You are on page 1of 33

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

BÀI TẬP THUYẾT TRÌNH


ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM
NỘI DUNG 2:
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ GIẢI QUYẾT NHỮNG HẠN CHẾ TRONG
LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ THÁNG 10 – 1930 CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN
(1939 -1945)
GVHD: THẦY NGUYỄN HỮU KỶ TỴ
NHÓM: 07 ; LỚP L07; HỌC KỲ 211
SINH VIÊN THỰC HIỆN
STT MSSV HỌ TÊN
1 1812754 Trần Đức Lam
2 1812798 Đoàn Thị Kim Liên
3 1812837 Trương Thị Mỹ Linh
4 1810313 Trần Hoài Lộc
5 1812886 Nghiêm Xuân Long
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
PHẦN MỞ ĐẦU
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thắng lợi vĩ đại, là mốc
son chói lọi của lịch sử cách mạng Việt Nam, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta.
Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi
của cuộc Cách mạng Tháng Tám. Quá trình hình thành đường lối chiến lược giải phóng
dân tộc là quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của xã
hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, để nhận thức đúng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội,
xác định đúng kẻ thù, quyết định nhiệm vụ chiến lược, các chủ trương chính sách để tập
hợp lực lượng và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn. Do đó, quá trình
hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc giai đoạn 1930 – 1945, Đảng ta đã
trải qua quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường. Vừa trực tiếp tuyên truyền, giáo dục,
vận động tổ chức quần chúng đấu tranh chống đế quốc thực dân, chống sưu cao thuế
nặng, chống khủng bố dã man; đấu tranh về nhận thức, quan điểm khi vận dụng lý luận
cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội Việt Nam; phát triển lực lượng, bổ
sung, tăng cường lãnh đạo các cấp của Đảng kể cả Ban chấp hành Trung ương.
Sự lãnh đạo của Đảng ta đối với xã hội trước hết là bằng cương lĩnh, đường lối
chính trị, mà theo nguyên tắc hoạt động của đảng cộng sản thì cương lĩnh, đường lối
chính trị của Đảng phải do Đại hội – cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng quyết định. Tuy
nhiên, trong thời kỳ 1930 – 1945 - do hoàn cảnh phải hoạt động bí mật, liên tục bị chính
quyền thực dân đàn áp, khủng bố, Đảng ta chỉ tiến hành duy nhất Đại hội lần thứ I vào
tháng 3-1935. Trong hoàn cảnh đó Ban chấp hành Trung ương có trọng trách vận dụng
sáng tạo lý luận cách mạng vào thực tiễn để hình thành, phát triển hoàn thiện đường lối
chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc. Với mong muốn nghiên cứu và hiểu rõ được
vai trò quan trong của Đảng trong quá trình giải phóng dân tộc, nhóm chúng em xin phép
tìm hiểu về “Quá trình phát triển và giải quyết những hạn chế trong Luận cương chính
trị tháng 10 – 1930 trong giai đoạn 1939 – 1945” để tìm hiểu chi tiết về sự phát triển,
hình thành và hoàn thiện đường lối và mục tiêu của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc.
PHẦN NỘI DUNG
I. Hoàn cảnh lịch sử
1.1. Tình hình thế giới
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới những từ những năm 1929 làm cho nền kinh tế
xã hội của tất cả các nước tư bản chủ nghĩa đều bị đình trệ, nền dân chủ tư sản bị thủ tiêu
và thay thế vào đó là nền chuyên chính của bọn phát xít. Tháng 10 năm 1929, khủng
hoảng diễn ra sớm nhất ở Mĩ rồi lan sang các nước tư bản khác. Khủng hoảng diễn ra ở
tất cả các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, tài chính. Cuộc khủng hoảng
đã gây ra những hậu quả hết sức nặng nề không chỉ kinh tế mà cả chính trị và xã hội cho
thế giới tư bản chủ nghĩa.Cuộc khủng hoảng ở các nước tư bản đã lan sang các xứ thuộc
địa, nhân dân ở các nơi này phải chịu gánh nặng khủng hoảng của “chính quốc”.
Tại Pháp, cuộc khủng hoảng diễn ra muộn hơn, nhưng lại hết sức mạnh và sâu sắc.
Khủng hoảng công nghiệp xen kẽ khủng hoảng nông nghiệp và tài chính. Sản lượng công
nghiệp Pháp giảm sút 1/3, nông nghiệp giảm 2/5, ngoại thương giảm 3/5 thu nhập quốc
dân giảm 1/3. Cũng như nhiều đế quốc khác muốn thoát khỏi tình trạng bi thảm của cuộc
khủng hoảng, giới tư bản tài chính Pháp tìm cách trút hậu quả nặng nề của nó lên đầu
nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa (trong đó có Đông
Dương).
