối hợp
trên các nội dung cơ bản sau:
- Tham mưu, đề xuất trong hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội gắn
với công tác bảo vệ môi trường và phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường.
- Xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản pháp luật, các nội quy, quy định,
thiết chế về bảo vệ môi trường cũng như phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường trong từng giai đoạn, từng thời kỳ.
- Tổ chức chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện các chính sách pháp luật về bảo vệ
môi trường và phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Tổ chức và phối hợp tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi
trường và phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, tiến hành vận động quần
chúng tham gia phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Phối hợp trong công tác nắm tình hình, trao đổi thông tin về tình hình tội
phạm, vi phạm pháp luật khác về môi trường; trong kiểm tra, xác minh các thông tin;
huy động lực lượng, phương tiện tham gia phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường.
- Phối hợp trong tổ chức thực hiện các hoạt động điều tra, xử lý vi phạm; cảm
hóa, giáo dục đối tượng phạm tội về môi trường,...
- Phối hợp tổ chức tổng kết rút kinh nghiệm trong phòng, chống tội phạm và
các VPPL về môi trường.
- Phối hợp trong các hoạt động hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm, vi phạm
pháp luật về môi trường có yếu tố nước ngoài, xuyên quốc gia.
- Thực hiện các yêu cầu phối hợp khác khi được phân công.
3.2.4. Trách nhiệm phòng, chống vi phạm pháp luật về môi trường của các
nhà trường
3.2.4.1. Trách nhiệm của nhà trường.
- Tổ chức học tập, nghiên cứu và tuyên truyền giáo dục cho cán bộ, giảng viên
và sinh viên tham gia tích cực các hoạt động bảo vệ môi trường và phòng, chống vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Phối hợp với các cơ quan chuyên môn như Ngành Tài nguyên và Môi trường,
Công an (Cảnh sát môi trường), Thông tin & Truyền thông,… tổ chức các buổi tuyên
truyền, toạ đàm trao đổi, các cuộc thi tìm hiểu về bảo vệ môi trường và phòng, chống
vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Tham gia tích cực và hưởng ứng các chương trình, hành động về bảo vệ môi
trường do Nhà nước, các Bộ ngành phát động.
- Xây dựng các phong trào bảo vệ môi trường như: “Vì môi trường xanh - sạch
- đẹp”, “Phòng, chống rác thải nhựa”,… và tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về môi
trường và pháp luật về bảo vệ môi trường trong nhà trường.
- Xây dựng đội tình nguyện vì môi trường, thành lập các câu lạc bộ vì môi trường
và tiến hành thu gom, xử lý chất thải theo quy định (rác thải, nước thải,…).
3.2.4.2. Trách nhiệm của sinh viên.
- Nắm vững các quy định của pháp luật phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường.
- Xây dựng ý thức trách nhiệm trong các hoạt động bảo vệ môi trường như sử
dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn tài nguyên (nước, năng lượng,…).
- Tham ra tích cực trong các phong trào về bảo vệ môi trường.
- Xây dựng văn hóa ứng xử, ý thức trách nhiệm với môi trường như sống thân
thiện với môi trường xung quanh; tích cực trồng cây xanh; hạn chế sử dụng các
phương tiện giao thông cá nhân để bảo vệ môi trường không khí; tham gia thu gom rác
thải tại nơi sinh sống và học tập.

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN


1. Khái niệm, vai trò của pháp luật trong công tác bảo vệ môi trường được thể
hiện như thế nào?
2. Nêu và phân tích Nguyên nhân, điều kiện của vi phạm pháp luật về môi
trường?
3. Phân tích những nội dung, biện pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường?
4. Làm rõ Chủ thể và quan hệ phối hợp trong phòng, chống vi phạm pháp luật
về bảo vệ môi trường?
1

TÀI LIỆU HỌC TẬP HỌC PHẦN 3:

QUÂN SỰ CHUNG
*****************

Bài Nội dung Trang

Chế độ sinh hoạt, học tập, công tác trong ngày, trong
1 2
tuần
Các chế độ nền nếp chính quy, bố trí trật tự nội vụ trong
2 10
doanh trại
3 Hiểu biết chung về các quân binh chủng trong quân đội 17

6 Hiểu biết chung về bản đồ địa hình quân sự 36


Phòng tránh địch tiến công hỏa lực bằng vũ khí công
7 58
nghệ cao
8 Ba môn quân sự phối hợp 68
2

Bài 1. CHẾ ĐỘ SINH HOẠT, HỌC TẬP, CÔNG TÁC TRONG NGÀY,
TRONG TUẦN

Chương 1 trang bị cho sinh viên một số nội dung của Điều lệnh quản lý bộ đội
về các chế độ trong ngày, chế độ trong tuần; giúp sinh viên hiểu biết về các hoạt động
của người chiến sĩ trong môi trường quân đội và liên hệ vận dụng vào thực tiễn trong
thời gian tập trung học tập giáo dục quốc phòng và an ninh.
Quy định về thời gian làm việc trong ngày, trong tuần:
- Trong điều kiện bình thường, khi đóng quân trong doanh trại, thời gian làm
việc, sinh hoạt và nghỉ ngơi trong tuần, trong ngày được phân chia như sau: Mỗi tuần
làm việc 5 ngày và nghỉ 2 ngày vào thứ bảy và chủ nhật; nếu nghỉ vào ngày khác trong
tuần phải do Tư lệnh Quân khu, Quân chủng, Quân đoàn và tương đương trở lên quy
định thống nhất cho đơn vị thuộc quyền. Ngày lễ, ngày Tết được nghỉ theo quy định
của Nhà nước.
- Quân nhân làm việc vào ngày nghỉ thì được nghỉ bù. Thời gian và quyền hạn
cho quân nhân nghỉ bù do người chỉ huy cấp Đại đội và tương đương trở lên quyết
định. Ngày nghỉ được tổ chức vui chơi giải trí, hoạt động thể thao, văn hóa, văn nghệ,
vệ sinh môi trường, nhưng phải dành một thời gian nhất định để quân nhân có điều
kiện giải quyết việc riêng. Mỗi ngày làm việc 8 giờ, còn lại là thời gian ngủ, nghỉ, sinh
hoạt và phải được phân chia cụ thể theo thời gian biểu trong ngày. Trong điều kiện đặc
biệt, thời gian làm việc và nghỉ sẽ có quy định riêng.
- Sử dụng các buổi tối trong tuần: Tất cả các buổi tối trong tuần (trừ các buổi tối
trước và trong ngày nghỉ) phải tổ chức học tập hoặc sinh hoạt. Thời gian học tập, sinh
hoạt mỗi buổi tối không quá 2 giờ. Những đêm trước ngày nghỉ có thể ngủ muộn hơn,
nhưng không quá 23 giờ và sáng hôm sau thức dậy không quá 7 giờ.
- Thời gian làm việc của từng mùa, thời gian làm việc theo 2 mùa quy định như
sau: Mùa nóng từ ngày 01 tháng 4 đến 31 tháng 10. Mùa lạnh từ ngày 01 tháng 11 đến
31 tháng 3 năm sau. Thời gian biểu làm việc hàng ngày theo từng mùa do Tư lệnh
Quân khu, Quân chủng, Quân đoàn và tương đương trở lên quy định.
1.1. Chế độ sinh hoạt, học tập, công tác trong ngày
1.1.1. Treo quốc kỳ
Các đơn vị từ cấp Trung đoàn và tương đương trở lên, khi đóng quân cùng
trong một doanh trại phải tổ chức treo Quốc kỳ hàng ngày ở một vị trí trang trọng nhất.
Các Đại đội, Tiểu đoàn và tương đương khi đóng quân độc lập thì tổ chức treo
Quốc kỳ trên sân chào cờ, duyệt đội ngũ của đơn vị. Thời gian treo Quốc kỳ lúc 6 giờ,
thời gian hạ Quốc kỳ lúc 18 giờ hàng ngày.
3

1.1.2. Thức dậy


Trực chỉ huy và trực ban phải thức dậy trước 10 phút để trực tiếp ra hiệu lệnh
báo thức và đi kiểm tra đôn đốc mọi quân nhân trong đơn vị dậy đúng giờ.
Khi có hiệu lệnh báo thức mọi quân nhân phải dậy ngay, rời khỏi phòng ngủ để
ra sân tập thể dục hoặc chuẩn bị sẵn sàng công tác.
1.1.3. Thể dục sáng
Đúng giờ quy định mọi quân nhân trong đơn vị phải tập thể dục sáng, trừ người
làm nhiệm vụ, đau ốm được chỉ huy trực tiếp cho phép.
Thời gian tập thể dục 20 phút. Trang phục tập thể dục do người chỉ huy đơn vị
quy định thống nhất, theo điều kiện thời tiết cụ thể.
Nội dung tập thể dục theo hướng dẫn của ngành thể dục, thể thao quân đội.
Trung đội hoặc Đại đội và tương đương là đơn vị tổ chức tập thể dục.
Tập thể dục có súng phải khám súng trước và sau khi tập.
1.1.4. Kiểm tra sáng
Kiểm tra sáng được tiến hành hàng ngày (trừ ngày nghỉ và ngày chào cờ). Tổ
chức kiểm tra ở Tiểu đội, Trung đội và tương đương. Nội dung kiểm tra theo lịch
thống nhất trong tuần của Đại đội và tương đương. Kiểm tra ở cấp nào do người chỉ
huy cấp đó điều hành. Khi kiểm tra, phát hiện sai sót phải sửa ngay.
Thời gian kiểm tra sáng 10 phút.
1.1.5. Học tập
1.1.5.1. Học tập trong hội trường
Người phụ trách hoặc trực ban lớp học phải kiểm tra quân số, trang phục, chỉ
huy bộ đội vào vị trí, hô “Nghiêm" và báo cáo giảng viên.
Nếu đơn vị có mang theo vũ khí phải tổ chức khám súng trước và quy định nơi
giá (đặt) súng.
Quân nhân ngồi trong hội trường phải đúng vị trí quy định, tập trung tư tưởng
theo dõi nội dung học tập.
Khi ra hoặc vào lớp phải đứng nghiêm báo cáo xin phép giảng viên. Được phép
mới ra hoặc vào lớp.
Sau mỗi tiết hoặc giờ học tập được nghỉ 5 đến 10 phút. Hết giờ nghỉ nhanh
chóng vào lớp, tiếp tục nghe giảng. Giảng viên phải chấp hành đúng thời gian. Nếu
giảng quá giờ quy định, phải báo cho người phụ trách lớp học và người học biết.
Hết giờ học, người phụ trách hoặc trực ban lớp hô “Đứng dậy” và hô ''Nghiêm'',
báo cáo giảng viên cho xuống lớp, sau đó chỉ huy bộ đội ra về.
1.1.5.2. Học tập ngoài thao trường
Đi và về phải thành đội ngũ. Thời gian đi và về không tính vào thời gian học
tập. Nếu một lần đi (về) trên một giờ được tính một nửa vào thời gian học tập;
4

Trước khi học tập, người phụ trách hoặc trực ban lớp học phải tập hợp bộ đội,
kiểm tra quân số, trang phục, vũ khí, học cụ, khám súng, sau đó báo cáo với giảng
viên.
Phải chấp hành nghiêm kỷ luật thao trường, tập luyện nơi gần địch phải có kế
hoạch sẵn sàng chiến đấu. Súng đạn, trang bị chưa dùng trong luyện tập phải có người
canh gác. Hết giờ luyện tập người phụ trách hoặc trực ban lớp phải tập hợp bộ đội,
khám súng, kiểm tra quân số, vũ khí, học cụ và các trang bị khác, chỉnh đốn hàng ngũ,
báo cáo giảng viên cho bộ đội nghỉ, sau đó chỉ huy bộ đội về doanh trại hoặc nghỉ tại
thao trường.
Trường hợp có cấp trên của giảng viên ở đó thì giảng viên phải báo cáo cấp trên
trước khi lên, xuống lớp.
1.1.6. Ăn uống
Người chỉ huy đơn vị có tổ chức bếp ăn phải quản lý nhà ăn, nhà bếp; bảo đảm
tiêu chuẩn định lượng; ăn sạch, ăn nóng và ăn đúng giờ quy định.
Hàng ngày chỉ đạo trực ban, tổ kinh tế, quân y kiểm tra số người ăn; số lượng,
chất lượng lương thực, thực phẩm sử dụng theo tiêu chuẩn được hưởng; vệ sinh nhà
ăn, nhà bếp sạch sẽ.
Thực hiện kinh tế công khai trong ngày, tháng; giải quyết mọi thắc mắc, đề
nghị về ăn uống của quân nhân.
Cán bộ, chiến sĩ phục vụ nhà ăn phải nêu cao ý thức trách nhiệm phục vụ, có kế
hoạch tổ chức tiếp phẩm, cải tiến kỹ thuật nấu ăn; giữ vệ sinh, chăm lo bữa ăn, bảo
đảm sức khỏe cho bộ đội.
Bảo quản lương thực, thực phẩm, chất đốt; cân đong, đo, đếm chính xác; có sổ
ghi chép xuất, nhập đầy đủ, tránh để hao hụt, lãng phí tham ô. Hàng ngày, tuần, tháng
cùng với hội đồng kinh tế của đơn vị tiến hành kiểm kho, báo cáo kinh tế công khai
trước các quân nhân.
Khi làm việc phải mặc quần áo công tác. Người đang mắc bệnh truyền nhiễm
hoặc bệnh ngoài da không trực tiếp nấu ăn và chia cơm, thức ăn. Đối với người ốm tại
trại, nếu không đến được nhà ăn, trực nhật và quân y phải mang cơm về cho người ốm.
Những suất chưa ăn, nhân viên nhà ăn phải đậy lại cẩn thận.
Cấm sử dụng thức ăn nấu chưa chín, ôi thiu; thịt súc vật bị bệnh, đồ hộp hỏng;
các loại lương thực, thực phẩm của địch bỏ lại chưa được quân y kiểm tra.
Cấm để chất độc, vật bẩn, hôi hám vào khu thực phẩm, nhà bếp, nhà ăn. Nếu
dùng thuốc diệt muỗi, chuột, mối phải có biện pháp quản lý chặt chẽ. Nước ăn, uống
phải trong, sạch. Nước uống, nước nhúng bát đũa phải đun sôi.
Mỗi bữa ăn phải để lại 1 phần suất ăn làm lưu nghiệm do quân y quản lý. Sau
24 giờ không có việc gì xảy ra mới bỏ đi.
5

Khi đến nhà ăn phải đúng giờ, đi ăn trước hay sau giờ quy định phải được chỉ
huy hoặc trực ban đơn vị đồng ý và báo trước cho nhà bếp.
Hạ sĩ quan, binh sĩ, học viên chưa phải là sĩ quan đến nhà ăn phải tập hợp đi
thành đội ngũ.
Trước khi ăn phải nhúng bát đũa qua nước sôi. Ăn xong xếp gọn bát, đĩa trên
mặt bàn, xếp ghế vào gầm bàn trước khi rời nhà ăn.
1.1.7. Bảo quản vũ khí, khí tài, trang bị
Khi quân nhân được giao vũ khí, khí tài, trang bị kỹ thuật phải chấp hành
nghiêm chế độ bảo quản hàng ngày, hàng tuần.
Hàng ngày: Vũ khí bộ binh bảo quản 15 phút, vũ khí, trang bị kỹ thuật, khí tài
phức tạp bảo quản 30 phút, thời gian bảo quản vào giờ thứ 8.
Hàng tuần: Vũ khí bộ binh bảo quản 40 phút, vũ khí, trang bị, khí tài phức tạp
bảo quản từ 3 đến 5 giờ, thời gian bảo quản vào ngày làm việc cuối tuần.
Sau khi bắn đạn thật phải bảo quản vũ khí theo đúng quy trình kỹ thuật.
Lau chùi, bảo quản vũ khí, trang bị kỹ thuật hàng ngày, hàng tuần do chỉ huy
trực tiếp tổ chức tiến hành có sự hướng dẫn của nhân viên chuyên môn kỹ thuật.
Vị trí lau chùi vũ khí, trang bị kỹ thuật phải sạch sẽ. Có đủ bàn, bạt, dụng cụ và
các điều kiện để tháo, lắp, bảo quản. Trước khi lau chùi phải khám súng.
Tuân thủ đúng quy tắc, quy trình tháo lắp, mức độ tháo, lau chùi hàng ngày,
hàng tuần theo quy định đối với từng loại vũ khí, khí tài. Khi lau xong phải khám súng
kiểm tra.
Người chỉ huy phải phân công quân nhân lau chùi, bảo quản vũ khí, trang bị kỹ
thuật của những người vắng mặt.
1.1.8. Thể thao, tăng gia sản xuất
Hàng ngày sau giờ lau vũ khí, trang bị, các đơn vị phải tổ chức tập thể thao và
tăng gia sản xuất cải thiện đời sống. Thời gian từ 40 đến 45 phút. Người chỉ huy cấp
Đại đội, Trung đội và tương đương căn cứ vào tình hình cụ thể để phân chia lực lượng
cho hợp lý và bố trí luân phiên trong tuần để bảo đảm mọi quân nhân đều được tập thể
thao và tăng gia sản xuất.
Tổ chức tập thể thao buổi chiều phải căn cứ vào tình hình sân bãi và dụng cụ
hiện có để sắp xếp, bảo đảm mọi quân nhân đều được tập luyện. Nội dung luyện tập
theo hướng dẫn của ngành thể thao quân đội.
Người chỉ huy phải trực tiếp tổ chức, hướng dẫn tập luyện. Các môn tập luyện
dễ xảy ra tai nạn phải tổ chức bảo đảm an toàn. Tổ chức tăng gia sản xuất để cải thiện
đời sống phải chặt chẽ, có kế hoạch thống nhất trong từng đơn vị.
Người chỉ huy phải căn cứ vào tình hình cụ thể của nơi đóng quân để xác định
kế hoạch, chỉ tiêu tăng gia sản xuất cho đơn vị được phù hợp. Quân nhân được phân
6

công tăng gia sản xuất phải tích cực, tự giác thực hiện, không được làm việc khác
trong giờ tăng gia sản xuất.
1.1.9. Đọc báo, nghe tin
Hàng ngày trước giờ học tập sinh hoạt tối 15 phút quân nhân đều được đọc báo,
nghe tin. Việc đọc báo, nghe tin tập trung chỉ tổ chức trong các ngày sinh hoạt tối, còn
các ngày khác tự cá nhân nghiên cứu.
Đọc báo, nghe tin tập trung tổ chức ở cấp Trung đội hoặc Đại đội và tương
đương. Đến giờ quy định, mọi quân nhân phải có mặt ở vị trí quy định và giữ trật tự để
nghe.
Người được phân công phụ trách đọc báo phải chuẩn bị trước để đọc lưu loát
dễ nghe.
Người phụ trách hệ thống truyền tin, trước giờ truyền tin phải kiểm tra máy
móc bảo đảm nghe tốt.
1.1.10. Điểm danh, điểm quân số
Hàng ngày trước giờ ngủ, phải tiến hành điểm danh, điểm quân số, nhằm quản
lý chặt chẽ quân số, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu.
Trung đội và tương đương 1 tuần điểm danh 2 lần. Các tối khác điểm quân số.
Đại đội và tương đương 1 tuần điểm danh một lần.
Chỉ huy Tiểu đoàn và tương đương mỗi tuần dự điểm danh của 1 Đại đội. Thời
gian điểm danh hoặc điểm quân số không quá 30 phút. Điểm danh, điểm quân số ở cấp
nào do chỉ huy cấp đó trực tiếp tiến hành.
Đến giờ điểm danh, điểm quân số, mọi quân nhân có mặt tại đơn vị phải tập
hợp thành đội ngũ, trang phục đúng quy định;
Chỉ huy đơn vị đọc danh sách các quân nhân ở từng phân đội theo quân số đơn
vị quản lý (cấp bậc, họ tên từng quân nhân). Quân nhân nghe đọc tên mình phải trả lời
“Có”. Quân nhân vắng mặt, người chỉ huy trực tiếp của quân nhân đó trả lời “Vắng
mặt” kèm theo lý do.
Điểm danh xong, người chỉ huy nhận xét và phổ biến công tác ngày hôm sau.
Khi điểm quân số cũng tiến hành như điểm danh, nhưng không phải gọi tên.
Người chỉ huy trực tiếp kiểm tra quân số thuộc quyền, sau đó báo cáo theo hệ thống tổ
chức lên người chỉ huy điểm quân số.
Nhận báo cáo xong, người chỉ huy điểm quân số có thể kiểm tra lại toàn bộ
hoặc một số phân đội.
1.1.11. Ngủ nghỉ
Trước giờ ngủ, trực ban, cán bộ chỉ huy trực tiếp các phân đội phải đôn đốc mọi
người chuẩn bị chăn, chiếu, mắc màn để ngủ được đúng giờ. Đến giờ ngủ, kiểm tra
việc sử dụng ánh sáng và quần áo, giày dép, trang bị để đúng nơi quy định.
7

Quân nhân khi lên giường ngủ phải để quần áo, giày dép đúng vị trí, gọn gàng,
phải trật tự, yên tĩnh. Những người có việc làm quá giờ đi ngủ phải báo cáo người chỉ
huy hoặc trực ban và phải làm việc ở nơi quy định. Những người làm nhiệm vụ về
muộn phải nhẹ nhàng vào giường ngủ, không làm ảnh hưởng đến giấc ngủ người khác.
1.2. Chế độ sinh hoạt, học tập, công tác trong tuần
1.2.1. Chào cờ, duyệt đội ngũ
Cấp Đại đội, Tiểu đoàn và tương đương ở các đơn vị, các học viện, nhà trường
đào tạo sĩ quan, hạ sĩ quan, nhân viên chuyên môn phải tổ chức chào cờ, duyệt đội ngũ
vào sáng thứ 2 hàng tuần.
Cơ quan Trung đoàn, Lữ đoàn và các đơn vị trực thuộc của Trung, Lữ đoàn
trong điều kiện đóng quân tập trung phải tổ chức chào cờ, duyệt đội ngũ chung vào
sáng thứ 2 hàng tuần, do phó Trung đoàn, Lữ đoàn trưởng kiêm Tham mưu trưởng
hoặc phó Trung, Lữ đoàn trưởng quân sự chỉ huy. Nếu các đơn vị trực thuộc đóng
quân xa cơ quan Trung, Lữ đoàn thì phải tổ chức chào cờ theo quy định.
Cấp Trung đoàn và tương đương, học viện, trường; cơ quan cấp Sư đoàn; cơ
quan quân sự, Biên phòng tỉnh (thành) khi đóng quân trong doanh trại tập trung tổ
chức chào cờ duyệt đội ngũ 1 lần vào sáng thứ 2 tuần đầu tháng.
Cơ quan Quân khu, Quân chủng, Binh chủng, Quân đoàn, Bộ đội Biên phòng
và tương đương, khi đóng quân trong doanh trại tập trung tổ chức chào cờ, duyệt đội
ngũ toàn cơ quan một lần vào sáng thứ hai tuần đầu, tháng đầu quý, do một thủ trưởng
Bộ Tư lệnh chỉ huy, các tháng khác do từng Cục tự tổ chức 1 lần vào sáng thứ 2 tuần
đầu tháng.
Học viện, Trường có quân số nhiều hơn đơn vị cấp Trung đoàn trước khi tổ
chức chào cờ, duyệt đội ngũ, người chỉ huy phải nắm quân số, quy định vị trí tập hợp
của từng cơ quan, đơn vị và thứ tự duyệt đội ngũ trong diễu hành; khi chỉnh đốn hàng
ngũ, người chỉ huy đứng tại vị trí chỉ huy (chính giữa phía trước đội hình) chỉ huy đơn
vị, không phải về bên phải đội hình chỉnh đốn hàng ngũ.
Cơ quan Quân sự huyện (quận), đồn Biên phòng tổ chức chào cờ một lần vào
sáng thứ 2 tuần đầu tháng.
Trong tuần cấp trên tổ chức chào cờ thì cấp dưới không tổ chức chào cờ. Các
đơn vị đóng quân gần địch do Tư lệnh Quân khu, Quân đoàn và tương đương được
quyền cho phép đơn vị thuộc quyền không tổ chức chào cờ, duyệt đội ngũ nếu xét thấy
không bảo đảm an toàn, sẵn sàng chiến đấu của đơn vị.
Tất cả quân nhân có mặt trong đơn vị phải tham gia chào cờ, trừ người làm
nhiệm vụ hoặc đau ốm được người chỉ huy trực tiếp cho phép vắng mặt; quân nhân
phải tham gia duyệt đội ngũ.
Chào cờ, duyệt đội ngũ ở cấp nào, do người chỉ huy cấp đó chủ trì và điều hành.
8

Chào cờ cơ quan từ cấp Trung đoàn và tương đương trở lên, do Phó chỉ huy
kiêm Tham mưu trưởng hoặc Phó Chỉ huy quân sự chỉ huy.
Đội hình chào cờ, duyệt đội ngũ thực hiện theo quy định của Điều lệnh đội ngũ.
Thời gian chào cờ, duyệt đội ngũ được lấy vào giờ hành chính; cấp Đại đội,
Tiểu đoàn và cơ quan có số quân tương đương không quá 30 phút; cấp Trung đoàn,
nhà trường và cơ quan có quân số tương đương không quá 40 phút.
Đến 18 giờ trong ngày, trực ban nội vụ hạ cờ xuống.
1.2.2. Thông báo chính trị
Đối với cấp Tiểu đoàn, Đại đội độc lập và tương đương, mỗi tuần quân nhân có
30 phút chính thức để nghe thông báo chính trị vào sáng thứ hai ngay sau khi kết thúc
chào cờ và nhận xét tuần, trước khi duyệt đội ngũ.
Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công chức quốc phòng, công nhân viên
quốc phòng một tháng được nghe thông báo chính trị một lần 2 giờ (không tính vào
thời gian làm việc chính thức) do cấp Trung đoàn và tương đương trở lên tổ chức.
Nội dung do cán bộ chính trị phụ trách.
1.2.3. Tổng vệ sinh doanh trại
Mỗi tuần các đơn vị phải tổ chức và bố trí thời gian thống nhất để làm tổng vệ
sinh doanh trại, đảm bảo môi trường sạch đẹp.
1.3. Trách nhiệm của sinh viên học GDQP&AN
Nắm chắc các chế độ sinh hoạt học tập, công tác trong ngày, trong tuần để thực
hiện đầy đủ với ý thức tự giác, tích cực. Chấp hành nghiêm chỉnh những nội quy, quy
định của Trung tâm trong lĩnh vực học tập, sinh hoạt tập thể.
Phát huy tinh thần trách nhiệm “mình vì mọi người”, xây dựng ý thức tập thể,
tinh thần đồng đội. Khắc phục thói quen và những điểm còn hạn chế của bản thân khi
thực hiện các chế độ quy định. Tự giác ghép mình vào kỷ luật, rèn luyện tác phong
nhanh nhẹn, khẩn trương.
Gương mẫu trong mọi hoạt động, không có những việc làm gây ảnh hưởng đến
cá nhân và tập thể khi thực hiện các chế độ trong ngày, đặc biệt đối với chế độ học tập
và chế độ ngủ, nghỉ.
Có tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê bình để xây dựng tập thể, tích cực
tham gia đóng góp ý kiến khi phát hiện sinh viên trong tiểu đội, trung đội chấp hành
các chế độ quy định chưa nghiêm để có biện pháp động viên, giúp đỡ bạn khắc phục
khuyết điểm.
Có thái độ học tập, rèn luyện nghiêm túc. Tích cực tham gia các hoạt động
phong trào của đơn vị.
9

CÂU HỎI ÔN TẬP


Câu 1. Nêu các chế độ học tập, công tác trong ngày và trong tuần. Trình bày
chế độ học tập. Liên hệ việc thực hiện của bản thân.
Câu 2. Nêu các chế độ học tập, công tác trong ngày và trong tuần. Trình bày
chế độ thức dậy và chế độ thể dục sáng. Liên hệ việc thực hiện của bản thân.
Câu 3. Nêu các chế độ học tập, công tác trong ngày và trong tuần. Trình bày
chế độ ngủ nghỉ. Liên hệ việc thực hiện của bản thân.
Câu 4. Trách nhiệm của sinh viên học GDQP&AN trong việc thực hiện các chế
độ học tập, công tác trong ngày và trong tuần.
10

Bài 2. CÁC CHẾ ĐỘ NỀN NẾP CHÍNH QUY, BỐ TRÍ TRẬT TỰ NỘI VỤ
TRONG DOANH TRẠI

2.1. Các chế độ nền nếp chính quy


2.1.1. Hội họp
Hội họp được tổ chức theo từng cấp ở đơn vị. Tuỳ tính chất nhiệm vụ của đơn
vị để tổ chức họp toàn thể quân nhân trong đơn vị hoặc chỉ họp riêng cán bộ.
Người chủ trì hội họp: Khi hội họp, giao ban chỉ có một người chủ trì. Hội họp,
giao ban ở cấp nào do người chỉ huy hoặc chính uỷ, chính trị viên cấp đó chuẩn bị nội
dung, xác định thành phần và chủ trì điều khiển hội họp, giao ban.
Hội họp, giao ban thuộc lĩnh vực, công tác nào thì người chủ trì lĩnh vực công
tác đó hoặc người được ủy quyền chủ trì điều khiển. Người làm công tác tổ chức hội
họp, giao ban báo cáo người chủ trì, nếu có cấp trên đến dự thì báo cáo cấp trên.
Nội dung họp phải chuẩn bị trước, ngắn gọn, rõ ràng, đầy đủ. Người điều khiển
họp phải lắng nghe ý kiến tham gia và kết luận rõ ràng. Người dự họp phải căn cứ vào
mục đích yêu cầu, nội dung, thời gian để phát biểu, trong khi họp phải nghe ý kiến của
nhau và nắm chắc kết luận của người điều khiển họp.
2.1.2. Trực ban, trực nhật
2.1.2.1. Trực ban nội vụ
Trực ban nội vụ được tổ chức trong từng cơ quan, đơn vị, để giúp người chỉ
huy duy trì kỷ luật, trật tự nội vụ, vệ sinh và duy trì thời gian làm việc trong đơn vị.
- Tổ chức trực ban nội vụ:
Đơn vị từ cấp Đại đội, Tiểu đoàn và tương đương; các cơ quan từ cấp Trung
đoàn, Lữ đoàn, Sư đoàn, Quân đoàn, Binh chủng, Quân chủng, Bộ đội Biên phòng, cơ
quan bộ chỉ huy quân sự, Bộ đội Biên phòng tỉnh (thành phố); Ban Chỉ huy quân sự
huyện (quận); cơ quan Quân khu, học viện, trường, bệnh viện, xí nghiệp và tương
đương phải tổ chức trực ban nội vụ.
- Trách nhiệm của chỉ huy và thời gian trực ban nội vụ:
+ Người chỉ huy từng cấp có trách nhiệm chỉ định quân nhân làm trực ban nội
vụ và phải thông báo đến từng người thực hiện trước một tuần.
+ Thời gian làm trực ban nội vụ là một ngày đêm. Trực ban vào ngày nghỉ được
nghỉ bù.
- Yêu cầu trực ban nội vụ:
+ Quân nhân làm trực ban nội vụ phải nắm được chức trách và chuẩn bị cá nhân
đầy đủ để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ được liên tục trong suốt phiên trực.
11

+ Quân nhân làm nhiệm vụ trực ban trang phục phải chỉnh tề, đeo biển trực ban.
Sau khi hết nhiệm vụ phải bàn giao cho trực ban mới trước người chỉ huy hoặc người
được ủy quyền.
- Trực ban nội vụ đơn vị:
+ Trực ban nội vụ Tiểu đoàn do sĩ quan trong Tiểu đoàn từ Trung đội trưởng
đến phó Đại đội trưởng và chính trị viên phó Đại đội luân phiên đảm nhiệm.
+ Trực ban nội vụ Đại đội do phó Trung đội trưởng, Tiểu đội trưởng và quân
nhân chuyên nghiệp trong đại đội luân phiên đảm nhiệm.
- Chức trách của trực ban nội vụ ở đơn vị:
+ Nắm vững lịch công tác hàng ngày của các phân đội kịp thời chuyển đến các
phân đội những mệnh lệnh và chỉ thị của người chỉ huy.
+ Phát hiệu lệnh về thời gian làm việc, đôn đốc các đơn vị hoạt động theo thời
gian biểu đã quy định.
+ Duy trì trật tự nội vụ trong đơn vị, nhắc nhở mọi người chấp hành các quy
định về trang phục, lễ tiết, tác phong, quy định về vệ sinh trong doanh trại, các quy
định về phòng gian giữ bí mật, bảo đảm an toàn. Kiểm tra việc chấp hành nhiệm vụ
của trực ban khu trang bị kỹ thuật (nếu có), trực ban nghiệp vụ, phân đội canh phòng.
+ Nắm tình hình quân số, vũ khí trang bị của các phân đội, báo cáo chỉ huy và
trực ban nội vụ cấp trên. Tiếp đón, hướng dẫn khách đến đơn vị công tác.
+ Trường hợp xảy ra cháy nổ, thiên tai, thảm họa, tai nạn hoặc có việc bất trắc,
phải nhanh chóng phát lệnh báo động, đồng thời báo cáo ngay với chỉ huy và trực ban
nội vụ cấp trên để xử trí.
+ Kiểm tra việc bảo đảm ăn uống trong ngày của đơn vị, đôn đốc quân y chăm
sóc bữa ăn cho người đau ốm tại trại.
+ Ghi nhật ký trực ban về tình hình đơn vị theo mẫu quy định để bàn giao trực
ban mới.
- Trực ban nội vụ cơ quan:
Trực ban nội vụ cơ quan do người chỉ huy cơ quan chỉ định sĩ quan và quân
nhân chuyên nghiệp thuộc quyền luân phiên đảm nhiệm.
- Chức trách trực ban cơ quan:
+ Đôn đốc nhắc nhở mọi người chấp hành các quy định về trật tự nội vụ, lễ tiết
tác phong, thời gian làm việc, phòng gian, giữ bí mật, bảo đảm an toàn cơ quan.
+ Tiếp nhận và chuyển giao những công điện thông báo đến các đơn vị và cơ
quan. Làm xong báo cáo người chỉ huy.
+ Nắm tình hình quân số, các việc đột xuất trong ngày báo cáo chỉ huy cơ quan.
+ Kiểm tra việc canh phòng bảo vệ cơ quan (nếu cơ quan đóng quân riêng lẻ).
12

+ Trường hợp xảy ra cháy nổ, thiên tai, thảm họa, tai nạn, có việc bất trắc xảy
ra phải báo cáo ngay cho người chỉ huy cơ quan và áp dụng mọi biện pháp để hạn chế
đến mức thấp nhất thiệt hại về người, tổn thất tài liệu, tài sản của cơ quan.
+ Tổng hợp tình hình cơ quan theo mẫu quy định để bàn giao trực ban mới.
2.1.2.2. Trực nhật
Trực nhật được tổ chức ở cấp Trung đội hoặc Tiểu đội và tương đương, nhằm
giúp người chỉ huy duy trì trật tự nội vụ, vệ sinh trong phạm vi Trung đội, Tiểu đội của
mình. Trực nhật do các chiến sĩ trong Trung đội, Tiểu đội luân phiên đảm nhiệm theo
sự phân công của chỉ huy Trung đội, Tiểu đội, dưới quyền của trực ban nội vụ Đại đội.
Thời gian làm nhiệm vụ trực nhật là một ngày đêm. Trong thời gian làm trực nhật phải
tham gia học tập, công tác.
- Chức trách trực nhật:
+ Hàng ngày vào giờ thể dục, thể thao, làm vệ sinh nơi công cộng, lấy nước
uống, chăm sóc người ốm đau trong Trung đội, Tiểu đội.
+ Nhắc nhở mọi người trong Trung đội, Tiểu đội, chấp hành các quy định về
trật tự nội vụ, vệ sinh, trang phục, dâu, tóc đúng quy định, giữ gìn vũ khí trang bị và
các tài sản khác, chấp hành thời gian sinh hoạt, học tập công tác theo thời gian biểu.
2.1.3. Báo động luyện tập
Các đơn vị phải tổ chức báo động luyện tập nhằm rèn luyện bộ đội tinh thần sẵn
sàng chiến đấu, luôn ở tư thế chủ động, kịp thời giải quyết các tình huống xảy ra.
Hình thức báo động: Báo động luyện tập tiến hành ở từng cấp, từng bộ phận
hoặc toàn cơ quan, đơn vị và được chia thành các loại như sau:
+ Báo động luyện tập chiến đấu tại chỗ theo các phương án tác chiến của đơn vị
+ Báo động luyện tập di chuyển đến các vị trí để nhận nhiệm vụ chiến đấu
được giao.
+ Báo động luyện tập làm nhiệm vụ phòng chống cháy nổ, bão lụt, thảm họa
môi trường, cứu hộ, cứu nạn.
+ Báo động luyện tập chuyển trạng thái theo Chỉ lệnh của Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng về sẵn sàng chiến đấu.
+ Quyền hạn báo động luyện tập và kết thúc báo động do người chỉ huy từng
cấp quyết định.
+ Người chỉ huy cấp trên hoặc người được cấp trên ủy quyền kiểm tra báo động
luyện tập phải căn cứ vào mục đích, yêu cầu việc rèn luyện của đơn vị, căn cứ vào kế
hoạch, nội dung báo động mà cấp trên đã phê duyệt để tiến hành.
+ Trường hợp báo động luyện tập vượt cấp hoặc báo động đột xuất cần thông
báo trước một thời gian nhất định đến người chỉ huy đơn vị mà cấp trên có ý định đến
kiểm tra.
13

+ Chế độ báo động; báo động luyện tập tiến hành theo định kỳ tuần, tháng hoặc
bất thường.
+ Báo động luyện tập có liên quan đến nhân dân địa phương nơi đóng quân,
người chỉ huy phải thông báo cho chính quyền địa phương biết.
2.1.4. Phòng gian, giữ bí mật
- Trách nhiệm của quân nhân: Mọi quân nhân đều có trách nhiệm phòng gian,
giữ bí mật; tuyệt đối không được làm lộ bí mật của cơ quan, đơn vị, của quân đội và
Nhà nước.
- Trách nhiệm của người chỉ huy và chính uỷ, chính trị viên:
Người chỉ huy và chính uỷ, chính trị viên các cấp phải gương mẫu chấp hành
kỷ luật phòng gian, giữ bí mật, có trách nhiệm thường xuyên giáo dục, kiểm tra cấp
dưới thuộc quyền triệt để chấp hành các quy định về phòng gian, giữ bí mật trong mọi
lĩnh vực công tác, học tập, sinh hoạt, chiến đấu. Phải quy định cụ thể việc quản lý
kiểm tra công văn, tài liệu trong phạm vi thuộc quyền.
- Trách nhiệm của quân nhân văn thư, lưu trữ: Quân nhân khi giữ gìn, sao lục,
lưu trữ, giao nhận, đăng ký, thống kê công văn, tài liệu phải đúng quy tắc bảo mật,
không được để lộ bí mật làm mất công văn, tài liệu, con dấu. Khi để thất lạc hay mất
tài liệu, sổ công văn hoặc phát hiện các vấn đề lộ bí mật phải báo cáo ngay cho cấp
trên trực tiếp và cơ quan bảo mật, bảo vệ để tiến hành điều tra xác minh kịp thời báo
cáo lên cấp trên xử trí.
- Nghiêm cấm quân nhân:
+ Tìm hiểu những điều bí mật không thuộc phạm vi chức trách.
+ Quan hệ với tổ chức và phần tử phản cách mạng, không để người khác lợi
dụng làm việc có hại đến lợi ích của Nhà nước, của quân đội, của nhân dân.
+ Xem tài liệu, sách báo, truyền đơn của địch, truyền tin đồn nhảm.
2.2. Bố trí trật tự nội vụ trong doanh trại
2.2.1. Qui định đóng quân trong doanh trại
- Tổ chức đóng quân:
+ Tổ chức đóng quân trong doanh trại phải đáp ứng yêu cầu sẵn sàng chiến đấu,
thuận tiện công tác, huấn luyện, sinh hoạt, bảo vệ sức khỏe. Phải bảo đảm cho mọi
quân nhân được ăn, ở, sinh hoạt trong doanh trại theo đúng tiêu chuẩn quy định của
Nhà nước, Quân đội.
+ Trong điều kiện bình thường thời bình, người chỉ huy từ cấp Sư đoàn hoặc
tương đương trở lên được quyền cho sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công chức
quốc phòng và công nhân viên quốc phòng thuộc quyền được ăn, nghỉ tại gia đình
ngoài doanh trại trong ngày nghỉ, giờ nghỉ. Những người được phép ăn, nghỉ tại gia
14

đình phải đăng ký họ tên, địa chỉ gia đình, số máy điện thoại (nếu có) vào sổ của đơn
vị. Khi thay đổi phải báo cáo ngay.
- Yêu cầu đóng quân
+ Quân nhân không được ăn, ở tại nơi cất giữ tài liệu mật; nơi để lương thực,
thực phẩm, nhà kho; nơi để trang thiết bị kỹ thuật; nơi để xe pháo, phòng thí nghiệm.
+ Khu vực gia đình sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công chức quốc phòng,
công nhân viên quốc phòng, trạm đón tiếp gia đình quân nhân phải ở ngoài doanh trại
hoặc ngăn thành khu riêng biệt.
+ Trong doanh trại phải có phòng ngủ, nhà tắm, nơi vệ sinh riêng cho nữ quân
nhân. Không để người ngoài quân đội ăn, ở, sinh hoạt trong doanh trại.
- Thành phần doanh trại đóng quân: Tổ chức đóng quân của đơn vị phải có.
+ Nhà ngủ của cán bộ, chiến sĩ.
+ Nhà làm việc, học tập, phòng trực ban, bốt gác.
+ Nhà ăn, nhà bếp, nhà kho; nhà để xe.
+ Hội trường, phòng Hồ Chí Minh.
+ Nơi để vũ khí, dụng cụ, phương tiện, khí tài huấn luyện.
+ Nơi lau vũ khí, trang bị.
+ Sân tập hợp chào cờ, tập đội ngũ, thể dục thể thao.
+ Nhà tắm, nhà vệ sinh.
+ Đơn vị từ cấp Trung đoàn trở lên phải có sở chỉ huy, bệnh xá, trạm khách,
phòng tạm giữ quân nhân vi phạm kỷ luật.
2.2.2. Bố trí trật tự nội vụ trong doanh trại
- Hệ thống biển, bảng.
+ Doanh trại đóng quân phải có các loại biển tên, các loại bảng thống nhất từ
cổng doanh trại đến từng loại nhà (nhà ở, nhà làm việc, nhà học tập, nhà ăn...).
+ Bộ Tổng Tham mưu quy định thống nhất kích thước, quy cách, vị trí treo của
các loại biển, bảng.
- Nhà ngủ.
+ Nhà ngủ là nơi ở và sinh hoạt hàng ngày ngoài giờ làm việc, huấn luyện của
quân nhân trong thời gian tại ngũ. Nhà ngủ phải thoáng mát, hợp vệ sinh, có biện pháp
chống nóng, chống rét, chống dột. Sắp xếp nhà ngủ cho phân đội, phòng ngủ cho từng
quân nhân phải theo tiêu chuẩn thống nhất quy định cho từng đối tượng.
+ Trong phòng ngủ của hạ sĩ quan phải có đủ giường nằm và đồ dùng, tiện nghi
sinh hoạt. Việc sắp xếp trong phòng ngủ phải căn cứ tình hình thực tế để quy định
thống nhất, gọn gàng, thuận tiện.
+ Bố trí nhà ở của bộ đội phải có dây phơi quần áo, dây phơi khăn mặt, dây
mắc màn, giá để ba lô, mũ, giá để giày, dép, giá (tủ) súng...
15

+ Các loại bảng, biển theo quy định của Bộ Tổng tham mưu và phải thống nhất
cho từng loại nhà.
+ Giường phải kê thẳng hàng, có biển tên quân nhân, có lối ra vào thuận tiện.
Vũ khí, trang bị cá nhân phải để trên giá súng hoặc trong tủ súng, đặt ở nơi quy định,
thuận tiện cho bảo quản và sử dụng.
+ Tại vị trí để súng có biển tên và số súng của quân nhân giữ súng; vũ khí, khí
tài mang vác tập thể phải để đúng nơi quy định. Nơi ngủ của sĩ quan được bố trí riêng,
đồ dùng, tiện nghi sinh hoạt phải sắp xếp gọn gàng, trật tự.
+ Nhà học tập, làm việc; trong doanh trại phải có nhà làm việc của chỉ huy, của
cơ quan và nhà học tập của từng đơn vị. Cơ quan từ cấp Trung đoàn trở lên phải có
nhà làm việc riêng.
+ Nhà ăn, nhà bếp; phải bố trí nơi cao ráo, hợp vệ sinh, tiện nguồn nước. Phải
sắp xếp trật tự, ngăn nắp, sạch sẽ, có biện pháp tích cực phòng chống ruồi, muỗi, côn
trùng, dán, chuột, mối, mọt và các loại côn trùng khác gây bệnh.
+ Ánh sáng ban đêm: Trong doanh trại phải có ánh sáng ban đêm, bảo đảm cho
sinh hoạt, học tập của quân nhân.
+ Phải có đủ đèn cho nhà ngủ, nhà làm việc, nơi sinh hoạt công cộng; nhà trực
ban, nhà của đội canh phòng và những nơi cần thiết phải duy trì ánh sáng trong đêm.
+ Mọi quân nhân phải có trách nhiệm bảo vệ và sử dụng tiết kiệm phương tiện
và nguồn ánh sáng trong doanh trại.
+ Cấm tự tiện móc nối lấy điện sử dụng riêng ngoài quy định chung của đơn vị.
- Tiếp khách.
+ Quân nhân có người nhà, bạn bè đến thăm phải báo cáo người chỉ huy trực
tiếp và được đón tiếp ở nơi quy định, không được đưa vào doanh trại.
+ Không tiếp người nhà, bạn bè trong giờ làm việc. Trường hợp cần thiết phải
được phép của người chỉ huy.
- Cấp trên trực tiếp của quân nhân có khách đến thăm phải:
+ Kịp thời thông báo cho quân nhân biết và tạo điều kiện cho quân nhân sớm
được gặp khách.
+ Tự mình hoặc cử cán bộ ra thăm hỏi gia đình, người thân của quân nhân
thuộc quyền.
+ Đảm bảo những nhu cầu sinh hoạt tối thiểu để quân nhân tiếp người nhà, bạn
bè đến thăm chu đáo, thân tình.
+ Cán bộ, nhân viên ở trạm đón tiếp khách phải vui vẻ chu đáo, nhanh chóng
thu xếp nơi ăn, ở, sinh hoạt cho khách; phổ biến tiêu chuẩn, chế độ, thủ tục, nội quy
nhà khách và hướng dẫn khách thực hiện.
16

+ Khi khách rời khỏi trạm phải thanh toán đầy đủ, thu lại những đồ dùng sinh
hoạt đã cho mượn, giải quyết chu đáo mọi việc cần thiết khác.
2.3. Trách nhiệm của sinh viên học GDQP&AN
- Mỗi sinh viên luôn tự giác, tích cực học tập, hiểu rõ vị trí tầm quan trọng việc
thực hiện các chế độ nền nếp chính quy được vận dụng thực hiện ở Trung tâm
GDQP&AN theo Điều lệnh quản lý bộ đội Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Luôn đề cao trách nhiệm, ý thức tự giác, tinh thần làm chủ tập thể chấp hành
nghiêm các chế độ quy định. Đây chính là tự rèn luyện cho bản thân về tính tổ chức,
tính kỷ luật và tính khoa học.
- Tham gia học tập, sinh hoạt đầy đủ, đúng giờ. Khi được phân công thực hiện
các nhiệm vụ trực ban, trực nhật hoặc các nhiệm vụ khác phải nêu cao tinh thần trách
nhiệm, thực hiện đúng chức trách với tinh thần tự giác cao để hoàn thành tốt mọi
nhiệm vụ.
- Gương mẫu trong việc sắp xếp trật tự nội vụ của bản thân và của phòng ở ký
túc xá. Nêu cao ý thức giữ gìn vệ sinh chung để đảm bảo sức khỏe cho mình và
mọi người.
- Nêu cao ý thức trách nhiệm trong thực hiện chế độ phòng gian, giữ bí mật.
Không tùy tiện đăng tải hình ảnh, video, các thông tin về quân sự hoặc các thông tin
không đúng liên quan đến các hoạt động GDQP&AN gây ảnh hưởng tới đơn vị.
- Kiên quyết đấu tranh với những nhận thức sai trái, tự do tuỳ tiện, không tự
ghép mình vào kỷ luật; thiếu rèn luyện, thiếu cố gắng trong thực hiện các chế độ nền
nếp chính quy, hiệu quả học tập và rèn luyện thấp.