1.2. Tình hình trong nước
Ở Việt Nam từ năm 1930 trở đi, con đường Cách mạng vô sản đã dẫn dắt nhân dân
ta đấu tranh bằng những cao trào rộng lớn. Mở đầu cho những bước phát triển mới là sự
bùng nổ cao trào chống đế quốc phong kiến những năm 1930 - 1931, đỉnh cao là sự xuất
hiện và tồn tại của các Xô - Viết ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Không phải là do “Cộng
sản kích động” như các quan chức thực dân lúc ấy nhận định, cao trào cách mạng những
năm 1930 - 1931 bùng nổ ngay sau thất bại của khởi nghĩa Yên Bái, là hậu quả của
những chính sách kinh tế - xã hội của thực dân Pháp ở Đông Dương trong giai đoạn này.
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 đã kịp thời đưa ra đường lối phù hợp nhất
với nguyện vọng đấu tranh của xã hội lúc đó, vì vậy Đảng Cộng Sản đã trở thành người
lãnh đạo phong trào dân tộc.
Bắt đầu là những cuộc đấu tranh ôn hòa ủng hộ các chiến sĩ Yên Bái, chống chính
sách khủ bố trắng của Pháp, nổ ra từ tháng 2 - 4/1930. Phong trào được mở màn bằng các
cuộc bãi công ở đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, lan nhanh ra khắp thành thị và thôn quê ở
Bắc - Trung - Nam. Qua đó các Đảng bộ địa phương được thống nhất về tổ chức, quần
chúng công nông được tập hợp lại, tinh thần đấu tranh của nhân dân tiếp tục được hâm
nóng lên và gây dựng phong trào thành phong trào mới.
Giữa lúc phong trào cách mạng đang diễn ra sôi nổi, Ban Chấp hành Trung ương
lâm thời của Đảng vừa thành lập đã bước ngay vào một cuộc thử thách toàn diện trên
cương vị đội tiền phong lãnh đạo cuộc đấu tranh mới của dân tộc. Tháng 4-1930, đồng
chí Trần Phú từ Mátxcơva về nước sau quá trình học tập từ trường Quốc tế Phương
Đông. Tháng 7-1930, đồng chí Trần Phú được bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Trung
ương lâm thời và được phân công nhiệm vụ cùng Ban Thường vụ chuẩn bị soạn thảo bản
Luận cương chính trị trình Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Trong khi chuẩn bị bản Luận cương (tại nhà số 7 phố Giăng Xôle (Jean Soler), đồng chí
Trần Phú đã vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, kinh nghiệm phong trào
cộng sản quốc tế và Đề cương cách mạng thuộc địa của Quốc tế Cộng sản; kết hợp với
việc đi khảo sát thực tế phong trào công nhân và nông dân ở Hải Phòng, Nam Định, Thái
Bình, đồng thời dựa trên ý kiến của Ban Thường vụ Trung ương lâm thời. Sau một quá
trình làm việc miệt mài, nghiêm túc, đồng chí Trần Phú viết ra Dự thảo Luận cương
chính trị của Đảng. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng được tiến
hành từ ngày 14 đến ngày 30- 10-1930 tại Hương Cảng (Trung Quốc) do Trần Phú chủ
trì. Hội nghị quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông
Dương, thông qua Luận cương chính trị của Đảng, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương
chính thức gồm 7 ủy viên, đồng chí Trần Phú là Tổng Bí thư.
II. Nội dung Luận cương chính trị tháng 10-1930
“ I- TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ CÁCH MẠNG ĐÔNG DƯƠNG
1. Từ sau lúc đế quốc chiến tranh (1914-18), tình hình thế giới có thể chia ra làm
ba thời kỳ:
a) Trong thời kỳ thứ nhứt (1918-23), kinh tế tư bổn vì chiến tranh mà tiêu điều,
khủng hoảng, vô sản Âu châu nhiều chỗ nổi lên tranh đấu cướp chánh quyển. Rút cuộc,
một mặt thì vô sản Nga dẹp được bọn đế quốc vây đánh ở ngoài và bọn phản cách mạng
phá phách ở trong mà đặt vững nền vô sản chuyển chánh; nhưng một mặt thì vô sản Tây
Âu bị thất bại (như vô sản Đức năm 1923).
b) Trong thời kỳ thứ hai (1923-28), các đế quốc chủ nghĩa nhơn vô sản Âu châu
vừa thất bại, hết sức tiến công mà bóc lột vô sản giai cấp và dân thuộc địa, làm cho kinh
tế đế quốc được tạm thời ổn định. Vô sản giai cấp ở các nước để quốc vì thất bại trong
thời kỳ trước cho nên chỉ lo tranh đấu mà giữ thế thủ. Ở các thuộc địa thì cách mạng nổi
lên. Ở Liên bang Xôviết thì kinh tế trở nên vững vàng, làm cho ảnh hưởng cộng sản lan
khắp thế giới.
c) Thời kỳ thứ ba là thời kỳ hiện nay có những đặc điểm sau này:
Sự tạm thời ổn định của tư bổn đa không thể giữ lại được nữa, mà lại đã trở vào
khủng hoảng, thành thử để quốc chủ nghĩa lại càng phải giành nhau thị trường rất kịch
liệt, làm cho trận đế quốc chiến tranh sắp tới không sao tránh khỏi được.
Kinh tế Liên bang Xôviết đã phát triển lên quá trình độ trước thời kỳ để quốc
chiến tranh, đã gây dựng xã hội chủ nghĩa một cách rất thắng lợi, cho nên các đế quốc
chủ nghĩa càng căm tức, muốn đánh đổ Liên bang Xôviết là thành trì cách mạng thế giới.
Ở các nước đế quốc thì võ sản giai cấp tranh đấu kịch liệt (bãi công lớn ở Đức, ở
Pháp, ở Ba Lan, v.v.); ở các thuộc địa thì phong trào cách mạng rất là bồng bột (nhứt là
Tàu và Ấn Độ). Có phong trào cách mạng như thế là vì tư bôn bị khủng hoảng và càng
thẳng tay bóc lột quần chủng, làm cho số công nhân thất nghiệp trong thế giới có hằng
mấy mươi triệu và tình cảnh quần chúng công nông rất khổ cực.
Trong thời kỳ thứ ba này, cách mạng vô sản và cách mạng thuộc địa đã lên đến
trình độ rất cao, có nơi đã sắp sửa cướp chánh quyển.
Hiện nay Đông Dương đã đem lực lượng cách mạng tham gia vào phong trào
tranh đấu rầm rột trong thế giới, mở rộng hàng trăm công nông chống với đế quốc chủ
nghĩa. Vả lại phong trào cách mạng bồng bột trong thế giới (nhất là ở Tàu và ấn Độ) lại
ảnh hưởng mạnh đến phong trào tranh đấu ở Đông Dương, làm cho cách mạng Đông
Dương càng mau bành trướng. Vậy nên cách mạng thế giới và cách mạng Đông Dương
rất có quan hệ với nhau.
II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VỀ TÌNH HÌNH Ở ĐÔNG DƯƠNG
2. Xứ Đông Dương (Việt Nam, Cao Miên và Lào) là một xứ thuộc địa để khai
khẩn của đế quốc chủ nghĩa Pháp. Bởi vậy kinh tế của Đông Dương bị phụ thuộc vào
kinh tế của đế quốc chủ nghĩa Pháp. Hai đều đặc điểm hơn hết ở trong sự phát triển Đông
Dương là:
a) Xứ Đông Dương cần phải phát triển một cách độc lập, nhưng vì là thuộc địa cho
nên không phát triển độc lập được.
b) Sự mâu thuẫn giai cấp càng ngày càng kịch liệt: một bên thì thợ thuyền, dân cày
và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tự bồn và đế quốc chủ nghĩa.
3. Mâu thuần về kinh tế
a) Nông nghiệp thì phần nhiều là phải làm cho đế quốc chủ nghĩa đem bán ở nước
ngoài, tuy vậy mà cách kinh doanh vẫn không thoát khỏi lột phong kiến. Các thứ đồn
điền (cao su, bông, cà phê, vv.) thì phần nhiều là của bọn tư bổn Pháp. Ruộng đất phần
rất nhiều là của bọn địa chủ bổn xứ. Kinh doanh theo lối phong kiến, nghĩa là cho dân cày
nghèo thuê từng miếng mà lấy địa tô rát cao. Hoa lợi về nghề làm ruộng ở Đông Dương
lại kém hơn ở các xứ khác (một hécta ở Mã Lai thì được 2.150 kilô lúa, ở Xiêm 1.870
kilô. Ở Âu châu 4.570 kilô, ở Đông Dương chỉ 1.210 kilô). Lúa gạo xuất cảng hàng năm
càng nhiều, nhưng không phải vì nghề nông phát triển mà chính là vì bọn tư bổn cướp
gạo của dân mà bán.
b) Chế độ áp bức của đế quốc chủ nghĩa Pháp làm ngăn trở không cho sức sanh
sản Đông Dương phát triển. Đế quốc chủ nghĩa không khoách trương các công nghệ nặng
(như nấu gắt, đúc máy, vv), vì những công nghệ ấy phát triển thì hại cho độc quyền của
công nghệ Pháp. Nó chỉ phát triển những công nghệ gì rất cần dùng cho sự thống trị và
buôn bán của nó mà thôi, như (đường xe lửa, xưởng đóng tàu nhỏ, v.v.). Mục đích của đế
quốc Pháp là cốt làm cho Đông Dương thành ra một xứ phụ thuộc về nền kinh tế của nó,
vì vậy nên nó chỉ cho phát triển công nghệ gì làm ở Đông Dương có lợi cho nó hơn làm ở
Pháp mà thôi. Sự khai khẩn nguyên liệu không phải cốt làm cho xứ Đông Dương phát
triển kinh tế một cách độc lập, mà cốt làm cho công nghệ Pháp khỏi phải phụ thuộc vào
các đế quốc khác.
c) Việc buôn bán xuất cảng thì năm trong một bọn tư bổn Pháp. Bởi vậy cho nên
việc buôn bán và việc sanh sản trong xứ đều tuỳ theo sự cần dùng xuất sang của đế quốc
Pháp. Thành thử xuất cảng càng tăng tiến bao nhiêu thì các sản vật tự nhiên trong xứ lại
bị đế quốc chủ nghĩa rút hết bấy nhiêu. Lại có một đều đặc biệt nữa là các nhà ngân hàng
Pháp (như Đông Pháp ngân hàng. Địa Ốc ngân hàng, vv.) góp tiền vốn của dân bổn xử để
dùm cho bọn buôn bán xuất cảng Pháp.