CÂU HỎI ÔN TẬP


Câu 1. Nêu các chế độ nền nếp chính quy trong quân đội. Trình bày nội dung
chế độ trực ban, trực nhật. Liên hệ việc thực hiện của bản thân.
Câu 2. Nêu các chế độ nền nếp chính quy trong quân đội. Trình bày nội dung
chế độ phòng gian, giữ bí mật. Liên hệ việc thực hiện của bản thân.
Câu 3. Trình bày nội dung bố trí trật tự nội vụ trong doanh trại. Liên hệ việc
thực hiện việc sắp xếp phòng ở ký túc xá của bản thân.
Câu 4. Trách nhiệm của sinh viên học GDQP&AN trong việc thực hiện các chế
độ nền nếp chính quy, bố trí trật tự nội vụ trong doanh trại.
17

Bài 3. HIỂU BIẾT CHUNG VỀ CÁC QUÂN, BINH CHỦNG TRONG QUÂN
ĐỘI

3.1. Tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam


3.1.1. Truyền thống lịch sử quân sự Việt Nam
Lịch sử hàng nghìn năm hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam kết tinh
những truyền thống đặc sắc, quý báu về quốc phòng, quân sự. Lịch sử quân sự Việt
Nam xuất hiện từ buổi đầu dựng nước và có quá trình phát triển liên tục. Suốt chiều
dài lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn nêu cao tinh thần bất khuất, tự lực, tự cường, trí
thông minh và tài thao lược; xây dựng nên truyền thống lịch sử quân sự độc đáo.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn nỗ lực sáng tạo và giành được
những chiến công vang dội, lập nên những kỳ tích trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước.
Dân tộc Việt Nam luôn thực hiện “dựng nước đi đôi với giữ nước”, “giữ nước từ khi
nước chưa nguy”, bảo vệ đất nước bằng sức mạnh vô địch của toàn dân; kết hợp chặt
chẽ chính trị với kinh tế, văn hóa, quân sự, ngoại giao, tạo nên sức mạnh tổng hợp của
toàn dân tộc để chiến thắng kẻ thù xâm lược. Kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời, lãnh đạo cách mạng, truyền thống lịch sử quân sự của dân tộc đã được kế thừa,
phát triển lên một tầm cao mới, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
3.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (tháng 11 năm 1939), lần thứ bảy (tháng
11 năm 1940), đặc biệt là Hội nghị Trung ương lần thứ tám (tháng 5 năm 1941) do
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chỉ đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc đó lấy tên là
Đảng Cộng sản Đông Dương) đã quyết định chuyển hướng cách mạng, đặt nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu, xúc tiến xây dựng căn cứ địa, chuẩn bị khởi nghĩa vũ
trang giành chính quyền. Thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, trên cơ sở các đội
vũ trang cách mạng ở Việt Bắc, ngày 22 tháng 12 năm 1944, tại huyện Nguyên Bình,
tỉnh Cao Bằng, dưới sự chỉ huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp, Đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập.
Khi đó, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân chỉ có 34 cán bộ, chiến sĩ nhưng
đã sớm phát huy truyền thống chống ngoại xâm và nghệ thuật quân sự của dân tộc.
Thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh “Trận đầu phải thắng”, chỉ hai ngày sau
khi thành lập, với lối đánh bất ngờ, dũng cảm, mưu trí, đội đã đánh thắng hai trận đầu
liên tiếp là Phai Khắt, Nà Ngần, mở đầu cho truyền thống đánh tiêu diệt, đánh chắc
thắng, đánh thắng ngay trận đầu của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 15 tháng 5
18

năm 1945, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được sáp nhập với lực lượng

Hình 3.1. Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (Tiền thân của Quân
đội nhân dân Việt Nam) thành lập ngày 22-12-1944

Cứu quốc quân và đổi tên thành Việt Nam giải phóng quân, trở thành lực lượng quân
sự chủ yếu của Mặt trận Việt Minh khi tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Cách mạng Tháng Tám năm 1945
thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Quân đội nhân dân đã cùng toàn
Đảng, toàn dân ra sức xây dựng và bảo vệ Nhà nước non trẻ, đập tan âm mưu bạo loạn
của các thế lực phản động, giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ vững chắc chính quyền cách
mạng vừa mới thành lập, đẩy mạnh xây dựng lực lượng, chuẩn bị trường kỳ kháng
chiến. Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ. Trước một đội quân nhà
nghề, được trang bị vũ khí hiện đại, quán triệt đường lối kháng chiến toàn dân, toàn
diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính, kế thừa và phát huy nghệ thuật quân sự của
cha ông, dựa chắc vào nhân dân, tìm lối đánh thích hợp, Quân đội nhân dân Việt Nam
đã làm phá sản chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp, buộc địch
phải đánh lâu dài, khoét sâu thế yếu của chúng, làm cho mâu thuẫn giữa tập trung và
phân tán của địch ngày càng trầm trọng; quân số địch tăng bao nhiêu cũng không đủ,
càng đánh càng lâm vào thế bị động, càng đánh càng thua. Từ một đội quân “đầu trần
chân đất”, từ những đội Dân quân tự vệ, Quân đội nhân dân Việt Nam đã không ngừng
lớn mạnh, từ du kích chiến tiến lên vận động chiến, công kiên chiến, vừa đánh vừa bổ
sung, phát triển nghệ thuật quân sự, từ đánh nhỏ lên đánh lớn, từ đánh du kích lên
đánh chính quy. Trải qua chín năm kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh, lần lượt đánh
bại các chiến lược quân sự của địch, với thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông
Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ, quân và dân Việt Nam
19

đã buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, lập lại hòa bình ở Đông Dương,
rút quân về nước, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược, nêu một tấm gương sáng cho phong trào giải phóng
dân tộc trên thế giới. Lần đầu tiên trên thế giới, ở một nước thuộc địa, một đội quân
nhỏ bé, trang bị thô sơ đã đánh bại quân đội nhà nghề của một đế quốc thực dân. Sau
ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc, việc “xây dựng Quân đội nhân dân hùng mạnh, tiến
dần từng bước lên chính quy, hiện đại” được đẩy mạnh. Dự báo đúng ý đồ chiến lược
của chủ nghĩa đế quốc, sớm muộn cũng phải trực tiếp đương đầu với quân đội Mỹ
hùng mạnh nhất thế giới, Quân đội nhân dân Việt Nam đã từng bước được xây dựng
ngày càng vững mạnh, có sức chiến đấu cao. Cùng với sự nỗ lực của toàn dân, toàn
quân, sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, Quân đội nhân dân Việt
Nam đã trưởng thành vượt bậc về mọi mặt, trở thành trụ cột vững chắc cho cuộc đấu
tranh bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong cuộc đụng
đầu lịch sử này, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt Nam
không chỉ dám đánh, quyết đánh mà còn biết đánh thắng. Quân đội nhân dân Việt
Nam càng đánh càng mạnh, từng bước vô hiệu hóa sức mạnh của địch, làm cho chúng
không phát huy được ưu thế của vũ khí, trang bị hiện đại, bị căng kéo khắp các chiến
trường, càng kéo dài chiến tranh càng bị sa lầy vào “đường hầm không lối thoát”. Qua
thực tiễn chiến đấu, chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật tác chiến của Quân đội nhân
dân Việt Nam ngày càng sắc bén, hoàn hảo, làm thất bại các chiến lược chiến tranh
cùng với các hình thức chiến thuật như “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của địch. Cùng
với quân, dân miền Nam, quân và dân miền Bắc cũng liên tục đánh bại các đợt tiến
công và những nỗ lực chiến tranh cao nhất của hải quân và không quân Mỹ. Lực lượng
pháo binh, tên lửa, không quân Việt Nam chiến đấu đạt hiệu suất cao chưa từng có
trong lịch sử chiến tranh, đã tiêu diệt nhiều loại máy bay, tàu chiến hiện đại của địch.
Những chiến thắng to lớn của quân, dân hai miền Nam - Bắc, đặc biệt là thắng lợi của
quân, dân miền Bắc trong việc đánh bại cuộc tập kích chiến lược 12 ngày đêm bằng
pháo đài bay B-52 trên bầu trời Hà Nội (tháng 12 năm 1972) đã buộc Chính phủ Mỹ
phải ký Hiệp định Pari, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình; công nhận độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; tạo
điều kiện cho quân và dân Việt Nam tiến hành chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã
hội, mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc. Quân đội nhân dân Việt Nam cũng đã sát
cánh với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia chống kẻ thù chung, vì độc lập, tự do
của mỗi nước. Thực hiện lời dạy của Bác Hồ “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự
giúp mình”, trong suốt 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và đế quốc
Mỹ, Quân đội nhân dân Việt Nam đã cùng lực lượng cách mạng Lào và Campuchia
20

chiến đấu khắp các chiến trường Đông Dương. Hình ảnh các chiến sĩ quân tình nguyện
Việt Nam trong những năm kháng chiến gian khổ mãi mãi là tấm gương không phai
mờ trong tâm trí hàng triệu người dân Lào và Campuchia. Sau thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quân đội nhân dân Việt Nam lại bước vào cuộc
trường chinh mới, chiến đấu giành thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên
giới Tây Nam, biên giới phía Bắc và làm nghĩa vụ quốc tế, giúp nhân dân Lào bảo vệ
vững chắc thành quả cách mạng, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng,
thực hiện công cuộc hồi sinh dân tộc. Bước vào thời kỳ đổi mới, trước những thay đổi
phức tạp của tình hình trong nước, quốc tế, phát huy truyền thống trung thành tuyệt
đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, Quân đội nhân dân Việt Nam đặt
dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, luôn kiên trì mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn. Bản chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” được tôi
luyện qua hai cuộc kháng chiến và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, mãi mãi tỏa sáng trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân đội nhân dân tích
cực tham gia xây dựng kinh tế, củng cố, tăng cường quốc phòng, nâng cao khả năng
sẵn sàng chiến đấu, góp phần cùng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Các doanh
nghiệp quốc phòng vừa bảo đảm nhiệm vụ quốc phòng, vừa tham gia phát triển kinh tế
- xã hội. Quân đội nhân dân tích cực, chủ động thực hiện các hoạt động đền ơn đáp
nghĩa, khắc phục hậu quả chiến tranh, phòng, chống bão lụt, thiên tai, cứu hộ, cứu
nạn,...Trong hơn 76 năm qua, Quân đội nhân dân Việt Nam ngày càng lớn mạnh,
trưởng thành, cùng toàn dân vượt qua mọi khó khăn, thử thách, lập nên những chiến
công hiển hách, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xứng đáng với lời khen ngợi
của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến
đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng
hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Lịch sử Quân
đội nhân dân Việt Nam là lịch sử chiến đấu oanh liệt và thắng lợi vẻ vang của một
quân đội cách mạng, mang bản chất của giai cấp công nhân, từ nhân dân mà ra, vì
nhân dân mà chiến đấu.

3.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định: Quân đội nhân
dân Việt Nam là quân đội cách mạng, “đội quân chiến đấu, đội quân công tác và sản
xuất”. Chức năng cơ bản của Quân đội nhân dân Việt Nam được khẳng định và phát
huy trong hơn 75 năm qua.
21

Chức năng là đội quân chiến đấu, Quân đội được xây dựng cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và
nhân dân; tổ chức tinh, gọn, mạnh, cơ động, linh hoạt, hiệu quả cao; trang bị các loại
vũ khí, khí tài hiện đại; đẩy mạnh nghiên cứu phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam;
thường xuyên huấn luyện, diễn tập, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu
và khả năng sẵn sàng chiến đấu; làm nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn
dân; xử lý thắng lợi các tình huống quốc phòng, sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái
chiến tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát
triển đất nước.
Chức năng là đội quân công tác, Quân đội luôn giữ vững mối quan hệ máu thịt
với nhân dân, là lực lượng nòng cốt tham gia công tác vận động quần chúng, xây dựng
hệ thống chính trị cơ sở, các đơn vị quân đội tích cực thực hiện công tác dân vận, đi
đầu trong xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải
đảo; tích cực tham gia phòng, chống lụt bão, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu
quả thiên tai, thảm họa và bảo vệ tài nguyên, môi trường,... Phối hợp chặt chẽ với các
địa phương trên địa bàn đóng quân, tích cực tham gia xóa đói, giảm nghèo, phát triển
kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Công
tác đối ngoại quốc phòng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước, nâng cao uy tín, vị thế
của đất nước và Quân đội nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế, như tích cực tham
gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc; huấn luyện, diễn tập chung về hỗ
trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa, tìm kiếm cứu nạn, hợp tác quốc tế trong khắc phục hậu
quả chiến tranh,...
Chức năng là đội quân sản xuất, trong Quân đội các đơn vị kinh tế - quốc
phòng luôn duy trì được nhịp độ phát triển ổn định, bảo đảm việc làm cho hàng trăm
nghìn lao động, thực hiện tốt nghĩa vụ ngân sách đối với Nhà nước, tạo ra nhiều sản
phẩm lưỡng dụng, sản phẩm công nghệ có giá trị cao, đóng góp vào tăng trưởng kinh
tế quốc dân, hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc phòng kết hợp với phát triển kinh tế - xã
hội.
3.1.4. Cơ cấu tổ chức của Quân đội nhân dân Việt Nam
Quân đội nhân dân Việt Nam bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương; các
quân khu, quân chủng, bộ đội biên phòng, quân đoàn, binh chủng; hệ thống các đơn vị
bảo đảm hậu cần, kỹ thuật; các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu và các đơn vị
kinh tế - quốc phòng.
22

Hình 3.2. Sơ đồ khái quát cơ cấu tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam

- Bộ Quốc phòng là cơ quan tham mưu cho Đảng và Nhà nước về đường lối,
nhiệm vụ quốc phòng, quân sự bảo vệ Tổ quốc; chịu trách nhiệm trước Chính phủ về
việc thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng; tổ chức thực hiện việc xây dựng, quản
lý và chỉ huy Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ; quản lý các dịch vụ công theo quy
định của pháp luật. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là người chỉ huy cao nhất của Quân đội
nhân dân và Dân quân tự vệ; là Ủy viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh, Phó Bí thư
Quân ủy Trung ương; là thành viên Chính phủ chỉ đạo thực hiện các chức năng quản
lý nhà nước về quân sự, quốc phòng theo quy định của pháp luật; chủ trì hoạch định và
tổ chức thực hiện chiến lược quốc phòng. Giúp việc cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng có
các Thứ trưởng, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, 4 tổng cục, 7 quân khu và
Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, 4 quân đoàn, 2 quân chủng, 6 binh chủng, Bộ Tư lệnh Bộ
đội Biên phòng, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển, Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng và
các cơ quan trực thuộc Bộ Quốc phòng…
- Bộ Tổng Tham mưu là cơ quan chỉ huy, điều hành Quân đội nhân dân và Dân
quân tự vệ; tổ chức, chỉ đạo sự phát triển của Quân đội nhân dân và Dân quân tự vệ,
đồng thời chỉ huy các hoạt động quân sự. Bộ Tổng Tham mưu có Tổng Tham mưu
trưởng, các Phó Tổng Tham mưu trưởng và các cục chức năng chịu trách nhiệm về tác
chiến, huấn luyện chiến đấu, quân lực,... Tổng Tham mưu trưởng - Thứ trưởng Bộ
Quốc phòng là người thay thế Bộ trưởng Bộ Quốc phòng điều hành các hoạt động của
Bộ Quốc phòng khi Bộ trưởng vắng mặt. Tổng Tham mưu trưởng chỉ đạo các cơ quan,
23

đơn vị trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu xây dựng chiến lược quân sự; quy hoạch, kế
hoạch phòng thủ đất nước, chủ trì phối hợp, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các bộ, các
cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân các cấp thực hiện các quy định pháp luật về quốc
phòng; kiểm tra đôn đốc các đơn vị chấp hành kỷ luật Quân đội, pháp luật của Nhà
nước, mệnh lệnh của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
- Tổng cục Chính trị đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị trong toàn
quân, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Ban Bí thư và trực tiếp, thường xuyên của Quân
ủy Trung ương. Tổng cục Chính trị có Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các cục chức
năng chịu trách nhiệm về công tác tổ chức, cán bộ, tuyên huấn, bảo vệ an ninh quân
đội, chính sách, dân vận,...
Các cơ quan chức năng cấp tổng cục của Bộ Quốc phòng gồm Tổng cục Hậu
cần, Tổng cục Kỹ thuật, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng và Tổng cục Tình báo
quốc phòng. Các tổng cục có Chủ nhiệm và các Phó Chủ nhiệm (riêng Tổng cục Tình
báo quốc phòng có Tổng cục trưởng và các Phó Tổng cục trưởng); Chính ủy và Phó
Chính ủy; cơ quan tham mưu, cục chính trị và các cục chức năng, các đơn vị trực
thuộc.
- Tổng cục Hậu cần là cơ quan trực thuộc Bộ Quốc phòng, có chức năng tham
mưu, chỉ đạo, bảo đảm vật chất, sinh hoạt, quân y, vận tải,... cho Quân đội. Tổng cục
Hậu cần gồm có các cơ quan chức năng chịu trách nhiệm về công tác tham mưu hậu
cần, quân nhu, quân y, doanh trại, xăng dầu, vận tải và một số cơ quan, đơn vị trực
thuộc khác.
- Tổng cục Kỹ thuật là cơ quan trực thuộc Bộ Quốc phòng, có chức năng tham
mưu giúp Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng lãnh đạo, chỉ đạo công tác bảo đảm
kỹ thuật trong Quân đội nhân dân và Dân quân tự vệ; giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác bảo đảm kỹ thuật; chỉ đạo ngành kỹ
thuật toàn quân các nội dung công tác kỹ thuật trong Quân đội nhân dân và Dân quân
tự vệ; quản lý, chỉ huy các cơ quan đơn vị thuộc quyền.
- Tổng cục Công nghiệp quốc phòng là cơ quan trực thuộc Bộ Quốc phòng, cơ
quan đầu ngành về công nghiệp quốc phòng, chịu trách nhiệm tham mưu giúp Quân ủy
Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng
trong Quân đội nhân dân Việt Nam; giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về công nghiệp quốc phòng trên phạm vi cả nước; chỉ huy,
quản lý các cơ quan, đơn vị thuộc quyền gồm các cục, phòng, ban chức năng thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của tổng cục; quản lý, chỉ đạo các công ty sản xuất, sửa chữa vũ
khí, trang bị, các viện nghiên cứu, trường dạy nghề và các đơn vị trực thuộc khác.
- Tổng cục Tình báo quốc phòng giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về công tác tình báo. Tổng cục Tình báo quốc phòng là
24

lực lượng trực tiếp thực hiện công tác tình báo ở cấp chiến lược; là cơ quan tham mưu
cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam
về tổ chức lực lượng và hoạt động tình báo; đồng thời, là cơ quan đầu ngành trực tiếp
chỉ đạo nghiệp vụ tình báo đối với hệ thống quân báo - trinh sát toàn quân.
- Các Quân khu (1,2,3,4,5,7,9 và BTL Thủ đô Hà Nội) được tổ chức trên các
hướng chiến lược và theo địa bàn (thường gồm một số tỉnh, thành phố giáp nhau, có
liên quan với nhau về quân sự, quốc phòng; trừ BTL Thủ đô Hà Nội chỉ một thành phố
Hà Nội), gồm có các sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn và các đơn vị trực thuộc. Quân khu
chỉ huy các đơn vị thuộc quyền, các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện và Dân quân
tự vệ trên địa bàn của quân khu.
- Các Quân đoàn (1, 2, 3, 4) là đơn vị cơ động lớn nhất của Lục quân, có nhiệm
vụ bảo vệ các địa bàn chiến lược trọng yếu của quốc gia. Quân đoàn có các sư đoàn, lữ
đoàn, trung đoàn và các đơn vị trực thuộc.
- Bộ đội Biên phòng (thành lập ngày 03 tháng 3 năm 1959) là lực lượng vũ
trang nhân dân của Đảng, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; một thành
phần của Quân đội nhân dân Việt Nam, làm nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh, trật tự biên giới quốc gia trên đất liền, các hải
đảo, vùng biển và các cửa khẩu theo phạm vi nhiệm vụ do pháp luật quy định và là
một lực lượng thành viên trong khu vực phòng thủ tỉnh, huyện biên giới. Bộ đội Biên
phòng hoạt động theo pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và theo
các điều ước quốc tế có liên quan đến chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia trên đất
liền, các hải đảo, vùng biển và các cửa khẩu mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ký kết tham gia. Bộ đội Biên phòng có nhiệm vụ quản lý, bảo vệ đường biên giới
quốc gia, hệ thống dấu hiệu mốc quốc giới; đấu tranh ngăn chặn các hành vi xâm
phạm lãnh thổ biên giới, vượt biên, vượt biển, nhập cư, cư trú bất hợp pháp, khai thác
trái phép tài nguyên và những hành vi khác xâm phạm đến chủ quyền, lợi ích quốc gia,
an ninh, trật tự, gây hại đến môi trường ở khu vực biên giới; chủ trì phối hợp với các
ngành, địa phương trong hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia và duy trì an
ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới trên đất liền, các hải đảo, vùng biển và
các cửa khẩu.
- Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng (thành lập ngày 15 tháng 8 năm 2017)
là lực lượng chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam, đóng vai trò nòng cốt trong
bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, phòng, chống chiến tranh thông tin,
chiến tranh không gian mạng và bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng; là lực lượng
quan trọng tham gia bảo vệ các hệ thống thông tin quan trọng của quốc gia, bảo đảm
an toàn thông tin mạng; bảo vệ an ninh mạng quốc gia và phòng, chống “diễn biến hòa
25

bình” trên không gian mạng; góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
- Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam (thành lập ngày 28 tháng 8 năm 1998) là
bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân, lực lượng chuyên trách của Nhà nước, là
nòng cốt thực thi pháp luật và bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển; tham
mưu cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành theo thẩm quyền hoặc đề xuất với Đảng,
Nhà nước về chính sách, pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển;
bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trong vùng biển của Việt
Nam; quản lý về an ninh, trật tự, an toàn và việc bảo đảm chấp hành pháp luật Việt
Nam, điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Cảnh sát biển Việt Nam được tổ chức thành 4 vùng Cảnh sát biển (1, 2, 3, 4), trong
mỗi vùng có Bộ Tư lệnh và các đơn vị trực thuộc. Cảnh sát biển Việt Nam được trang
bị tàu, thuyền, máy bay, các phương tiện khác, vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và
các thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trên các
vùng biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vùng biển ở ngoài vùng
biển của Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam, các thỏa thuận và điều ước
quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên.
- Các học viện, nhà trường trong Quân đội nhân dân Việt Nam có hệ thống nhà
trường hoàn chỉnh, đáp ứng yêu cầu đào tạo sĩ quan, hạ sĩ quan, nhân viên kỹ thuật cho
Quân đội; đào tạo sau đại học, nhân viên kỹ thuật dân sự. Các học viện, nhà trường
đồng thời là cơ sở nghiên cứu khoa học trong Quân đội; bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng, an ninh cho các đối tượng; đào tạo và hoàn chỉnh kiến thức cao cấp lý luận
chính trị. Bộ Quốc phòng trực tiếp quản lý Học viện Quốc phòng, Học viện Lục quân,
Học viện Chính trị, Học viện Hậu cần, Học viện Kỹ thuật quân sự, Học viện Quân y
và Trường Sĩ quan Lục quân 1, Trường Sĩ quan Lục quân 2, Trường Sĩ quan Chính trị.
Các học viện, nhà trường còn lại thuộc quyền quản lý của các tổng cục, quân
chủng, binh chủng, có nhiệm vụ đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội bậc đại học; sĩ
quan chỉ huy tham mưu cấp chiến thuật, chiến dịch; đào tạo sau đại học; tham gia
nghiên cứu khoa học quân sự.
- Các viện nghiên cứu chủ yếu
Viện Chiến lược quốc phòng là cơ quan nghiên cứu về quân sự, quốc phòng;
đặt dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương và chỉ huy của Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng, có chức năng nghiên cứu, tham mưu, tư vấn những vấn đề về quốc phòng, quân
sự và đối ngoại quốc phòng.
Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự có chức năng nghiên cứu, phát triển,
ứng dụng những kiến thức xã hội nhân văn vào lĩnh vực quân sự; có nhiệm vụ nghiên
26

cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền
quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam,...
Viện Khoa học và Công nghệ quân sự là cơ quan nghiên cứu khoa học kỹ thuật
quân sự; nghiên cứu, phát triển các trang bị, vũ khí của Quân đội để đáp ứng yêu cầu
của chiến tranh hiện đại, đồng thời nghiên cứu khoa học kỹ thuật, công nghệ phục vụ
dân sinh.
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam là cơ quan nghiên cứu lịch sử của Quân đội, có
nhiệm vụ nghiên cứu lịch sử quân sự Việt Nam và thế giới nhằm rút ra những bài học
kinh nghiệm phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay cũng như trong
tương lai.
Viện Quan hệ quốc tế về quốc phòng là cơ quan nghiên cứu chiến lược trực
thuộc Bộ Quốc phòng; có chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu chính sách quan hệ quốc
phòng của các nước, tham mưu và trực tiếp tham gia các hoạt động đối ngoại quốc
phòng, an ninh đa phương cũng như đối thoại an ninh song phương, xây dựng, củng cố
và phát triển quan hệ với các tổ chức, viện nghiên cứu trong và ngoài nước để trao đổi
học thuật và các vấn đề cùng quan tâm.
- Các đơn vị kinh tế - quốc phòng của Quân đội nhân dân Việt Nam là lực
lượng đi đầu trong kết hợp kinh tế với quốc phòng. Các tập đoàn, tổng công ty, các
đoàn kinh tế - quốc phòng đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước; đồng thời là lực lượng chủ yếu ở những khu vực khó khăn nhất,
tham gia phát triển kinh tế - xã hội địa phương, tạo thế trận quốc phòng vững chắc tại
các địa bàn trọng yếu của Tổ quốc. Các đoàn kinh tế - quốc phòng đã thực hiện tốt
mục tiêu cơ bản về kết hợp củng cố quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế, văn
hóa - xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân,
xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận quốc phòng toàn dân trên các địa bàn trọng
điểm của đất nước.
3.2. Hiểu biết chung về các Quân, binh chủng
3.2.1. Quân chủng Hải quân
* Ngày thành lập
Thành lập ngày 07 tháng 5 năm 1955, sau khi kiểm soát hoàn toàn miền Bắc
Việt Nam, ngày 26 tháng 4 năm 1955, Bộ Quốc phòng đã thành lập Trường Huấn
luyện bờ biển để đào tạo nhân sự cho việc quản lý trên 800km dải bờ biển miền Bắc từ
Móng Cái đến vĩ tuyến 17 (Quảng Trị). Chưa đầy 2 tuần sau, ngày 7 tháng 5 năm
1955, Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh ra Nghị định số 284/NĐ-A thành lập Cục Phòng
thủ bờ biển. Nhiệm vụ của Cục là giúp Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo bộ đội phòng thủ bờ
biển; đào tạo cán bộ, nhân viên, thủy thủ; sản xuất các dụng cụ, phương tiện về thủy
quân; xây dựng các thủy đội phòng thủ bờ biển rồi chuyển giao cho các liên khu (sau
27

này là quân khu). Ông Nguyễn Bá Phát được cử làm phụ trách Cục. Về sau, ngày 7
tháng 5 được chọn làm ngày thành lập của Hải quân nhân dân Việt Nam.
* Vị trí, nhiệm vụ
- Quân chủng Hải quân là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ chủ
quyền, quyền chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ trên các vùng biển, đảo của
Việt Nam và xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển.
- Nhiệm vụ của lực lượng Hải quân là quản lý, bảo vệ vững chắc vùng biển, đảo
thuộc chủ quyền quốc gia, sẵn sàng chiến đấu, độc lập hoặc hiệp đồng tác chiến, đánh
bại cuộc tiến công xâm lược trên hướng biển; giữ vững an ninh trật tự, đấu tranh với
mọi hành vi vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia
của Việt Nam trên biển; tham gia phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn; bảo vệ
hoạt động kinh tế biển và các hoạt động khác trên các vùng biển, đảo theo quy định
của pháp luật Việt Nam và luật pháp quốc tế.
* Tổ chức, biên chế
Tổ chức Quân chủng Hải quân bao gồm Bộ Tư lệnh và các đơn vị trực thuộc.
Bộ Tư lệnh có Tư lệnh, các Phó Tư lệnh; Chính ủy, Phó Chính ủy và các cơ quan tham
mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật. Các đơn vị trực thuộc gồm các Bộ Tư lệnh Vùng Hải
quân (Bộ Tư lệnh Vùng 1, 2, 3, 4, 5), một số lữ đoàn, học viện, nhà trường, đơn vị
kinh tế - quốc phòng, viện kỹ thuật. Ở mỗi vùng, Hải quân tổ chức thành Bộ Tư lệnh
Vùng và các đơn vị trực thuộc là các trung tâm, lữ đoàn và các đơn vị bảo đảm, phục
vụ.
Quân chủng Hải quân được xây dựng và phát triển cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, hiện đại với thành phần gồm 5 binh chủng: Tàu mặt nước, Tàu ngầm; Không
quân Hải quân; Pháo binh - Tên lửa bờ; Hải quân đánh bộ; Đặc công Hải quân; ngoài
ra còn có các đơn vị bảo đảm, phục vụ như Thông tin, Rađa, Tác chiến điện tử, Công
binh, Hóa học,... Các lực lượng trên đã được tăng cường, đưa vào biên chế nhiều loại
vũ khí, khí tài hiện đại như tàu ngầm Kilo 636, tàu hộ vệ tên lửa GEPARD 3.9, tàu tên
lửa 12418, tàu pháo TT-400TP, tàu tuần tiễu pháo 10412; tên lửa bờ BASTION; máy
bay EC-225, DHC-6; rađa cảnh giới SCORE-3000; bộ đội được huấn luyện làm chủ
vũ khí, trang bị kỹ thuật, qua đó nâng cao sức mạnh, khả năng sẵn sàng chiến đấu và
chiến đấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Trải
qua quá trình chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, Quân chủng Hải quân đã hai lần
được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
và nhiều danh hiệu cao quý khác.
3.2.2. Quân chủng Phòng không - Không quân
* Ngày thành lập
28

Thành lập ngày 22 tháng 10 năm 1963 trên cơ sở sáp nhập Bộ Tư lệnh Phòng
không và Cục Không quân. Trong thời gian từ 16 tháng 5 năm 1977 đến 3 tháng 3
năm 1999, Quân chủng Phòng không - Không quân tách ra thành hai Quân chủng là
Phòng không và Không quân riêng biệt. Việc chia tách này do được áp dụng theo mô
hình tổ chức lực lượng của Liên Xô, một quốc gia vốn có lãnh thổ rộng lớn và tiềm lực
quân sự mạnh, nên bộc lộ không phù hợp với đặc thù Việt Nam, vốn có lãnh thổ nhỏ
hẹp và tiềm lực quân sự còn nhỏ. Chính vì vậy, sau khi Liên Xô tan rã, mô hình 2 quân
chủng cũng không còn phù hợp, cần tinh giản và gọn nhẹ trong bộ máy quản lý, điều
hành. Từ tháng 3 năm 1999, hai Quân chủng lại được sáp nhập trở về Quân chủng
Phòng không - Không quân như trước tháng 5 năm 1977.
* Vị trí, nhiệm vụ
- Quân chủng Phòng không - Không quân đảm nhiệm nhiệm vụ phòng không
quốc gia và không quân; là lực lượng nòng cốt quản lý, bảo vệ vùng trời của Tổ quốc,
bảo vệ các mục tiêu trọng điểm quốc gia, bảo vệ nhân dân và tham gia bảo vệ các
vùng biển, đảo của Tổ quốc; tham mưu cho Bộ Quốc phòng chỉ đạo xây dựng lực
lượng phòng không lục quân và không quân thuộc các quân chủng, binh chủng,
ngành,...
- Nhiệm vụ của lực lượng Phòng không - Không quân có thể độc lập thực hiện
nhiệm vụ hoặc tham gia tác chiến trong đội hình quân, binh chủng hợp thành. Lực
lượng Không quân vận tải ngoài nhiệm vụ vận chuyển phục vụ chiến đấu và sẵn sàng
chiến đấu, còn tham gia các hoạt động tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, cứu trợ thiên tai và
phát triển kinh tế.
Nhiệm vụ cụ thể của lực lượng Phòng không là kết hợp với các lực lượng của
các quân, binh chủng khác, có nhiệm vụ tiêu diệt các loại máy bay chiến đấu, máy bay
vận tải, máy bay trinh sát, quân nhảy dù, đổ bộ đường không,… của địch. Ngoài ra còn
đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ các cơ sở kinh tế, các mục tiêu quan trọng (cầu cống, kho
tàng,...), bảo vệ các sở chỉ huy cấp chiến dịch, các cơ quan lãnh đạo trong thời bình
cũng như thời chiến, bảo vệ đội hình chiến đấu của bộ đội binh chủng hợp thành.
Lực lượng Không quân tham gia cùng với các lực lượng của các quân, binh
chủng khác, tiêu diệt các loại máy bay địch ở tầng cao mà pháo xạ không kiểm soát
được.Tham gia hỏa lực chuẩn bị và chi viện cho các chiến dịch tiến công, chiến dịch
phòng ngự,…Ngoài ra còn đảm nhận nhiệm vụ tập kích vào các mục tiêu trọng yếu
của địch như sân bay, bến cảng, kho tàng, các vị trí trận địa tập kết xuất phát tiến công
của địch, bảo vệ vùng trời của ta,…
* Tổ chức, biên chế
Tổ chức Quân chủng Phòng không - Không quân bao gồm Bộ Tư lệnh Quân
chủng, các đơn vị chiến đấu và bảo đảm; các học viện, nhà trường..., các đơn vị kinh tế
29

- quốc phòng. Bộ Tư lệnh Quân chủng có Tư lệnh, các Phó Tư lệnh; Chính ủy, Phó
Chính ủy, các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, phòng không nhân dân
và các đơn vị trực thuộc.
Quân chủng có biên chế các sư đoàn phòng không (361, 363, 365, 367, 375,
377); sư đoàn không quân (370, 371, 372, Lữ đoàn không quân 918), và một số đơn vị
không quân trực thuộc là các đơn vị chiến đấu chủ yếu. Quân chủng Phòng không -
Không quân được trang bị các loại máy bay Su-30 MK2, Su-27, Su-22, máy bay vận
tải tầm trung C-295, máy bay chiến đấu tiêm kích hạng nhẹ MiG-21; Tổ hợp tên lửa
tầm xa S-300PMU1, tên lửa Spyder; rađa tầm xa 36D6M1-2; pháo cao xạ các loại...;
đang nghiên cứu, sản xuất một số loại vũ khí, trang bị kỹ thuật mới, hiện đại hóa một
số loại rađa; cải tiến, hiện đại hóa tổ hợp tên lửa phòng không,... Trong các cuộc chiến
tranh giải phóng, lực lượng Phòng không - Không quân đã hoàn thành xuất sắc các
nhiệm vụ được giao, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của không quân
và hải quân Mỹ, bảo vệ các tuyến giao thông vận tải chi viện cho miền Nam, góp phần
bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Lực lượng Phòng không - Không quân đã được Đảng, Nhà nước phong tặng
danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và nhiều danh hiệu cao quý khác…
3.2.3. Binh chủng Pháo Binh
* Ngày thành lập
Thành lập ngày 29/6/1946 tại sân Vệ quốc đoàn Trung ương (40 Hàng Bài, Hà
Nội) đồng chí Hoàng Văn Thái Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam
đọc quyết định thành lập Đoàn pháo binh Thủ đô gồm 3 trung đội: Trung đội Pháo đài
Láng gồm 44 người, chia làm 3 khẩu đội, trang bị 4 khẩu pháo cao xạ 75mm của Đức là
loại pháo hiện đại nhất lúc bấy giờ được đặt trên bệ bê tông và có 500 viên đạn. Trung đội
Pháo đài Xuân Canh, trang bị 1 khẩu pháo cao xạ 75mm và 200 viên đạn. Trung đội Pháo
đài Xuân Tảo, trang bị 2 khẩu pháo cao xạ 75mm và 400 viên đạn.
Để đáp ứng với nhiệm vụ ngày 7/9/1954 Bộ Quốc phòng quyết định thành lập
Bộ chỉ huy Pháo binh, sau đó đến 28/5/1956 đổi tên thành Bộ Tư lệnh Pháo binh, có
nhiệm vụ chỉ huy lực lượng pháo binh dự bị và làm tham mưu giúp Bộ chỉ đạo lực
lượng pháo binh toàn quân. Lực lượng pháo binh từ đó đã chuyển sang giai đoạn thống
nhất về biên chế, trang bị, huấn luyện, đào tạo và tác chiến trong cơ cấu của một Binh
chủng chiến đấu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng binh chủng Pháo binh 8 chữ “Chân đồng, vai sắt,
đánh giỏi, bắn trúng” ngày 13 tháng 4 năm 1967.
Lực lượng Pháo binh đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và nhiều danh hiệu cao quý khác…
* Vị trí, nhiệm vụ
30

- Binh chủng Pháo binh là một binh chủng chiến đấu, hoả lực chính của Lục
quân, đồng thời là hoả lực chính ở mặt đất của Quân đội nhân dân Việt Nam được
trang bị các loại pháo, tên lửa, súng cối.
- Nhiệm vụ của lực lượng Pháo binh là dùng hoả lực chi viện cho bộ binh, xe
tăng và các binh chủng hoàn thành nhiệm vụ (trong các hình thức chiến đấu cấp chiến
dịch, chiến thuật khi hiệp đồng quân, binh chủng). Dùng hoả lực đánh các mục tiêu
được phân công riêng cho pháo binh để thực hiện được ý định chiến đấu nào đó nằm
trong kế hoạch chung của binh chủng hợp thành. Nhiệm vụ cụ thể là chế áp và tiêu
diệt các trận địa pháo, cối, trận địa tên lửa của địch. Diệt xe tăng, xe cơ giới, các
phương tiện đổ bộ đường biển, đường không. Chế áp và sát thương sinh lực, hoả lực
địch tập trung, chú trọng các hoả điểm chống tăng và phá huỷ có trọng điểm công trình
phòng ngự của địch. Chi viện kịp thời liên tục, có hiệu quả cho bộ binh và xe tăng của
ta trong chiến đấu phòng ngự, chiến đấu tiến công và phản công. Đánh phá vào hậu
phương, các con đường giao thông tiếp tế, các căn cứ hậu cần, các mục tiêu trong hậu
phương của địch. Ngoài các mục tiêu trên mặt đất, Binh chủng Pháo binh còn đảm
nhận nhiệm vụ sử dụng các loại pháo, tên lửa và súng cối để chế áp, tiêu diệt các mục
tiêu trên mặt nước.
* Tổ chức, biên chế
Tổ chức Binh chủng Pháo binh bao gồm Bộ Tư lệnh Binh chủng, các đơn vị
chiến đấu và bảo đảm; các nhà trường.... Bộ Tư lệnh Binh chủng có Tư lệnh, các Phó
Tư lệnh; Chính ủy, Phó Chính ủy, các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật,
và các đơn vị trực thuộc.
Binh chủng Pháo binh biên chế các lữ đoàn pháo binh (45, 204, 675, 96), lữ
đoàn tên lửa (490) và một số đơn vị trực thuộc...Ngoài ra lực lượng pháo binh còn
được biên chế ở các quân khu, quân đoàn.
3.2.4. Binh chủng Tăng thiết giáp
* Ngày thành lập
Thành lập ngày 05/10/1959. Trước đó vào ngày 2 tháng 9 năm 1959, Thiếu
tướng Trần Văn Quang, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam
sang Trung Quốc thăm đoàn học viên và thay mặt Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc
phòng ra Nghị định số 449/NĐ, quyết định thành lập trung đoàn xe tăng đầu tiên
của Quân đội nhân dân Việt Nam mang phiên hiệu 202. Tuy nhiên, mãi 3 ngày sau,
ngày 5 tháng 10 năm 1959, Bộ Quốc phòng mới ký quyết định thành lập một đơn vị
thiết giáp cấp trung đoàn trực thuộc Bộ Tổng Tư lệnh, lấy phiên hiệu là Trung đoàn
202, mang mật danh H02, do Thiếu tá Đào Huy Vũ làm Trung đoàn trưởng, Thiếu tá
Đặng Quang Long làm Chính ủy. Ngày 5 tháng 10 về sau trở thành ngày truyền thống
của Binh chủng Tăng thiết giáp Quân đội nhân dân Việt Nam.
31

Lực lượng Tăng thiết giáp đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và nhiều danh hiệu cao quý khác…
* Vị trí, nhiệm vụ
- Binh chủng Tăng thiết giáp là một binh chủng chiến đấu, là lực lượng đột kích
quan trọng của Lục quân và Hải quân đánh bộ, được trang bị xe tăng, xe thiết giáp là
loại trang bị kỹ thuật hiện đại, hoả lực mạnh, sức cơ động cao, khả năng tự vệ tốt.
- Nhiệm vụ của lực lượng Tăng thiết giáp kết hợp cùng các binh chủng khác tạo
thành sức mạnh tổng hợp kết thúc trận chiến đấu. Nhiệm vụ cụ thể là sử dụng hoả lực,
sức cơ động cao, khả năng tự vệ tốt để nhanh chóng tiêu diệt quân địch. Đột phá và
đánh chiếm địa hình, phần đất đai có giá trị chiến thuật, thọc sâu đánh chiếm các mục
tiêu chủ yếu bên trong (Ví dụ: sở chỉ huy, trận địa cối, trận địa pháo, tên lửa của
địch,..). Tham gia phối hợp với các lực lượng khác ngắm bắn trực tiếp. Một xe tăng
thực hiện theo nhiệm vụ của trung đội xe tăng (có thể thực hiện đồng thời các nhiệm
vụ hoặc một nhiệm vụ). Ngoài ra các loại xe thiết giáp có nhiệm vụ chở bộ đội và chở
các phương tiện, vũ khí hành quân, làm nhiệm vụ theo kế hoạch chiến đấu.
* Tổ chức, biên chế
- Tổ chức Binh chủng Tăng thiết giáp bao gồm Bộ Tư lệnh Binh chủng, các đơn
vị chiến đấu và bảo đảm; các nhà trường.... Bộ Tư lệnh Binh chủng có Tư lệnh, các
Phó Tư lệnh; Chính ủy, Phó Chính ủy, các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ
thuật, và các đơn vị trực thuộc.
- Binh chủng Tăng thiết giáp biên chế các lữ đoàn xe tăng (201, 215) và một số
đơn vị trực thuộc...Ngoài ra lực lượng Tăng - Thiết giáp còn được biên chế ở các quân
khu, quân đoàn.
3.2.5. Binh chủng Đặc công
* Ngày thành lập
Thành lập ngày 19 tháng 3 năm 1967. Tổ chức lực lượng lúc mới thành lập: 9
Tiểu đoàn Đặc công; Trường bổ túc cán bộ và 3 cơ quan. Tuy ngày thành lập chính
thức là năm 1967, nhưng từ những năm kháng chiến chống Pháp, cách đánh “công đồn
đặc biệt” ở chiến trường Nam Bộ, cách đánh và tổ chức đặc công đã phát triển nhanh
chóng, hình thành ba lực lượng: Đặc công bộ; Đặc công nước; Đặc công biệt động.
Lực lượng Đặc công đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân và nhiều danh hiệu cao quý khác…
* Vị trí, nhiệm vụ
- Vị trí: là một binh chủng chiến đấu trong Quân đội nhân dân Việt Nam được tổ
chức trang bị và huấn luyện đặc biệt, trở thành lực lượng đặc biệt tinh nhuệ của Lục
quân. Có 2 loại đặc công (đặc công bộ và đặc công nước).
32

- Nhiệm vụ của lực lượng Đặc công sử dụng các phương pháp tác chiến đặc
biệt, để tiến công những mục tiêu hiểm yếu, sâu trong hậu phương và trong đội hình
đối phương.
* Tổ chức, biên chế
Tổ chức Binh chủng Đặc công bao gồm Bộ Tư lệnh Binh chủng, các đơn vị
chiến đấu và bảo đảm; các nhà trường.... Bộ Tư lệnh Binh chủng có Tư lệnh, các Phó
Tư lệnh; Chính ủy, Phó Chính ủy, các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật,
và các đơn vị trực thuộc.
Binh chủng Đặc công biên chế các lữ đoàn đặc công (1, 5, 113, 198, 429) và
một số đơn vị trực thuộc...Ngoài ra lực lượng Đặc công còn được biên chế ở các quân
khu, quân đoàn.
3.2.6. Binh chủng Công binh
* Ngày thành lập
Thành lập ngày 25 tháng 3 năm 1946, ngày Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 34-SL về việc thành lập Công chính Giao
thông Cục thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam. Đến ngày 2 tháng 12 năm 1946, Công
chính Giao thông Cục đổi tên thành Giao thông Công binh Cục và ngày 5 tháng 2 năm
1949 mang tên mới là Cục Công binh. Ngày 1 tháng 1 năm 1951, thành lập Trung
đoàn Công binh 151 trên cơ sở Cục Công binh và một số đơn vị công binh trực thuộc
Bộ Quốc phòng. Ngày 17 tháng 8 năm 1951, thành lập Phòng Công binh Bộ Tổng
Tham mưu, đến ngày 3 tháng 11 năm 1955 phát triển thành Cục Công binh (tái lập).
Năm 1952 được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cờ “Mở đường thắng lợi”. Bộ Tư lệnh
Công binh được đổi tên ngày 28 tháng 6 năm 1965 theo Quyết định 102/QP của Bộ
Quốc phòng.
Lực lượng Công binh đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân và nhiều danh hiệu cao quý khác…
* Vị trí, nhiệm vụ
- Là binh chủng bảo đảm chiến đấu trong tiến công và trong phòng ngự, binh
chủng chuyên môn của Quân đội nhân dân Việt Nam được trang bị phương tiện công
binh và có thể trực tiếp chiến đấu.
- Nhiệm vụ của lực lượng Công binh là bảo đảm công trình trong tác chiến và
xây dựng công trình quốc phòng. Nhiệm vụ cụ thể là bảo đảm chiến đấu cho các binh
chủng khác như: Binh chủng Tăng - Thiết giáp, Binh chủng Pháo binh,… kết hợp
cùng với lực lượng địa phương làm kho, đường, sở chỉ huy phục vụ chiến đấu. Trước,
trong và sau trận đánh phải khắc phục hậu quả chiến đấu. Khi tham gia chiến đấu, lực
lượng công binh dùng thuốc nổ đánh phá một số mục tiêu được phân công, phá bom
nổ chậm. Các công trình đảm bảo trong chiến đấu là: hầm hào các loại, trận địa pháo,
33

ngụy trang, nghi binh trong trận đánh. Trong chiến đấu hiệp đồng binh chủng, các lực
lượng công binh dùng thuốc nổ phá mục tiêu, mở cửa làm đường xuất kích, đảm bảo
cho bộ đội cơ động.
* Tổ chức, biên chế
Tổ chức Binh chủng Công binh gồm Bộ Tư lệnh Binh chủng, các đơn vị chiến
đấu và bảo đảm; các nhà trường.... Bộ Tư lệnh Binh chủng có Tư lệnh, các Phó Tư
lệnh; Chính ủy, Phó Chính ủy, các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, và
các đơn vị trực thuộc.
Binh chủng Công binh biên chế các lữ đoàn Công binh (229, 239, 249, 279, 72,
293) và một số đơn vị trực thuộc...Ngoài ra lực lượng Công binh còn được biên chế ở
các quân khu, quân đoàn.
3.2.7. Binh chủng Hóa học
* Ngày thành lập
Thành ngày 19 tháng 4 năm 1958. Vào ngày này năm 1958, Tiểu đoàn hóa học
đầu tiên được thành lập, mang tên Tiểu đoàn hóa học 6, trực thuộc Trường Sĩ quan
Lục quân (đến 30 tháng 1 năm 1962 đổi phiên hiệu thành Tiểu đoàn hóa học 901).
Ngoài ra còn có 2 đại đội hóa học thuộc các Sư đoàn 308 và 320.
Trước đó không lâu, ngày 13 tháng 3 năm 1958, Bộ Tổng Tham mưu đã ban
hành Công văn 173/BTM về việc thành lập Phòng Hóa học - Nguyên tử thuộc Cục
Huấn luyện chiến đấu, Tổng cục Quân huấn (sau này khi giải thể Tổng cục Quân huấn
thì chuyển sang thuộc Bộ Tổng Tham mưu). Tháng 6 năm 1961, thành lập Ban hóa
học của các Sư đoàn và Phòng hóa học của các Quân khu.
Theo Quyết định số 34/QĐ-QP ngày 9 tháng 5 năm 1966, Phòng Hóa học -
Nguyên tử chuyển thành Cục Hóa học thuộc Bộ Tổng Tham mưu.
Bộ Tư lệnh Hóa học được thành lập theo Quyết định số 224/QĐ-QP ngày 17
tháng 7 năm 1976 trên cơ sở Cục Hóa học.
Lực lượng Hóa học đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân và nhiều danh hiệu cao quý khác…
*Vị trí, nhiệm vụ
- Binh chủng Hoá học là binh chủng bảo đảm chiến đấu, binh chủng chuyên
môn của Quân đội nhân dân Việt Nam và có thể trực tiếp chiến đấu.
- Nhiệm vụ của lực lượng Hoá học là đảm bảo hoá học cho hoạt động tác chiến.
Làm nòng cốt trong việc phòng chống vũ khí huỷ diệt lớn (vũ khí hoá học, vũ khí sinh
học, vũ khí lửa,…). Có thể trực tiếp chiến đấu bằng vũ khí bộ binh và súng phun lửa.
Ngụy trang bảo vệ các mục tiêu quan trọng và nghi binh đánh lừa địch bằng màn khói.
* Tổ chức, biên chế
34

Tổ chức Binh chủng Hoá học gồm Bộ Tư lệnh Binh chủng, các đơn vị bảo đảm;
các nhà trường.... Bộ Tư lệnh Binh chủng có Tư lệnh, các Phó Tư lệnh; Chính ủy, Phó
Chính ủy, các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, và các đơn vị trực thuộc.
Binh chủng Hoá học biên chế các lữ đoàn phòng hóa (86, 87) và một số đơn vị
trực thuộc...Ngoài ra lực lượng Hoá học còn được biên chế ở các quân khu, quân đoàn.
3.2.8. Binh chủng Thông tin liên lạc
* Ngày thành lập
Thành lập ngày 9 tháng 9 năm 1945. Vào ngày 7 tháng 9, Phòng Thông tin Liên
lạc quân sự được thành lập, do Hoàng Đạo Thúy làm Trưởng phòng. Cục Thông tin
Liên lạc được thành lập ngày 31 tháng 7 năm 1949 trên cơ sở Phòng Thông tin Liên
lạc quân sự. Bộ Tư lệnh Thông tin Liên lạc được thành lập ngày 31 tháng 1 năm 1968
trên cơ sở Cục Thông tin Liên lạc.
Lực lượng Thông tin Liên lạc đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và nhiều danh hiệu cao quý khác…
* Vị trí, nhiệm vụ
- Binh chủng Thông tin liên lạc là binh chủng bảo đảm chiến đấu, binh chủng
chuyên môn của Quân đội nhân dân Việt Nam, được trang bị các phương tiện liên lạc,
đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ.
- Nhiệm vụ của lực lượng Thông tin liên lạc là bảo đảm thông tin liên lạc cho
chỉ huy quân đội trong mọi tình huống. Nhiệm vụ cụ thể là bảo đảm chỉ huy tác chiến
và hợp đồng tác chiến. Thông tin liên lạc bảo đảm hiệp đồng quân, binh chủng. Thông
tin liên lạc bảo đảm hậu cần và kỹ thuật. Bảo đảm thông báo, báo động. Bảo đảm quân
bưu và dẫn đường. Bảo đảm đối phó thông tin với thông tin địch (chống các thủ đoạn
phá hoại của địch, phá rối không cho địch làm việc).
* Tổ chức, biên chế
Tổ chức Binh chủng Thông tin liên lạc gồm Bộ Tư lệnh Binh chủng, các đơn vị
bảo đảm; các nhà trường.... Bộ Tư lệnh Binh chủng có Tư lệnh, các Phó Tư lệnh;
Chính ủy, Phó Chính ủy, các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, và các
đơn vị trực thuộc.
Binh chủng Thông tin liên lạc biên chế các lữ đoàn (132, 134, 139, 205, 596) và
một số đơn vị trực thuộc...Ngoài ra lực lượng Thông tin liên lạc còn được biên chế ở
các quân khu, quân đoàn.
35

CÂU HỎI ÔN TẬP


Câu 1. Trình bày khái quát lịch sử hình thành và phát triển của Quân đội nhân dân Việt
Nam.
Câu 2. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Câu 3. Vị trí, nhiệm vụ, tổ chức biên chế của Quân chủng Hải quân.
Câu 4. Vị trí, nhiệm vụ, tổ chức biên chế của Quân chủng Phòng không - Không quân.
Câu 5. Vị trí, nhiệm vụ, tổ chức biên chế của Binh chủng Pháo binh
Câu 6. Vị trí, nhiệm vụ, tổ chức biên chế của Binh chủng Tăng thiết giáp.
Câu 7. Vị trí, nhiệm vụ, tổ chức biên chế của Binh chủng Đặc công.
Câu 8. Vị trí, nhiệm vụ, tổ chức biên chế của Binh chủng Công binh.
Câu 9. Vị trí, nhiệm vụ, tổ chức biên chế của Binh chủng Hóa học.
Câu 10. Vị trí, nhiệm vụ, tổ chức biên chế của Binh chủng Thông tin liên lạc.
36

Bài 6. HIỂU BIẾT CHUNG VỀ BẢN ĐỒ ĐỊA HÌNH QUÂN SỰ

6.1. Bản đồ
6.1.1. Khái niệm, ý nghĩa
6.1.1.1. Khái niệm
Bản đồ là hình ảnh thu nhỏ và khái quát hoá một phần bề mặt trái đất lên mặt
phẳng theo những quy luật toán học nhất định. Trên bản đồ các yếu tố về tự nhiên,
kinh tế, văn hoá - xã hội được thể hiện bằng hệ thống các kí hiệu. Những yếu tố này
được phân loại lựa chọn, tổng hợp tương ứng từng bản đồ và từng tỉ lệ.
Bản đồ địa hình là loại bản đồ chuyên đề có tỉ lệ từ 1: 1.000.000 và lớn hơn.
Trên bản đồ, địa hình và địa vật một khu vực bề mặt trái đất được thể hiện 1 cách
chính xác và chi tiết bằng hệ thống các kí hiệu qui ước thích hợp.
6.1.1.2. Ý nghĩa
Bản đồ địa hình trong đời sống xã hội có một ý nghĩa to lớn trong việc giải
quyết các vấn đề khoa học và thực tiễn, những vấn đề có liên quan đến việc nghiên
cứu địa hình, lợi dụng địa hình, tiến hành thiết kế, xây dựng các công trình trên thực
địa…
Nghiên cứu địa hình trên bản đồ quân sự giúp cho người chỉ huy nắm chắc các
yếu tố về địa hình để chỉ đạo tác chiến trên đất liền, trên biển, trên không và thực hiện
các nhiệm vụ khác. Thực tế không phải lúc nào cũng ra ngoài thực địa được, hơn nữa
việc nghiên cứu ngoài thực địa có thuận lợi là độ chính xác cao, xong tầm nhìn hạn
chế bởi tính chất của địa hình, tình hình địch… nên thiếu tính tổng quát. Vì vậy, bản
đồ địa hình là phương tiện không thể thiếu được trong hoạt động của người chỉ huy
trong chiến đấu và công tác.
6.1.2. Cơ sở toán học bản đồ địa hình
6.1.2.1. Tỉ lệ bản đồ
- Khái niệm:
“Tỉ lệ bản đồ là yếu tố toán học quan trọng để xác định mức độ thu nhỏ độ dài
khi chuyển từ bề mặt cong của trái đất lên mặt phẳng bản đồ”.
“Tỉ lệ bản đồ là tỉ số giữa độ dài trên bản đồ và độ dài ngoài thực địa”. Nếu nói
tới cơ sở toán học bản đồ thì có định nghĩa đầy đủ sau:
+ “Tỉ lệ bản đồ là mức độ thu nhỏ chiều dài nằm ngang của các đường trên
thực địa khi biểu thị chúng trên bản đồ”.
1
+ Tỉ lệ bản đồ được biểu diễn dưới dạng phân số:
M
37

+ Tử số chỉ độ dài đo được trên bản đồ, mẫu số chỉ M lần đơn vị độ dài tương
ứng trên thực địa.
- Tỉ lệ bản đồ được biểu diễn dưới 3 dạng sau:
+ Tỉ lệ số: Là tỉ lệ ở dạng phân số, biểu thị mức độ thu nhỏ các yếu tố địa hình,
địa vật trên thực địa vẽ trên bản đồ. Để tiện tính toán, mẫu số tỉ lệ bản đồ thường được
xác định bằng các số chẵn như 10.000; 25.000; 50.000; 100.000…
- Tỉ lệ số thường được ghi ở dưới khung Nam mỗi mảnh bản đồ, có 3 cách viết:
+ Tỉ lệ chữ: Tỉ lệ nói rõ 1 đơn vị độ dài centimét (cm) trên bản đồ ứng với đơn
vị độ dài bằng mét trên thực địa. Ở thước tỉ lệ thẳng của mỗi mảnh bản đồ có ghi tỉ lệ
chữ.
+ Tỉ lệ thước: Trên mỗi tờ bản đồ có 1 thước tỉ lệ thẳng. Thước tỉ lệ thẳng giúp
đo đạc và tính toán thuận tiện, vì độ dài trên thước đã được tính ra cự li thực địa.
Công thức:
d 1
Tỉ lệ bản đồ với thực địa được biểu thị bằng công thức sau: =
D M
Trong đó: d là cự li đo trên bản đồ.
D là cự li tính theo thực địa.
M là mẫu số tỉ lệ.
Để chỉ tỉ lệ bản đồ có thể dùng 1 trong 3 cách viết trên. Khi biểu thị trên bản đồ
thường dùng cách viết thứ nhất.
6.1.2.2. Phép chiếu bản đồ.
- Khái niệm: Khi thành lập bản đồ phải biểu diễn về mặt Elipxoit (hay mặt cầu)
lên mặt phẳng sao cho sự biến dạng sai số trên bản đồ ở mức độ nhỏ nhất, khi biểu
diễn phải đạt được những điều kiện để những đường tọa độ trong mối quan hệ tọa độ
mặt Elipxoit (hay mặt cầu) dựa theo 1 qui luật toán học nhất định, muốn thế phải sử
dụng phép chiếu bản đồ. Vậy phép chiếu bản đồ là phép chiếu hình kinh tuyến, vĩ
tuyến từ mặt Elipxoit lên mặt phẳng giấy bằng phương pháp toán học.
- Các phương pháp chiếu bản đồ:
+ Phương pháp chiếu Gauss:
Cơ sở nội dung của phép chiếu Gauss: Là phép chiếu đồ lồng trụ ngang giữ góc,
hình trụ tiếp xúc với quả địa cầu theo 1 đường kinh tuyến nào đó, trục hình trụ nằm
trong mặt phẳng xích đạo và vuông góc với trục trái đất.
Toàn bộ mặt Elipxoit (Trái Đất) được chia thành 60 múi, mỗi múi có giá trị 60
kinh tuyến và được đánh số thứ tự từ múi số 1 đến 60 từ Tây sang Đông bắt đầu từ
kinh tuyến gốc.
Đường kinh tuyến tiếp xúc với hình trụ là kinh tuyến giữa (kinh tuyến trung
ương). Mỗi múi được chiếu riêng 1 lần, cứ như vậy tịnh tiến trong hình trụ tịnh tiến từ
38

múi số 1 đến 60. Việt Nam theo cách tính trên nằm ở khoảng 102° kinh đông đến 110°
kinh đông thuộc 2 múi chiếu hình thứ 48 và 49. Sau khi chiếu các múi liên tiếp lên
hình trụ, bổ dọc hình trụ, trải ra mặt phẳng có được hình chiếu của trái đất trên mặt
phẳng, toàn bộ trái đất có 60 múi chiếu.
+ Phương pháp chiếu UTM:
Hiện nay ngoài hệ thống bản đồ Gauss, trong quân đội và 1 số cơ quan nhà
nước còn sử dụng rộng rãi loại bản đồ UTM tái bản do Cục Bản đồ Bộ Tổng Tham
mưu phát hành. UTM là chữ viết tắt của phép chiếu Universal Transvesal Merecator’s.
Phép chiếu UTM về nguyên tắc căn bản, cơ sở nội dung giống như phép chiếu
Gauss, là phép chiếu đồ giữ góc lồng trụ ngang và cùng dạng công thức với lưới chiếu
đồ giữ góc Gauss.
XUTM = 0,9996 XG ; YUTM = 0,9996 YG
+ So sánh phép chiếu UTM với phép chiếu hình Gauss:
Như lưới chiếu Gauss, phần sai số tỉ lệ chiều dài và sai số diện tích (P) lưới
chiếu UTM nhỏ hơn; Lưới chiếu UTM khác với lưới chiếu Gauss: Trong lưới chiếu
UTM hình trụ ngang không tiếp xúc như lưới chiếu Gauss mà cắt Elipxoit ở 2 cát
tuyến, cách đều kinh tuyến giữa 180km về phía Đông và Tây.
Mặt chiếu hình không tiếp xúc với kinh tuyến trục mà tiếp xúc với kinh tuyến
hai bên cách đều kinh tuyến trục 180km.
Phép chiếu hình UTM Elipxoit được qui chiếu thành 60 múi nhưng đánh số múi
tọa độ từ múi số 1 - 60 kể từ kinh tuyến 180° về hướng Đông.
Hệ tọa độ vuông góc áp dụng cho múi chiếu hình, chỉ áp dụng từ 80° vĩ Nam
đến 80° vĩ Bắc. Giao điểm của hai trục này là điểm gốc của hệ trục tọa độ với X = 0; Y
= 500km đối với Bắc bán cầu; X = 10.000km, Y = 500km đối với Nam Bán cầu.
6.1.3. Phân loại, đặc điểm, công dụng bản đồ địa hình
6.1.3.1. Phân loại, đặc điểm công dụng
- Bản đồ cấp chiến thuật:
+ Bản đồ cấp chiến thuật là bản đồ địa hình có tỉ lệ 1: 25.000; 1: 50.000 dùng
cho tác chiến ở vùng đồng bằng và trung du; 1: 100.000 đối với vùng núi; là bản đồ
địa hình có tỉ lệ lớn dùng cho cấp chỉ huy tham mưu từ đại đội đến cấp sư đoàn.
+ Đặc điểm, công dụng: Bản đồ có tỉ lệ 1: 25.000, mặt đất được thể hiện chi tiết
cụ thể, tỉ mỉ, chính xác, dùng để nghiên cứu những vấn đề tác chiến trong tiến công và
phòng ngự như: Các tuyến phòng thủ của ta và địch, những khu vực nhảy dù, đổ bộ, hệ
thống đường xá, cầu cống, các chướng ngại vật trên đường hành quân, tình hình các
điểm dân cư, chuẩn bị phần tử bắn cho pháo binh, thiết kế các công trình quân sự.
+ Bản đồ địa hình tỉ lệ 1: 50.000 - 1:100.000 mức độ chi tiết, cụ thể, tỉ mỉ kém
hơn so với bản đồ tỉ lệ 1: 25.000. Tuy nhiên, được xác định là bản đồ chiến thuật cơ
39

bản của quân đội ta, dùng để nghiên cứu địa hình ở phạm vi rộng lớn hơn, đánh giá,
phân tích ý nghĩa chiến thuật của yếu tố địa hình, tác dụng của chúng để lập kế hoạch
tác chiến, chỉ huy chiến đấu trong tất cả các hình thức chiến thuật.
- Bản đồ cấp chiến dịch:
+ Bản đồ cấp chiến dịch là bản đồ địa hình có tỉ lệ từ 1: 100.000 - 1: 250.000
(1:100.000 đối với địa hình đồng bằng, trung du; 1: 250.000 đối với địa hình rừng núi)
Là loại bản đồ có tỉ lệ trung bình chủ yếu dùng cho chỉ huy cấp chiến dịch (chỉ huy và
cơ quan tham mưu cấp quân đoàn, quân khu).
+ Đặc điểm, công dụng: Trên bản đồ địa hình, địa vật thể hiện có chọn lọc, tính
tỉ mỉ kém nhưng tính khái quát hoá rất cao, để tiện việc nghiên cứu thực địa khái quát,
tổng thể, giúp cho việc lập kế hoạch tác chiến và chỉ huy tác chiến ở cấp chiến dịch.
- Bản đồ cấp chiến lược:
+ Bản đồ cấp chiến lược có tỉ lệ 1: 500.000 - 1: 1.000.000 là loại bản đồ dùng
cho Bộ Tổng Tư lệnh và các cơ quan cấp chiến lược.
+ Đặc điểm, công dụng: Bản đồ biểu diễn một khu vực địa hình rộng lớn, ở
mức khái quát hoá cao. Dùng để chuẩn bị và triển khai các chiến dịch và chỉ huy các
hoạt động quân sự phối hợp trên một hướng hay một khu vực chiến lược hoặc củng cố,
xây dựng kế hoạch chiến lược quốc phòng an ninh của đất nước.
6.1.3.2. Đặc điểm khung bản đồ và ghi chú xung quanh.
- Khung bản đồ:
Khung để trang trí bản đồ là những đường giới hạn diện tích của mỗi mảnh bản
đồ. Khung bản đồ có những đường:
+ Đường trong cùng là giới hạn trực tiếp của khu vực có nội dung bản đồ vẽ
nét mảnh.
+ Đường hai nét kẻ song song, trên đó có chia thành các đoạn nhỏ theo kinh độ,
vĩ độ chẵn tới phút.
+ Ngoài cùng là khung trang trí vẽ nét đen đậm.
+ Nếu gọi tên gồm khung Bắc, Nam, Đông, Tây.
- Ghi chú xung quanh:
+ Phần ghi chú xung quanh nhằm giải thích, thuyết minh cho người sử dụng
bản đồ. Vì vậy, sử dụng bản đồ cần nắm vững ý nghĩa và nội dung cách ghi đó.
+ Nguyên tắc ghi chú xung quanh của bản đồ Gauss và UTM cơ bản giống
nhau, chỉ khác cách sắp xếp vị trí, cách ghi, cách trình bày.
+ Trong nội dung bài giảng này chỉ nêu lên những nguyên tắc chung về cách
ghi chú xung quanh của bản đồ địa hình Gauss.
+ Khung Bắc:
40

Ghi tên bản đồ: Tên bản đồ thường là địa danh vùng dân cư hành chính cấp cao
nhất trong mảnh bản đồ đó hoặc ghi địa điểm quan trọng nổi tiếng trong vùng dân cư.
Dưới tên bản đồ ghi số hiệu của mảnh bản đồ, xác định vị trí địa lí của mảnh
bản đồ nằm ở khu vực nào trên trái đất (theo cách chia mảnh, đánh số, ghi số hiệu).
Bên trái ngoài khung bản đồ ghi tên, vị trí địa dư: Là tên chỉ 1 khu vực địa dư
tổng quát một nước, một tỉnh, một huyện… bao gồm một phần đất đai của khu vực đó.
Đường ranh giới hành chính vẽ nháp: Chỉ cho ta biết hiện ranh giới hành chính
chưa được vẽ chính thức theo phân chia hành chính các khu vực.
Thước điều chỉnh góc lệch bản đồ: Xác định góc lệch từ so với Bắc ô vuông
của mỗi mảnh bản đồ theo vị trí địa lí khu vực đó.
Độ mật: Xác định độ mật bản đồ, ghi ở góc Đông Bắc bên ngoài khung bản đồ.
+ Khung Nam:
Tỉ lệ số, tỉ lệ thước, tỉ lệ chữ. Phía dưới tỉ lệ chữ: Ghi chú khoảng cao đều
đường bình độ cơ bản. Tuỳ theo tỉ lệ mà ghi chú này thay đổi.
Phía dưới dòng tiếp theo xác định thể Elipxoit chiếu hình và gốc tọa độ, độ cao
thiết lập bản đồ và ghi chú giải thích phần ghi của bản đồ UTM trên bản đồ Gauss.
Phần ghi chú góc lệch từ gồm sơ đồ góc lệch và bảng giá trị tính góc để xác
định góc lệch từng năm bản đồ đó.
Thước đo độ dốc, phía dưới thước đo độ dốc có phần hướng dẫn sử dụng.
Sơ đồ phân chia địa giới hành chính của từng khu vực phần đất trên bản đồ.
Lược đồ bản chắp: Là một hình vẽ thu nhỏ phạm vi các mảnh bản đồ có nối tiếp
với nhau, phần này giúp người sử dụng nhanh chóng tìm ra các mảnh bản đồ cần chắp
nối với mảnh đang dùng.
Phần chú dẫn giải thích kí hiệu bản đồ, nội dung này giúp ta nắm được các kí
hiệu tra cứu khi đọc bản đồ.
Xung quanh bản đồ phía trong (phần giới hạn nội dung bản đồ với nét khung
đen đậm đều có các ghi chú).
Bốn góc khung bản đồ ghi giới hạn kinh tuyến, vĩ tuyến. Căn cứ vào các số tính
được độ kinh sai, vĩ sai của mảnh bản đồ đó.
Trên các đường khung bản đồ lưới ô vuông cắt qua khung tạo thành mốc của
lưới ô vuông. Trên các mốc có ghi trị số các đường ô vuông được tính bằng kilômét.
Ghi chú đường xuất: Mạng lưới giao thông trên bản đồ như đường sắt, đường ô
tô đến dấu mút bốn xung quanh mép khung đều được ghi chú địa danh dân cư hoặc
một địa điểm cách đó với độ dài là bao nhiêu giúp cho việc tiện xác định trên bản đồ.
6.1.4. Cách chia mảnh, ghi số hiệu bản đồ
6.1.4.1. Theo phương pháp chiếu Gauss:
- Bản đồ tỉ lệ 1: 1.000.000.
41

+ Chia mặt trái đất thành 60 dải chiếu đồ, đánh số từ 1 đến 60. Dải số 1 từ 180°
đến 174° Tây và tiến dần về phía Đông đến dải số 60. Việt Nam nằm ở dải 48, 49.
+ Chia dải chiếu đồ theo vĩ độ từng khoảng 4° kể từ xích đạo trở lên Bắc cực và
xuống Nam cực, đánh thứ tự A, B, C… tính từ xích đạo. Việt Nam thuộc 4 khoảng C,
D, E, F.
+ Mỗi hình thang cong (6° kinh tuyến, 4° vĩ tuyến) là khuôn khổ mảnh bản đồ tỉ
lệ 1: 1.000.000. Khi ghi số hiệu cho mảnh bản đồ, ghi tên dải trước, ghi số múi chiếu
sau (Hình 6.1). Ví dụ: F - 48.

Hình 6.1. Chia mảnh bản đồ tỷ lệ 1: 1.000.000

- Bản đồ tỉ lệ 1: 100.000.
Chia mảnh bản đồ tỉ lệ 1: 1.000.000 thành 144 ô nhỏ, có khuôn khổ 0°30’ kinh
tuyến, 0°20’ vĩ tuyến, số hiệu đánh từ 1 đến 144 (từ trái qua phải, từ trên xuống dưới)
ghi vào sau số hiệu mảnh bản đồ tỉ lệ 1: 1.000.000 (Hình 6.2). Ví dụ: F - 48 - 115.
42

F - 48
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24
25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36
37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48
49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60
61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72
73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84
85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96
97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108
109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120
121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132
133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144
Hình 6.2. Chia mảnh bản đồ tỷ lệ 1: 100.000

- Bản đồ tỉ lệ 1: 50.000.
Chia khuôn khổ mảnh bản đồ tỉ lệ 1: 100.000 thành 4 ô nhỏ, có khuôn khổ 0°15’
kinh tuyến, 0°10’ vĩ tuyến, đánh số A, B, C, D (từ trái qua phải, từ trên xuống dưới)
ghi sau số hiệu mảnh bản đồ tỉ lệ 1: 100.000 (Hình 6.3). Ví dụ: F - 48 - 115 - A.
F-48-115

A B
F- 48-115- A

C D

Hình 6.3. Chia mảnh bản đồ tỷ lệ 1: 50.000

- Bản đồ tỉ lệ 1: 25.000.
Chia khuôn khổ mảnh bản đồ tỉ lệ 1: 50.000 thành 4 ô nhỏ, có khuôn khổ
0°7’30’’ kinh tuyến, 0°5’ vĩ tuyến, là khuôn khổ mảnh bản đồ tỉ lệ 1: 25.000, đánh số
43

a, b, c, d (từ trái qua phải, từ trên xuống dưới) ghi sau số hiệu mảnh bản đồ tỉ lệ 1:
50.000 (Hình 6.3). Ví dụ: F - 48 - 115 - A - c.

F-48-115-A

a b

c d
F- 48-115-A-c

Hình 6.4. Chia mảnh bản đồ tỷ lệ 1: 25.000

6.1.4.2. Cách chia mảnh ghi số hiệu bản đồ UTM


- Bản đồ tỉ lệ 1: 1.000.000.
+ Cách chia giống như bản đồ Gauss nhưng lưới chiếu Lamberl.
+ Khuôn khổ: Dọc = 4° vĩ tuyến; ngang = 6° kinh tuyến.
+ Số hiệu: Cũng kết hợp số dải và múi (dải chiếu) ở phía trước có chữ N hoặc S
chỉ hướng Bắc, Nam.
- Bản đồ tỉ lệ 1: 100.000.
+ Khu vực Đông Dương và một số vùng lân cận tạo độ khởi điểm của lưới tam
giác cấp I. Tính từ điểm ở phía Tây sông Tram Ban Ấn Độ.
+ Lấy giao điểm của 4° Nam và 75° Đông làm gốc chia đều lên phía Bắc và
sang phía Đông mỗi khoảng là 0°30’ có khuôn khổ mảnh bản đồ 0°30’ × 0°30’ vẽ theo
tỉ lệ 1: 100.000.
+ Số hiệu được ghi bằng 2 cặp chữ số Ả Rập, cặp số đứng trước chỉ giá trị kinh
tuyến, cặp số đứng sau chỉ giá trị vĩ tuyến, cặp một khởi điểm từ 00 ghi từ trái qua
phải, cặp 2 khởi điểm từ 01 ghi từ dưới lên trên.
- Bản đồ tỉ lệ 1: 50.000.
+ Chia mảnh bản đồ tỉ lệ 1: 100.000 thành 4 phần bằng nhau. Đánh số La Mã: I,
II, III, IV theo chiều kim đồng hồ.
+ Khuôn khổ: Dọc 0°15’ vĩ tuyến, ngang 0°15’ kinh tuyến.
+ Số hiệu ghi chữ số La Mã sau số hiệu bản đồ tỉ lệ 1: 100.000.
6.1.5. Nội dung bản đồ
6.1.5.1. Kí hiệu dáng đất
- Đường bình độ (Hình 6.5).
44

+ Đường bình độ là đường cong khép kín, nối liền các điểm có cùng độ cao trên
mặt đất được chiếu lên mặt phẳng bản đồ.
+ Đường bình độ con là đường cơ bản vẽ nét mảnh màu nâu.
+ Đường bình độ cái, cứ 4 đến 5 đường bình độ con thì người ta vẽ 1 đường
bình độ cái vẽ nét đậm hơn và có ghi chú độ cao.
+ Đường bình độ ½ khoảng cao đều, để bổ sung nơi mà đường bình độ con,
bình độ cái không biểu thị rõ được như nơi dốc thoải (vẽ nét đứt dài).
+ Đường bình độ phụ để diễn tả những nơi mà các đường bình độ trên không
thể biểu thị hết (vẽ nét đứt ngắn, mảnh hơn).