Nói tóm lại: Kinh tế Đông Dương cũng vẫn là kinh tế nông nghiệp, mà trong kinh
tế ấy thì những lối phong kiến lại chiếm địa vị trọng yếu. Tất cả những đều kiện ấy làm
cho kinh tế Đông Dương không thể phát triển độc lập được.
4. Mâu thuẫn giai cấp
Đế quốc chủ nghĩa Pháp liên hiệp với bọn địa chủ, bọn lái buôn và bọn cho vay
bổn xử mà bóc lột dân cày một cách rất độc ác. Đế quốc chủ nghĩa rút các sản vật nông
nghiệp đem bán cho các nước ngoài, đem hàng hóa của nó vào bán trong xứ, bắt dân
đóng sưu cao thuế nặng, làm cho dân cày đói khổ và thủ công thất nghiệp rất nhiều.
Ruộng đất thì lần lần rút vào tay đế quốc và địa chủ cả, lại có một bọn bao đất về
cho thuê lại (quá điền), ruộng đất thuê đi mướn lại mấy lần mới đến dân cày nghèo, bởi
vậy mà địa tô rất cao.
Dân cày thiếu thốn phải đi vay, thì phải bị bọn cho vay bóc lột, đến nỗi nhiều khi
phải đem ruộng đất hoặc con cái mà gán nợ.
Đê giữ nước lụt thì đế quốc không chú ý sửa sang. Dẫn thuỷ nhập điền thì về tay
một bọn tư bổn nó cho thuê rất cao, dân cày nghèo không có tiền thì không có nước.
Thành thử nạn mất mùa vì nước lụt và đại hạn càng ngày càng nhiều. Vì vậy dân cày
chăng những là không có thể phát triển kinh tế của họ, mà lại càng ngày càng phải phụ
thuộc vào bọn tư bổn và càng phải suy đồi số người thất nghiệp và chết đói càng ngày
càng đông.
Nền kinh tế cũ thì phá hoại rất mau mà công nghệ mới thì phát triển rất chậm:
những người đói khổ và thất nghiệp không thể hoá ra công nhơn hết mà phải đọng lại
trong nhà quê. Tình cảnh ở nhà quê rất là thê thảm.
Ở các sản nghiệp và các đồn điền, mỏ, hầm0, bọn tư bổn bóc lột đè nén thợ thuyền
một cách rất dã man. Tiền lương thì không đủ ăn lại bị cúp ngược, củp xuôi. Ngày làm thì
trung bình cũng 11, 12 giờ. Thường thường lại bị chưởi bị đánh. Lúc ốm đau đã không
được thuốc thang mà lại còn bị đuổi. Công nhơn không có chút xã hội bảo hiểm nào ca.
Ở trong các đồn điền và hầm mỏ, bọn chủ nhốt thợ thuyền trong trại và không cho đi ra
khỏi chỗ làm. Chúng nó dùng giấy giao kèo mà mộ người chở đi cho khác rồi tự do cai
quản lấy thợ thuyền, thậm chí có quyền xử phạt thợ thuyền. Vì tình cảnh làm ăn cực khổ
như thế, cho nên số công nhơn Đông Dương bị bệnh nguy hiểm (như ho lao, đau mắt, sốt
rét, v.v.) rất đông; số người chết non rất đông và càng ngày càng thêm.
Vô sản giai cấp Đông Dương tuy chưa đông đúc, nhưng số thợ thuyền càng ngày
càng thêm, nhứt là thợ đồn điển. Sự tranh đấu của thợ thuyền càng ngày càng hăng hái
Dân cày cũng đã tỉnh dậy chống đế quốc và địa chủ rất kịch liệt. Những cuộc bãi công
trong năm 1928-29, những cuộc tranh đấu rất dữ dội của thợ thuyền và dân cày trong năm
nay (1930) đã chứng tỏ ra rằng sự tranh đấu giai cấp ở Đông Dương ngày càng bành
trướng. Đều đặc biệt và quan trọng nhất trong phong trào cách mạng ở Đông Dương là sự
tranh đấu của quần chúng công nông có tánh chất độc lập rất rõ rệt, chớ không phải là
chịu ảnh hưởng quốc gia chủ nghĩa như lúc trước nữa.
III. TÁNH CHẤT VÀ NHIỆM VỤ CÁCH MẠNG ĐÔNG DƯƠNG
5. Hết thảy những đều mâu thuẫn đã kể trên làm cho phong trào cách mạng ở
Đông Dương càng càng phát triển. Trong lúc đầu, cuộc cách mạng Đông Dương sẽ là
một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, bởi vì cách mạng chưa có thể trực tiếp giải quyết
được những vấn đề tổ chức xã hội chủ nghĩa; sức kinh tế trong xứ còn rất yếu, các di tích
phong kiến còn nhiều, sức mạnh giai cấp tương đương chưa mạnh về phía vô sản, và lại
còn bị đế quốc chủ nghĩa áp bức. Vì những điều kiện ấy cho nên thời kỳ bây giờ cách
mạng chỉ có tánh chất thổ địa và phản chế.
Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng. Tư sản dân
quyền cách mạng được thắng lợi, chánh phủ công nông đã dựng lên rồi, thì công nghiệp
trong nước được phát triển, các tổ chức vô sản được thêm mạnh, quyền lãnh đạo của vô
sản sẽ thêm kiên cố, sức mạnh giai cấp tương đương sẽ nặng về phía vô sản. Lúc đó sự
tranh đấu sẽ thêm sâu, thêm rộng, làm cho cách mạng tư sản dân quyền tiến lên con
đường cách mạng vô sản. Thời kỳ này là thời kỳ cách mạng vô sản toàn thế giới và thời
kỳ kiến trúc xã hội chủ nghĩa ở Liên bang Xô viết; xứ Đông Dương sẽ nhờ vô sản giai
cấp chuyên chánh các nước giúp sức cho mà phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh
đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động
lực chánh, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được.
6. Sự cốt yếu của tư sản dân quyền cách mạng thì một mặt là phải tranh đấu để
đánh đố các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lời tiền tư bổn và để thực
hành thổ địa cách mạng cho triệt để, một mặt nữa là tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai mặt tranh đấu có liên lạc mật
thiết với nhau, vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm
cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được
đế quốc chủ nghĩa. Muốn thực hành được những đều cốt yếu ấy thì phải dựng lên chánh
quyền Xôviết công nông. Chỉ có chánh quyền Xôviết công nông mới là cái khí cụ rất
mạnh mà đánh đổ đế quốc chủ nghĩa, phong kiến, địa chủ. làm cho dân cày có đất mà
cày, làm cho vô sản có pháp luật bảo hộ quyền lợi cho mình.
Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là:
a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, phong kiến và địa chů,
b) Lập chánh phủ công nông,
c) Tịch ký hết thảy ruộng đất của bọn địa chủ ngoại quốc, bốn xứ và các giáo hội;
giao ruộng đất ấy cho trung và bần nông, quyền sở hữu ruộng đất về chánh phủ công
nông,
d) Sung công hết thảy các sản nghiệp lớn của bọn tư bổn ngoại quốc,
đ) Bỏ các xưu thuế hiện thời, lập ra thuế luỹ tiến,
e) Ngày làm công tám giờ, sửa đổi sự sanh hoạt cho thợ thuyền và quần chủng lao
khổ,
g) Xứ Đông Dương hoàn toàn độc lập, thừa nhận dân tộc tự quyết,
h) Lập quân đội công nông,
i) Nam nữ bình quyền,
k)Ủng hộ Liên bang Xôviết; liên kết với vô sản giai cấp toàn thế giới và phong
trào cách mạng thuộc địa và bán thuộc địa.
7. Trong cuộc cách mạng ở Đông Dương, địa vị các giai cấp không đều nhau:
a) Bọn tư bổn đối với đế quốc chủ nghĩa có vị trí không đều nhau: bọn tư bổn
thương mại vì có lợi quyền dính dáng với đế quốc cho nên đứng về một phe với đế quốc
chủ nghĩa và địa chủ mà chống cách mạng. Bọn tư bổn công nghệ vẫn có lợi quyền trái
với đế quốc chủ nghĩa, nhưng vì:
- Là sức lực của chúng nó rất kém,
- Là chúng nó có dính dáng với địa chủ (có nhiều anh kiêm địa chủ),
- Là chúng nó sợ phong trào vô sản và chịu ảnh hưởng phản cách mạng của bọn tư
bổn Tàu và Ấn Độ, cho nên chúng nó không thể đứng về quốc gia cách mạng mà chỉ
đứng về mặt quốc gia cải lương.
Nhưng khi phong trào quần chúng nổi lên cao, cách mạng V.S. 1 đến trước mắt thì
bọn này sẽ theo phe đế quốc chủ nghĩa.
b) Tiểu tư sản có nhiều hạng, địa vị mỗi hạng lại mỗi khác và trong mỗi thời kỳ
cách mạng thì địa vị ấy lại đổi khác nữa:
- Bọn thủ công nghiệp, vì bị hàng hoá của đế quốc chở tới rất nhiều cạnh tranh
không nổi, cho nên có ác cảm với đế quốc. Đối với phong trào cách mạng vô sản, bọn
này cũng có ác cảm, vì chúng nó muốn giữ lấy cách bóc lột những thợ học nghề với
chúng nó. Vì sự mâu thuẫn ấy mà thái độ chúng nó đối với cách mạng rất do dự.