Hình 6.5. Nguyên lý biểu thị dáng đất bằng đường bình độ

- Khoảng cao đều:


Khoảng cao đều của đường bình độ được xác định bằng cự li thẳng đứng giữa
hai mặt cắt của hai đường bình độ kề nhau (tùy theo tỉ lệ bản đồ mà quy định khoảng
cao đều khác nhau).
Bảng quy định khoảng cao đều
Bình độ cao ½
Tỉ lệ bản đồ Bình độ con Bình độ cái Bình độ phụ
khoảng cao đều
1: 10.000 2m 10m 1m Tùy ý có ghi chú
1: 25.000 5m 25m 2,5m “
1: 50.000 10m 50m 5m “
1: 100.000 20m 100m 10m “

6.1.5.2. Kí hiệu địa vật


- Kí hiệu vẽ theo tỉ lệ:
+ Là kí hiệu biểu thị đúng tương quan tỉ lệ của địa vật trên thực địa với bản đồ,
vẫn giữ được hình dáng và phương hướng thực địa của địa vật.
45

+ Loại kí hiệu này thường biểu thị những địa vật có diện tích lớn; sau khi thu
nhỏ theo tỉ lệ của bản đồ vẫn còn phân biệt được hình dáng và có thể đo, tính được
diện tích của chúng theo bản đồ.
+ Kí hiệu vẽ theo ½ tỉ lệ là kí hiệu biểu thị đúng tương quan tỉ lệ về chiều dài
của địa vật và giữ được phương hướng thực của nó ở thực địa, nhưng về chiều ngang
không vẽ theo tỉ lệ.
+ Loại kí hiệu này dễ thể hiện địa vật có hình dài như: Đường, mương, máng,
sông ngòi, suối nhỏ, khu phố hẹp…
- Kí hiệu không theo tỉ lệ (vẽ tượng trưng, tượng hình):
+ Là kí hiệu thể hiện những địa vật có kích thước nhỏ bé, không thể rút theo tỉ
lệ của bản đồ được. Loại kí hiệu này vẽ tượng trưng, tượng hình.
+ Hướng của kí hiệu có 2 loại:
Loại vẽ theo hướng bắc bản đồ bao gồm: Cây độc lập, đình chùa, nhà thờ, hang
động, lò nung, bảng chỉ đường…
Loại vẽ theo hướng thực của nó ở thực địa bao gồm: Cầu, cống, nhà cửa.
- Bên cạnh những kí hiệu vẽ theo tỉ lệ, không theo tỉ lệ người ta còn dùng chữ
và số để giải thích làm rõ phạm vi quy mô, tính chất của địa vật đó gọi là kí hiệu giải
thích.
+ Các loại kí hiệu:
Kí hiệu vùng dân cư; Kí hiệu một số vật thể độc lập;
Kí hiệu địa giới; Kí hiệu dáng đất;
Kí hiệu thủy văn; Kí hiệu rừng cây và thực vật;
Kí hiệu đường xá.
+ Xác định vị trí chính xác kí hiệu:
Kí hiệu có hình học hoàn chỉnh như hình tròn, vuông, tam giác đều… tâm kí
hiệu là tâm của hình vẽ. Những kí hiệu có đường đáy như ống khói, đình, chùa, bia
tưởng niệm… là những điểm chính giữa đường đáy. Những kí hiệu không có đường
đáy như hang động, lò gạch… là điểm chính giữa đường đáy tưởng tượng. Những kí
hiệu có đáy vuông góc với bảng chỉ đường, cây độc lập… là tại đỉnh góc vuông. Cầu
cống đập… là chính giữa kí hiệu. Đường 1 nét, 2 nét vị trí chính xác ở giữa đường.
Ngoài ra một số địa vật được quy định riêng như xóm nhỏ là chính giữa hình đen đậm,
hàng cây là chính giữa hình tròn kí hiệu.
+ Màu sắc:
Màu sắc trên bản đồ thường có liên quan đến địa vật. Trên thế giới nhiều nước
đều quy định dùng màu sắc như sau:
Màu nâu: Dùng để vẽ và ghi chú trên đường bình độ, biểu thị các khu vực dân
cư khó cháy, tô màu nền đường…
46

Màu xanh lá cây (màu ve): Dùng để biểu thị sông, suối, ao, hồ, biển, đầm lầy,
ruộng nước.
Màu đen: dùng để vẽ tất cả các kí hiệu còn lại và ghi chú, trang trí bản đồ.
Màu xanh lam: dùng để vẽ các kí hiệu về thủy văn…
Ngoài 4 màu cơ bản trên người ta còn dùng các màu phụ nhằm làm rõ thêm tính
chất cũng như thông tin của từng loại kí hiệu.
6.1.6. Chắp ghép, dán gấp, bảo quản bản đồ
6.1.6.1. Chắp ghép bản đồ
- Căn cứ chọn mảnh chắp:
+ Dựa vào bảng chắp, số hiệu ghi ở chính giữa 4 khung và hệ thống quy tắc
chia mảnh, ghi số hiệu.
+ Nếu phải chắp nhiều mảnh trong một khu vực ta dựa vào bảng chắp từng
vùng, khoanh phạm vi khu vực rồi tìm số hiệu mảnh.
- Nguyên tắc chắp:
+ Bản đồ phải cùng tỉ lệ, cùng phép chiếu hình, cùng khu vực địa hình, tốt nhất
cùng năm và cùng xưởng sản xuất.
+ Khi chắp theo quy tắc mảnh trên đè mảnh dưới, mảnh trái đè mảnh phải.
+ Các kí hiệu và lưới ô vuông nơi tiếp biên giữa các mảnh bản đồ phải tiếp hợp
nhau chính xác.
- Cắt khung bản đồ:
Về nguyên tắc cắt khung phải căn cứ số mảnh chắp, nguyên tắc chắp ghép điểm
cắt, cách tiến hành như sau:
+ Vẽ một sơ đồ giản đơn để làm cơ sở cắt.
+ Các mảnh hàng ngang cắt khung đông.
+ Các mảnh hàng dọc cắt khung nam.
+ Tất cả các mảnh ngoài cùng không cắt khung.
+ Phải cắt theo đường trong cùng sát với nội dung bản đồ.
6.1.6.2. Dán, gấp bản đồ
- Dán bản đồ:
Khi dán bản đồ:
+ Thực hiện chiều nào ít mảnh dán trước, nhiều mảnh dán sau.
+ Đặt cho 2 mảnh bản đồ có nội dung úp vào nhau, mép của tờ bản đồ trùng lên
đường sát phần nội dung của mảnh phải dán, sau đó quét hồ lên phần chưa cắt của tờ
bản đồ phía dưới hoặc tờ bên phải.
+ Lật ngược tờ bản đồ lại cho mép của tờ trên trùng khít đường sát với nội dung
bản đồ, điều chỉnh không để sai lệch ở những điểm tiếp giáp.
+ Dùng con lăn, lăn cho nơi dán thật phẳng để khô rồi sử dụng.
47

- Gấp bản đồ:


Khi gấp phải thuận tiện trong sử dụng, kích thước phù hợp với túi đựng hoặc
bàn; không gấp theo nếp hồ dán, không gấp đôi, không gấp tuỳ tiện.
+ Gấp dùng trong hành quân:
Trải bản đồ, xác định đường hành quân.
Gập cho đường hành quân ra ngoài, các phần còn lại gập vào trong khoảng gập
vừa bảng hay túi đựng.
Gập rích rắc nhiều lần, điểm xuất phát để ra ngoài.
- Gấp để trên bàn:
+ Trải bản đồ, xác định khu vực cần tác nghiệp hoặc xem trước.
+ Đo chiều dài, chiều rộng của mặt bàn, ước tính trên bản đồ để khi xong, kích
thước bản gấp hẹp hơn mặt bàn một ít.
+ Gấp cho khu vực cần tác nghiệp lên trên, khu vực còn lại gấp rích rắc nhiều
lần, phần thừa hai đầu bàn gấp xuống dưới. Khi cần xem hay cần tác nghiệp một khu
vực khác, mở đoạn thừa hai đầu cho phần đã tác nghiệp xuống dưới.
6.1.6.3. Giữ gìn bảo quản bản đồ
- Phải giữ nghiêm quy định bảo mật. Đặc biệt đối với bản đồ công tác của
người chỉ huy.
- Không để thất lạc, mất mát hoặc làm nhàu nát; Nếu sử dụng lâu dài dùng túi
polietilen bọc bản đồ.
- Không để bản đồ ở những nơi ẩm ướt hoặc quá nóng.
- Không dùng dao để cạo hoặc xấp nước để tẩy xóa làm rách nát bản đồ. Khi
gấp không miết mạnh làm cho bản đồ bị rách theo nếp gấp.
- Không viết vẽ tuỳ tiện lên bản đồ.
6.2. Sử dụng bản đồ
6.2.1. Đo cự li, diện tích trên bản đồ
6.2.1.1. Đo cự li đoạn thẳng
Khi đo cự li đoạn thẳng trên bản đồ dùng một số phương tiện như: Thước
milimet, băng giấy, compa…
- Đo bằng thước milimet: Đặt cho cạnh thước nối qua hai điểm, số đo trên
thước được bao nhiêu centimet, nhân với tỉ lệ bản đồ được kết quả đo.
- Đo bằng băng giấy: Băng giấy phải được chuẩn bị có độ dài khoảng 20cm trở
lên rộng khoảng 5cm, mép băng giấy phải thẳng. Đặt cạnh băng giấy nối qua hai điểm
trên bản đồ và đánh dấu lại, đem băng giấy ướm vào thước tỉ lệ thẳng, đọc được kết
quả cần đo.
- Đo bằng compa: Mở khẩu độ compa vừa khẩu độ định đo trên hai điểm đo,
giữ nguyên khẩu độ compa đem ướm vào thước tỉ lệ thẳng được kết quả cần đo.
48

6.2.1.2. Đo cự li đoạn gấp khúc, đoạn cong


- Đo bằng băng giấy: Chuẩn bị băng giấy như đã nêu trên. Khi đo đánh dấu
một đầu băng giấy trùng vào đầu đoạn đo, mép băng giấy luôn bám sát một mép
đường trên bản đồ. Kết hợp hai tay và đầu bút chì bấm vào mép giấy, xoay mép băng
giấy trùng lên mép đường, cứ như vậy cho đến điểm cuối cùng.
Chú ý: Khi xoay mép băng giấy phải lấy đầu bút chì làm trụ không để mép
băng giấy trượt khỏi đường đo.
- Đo bằng sợi dây mềm: Dùng sợi dây nhỏ có độ co giãn thấp vuốt thẳng, đánh
dấu đầu dây rồi đặt đầu dây vào điểm đo, lăn cho dây theo mép đường cho đến điểm
cuối cùng được khoảng cách cần đo.
Chú ý: Đo nhiều lần lấy kết quả đo trung bình.
- Đo bằng compa:
+ Đo những đoạn thẳng gấp khúc: Đo lần lượt từng đoạn, rồi cộng lại.
+ Đo những đoạn cong: Chia các đoạn cong thành các đoạn thẳng ngắn đều
nhau; đo một đoạn thẳng ngắn được bao nhiêu nhân với tổng số đoạn được chia.
- Đo bằng thước đo kiểu đồng hồ:
+ Công tác chuẩn bị:
Kiểm tra bộ phận chuyển động của đồng hồ: Đặt ngón trỏ tay phải vào bánh xe,
đẩy đi đẩy lại xem bộ phận kim chuyển động có tốt không, đưa kim về vạch chỉ tiêu
đỏ.
Kiểm tra độ chính xác: Lấy cạnh của một ô vuông trên bản đồ để kiểm tra, đẩy
bánh xe lăn hết một cạnh ô vuông, nếu kim dịch chuyển đúng một khoảng là độ chính
xác tốt.
+ Cách đo: Tay phải hoặc trái cầm thước mặt số quay vào phía mình, đặt bánh
xe vuông góc với điểm định đo, từ từ đẩy bánh xe lăn theo đường cho đến điểm cuối
cùng nhấc thước ra khỏi vị trí đo. Nhìn vào thước kim dịch chuyển được bao nhiêu đó
là khoảng cách cần đo.
Chú ý: Động tác đo phải hết sức thận trọng, tỉ mỉ, chính xác. Khi đẩy trượt bánh
xe ra khỏi đường đo thì phải kéo lùi bánh xe về vị trí tại điểm trượt, sau đó đo tiếp.
6.1.1.3. Đo diện tích theo bản đồ
Khi thực hiện nhiệm vụ huấn luyện hay chiến đấu, đôi khi phải xác định diện
tích một khu vực địa hình như: Phạm vi của đơn vị trú quân, phạm vi nhiễm xạ, phạm
vi khu vực khai thác.
- Đo diện tích ô vuông:
+ Đo diện tích ô vuông đủ:
Trên bản đồ địa hình đều có hệ thống ô vuông, mỗi ô vuông trên bản đồ đều
được xác định trên một diện tích nhất định phụ thuộc vào tỉ lệ đó.
49

Công thức S = a2
Trong đó: S là diện tích của một ô vuông.
a là cạnh của một ô vuông.

Bảng tính diện tích ô vuông cho các loại tỉ lệ bản đồ


Tỉ lệ bản đồ Cạnh ô vuông (cm) Diện tích tương ứng thực địa (km2)
1: 25.000 4 1
1: 50.000 2 1
1: 100.000 2 4
1: 200.000 5 100
+ Đo diện tích ô vuông thiếu:
Chia cạnh ô vuông có diện tích đo thành 10 phần bằng nhau, kẻ các đường giao
nhau vuông góc có 100 ô nhỏ; Đếm tổng số ô con hoàn chỉnh; các ô không hoàn chỉnh
đếm tổng số rồi chia đôi. Lấy tổng số ô nhỏ nhân với diện tích 1 ô nhỏ được kết quả
đo.
- Đo diện tích một khu vực:
Diện tích của một khu vực cần tính là tổng diện tích của ô vuông đủ với phần
diện tích của ô vuông thiếu.
1
Công thức A= ns + p
S
Trong đó: A là diện tích 1 khu vực cần tìm;
n là số ô vuông đủ;
s là diện tích 1 ô vuông đủ;
1
là diện tích các ô vuông nhỏ tự kẻ;
S
p là số ô vuông nhỏ tự kẻ.
Cách tính: khi tính diện tích của 1 khu vực trước hết ta phải xem khu vực đó
chiếm mấy ô vuông đủ (n), những ô vuông thiếu xác định diện tích như trên. Đếm tổng
số ô vuông nhỏ của phần diện tích ô vuông thiếu rồi nhân với diện tích của 1 ô, đem
cộng với diện tích ô vuông đủ có diện tích gần đúng của cả khu vực.
Hiện nay với công nghệ bản đồ số, muốn đo diện tích 1 khu vực trên bản đồ chỉ
cần dùng con trỏ chạy theo đường biên của nó tạo thành vòng khép kín, dựa vào tọa độ
tập hợp của các điểm trên đường biên phần mềm máy tính sẽ nhanh chóng giải bài
toán và cho ngay diện tích.
6.2.2. Xác định tọa độ chỉ thị mục tiêu
6.2.2.1. Tọa độ sơ lược
50

- Trường hợp sử dụng: Trong ô vuông tọa độ chỉ có một đối tượng mục tiêu M
hoặc nhiều mục tiêu có tính chất khác nhau.
- Xác định tọa độ, chỉ thị mục tiêu:
+ Xác định tọa độ: Xác định mục tiêu bằng tọa độ sơ lược phải tìm 2 số cuối
cùng của đường hoành độ (ghi ở khung đông tây) và 2 số cuối của đường tung độ (ghi
ở khung bắc nam) bản đồ. Tìm giao điểm của đường hoành độ nối đường tung độ
trong ô vuông tọa độ có chứa M cần tìm. M nằm ở phía trên của đường kẻ ngang và
bên phải của đường kẻ dọc.
+ Chỉ thị mục tiêu: Viết tên mục tiêu, tọa độ X, Y viết liền không dấu chấm,
phẩy, gạch ngang; đọc tên mục tiêu, toạ độ (X), (Y), đọc rõ ràng từng số.
Ví dụ: Cây độc lập (2453)
Cách đọc: Đọc thứ tự mục tiêu đến giá trị X, giá trị Y, đọc rõ từng số. Ví dụ: “Cây
độc lập, hai, bốn, năm, ba.”

Hình 6.6. Tọa độ sơ lược


6.2.2.2. Toạ độ ô 4, ô 9:
Trường hợp sử dụng: Trong ô vuông tọa độ có nhiều mục tiêu tính chất giống
nhau, dùng tọa độ sơ lược sẽ nhầm lẫn.
- Cách xác định tọa độ:
+ Tọa độ ô 4: Chia ô vuông tọa độ sơ lược thành 4 phần bằng nhau, đánh dấu
bằng chữ cái in hoa A, B, C, D từ trái qua phải từ trên xuống dưới.
51

Hình 6.7. Tọa độ ô 4


+ Chỉ thị mục tiêu: Viết tên mục tiêu kết hợp tọa độ sơ lược của điểm đó và kí
hiệu của từng ô.
Ví dụ: Cây độc lập (2353A)
Cách đọc, thứ tự mục tiêu đến tọa độ sơ lược X, Y, và ký hiệu riêng ô vuông
chứa mục tiêu, đọc rõ từng số, chữ. Ví dụ: “Cây độc lập, hai, ba, năm, ba, A”.
+ Tọa độ ô 9: Chia ô vuông tọa độ sơ lược thành 9 phần bằng nhau, đánh dấu
các ô bằng chữ ả rập từ 1 - 9 theo qui tắc, số 1 góc Tây Bắc thuận theo chiều kim đồng
hồ số 9 ở ô giữa.

Hình 6.8. Tọa độ ô 9


+ Chỉ thị mục tiêu: Viết tên mục tiêu kết hợp tọa độ sơ lược của điểm đó và kí
hiệu của từng ô, tương tự tọa độ ô 4 khác ký hiệu riêng.
Ví dụ: Lô cốt (26649), cách đọc: “Lô cốt, hai, sáu, sáu, bốn, chín”
6.2.2.3. Tọa độ chính xác:
+ Tọa độ chính xác (TĐCX) là xác định tọa độ của một điểm nằm trong một ô
vuông tọa độ, tìm ra độ chênh về mét so với hệ trục gốc hoặc tọa độ sơ lược (TĐSL)
của điểm đó. Độ chênh lệch về X gọi là ∆x, độ chênh về Y gọi là ∆y.
52

- Cách đo tọa độ chính xác đến mét của một điểm:


+ Đo tọa độ chính xác một điểm trên bản đồ, lấy tọa độ sơ lược (X, Y) cộng
thêm phần cự li vuông góc từ vị trí điểm đo đến đường kẻ hoành độ phía dưới (∆x) từ
vị trí điểm đo đến đường tung độ bên trái ∆y lấy đơn vị tính bằng mét, công thức tính
tọa độ chính xác:
TĐCX: M X = TĐSL + ∆x
Y = TĐSL + ∆y
Vận dụng công thức đo TĐCX một điểm nào đó, trình tự được thực hiện theo
các bước sau:
Bước 1: Xác định toạ độ góc Tây Nam của ô vuông tọa độ có chứa điểm M.
Bước 2: Từ điểm M kẻ đường vuông góc về phía Nam và phía Tây tới hoành độ
và tung độ của ô vuông.
Bước 3: Đo khoảng cách từ điểm M đến chân đường vuông góc với hoành độ và
tung độ của ô vuông.
Bước 4: Nhân khoảng cách đó với mẫu số tỉ lệ bản đồ.
Bước 5: Cộng khoảng cách ∆x vào giá trị sơ lược X và ∆y vào giá trị sơ lược Y
của góc tây nam ô vuông nói trên.

Hình 6.9. Tọa độ chính xác


+ Chỉ thị mục tiêu:
Cách viết: Viết thứ tự tên hoặc ký hiệu mục tiêu đến giá trị X, giá trị Y, các số viết
đều nhau và để trong ngoặc đơn không có chấm, phẩy, không gạch nối. Ví dụ: Lô cốt, có
giá trị X = 26750, Y = 62600
Viết: Lô cốt (2675062600)
Cách đọc: Đọc tên mục tiêu, giá trị X, giá trị Y đọc rõ từng số một. Ví dụ: “Lô
cốt, hai, sáu, bảy, năm, không, sáu, hai, sáu, không, không”.
53

- Một số điểm chú ý khi đo tọa độ chính xác:


+ Khi đo bằng thước hoặc bằng giấy thì cạnh thước, cạnh băng giấy phải song
song với đường kẻ dọc, ngang lưới ô vuông.
+ Khi đo tọa độ ở những ô vuông thiếu nếu thiếu ở khung bắc, đông thì đo bình
thường như các ô đủ.
+ Thiếu ở khung tây và nam với từng giá trị đo ngược lại cách đo cơ bản, sau đó
lấy độ dài của 1 cạnh ô vuông trừ đi kết quả vừa đo ta được giá trị ∆x, ∆y của mục
tiêu.
+ Đo ở bản đồ tỉ lệ 1:100.000 giá trị ∆x, ∆y > 1000m phải cộng thêm 1km vào
toạ độ sơ lược và phần lẻ.
+ Tọa độ chính xác gồm 10 số ghi giá trị ∆x, ∆y nhỏ hơn 100m phải thêm số 0
vào ngay sau tọa độ sơ lược.
6.2.3. Sử dụng bản đồ ngoài thực địa
6.2.3.1. Định hướng bản đồ
- Định hướng bản đồ làm cho hướng Bắc bản đồ trùng với hướng Bắc của thực
địa. Định hướng bản đồ có 3 phương pháp cơ bản sau:
- Định hướng bằng địa bàn: Trải bản đồ lên vị trí bằng phẳng, đặt cạnh địa bàn
trùng lên đường PP’ hoặc trục dọc lưới ô vuông hay khung Đông, Tây bản đồ sao cho
số 0 quay lên phía Bắc bản đồ.
+ Từ từ xoay bản đồ khi đầu bắc kim nam châm chỉ vào chuẩn số 0 dừng lại.
Như vậy bản đồ đã được định hướng.
- Định hướng bản đồ bằng địa vật dài thẳng:
+ Khi đang đứng trên 1 địa vật dài thẳng như con đường, bờ sông, mương máng,
đường dây điện, đường ống nước, ống dầu… Địa vật có kí hiệu trên bản đồ. Lợi dụng
địa vật để định hướng bản đồ cách làm như sau:
Trải bản đồ lên vị trí bằng phẳng.
+ Đặt cho cạnh thước trùng lên kí hiệu địa vật dài thẳng trên bản đồ.
+ Xoay bản đồ cho hướng của thước trùng hoặc song song với hướng của địa vật
tương ứng ngoài thực địa, như vậy bản đồ đã được định hướng (Hình 6.10).
54

Chú ý: Sau khi định hướng phải đối chiếu so sánh với 2 phía đầu địa vật dài. Nếu
các kí hiệu trên bản đồ thống nhất với thực địa, nghĩa là bản đồ đã định hướng đúng và
nếu chưa thống nhất là định hướng sai; phải xoay bản đồ ngược lại 1800 bản đồ được
định hướng.
Khi đứng ngoài địa vật dài thẳng phải xoay bản đồ cho hướng song song với
hướng địa vật dài thẳng.
- Định hướng bằng đường phương hướng giữa hai địa vật:
Khi đang đứng trên một địa vật ở ngoài thực địa, địa vật có vẽ kí hiệu trên bản
đồ, như vậy đã biết được điểm đứng. Quan sát ở thực địa chọn một địa vật thứ 2 có vẽ
kí hiệu trên bản đồ. Đặt thước lên bản đồ sao cho hai kí hiệu trên bản đồ nằm một cạnh
của thước, xoay bản đồ cho hướng của thước hướng tới địa vật thứ 2 ngoài thực địa.
Như vậy bản đồ đã được định hướng.
6.3.3.2. Xác định điểm đứng trên bản đồ
- Sau khi định hướng bản đồ phải xác định điểm đứng trên bản đồ, phải xác
định vị trí đang đứng ở thực địa nằm ở vị trí nào trên bản đồ. Xác định điểm đứng trên
bản đồ có 2 phương pháp cơ bản sau:
- Phương pháp ước lượng cự li:
+ Thứ tự động tác:
Quan sát thực địa chọn một đối tượng gần và rõ có vẽ kí hiệu trên bản đồ.
Đặt cạnh thước qua vị trí chính xác của kí hiệu, xoay thước ngắm tới đối tượng
ngoài thực địa, kẻ đường chỉ mờ theo cạnh thước về phía sau.
Dùng phương tiện đo hoặc ước lượng cự li từ vị trí đứng đến đối tượng ngoài
thực địa.
Đổi cự li ngoài thực địa ứng với tỉ lệ trên bản đồ, lấy đoạn cự li theo tỉ lệ đo từ
vị trí kí hiệu theo đường kẻ chì về phía sau, chấm trên đường kẻ để định điểm đứng.
55

+ Những điểm chú ý:


Quá trình thao tác không làm xê dịch bản đồ ảnh hưởng đến quá trình định
hướng. Cần kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp cơ bản và phương pháp phân tích địa
hình để xác định điểm đứng một cách chính xác.
Vận dụng phương pháp ước lượng cự li, khi vận động đi bộ trên đường hoặc
bằng phương tiện cơ giới. Để xác định điểm đứng hành quân bằng căn cứ vào điểm
xuất phát, đường vận động, thời gian, tốc độ vận động, dựa vào đồng hồ báo kilômét
trên xe. Căn cứ vào cự li đã đi đổi theo tỉ lệ bản đồ điểm xuất phát theo đường vận
động sẽ tìm ra điểm đứng.
- Phương pháp giao hội:
+ Trường hợp 1: Khi đang vận động men theo đường hoặc một địa vật dài thẳng
bất kì (có vẽ kí hiệu trên bản đồ).
Thứ tự tiến hành:
Quan sát trên thực địa tìm một đối tượng có vẽ kí hiệu trên bản đồ.
Đặt cạnh thước trùng vào điểm chính xác của kí hiệu; xoay thước ngắm tới địa vật
ngoài thực địa. Kẻ đường chì mờ về phía sau. Giao điểm của đường chì vừa kẻ với kí
hiệu của địa vật dài thẳng trên bản đồ là vị trí điểm đứng.
+ Trường hợp 2: Không đứng trên 1 địa vật dài.
Thứ tự tiến hành:
Quan sát ở thực địa chọn 2 đối tượng bản đồ có vẽ kí hiệu.
Lần lượt đặt thước vào vị trí chính xác của từng kí hiệu rồi xoay thước ngắm ra
đối tượng ngoài thực địa.
Lần lượt kẻ đường chì mờ theo mép thước từng hướng về phía sau. Giao điểm
của hai đường hướng kẻ là vị trí điểm đứng được xác định trên bản đồ.
56

Chú ý: Góc giao hội của hai đường hướng không được nhỏ hơn 30° hoặc lớn
hơn 150°.
Để đạt độ chính xác cao, dùng đường hướng thứ ba kiểm tra. Nếu ba đường
hướng cắt nhau tại một điểm là vị trí đứng đã được xác định chính xác. Nếu ba đường
hướng tạo thành tam giác có cạnh nhỏ hơn 2mm thì điểm đứng lấy ở tâm của tam giác.
Nếu cạnh của tam giác lớn hơn 2mm phải xác định lại.
6.2.4. Đối chiếu bản đồ với thực địa
6.2.4.1. Phương pháp ước lượng cự li
- Trường hợp vận dụng: Phương pháp ước lượng cự li được tiến hành khi cần
bổ sung các đối tượng xác định vị trí mục tiêu ở gần, ước lượng cự li chính xác.
- Thứ tự tiến hành:
+ Định hướng bản đồ, xác định điểm đứng lên bản đồ.
+ Đặt cạnh thước vào vị trí điểm đứng, xoay thước lần lượt ngắm đến từng đối
tượng cần xác định. Kẻ các đường hướng theo cạnh thước về phía trước.
+ Dùng thước đo hoặc ước lượng cự li từ vị trí đứng đến đối tượng. Lấy đoạn
cự li theo tỉ lệ bản đồ, đo từ vị trí điểm đứng lên phía trước theo các đường phương
hướng đã kẻ để định vị trí đối tượng hoặc mục tiêu cần bổ sung. Nếu bổ sung địa vật
dùng kí hiệu để vẽ vào bản đồ. Nếu xác định vị trí phải xác định vị trí và tọa độ.
6.2.4.2. Phương pháp giao hội
- Trường hợp vận dụng: Phương pháp giao hội thường được tiến hành khi cần
bổ sung các đối tượng, xác định vị trí mục tiêu ở xa, ước lượng cự li khó chính xác.
- Thứ tự tiến hành:
+ Tại điểm đứng 1: Định hướng bản đồ; xác định điểm đứng lên bản đồ. Quan
sát xác định đối tượng cần bổ sung hoặc mục tiêu cần xác định lên bản đồ.
Đặt cạnh thước tại điểm đứng, ngắm thước tới địa vật ngoài thực địa rồi kẻ
đường phương hướng từ điểm đứng lên trên phía trước. Sau đó di chuyển đến điểm
đứng thứ 2.
+ Điểm đứng thứ 2: Có thể chọn một điểm ngoài thực địa có vẽ kí hiệu trên bản
đồ. Nếu không chọn được điểm ngoài thực địa thì tại điểm đứng 1 ngắm tới vị trí cần
đến rồi kẻ một đường hướng tới đó căn cứ vào cự li chấm điểm đứng 2 lên bản đồ.
+ Tại điểm đứng 2: Tiến hành các bước tương tự như ở điểm đứng 1. Điểm giao
nhau của 2 đường kẻ từ 2 điểm đứng là vị trí của đối tượng cần bổ sung hoặc mục tiêu
cần xác định.
57

CÂU HỎI ÔN TẬP


Câu 1. Nêu khái niệm, ý nghĩa, phân loại, đặc điểm, công dụng, cơ sở toán học bản
đồ địa hình quân sự.
Câu 2. Cách chắp, ghép, dán gấp bản đồ.
Câu 3. Phương pháp đo diện tích, cự li và xác định, chỉ thị mục tiêu trên bản đồ.
Câu 4. Cách xác định tọa độ chỉ thị mục tiêu, xác định điểm đứng trên bản đồ và
đối chiếu bản đồ với thực địa.
58

Bài 7. PHÒNG TRÁNH ĐỊCH TIẾN CÔNG HỎA LỰC BẰNG VŨ KHÍ CÔNG
NGHỆ CAO

7.1. Khái niệm, đặc điểm, thủ đoạn đánh phá và khả năng sử dụng vũ khí công
nghệ cao của địch trong chiến tranh
7.1.1. Khái niệm
- Vũ khí công nghệ cao là vũ khí được nghiên cứu, thiết kế, chế tạo dựa trên
những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, có sự nhảy vọt
về chất lượng và tính năng kĩ thuật, chiến thuật.
- Khái niệm trên được thể hiện một số nội dung chính sau:
+ Vũ khí công nghệ cao được nghiên cứu, thiết kế chế tạo dựa trên những thành
tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
+ Có sự nhảy vọt về chất lượng và tính năng kỹ thuật, chiến thuật.
7.1.2. Đặc điểm của vũ khí công nghệ cao
- Vũ khí công nghệ cao có một số đặc điểm nổi bật đó là:
+ Hiệu suất của vũ khí, phương tiện tăng gấp nhiều lần so với vũ khí, phương
tiện thông thường; hàm lượng tri thức, kĩ năng tự động hóa cao; tính cạnh tranh cao,
được nâng cấp liên tục.
+ Vũ khí công nghệ cao hay còn gọi là vũ khí “thông minh”, vũ khí “tinh khôn”
bao gồm nhiều chủng loại khác nhau như: Vũ khí hủy diệt lớn (hạt nhân, hóa học, sinh
học…), vũ khí được chế tạo dựa trên những nguyên lí kĩ thuật mới (vũ khí chùm tia,
vũ khí laze, vũ khí chùm hạt, pháo điện từ…).
+ Thế kỉ XXI vũ khí “thông minh” dựa trên cơ sở tri thức sẽ trở nên phổ biến.
Điển hình là đạn pháo, đạn cối điều khiển bằng laze, ra đa bằng hồng ngoại.
+ Bom, mìn, “thông minh” kết hợp với các thiết bị trinh thám để tiêu diệt
mục tiêu.
+ Tên lửa “thông minh” có thể tự phân tích, phán đoán và ra quyết định tấn
công tiêu diệt.
+ Súng “thông minh” do máy tính điểu khiển có thể tự động nhận biết chủ
nhân, có nhiều khả năng tác chiến khác nhau, vừa có thể bắn đạn thông thường hoặc
phóng lựu đạn.
+ Xe tăng “thông minh” có thể vượt qua các chướng ngại vật, nhận biết đặc
trưng khác nhau của mục tiêu, mức độ uy hiếp của mục tiêu và điểu khiển vũ khí tiến
công mục tiêu, nhờ đó có hỏa lực và sức đột kích rất mạnh,…
Tóm lại, vũ khí công nghệ cao có những đặc điểm nổi bật sau: Khả năng tự
động hóa cao; tầm bắn (phóng) xa; độ chính xác cao, uy lực sát thương lớn.
59

7.1.3. Thủ đoạn bắn phá và khả năng sử dụng vũ khí công nghệ cao của địch trong
chiến tranh
- Tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao là phương thức tiến hành của
chiến tranh kiểu mới đồng thời là biện pháp tác chiến của địch. Thực tế trong cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc đã khai thác các thành tựu khoa
học và công nghệ mới nhất để chế tạo các kiểu vũ khí hiện đại hòng giành thắng lợi
trong cuộc chiến tranh như: công nghệ hồng ngoại, công nghệ nhìn đêm, công nghệ
gây nhiễu. Nhiều loại vũ khí “thông minh” ra đời và được sử dụng lần đầu tiên trong
chiến tranh Việt Nam…Tuy nhiên, cuộc chiến tranh Việt Nam đã chứng kiến sự thất
bại thảm hại của địch trong việc sử dụng các loại vũ khí hiện đại nhất lúc đó trước trí
thông minh, sự sáng tạo và lòng dũng cảm vô song của con người Việt Nam.
- Chiến tranh tương lai (nếu xảy ra) đối với đất nước ta, địch sẽ sử dụng phương
thức tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao là chủ yếu. Nhằm mục đích giành
quyền làm chủ trên không, làm chủ chiến trường, phá hoại tiềm lực kinh tế, quốc
phòng, đánh quỵ khả năng chống trả của đối phương, tạo điều kiện thuận lợi cho các
lực lượng tiến công trên bộ, trên biển, đổ bộ đường không và các hoạt động bạo loạn
lật đổ của lực lượng phản động nội địa trong nước, gây tâm lý hoang mang, lo sợ cho
nhân dân. Qua đó gây sức ép về chính trị để đạt mục tiêu chính trị hoặc buộc chúng ta
phải chấp nhận điều kiện chính trị do địch đặt ra.
- Nếu chiến tranh xảy ra trên đất nước ta, có thể xuất phát từ nhiều hướng: trên
bộ, trên không, từ biển vào, có thể diễn ra cùng một lúc ở chính diện và trong chiều
sâu, trên phạm vi toàn quốc với một nhịp độ cao, cường độ lớn ngay từ đầu và trong
suốt quá trình chiến tranh. Tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao của chủ nghĩa
đế quốc vào Việt Nam (nếu xảy ra) có thể là một giai đoạn trước khi đưa quân đổ bộ
đường biển hoặc đưa quân tiến công trên bộ, với quy mô và cường độ ác liệt từ nhiều
hướng, vào nhiều mục tiêu cùng một lúc. Đánh phá ác liệt từng đợt lớn, dồn dập, kết
hợp với đánh nhỏ lẻ liên tục ngày đêm, có thể kéo dài vài giờ hoặc nhiều giờ, có thể
đánh phá trong một vài ngày hoặc nhiều ngày…
Nghiên cứu, khảo sát một số cuộc chiến tranh cục bộ gần đây, địch sử dụng vũ
khí công nghệ cao ngày càng nhiều (vùng Vịnh lần thứ nhất vũ khí công nghệ cao
10%, chiến dịch “Con Cáo sa mạc” 50%, Nam Tư 90%).
- Trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh, ngày 17/1/1991 Mỹ phóng 45 quả tên lửa
hành trình Tomahawk có 7 quả bị hỏng, 1 quả bị lực lượng phòng không bắn rơi còn
37 quả trúng mục tiêu, tỷ lệ 67%. Trong chiến dịch “Con Cáo sa mạc” từ ngày 16 đến
ngày 19/12/1998 Mỹ sử dụng 650 lần/chiếc máy bay phóng 415 quả tên lửa hành trình
trong đó có 325 quả tên lửa Tomahawk phóng từ tàu biển, 90 quả AGM - 86 phóng từ
máy bay, dự kiến khả năng 100/147 mục tiêu của Irắc bị phá hủy. Tuy nhiên tên lửa
60

hành trình của Mỹ và liên quân chỉ đánh trúng khoảng 20%, vì Irắc có kinh nghiệm
phòng tránh.
- Chiến tranh Irắc lần hai (2003) chỉ sau 27 ngày đêm tiến công, Mỹ, Anh đã
thực hiện 34.000 phi vụ, phóng hơn 1.000 quả tên lửa hành trình các loại, trong đó có
hơn 800 quả tên lửa Tomahawk, hơn 14.000 bom đạn có điều khiển chính xác. Từ
những khảo sát thực tế trên, rút ra một số điểm mạnh và yếu của vũ khí công nghệ cao
như sau:
- Điểm mạnh:
+ Độ chính xác cao, uy lực sát thương lớn, tầm hoạt động xa.
+ Có thể hoạt động trong những vùng nhiễu, thời tiết phức tạp, ngày, đêm, đạt
hiệu quả cao hơn hàng chục đến hàng trăm lần so với vũ khí thông thường.
+ Một số loại vũ khí công nghệ cao được gọi là vũ khí “thông minh” có khả
năng nhận biết địa hình và đặc điểm mục tiêu, tự động tìm diệt…
- Điểm yếu:
+ Thời gian trinh sát, xử lý số liệu để lập trình phương án đánh phá phức tạp,
nếu mục tiêu “thay đổi” dễ mất thời cơ đánh phá.
+ Dựa hoàn toàn vào các phương tiện kỹ thuật, dễ bị đối phương đánh lừa.
+ Một số loại tên lửa hành trình có tầm bay thấp, tốc độ bay chậm, hướng bay
theo quy luật… dễ bị bắn hạ bằng vũ khí thông thường.
+ Tác chiến công nghệ cao không thể kéo dài vì quá tốn kém. Dễ bị đối phương
tập kích vào các vị trí triển khai của vũ khí công nghệ cao.
+ Dễ bị tác động bởi địa hình, thời tiết, khí hậu dẫn đến hiệu quả thực tế khác
với lý thuyết. Do đó, nên hiểu đúng về vũ khí công nghệ cao, không quá đề cao, tuyệt
đối hóa vũ khí công nghệ cao dẫn đến tâm lý hoang mang khi đối mặt. Ngược lại, cũng
không nên coi thường dẫn đến chủ quan mất cảnh giác.
7.2. Một số biện pháp phòng tránh địch tiến công hỏa lực bằng vũ khí công
nghệ cao
7.2.1. Biện pháp thụ động
7.2.1.1. Phòng tránh trinh sát của địch
Hệ thống trinh sát, phát hiện và giám sát mục tiêu là một trong những hệ thống
bảo đảm quan trọng nhất của vũ khí công nghệ cao. Muốn làm tốt công tác phòng
tránh trinh sát của địch trước tiên cần xác định rõ ý thức phòng tránh trinh sát, sau đó
mới áp dụng các biện pháp, phương pháp đối phó cho phù hợp, cụ thể:
- Làm hạn chế đặc trưng của mục tiêu:
Hệ thống trinh sát hiện đại khi thực hành trinh sát đều thông qua việc tìm kiếm
các đặc trưng vật lí do mục tiêu bộc lộ để phát hiện. Vì vậy, sử dụng các thủ đoạn
chiến thuật, kỹ thuật giảm thiểu đặc trưng vật lí của mục tiêu, xóa bỏ sự khác biệt giữa
61

mục tiêu với môi trường xung quanh là sự vận dụng và phát triển của kĩ thuật ngụy
trang truyền thống. Sử dụng các biện pháp kĩ thuật giảm bớt các đặc trưng ánh sáng,
âm thanh, điện từ, bức xạ hồng ngoại… của mục tiêu là có thể giấu kín được mục tiêu.
- Che giấu mục tiêu:
Lợi dụng môi trường tự nhiên như địa hình, địa vật, rừng cây, bụi cỏ… để che
giấu mục tiêu, có thể làm suy giảm thậm chí ngăn chặn được trinh sát của địch. Trinh
sát bằng quang học, hồng ngoại và laze là 3 kĩ thuật trinh sát chủ yếu của vệ tinh và
máy bay trinh sát, các mục tiêu được che đậy, ở hang động, gầm cầu là những nơi che
giấu có hiệu quả, đồng thời lợi dụng đêm tối, sương mù, màn mưa, để che giấu âm
thanh, ánh sáng, điện từ, nhiệt; kiểm soát chặt chẽ việc mở máy hoặc phát xạ sóng điện
từ của ra đa và các thiết bị thông tin liên lạc.
- Ngụy trang mục tiêu:
Ngày nay khi mà kĩ thuật trinh sát không ngừng phát triển thì việc sử dụng một
cách khoa học các khí tài ngụy trang như màn khói, lưới ngụy trang, nghi binh, nghi
trang… là một biện pháp tránh trinh sát hữu hiệu và kinh tế. Ngụy trang hiện đại là
trên cơ sở ngụy trang truyền thống sử dụng kĩ thuật thay đổi hình dạng… Thông qua
việc làm thay đổi tần phổ quang học hoặc phản xạ điện từ và đặc tính bức xạ nhiệt của
mục tiêu khiến chúng gần như hòa nhập vào môi trường xung quanh. Thông qua việc
làm thay đổi hình thể của mục tiêu khiến mục tiêu không bị chú ý hoặc thông qua việc
thả màn khói đặc biệt là sợi bạc… đều có thể ngăn chặn có hiệu quả trinh sát ra đa và
trinh sát hồng ngoại của đối phương.
- Tổ chức tốt việc nghi binh đánh lừa địch:
Nghi binh là hành động tạo hiện tượng giả để đánh lừa đối phương. Nếu tổ chức
tạo ra các hành động tác chiến giả một cách có kế hoạch, có mục đích để phân tán, làm
suy yếu khả năng trinh sát của địch, có thể làm cho địch nhận định sai, dẫn đến sai lầm
từ đó ta có thể kiềm chế, điều động được địch.
Theo phạm vi không gian, có thể chia nghi binh thành các loại sau:
Nghi binh chính diện, nghi binh bên sườn, nghi binh trung thâm, nghi binh trên
bộ, nghi binh trên không, nghi binh trên biển…
Theo mục đích có thể chia nghi binh để thể hiện sức mạnh, nghi binh để tỏ ra
yếu kém, nghi binh để hiện thế, nghi binh tiến công, nghi binh rút lui.
Kĩ thuật quân sự hiện đại đã tạo ra nhiều thủ đoạn nghi binh mới, ngoài nghi
binh về binh lực, còn có nghi binh về hỏa lực, nghi binh điện tử và các nghi binh kĩ
thuật khác. Ví dụ: Nghi binh vô tuyến điện bằng các phương pháp xây dựng mạng lưới
vô tuyến điện giả, tổ chức các đối tượng liên lạc giả, thực hiện các cuộc thông tin liên
lạc vô tuyến điện giả, phát các cuộc điện báo, điện thoại với nội dung giả… ngoài ra tổ
chức tốt các cuộc bầy giả. Nhằm đúng vào đặc điểm và nhược điểm của hệ thống trinh
62

sát địch, kết hợp với điều kiện tự nhiên như địa hình, địa vật, đặt các loại mục tiêu giả
để làm thay đổi cục bộ của môi trường, chiến trường, từ đó đánh lừa, mê hoặc đối
phương. Ví dụ: Cần phải có mục tiêu giả, mục tiêu thật; khi cần di chuyển các mục
tiêu cần phải tiến hành di chuyển cùng một lúc cả cái thực và cái giả và quy mô cái
thực và cái giả cũng phải ngang nhau.
7.2.1.2. Dụ địch đánh vào những mục tiêu có giá trị thấp làm chúng tiêu hao lớn
+ Lợi dụng đặc điểm của vũ khí công nghệ cao là giá thành cao, lượng sử dụng
có hạn, chúng ta có thể sử dụng mục tiêu giá trị thấp để làm phân tán lực lượng địch và
gây tiêu hao lớn cho chúng. Ví dụ giá một chiếc máy bay tàng hình F-117A lên tới vài
trục triệu đô la Mỹ; giá một quả tên lửa hành trình cũng lên tới hàng triệu đô la Mỹ…
+ Nếu ta sử dụng vũ khí trang bị cũ hoặc mục tiêu giả để dụ địch tiến công sẽ
gây tiêu hao lớn cho chúng, làm giảm bớt lượng vũ khí công nghệ cao của địch, đồng
thời làm giảm bớt lòng tin khiến chúng không dám mạo hiểm tiếp tục sử dụng vũ khí
công nghệ cao trên quy mô lớn.
+ Trong cuộc chiến tranh Côxôvô, địa hình, địa vật phức tạp của Nam Tư kết
hợp với thời tiết mùa xuân ẩm ướt, âm u, rừng cây rậm rạp đã khiến cho hệ thống vũ
khí công nghệ cao của NATO bộc lộ một số nhược điểm như khả năng nhận biết mục
tiêu, khả năng định vị, dẫn đến đánh nhầm, đánh không chính xác, đánh vào mục tiêu
giả ngày càng tăng, khiến chúng bị tiêu hao ngày càng lớn.
7.2.1.3. Tổ chức, bố trí lực lượng phân tán, có khả năng tác chiến độc lập
Tổ chức, bố trí lực lượng phân tán là thu nhỏ quy mô các lực lượng lớn, bố trí
theo nhu cầu, mỗi đơn vị có thể thực hiện đồng thời nhiều nhiệm vụ phòng thủ, tiến
công, cơ động, chi viện…
Bố trí phân tán lực lượng không theo quy tắc, xây dựng khu vực tác chiến du
kích xen kẽ nhỏ lẻ, đa năng, nhưng sẵn sàng tập trung khi cần thiết. Bố trí như vậy sẽ
giảm thiểu tổn thất khi địch sử dụng vũ khí công nghệ cao.
Khả năng chiến đấu độc lập và tập trung cao sẽ giảm bớt sự chi viện của lực
lượng dự bị, như vậy sẽ tránh được tổn thất cho lực lượng dự bị.
Bố trí phân tán sẽ tăng thêm khó khăn cho đối phương trong việc trinh sát phát
hiện mục tiêu, phán đoán tình hình và xác định phạm vi đánh, làm giảm hiệu quả tác
chiến của địch.
7.2.1.4. Kết hợp xây dựng cơ sở hạ tầng, đô thị với xây dựng hầm ngầm để tăng khả
năng phòng thủ
Trong quá trình xây dựng đất nước những năm gần đây, hầu hết các địa phương
trong cả nước đã có sự phát triển vượt bậc về kinh tế, đời sống xã hội có nhiều thay
đổi, các thành phố ngày càng mở rộng, cơ sở hạ tầng phát triển, các khu trung tâm
kinh tế - công nghiệp phát triển, nhiều khu đô thị mới ra đời với tốc độ nhanh, mật độ
63

dân cư ngày càng cao. Cùng với sự phát triển chung đó chúng ta cần quan tâm đúng
mức đến phát triển cơ sở hạ tầng như điện, đường, kho trạm… Đồng thời chúng ta
cũng không nên xây dựng các thành phố quá đông dân cư, các khu công nghiệp tập
trung mà xây dựng nhiều thành phố vệ tinh và tập trung phát triển mạng giao thông.
Xây dựng đường cao tốc phải kết hợp tạo ra những đoạn đường máy bay có thể cất, hạ
cánh. Xây dựng cầu phải kết hợp cả việc sử dụng các bến phà, bến vượt, trong tương
lai chúng ta sẽ xây dựng đường xe điện ngầm ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành
phố Hồ Chí Minh…Xây dựng các nhà cao tầng phải tính đến số lượng tầng cao để
giảm bớt tổn thất trong chiến tranh; các công trình lớn của quốc gia như: nhà quốc hội,
nhà trung tâm hội nghị quốc gia, văn phòng của các bộ, ngành… phải có tầng hầm,
thời bình làm kho, nhà để xe, thời chiến làm hầm ẩn nấp. Xây dựng các nhà máy thủy
điện phải tính đến phòng chống máy bay phá đập gây lũ lụt.
7.2.2. Biện pháp chủ động
7.2.2.1. Gây nhiễu các trang bị trinh sát của địch, làm giảm hiệu quả trinh sát
Gây nhiễu là một biện pháp cơ bản trong đối kháng trinh sát, nhằm làm giảm
hoặc suy yếu hiệu quả các thiết bị trinh sát của địch, khiến chúng không thể phát huy
tác dụng. Một số biện pháp gây nhiễu có thể vận dụng:
- Tích cực phá hoại hệ thống trinh sát của địch:
Có thể sử dụng đòn tiến công của tên lửa đất đối không, đòn tập kích của binh
lực mặt đất hoặc tiến hành gây nhiễu điện tử, hạn chế và phá hoại trinh sát kĩ thuật của
địch. Tổ chức bắn rơi máy bay trinh sát điện tử của địch sẽ hạn chế rất nhiều việc sử
dụng vũ khí điều khiển chính xác của chúng.
- Sử dụng tổng hợp nhiều thủ đoạn thực hiện gây nhiễu chế áp lại địch:
Nhưng phải chuẩn bị chu đáo, nhất là thời cơ và đối tượng gây nhiễu, bởi vì khi
gây nhiễu cũng chính là lúc ta bị bộc lộ, địch sẽ trinh sát định vị lại ta, ta cần bố trí các
đài gây nhiễu ở nơi hiểm yếu và di chuyển liên tục. Lập các mạng, các trung tâm thông
tin giả hoạt động đồng thời với thông tin thật để thu hút hoạt động trinh sát và chế áp
điện tử của địch, che giấu công tác thực của ta.
- Hạn chế năng lượng bức xạ từ về hướng ăng ten thu trinh sát của địch:
Bằng cách sử dụng công suất phát hợp lí, chọn vị trí đặt ăng ten sao cho có địa
hình che chắn về phía địch trinh sát, phân bố mật độ liên lạc hợp lí, không tạo dấu hiệu
bất thường, thay đổi thường xuyên quy ước liên lạc, mã hóa các nội dung điện, chọn
tần số gần tần số làm việc của địch; tăng công suất máy phát, sử dụng ăng ten có hệ số
khuếch đại cao, rút ngắn cự li thông tin.
- Dùng hỏa lực hoặc xung lực đánh vào những chỗ hiểm yếu, nhằm phá hủy các
đài phát, tiêu diệt nguồn gây nhiễu của địch.
7.2.2.2. Nắm chắc thời cơ, chủ động đánh địch từ xa, phá thế tiến công của địch
64