1
V.S.: Vô sản (B.T).
- Bọn tiểu thương gia có quan hệ với cách bóc lột như là buôn bán và cho vay
nặng lời, bởi vậy chúng nó muốn giữ lấy chế độ ấy, vì thế mà chúng nó không tán thành
cách mạng.
- Bọn tri thức, tiểu tư sản, học sanh, v..v. là bọn xu hướng quốc gia chủ nghĩa,
chúng nó đại biểu quyền lợi cho tất cả giai cấp tư bổn bổn xứ, chớ không phải chỉ bênh
vực quyền lợi riêng cho bọn tiểu tư sản mà thôi. Trong thời kỳ chống đế quốc chủ nghĩa
thì bọn ấy cũng hăng hái tham gia, nhưng chỉ lúc đầu mà thôi, chúng nó không thể binh
vực quyền lợi cho dân cày được, vì chúng nó phần nhiều có dây dướng với bọn địa chủ.
- Các phần tử lao khổ ở thành phố như là bọn bán rao ngoài đường, bọn thủ công
nghiệp nhỏ không mướn thợ, bọn trí thức thất nghiệp, v.v. vì sanh hoạt cực khổ cho nên
đều theo cách mạng cả.
8. Sức mạnh của cách mạng.
a) Vô sản giai cấp ở Đông Dương phần nhiều do dân cày hoặc là thủ công thất
nghiệp mà hoá ra, còn đương mới mẻ chưa thoát khỏi những tư tưởng hẹp hòi, những hủ
tục phong kiến và ít biết chữ, cho nên sự giai cấp giác ngộ có bị trở ngại. Tuy vậy, giai
cấp ấy rất là tập trung và mỗi ngày lại thêm đông; và cách bóc lột áp bức theo lối thuộc
địa rất tàn nhẫn, thành thử vô sản giai cấp mau phá sự trở ngại ấy mà nổi lên tranh đấu
càng ngày càng hăng hái để chống lại tư bổn đế quốc. Vì vậy cho nên vô sản giai cấp
thành một động lực chánh và rất mạnh của cách mạng ở Đông Dương, và lại là giai cấp
lãnh đạo cho dân cày và quần chúng lao khổ làm cách mạng.
b) Dân cây là hạng người chiêm đại đa số ở Đông Dương (hơn 90 phần 100
(90%)), họ là một động lực mạnh cho cách mạng tư sản dân quyền. Nhưng dân cày ở
Đông Dương không phải là nhứt luật như nhau cả. Trong lúc tranh đấu chống địa chủ và
đế quốc chủ nghĩa thì vô sản có thể kéo hết thảy dân cày về phe cách mạng, nhưng lúc sự
phân hóa giai cấp ở thôn quê càng rộng càng sâu, cuộc thổ địa cách mạng càng bành
trường, thì bọn phú nông càng mau bước sang phe phản cách mạng.
Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp có đứng
đầu và cùng với quân chúng dân cày ma tranh đấu để binh vực quyền lại hàng ngày cho
dân cây, và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để, thì mới có thể giành quyền lãnh
đạo cho dân cày được. Đồng minh của giai cấp vô sản là bọn trung và bần nông.
9. Đối với các giai cấp
a) Tư bổn bổn xứ chia làm hai bộ phận một bộ phận thì đã hiệp tác với đế quốc
chủ nghĩa (dự vào các cơ quan chánh trị và kinh tế), một bộ phận nữa (bọn Huỳnh Thúc
Kháng, bọn Phạm Quỳnh, bọn Ngọ Báo, v.v.) hiện còn tìm cách thoả hiệp với đế quốc;
chúng nó lợi dụng phong trào cách mạng để yêu cầu đế quốc những quyền lợi riêng của
chúng nó, đồng thời để lừa gạt quần chúng (ngoài mặt thì chúng nó làm bộ đòi những sự
cải cách, nhưng kỳ thiệt chúng nó kiếm cách phá hoại phong trào cách mạng của công
nông. Chiến lược của Đảng là phải chỉ rõ cải tánh chất quốc gia cải lương của bọn này ra.
Mục đích của bọn này là cốt làm cho quần chúng sanh mộng tưởng mà quên con đường
cách mạng. Nếu từ đây mà Đang không tranh đấu kịch liệt để kéo quần chúng ra khỏi ảnh
hưởng quốc gia cải lương, thì ảnh hưởng ấy sẽ thành một sự nguy hiểm cho sự phát triển
của cách mạng. Đảng phải làm cho quần chúng hiểu rõ ràng các bọn quốc gia cải lương
chỉ muốn điều đình với đế quốc chủ nghĩa, đã nhiều lần phản cách mạng, hết sức chống
những đều yêu cầu của quần chúng.
b) Đảng phải nhận rõ cái tánh chất và địa vị các đảng phái tiểu tư sản trong cuộc
cách mạng (như bọn Quốc dân Đảng. Ng. An Ninh, v.v.). Bây giờ các đảng phái ấy tuy
còn ở trong địa vị quốc gia cách mạng nhưng rồi đây cùng hóa ra quốc gia cải lương. Các
đảng phái ấy đều dính dáng với giai cấp địa chủ và tư bổn bổn xứ. Đối với đế quốc chủ
nghĩa thì bọn trí thức tiểu tư sản lãnh tụ các đảng phái ấy và chủ trương quốc gia cách
mạng. Nhưng mục đích của họ chỉ chủ trương sự phát triển tư bổn cho xứ Đông Dương
mà thôi. Khi phong trào cách mạng phản đế mới nổi lên thì họ chống đế quốc chủ nghĩa
và binh vực quyền lợi cho giai cấp tư bổn bổn xứ. Nhưng đến lúc cách mạng phát triển đã
cao; lúc phải giải quyết các vấn đề căn bổn nhứt là vấn đề thổ địa cách mạng và vấn đề
công nông chuyên chánh, thì các đảng phải ấy sẽ bỏ cách mạng mà chạy về cải lương và
hiệp tác với đế quốc chủ nghĩa.
Bởi vậy cho nên về mặt chánh trị và tổ chức ngay từ lúc đầu, chúng ta phải phân
tách giới hạn của Đảng Cộng sản và các đảng phải tiểu tư sản cho thiệt rõ, nhứt là phải
đánh đổ những xu hướng tiểu tư sản (ám sát, không tín nhiệm quần chủng, v.v.) ở trong
Đảng mình.
Muốn lợi dụng cho hết mọi cơ hội để mở rộng phong trào cách mạng, Đảng có thể
tạm thời hợp tác với các đảng phải ấy, nhưng nếu các đảng phải ấy có thiệt ra tranh đấu
chống đế quốc chủ nghĩa và không ngăn trở sự cổ động tuyên truyền cộng sản trong quần
chủng công nông thì mới có thể tạm thời hợp tác được. Nếu không có những điều kiện ấy
thì không nên hợp tác. Khi hợp tác, thì lúc nào Đảng cũng phải giữ cho phong trào công
nông có tánh chất giai cấp, nghĩa là phải giữ lấy quyền tự do cổ động, tuyên truyền, tổ
chức và đem quần chúng tranh đấu theo khẩu hiệu phản đế và thổ địa cách mạng của
Đảng. Đồng thời lại phải chỉ trích những sự hành động không triệt để và không quả quyết
của các đảng phái ấy, và chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi của họ. Phải dè trước những sự do
dự của họ để dự bị cách đối phó. Phải hết sức đánh đổ ảnh hưởng của bọn ấy trong quần
chúng và phải kéo quần chúng thoát khỏi ảnh hưởng ấy, để giành lấy quyền lãnh đạo cho
vô sản.
10. Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần
phải có một Đảng Cộng sản có một đường chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết
liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong
của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh
và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương, và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông
Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản.
Muốn làm cho trọn nhiệm vụ của Đảng trong cuộc cách mạng, trước hết Đảng cần
phải: tổ chức ra những đoàn thể độc lập (công hội, nông hội, v.v.).
a) Đảng phải thâu phục đại đa số của giai cấp mình, cho nên trách nhiệm trung tâm
của Đảng là tổ chức và khoách trương Công hội đỏ trong những sản nghiệp trọng yếu và
trong các thành phố lớn. Công hội phải thống nhứt và tập trung theo sản nghiệp và theo
địa phương. Phải tổ chức công xưởng uy viên hội, và chú ý tổ chức công nhân các đồn
điền và mỏ. Đảng không những chỉ công tác trong các công hội đó mà thôi, mà lại cần
phải chú ý công tác trong đoàn thể thợ thuyền còn chịu ảnh hưởng bọn phản động hoặc
cải lương, để thâu phục quân chúng. Đảng phải hết sức liên lạc những sự hoạt động công
khai và bí mật để khoách trương cuộc công nhân vận động.
b) Muốn lập công nông chuyện chánh thì vô sản giai cấp phải lãnh đạo cho đại đa
số quần chúng lao khổ, nhứt là dân сàу. Vậy nên Đảng рhải chú ý về việc tập trung ruộng
đất phát triển ra thế nào, và sự mâu thuẫn giai cấp ở thôn quê. Ngay từ lúc đầu, Đảng phải
lãnh đạo dân cày chống đế quốc và địa chủ. Bần và trung nông là phần tử hăng hái làm
cách mạng thổ địa, cho nên phải hết sức tổ chức họ khắp trong xứ. Đều cần nhứt của
Đảng là phải tổ chức công hội công nhân nông nghiệp cho kiên cố và làm cho họ thành
người lãnh đạo quần chúng nông dân trong cuộc cách mạng.