- Cần phải trinh sát nắm địch chặt chẽ, chính xác và có quyết tâm sử dụng lực
lượng hợp lý, nhất là phát huy khả năng của lực lượng vũ trang địa phương, lực lượng
Đặc công, Pháo binh chuyên trách tiến công địch.
- Sử dụng tổng hợp các loại vũ khí có trong biên chế của lực lượng phòng
không 3 thứ quân, kết hợp sử dụng vũ khí thô sơ, vũ khí tương đối hiện đại để đánh
địch, rèn luyện ý chí chiến đấu quyết đánh và quyết thắng vũ khí công nghệ cao của
địch.
- Huấn luyện nâng cao trình độ cho các lực lượng phòng không ba thứ quân.
Làm cho mỗi người lính, mỗi người dân biết sử dụng thành thạo các vũ khí có trong
tay để bắn rơi máy bay và tên lửa địch trong tầm bắn hiệu quả khi nó bay qua khu vực
đóng quân của đơn vị mình, địa phương mình.
- Thực hiện tốt các giải pháp nêu trên, dù kẻ địch tiến công hỏa lực bằng vũ khí
công nghệ cao từ hướng nào, khu vực nào, sử dụng vũ khí công nghệ cao đến mức nào
chúng ta cũng đánh trả có hiệu quả làm vô hiệu hóa vũ khí công nghệ cao của địch,
đập tan ý định xâm lược của kẻ thù.
7.2.2.3. Lợi dụng đặc điểm đồng bộ của hệ thống vũ khí công nghệ cao, đánh vào mắt
xích then chốt
- Tập trung lực lượng đánh vào những hệ thống có tác dụng bảo đảm và điều
hành, gây ra sự hỗn loạn và làm mất khả năng sử dụng vũ khí công nghệ cao hoặc sự
phối hợp nhịp nhàng giữa hệ thống vũ khí công nghệ cao với các hệ thống vũ khí
thông thường khác.
- Mặt khác, vũ khí công nghệ cao có thể đồng thời cả trên bộ, trên biển và trên
không, do vậy phải tổ chức đánh địch từ xa. Sử dụng các thủ đoạn tập kích, đặc biệt có
thể sử dụng đặc công, pháo binh chuyên trách, dân quân tự vệ tập kích, phá hoại vùng
địch hậu, tập kích tung thâm… phá hủy các hệ thống phóng, hệ thống bảo đảm hoặc
các căn cứ trọng yếu của chúng, khiến chúng bị tê liệt khi tác chiến.
- Có thể lợi dụng thời tiết khắc nghiệt như mưa, sương mù, bão, gió…để tập
kích vào các hệ thống vũ khí công nghệ cao.
7.2.2.4. Cơ động phòng tránh nhanh, đánh trả kịp thời chính xác
- Khi cơ động phòng tránh phải thực hiện tốt các yêu cầu bí mật, cơ động
nhanh, đến đúng địa điểm, thời gian và sẵn sàng chiến đấu cao.
- Để thực hiện được mục đích đó, công tác chuẩn bị phải chu đáo, có kế hoạch
cơ động, di chuyển chặt chẽ. Khi cơ động phải tận dụng địa hình, rừng cây, khe suối…
hạn chế khả năng trinh sát phát hiện bằng các phương tiện trinh sát hiện đại của địch.
Xác định nhiều đường cơ động, có đường chính, đường dự bị, đường nghi binh và tổ
chức ngụy trang.
65

- Phòng tránh đánh trả địch tiến công bằng vũ khí công nghệ cao là vận dụng
tổng hợp các giải pháp, biện pháp, các hoạt động một cách có tổ chức, của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân trong chuẩn bị và thực hành phòng tránh, đánh trả bảo đảm an
toàn cho nhân dân và các thành phần lực lượng, giữ vững sản xuất, đời sống, sinh hoạt,
an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội.
- Phòng tránh đánh trả địch tiến công bằng vũ khí công nghệ cao là hai mặt của
một vấn đề, có quan hệ, tác động lẫn nhau một cách biện chứng, đan xen nhau. Phòng
tránh tốt là điều kiện để đánh trả có hiệu quả. Đánh trả có hiệu quả tạo điều kiện để
phòng tránh an toàn và chúng ta cần hiểu rằng trong phòng tránh có đánh trả, trong
đánh trả có phòng tránh. Như vậy phòng tránh tiến công bằng vũ khí công nghệ cao
của địch là một biện pháp có ý nghĩa chiến lược để bảo toàn lực lượng, giảm thiểu
thiệt hại về người và tài sản, là một yếu tố quan trọng để giành thắng lợi. Thực tiễn
trong những năm chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ trước đây,
công tác phòng không nhân dân đã có vị trí vai trò to lớn trong việc bảo vệ nhân dân,
bảo vệ các mục tiêu quan trọng của miền Bắc.
- Những kinh nghiệm tổ chức phòng tránh trong chống chiến tranh phá hoại
bằng không quân và hải quân của địch trước đây và các cuộc chiến tranh gần đây của
Mỹ và đồng minh vào Irắc, Nam Tư… là những kinh nghiệm rất bổ ích, chúng ta có
cơ sở để tin tưởng rằng chúng ta sẽ tổ chức tốt công tác phòng tránh tiến công bằng vũ
khí công nghệ cao của địch trong tình hình mới.
- Trong phòng tránh phải triệt để tận dụng ưu thế địa hình tự nhiên để cải tạo và
xây dựng công trình phòng tránh theo một ý định chiến lược chung trên phạm vi toàn
quốc, trên từng hướng chiến dịch, chiến lược, trên từng địa bàn cụ thể, từng khu vực
phòng thủ địa phương. Bố trí lực lượng phương tiện phân tán, nhưng hỏa lực phải tập
trung, công trình phải luôn kết hợp chặt chẽ giữa ngụy trang che giấu với hoạt động
nghi binh, xây dựng phải dựa vào khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) và tăng cường
cơ động trong chiến đấu.
- Đối với đánh trả tiến công bằng vũ khí công nghệ cao của địch, nhằm tiêu
diệt, phá thế tiến công của địch, bảo vệ chủ quyền, bảo vệ các mục tiêu quan trọng của
đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ sản xuất,… Đánh trả có hiệu quả là vấn đề cốt lõi
nhất của phòng tránh, đánh trả, là biện pháp tích cực nhất, chủ động nhất để bảo vệ
chủ quyền đất nước, bảo vệ mục tiêu, bảo toàn lực lượng chiến đấu.
- Với điều kiện và khả năng của ta, việc tổ chức đánh trả phải có trọng điểm,
đúng đối tượng, đúng thời cơ. Đánh trả địch bằng mọi lực lượng, mọi loại vũ khí,
trang bị, thực hiện đánh rộng khắp, từ xa đến gần, ở các độ cao, các hướng khác nhau.
Ta đánh địch bằng sức mạnh tổng hợp, ta đánh địch bằng thế, thời, lực, mưu,…
66

- Về phương pháp chúng ta phải kết hợp chặt chẽ giữa đánh địch với cơ động,
ngụy trang, nghi binh, phòng tránh bảo tồn lực lượng. Về lực lượng, chúng ta có lực
lượng phòng không ba thứ quân và không quân, lực lượng pháo binh, tên lửa, lực
lượng đặc công… và hỏa lực súng bộ binh tham gia.
- Với những thành phần như vậy, có thể đánh các mục tiêu trên không, các mục
tiêu mặt đất, mặt nước nơi xuất phát các đòn tiến công hỏa lực của địch, phù hợp với
điều kiện Việt Nam. Trong đó, tổ chức xây dựng thế trận phòng tránh đánh trả tiến
công bằng vũ khí công nghệ cao của địch đáp ứng yêu cầu hiểm, chắc, có chiều sâu, cơ
động linh hoạt, rộng khắp, kết hợp với thế trận khu vực phòng thủ địa phương. Phải
xác định các khu vực, mục tiêu bảo vệ trọng điểm, đối tượng đánh trả, khu vực đánh
trả, hướng đánh trả chủ yếu cho các lực lượng tham gia đánh trả.
- Trong thực hành đánh trả địch, phải vận dụng một cách linh hoạt các hình
thức tác chiến, chiến thuật, phương pháp hoạt động chiến đấu khác nhau cho từng lực
lượng, như lực lượng phòng không ba thứ quân có thể vừa chốt bảo vệ mục tiêu, vừa
cơ động phục kích đón lõng, kết hợp vừa phòng tránh vừa đánh trả. Đối với lực lượng
không quân, pháo binh, tên lửa, hải quân có thể vận dụng linh hoạt các phương pháp
tác chiến của quân, binh chủng có hiệu quả nhất, phù hợp với điều kiện tình hình địch,
ta như đánh chặn, đánh đòn tập kích, đánh hiệp đồng.
- Ngoài những vấn đề trên, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống phòng thủ
dân sự, đây là nhiệm vụ chiến lược rất quan trọng của nền quốc phòng toàn dân, là hệ
thống các biện pháp phòng thủ quốc gia. Từng địa phương và cả nước, được tiến hành
trong thời bình và thời chiến, nhằm bảo vệ nhân dân, bảo vệ nền kinh tế, duy trì sản
xuất và đời sống nhân dân trong đó bảo vệ nhân dân là nội dung quan trọng nhất. Nếu
việc tổ chức phòng thủ dân sự không tốt, không có giải pháp để phòng chống vũ khí
công nghệ cao, không những chỉ tổn thất về người mà còn dẫn đến hoang mang, dao
động, giảm sút ý chí quyết tâm kháng chiến của mỗi người dân, từng địa phương và cả
nước.
- Ngày nay, nếu cuộc chiến tranh xảy ra sẽ là cuộc chiến tranh sử dụng vũ khí
công nghệ cao, diễn ra trên không gian nhiều chiều, tiền tuyến và hậu phương không
phân định rõ ràng như trước đây. Do vậy, ở thành phố, thị xã, thị trấn nơi tập trung
đông dân cư và các cơ sở kinh tế lớn chủ yếu là sơ tán, còn các trọng điểm khác có thể
phân tán, sơ tán gần. Các cơ sở sản xuất lớn của Trung ương có thể phải sơ tán xa hơn,
chủ yếu dựa vào các hang động ở rừng núi để sản xuất phục vụ chiến tranh.
- Hệ thống công trình phòng thủ dân sự gồm hệ thống hầm hố ẩn nấp cho cá
nhân, cho các hộ gia đình, các công trình bảo đảm sản xuất, bảo đảm sinh hoạt, bảo
đảm lương thực, thực phẩm của tập thể, hộ gia đình triển khai ở các cơ quan, nhà ga,
bến cảng, kho nhiên liệu, xăng dầu được tiến hành ngay từ thời bình thông qua kế
67

hoạch kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế ở từng địa phương và
trong phạm vi cả nước.
* Kết luận:
Phương thức phòng tránh địch tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao là
một vấn đề lớn của cả đất nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Để phòng tránh địch tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao trong chiến
tranh tương lai có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự tham gia của toàn Đảng, toàn dân, của
cả hệ thống chính trị trên tất cả các lĩnh vực từ nhận thức đến hành động. Luôn nêu
cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng phòng chống địch tiến công hỏa lực có
hiệu quả trong mọi tình huống. Mọi công tác chuẩn bị của các cấp, các ngành và của
người dân phải được chuẩn bị ngay từ thời bình, chống chủ quan, coi nhẹ, luôn luôn
theo dõi chặt chẽ, đánh giá đúng, chính xác âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, khả năng sử
dụng vũ khí công nghệ cao và những phát triển mới về vũ khí trang bị, phương pháp
tác chiến trong chiến tranh tương lai của địch. Công tác chuẩn bị phải chu đáo từ thế
trận phòng tránh, đánh trả, đến công tác huấn luyện, diễn tập cách phòng chống tiến
công hỏa lực của địch bằng vũ khí công nghệ cao.
Với kinh nghiệm và truyền thống, với sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân,
trong điều kiện mới chúng ta tin tưởng ta có đầy đủ khả năng để đối phó với tiến công
bằng vũ khí công nghệ cao của địch.

CÂU HỎI ÔN TẬP


1. Trong phòng tránh vũ khí công nghệ cao bằng biện pháp thụ động tại sao
phải tổ chức bố trí lực lượng phân tán.
2. Anh (chị) hiểu thế nào về mối quan hệ giữa cơ động phòng tránh với đánh trả
tiến công bằng vũ khí công nghệ cao.
68

Bài 8. BA MÔN QUÂN SỰ PHỐI HỢP

8.1. Điều lệ chung


8.1.1. Đặc điểm và điều kiện thi đấu
8.1.1.1. Đặc điểm
- Thi đấu ba môn thể thao quân sự phối hợp (thể thao quốc phòng) được tiến hành
theo các bài tập nằm trong chương trình giáo dục quốc phòng, mục đích của thi đấu ba
môn thể thao quân sự phối hợp là giáo dục cho học sinh, sinh viên có ý chí quyết tâm
giành thắng lợi, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo khả năng thực hiện các bài tập đa dạng, sức
chịu đựng cường độ thể lực và sự căng thẳng về tâm lý trong quá trình thi đấu thể thao.
- Thi đấu ba môn quân sự phối hợp là một trong những hình thức để xác định chất
lượng huấn luyện thể lực và tình hình hoạt động thể thao của nhà trường. Để thi đấu
đạt kết quả tốt, học sinh, sinh viên phải luyện tập và hoàn thành những yêu cầu về chỉ
tiêu rèn luyện quy định cho các lứa tuổi và đối tượng.
- Thi đấu ba môn quân sự phối hợp có thể tiến hành thi cá nhân, đồng đội, trong thi
đấu cá nhân phải xác định kết quả thành tích, vị trí cho tất cả những người dự thi.
Trong thi đấu đồng đội lấy kết quả của các cá nhân tổng hợp thành kết quả đồng đội
rồi dựa vào đó xếp hạng cho từng đội. Thi cá nhân, đồng đội là đồng thời xác định kết
quả của cá nhân và của đồng đội rồi xếp hạng cho cá nhân và đồng đội.
8.1.1.2. Điều kiện thi đấu
- Thi đấu ba môn quân sự phối hợp, đấu thủ tham gia cuộc thi phải bảo đảm đủ các
điều kiện.
- Hiểu, nắm vững quy tắc và đã được luyện tập thường xuyên.
- Có chứng nhận đủ điều kiện sức khoẻ của bác sỹ.
8.1.2. Trách nhiệm và quyền hạn của người dự thi
8.1.2.1. Trách nhiệm của người dự thi
- Người dự thi phải hiểu điều lệ, quy tắc cuộc thi và nghiêm túc thực hiện điều lệ
quy tắc thi đấu.
- Có mặt đúng thời gian tại cuộc thi cùng trang bị, trang phục đã quy định, thẻ hoặc
giấy chứng nhận thi đấu và tuân thủ đúng quy chế thi đấu.
- Thực hiện đúng hướng dẫn của trọng tài.
- Tuân thủ nghiêm quy tắc quản lý, sử dụng súng và đạn.
8.1.2.2. Quyền hạn của người dự thi
- Được bắn thử để kiểm tra súng, luyện tập và thực hiện các bài tập ở những địa
điểm đã quy định của hội đồng trọng tài.
- Chỉ khi thật cần thiết mới được phép báo cáo trực tiếp với trọng tài những vấn đề
có liên quan đến việc tiến hành cuộc thi, trong các trường hợp khác nếu có yêu cầu gì
69

đối với trọng tài thì dùng lời nói hoặc làm văn bản báo cáo với đoàn trưởng (đội
trưởng) chuyển lên hội đồng trọng tài.
8.1.3. Trách nhiệm, quyền hạn của đoàn trưởng (đội trưởng)
Mỗi đoàn (đội) dự thi nhất thiết phải có cán bộ có phẩm chất, tư cách vững vàng và
hiểu biết sâu sắc về chuyên môn làm đoàn trưởng. Đoàn trưởng phải hoàn toàn chịu
trách nhiệm về kỷ luật của các đấu thủ khi ở địa điểm thi đấu cũng như tại nơi ở và bảo
đảm cho mỗi đấu thủ hoặc đội vào thi đấu kịp thời. Khi vắng đoàn trưởng thì đội
trưởng thay thế. Khi đội trưởng vắng phải chỉ định một trong các đấu thủ thay mặt để
chỉ huy đội.
Đoàn trưởng (đội trưởng) có nhiệm vụ nộp cho Hội đồng trọng tài danh sách thi
đấu thủ dự bị và những tài liệu cần thiết cho điều lệ, quy tắc cuộc thi quy định.
8.1.3.1. Trách nhiệm của đoàn trưởng (đội trưởng)
Đoàn trưởng (đội trưởng) phải nắm chắc:
- Hiểu và thực hiện điều lệ, quy tắc và quy chế của cuộc thi.
- Bảo đảm kịp thời đưa đoàn (đội) đến địa điểm thi đấu với trang phục, súng đạn
cần thiết đã quy định, chịu trách nhiệm trước nhà trường về việc bảo đảm an toàn mọi
mặt của đoàn (đội) mình.
- Thường xuyên có mặt ở địa điểm thi đấu và chỉ được tạm vắng khi tổng trọng tài
hoặc phó tổng trọng tài cho phép.
- Thông báo cho các đấu thủ của đoàn (đội) mình các quyết định của Hội đồng
trọng tài những thay đổi về thời gian, chương trình thi đấu của cuộc thi…
- Báo cáo với Hội đồng trọng tài về những thay đổi trong đăng ký và những đấu
thủ do tình trạng sức khoẻ không thể tiếp tục thi đấu được.
- Tham dự cuộc họp của Hội đồng trọng tài với quyền hạn tư vấn và tham dự
bốc thăm.
8.1.3.2. Quyền hạn của đoàn trưởng (đội trưởng)
- Chuyển đến Hội đồng trọng tài những khiếu nại của đoàn (đội).
- Đề nghị Hội đồng trọng tài kiểm tra và giải thích kết quả thi đấu sau khi đã thông
báo sơ bộ về thành tích.
- Đoàn trưởng (đội trưởng) không được phép can thiệp vào công việc của trọng tài
và cũng không được tự ý quyết định thay đổi đấu thủ hoặc rút đấu thủ khỏi cuộc thi
nếu không được Hội đồng trọng tài cho phép. Trong quá trình thi đấu cũng không
được phép giúp đỡ vận động viên.
8.1.3.3. Thủ tục khiếu nại
- Tất cả những khiếu nại đều phải đưa đến Hội đồng trọng tài, có thể đưa trước khi
bắt đầu cuộc thi, trong quá trình cuộc thi và sau khi kết thúc cuộc thi, nhưng không
chậm quá một giờ sau khi kết thúc môn thi đó.
70

- Đoàn trưởng (đội trưởng) có thể đưa khiếu nại bằng văn bản có chỉ dẫn các mục,
các điểm của quy tắc hoặc điều lệ cuộc thi mà người khiếu nại bị cho là vi phạm.
- Tổng trọng tài phải xem xét các khiếu nại trong thời gian ngắn nhất. Nếu khiếu
nại đó cần phải kiểm tra thì quyết định cần được thực hiện trong vòng 24h từ lúc nhận
được đơn khiếu nại và kết luận trước khi xác định thành tích cuối cùng của cuộc thi.
- Quyết định của Tổng trọng tài về khiếu nại là quyết định cuối cùng và không xét
lại nữa.
8.1.3.4. Xác định thành tích và xếp hạng
- Khi vô địch cá nhân và đồng đội được xác định theo điều lệ cuộc thi.
- Khi xếp hạng cá nhân, vận động viên nào có thành tích (tổng số điểm) cao hơn
được xếp trên. Trường hợp thành tích bằng nhau của một số vận động viên thì vận
động viên nào có kết quả cao hơn trong các môn thi sẽ được xếp trên.
- Khi xếp hạng đồng đội, cộng tổng số điểm của các vận động viên trong từng đội
và xếp hạng cao thấp cho các đội căn cứ vào tổng số điểm của từng đội. Trường hợp
thành tích bằng nhau của một số đội thì đội nào có vận động viên xếp thứ hạng cao
(nhất, nhì, ba…) sẽ được xếp vị trí cao hơn.
8.2. Quy tắc thi đấu
8.2.1. Quy tắc chung
Điều 1: Mỗi vận động viên phải thi đấu ba nội dung trong 2 ngày theo trình tự sau
đây:
Ngày thứ nhất: Sáng thi bắn súng quân dụng, chiều ném lựu đạn.
Sáng ngày thứ hai: Chạy vũ trang 3000m (nam); 1500m (nữ).
Điều 2: Trang phục và trang bị thi đấu.
- Mặc quần áo lao động hoặc thể thao, đi giày hoặc chân đất.
- Súng quân dụng (tiểu liên AK; CKC).
- Đeo số thi đấu ở ngực và đeo kết quả bốc thăm ở lưng, không được thay đổi
số áo trong suốt cuộc thi.
8.2.2. Quy tắc thi đấu các môn
8.2.2.1. Bắn súng quân dụng
Điều 3: Điều kiện bắn.
- Dùng súng trường CKC (hoặc tiểu liên AK), lực cò không nhẹ dưới 2kg.
- Mục tiêu cố định, bia số 4 có vòng.
- Cự li bắn: 100m.
- Tư thế bắn: nằm bắn có bệ tì.
- Số đạn bắn: 3 viên.
- Phương pháp bắn: phát một.
Điều 4: Thứ tự bắn.
71

Theo trình tự bốc thăm, vận động viên phải có mặt ở vị trí điểm danh trước giờ
thi đấu của mình 30phút để làm công tác chuẩn bị, điểm danh, kiểm tra súng, đạn và
trang bị.
Điều 5: Quy tắc bắn.
- Khi vào tuyến bắn, sau khi khám súng và có lệnh “Nằm chuẩn bị bắn” của
trọng tài trưởng, vận động viên mới được làm công tác chuẩn bị. Khi chuẩn bị xong
vận động viên phải báo cáo “số… chuẩn bị xong” và chỉ được bắn sau khi có lệnh của
trọng tài.
- Vận động viên được phép dùng vải bạt, chiếu, nilon để nằm bắn.
- Khi có lệnh bắn, mọi trường hợp cướp cò, nổ súng coi như đã bắn. Đạn thia
lia không tính thành tích.
- Đạn chạm vạch được tính điểm vòng trong, đạn không nổ được bù thêm.
- Trong khi thi đấu, súng bị hỏng hóc, phải báo cáo với trọng tài nếu được phép
mới được ra ngoài sửa hoặc đổi súng.
Điều 6: Vi phạm quy tắc bắn.
- Nổ súng trước khi có lệnh bắn của trọng tài sẽ bị tước quyền thi đấu môn
bắn súng.
- Nổ súng sau khi có lệnh thôi bắn (dừng bắn) của trọng tài sẽ bị cảnh cáo, viên
đạn đó không được tính thành tích và bị trừ thêm 2 điểm trên bia.
- Trong thi đấu nếu bắn nhầm bia mà trọng tài xác định được thì viên đạn đó
vẫn được tính điểm cho người bắn nhầm nhưng bị trừ 2 điểm trên bia.
- Nếu trên bia có hai điểm chạm, không phân biệt rõ điểm chạm của từng người
bắn thì cả hai đều có quyền nhận viên đạn có điểm chạm cao nhất hoặc cả hai đều bắn
lại. Thành tích bắn lại được xử trí như sau:
+ Dù đạt được bao nhiêu nhưng so với nhau, nếu ai có điểm bắn cao hơn sẽ lấy
điểm cao của bia đang xét, điểm thấp dành cho người có điểm bắn thấp hơn.
+ Nếu điểm bắn lại cả hai đều cùng bằng nhau, ai có điểm chạm gần trung tâm
hơn sẽ được lấy điểm cao của bia đang xét. Ngoài ra phải trừ đi hai điểm trên bia đối
với người bắn nhầm.
+ Mọi hành động gian lận như đổi súng (dùng súng chưa được kiểm tra), đổi
người dự thi không có trong danh sách báo cáo, hoặc vi phạm các điểm a; d của Điều
5, hoặc vi phạm nguyên tắc an toàn thì dù là vô tình hay cố ý, tuỳ theo lỗi nặng, nhẹ
mà trọng tài nhắc nhở, cảnh cáo hoặc tước quyền thi đấu môn bắn súng.
Nếu bắn súng thể thao: cự li 50m, bia số 7B, nằm bắn có bệ tỳ, bắn 3 viên tính
điểm (như bắn súng quân dụng).
8.2.2.2. Ném lựu đạn xa, trúng hướng
Điều 7: Điều kiện ném.
72

- Lựu đạn gang, hình trụ, cán gỗ dài 12cm, trọng lượng 600gam (nam) và 500 -
520gam (nữ).
- Bãi ném: Ném trong đường hành lang rộng 10m, đường chạy rộng 4m, dài từ
15 - 20m.
- Tư thế ném: Cầm súng (không dương lê), có thể đứng ném hoặc chạy lấy đà.
- Số quả ném: Ném thử 1 quả, ném tính điểm 3 quả.
- Thời gian ném: 5 phút (kể cả ném thử).
Điều 8: Thứ tự ném.
- Theo kết quả bốc thăm, phân chia bãi ném và đợt ném, vận động viên khởi
động ở ngoài, đến lượt ném mới vào vị trí chuẩn bị.
Điều 9: Quy tắc ném.
- Vận động viên chỉ được ném sau khi có lệnh của trọng tài, có thể ném thử
hoặc không. Muốn ném thử hoặc ném tính điểm, vận động viên phải báo cáo “Số…
xin ném thử” hoặc “Số… chú ý”, “1 quả ném thử” hoặc “3 quả ném tính điểm” bắt
đầu, vận động viên mới được ném. Mỗi quả ném đều có hiệu lệnh bằng cờ của trọng
tài.
- Khi ném, một tay cầm súng (không dương lê) có thể đứng ném hoặc chạy lấy
đà. Khi đang chạy đà, nếu cảm thấy chưa tốt, vận động viên có quyền chạy lại với điều
kiện không được để một bộ phận nào của thân thể chạm hoặc vượt ra ngoài vạch giới
hạn, kể cả lựu đạn tuột tay rơi ra ngoài vạch giới hạn.
- Lựu đạn phải rơi trong phạm vi hành lang rộng 10m, rơi trúng vạch vẫn được
tính thành tích.
- Ném xong cả 3 quả tính điểm rồi mới đo thành tích của cả 3 lần ném và lấy
thành tích của lần ném xa nhất. Mỗi lần lựu đạn rơi trong hành lang, trọng tài đều cắm
cờ đánh dấu điểm rơi, thành tích lấy chẵn tới cm.

Điều 10: Vi phạm quy tắc ném.


- Khi được lệnh ném của trọng tài, nếu do sơ ý lựu đạn rơi bên ngoài vạch giới
hạn thì coi như đã ném quả đó.
- Lựu đạn rơi ngoài phạm vi hành lang không được tính thành tích.
- Tự động ném trước khi có lệnh của trọng tài sẽ bị tước quyền thi đấu môn
ném lựu đạn.
- Mọi hành động trong gian lận, như đổi người, đổi trang bị hoặc vi phạm các
điểm a, b, d của Điều 9 thì tuỳ theo lỗi nặng nhẹ mà trọng tài nhắc nhở, cảnh cáo hoặc
tước quyền thi đấu.
8.2.2.3. Chạy vũ trang
73

Điều 11: Điều kiện chạy.


- Đường chạy tự nhiên.
- Cự ly chạy: 3000m (nam); 1500m (nữ).
Điều 12: Thứ tự chạy.
- Vận động viên phải có mặt ở vị trí tập kết trước giờ thi đấu của mình 20 phút
để điểm danh, kiểm tra trang bị và khởi động.
- Trọng tài điểm danh và sắp xếp vị trí cho các vận động viên theo thứ tự
bốc thăm.
Điều 13: Quy tắc chạy.
- Xuất phát: Mỗi đợt xuất phát không quá 20 người. Khi có lệnh “vào chỗ” của
trọng tài, các vận động viên về vị trí của mình và chuẩn bị chờ lệnh. Tay và chân
không được chạm vào vạch xuất phát.
- Khi có lệnh chạy (bằng súng phát lệnh hoặc phất cờ…) vận động viên mới bắt
đầu chạy.
- Khi chạy trên đường, vận động viên không được gây trở ngại cho các đấu thủ
khác. Khi muốn vượt phải vượt về phía bên phải. Nếu đối thủ chạy trước không chạy
vào sát mép trong đường chạy vận động viên chạy sau được phép vượt lên bên trái đối
thủ đó. Dù vượt bên nào cũng không được gây trở ngại, như xô đẩy, chen lấn đối thủ
chạy trước. Vận động viên chạy trước cũng không được cản trở, chèn ép đối thủ chạy
sau khi đối thủ này muốn vượt lên trước.
- Khi về đích, vận động viên dùng một bộ phận thân người chạm vào mặt phẳng
cắt ngang vạch đích hoặc dây đích (trừ đầu, cổ, tay và chân) và khi toàn bộ cơ thể đã
vượt qua mặt phẳng đó mới coi là chạy hết cự ly.
Điều 14: Vi phạm quy tắc chạy.
Vi phạm các điểm sau đây sẽ bị xoá bỏ thành tích:
- Chạy không hết đường quy định.
- Nhờ người mang vũ khí, trang bị hoặc dìu đỡ trước khi về đích.
- Về đích thiếu súng.
- Chen lấn thô bạo, cố tình cản trở làm ảnh hưởng tới thành tích hoặc gây
thương tích cho đối thủ.
Về đích thiếu trang bị sẽ bị phạt bằng cách cộng thêm vào thành tích chạy thời
gian như sau:
- Thiếu số áo, cộng 10 giây.
- Thiếu thắt lưng, cộng 10 giây.
- Vi phạm điểm a của Điều 12, điểm a, b, c, d của Điều 13 hoặc có hành động
gian lận thì tuỳ theo lỗi nặng nhẹ mà trọng tài nhắc nhở, cảnh cáo hoặc tước quyền thi
đấu môn chạy vũ trang.
74

8.2.3. Cách tính thành tích


8.2.3.1. Tính điểm và xếp hạng cá nhân
Điều 15: Tính điểm bắn súng quân dụng.
Căn cứ vào kết quả điểm chạm, cộng điểm của 3 viên bắn tính điểm. Đối chiếu
với bảng điểm để quy ra điểm (xem bảng tính điểm), vận động viên có số điểm cao
hơn xếp trên. Nếu bằng nhau, sẽ so sánh ai có vòng 10; 9; 8.. nhiều hơn xếp trên. Nếu
vẫn bằng nhau thì xếp bằng nhau.
Điều 16: Tính điểm ném lựu đạn.
Căn cứ vào thành tích ném xa nhất, đối chiếu với bảng điểm để quy ra điểm
(xem bảng tính điểm) vận động viên nào có số điểm cao hơn xếp trên. Nếu bằng nhau,
xét trực tiếp các quả ném đó, nếu vẫn bằng nhau thì xét đến quả thứ hai, thứ 3.
Điều 17: Tính điểm chạy vũ trang.
Căn cứ vào thời gian chạy (sau khi đã xử lý các trường hợp phạm quy) để quy
ra điểm (xem bảng tính điểm), vận động viên nào có số điểm cao hơn thì xếp trên. Nếu
bằng nhau, sẽ xét vận động viên nào có thời gian chạy ít hơn xếp trên, nếu vẫn bằng
nhau, xếp bằng nhau.
Điều 18: Tính điểm cá nhân toàn năng.
Căn cứ điểm của ba môn, vận động viên nào có tổng số điểm nhiều hơn xếp
trên. Nếu điểm bằng nhau, sẽ lần lượt so sánh thứ tự (các môn chạy vũ trang, bắn súng,
ném lựu đạn) vận động viên nào có thứ hạng cao xếp trên. Nếu bằng nhau, xếp
bằng nhau.

8.2.3.2. Tính điểm và xếp hạng đồng đội


Điều 19: Tính điểm đồng đội từng môn.
- Cộng điểm từng môn của các vận động viên trong đội. Đội nào có tổng số
điểm nhiều hơn xếp trên. Nếu bằng nhau, xét đội nào có số vận động viên xếp thứ
hạng toàn năng cao hơn xếp trên.
Điều 20: Tính điểm đồng đội toàn năng.
Cộng điểm toàn năng của các vận động viên trong đội, đội nào có tổng số điểm
nhiều hơn xếp trên. Nếu bằng nhau, xét đội nào có số vận động viên xếp theo thứ hạng
toàn năng cao hơn xếp trên.
8.2.3.3. Tính điểm và xếp hạng toàn đoàn
Điều 21: Xếp hạng toàn đoàn.
- Cộng điểm của đồng đội nam và đồng đội nữ, đoàn nào có tổng số điểm nhiều
hơn thì xếp trên. Nếu bằng nhau, đoàn nào có đội nữ xếp hạng cao hơn xếp trên.
- Bảng tính điểm từng môn, một số mẫu biểu và văn bản.
75

- Tính điểm từng môn (theo phụ lục 1,2,3).

Phụ lục 1: Bắn súng quân dụng (áp dụng cho cả nam và nữ).
Điểm Điểm Điểm Điểm Điểm Điểm Điểm Điểm Điểm Điểm
trên xếp trên xếp trên xếp trên xếp trên xếp
bia hạng bia hạng bia hạng bia hạng bia hạng
30 1000 24 500 18 220 12 110 6 50
29 900 23 450 17 190 11 100 5 40
28 800 22 400 16 170 10 90 4 30
27 710 21 350 15 150 9 80 3 20
26 630 20 300 14 130 8 70 2 10
25 560 19 250 13 120 7 60 1 0

Phụ lục 2: Ném lựu đạn


Nam: 60m được tính 1000 điểm.
Xa hơn 60m, cứ 4cm được tính 1 điểm.
Kém hơn 60m, cứ 5m trừ đi 1 điểm.
Nữ: 40m được tính1000 điểm.
Xa hơn 40m, cứ 4cm được 1 điểm.
Kém hơn 40m, cứ 5m trừ đi 1 điểm.
(Theo nguyên tắc tính điểm tròn: Từ 3cm trở lên được tính tròn 1 điểm, dưới
3cm thì không điểm).
Phụ lục 3: Chạy vũ trang (Nam 3000m; nữ 1500m)
Nam: 10 phút được tính 1000 điểm
Nhanh hơn 10 phút thì 1 giây được 5 điểm.
Chậm hơn 10 phút thì 1 giây trừ đi 3 điểm.
Nữ: 5 phút 30 giây được tính 1000 điểm
Nhanh hơn 5 phút 30 giây thì 1 giây được 5 điểm.
Chậm hơn 5 phút 30 giây thì 1 giây trừ đi 3 điểm.
76

Phiếu đăng ký thi đấu ba môn quân sự phối hợp


Đơn vị:………………..Số thăm:………………..

Nội dung
Chạy vũ
Bắn súng Ném lựu đạn
TT Họ và tên Số áo trang
Ô
Đợt Bệ Đợt Bãi Đợt
(hàng)
1 Nguyễn Văn A 120 1 3 5 1 4 6

……., Ngày tháng năm 2021


Đoàn trưởng (đội trưởng)
(Ký tên)

CÂU HỎI ÔN TẬP


1. Nêu điều kiện và quy tắc thi đấu của từng môn.
2. Nêu nội dung luyện tập thi đấu cụ thể của từng môn.
3. Thực hiện động tác bắn súng tiểu liên AK; súng trường CKC.
4. Thực hiện động tác kỹ thuật ném lựu đạn xa, đúng hướng.
5. Thực hiện động tác kỹ thuật chạy bền.
1

TÀI LIỆU HỌC TẬP HỌC PHẦN 4:

KỸ THUẬT CHIẾN ĐẤU BỘ BINH


VÀ CHIẾN THUẬT
*****************

Bài Nội dung Trang

KỸ THUẬT BẮN SÚNG TIỂU LIÊN AK


1 2

TÍNH NĂNG, CẤU TẠO VÀ CÁCH SỬ DỤNG


2 MỘT SỐ LOẠI LỰU ĐẠN THƯỜNG DÙNG. NÉM 23
LỰU ĐẠN BÀI 1

3 TỪNG NGƯỜI TRONG CHIẾN ĐẤU TIẾN CÔNG 33

4 TỪNG NGƯỜI TRONG CHIẾN ĐẤU PHÒNG NGỰ 45


TỪNG NGƯỜI LÀM NHIỆM VỤ CANH GÁC,
5 CẢNH GIỚI 52
2

Bài 1: KỸ THUẬT BẮN SÚNG TIỂU LIÊN AK

Súng tiểu liên AK cỡ 7,62mm do kĩ sư người Nga Ka - lát - nhi - cốp


(Kalashnikov) cùng với nhóm nghiên cứu của mình chế tạo vào năm 1947 và được đưa
vào biên chế chính thức cho Hồng quân Liên Xô năm 1949. Với tính năng ưu việt, khả
năng hoạt động bền bỉ ít hỏng hóc trong mọi điều kiện, súng tiểu liên AK đang được
trang bị phổ biến trong lực lượng vũ trang của ta hiện nay. Để phát huy cao nhất hiệu
suất chiến đấu của súng, người sử dụng không những cần nắm chắc tác dụng, tính
năng kỹ chiến thuật mà còn phải thành thạo kỹ thuật bắn của súng tiểu liên AK.
1.1. Ngắm bắn, cách chọn thước ngắm, điểm ngắm
1.1.1. Ngắm bắn
1.1.1.1. Định nghĩa các yếu tố về ngắm
a. Đường ngắm cơ bản:
* Đối với bộ phận ngắm cơ khí:
Đường ngắm cơ bản là đường thẳng từ mắt người ngắm qua điểm chính giữa
mép trên khe ngắm (hoặc tâm lỗ ngắm) đến điểm chính giữa mép trên đầu ngắm (như
hình 1.1).

a. súng có khe ngắm b. súng có lỗ ngắm

Hình 1.1: Đường ngắm cơ bản


* Đối với kính ngắm quang học:
Đường ngắm cơ bản là đường thẳng từ mắt người ngắm qua tâm kính nhìn đến
điểm giao nhau của vạch khấc tầm và vạch khấc hướng đã xác định với điều kiện kính
phải sáng rõ, tròn đều.
b. Điểm ngắm đúng:
3

Là điểm được xác định sao cho khi ngắm vào đó để bắn thì quỹ đạo đường đạn
đi qua điểm định bắn trúng trên mục tiêu.
c. Đường ngắm đúng:
Đường ngắm đúng là đường ngắm cơ bản được dóng vào điểm ngắm đúng đã
xác định với điều kiện mặt súng phải thăng bằng (như hình 1.2).

a. súng có khe ngắm b. súng có lỗ ngắm


Hình 1.2: Đường ngắm đúng

1.1.1.2. Ảnh hưởng của ngắm sai đến kết quả bắn
Muốn bắn trúng mục tiêu phải thực hiện tốt ba yếu tố sau: Có thước ngắm đúng,
có điểm ngắm đúng, có đường ngắm đúng. Nếu thiếu một trong ba yếu tố trên thì khả
năng bắn trúng mục tiêu sẽ thấp, thậm chí không trúng mục tiêu.
a. Ngắm sai đường ngắm cơ bản
Đường ngắm cơ bản sai thực chất là sai lệch về góc bắn và hướng bắn, sự sai
lệch này ảnh hưởng rất lớn đến trúng đích của phát bắn, cụ thể như sau:
- Nếu điểm chính giữa mép trên đầu ngắm thấp (hoặc cao) hơn điểm chính giữa
mép trên khe ngắm, thì điểm chạm trên mục tiêu sẽ thấp (hoặc cao) hơn điểm định bắn
trúng (như hình 1.3).

a. đầu ngắm thấp hơn khe ngắm b. đầu ngắm cao hơn khe ngắm
Hình 1.3: Đường ngắm sai về tầm (lệch cao - thấp)
4

- Nếu điểm chính giữa mép trên đầu ngắm lệch trái (hoặc phải) so với điểm
chính giữa mép trên khe ngắm, thì điểm chạm trên mục tiêu sẽ lệch trái (hoặc phải)
điểm định bắn trúng (như hình 1.4).

a. đầu ngắm lệch sang trái khe ngắm b. đầu ngắm lệch sang phải khe ngắm
Hình 1.4: Đường ngắm sai về hướng (lệch trái - phải)
- Nếu điểm chính giữa mép trên đầu ngắm vừa cao vừa lệch phải (hoặc trái) so
với điểm chính giữa mép trên khe ngắm, thì điểm chạm trên mục tiêu sẽ vừa cao vừa
lệch phải (hoặc trái) điểm định bắn trúng.
- Nếu điểm chính giữa mép trên đầu ngắm vừa thấp vừa lệch trái (hoặc phải) so
với điểm chính giữa mép trên khe ngắm, thì điểm chạm trên mục tiêu sẽ vừa thấp vừa
lệch trái (hoặc phải) điểm định bắn trúng (như hình 1.5 và 1.6).

a. đầu ngắm cao, lệch phải khe ngắm b. đầu ngắm cao, lệch trái khe ngắm
Hình 1.5: Đường ngắm sai cả tầm và hướng

a. đầu ngắm thấp, lệch phải khe ngắm b. đầu ngắm thấp, lệch trái khe ngắm
Hình 1.6: Đường ngắm sai cả tầm và hướng

b. Ngắm sai điểm ngắm.


5

Khi đường ngắm cơ bản đã chính xác, mặt súng thăng bằng, nếu điểm ngắm sai
lệch so với điểm ngắm đúng bao nhiêu, thì điểm chạm trên mục tiêu sẽ sai lệch so với
điểm định bắn trúng bấy nhiêu (như hình 1.7).

Hình 1.7: Đường ngắm sai với điểm ngắm đúng (lệch trái)
c. Mặt súng không thăng bằng.
Nếu có đường ngắm cơ bản đúng, có điểm ngắm đúng nhưng mặt súng nghiêng
làm cho trục nòng súng lệch khỏi mặt phẳng bắn và làm cho góc bắn nhỏ lại, dẫn tới
tầm bắn giảm. Như vậy mặt súng nghiêng về bên nào thì điểm chạm trên mục tiêu sẽ
lệch và thấp về bên ấy (như hình 1.8).

Hình 1.8: Sai lệch khi mặt súng không thăng bằng
a: đường đạn khi mặt súng thăng bằng
a’: đường đạn khi mặt súng nghiêng 90
Kết quả: h > h’: 14cm: Điểm chạm thấp hơn điểm bắn trúng 14 cm

1.1.2. Cách chọn thước ngắm, điểm ngắm


1.1.2.1. Căn cứ
+ Cự ly bắn
+ Độ cao đường đạn so với điểm ngắm
+ Tính chất của mục tiêu (kích thước, trạng thái)
+ Điểm định bắn trúng trên mục tiêu
+ Điều kiện khí tượng, góc tà
1.1.2.2. Cách chọn
a. Chọn thước ngắm
Có 3 cách chọn thường vận dụng là:
- Chọn thước ngắm tương ứng với cự ly bắn
6

- Chọn thước ngắm lớn hơn cự ly bắn


- Chọn thước ngắm nhỏ hơn cự ly bắn
b. Chọn điểm ngắm
- Trường hợp không có gió
+ Với mục tiêu nhỏ, thấp thường chọn thước ngắm lớn hơn cự ly bắn, điểm
ngắm thấp hơn điểm định bắn trúng một khoảng bằng độ cao đường đạn trung bình
tương ứng với thước ngắm.
+ Với mục tiêu to, cao thường chọn thước ngắm tương ứng với cự ly bắn, điểm
ngắm chính giữa mục tiêu (điểm định bắn trúng).
+ Nếu chọn thước ngắm nhỏ hơn cự ly bắn, điểm ngắm cao hơn điểm định bắn
trúng bằng độ cao đường đạn tương ứng với thước ngắm so với điểm ngắm ở cự ly đó
(trường hợp này ít vận dụng).
- Trường hợp có gió
Tác động của gió làm cho đầu đạn bị sai lệch về tầm (cao, thấp) và hướng
người bắn phải biết được hướng gió, tốc độ gió để tìm lượng sửa gió. Vì vậy chọn
điểm ngắm cách điểm định bắn trúng một khoảng bằng lượng sửa gió.
+ Gió thổi từ bên nào sang dịch điểm ngắm sang bên đó bể bắn.
+ Nếu súng có thước ngắm ngang khi sử dụng phải tính toán lượng đón để quy
đổi thành vạch khấc trên thước ngắm ngang để ngắm bắn.
1.2. Động tác bắn tại chỗ của súng Tiểu liên AK
1.2.1. Động tác nằm bắn
1.2.1.1. Trường hợp vận dụng
Trong chiến đấu, thường vận dụng ở địa hình trống trải hoặc có vật che khuất,
che đỡ cao ngang tầm người nằm.
Nằm bắn nhằm hạ thấp độ cao cơ thể để địch không phát hiện được mình hoặc
tránh tầm bắn thẳng của địch có độ cao hơn tầm người nằm bắn.
Trong huấn luyện bắn theo điều kiện của giáo trình hoặc khẩu lệnh của người chỉ
huy.
1.2.1.2. Động tác
a) Động tác nằm bắn không tỳ
- Động tác chuẩn bị bắn
+ Khẩu lệnh: “Nằm chuẩn bị bắn”
+ Động tác:
* Động tác nằm bắn:
Khi nghe dứt khẩu lệnh, quay người về hướng mục tiêu, tay phải nắm ốp lót tay
đưa súng về thành tư thế xách súng, nắm tay cao ngang thắt lưng, nòng súng hướng
lên trên phía trước hợp với thân người một góc khoảng 450.
7

Thực hiện 3 cử động:


Cử động 1: Chân phải bước lên một bước dài theo hướng bàn chân phải, chân trái
dùng mũi bàn chân làm trụ xoay gót sang trái để người hướng theo hướng bàn chân
phải.
Cử động 2: Chống bàn tay trái xuống đất trước mũi bàn chân phải cách khoảng
20cm, mũi bàn tay chếch về bên phải phía sau. Thứ tự đặt cánh tay trái, đùi trái xuống
đất.
Cử động 3: Tay phải lao súng về phía trước đồng thời bàn tay trái lật ngửa đỡ lấy
thân súng khoảng dưới thước ngắm (tay kéo bệ khóa nòng hướng lên trên). Duỗi chân
phải về sau, nằm úp người xuống, hai chân mở rộng bằng vai hai mũi bàn chân hướng
sang hai bên. Người nằm chếch so với hướng bắn một góc khoảng 30o.
* Động tác chuẩn bị súng, đạn
Tay phải rời ốp lót tay dùng ngón cái tay phải đẩy lẫy giữ hộp tiếp đạn (HTĐ),
tháo HTĐ không có đạn ở súng ra trao sang tay trái. Ngón giữa và ngón đeo nhẫn tay
trái kẹp giữ HTĐ vào mé phải ốp lót tay, cửa HTĐ quay vào người, sống HTĐ quay
xuống đất.
Tay phải mở túi đựng lấy HTĐ có đạn lắp vào súng (lựa cho mấu trước của HTĐ
khớp vào khuyết chứa mấu ở hộp khóa nòng rồi kéo HTĐ về sau cho mấu sau của
HTĐ mắc vào lẫy giữ ở khung cò), cất HTĐ không có đạn vào túi đựng HTĐ.
Dùng ngón cái tay phải gạt cần định cách bắn về vị trí bắn, kéo bệ khóa nòng về
sau hết cữ rồi thả đột nhiên để bệ khóa nòng lao về trước đẩy một viên đạn vào buồng
đạn, gạt cần định cách bắn và khóa an toàn về vị trí an toàn.
Tay phải về nắm tay cầm, ngón trỏ duỗi thẳng đặt ngoài vành cò, mặt súng
hướng lên trên. Mắt luôn quan sát mục tiêu, chờ lệnh.
- Động tác bắn
+ Khẩu lệnh: “Bắn”
+ Động tác: Gồm giương súng, ngắm, bóp cò. Trước khi giương súng phải lấy
thước ngắm.
* Động tác lấy thước ngắm
Trường hợp lấy thước ngắm ban ngày: Tay phải dùng ngón trỏ và ngón cái bóp
then hãm cữ thước ngắm, xê dịch cho mép trước cữ thước ngắm khớp vào vạch khấc
thước ngắm định lấy.
Trường hợp lấy thước ngắm ban đêm: Bóp then hãm cữ kéo về sau hết cữ đẩy lên
nghe tiếng “Tách” là thước ngắm П hoặc D. Từ thước ngắm П hoặc D bóp then hãm
rồi đẩy nhẹ về trước thả then hãm ra, đẩy nhẹ về trước thấy bị mắc hay có tiếng kêu
“Tách”.
8

Tiếp tục động tác như vậy lần thứ hai ta được thước ngắm 1. Từ thước ngắm 1
trở lên cứ mỗi lần điều chỉnh then hãm cữ thước ngắm về trước là tăng một thước
ngắm.
* Động tác giương súng
Tay trái có thể nắm ốp lót tay dưới hoặc HTĐ, tùy theo độ dài ngắn của cánh tay
người bắn để chọn cho thích hợp.
Khi nắm HTĐ, hộ khẩu tay đặt phía sau sống HTĐ, các ngón con và ngón cái
nắm chắc hộp tiếp đạn.
Khi nắm ốp lót tay, bàn tay trái ngửa, ốp lót tay dưới nằm trong lòng bàn tay, bốn
ngón con khép kín cùng với ngón cái nắm chắc ốp lót tay (với súng AK cải tiến, các
ngón con bám chắc vào gờ nổi bên phải ốp lót tay), cẳng tay trái áp sát HTĐ, cẳng tay
hợp với mặt phẳng địa hình một góc khoảng 40o - 60o.
Tay phải gạt cần định cách bắn về vị trí bắn, rồi nắm tay cầm, hộ khẩu tay nắm
chính giữa phía sau tay cầm ngón trỏ đặt ngoài vành cò các ngón con còn lại và ngón
cái nắm chắc tay cầm.
Kết hợp hai tay nâng súng lên tỳ đế báng súng vào hõm vai phải, ghì chặt súng
vào vai, hai khuỷu tay chống chắc xuống đất. Kết hợp hai tay giữ súng chắc và cân
bằng.
Nhìn qua đường ngắm, nếu súng chưa đúng hướng thì dịch chuyển cả thân người
qua phải hoặc qua trái để điều chỉnh hướng súng vào mục tiêu. Không dùng tay để
điều chỉnh hướng súng làm cho tư thế gò bó.
Chú ý:
Khi giương súng phải bảo đảm các yếu tố: Bằng, chắc, đều, bền.
Bằng là mặt súng không bị nghiêng.
Chắc là hai tay giữ súng, ghì súng chắc vào vai, hai khuỷu tay chống chắc xuống
đất, súng và người thành một khối vững chắc.
Đều là lực giữ hai tay và lực ghì súng phải đều nhau. Bền là thực hiện các yếu tố
bằng, chắc, đều trong suốt quá trình thực hiện phát bắn, loạt bắn.
* Động tác ngắm
Áp má vào báng súng với sức vừa phải để đầu người bắn ít bị rung động, tránh
gối hẳn bên má vào báng súng làm cho mặt súng nghiêng, khi bắn liên thanh dễ làm
báng súng bị tụt dần xuống.
Mắt trái nheo tự nhiên, mắt phải ngắm lấy đường ngắm cơ bản chiếu thẳng vào
điểm định ngắm, mặt súng không bị nghiêng.
* Động tác bóp cò.
Trong quá trình bóp cò, đồng thời phải điều chỉnh đường ngắm đúng, phải ngừng
thở để người bớt rung động.
9

Ngừng thở theo quy luật của hô hấp là hít vào, thở ra, ngừng thở. Phải ngừng thở
trong khoảng trống của hô hấp để ngừng thở được tự nhiên.
Dùng phần cuối đốt thứ nhất của ngón trỏ tay phải để bóp cò, mặt trong ngón trỏ
không áp sát tay cầm.
Bóp cò đều, thẳng về sau theo hướng trục nòng súng cho đến khi đạn nổ.
Chú ý:
Khi đang bóp cò nếu đường ngắm bị sai lệch thì ngừng bóp cò, ngón trỏ giữ
nguyên áp lực tay cò (không tăng cũng không giảm áp lực bóp cò), chỉnh lại đường
ngắm rồi tiếp tục tăng cò.
Không bóp cò vội vàng cướp thời cơ làm súng đột nhiên bị rung động mạnh, phát
bắn mất chính xác.
Khi bắn loạt ngắn (từ 2-3 viên) động tác bóp cò phải bóp đều và bóp hết cữ thả ra
ngay, khi thả ngón tay bóp cò không rời khỏi cò súng, tránh thả cò quá nhanh (nháy
cò) dễ gây bắn phát một.
Khi bắn loạt dài (6-10 viên) động tác bóp cò phải bóp đều và bóp hết cữ, hơi
dừng lại rồi thả ra ngay, khi thả ngón tay bóp cò không rời khỏi cò súng, tránh thả cò
quá nhanh (nháy cò).
- Động tác thôi bắn.
+ Thôi bắn tạm thời
* Khẩu lệnh: “Ngừng bắn”.
* Động tác: Khi nghe dứt khẩu lệnh, ngón trỏ tay phải thả tay cò ra. Gạt cần định
cách bắn và khóa an toàn về vị trí an toàn, hai tay đưa súng về tư thế giữ súng như khi
chuẩn bị bắn, mắt quan sát mục tiêu chờ lệnh.
Nếu hết đạn thì bổ sung đạn hoặc thay HTĐ khác để bắn (nếu cần).
+ Thôi bắn hoàn toàn.
* Khẩu lệnh: “Thôi bắn, khám súng - đứng dậy”
* Động tác:
Động tác tháo đạn: Khi nghe dứt khẩu lệnh, ngón trỏ thả cò súng ra, hai tay hạ
súng xuống tay phải tháo HTĐ ở súng ra trao sang tay trái, tay trái dùng ngón giữa và
ngón đeo nhẫn kẹp HTĐ vào mé phải ốp lót tay.
Tay phải dùng ngón cái kéo bệ khóa nòng từ từ về sau, ngón trỏ lướt trên cửa
thoát vỏ đạn, ba ngón con khép lại chắn cửa lắp HTĐ để hứng viên đạn từ trong buồng
đạn ra, lắp viên đạn vào HTĐ có đạn, lấy HTĐ không có đạn lắp vào súng, cất HTĐ
có đạn vào túi đựng, bóp cò, gạt cần định cách bắn về vị trí an toàn, kéo cữ thước
ngắm về vị trí П hoặc D.
Động tác đứng dậy thực hiện 3 cử động:
10

Cử động 1: Tay phải nắm ốp lót tay, nghiêng người sang trái, chân trái co lên đầu
gối ngang thắt lưng, đồng thời tay phải đưa súng về ốp lót tay đặt trên đùi trái, HTĐ
quay sang phải. Tay trái thu về bàn tay úp dưới ngực.
Cử động 2: Phối hợp sức đẩy tay trái và 2 chân nâng người đứng dậy. Chân phải
bước lên một bước ngang bàn tay trái, đồng thời xoay mũi bàn tay trái về trước, chân
trái duỗi thẳng, dùng sức chân trái và tay trái đẩy người đứng hẳn dậy.
Cử động 3: Chân trái đưa lên đặt sát chân phải thành tư thế đứng nghiêm xách
hoặc mang súng.
b) Động tác nằm bắn có vật tỳ.
Thứ tự khẩu lệnh, động tác cơ bản giống động tác nằm bắn không có vật tỳ chỉ
khác:
Khi giương súng, đặt ốp lót tay dưới hoặc đoạn nòng từ dưới bệ đầu ngắm đến
khâu giữ ốp lót tay dưới lên vật tỳ hoặc gá súng vào một bên thân cây, mô đất, thành
cửa sổ,... để bắn, có thể chống HTĐ hoặc tỳ cổ tay, mu bàn tay lên vật tỳ để bắn,
miệng nòng súng phải cao hơn vật tỳ và nhô ra phía trước vật tỳ ít nhất 5cm.
1.2.2. Động tác quỳ bắn.
1.2.2.1. Trường hợp vận dụng
Trong chiến đấu, thường vận dụng ở địa hình có vật che khuất, che đỡ cao ngang
tầm người ngồi.
Người quỳ bắn vừa được vật che khuất bảo vệ, vừa quan sát được địch
Trong huấn luyện, bắn theo điều kiện của giáo trình hoặc khẩu lệnh của người
chỉ huy.
1.2.2.2. Động tác
a) Động tác quỳ bắn không tỳ
- Động tác chuẩn bị bắn
+ Khẩu lệnh: “Quỳ chuẩn bị bắn”.
+ Động tác:
* Động tác chuẩn bị tư thế: Khi nghe dứt khẩu lệnh, quay người về hướng mục
tiêu, tay phải nắm ốp lót tay đưa súng thành thế xách súng, nắm tay đặt ngang thắt
lưng, nòng súng hướng lên trên về trước hợp với thân người một góc khoảng 45o (thực
hiện 2 cử động).
Cử động 1: Chân trái bước chếch sang phải một bước, gót bàn chân trái cách mũi
bàn chân phải khoảng 20cm sao cho mép phải của bàn chân trái thẳng với mép trái của
bàn chân phải..
Cử động 2: Chân phải dùng mũi làm trụ, xoay gót lên để bàn chân hợp với hướng
bắn một góc khoảng 900, đồng thời tay phải đưa súng về trước, tay trái đỡ lấy ốp lót
11

tay dưới (khoảng dưới thước ngắm). Quỳ gối phải xuống đất theo hướng mũi bàn chân
phải, mông phải ngồi trên gót bàn chân phải, ống chân trái thẳng đứng, đùi trái và đùi
phải hợp với nhau một góc khoảng 600. Trọng lượng người rơi đều vào 3 điểm: bàn
chân trái, đầu gối phải và mũi bàn chân phải, cánh tay trái đặt trên đùi trái.
* Động tác chuẩn bị súng, đạn
Như nằm bắn, chỉ khác được thực hiện ở tư thế quỳ, miệng nòng súng cao ngang
cổ.
- Động tác bắn:
+ Khẩu lệnh: “Bắn”.
+ Động tác: Thứ tự động tác bắn như nằm bắn, chỉ khác động tác giương súng
Tay trái nắm ốp lót tay hoặc HTĐ, tay phải nắm tay cầm, kết hợp hai tay nâng
súng lên tỳ đế báng súng vào hõm vai phải, khuỷu tay trái đặt chỗ bằng của khuỷu tay
lên đầu gối trái, cánh tay phải mở tự nhiên.
Hai tay giữ súng chắc và ghì súng chắc vào vai. Nhìn qua đường ngắm, nếu thấy
súng bị sai lệch về hướng thì dịch chuyển bàn chân trái qua phải hoặc qua trái để điều
chỉnh cho đúng hướng, không dùng cánh tay để điều chỉnh hướng súng.
- Động tác thôi bắn:
+ Thôi bắn tạm thời: Cơ bản như động tác thôi bắn tạm thời ở tư thế nằm bắn chỉ
khác súng tựa ốp lót tay vào đùi trái, HTĐ quay ra ngoài, tay trái giữ súng.
+ Thôi bắn hoàn toàn
Thứ tự khẩu lệnh, động tác thôi bắn cơ bản như động tác nằm bắn chỉ khác động
tác đứng dậy (thực hiện 2 cử động):
Cử động 1: Tay phải nắm ốp lót tay dùng sức hai chân đẩy người đứng dậy, chân
trái lấy gót làm trụ xoay mũi bàn chân sang trái một góc khoảng 600.
Cử động 2: Chân phải đưa lên đặt sát gót chân trái thành tư thế đứng nghiêm
xách hoặc mang súng.
b) Động tác quỳ bắn có vật tỳ.
Thứ tự khẩu lệnh, động tác cơ bản giống động tác quỳ bắn không có vật tỳ chỉ
khác:
- Nếu vật tỳ có độ cao vừa phải, tư thế như quỳ bắn không tỳ, khi tỳ súng lên vật
tỳ, tay trái có thể tỳ cả cẳng tay hoặc đặt mu bàn tay lên vật tỳ cho vững chắc.
- Nếu vật tỳ cao, quỳ hai gối xuống đất, ngực áp sát vào thành vật tỳ, khi bề mặt
tỳ rộng thì chống cả hai khuỷu tay lên bề mặt của vật tỳ để bắn cho vững chắc.
1.2.3. Động tác đứng bắn.
1.2.3.1.Trường hợp vận dụng
12

Trong chiến đấu thường vận dụng ở địa hình có vật che khuất, che đỡ cao ngang
tầm ngực.
Người đứng bắn vừa được vật che khuất bảo vệ, vừa quan sát được địch
Trong huấn luyện, bắn theo điều kiện giáo trình hoặc khẩu lệnh của người chỉ
huy.
1.2.3.2. Động tác
a) Động tác đứng bắn không có vật tỳ
* Động tác chuẩn bị bắn
- Khẩu lệnh: “Đứng chuẩn bị bắn”
- Động tác
+ Chuẩn bị tư thế: Khi nghe dứt khẩu lệnh, quay người về hướng mục tiêu, tay
phải nắm ốp lót tay đưa súng về tư thế xách súng.
Nắm tay đặt ngang lưng, nòng súng hướng lên trên về trước hợp với thân người
một góc khoảng 450 (thực hiện 2 cử động)
Cử động 1: Chân trái bước lên một bước rộng bằng vai, bàn chân nằm trên trục
hướng bắn, mũi bàn chân chếch sang phải một góc khoảng 300 so với trục hướng bắn.
Cử động 2: Chân phải dùng mũi bàn chân làm trụ, xoay gót lên sao cho bàn chân
hợp với hướng bắn một góc khoảng 900, đồng thời tay phải đưa súng về trước, tay trái
đỡ lấy thân súng (khoảng dưới thước ngắm), trọng lượng người rơi đều vào hai chân.
+ Chuẩn bị súng đạn:
Như động tác nằm bắn chỉ khác: Đặt đế báng súng tựa sát vào sườn bên phải,
miệng nòng súng cao ngang ngực.
* Động tác bắn
- Khẩu lệnh: “Bắn”.
- Động tác: thứ tự động tác bắn như nằm bắn chỉ khác động tác giương súng
+ Tay trái nắm ốp lót tay hoặc HTĐ, tay phải nắm tay cầm. Kết hợp hai tay nâng
súng lên tỳ đế báng súng vào hõm vai phải, cánh tay trên của tay trái khép lại và tỳ sát
vào bắp thịt ngực trái để giữ súng đỡ bị rung, cánh tay phải mở tự nhiên. Hai tay giữ
súng chắc và ghì súng chắc vào vai.
+ Nhìn qua đường ngắm, nếu thấy súng bị lệch về hướng thì dịch chuyển bàn
chân trái qua phải hoặc trái để điều chỉnh cho đúng hướng, không dùng cánh tay để
điều chỉnh hướng súng.
* Động tác thôi bắn: Cơ bản như động tác thôi bắn ở tư thế quỳ bắn, chỉ khác:
- Thôi bắn tạm thời: hai tay đưa súng về tư thế chuẩn bị bắn, đế báng súng tỳ sát
vào sườn phải.
- Thôi bắn hoàn toàn:
13

+ Khẩu lệnh: “Thôi bắn, khám súng”


+ Động tác về tư thế đứng nghiêm (thực hiện 2 cử động):
Cử động 1: Tay phải nắm ốp lót tay đưa súng về thành tư thế xách súng, chân
trái lấy gót bàn chân làm trụ xoay mũi bàn chân sang trái một góc khoảng 600.
Cử động 2: Chân phải đưa lên đặt sát gót chân trái thành tư thế đứng nghiêm.
b) Động tác đứng bắn có vật tỳ
Thứ tự khẩu lệnh, động tác cơ bản giống như động tác đứng bắn không có vật tỳ
chỉ khác căn cứ vào vật tỳ để vận dụng động tác đứng bắn cho phù hợp.
* Trường hợp vật tỳ có độ cao vừa phải thì chân trái ở phía trước, tựa sườn trái
vào thành vật tỳ, chân phải duỗi thẳng về sau hoặc thực hiện động tác đứng như đứng
bắn không tỳ.
* Trường hợp vật tỳ cao, hai chân mở rộng bằng vai, ngực tựa vào thành vật tỳ
sao cho bụng và ngực áp sát vào thành vật tỳ.
* Khi giương súng, nếu bề mặt vật tỳ hẹp thì chống khuỷu tay trái lên bề mặt vật
tỳ, đặt mu bàn tay lên vật tỳ; cánh tay phải mở tự nhiên.
Nếu bề mặt vật tỳ có bề rộng thì có thể chống cả hai khuỷu tay lên vật tỳ để bắn
cho chắc chắn.
1.3. Tập ngắm bia chỉ đỏ, ngắm chụm, ngắm trúng chụm
1.3.1. Ý nghĩa, đặc điểm, yêu cầu
1.3.1.1. Ý nghĩa
Tập ngắm bia chỉ đỏ, ngắm trúng, ngắm chụm là bài tập đầu tiên trong hệ thống
các bài tập bắn súng BB, nhằm giúp người bắn bước đầu làm quen với các thao tác
ngắm bắn, biết vận dụng những kiến thức về lý thuyết ngắm bắn vào một bài tập cụ
thể trong điều kiện mục tiêu nhỏ, cự ly gần.
Việc rèn luyện kỹ năng ngắm bia chỉ đỏ, ngắm chụm, trúng sẽ giúp người học
phân biệt được ngắm đúng, ngắm sai, từng bước nâng dần trình độ ngắm nhanh, ngắm
chính xác làm cơ sở cho luyện tập các bài bắn đạt kết quả tốt.
Vì vậy muốn trở thành người bắn tốt trước tiên phải rèn luyện tốt năng lực ngắm
bia chỉ đỏ, ngắm chụm, ngắm trúng.
1.3.1.2. Đặc điểm
- Mục tiêu bố trí cự ly gần (cách người tập 10m) nhưng tròn, nhỏ (đường kính
2,5cm) do vậy người tập khó xác định đường ngắm đúng, chính xác.
- Người tập lần đầu tiên làm quen với ngắm bắn nên không tránh khỏi những ngỡ
ngàng, lúng túng.
- Người tập phải tập trung làm việc liên tục đòi hỏi phải chính xác, tỉ mỉ nên dễ
căng thẳng mệt mỏi.
14

- Điều kiện bài tập đặt ra nếu người tập không thực hiện đúng các yếu lĩnh, động
tác thì không thể hoàn thành nhiệm vụ tập.
1.3.1.3. Yêu cầu
- Thực hiện các yếu lĩnh ngắm một cách chính xác.
- Các lần ngắm phải có tính thống nhất cao
- Thận trọng, tỉ mỉ, nhẹ nhàng, khéo léo, phấn đấu đạt khá, giỏi.
1.3.2. Tập ngắm bia chỉ đỏ
1.3.2.1. Công tác chuẩn bị
- Bảng bia chỉ đỏ: mặt bảng 20cm x 30cm; cán cao 55cm x 3cm x 3cm.
- Bia chỉ đỏ: gồm 01 tờ giấy khổ 20cm x 30cm. Trên tờ giấy kẻ 1 đường ngang
màu đỏ dài 25cm, rộng 2cm. Trên chính giữa đường ngang vẽ 1 tam giác đều màu đỏ
có cạnh dài 4 cm.
- Bệ bắn; bao cát; Súng AK; Kẹp, sổ ghi.

Dài 25 cm,
rộng 2cm,
Cạnh dài màu đỏ
4 cm

Hình 1.9: Bảng bia chỉ đỏ


1.3.2.2. Động tác
- Người phục vụ
Bố trí bia chỉ đỏ cách bệ bắn 10m, bia cao hơn mặt đất 30cm được tính từ tâm;
kẹp bia chỉ đỏ vào bảng sao cho đỉnh tam giác ở bia chỉ đỏ sau đó ngồi xuống bên trái
(phải) bảng, mặt quay về phía người tập.
- Người tập
Thực hiện động tác nằm bắn (như động tác nằm bắn cơ bản), lấy súng tháo HTĐ
đặt phần cửa lắp HTĐ lên bao cát cho chắc chắn, khi ngắm có thể đặt mũ để tì cằm lên
hoặc dùng tay chống cằm cho đầu ổn định.
Lấy đường ngắm vào bia chỉ đỏ, khi điều chỉnh đưa đường ngắm cơ bản gióng
vào chính giữa đỉnh tam giác giao với đường ngang màu đỏ thì hô “Được” đứng dậy
qua phải (trái) 1 đến 2 bước. GV hoặc người bắn giỏi nằm xuống sau súng để kiểm tra.
- Người kiểm tra đến kiểm tra đường ngắm của người tập. Xác định kết quả lần
ngắm của người tập; đường ngắm đúng là đường ngắm trùng với đỉnh tam giác đều
15

màu đỏ ngược; nếu sai thì phải dùng mô hình đầu ngắm, khe ngắm và bia chỉ đỏ để chỉ
rõ độ sai lệch cho người tập biết và lưu kết quả vào sổ.
- Sau khi người kiểm tra đã đánh giá xong; người tập lại nằm xuống sau súng
ngắm lại 2 đến 3 lần. Các lần ngắm tiếp theo thứ tự, phương pháp của người tập, người
phục vụ, người kiểm tra như lần 1.
1.3.3. Tập ngắm chụm
1.3.3.1. Công tác chuẩn bị
- Bảng ngắm chụm: mặt bẳng kích thước 20cm x 30cm; cọc gỗ (cán bảng) 55cm
x 3cm x 3cm.
- Bia đồng tiền di động
- Bút chì đen - Thước mm
- Giấy trắng (giấy A4); Kẹp giấy
- Súng AK; Bệ bắn + bao cát

2,

Hình 1.10: Bia đồng tiền

1.3.3.2. Động tác


Căn cứ vào quân số tập, tổ chức luyện tập theo từng cặp (1 người tập, 1 người
phục vụ tập). Động tác luyện tập cụ thể như sau:
- Người phục vụ
+ Cắm bảng ngắm chụm (đã kẹp giấy trắng) cách bệ bắn 10m cao hơn mặt đất
30cm (được tính từ tâm bảng), sau đó ngồi bên trái (phải) bảng (theo hướng của người
tập) mặt quay về hướng người tập. Tay phải cầm bút chì, tay trái cầm đồng tiền di
động đặt cố định vào bảng (mặt có vòng tròn đen quay về phía người tập). Có thể dùng
kẹp để kẹp cố định đồng tiền di động vào bảng để cho người tập lấy đường ngắm.
- Người tập
+ Tháo HTĐ của súng ra, đặt súng lên bao cát, sau đó chuyển về nằm phía sau
súng và thực hành lấy đường ngắm cơ bản vào chính giữa mép dưới vòng tròn đen của
bia đồng tiền đã được cố định ở trên bảng.
16

+ Động tác cụ thể: Người tập có thể đặt mũ cứng để tỳ cằm hoặc dùng tay chống
cằm cho đầu ổn định để ngắm, vừa ngắm vừa điều chỉnh súng để có đường ngắm
chính xác. Khi ngắm thấy được thì hô “Được” và giữ nguyên đường ngắm (không
động vào súng).
- Người phục vụ thấy người tập hô “Được” thì dùng bút chì chấm điểm thứ nhất
vào bảng ngắm chụm qua lỗ ở tâm vòng tròn đen của đồng tiền di động. Sau đó
chuyển đồng tiền di động sang vị trí khác có thể sang phải (trái), lên trên hoặc xuống
dưới, cách chỗ cũ khoảng 2  3cm, không nên đặt đồng tiền xa quá làm cho người tập
mất nhiều thời gian điều chỉnh.
- Người tập ngắm lần tiếp theo không động vào súng, ngắm qua đường ngắm
ban đầu và điều khiển người phục vụ di chuyển đồng tiền về vị trí đường ngắm đúng.
Cách điều chỉnh có thể điều chỉnh bắng khẩu lệnh “Trái”, “Phải”, “Lên”, “Xuống”
hoặc dùng tay để ra ký hiệu cho người phục vụ biết.
Khi thấy đồng tiền di động đã về đúng vị trí ban đầu (đường ngắm đúng) thì hô
“Được” hoặc ký hiệu cho người phục vụ dừng bia đồng tiền.
- Người phục vụ khi nghe người tập hô “Được” hoặc nhìn thấy ký hiệu tay của
người tập thì dừng bia đồng tiền di động, chấm điểm thứ hai.
Cứ như vậy, người tập và người phục vụ tập luyện và chấm điểm thứ 3. Căn cứ
vào kết quả của ba lần tập, người phục vụ đánh giá kết quả của người tập. Dùng 3
vòng tròn trên bia đồng tiền để đánh giá.
+ Giỏi: 3 điểm bút chì chấm nằm trong vòng tròn đường kính 2mm.
+ Khá: 3 điểm bút chì chấm nằm trong vòng tròn đường kính 5mm.
+ Đạt: 3 điểm bút chì chấm nằm trong vòng tròn đường kính 10mm.
- Xác định kết quả của người tập qua 3 lần tập
+ Giỏi: các lần tập đều đạt yêu cầu, có 50% số lần tập đạt giỏi;
+ Khá: các lần tập đều đạt yêu cầu, có 50% số lần tập đạt khá, giỏi;
+ Đạt: các lần tập đều đạt yêu cầu.
1.3.4. Tập ngắm trúng, chụm
1.3.4.1. Công tác chuẩn bị
- Bảng ngắm chụm: mặt bảng kích thước 20cm x 30cm; cọc gỗ (cán bảng) 55cm
x 3cm x 3cm.
- Bia đồng tiền
- Bút chì đen
- Thước mm
- Giấy trắng
- Kẹp bướm
17

- Sổ ghi
- Súng AK
- Bệ bắn + bao cát
1.3.4.2. Động tác
Sau khi người tập ngắm chụm đạt từ khá trở lên mới tổ chức tập ngắm trúng,
chụm.
Trước khi tổ chức cho tập ngắm trúng, chụm; giáo viên hoặc người ngắm bắn
giỏi lấy đường ngắn chuẩn vào bia đồng tiền di động. Người phục vụ chấm bút chì qua
lỗ ở tâm vòng tròn đen của đồng tiền di động lấy điểm đó là điểm kiểm tra.
Giữ nguyên đường ngắm (không động vào súng). Người tập phối hợp với người
phục vụ tập ngắm đủ 3 lần (động tác như khi ngắm chụm). Căn cứ vào 3 điểm chấm
trên bảng, người phục vụ đánh giá kết quả ngắm trúng, chụm của người tập; xác định
độ chụm đạt yêu cầu trở lên mới xác định độ trúng.
- Xác định độ chụm (như khi ngắm chụm)
- Xác định độ trúng
+ Tìm điểm chấm trung bình (ĐCTB) của 3 điểm chấm: Nối 2 điểm chấm gần
nhất. Từ chính giữa đoạn thẳng đã nối, kẻ 1 đường thẳng tới điểm chấm thứ ba. Chia
đoạn thẳng vừa kẻ thành 3 phần bằng nhau, tại điểm 1/3 phía gần với đoạn thẳng nối 2
điểm chấm chính là ĐCTB của 3 điểm chấm.
+ Dùng thước mm đo khoảng cách từ ĐCTB tới điểm K để đánh giá độ trúng.
Giỏi: ĐCTB cách điểm K 5mm trở lại
Khá: ĐCTB cách điểm K 10mm trở lại
Đạt: ĐCTB cách điểm K 15mm trở lại
- Đánh giá kết quả trúng, chụm
Giỏi: Cả độ trúng và độ chụm đều giỏi
Khá: Cả độ trúng và độ chụm đều khá, giỏi
Đạt: Cả độ trúng và độ chụm đều đạt yêu cầu.
- Từng người tập xong, người phục vụ khoanh 3 điểm chấm lại và ghi tên người
tập ở bên cạnh để có cơ sở nhận xét và theo dõi kết quả luyện tập của từng người.
1.4. Giới thiệu điều kiện bắn súng Tiểu liên AK bài 1
1.4.1. Ý nghĩa, đặc điểm, yêu cầu
1.4.1.1. Ý nghĩa
Bài 1 súng tiểu liên AK là bài bắn cơ bản đầu tiên nhằm rèn luyện khả năng bắn
trúng, chụm vào các mục tiêu ẩn hiện có vòng tính điểm ở các tư thế bắn khác nhau.
Tập và bắn tốt bài bắn sẽ góp phần hình thành và nâng cao kỹ năng chiến đấu,
thể lực, bản lĩnh, ý thức tác chiến. Đồng thời tạo cơ sở, niềm tin cho người học khi
18

luyện tập các bài bắn tiếp theo cũng như vận dụng vào quá trình huấn luyện và chiến
đấu sau này.
1.4.1.2. Đặc điểm
a) Đặc điểm bài bắn
Bắn bài 1 súng tiểu liên AK là bài bắn đầu tiên của người học nhằm trang bị
những kỹ thuật, động tác cơ bản nhất khi bắn súng nên đòi hỏi người bắn phải nắm
chắc và luyện tập tích cực mới hoàn thành nhiệm vụ của bài bắn.
b) Đặc điểm mục tiêu
Mục tiêu bố trí ẩn hiện nên đòi hỏi người bắn phải quan sát phát hiện mục tiêu
nhanh. Đồng thời các mục tiêu có vòng tính điểm nên để đạt được điểm cao đòi hỏi
các phát bắn có độ trúng, chụm tốt.
c) Đặc điểm người bắn
Người bắn thực hành bắn trong điều kiện thời gian hạn chế, nằm bắn có tì thuận
lợi hơn các tư thế bắn không tì (có sự rung động của súng lớn ảnh hưởng tới khả năng
giữ súng nên sự chính xác của phát bắn khó đạt kết quả cao).
1.4.1.3.Yêu cầu
- Nắm chắc điều kiện bắn, cách chọn thước ngắm, điểm ngắm, cách thực hành
tập bắn.
- Tích cực luyện tập từng bước nâng cao kỹ thuật, động tác cơ bản chính xác, ổn
định.
- Kết hợp chặt chẽ giữa rèn luyện kỹ thuật với thể lực và bản lĩnh, tâm lý của
người bắn.
1.4.2. Điều kiện bắn
1.4.2.1. Mục tiêu
a) Mục tiêu 1: bia số 4
Tính chất mục tiêu: ẩn hiện; Cự li bắn 100m; Tư thế bắn: nằm bắn có tì
b) Mục tiêu 2: bia số 7
Tính chất mục tiêu: ẩn hiện; Cự li bắn 100m; Tư thế bắn: quỳ bắn không tì
c) Mục tiêu 3: bia số 8
Tính chất mục tiêu: ẩn hiện; Cự li bắn 100m; Tư thế bắn: đứng bắn không tì
1.4.2.2. Số đạn
9 viên (lắp vào 3 HTĐ, mỗi HTĐ lắp 3 viên)
1.4.2.3. Thành tích
- Giỏi: Từ 72 điểm trở lên
- Khá: Từ 59 ÷ 71 điểm
- Trung bình: Từ 45 ÷ 58 điểm
19

Chú ý: Thời gian bắn: mỗi tư thế 60 giây (không tính thời gian chuẩn bị bắn)
Thời gian được tính từ khi kết thúc khẩu lệnh bắn
Khi hết thời gian bắn quy định, người chỉ huy phải ra lệnh thôi bắn
Được phép lợi dụng bao đựng HTĐ, dây súng

ĐIỀU KIỆN BẮN

Bia số 4
Hiện 60s

75
75

100 m

Tuyến bắn
Nằm bắn có tỳ
20 m
Tuyến xuất phát

Số đạn: 3 viên (lắp vào 1 HTĐ)


Thành tích: Xuất sắc: Từ 28 - 30 điểm; Giỏi: Từ 25 - 27 điểm
Khá: Từ 20 - 24 điểm; Trung bình khá: Từ 17 - 19 điểm
Trung bình: 15 - 16 điểm; Kém: Dưới 15 điểm
Thời gian bắn: 05 phút (không tính thời gian chuẩn bị bắn)
Chú ý: - Thời gian được tính từ khi kết thúc khẩu lệnh bắn
- Khi hết thời gian bắn quy định, người chỉ huy phải ra lệnh thôi bắn
- Được phép lợi dụng bao đựng HTĐ, dây súng

Hình 1.11: Sơ đồ tuyến bắn bài 1 súng AK tư thế nằm bắn có tì


20

1.4.3. Thực hành chọn thước ngắm, điểm ngắm


1.4.3.1. Chọn thước ngắm 1
Độ cao đường đạn ở cự li 100m bằng 0 (Ngắm bắn vào đâu thì điểm chạm của
đạn sẽ trúng vào vị trí đó),
Như vậy nếu chọn thước ngắm 1, điểm ngắm yêu cầu đúng vào tâm vòng 10, ở
cự ly 100m khi ngắm vào tâm bia rất khó vì bia đặt ở cự ly này nhìn qua khe ngắm rất
nhỏ.
1.4.3.2. Chọn thước ngắm 2
Độ cao đường đạn ở cự li 100m là 12cm (AK), 10cm (AKM).
Ngắm bắn bia số 4: Điểm ngắm yêu cầu thấp hơn tâm vòng 10 là 12cm (AK),
10cm (AKM) thì đạn sẽ trúng tâm vòng 10.
Nếu chọn thước ngắm 2 thì việc xác định điểm ngắm trên bia cũng sẽ rất khó
1.4.3.3. Chọn thước ngắm 3
Độ cao đường đạn ở cự li 100m là 28cm (AK), 25cm (AKM)
Ngắm bắn bia số 4: Điểm ngắm thấp hơn tâm vòng 10 là 28cm (AK), 25cm
(AKM). Tương ứng với chính giữa mép dưới của bia.
Như vậy khi ngắm bắn bia số 4 ở cự ly 100m nếu chọn thước ngắm 3, điểm
ngắm đặt vào chính giữa mép dưới của bia sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn.
* Kết luận: Chọn thước ngắm lớn hơn cự li bắn.
1.4.4. Cách thực hành bắn
1.4.4.1. Tại vị trí chờ đợi
Khi nghe gọi tên, người bắn đáp “Có” có lệnh “Vào nhận đạn” người bắn đáp
“Rõ” rồi cơ động vào vị trí phát đạn, nhận đủ 3 viên đạn, kiểm tra số lượng, chất lượng
đạn, ký nhận vào biên bản phát đạn và cơ động lên vị trí chuẩn bị.
1.4.4.2. Tại vị trí chuẩn bị
Người bắn lắp đạn vào 01 HTĐ, cất HTĐ có đạn vào túi đựng HTĐ, kiểm tra
lại công tác chuẩn bị và việc mang đeo trang phục, trang bị. Có khẩu lệnh “Lên tuyến
xuất phát - Tiến” người bắn cơ động lên tuyến xuất phát.
1.4.4.3. Tại tuyến xuất phát
Người bắn lấy súng trên giá (người bắn đầu) hoặc nhận súng của người bắn
trước, có lệnh “Lên tuyến bắn - Tiến” người bắn xách súng cơ động lên tuyến bắn.
1.4.4.4. Tại tuyến bắn
Có khẩu lệnh “Nằm chuẩn bị bắn” người bắn làm động tác nằm chuẩn bị bắn
(Lắp HTĐ có đạn vào súng, lên đạn, khoá an toàn và kiểm tra lại thước ngắm).
21

Có khẩu lệnh “Bắn” (bia số 4 hiện) người bắn gạt cần định cách bắn về vị trí bắn
phát 1 và thực hành bắn 3 phát vào mục tiêu bia số 4. Bắn hết 3 viên đạn hoặc hết thời
gian (mục tiêu ẩn), nằm đợi đến khi có khẩu lệnh “Thôi bắn, khám súng - Đứng dậy”
người bắn làm động tác khám súng, đứng dậy, đưa súng về tư thế mang súng, sau đó
quan sát kết quả báo bia.
Có khẩu lệnh “Đằng sau - Quay”, “Về tuyến xuất phát - Chạy thường - Chạy”,
người bắn làm động tác quay đằng sau, xách súng cơ động về tuyến xuất phát đứng đối
diện với người bắn tiếp theo; nghe thư ký thông báo số điểm, chỉ huy bắn nhận xét đợt
bắn và công bố thành tích.
Có lệnh “Trao súng” thì thực hiện động tác trao súng hoặc cất súng vào giá súng
theo lệnh của chỉ huy bắn.
Có khẩu lệnh “Bên phải (trái)- Quay” người bắn làm động tác quay bên phải
(trái) cơ động về bàn thư ký nghe công bố kết quả điểm, ký nhận vào biên bản sau đó
về vị trí thực hiện các nhiệm vụ theo kế hoạch của đơn vị.

1.5. Kết luận


Kỹ thuật bắn súng tiểu liên AK là nội dung cơ bản ban đầu, có vị trí vai trò quan
trọng trong việc bước đầu hình thành kỹ năng sử dụng vũ khí cho người học. Vì vậy
nắm chắc nội dung, tổ chức, phương pháp huấn luyện là cơ sở để vận dụng linh hoạt
vào huấn luyện phù hợp với đặc điểm đối tượng và đặc thù của từng đơn vị.
22

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Tại sao phải ngắm bắn?


2. Đường ngắm cơ bản là gì? Thế nào là đường ngắm đúng?
3. Ảnh hưởng của ngắm sai đối với bắn trúng như thế nào?
4. Động tác lắp đạn và tháo đạn súng AK.
5. So sánh sự giống và khác nhau giữa động tác nằm bắn không tì với nằm bắn có tì
súng AK.
6. Muốn bắn trúng, chụm, bắn trúng liên thanh khi bắn súng tiểu liên AK cần những
yếu tố nào?
7. Nêu cách chọn thước ngắm, điểm ngắm khi thực hành bắn vào mục tiêu bia số 4 cự
li 100m.
8.Trình bày điều kiện bắn khi bắn súng tiểu liên AK.
9.Tại sao khi bắn mục tiêu bia số 4, cự li 100m lấy thước ngắm 3, ngắm chính giữa
mép dưới mục tiêu, đạn vẫn trúng vào tâm mục tiêu (vòng 10).
10. Nêu ý nghĩa tập ngắm chụm và ngắm trúng.
11. Trình bày công tác chuẩn bị vật chất trước khi luyện tập một buổi ngắm chụm và
trúng cho một lớp học 40 - 50 sinh viên.
23

Bài 2: TÍNH NĂNG, CẤU TẠO VÀ CÁCH SỬ DỤNG MỘT SỐ LOẠI LỰU
ĐẠN THƯỜNG DÙNG. NÉM LỰU ĐẠN BÀI 1

Lựu đạn là vũ khí đánh gần, trang bị cho từng người trong chiến đấu. Lựu đạn
cấu tạo đơn giản, gọn nhẹ, sử dụng thuận tiện, có khả năng sát thương sinh lực và phá
huỷ phương tiện chiến đấu của địch.
Việc nắm vững tính năng, cấu tạo, kỹ chiến thuật và đặc biệt là việc sử dụng
thành thạo lựu đạn trong quá trình huấn luyện và chiến đấu có ý nghĩa hết sức quan
trọng.
Phạm vi bài giảng tập trung giới thiệu làm rõ nội dung, phương pháp huấn luyện
về binh khí lựu đạn F1, LĐ-01; động tác ném lựu đạn và tập ném lựu đạn bài 1b.
Căn cứ biên soạn bài giảng:
- Sách dạy sử dụng lựu đạn, Cục Quân huấn, BTTM, năm 2009;
- Giáo trình kiểm tra kỹ thuật chiến đấu bộ binh, Cục Quân huấn, BTTM, năm
2014;
- Giáo án huấn luyện kỹ thật chiến đấu bộ binh - Tập 4, Cục Quân huấn,
BTTM, năm 2013.
2.1. Binh khí lựu đạn F1, LĐ-01 Việt Nam
2.1.1. Lựu đạn F1 (như hình 2.1)
2.1.1.1. Tác dụng
Lựu đạn F1 được trang bị cho từng người trong chiến đấu, dùng để sát thương
sinh lực và phá huỷ các phương tiện chiến đấu của đối phương bằng các mảnh gang
vụn và áp lực khí thuốc.
2.1.1.2. Tính năng, số liệu kỹ thuật
- Khối lượng toàn bộ: 600g
- Khối lượng thuốc nổ: 60g
- Chiều cao lựu đạn :117mm
- Đường kính thân lựu đạn: 55mm
- Thời gian cháy chậm: 3 - 4 giây
- Bán kính sát thương: 20m

Hình 2.1: Lựu đạn F1


24

2.1.1.3. Cấu tạo lựu đạn


- Thân lựu đạn
+ Tác dụng: Liên kết các bộ phận, tạo thành
mảnh văng sát thương sinh lực địch.
+ Cấu tạo: Bằng gang có khía tạo thành múi,
bên trong rỗng để nhồi thuốc nổ.
Đầu có ren để liên kết bộ phận gây nổ.
- Thuốc nhồi
+ Tác dụng: Khi nổ tạo thành sức ép khí thuốc
phá vỡ vỏ lựu đạn thành những mãnh nhỏ,
tiêu diệt phá huỷ mục tiêu
+ Cấu tạo: Thuốc nhồi trong thân lựu đạn là
thuốc nổ TNT Hình 2.2: Lựu đạn F1 cắt bổ
- Bộ phận gây nổ
*Tác dụng: Để giữ an toàn và gây nổ lựu
đạn
* Cấu tạo (như hình 2.3):
+ Thân bộ phận gây nổ: Để chứa đầu cần
bẩy, kim hoả, lò xo kim hoả, chốt an toàn, phía
dưới có vòng ren để liên kết với thân lựu đạn.
+ Kim hoả và lò xo kim hoả: Để đập vào
hạt lửa phát lửa gây nổ kíp
+ Kíp
+ Hạt lửa
+ Thuốc cháy chậm
+ Cần bẩy (mỏ vịt)
+ Chốt an toàn, vòng kéo chốt an toàn
Hình 2.3: Bộ phận gây nổ
2.1.1.4. Chuyển động của lựu đạn
- Lúc bình thường
Chốt an toàn giữ không cho cần bẩy bật lên, cần bẩy giữ đuôi kim hỏa cho kim
hỏa không chọc vào hạt lửa.
- Khi ném lựu đạn
Rút chốt an toàn, đuôi cần bẩy bật lên đầu cần bẩy rời khỏi đuôi kim hoả, lò xo
kim hoả bung ra đẩy kim hoả chọc vào hạt lửa, hạt lửa phát lửa đốt cháy dây cháy
chậm, dây cháy chậm cháy từ 3 - 4 giây phụt lửa vào gây nổ kíp.
25

2.1.2. Lựu đạn LĐ - 01 (như hình 2.4)


2.1.2.1. Tác dụng
Dùng để sát thương sinh lực địch bằng uy lực của
thuốc nổ kết hợp với các mảnh văng.
2.1.2.2. Tính năng, số liệu kỹ thuật
- Trọng lượng toàn bộ: 365 - 400 gam
- Chiều cao toàn bộ: 88mm
- Đường kính thân lựu đạn: 57mm
- Sử dụng ngòi: NLĐ - 01 VN
- Trọng lượng thuốc nổ TΓ 40/60: 125 - 135 gam
- Thời gian cháy chậm: 3,2 - 4,2 giây
- Bán kính sát thương: 5 - 6m
Hình 2.4: Lựu đạn LĐ-01
2.1.2.3. Cấu tạo lựu đạn
a, Thân lựu đạn
- Tác dụng: Liên kết các bộ phận, khi nổ tạo thành mảnh văng sát thương sinh
lực địch.
- Cấu tạo: Vỏ bằng thép mỏng, gồm 2 nửa khối
hình cầu ghép và hàn lại với nhau, mặt ngoài trơn nhẵn,
sơn xanh ô lưu, mặt trong có khía để khi nổ tạo nhiều
mảnh văng, bên trong rỗng để nhồi thuốc nổ. Đầu có ren
để liên kết bộ phận gây nổ.
b, Thuốc nhồi
- Tác dụng: Khi nổ tạo thành sức ép khí thuốc
phá vỡ vỏ lựu đạn thành những mảnh nhỏ, tiêu diệt phá
huỷ mục tiêu
- Cấu tạo: Là hỗn hợp thuốc nổ được đúc theo tỷ Hình 2.5: LĐ-01 cắt bổ
lệ 40% TNT và 60% glyxeryl.
26

c, Bộ phận gây nổ
- Tác dụng: Để giữ an toàn và gây nổ lựu đạn
- Cấu tạo:
+ Thân bộ phận gây nổ: Để chứa đầu cần bẩy, kim hoả,
lò xo kim hoả, chốt an toàn, phía dưới có vòng ren để
liên kết với thân lựu đạn.
+ Cần bẩy
+ Kim hoả và lò xo kim hoả: Để đập vào hạt lửa phát
lửa gây nổ kíp.
Hình 2.6: Bộ phận gây nổ
+ Hạt lửa, liều giữ chậm và kíp
+ Chốt cài, chốt an toàn, vòng kéo chốt an toàn

2.1.2.4. Chuyển động


- Lúc bình thường kim hỏa nằm ngửa được mặt trên của cần mỏ vịt ép chặt. Mỏ
vịt được giữ chặt với thân ngòi bằng chốt an toàn, chốt cài, vòng kéo để giữ an toàn
trong quá trình bảo quản, vận chuyển.
- Khi rút chốt an toàn, cần bẩy bung ra, kim hỏa được giải phóng chọc vào hạt
lửa, hạt lửa phát lửa đốt cháy liều giữ chậm, liều giữ chậm cháy từ 3,2 - 4,2 giây lửa
phụt vào kíp gây nổ lựu đạn.
2.1.3. Kiểm tra, giữ gìn, chuẩn bị lựu đạn
2.1.3.1. Kiểm tra lựu đạn
- Trước khi sử dụng lựu đạn phải kiểm tra chất lượng, chủng loại, thời hạn dùng.
- Kiểm tra bộ phận gây nổ không bị han gỉ, bẹp méo, chốt an toàn chắc chắn, đúng
chủng loại và thời hạn sử dụng.
2.1.3.2. Giữ gìn lựu đạn
- Để nơi khô ráo, thoáng mát, tránh gần lửa và nơi ẩm ướt, tránh phơi ra nắng.
- Không để lựu đạn lẫn với các loại đạn, thuốc nổ, vật dễ cháy khác.
- Lựu đạn khi chưa dùng cấm mở phòng ẩm (giấy, bao ni lông hoặc hộp nhựa).
- Khi mang đeo lựu đạn phải đúng quy định mang đeo trang bị của bộ đội.
2.1.3.3. Chuẩn bị lựu đạn để ném
- Theo nhiệm vụ được giao hoặc mệnh lệnh của người chỉ huy, khi nhận lựu đạn
để sử dụng phải mở phòng ẩm (giấy, ni lông hoặc hộp nhựa) và kiểm tra theo quy định
ở điểm 1.
- Lắp bộ phận gây nổ vào lựu đạn: Xoay bộ phận gây nổ vào thân lựu đạn theo
chiều kim đồng hồ cho vừa, chặt là được.
27

2.2. Động tác ném lựu đạn


2.2.1. Đứng ném lựu đạn
2.2.1.1. Trường hợp vận dụng
Đứng ném lựu đạn thường được dùng trong trường hợp địch ở xa, địa hình có vật
che khuất, che đỡ cao, có thể đứng tại chỗ ném hoặc ném khi đang vận động.
2.2.1.2. Động tác
Người ném đang vận động hoặc đứng tại chỗ xách súng (nếu mang súng phải
chuyển về tư thế xách súng), khi nghe khẩu lệnh “ném”, đồng thời thực hiện 3 cử động
như sau:
- Cử động 1: Tay trái cầm súng (cầm khoảng dưới ốp che tay) xách súng lên
ngang tầm thắt lưng, mũi súng chếch lên trên.
Nếu có vật che khuất, che đỡ có thể dựa súng vào vật chắn bên trái phía trước,
mặt súng quay sang phải.
Tay phải lấy lựu đạn ra, bàn tay phải nắm lựu đạn (cần bẩy nằm trong lòng bàn
tay) vòng giật chốt an toàn quay sang trái, tay trái tháo chốt cài, bẻ thẳng chốt an toàn,
ngón trỏ móc vào vòng kéo, kết hợp lực giữ, kéo của hai tay rút chốt an toàn. Khi rút
chốt an toàn phải rút thẳng theo hướng trục lỗ.
- Cử động 2: Chân trái bước lên (hoặc chân phải lùi về sau) một bước dài, bàn
chân trái thẳng trục hướng ném, lấy mũi bàn chân trái và gót bàn chân phải làm trụ
xoay người sang phải (gót trái kiễng), người hơi cúi về phía trước gối trái khuỵu, chân
phải thẳng.
- Cử động 3: Tay phải đưa lựu đạn xuống dưới về sau để lấy đà, người ngả về
sau, chân trái thẳng, gối phải hơi chùng. Dùng sức vút của cánh tay phải, kết hợp sức
rướn của thân người, sức bật của chân phải để ném lựu đạn đi.
Khi cánh tay phải vung lựu đạn về phía trước một góc khoảng 45° (hợp với mặt
phẳng ngang), thì buông lựu đạn ra đồng thời xoay người đối diện với mục tiêu, tay
trái đưa súng về phía sau cho cân bằng. Chân phải theo đà bước lên một bước dài, tay
phải cầm súng tiếp tục tiến, bắn hoặc ném quả khác.
Chú ý:
+ Người ném thuận tay trái, dùng tay phải lấy lựu đạn ra, bàn tay trái nắm lựu
đạn, mỏ vịt nằm trong hộ khẩu tay sao cho vòng giật quay sang phải, tay phải tháo
chốt cài, bẻ chốt an toàn. Dùng ngón cái tay phải để rút chốt an toàn. Động tác ném
như tay phải.
+ Muốn ném được xa phải biết phối hợp sức bật của chân, sức rướn của thân
người, sức vút mạnh và đột nhiên của cánh tay.
28

+ Khi vung lựu đạn về phía trước, phải giữ cánh tay ở độ cong, độ chùng tự
nhiên (không thẳng hẳn cũng không cong quá) mới có sức vút mạnh, buông lựu đạn đi
phải đúng thời cơ, đúng góc ném, đúng hướng.
2.2.2. Quỳ ném lựu đạn
2.2.2.1. Trường hợp vận dụng
Khi ở gần địch và địa hình hạn chế (chiều cao vật che đỡ từ 60 - 80cm) vận dụng
tư thế quỳ ném lựu đạn.
2.2.2.2. Động tác
Người ném đang vận động hoặc đứng tại chỗ xách súng (nếu mang súng phải
chuyển về tư thế xách súng), khi nghe khẩu lệnh “ném” đồng thời thực hiện 3 cử động
như sau:
- Cử động 1: Tay phải xách súng, chân trái bước chếch sang phải một bước (gót
bàn chân trái cách mũi bàn chân phải khoảng 20 - 30cm), sao cho mép phải của bàn
chân trái thẳng với mép trái của bàn chân phải.
- Cử động 2: Chân phải dùng mũi bàn chân làm trụ xoay gót lên cho bàn chân
hợp với hướng ném một góc khoảng 90°, quỳ gối phải xuống đất theo hướng bàn chân
phải, mông bên phải ngồi lên gót bàn chân phải ống chân trái thẳng đứng, súng dựa
vào cánh tay trái, mặt súng quay vào phía thân người (nếu có khối chắn thì dựa súng
vào khối chắn, mặt súng quay sang phải). Tay phải lấy lựu đạn ra bàn tay phải cầm lựu
đạn (như động tác đứng ném).
- Cử động 3: Tay trái cầm súng, báng súng quay sang trái, nòng súng chếch lên
trên sang phải, tay trái tháo chốt cài, rút chốt an toàn, dùng mũi bàn chân làm trụ xoay
người về phía phải, hơi ngả về sau đồng thời gối phải theo đà xoay theo, mông hơi
nhổm lên. Tay phải đưa lựu đạn qua phải về phía sau để lấy đà, đồng thời dùng sức vút
của cánh tay phải, sức rướn của thân người và sức bật của đùi phải ném lựu đạn vào
mục tiêu.
2.2.3. Nằm ném lựu đạn
2.2.3.1. Trường hợp vận dụng
Khi gần địch và địa hình trống trải không có hoặc chiều cao vật che đỡ thấp (cao
không quá 40cm), thì vận dụng tư thế nằm ném.
2.2.3.2. Động tác
Người ném đang vận động hoặc đứng tại chỗ xách súng (nếu mang súng phải
chuyển về tư thế xách súng), khi nghe khẩu lệnh “ném” đồng thời thực hiện 3 cử động
như sau:
- Cử động 1: Tay phải xách súng, chân phải bước lên một bước dài theo hướng
bàn chân phải, chân trái dùng mũi bàn chân làm trụ xoay gót sang trái để người hướng
29

theo hướng bàn chân phải, chống bàn tay trái xuống đất trước mũi bàn chân phải
khoảng 20cm, mũi bàn tay hướng chếch về bên phải phía sau, thứ tự đặt cánh tay trái,
đùi trái xuống đất và nằm xuống.
- Cử động 2: Tay phải đặt súng sang bên phải, hộp tiếp đạn quay sang trái đầu
nòng súng hướng về phía mục tiêu, thân người hơi nghiêng sang trái, hai tay lấy lựu
đạn ra, tay phải cầm lựu đạn, tay trái tháo chốt cài, rút chốt an toàn.
- Cử động 3: Hai tay chống trước ngực, mũi bàn chân trái và đầu gối trái làm trụ
vừa nâng vừa đẩy người là là mặt đất về sau, cẳng chân trái để nguyên, chân phải duỗi
thẳng tự nhiên và lùi về sau tới khi gối trái thành thế co ngang thắt lưng.
Tay phải đưa lựu đạn sang phải về sau hết cỡ, tay trái đẩy nửa thân người phía
trên xoay theo, chân phải theo đà xoay theo, thân người hơi cong về sau, đồng thời
dùng sức vút của tay phải, sức bật của thân người và sức đẩy của chân trái ném lựu
đạn vào mục tiêu và nằm xuống, ném tiếp quả khác hoặc lấy súng tiếp tục bắn hoặc
tiến.
Chú ý: Khi ném phải kết hợp sức vút của tay và sức bật của người để ném lựu
đạn đi được xa, đồng thời chân phải xoay theo trục hướng ném để vừa lấy đà vừa giữ
cho lựu đạn đi đúng hướng. Không được quỳ gối lên rồi mới ném vì tư thế cao dễ bị
lộ.
2.3. Giới thiệu điều kiện ném lựu đạn bài 1B
2.3.1. Ý nghĩa, đặc điểm, yêu cầu
2.3.1.1. Ý nghĩa
Bài 1b tập ném lựu đạn xa trúng hướng là bài ném cơ bản rèn luyện cho người
học thể lực và kỹ thuật ném lựu đạn bằng các tư thế khác nhau.
Luyện tập và ném tốt bài ném này là cơ sở rèn luyện kỹ năng, thể lực cũng như
tâm lý nhằm vận dụng có hiệu quả vào luyện tập các bài ném sau khó hơn đồng thời
phục vụ cho huấn luyện và chiến đấu sau này.
2.3.1.2. Đặc điểm
Mục tiêu bố trí cố định trong điều kiện ban ngày thuận tiện cho người ném quan
sát phát hiện.
Khu vực mục tiêu có hạn chế về hướng vì vậy gây khó khăn cho người ném có
thể đạt được kết quả cao.
Đây là bài ném đầu tiên đòi hỏi người ném phải có thể lực tốt mới ném lựu đạn
được xa.
2.3.1.3. Yêu cầu
Nắm chắc điều kiện và cách thực hành ném.
Tích cực, tự giác luyện tập, biết phối hợp nhuần nhuyễn 3 kết hợp.
30

Rèn toàn diện cả về kỹ thuật, thể lực, tâm lý từng bước nâng cao kỹ năng thực
hành ném.
2.3.2. Điều kiện ném
2.3.2.1. Khu vực kiểm tra
Kẻ một đường trục hướng ném và hai đường thẳng song song với đường trục, ở
hai bên cách đường trục 4m.
Kẻ các đường ngang chia các đường thẳng dọc thành từng khoảng 5m (khoảng
đầu cách vị trí người ném 20m, đường ngang cuối cùng cách vị trí người ném 60m) và
cắm 1 bia số 10 ở đường ngang 45m trên trục hướng.
2.3.2.2. Cự ly
Từ 20m đến trên 60m
2.3.2.3. Tư thế ném
Đứng ném (tại chỗ) có súng.
2.3.2.4. Số lượng lựu đạn
03 quả lựu đạn LĐ-01- Tập hoặc lựu đạn LĐ-01-HL nổ nhiều lần có hình dáng
kích thước và trọng lượng như lựu đạn thật.
2.3.2.5. Đánh giá thành tích
Lấy thành tích cao nhất của 1 trong 3 quả để tính thành tích
- Giỏi: 35m trở lên
- Khá: 30m đến dưới 35m
- Trung bình : 25m dến dưới 30m
Chú ý:
- Lấy điểm rơi của lựu đạn để tính thành tích.
- Nếu lựu đạn lệch ra ngoài các đường trục dọc xếp loại kém.
31

Hình 2.7: Sơ đồ bãi ném lựu đạn xa, đúng hướng


32

2.3.3. Cách thực hành ném


- Tại tuyến chuẩn bị người ném kiểm tra lại mọi công tác chuẩn bị, khi có lệnh
“Vào tuyến ném” thì cơ động vào tuyến ném.
- Tại tuyến ném người ném chấp hành mọi mệnh lệnh của người chỉ huy, thực
hành ném 03 quả lựu đạn huấn luyện vào mục tiêu.
- Khi có lệnh “Về bàn thư ký” người ném cơ động về bàn thư ký nghe công bố
thành tích, ký xác nhận vào biên bản sau đó theo lệnh của thư ký thực hiện nhiệm vụ
tiếp theo.
2.3.4. Kết luận
Nắm chắc về binh khí lựu đạn thường dùng, cách sử dụng và tập ném tốt bài 1b
lựu đạn là nội dung cơ bản, có vị trí vai trò quan trọng trong việc bước đầu hình thành
kỹ năng sử dụng vũ khí cho người học. Vì vậy nắm chắc nội dung, tổ chức, phương
pháp huấn luyện là cơ sở để vận dụng linh hoạt vào huấn luyện phù hợp với đặc điểm
đối tượng và đặc thù của từng đơn vị .

CÂU HỎI ÔN TẬP

Câu 1.Trình bày tác dụng, tính năng, cấu tạo lựu đạn F1
Câu 2.Trình bày tác dụng, tính năng, cấu tạo lựu đạn LĐ-01
Câu 3. Nội dung công tác kiểm tra, giữ gìn, chuẩn bị lựu đạn để ném
Câu 4. Vừa nói vừa làm động tác đứng ném lựu đạn
Câu 5. Vừa nói vừa làm động tác quỳ ném lựu đạn
Câu 6. Vừa nói vừa làm động tác nằm ném lựu đạn
Câu 7. Cách đánh giá thành tích ném lựu đạn bài 1b (tư thế đứng ném có súng)
33

Bài 3: TỪNG NGƯỜI TRONG CHIẾN ĐẤU TIẾN CÔNG

3.1. Những vấn đề chung


3.1.1. Nhiệm vụ
Trong chiến đấu tiến công, từng người có thể tự mình hoặc cùng với tổ đánh
chiếm một số loại mục tiêu:
- Địch trong ụ súng, lô cốt, chiến hào, giao thông hào, căn nhà.
- Xe tăng, xe bọc thép của địch.
- Tên địch, tốp địch ngoài công sự.
Ngoài ra, sẵn sàng đảm nhận các nhiệm vụ khác cả trước, trong và sau chiến đấu.
3.1.2. Yêu cầu chiến thuật
- Bí mật, bất ngờ, tinh khôn, mưu mẹo.
- Dũng cảm linh hoạt, kịp thời.
- Biết phát hiện và lợi dụng sơ hở, hiểm yếu của địch, tiếp cận đến gần mục tiêu,
tiêu diệt địch.
- Độc lập chiến đấu, chủ động hiệp đồng, liên tục chiến đấu.
- Phát huy cao độ hiệu quả của VKTB, tiêu diệt địch tiết kiệm đạn dược.
- Đánh nhanh sục sạo kỹ vừa đánh vừa địch vận.
6 yêu cầu trên là một thể thống nhất, yêu cầu này làm tiền đề cho yêu cầu kia để
tạo nên trận chiến đấu thắng lợi, làm tốt yêu cầu trước mới tạo ra yêu cầu sau.
Phân tích yêu cầu 1
Ý nghĩa: Là yêu cầu cơ bản quan trọng trong quá trình chiến đấu, nó quyết định
đến trận đánh, là cách đánh nhằm tạo thế và lực, tương quan lực lượng trong chiến
đấu, từ thế bị động chuyển thành thế chủ động.
Nội dung
Bí mật bất ngờ áp sát mục tiêu nhằm dành thế chủ động, tạo thế và lực tương
quan lực lượng, tạo điều kiện cho trận chiến đấu. Nếu không bí mật bất ngờ thì ở thế bị
động, VKTB thô sơ việc chiến đấu sẽ vô cùng khó khăn, có thể không hoàn thành
nhiệm vụ.
Tinh khôn, mưu mẹo hình thành thế bao vây chia cắt không cho địch hỗ trợ chi
viện cho nhau trong chiến đấu, dẫn đến nhanh chóng tan dã, ta tiêu diệt địch, hoàn
thành nhiệm vụ.
Biện pháp
Phải xây dựng cho chiến sĩ có tinh thần táo bạo, mưu trí, dũng cảm, linh hoạt
trong mọi tình huống bình tĩnh xử trí kịp thời.
34

Huấn luyện kỹ chiến thuật điêu luyện đảm bảo yếu tố bí mật bất ngờ trong,
trước và sau trận chiến đấu.
3.2. Hành động của chiến sĩ sau khi nhận nhiệm vụ
3.2.1. Hiểu rõ nhiệm vụ
3.2.1.1. Nội dung hiểu rõ nhiệm vụ gồm:
+ Mục tiêu phải đánh chiếm:
Nắm chắc mục tiêu được phân công đánh chiếm là loại mục tiêu gì? Mục tiêu đó
là ụ súng, lô cốt, tên địch hoặc tốp địch…?
+ Vị trí và tính chất mục tiêu:
Vị trí hiện tại mục tiêu nằm ở đâu, ở trong hay ngoài công sự? Tính chất là loại
mục tiêu gì, là bộ binh hay xe tăng địch ?
+ Những mục tiêu khác có liên quan.
Khi đánh chiếm mục tiêu được phân công, sẽ có những mục tiêu nào khác của
địch có thể tác động ảnh hưởng trực tiếp đến việc hoàn thành nhiệm vụ?
Ví dụ khi đánh xe tăng sẽ vấp phải lực lượng bộ binh địch bảo vệ; hoặc khi đánh
một tên địch sẽ có những tên địch nào khác xuất hiện….
+ Nhiệm vụ của mình:
Khi chiến đấu mình sẽ hiệp đồng với ai, đánh chiếm mục tiêu cụ thể nào, quá
trình phát triển chiến đấu đến đâu? Sau khi đánh chiếm mục tiêu xong phải làm gì?
+ Cách đánh (thứ tự phương pháp tiêu diệt mục tiêu).
+ Ký tín, ám hiệu liên lạc và báo cáo.
+ Bạn có liên quan: bạn ở bên phải bên trái là ai, làm nhiệm vụ gì.
3.2.1.2. Phương pháp nhận nhiệm vụ:
Khi nhận nhiệm vụ, chiến sĩ phải kết hợp nhìn và nghe, nhận nhiệm vụ đầy đủ,
chính xác.
Nếu nội dung nào chưa rõ phải hỏi lại để người chỉ huy bổ sung cho đầy đủ.
Không nhận nhiệm vụ qua loa đại khái, chưa hiểu rõ ràng đã vội thực hiện.
3.2.2. Làm công tác chuẩn bị
+ Nội dung: Công tác chuẩn bị của từng người phải được tiến hành thường
xuyên, trong chiến đấu tiến công, nội dung làm công tác chuẩn bị của từng người gồm:
Xác định tư tưởng, ý chí quyết tâm chiến đấu, nhận bổ sung vũ khí, trang bị, bông
băng cá nhân, gói buộc lượng nổ...
+ Phương pháp
Khi làm công tác chuẩn bị phải căn cứ vào ý định của người chỉ huy, nhiệm vụ
được phân công, thời gian có thể tiến hành công tác chuẩn bị cho phù hợp, bảo đảm
nhanh, gọn, đầy đủ, chính xác
35

Sau khi hoàn thành công tác chuẩn bị phải kiểm tra lại công tác chuẩn bị như
súng, đạn, thủ pháo, thuốc nổ... những trang bị cần thiết cho chiến đấu, cách mang đeo
và báo cáo với người chỉ huy, quá trình làm công tác chuẩn bị phải hỗ trợ, giúp đỡ
đồng đội làm công tác chuẩn bị.
* Tình huống giả định
Thời gian tác chiến 04.45 ngày N; chiến sỹ số 2 tại chân điểm cao cách mục
tiêu (ụ súng số 1 khoảng 120m).
- Tình hình địch: tại sườn tây điểm cao 31 địch xây dựng 1 lô cốt, 3 nhà ngủ, 3
ụ súng tổ chức canh gác báo động không thành quy luật.
- Nhiệm vụ của tổ: Tổ BB1 có nhiệm vụ đánh chiếm toàn bộ sườn tây điểm cao
31, làm chủ bắt tù binh thu VKTB sẵn sàng nhận nhiệm vụ tiếp theo.
- Nhiệm vụ của chiến sỹ số 2: Đánh chiếm ụ súng số 1, lợi dụng sơ hở của địch
vận động vòng bên trái, vị trí tiếp cận cách ụ súng khoảng 7 - 10m, khi có lệnh nổ
súng dùng thủ pháo, lựu đạn ném vào bên trong khi thủ pháo lựu đạn nổ nhanh chóng
xung phong bắn găm, bắn gần tiêu diệt địch làm chủ mục tiêu, bắt liên lạc báo cáo tổ
trưởng tại phía tây ụ súng số 1.
- Kí, tín, án hiệu hiệp đồng
+ Nổ súng: Tiếng nổ lớn đỉnh điểm cao 31.
+ Nhận nhau, liên lạc bằng vỗ báng súng (Hỏi 2 đáp 3).
- Thời gian hoàn thành công tác chuẩn bị: Trước 04.30 phút ngày N.
* Bàn cách xử trí, kết luận
+ Bàn cách xử trí: Trình bày nội dung cần chuẩn bị
Thực hành làm công tác chuẩn bị chiến đấu.
Nêu câu hỏi gợi ý, lấy tinh thần xung phong hoặc chỉ định 1 - 2 sinh viên trên
cương vị chiến sỹ số 2 thực hiện nội dung trên.
+ Kết luận:
- Tình hình địch: Tổ chức xây dựng công sự vật cản, chủ quan trong canh
phòng tạo điều kiện thuận lợi cho ta áp sát mục tiêu.
- Chiến sĩ số 2: Đã hoàn thành công tác chuẩn bị, bảo đảm bí mật có mặt tại
thực địa cách ụ súng số 2 khoảng 120m, sẵn sàng nhận nhiệm vụ.
- Hành động cụ thể: Nhận nhiệm vụ từ tổ trưởng mục tiêu đánh chiếm: ụ súng
số 1, vị trí sườn tây điểm cao 31, cách vị trí nhận nhiệm vụ khoảng 120m, chếch về
bên phải 15m là ụ súng số 3, bên trái 25m là ụ súng số 4, phía đỉnh là lô cốt số 1.
+ Có nhiệm vụ: Hiệp đồng với số 1, số 3 và số 4 đánh chiếm các mục tiêu được
phân công, khi làm chủ mục tiêu củng cố ụ súng, lô cốt cảnh giới các hướng theo phân
công sẵn sàng nhận nhiệm vụ tiếp theo.
36

+ Cách đánh: Bí mật vận động áp sát phía sau bên sườn, khi có lệnh dùng thủ
pháo, lựu đạn ném vào bên trong ụ súng, lô cốt khi thủ pháo, lựu đạn nổ nhanh chóng
xung phong bắn găm, bắn gần tiêu diệt địch. Báo cáo tổ trưởng tại phía tây ụ súng số
2, ký tín ám hiệu (vỗ báng súng hỏi 2 đáp 3).
+ Bạn có liên quan: Cùng chiến đấu bên phải là số 3, bên trái là số 4 tiêu diệt địch
tại ụ súng số 3,4.
* Tổ chức luyện tập
Giới thiệu và làm động tác mẫu trên cương vị là chiến sỹ thực hiện nội dung
nhận nhiệm vụ
Cử các sinh viên luân phiên nhau thực hành động tác, nhận xét người tập.
Giảng viên kết luận
* Nhận xét, chuyển nội dung
- Ưu điểm:
- Nhược điểm:
- Phương hướng yêu cầu các buổi học sau.
3.3. Thực hành chiến đấu
3.3.1. Vận động đến gần địch
3.3.1.1. Trước khi vận động
Phải quan sát tình hình địch, tình hình ta, xem xét địa hình, thời tiết cụ thể trong
phạm vi chiến đấu để chọn đường tiến (đường vận động), vận động theo đường nào,
đến đâu, thời cơ động tác vận động trong từng đoạn, vị trí tạm dừng và cách nghi binh
lừa địch
3.3.1.2. Khi vận động
Phải luôn quan sát, nắm chắc tình hình địch, triệt để lợi dụng địa hình, địa vật,
thời tiết, ánh sáng, tiếng động... để vận dụng các tư thế động tác vận động cho phù
hợp, bảo đảm mọi hành động nhanh, bí mật, an toàn, đến vị trí đúng thời gian quy
định.
Quá trình vận động phải giữ vững đường tiến, sẵn sàng chiến đấu, tìm mọi cách
để đến sát mục tiêu được phân công.
Khi đến đúng vị trí đã quy định phải nhanh chóng chuẩn bị súng đạn, lựu đạn,
pháo tay... quan sát nắm tình hình địch, hành động của đồng đội và sẵn sàng tiêu diệt
mục tiêu, nắm vững thời cơ để xung phong tiêu diệt địch, chiếm mục tiêu.
3.3.2. Cách đánh từng loại mục tiêu
3.3.2.1. Đánh địch trong ụ súng, lô cốt.
a) Đặc điểm mục tiêu:
37

- Ụ súng của địch có nắp hoặc không có nắp, thường làm bằng gỗ, đất, hoặc bê
tông cốt thép lắp ghép; cấu trúc theo kiểu nửa chìm, nửa nổi có các lỗ bắn ra các
hướng, cửa ra vào quay vào phía trong, xung quanh và phía trên nắp thường xếp bao
cát, rào chắn đạn B40, B41.
Nối liền các ụ súng với nhau thường bằng tường đất hoặc bằng các hào sâu; bên
cạnh ụ súng có các hố bắn.
Ụ súng thường được bố trí trên địa hình có lợi để chi viện hỗ trợ cho nhau trong
quá trình chiến đấu, được ngụy trang kín đáo khó phát hiện.
- Lô cốt là mục tiêu được xây dựng kiên cố vững chắc bằng bê tông cốt thép,
gạch đá, có nhiều ngăn, nửa nổi, nửa chìm. Phần nổi có thể một hoặc hai tầng, cấu trúc
theo kiểu hình lăng trụ (thường có 5 - 8 cạnh), các hướng đều bố trí các lỗ bắn bố trí
độ cao thấp khác nhau.
Bên ngoài và trên nắp thường xếp các bao cát hoặc đắp đất, có thể có dây thép
gai trùm lên trên hoặc dùng lưới chống đạn B40, B41 vây xung quanh.
Bên trong lô cốt xây bậc cao thấp theo các lỗ bắn, lô cốt lớn có thể chia làm 2
hoặc 3 ngăn. Cửa lô cốt thường chìm và nối với các đường hào nổi hoặc hào ngầm.
Khi chưa bị tiến công, địch ở bên trong ụ súng, lô cốt kết hợp dùng mắt thường
và các phương tiện như ống nhòm, kính nhìn đêm để quan sát, phát hiện đối phương.
Khi bị tiến công, địch lợi dụng ụ súng, lô cốt dùng hỏa lực bắn mạnh để ngăn
chặn ta từ xa đến gần.
Khi có nguy cơ bị tiêu diệt, địch lợi dụng ụ súng, lô cốt để cố thủ chờ lực lượng
đến chi viện, phối hợp cùng phản kích hoặc rút chạy về phía sau hay gọi trực thăng vũ
trang tới bốc quân
b) Cách đánh:
Trước khi đánh phải quan sát xác định loại mục tiêu gì (ụ súng hay lô cốt, cấu
trúc tính vững chắc). Xác định hoạt động của địch bên trong ụ súng, lô cốt và hoạt
động của địch xung quanh.
Xem xét địa hình để tìm ra chỗ sơ hở, hiểm yếu của địch để có thể tiếp cận và tìm
cách đánh cho phù hợp.
- Đánh ụ súng không có nắp:
Bí mật tiếp cận bên sườn phía sau, đến cự ly thích hợp dùng lựu đạn thủ pháo
ném vào bên trong ụ súng.
Khi lựu đạn thủ pháo nổ, lợi dụng khói đạn nhanh chóng xông lên bắn găm, bắn
gần tiêu diệt địch.
- Đánh ụ súng có nắp, lô cốt:
Lợi dụng các góc tử giác, tiếp cận bên sườn phía sau, đặt thuốc nổ vào nơi hiểm
yếu hoặc nhét thủ pháo, lựu đạn vào lỗ bắn, cửa ra vào để tiêu diệt địch.
38

Nếu lô cốt có hàng rào chùm thì phải dùng lượng nổ khối, lượng nổ dài hoặc
dùng kéo để cắt.
Nếu lỗ bắn có lưới chắn, có thể buộc hoặc móc lựu đạn, thủ pháo vào lưới để phá
lưới, sau đó tiếp tục nhét lựu đạn, bộc phá vào trong ụ súng, lô cốt.
Khi lượng nổ, thủ pháo nổ nhanh chóng xông lên bắn găm, bắn gần, đâm lê, đánh
báng súng tiêu diệt địch.
Nếu cửa ra vào địch đóng kín thì dùng thuốc nổ đặt vào nơi mỏng yếu để phá,
sau đó tiêu diệt địch bên trong.
Trường hợp địa hình trống trải, địch kiểm soát chặt chẽ khó bí mật tiếp cận đến
gần, phải lợi dụng địa hình địa vật khéo léo nghi binh lừa địch để tiếp cận vào bên
sườn phía sau diệt địch.
Trường hợp được trang bị súng B40, B41 vận động đến cự li thích hợp bắn phá
hủy bệ súng, lô cốt rồi nhanh chóng xung phong lên lục soát, tiêu diệt nốt những tên
địch còn sống sót.
3.3.2.2. Đánh địch trong chiến hào hoặc giao thông hào
a) Đặc điểm mục tiêu
Chiến hào, giao thông hào được hình thành bằng các đoạn chiến hào, giao thông
hào nối liền nhau hoặc đứt đoạn. Cấu trúc theo kiểu gấp khúc, mỗi đoạn dài 5 - 7m.
Hào đào sâu có nắp (bằng gỗ, bê tông hoặc đất) hoặc không có nắp, cũng có thể
hào được xếp nổi bằng bao cát.
Thành hào phía trước thường cấu trúc các vị trí bắn. Liên kết chiến hào, giao
thông hào bằng các ngã ba, ngã tư hào. Dọc theo hào, địch có thể bố trí các vật cản nh-
ư mìn đè nổ, vướng nổ để ngăn chặn đối phương cơ động trong hào.
Khi chưa bị tiến công, địch lợi dụng đường hào để cơ động. Khi bị ta tiến công,
địch lợi dụng hào để sử dụng hoả lực từ các công sự bắn, các ngã ba, ngã tư hào để
ngăn chặn đối phương và để cơ động, triển khai phản kích, khi có nguy cơ bị tiêu diệt
thì chúng tận dụng hào để rút chạy.
b) Cách đánh
Trước khi đánh phải quan sát nắm chắc tình hình địch trên và dưới hào,quan sát
hành động của đồng đội. Tuỳ tình hình địch, địa hình xung quanh để xác định cách
đánh cho phù hợp.
Khi đánh địch trong chiến hào, giao thông hào phải triệt để lợi dụng các đoạn
ngoặt của hào, thực hiện đánh chắc, tiến chắc, sục sạo kỹ chia cắt địch ra từng bộ phận
để tiêu diệt.
- Đánh hào không có nắp:
39

Bí mật tiếp cận quan sát, nghe ngóng nếu có địch dùng lựu đạn, thủ pháo, bắn
găm, bắn gần tiêu diệt địch rồi mới nhảy xuống hào, tuỳ theo hào nông hay sâu, rộng
hay hẹp để vận dụng tư thế động tác cho phù hợp.
Thường phải lợi dụng đoạn hào ngoặt, tiến sát bên thành hào và dùng các tư thế
vận động thấp để tiến.
+ Khi gặp ngã ba, ngã tư hào phải dùng mưu mẹo nghi binh đánh lừa địch để
thăm dò, phát hiện. Nếu có địch thì dùng lựu đạn, thủ pháo kết hợp bắn găm, bắn gần
vào các ngách hào tiêu diệt địch rồi mới vượt qua
Nếu địch ném lựu đạn xuống hào phải nhanh chóng nhặt ném trở lại hoặc đá hất
ra xa, sau đó lợi dụng chỗ ngoặt của hào, hầm để ẩn nấp nhưng phải sẵn sàng đánh
địch sau khi lựu đạn nổ.
Khi gặp hỏa lực địch bắn phải nhanh chóng lợi dụng ngách hào để tránh, sau đó
dùng các biện pháp nghi binh, đánh lừa chúng để tiêu diệt.
+ Khi tiến dưới hào gặp mìn, chông, cạm bẫy phải quan sát đề phòng địch bắn
bất ngờ. Nếu chưa có địch thì tùy theo tình hình để dùng vũ khí, trang bị phá huỷ hoặc
cắt, gỡ hoặc đánh dấu lại, sau đó vượt qua tiếp tục phát triển chiến đấu.
Trường hợp không tiến theo hào được, phải căn cứ vào tình hình cụ thể, nhanh
chóng nhảy lên hào để tiến (trước khi nhảy lên phải quan sát xem phía trên có địch
không?)
Khi lên khỏi hào phải triệt để lợi dụng địa hình, địa vật vận động đánh vào bên s-
ườn phía sau tiêu diệt địch, hoặc dùng hoả lực kiềm chế, phối hợp với đồng đội tiêu
diệt địch.
Nếu làm nhiệm vụ đánh lướt, đánh nhanh thì có thể ở trên hào dùng lựu đạn, thủ
pháo, bắn găm để tiêu diệt địch, sau đó phát triển theo nhiệm vụ phân công.
- Đánh hào có nắp:
Nếu gặp trường hợp hào có nắp từng đoạn có thể lợi dụng chỗ trống dùng lựu
đạn, thủ pháo lăng vào bên trong kết hợp bắn găm, bắn gần tiêu diệt địch. Sau đó
nhanh chóng lùng sục diệt nốt những tên địch sống sót bên (chú ý đề phòng địch ở trên
hào)
Nếu hào có nắp kéo dài thì dùng thuốc nổ đặt vào nơi mỏng yếu của nắp hào để
phá sập từng đoạn rồi ném lựu đạn, thủ pháo, bắn găm diệt địch ở bên trong.
3.3.2.3. Đánh tên địch, tốp địch ngoài công sự
a) Đặc điểm mục tiêu
-Tên địch tốp địch có thể đang cơ động hoặc đã triển khai đội hình chiến đấu
chuẩn bị tiến công cụ thể.
40

Tốp địch: Khi vận động thường lợi dụng địa hình địa vật như trục đường hoặc
sườn đồi, bờ mương, máng... thành đội hình hàng dọc hoặc chữ A, chữ V, khi dừng lại
chiếm địa hình có lợi triển khai đội hình có tên phía trước, tên phía sau yểm hộ lẫn
nhau.
Tốp địch có xe tăng, xe bọc thép đi kèm: Khi cơ động có thể ngồi trên xe tăng,
xe bọc thép hoặc cơ động phía trước phía sau hai bên sườn xe. Khi dừng lại chọn địa
hình có lợi thường bố trí phía trước hoặc hai bên sườn xe.
+ Khi chưa bị tiến công luôn cảnh giới quan sát trên các hướng, khi bị tiến công
nhanh chóng triển khai đội hình, lợi dụng địa hình, địa vật kết hợp hoả lực và hoả lực
xe tăng, xe bọc thép chống trả quyết liệt, khi có nguy cơ bị tiêu diệt thường cơ động về
phía sau và được sự chi viện của hoả lực hoặc lợi dụng địa hình có lợi cho xe tăng
ngăn chặn đối phương chờ lực lượng đến ứng cứu.
b) Cách đánh
Trước khi đánh chiếm phải quan sát xác định vị trí, tính chất của mục tiêu, địa
hình địa vật có lợi, tình huống để xác định cách đánh cho phù hợp.
- Nếu địa hình kín đáo: Bí mật vận động đến bên sườn phía sau mục tiêu dùng
lựu đạn thủ pháo kết hợp bắn găm, bắn gần tiêu diệt địch.
- Nếu địa hình chống trải: Khéo léo nghi binh đánh lừa địch thu hút về một
hướng, bất ngờ luồn sang hướng khác nhanh chóng vận động đến bên sườn phía sau
mục tiêu để tiêu diệt địch hoặc khắc phục tiến lên khoảng cách thích hợp dùng vũ khí
chế áp địch nhanh chóng xung phong tiêu diệt địch.
Trong quá trình tiến công tên địch tốp địch ngoài công sự phải chú ý hiệp đồng
với đồng đội và luôn quan sát theo dõi đề phòng mục tiêu di chuyển,
3.3.2.4. Hành động của chiến sĩ đánh địch trong căn nhà
a) Đặc điểm mục tiêu
Từng người cùng với tổ có thể đánh địch trong căn nhà 1 - 2 phòng, căn nhà một
tầng hoặc nhiều tầng.
- Thông thường căn nhà xây dựng kiên cố (bằng gạch, đá...), cấu trúc thành các
phòng, có hệ thống cửa ra vào và cửa sổ. Bên ngoài cửa có thể đắp bao cát thành ụ
súng chiến đấu, nhà nhiều tầng thì có cầu thang lên xuống, ống nước cột thu lôi bên
ngoài.
- Bố trí lực lượng bên trong và bên ngoài, trong nhà thường lợi dụng cửa sổ, ô
thoáng bố trí hoả lực ngăn chặn, các đoạn ngoặt cầu thang bố trí hoả lực khống chế
dọc cầu thang hoặc vật cản ngăn chặn đối phương phát triển chiến đấu.
b) Cách đánh
41

- Lợi dụng sơ hở hiểm yếu của địch bí mật áp sát căn nhà, bất ngờ dùng lựu đạn
thủ pháo ném vào trong nhà, khi lựu đạn thủ pháo nổ lợi dụng cửa sổ, cửa ra vào bắn
quét vào bên trong, đồng thời xông vào nép người vào bên trong thành tường quan sát
diệt nốt địch còn sống sót, giữ chắc hiệp đồng chi viện cho đồng đội chiến đấu.
Nếu căn nhà có nhiều phòng thì căn cứ vào tình hình địch, nhiệm vụ của mình để
dùng thủ pháo, lựu đạn đánh vào từng phòng phạm vi được phân công, đánh đến đâu
sục sạo kỹ đến đó, đánh xong phòng này mới phát triển sang phòng khác.
- Trường hợp khó tiếp cận: Tìm cách nghi binh đánh lừa địch thu hút địch về một
hướng, rồi vòng hướng khác nhanh chóng tiếp cận bên sườn phía sau bất ngờ dùng lựu
đạn, thủ pháo và nổ súng tiêu diệt địch.
- Động tác đánh địch ở cầu thang: Phải quan sát phát hiện địch, cấu trúc cầu
thang thẳng hay ngoặt sang bên nào, xác định những nơi có thể lợi dụng tiêu diệt địch
và phát triển chiến đấu thuận lợi. Sau đó bất ngờ dùng lựu đạn, thủ pháo và hoả lực
bắn mạnh vào địch, lợi dụng xông lên bắn găm, bắn gần tiêu diệt địch, cùng đồng đội
phát triển chiến đấu.
Nếu cầu thang thẳng thì ném lựu đạn lên hoặc xuống rồi xung phong vận dụng
các tư thế bắn găm, bắn gần, đâm lê tiêu diệt địch hoặc vừa bắn vừa xung phong lên
hoặc xuống cùng với đồng đội phát triển chiến đấu tiếp.
3.3.2.5. Hành động của chiến sĩ đánh xe tăng xe bọc thép của địch
a) Đặc điểm mục tiêu:
Xe tăng, xe bọc thép có thể bố trí trong công sự hoặc cơ động triển khai ngoài
công sự.
- Xe tăng, xe bọc thép khi bố trí trong công sự thường bố trí ở công sự nửa chìm
nửa nổi, xung quanh xếp bao cát hoặc đắp đất, có lưới chắn chống đạn B40, B41, bên
cạnh có có các ụ súng bảo vệ.
- Xe tăng, xe bọc thép khi cơ động có thể có địch ngồi trên xe hoặc cơ động 2
bên sườn phía sau để chiến đấu bảo vệ xe khi bị tiến công.
- Đặc điểm chung của xe tăng, xe bọc thép có vỏ thép dày, hoả lực mạnh sức cơ
động cao, nhưng tầm quan sát hạn chế, dễ bị tiêu diệt khi tiếp cận gần.
b) Cách đánh:
- Trước khi đánh xe tăng hoặc xe bọc thép địch, chiến sĩ phải quan sát địa hình,
địa vật xung quanh, xác định loại xe, lực lượng địch trên xe và xung quanh xe; vị trí bố
trí hoặc hướng, đường, tốc độ vận động của xe; tính chất hoạt động, nơi sơ hở của
chúng.
42

- Căn cứ vào vũ khí, trang bị và nhiệm vụ của mình, ý định của người chỉ huy,
địa hình, địa vật, đặc điểm và tính chất cụ thể của mục tiêu để xác định cách đánh cho
phù hợp.
+ Trường hợp đánh xe tăng hoặc xe bọc thép của địch dừng tại chỗ hoặc bố trí
trong công sự: lợi dụng địa hình, địa vật nơi sơ hở của địch, bí mật đến gần, đột nhiên
nổ súng tiêu diệt bộ binh trên xe hoặc xung quanh xe, sau đó nhanh chóng xông đến
dùng thuốc nổ, thủ pháo, mìn, lựu đạn chống tăng,...phá hủy xe.
+ Trường hợp đánh xe tăng hoặc xe bọc thép địch đang vận động:Thời cơ tốt
nhất đánh xe tăng, xe bọc thép địch đang vận động là lúc xe vận động tốc độ chậm
(khi xe đang vượt qua vật cản, leo dốc, cơ động trong đoạn đường cua). Chiến sĩ
nhanh chóng vận động đón đầu xe, nhảy lên xe dùng bộc phá đặt vào chỗ mỏng yếu
của xe, điểm hỏa bộc phá phá hủy xe; nhanh chóng nhảy xuống lợi dụng địa hình, địa
vật ẩn nấp. Khi bộc phá nổ, xông lên bắn găm, bắn gần tiêu diệt nốt địch còn sống sót.
Nếu trên xe hoặc hai bên sườn phía sau xe có bộ binh đi kèm, phải phối hợp chặt chẽ
với đồng đội để chia cắt bộ binh với xe hoặc tiêu diệt bộ binh, sau đó thực hiện tiêu
diệt xe.
Nếu chiến sĩ được trang bị súng diệt tăng B40, B41 thì dùng hỏa lực của hỏa khí
để tiêu diệt xe.
3.3.2.6. Hành động của chiến sĩ đánh tên địch, tốp địch ngoài công sự
a) Đặc điểm mục tiêu:
Tên địch, tốp địch có thể đang cơ động hoặc đã triển khai đội hình chiến đấu
chuẩn bị tiến công.
Tốp bộ binh địch khi lợi dụng địa hình, địa vật như trục đường hoặc sườn đồi, bờ
mương, máng,… thành đội hình hàng dọc hoặc chữ A, chữ V, khi dừng lại chiếm địa
hình có lợi, triển khai đội hình có tên ở phía trước, tên ở phía sau yểm hộ lẫn nhau.
Tốp bộ binh địch khi vận động thường lợi dụng địa hình, địa hình, địa vật như
trục đường hoặc sườn đồi, bờ mương, máng,...thành đội hình hàng dọc hoặc chữ A,
chữ V; khi dừng lại chiếm địa hình có lợi, triển khai đội hình có tên ở phía trước, tên ở
phía sau yểm hộ lẫn nhau.
Tốp bộ binh địch có xe tăng, xe bọc thép đi kèm khi cơ động có thể bộ binh ngồi
trên xe hoặc bộ binh thường bố trí phía trước và hai bên sườn xe.
Khi chưa bị tiến công, địch luôn cảnh giác quan sát phát hiện trên các hướng.
Khi bị tiến công, nhanh chóng triển khai đội hình, lợi dụng địa hình, địa vật, kết
hợp hỏa lực của bộ binh với hỏa lực của xe tăng, xe bọc thép chống trả quyết liệt.
43

Nguy cơ bị tiêu diệt, chúng thường từng bước cơ động về phía sau dưới sự chi
viện của hỏa lực hoặc lợi dụng địa hình có lợi và xe để ngăn chặn đối phương, chờ lực
lượng đến ứng cứu giải tỏa.
b) Cách đánh:
Trước khi đánh, chiến sĩ phải quan sát xác định vị trí, tính chất của mục tiêu, địa
hình, địa vật xung quanh và tình hình cụ thể về ý định của người chỉ huy, bản thân,
đồng đội để xác định cách đánh cho phù hợp.
Nếu địa hình kín đáo: bí mật vận động đến bên sườn, phía sau mục tiêu dùng lựu
đạn, thủ pháo kết hợp bắn găm, bắn gần tiêu diệt địch.
Nếu địa hình trống trải: Khéo léo nghi binh lừa địch, thu hút chúng về một hướng
rồi bí mật, bất ngờ luồn sang hướng khác nhanh chóng vận động đến bên sườn phía
sau mục tiêu để tiêu diệt địch hoặc khắc phục sự trống trải của địa hình rồi tiến lên
khoảng cách thích hợp dùng vũ khí chế áp địch và nhanh chóng xung phong tiêu diệt
địch.
Trong quá trình tiến công tên địch, tốp địch ngoài công sự phải chú ý hiệp đồng
chặt chẽ với đồng đội và luôn quan sát theo dõi đề phòng mục tiêu di chuyển.
*Trường hợp 2 hay 3 mục tiêu địch xuất hiện cùng một lúc:
Khi 2 hay 3 mục tiêu địch xuất hiện cùng một lúc, chiến sĩ phải xác địch mục tiêu
nào nguy hại nhất để tiêu diệt trước, sau đó tiêu diệt các mục tiêu còn lại. Đánh đến
đâu chắc đến đó.
Cũng có thể dùng lựu đạn, thủ pháo đánh lướt nhanh các mục tiêu, sau đó quay
lại lần lượt đánh, sục sạo, tiêu diệt từng mục tiêu.
Phải khéo léo nghi binh lừa địch để khi đánh mục tiêu này không bị hỏa lực của
mục tiêu khác ngăn cản hoặc sát thương.
3.4. Hành động của từng người khi chiếm được mục tiêu
Khi đánh chiếm được mục tiêu, chiến sĩ có thể được giao nhiệm vụ chốt giữ mục
tiêu, phát triển chiến đấu, rời khỏi trận đánh,…
Dù trong trường hợp nào người chiến sĩ cũng phải căn cứ vào nhiệm vụ được
giao, tình hình địch và địa hình để tiến hành công việc cho phù hợp.
Thứ tự nội dung tiến hành các công việc sau khi đánh chiếm được mục tiêu:
nhanh chóng chiếm địa hình có lợi phòng tránh hỏa lực địch sát thương, đồng thời
kiểm tra lại súng, đạn, vũ khí trang bị và kết quả chiến đấu báo cáo với cấp trên.
Sẵn sàng tham gia bắn máy bay thấp, trực thăng vũ trang, ngăn chặn bộ binh, xe
tăng, xe bọc thép địch phản kích từ nơi khác đến.
Cứu chữa thương binh, thu chiến lợi phẩm, bắt tù hàng binh, đưa thương binh
nặng, tử sĩ, hàng binh về nơi quy định. Sẵn sàng nhận nhiệm vụ tiếp theo.
44

CÂU HỎI ÔN TẬP

Câu 1. Nêu nhiệm vụ, yêu cầu chiến thuật từng người trong chiến đấu tiến công. Phân
tích là rõ yêu cầu 1 và 2.
Câu 2. Trình bày hành động của từng người khi vận động đến gần địch
Câu 3. Nêu đặc điểm một trong số các mục tiêu của địch theo chỉ định của giảng viên
Câu 4. Trình bày cách đánh địch trong công sự có nắp, không có nắp
Câu 5. Trình bày cách đánh địch trong chiến hào, giao thông hào
Câu 6. Trình bày cách đánh tên địch, tốp địch ngoài công sự
Câu 7. Trình bày cách đánh xe tăng, xe bọc thép của địch
Câu 8. Thực hành động tác đánh một trong số các mục tiêu của địch theo chỉ định.
45

Bài 4: TỪNG NGƯỜI TRONG CHIẾN ĐẤU PHÒNG NGỰ

4.1. Đặc điểm tiến công của địch


Trước khi tiến công: Địch thường sử dụng các lực lượng, phương tiện trinh sát từ
trên không kết hợp với biệt kích, thám báo, bọn phản động nội địa ở mặt đất để phát
hiện ta. Sử dụng hỏa lực của máy bay, pháo binh đánh phá mãnh liệt với cường độ
cao, liên tục, dài ngày vào trận địa phòng ngự của ta.
Khi tiến công: Hỏa lực các loại bắn vào các trận địa phía sau. Bộ binh, xe tăng,
xe bọc thép thực hành xung phong vào trận địa phòng ngự của ta. Khi xung phong, xe
tăng, xe bọc thép dẫn dắt bộ binh hoặc dừng lại ở tuyến xuất phát tiến công dùng hỏa
lực chi viện trực tiếp cho bộ binh xung phong.
Khi ta phòng ngự chưa vững chắc, địa hình thuận lợi cho xe tăng, xe bọc thép cơ
động,… có thể xe bọc thép địch chở bộ binh trực tiếp xung phong vào trận địa phòng
ngự của ta.
Cũng có thể lợi dụng đêm tối, sương mù,… chúng bí mật tiếp cận áp sát trận địa
phòng ngự của ta để bất ngờ tiến công.
Khi chiếm được một phần trận địa, địch lợi dụng địa hình, địa vật, công sự giữ
chắc nơi đã chiếm, đồng thời nhanh chóng cơ động lực lượng từ phía sau lên tiếp tục
phát triển vào chiều sâu trận địa phòng ngự của ta.
Sau mỗi lần tiến công bị thất bại: Địch thường lùi ra phía sau, củng cố lực lượng,
dùng hỏa lực đánh phá vào trận địa. Sau đó tiến công tiếp.
4.2. Nhiệm vụ, yêu cầu chiến thuật
4.2.1. Nhiệm vụ
Trong chiến đấu phòng ngự, chiến sĩ có nhiệm vụ cùng với tổ, tiểu đội đảm
nhiệm các nhiệm vụ sau:
Dựa vào công sự trận địa tiêu diệt và đánh bại địch tiến công ở phía trước, bên
sườn, phía sau trận địa phòng ngự.
Đánh địch đột nhập
Tham gia làm nhiệm vụ đánh địch vòng ngoài
Ngoài ra còn tham gia làm nhiệm vụ tuần tra, canh gác, trong phạm vi trận địa
phòng ngự.
4.2.2. Yêu cầu chiến thuật
Có quyết tâm chiến đấu cao. Chuẩn bị mọi mặt chu đáo, bảo đảm đánh địch dài
ngày.
Xây dựng công sự chiến đấu vững chắc, ngày càng kiên cố, ngụy trang bí mật
46

Thiết bị bắn chu đáo, phát huy được hỏa lực ngăn chặn và tiêu diệt được địch
trên các hướng
Hiệp đồng chặt chẽ với đồng đội để tạo thành các thế liên hoàn đánh địch
Kiên cường , mưu trí, dũng cảm, chủ động, kiên quyết giữ vững trận địa đến
cùng
4.3. Hành động của từng người sau khi nhận nhiệm vụ
4.3.1. Hiểu rõ nhiệm vụ
Chiến sĩ thường nhận nhiệm vụ tại thực địa. Khi nhiệm vụ phải kết hợp nhìn,
nghe để nhớ kĩ. Nếu chưa rõ phải hỏi lại để cấp trên bổ sung cho hoàn chỉnh. Nội dung
gồm :
Phương hướng, vật chuẩn, đặc điểm địa hình nơi phòng ngự.
Địch ở đâu, có thể tiến công từ hướng nào, đường nào, bằng phương tiện gì, thời
gian địch có thể tiến công. Lực lượng, thủ đoạn, hành động cụ thể của địch khi tiến
công.
Phạm vi quan sát và tiêu diệt địch, yêu cầu nhiệm vụ được giao. Mục đích, ý
nghĩa nơi phải giữ.
Đồng đội có liên quan (bên phải, bên trái là ai, phạm vi quan sát và diệt địch của
họ ở đâu,…), cách liên lạc, báo cáo với cấp trên (kí hiệu, tín hiệu, ám hiệu hiệp đồng,
báo cáo).
Mức độ công sự, ngụy trang, vật chất cần phải chuẩn bị, thời gian hoàn thành và
thời gian sẵn sàng đánh địch.
Các cách đánh có thể vận dụng khi địch tiến công vào trận địa.
4.3.2. Làm công tác chuẩn bị
4.3.2.1. Xác định vị trí phòng ngự và cách đánh địch:
- Xác định vị trí phòng ngự:
Chiến sĩ phải căn cứ vào nhiệm vụ và ý định của cấp trên, nhiệm vụ của mình,
tình hình địch (đường, hướng tiến công, thủ đoạn, cách đánh của chúng,…), địa hình,
thời tiết, vũ khí, trang bị, đồng đội liên quan để xác định vị trí phòng ngự cho thích
hợp. Vị trí chiến đấu phải bảo đảm tiện đánh địch và chi viện cho đồng đội trên các
hướng, bảo vệ mình và giữ vững mục tiêu.
Vị trí phòng ngự của từng người thường do tiểu đội, trung đội trưởng xác định,
giao cho chiến sĩ.
Vị trí phòng ngự của từng người thường gồm mục tiêu cần giữ và một số địa
hình, địa vật xung quanh.
Vị trí chiến đấu phòng ngự nên chọn ở nơi:
+ Địa hình kín đáo, hiểm hóc, bất ngờ.
47

+ Tiện quan sát phát hiện địch trong mọi tình huống chiến đấu, mọi điểu kiện
thời tiết ngày, đêm.
+ Tiện cơ động, phát huy uy lực của vũ khí, tiện hiệp đồng với đồng đội đánh
địch trên nhiều hướng, giữ vững vị trí được giao.
+ Tiện cải tạo địa hình xây dựng công sự vững chắc, bảo đảm đánh địch liên tục,
dài ngày.
- Xác định cách đánh:
Phải xác định đánh địch trên các hướng, trong đó có hướng chính, hướng phụ.
Trên mỗi hướng cần xác định đánh địch trong các trường hợp:
+ Đánh địch tiến công vào trận địa:
Nắm vững thời cơ, kịp thời chiếm lĩnh vị trí chiến đấu, tăng cường quan sát nắm
chắc tình hình mọi mặt, để địch vào trong tầm bắn hiệu quả, theo lệnh người chỉ huy,
tích cực, chủ động và hiệp đồng chặt chẽ với đồng đội kết hợp dùng súng, mìn, lựu
đạn,… kiên quyết tiêu diệt, ngăn chặn địch, đánh bại địch tiến công, giữ vị trí được
giao.
+ Đánh địch đột nhập trận địa:
Nắm vững nhiệm vụ được giao (mục tiêu, đường vận động, nơi triển khai, cách
đánh và thời cơ xung phong), bí mật lợi dụng công sự, địa hình, địa vật cơ động tiếp
cận, chiếm lĩnh đúng vị trí, đúng thời gian quy định.
Hiệp đồng chặt chẽ với đồng đội bắn chia cắt quân địch ở bên ngoài với quân
địch đột nhập trận địa. Nắm vững thời cơ, bất ngờ xung phong, bắn găm, bắn gần, đâm
lê, đánh báng tiêu diệt địch, nhanh chòng khôi phục lại vị trí đã mất.
4.3.2.2. Bố trí vũ khí, làm công sự và vật cản :
Sau khi xác định vị trí bố trí và xác định cách đánh địch, phải khẩn trương tổ
chức bố trí vũ khí để sẵn sàng đánh địch, làm công sự chiến đấu, vật cản, hầm nghỉ
ngơi, đường cơ động, ngụy trang, thiết bị bắn đêm,…
Khi bố trí vũ khí, làm công sự và bố trí vật cản phải kết hợp chặt chẽ với nhau
tạo thành nơi phòng ngự vững chắc, ngăn chặn, tiêu diệt và đánh bại tiến công của
địch, giữ vững vị trí được giao.
Đồng thời khi bố trí vũ khí và làm công sự phải đúng ý định cấp trên.
+ Bố trí vũ khí:
Vũ khí bắn thẳng: Bố trí ở nhiều vị trí, ở những nơi phát huy hết uy lực của vũ
khí, bảo đảm hiểm hóc, bất ngờ và tiện cơ động đánh địch trong mọi tình huống, cả
ban ngày và ban đêm
Vũ khí diệt tăng B40, B41, AT bố trí ở những nơi, những hướng tiện diệt xe tăng,
xe thiết giáp và các hỏa điểm của địch.
48

Mìn chống tăng được bố trí ở những nơi dự kiến xe tăng, xe thiết giáp địch cơ
động, triển khai; nơi địa hình có nhiều cản trở đến tốc độ cơ động của xe tăng, thiết
giáp địch.
Sử dụng lựu đạn : Chỉ nên dùng trong tầm hiệu quả (thông thường khi địch trong
tầm chiến đấu khoảng 20-30m) hoặc dùng làm bẫy, vật cản như các loại mìn.
+ Công sự và đường cơ động
Công sự chiến đấu phải có công sự chính, phụ, có đủ thiết bị bắn ban ngày, ban
đêm kết hợp có hầm ếch, hầm còi để ẩn nấp.
Công sự trận địa phải được xây dựng thật vững chắc, kiên cố nhất là ở những nơi
địch trực tiếp uy hiếp đến trận địa của mình và bảo đảm được yêu cầu vừa sẵn sàng
chiến đấu cao, vừa tránh được sát thương do hỏa lực địch.
Nối liền các hố chiến đấu với hầm nghỉ ngơi, hầm ẩn nấp phải khéo léo kết hợp,
lợi dụng địa hình, địa vật để làm các đoạn hào chiến đấu, hào giao thông để làm đường
cơ động.
Thành hào phía trước phải cấu trúc các vị trí bắn bảo đảm tiện cơ động trong quá
trình ngắn chặn, tiêu diệt địch
Xây dựng công sự chiến đấu trước, công sự ẩn nấp sau, vị trí chính trước, phụ
sau. Công sự và đường cơ động phải được ngụy trang kín đáo, bí mật, đào đến đâu
ngụy trang ngay đến đó.
+ Vật cản:
Vật cản bao gồm chông, mìn các loại, cạm bẫy, cửa sập, củ ấu,… bố trí ở những
nơi địch tiếp cận triển khai tiến công, những nơi khuất ta khó quan sát phát hiện địch.
Vật cản thường do cấp trên bố trí, cũng có thể chiến sĩ được giao nhiệm vụ bố trí
các loại vật cản, khi bố trí phải thực hiện nghiêm những quy định của cấp trên, vật cản
phải kết hợp chặt chẽ với công sự và hỏa lực của bản thân, tiện sử dụng và bảo vệ.
Chuẩn bị vật chất bảo đảm cho chiến đấu
Trong chiến đấu phòng ngự, vật chất bảo đảm chiến đấu thường gồm các loại vũ
khí, trang bị như: súng, đạn, lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng công sự trận
địa,…
Để thực hiện tốt yêu cầu chiến đấu phòng ngự, một trong những yếu tố hết sức
quan trọng là bảo đảm vật chất, do đó từng người phải tích cực, chủ động chuẩn bị đầy
đủ, toàn diện trên tất cả các mặt, cả số lượng và chất lượng, bảo đảm cho chiến đấu
liên tục, dài ngày.
Vũ khí, lương thực, thực phẩm ngoài số có thường xuyên, phải có một lượng cần
thiết để dự trữ chiến đấu.
49

Lượng dự trữ chiến đấu nhiều hay ít phải căn cứ vào quy định của cấp trên, tùy
theo yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu và khả năng của ta để xác định lượng cụ thể cho phù
hợp.
Đồng thời từng người phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo quản thật tốt vũ khí trang
bị, vật chất được trang bị.
Các lọai dụng cụ và vật liệu xây dựng công sự trận địa, như: xẻng, cuốc, tre, gỗ,
ngụy trang,… phải được chuẩn bị trước khi chiếm lĩnh xây dựng trận địa và bảo đảm
hết sức chu đáo, đầy đủ.
Căn cứ vào quy định cụ thể của người chỉ huy và thực trạng nguyên vật liệu hiện
có để chuẩn bị cho phù hợp.
Quá trình xây dựng công sự trận địa phải triệt để tận dụng nguyên liệu tại chỗ.
4.4. Hành động của từng người khi thực hành chiến đấu
4.4.1. Khi địch chuẩn bị tiến công
Trước khi tiến công địch thường dùng các lực lượng, phương tiện trinh sát từ trên
không và mặt đất như máy bay, biệt kích, bọn phản động nội địa để phát hiện trận địa
của ta.
Do đó mọi hành động của từng người phải hết sức bí mật, không để địch từ trên
không hay từ mặt đất phát hiện, chấp hành nghiêm túc mọi quy định về đi lại, sinh
hoạt, ăn ở, luôn sẵn sàng chiến đấu cả ban ngày và ban đêm.
Khi địch dùng hỏa lực của máy bay, pháo binh, tên lửa đánh phá vào trận địa
phải triệt để lợi dụng công sự trận địa, địa hình, địa vật để ẩn nấp, tránh sát thương,
đồng thời phải tích cực, chủ động quan sát nắm chắc tình hình mọi mặt, nhất là tình
hình địch trong phạm vi đảm nhiệm.
Nếu địch tập kích chất độc hóa học vào khu vực trận địa, phải nhanh chóng dùng
khí tài phòng hóa (chế sẵn hoặc ứng dụng) để phòng chống, đồng thời sẵn sàng chiến
đấu, kịp thời dùng ký hiệu, tín hiệu, ám hiệu (theo hiệp đồng) báo cáo với cấp trên và
thông báo cho đồng đội để phòng tránh.
Trường hợp địch dùng máy bay, pháo binh đánh phá nhưng chưa tiến công bằng
bộ binh hoặc bộ binh cơ giới, thì sau mỗi đợt đánh phá của địch phải tranh thủ sửa
chữa, củng cố lại công sự, vật cản, chông, mìn,… để sẵn sàng đánh địch.
Nếu được lệnh bắn máy bay địch, chiến sĩ phải nắm vững thời cơ, hiệp đồng
chặt chẽ với tổ, tiểu đội và đồng đội để bắn máy bay địch.
Trường hợp làm nhiệm vụ quan sát hay trực chiến của tiểu đội, trong quá trình
địch trinh sát, bắn phá chuẩn bị, chiến sĩ phải bình tĩnh, chủ động tăng cường quan sát
phát hiện địch và kịp thời báo cáo với cấp trên, thông báo với bạn.
Khi cần thiết có thể dùng vũ khí tiêu diệt những tên, tốp địch tiến vào gần trận
địa theo lệnh của người chỉ huy.
50

4.4.2. Khi địch tiến công


Căn cứ vào cách đánh đã chọn và tình hình cụ thể về địch, ta để tranh thời cơ lúc
pháo binh chuyển làn, bộ binh, xe tăng, xe thiết giáp địch đang vận động, khói bom,
đạn chưa tan nhanh chóng, bí mật chiếm vị trí chiến đấu, chờ địch đến gần
Nắm vững thời cơ (khi có lệnh của cấp trên, khi địch vào trong tầm bắn hiệu
quả,…) bất ngờ dùng vũ khí (bắn súng, ném lựu đạn, nổ mìn,…) tiêu diệt địch, trước
hết tiêu diệt những xe địch, tên địch, tốp địch gần nhất, những tên chỉ huy, thông tin,
những tên giữ súng máy, phóng lựu,… tiêu diệt trước.
Kiên quyết tiêu diệt và ngăn chặn, không cho địch đến gần mục tiêu đảm nhiệm.
Quá trình đánh địch, phải luôn quan sát nắm chắc diễn biến về địch, khéo nghi
binh, lừa địch, linh hoạt, luôn tạo ra thế chủ động, bất ngờ đánh địch, giữ vững trận
địa.
Trường hợp địch chiếm được một phần trận địa, phải dựa vào công sự kiên quyết
bám trụ giữ vững những công sự, phạm vi còn lại, dùng vũ khí đánh gần tiêu diệt địch,
ngăn chặn không cho địch phát triển, báo cáo với cấp trên, sau đó phối hợp chặt chẽ
với đồng đội khôi phục lại trận địa.
Khi được lệnh tham gia phản kích khôi phục lại trận địa phòng ngự của đồng đội,
phải nắm chắc nhiệm vụ, ý định của trên và nhiệm vụ của bản thân, bí mật vận động
đúng đường, vào đúng vị trí, đúng thời gian quy định, nắm chắc thời cơ xung phong,
hiệp đồng chặt chẽ với đồng đội xung phong bắn găm, bắn gần, đâm lê, đánh báng tiêu
diệt địch đột nhập, khôi phục lại trận địa bị mất.
Trường hợp địch không trực tiếp đánh vào trận địa của mình, nhưng đánh vào
trận địa của đồng đội, chiến sĩ phải tích cực, chủ động, hiệp đồng chặt chẽ, chi viện và
hỗ trợ cho đồng đội tiêu diệt địch.
Trong quá trình chiến đấu, với mọi tình huống, chiến sĩ phải nắm chắc tình hình
diễn biến địch, mệnh lệnh của cấp trên, đồng thời tích cực, chủ động đánh bại địch tiến
công và kịp thời xử trí các tình huống.
4.4.3. Sau mỗi lần đánh bại địch tiến công
Sau mỗi lần tiến công bị thất bại, địch thường lùi về phía sau, dùng hỏa lực của
không quân, pháo binh, tên lửa đánh phá vào trận địa phòng ngự của ta, sau đó tiếp tục
tiến công.
Vì vậy, chiến sĩ phải căn cứ vào tình hình cụ thể để kiên quyết, chủ động thực
hiện tốt các nhiệm vụ được giao.
Sau khi địch rút chạy phải căn cứ vào ý định, mệnh lệnh của cấp trên, tình hình
cụ thể để tích cực, chủ động sử dụng hỏa lực của bản thân phối hợp chặt chẽ với đồng
đội bắn truy kích tiêu diệt những tên địch, xe chiến đấu của địch trong tầm bắn hiệu
quả.
51

Phán đoán thủ đoạn tiến công mới của địch để bổ sung cách đánh cho phù hợp.
Chủ động cứu chữa thương binh, củng cố công sự trân địa, bổ sung vật chất,…
báo cáo tình hình với cấp trên. Sẵn sàng tiến công tiếp theo.

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Nêu nhiệm vụ, yêu cầu chiến thuật từng người trong chiến đấu tiến công. Phân tích
làm rõ yêu cầu 1 và 2.
2.Trình bày nội dung nhận và hiểu rõ nhiệm vụ trong chiến đấu phòng ngự
3. Nêu nội dung xác định vị trí phòng ngự và cách đánh địch
4. Nội dung bố trí vũ khí, làm công sự và vật cản
5. Hành động của chiến sĩ khi địch chuẩn bị tiến công?
6. Hành động của chiến sĩ khi địch tiến công?
52

Bài 5: TỪNG NGƯỜI LÀM NHIỆM VỤ CANH GÁC, CẢNH GIỚI

5.1. Nhiệm vụ
Khi đơn vị trú quân hoặc trong quá trình chiến đấu làm chủ trận địa..., chiến sĩ
có thể được cấp trên phái ra làm nhiệm vụ canh gác, cảnh giới.
Nhiệm vụ chủ yếu khi canh gác là bảo đảm an toàn cho đơn vị và phát hiện
ngăn chặn quân địch để đơn vị kịp thời xử trí, đồng thời kiểm tra những người lạ mặt,
những hiện tượng làm lộ bí mật...
5.2. Yêu cầu
5.2.1. Phải hiểu rõ nhiệm vụ, làm đúng chức trách
5.2.2. Nắm vững tình hình địch, ta, địa hình, nhân dân trong khu vực canh gác.
5.2.3. Luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu.
5.2.4. Phát hiện và xử trí các tình huống chính xác, kịp thời
5.2.5. Luôn giữ liên lạc với cấp trên và đồng đội.
5.2.6. Không có lệnh không rời khỏi vị trí canh gác.
5.3. Hành động sau khi nhận nhiệm vụ
5.3.1. Hiểu rõ nhiệm vụ
Khi nhận nhiệm vụ, chiến sĩ phải hiểu rõ những điểm chính sau đây:
- Phạm vi khu vực trú quân của đơn vị
- Địa hình, đường xá, đi lại...
- Địch ở đâu, có thể đi bằng đường nào, hướng nào đến?
- Nơi canh gác, tuần tra của đồng đội và đơn vị bạn có liên quan
- Vị trí, phạm vi canh gác, đường đi, đường về và thời gian mình canh gác
- Khi canh gác phải phát hiện những tình hình gì về địch; có nhiệm vụ gì đối
với người trong đơn vị hoặc đơn vị bạn ra vào vọng gác
- Những tình huống có thể xảy ra và cách xử trí
- Khi có đội tuần tra đi qua hoặc có đồng đội đến thay gác mình phải làm gì?
- Những quy định dấu hiệu riêng và cách giữ vững thông tin liên lạc với người
chỉ huy trong khi canh gác
5.3.2. Chuẩn bị canh gác
5.3.2.1. Chọn vị trí canh gác:
Phải căn cứ vào tình hình địch, địa hình, nhân dân và nhiệm vụ của mình để chọn
nơi canh gác cho phù hợp
- Chỉ được chọn trong phạm vi khu vực được cấp trên chỉ định canh gác
53

- Vị trí canh gác phải nhìn thấy được xa và rộng (ban ngày chọn nơi cao, ban
đêm chọn nơi thấp) tiện phát hiện được địch trong toàn bộ phạm vi khu vực mình
canh gác, nhưng phải bảo đảm kín đáo, địch khó phát hiện được ta.
- Có nhiều vị trí canh gác dự bị, tiện cơ động
-Tiện cải tạo địa hình, địa vật làm công sự chiến đấu.
- Nơi tiện liên lạc với chỉ huy và đồng đội.
5.3.2.2. Sau khi chọn vị trí canh gác xong:
Báo cáo lên cấp trên trước khi bắt đầu canh gác
5.4. Thực hành canh gác
5.4.1. Hành động khi canh gác
- Luôn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu.
- Khéo léo lợi dụng địa hình, địa vật để xem xét, nghe ngóng mọi hiện tượng
nghi ngờ về địch, trước mặt và xung quanh.
- Đặc biệt chú ý theo dõi những địa hình, địa vật thay đổi, những nơi địch dễ lợi
dụng đến gần hoặc vượt qua nơi canh gác.
- Theo dõi những người lạ mặt đi lại trong phạm vi khu vực canh gác.
5.4.2. Xử trí một số tình huống
5.4.2.1. Khi phát hiện địch
- Phải nhanh chóng tìm cách báo cáo cấp trên, bình tĩnh theo dõi hành động của
địch.
- Nếu 1 tên địch thì tìm mọi cách để bắt sống,trường hợp không bắt sống được
mới dùng hỏa lực tiêu diệt.
- Nếu địch nhiều phải hành động đúng theo cấp trên đã quy định
5.4.2.2. Khi địch bất ngờ nổ súng trước:
Phải hết sức bình tĩnh, dũng cảm lập tức nổ súng đánh trả, tiêu diệt, kiềm chế
ngăn chặn địch để đơn vị kịp thời xử trí.
5.4.2.3. Khi có người qua lại:
- Phải quan sát hành động và thái độ của người đó (chú ý đề phòng bọn biệt kích,
thám báo cải trang) để đến gần kiểm tra.
- Khi kiểm tra phải luôn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu
- Khi hỏi phải chú ý thái độ, nếu không có gì khả nghi thì thái độ nhã nhặn giải
thích cho họ đi; nếu nghi ngờ phải giữ lại, báo cáo cấp trên để giải quyết.
5.4.2.4. Khi gặp các đơn vị ra vào khu vực đóng quân:
- Phải theo dõi hành động, kịp thời báo cáo
- Phải kiểm tra mật hiệu, số hiệu, tên (mật danh) người chỉ huy và phiên hiệu của
đơn vị đó; thời gian đi và về, cách trang bị và ngụy trang.
54

- Khi kiểm tra phải sẵn sàng chiến đấu, nếu đúng phân đội của ta thì cho đi, nếu
nghi ngờ thì giữ lại, báo cáo cấp trên để giải quyết.
5.4.3. Hành động sau khi hoàn thành nhiệm vụ
- Khi có người thay gác phải bàn giao về tình hình địch, địa hình, những nơi đặc
biệt cần chú ý, nhiệm vụ, mật hiệu liên lạc, báo cáo...
- Sau đó kiểm tra súng, tháo đạn và lợi dụng đường kín đáo để trở về phân đội
- Trong khi đang bàn giao nếu có việc gì xảy ra phải tự giải quyết hoặc cùng với
động đội mới ra nhận bàn giao cùng giải quyết.
- Khi về phải báo cáo tình hình trong khi làm nhiệm vụ cho cấp trên phái ra biết.

CÂU HỎI ÔN TẬP

Câu 1. Nêu nhiệm vụ, yêu cầu đối với chiến sĩ khi làm nhiệm vụ canh gác, cảnh giới
Câu 2. Khi nhận nhiệm vụ canh gác, cảnh giới, người chiến sĩ phải nắm chắc những
nội dung gì?
Câu 3. Trình bày nội dung làm công tác chuẩn bị canh gác, cảnh giới.
Câu 4. Cách xử trí tình huống khi phát hiện địch và khi địch bất ngờ nổ súng trước
Câu 5. Cách xử trí tình huống khi có người qua lại, khi gặp đơn vị ra vào khu vực
đóng quân?

You might also like