Còn bọn phú nông thì ngay từ lúc bây giờ phải chú ý đừng cho bọn ấy xen vào
nông hội, và ảnh hưởng đến trung và bần nông.
11. Các tranh đấu
Trong lúc định chiến lược, Đảng phải xét kỹ tình hình trong nước và ngoài thế
giới, sức mạnh của địch nhân, sức tranh đấu của quần chúng, thái độ các hạng người đối
với cách mạng, v.v.. Đảng căn cứ ở những điều kiện ấy mà định ra chiến lược để lãnh đạo
cho quần chúng tranh đấu. Lúc thường thì phải tùy theo tình hình mà đặt khẩu hiệu "phần
ít" để binh vực lợi quyền cho quần chúng như: tăng tiền lương, bớt giờ làm, giảm thuế,
chống thuế, chống sự sanh hoạt mắc mớ, v.v. để khoách trương sự tranh đấu cách mạng
ra. Phải đem khẩu hiệu "phần ít" ấy phụ thuộc vào khẩu hiệu chính của Đảng như: đánh
đổ đế quốc chủ nghĩa, địa chủ và phong kiến, xứ Đông Dương hoàn toàn độc lập, lập
chánh phủ công nông, v.v..
Không chú ý đến những sự nhu yếu và sự tranh đấu hằng ngày của quần chúng là
rất sai lầm. Mà nếu chỉ chú ý đến những sự nhu yếu hằng ngày mà không chú ý đến
những mục đích lớn của Đảng cũng là rất sai lầm.
Nhiệm vụ của Đảng là phải lấy những sự nhu yếu hằng ngày làm bước đầu mà dắt
vô sản giai cấp và dân cày ra chiến trường cách mạng. Đến lúc sức cách mạng lên rất
mạnh, giai cấp thống trị đã rung động, các giai cấp đứng giữa đã muốn bỏ về phe cách
mạng, quần chúng công nông thì sôi nổi cách mạng, quyết hy sanh phấn đấu, thì Đảng
phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chánh phủ của địch nhân và giành lấy chính
quyền cho công nông.
Lúc đó Đảng phải ra khẩu hiệu "giao tiếp" và nâng cao những khẩu hiệu ấy lên
như: lập Xôviết, lập hội đồng tịch ký ruộng đất, sản nghiệp do công nhân kiểm soát, võ
trang cho công nông, v.v.. Đồng thời Đảng phải tổ chức và khuếch trương hết cả các cách
tranh đấu của quần chúng như bãi công, bãi công vừa thị oai, bãi công vừa võ trang thị
oai, tổng bãi công bạo động.
Võ trang bạo động không phải là một việc thường, chẳng những là theo hình thể
trực tiếp cách mạng, mà lại phải theo khuôn phép nhà binh, cho nên cần phải chú ý.
Trong khi không có tình thế trực tiếp cách mạng cũng cứ kịch liệt tranh đấu; nhưng kịch
liệt tranh đấu ấy không phải là để tổ chức những cuộc manh động, hoặc là võ trang bạo
động quá sớm, mà cốt là để suy động đại quần chúng ra thị oai, biểu tình bãi công, v.v.,
để dự bị họ về cuộc võ trang bạo động sau này.
12. Phải đối đế quốc chiến tranh
Thời kỳ này là thời kỳ khủng hoảng khắp cả các nước đế quốc, phong trào công
nhân ở các nước và ở Đông Dương nổi lên rất mạnh. Cái nguy cơ chiến tranh của các đế
quốc càng ngày càng gần. Bởi vậy Đảng phải hết sức khoách trương công tác "phản đối
binh bị”, và một mặt tổ chức trong quân đội, một mặt tổ chức đội tự vệ của công nông,
phải làm cho các khẩu hiệu chống đế quốc chủ nghĩa chiến tranh lan khắp và sâu vào
trong quần chúng, như: đổi chiến tranh đế quốc ra chiến tranh cách mạng, đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa và giai cấp bóc lột. Binh vực Liên bang Xôviết và phong trào cách mạng
trong thế giới, v.v..
13. Liên lạc với vô sản và dân thuộc địa thế giới
Vô sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết với vô sản thế giới, nhứt là vô sản
Pháp để làm mặt trận vô sản “mẫu quốc” và thuộc địa cho sức tranh đấu cách mạng được
mạnh lên.
Trong cuộc tranh đấu chống đế quốc, quần chúng cách mạng Đông Dương lại phải
liên lạc với quần chúng cách mạng ở các thuộc địa và bán thuộc địa, nhứt là ở Tàu và Ấn
Độ, v.v..
Trong công tác, Đảng phải liên lạc mật thiết với Đảng Cộng sản Pháp, Tàu và Ấn
Độ.”1
III. Những hạn chế trong Luận cương chính trị tháng 10-1930
- “Chỉ rõ mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ thuyền, dân cày
và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc”2.Khi
đánh giá mâu thuẫn, do những hạn chế trong đánh giá thực tiễn xã hội Việt Nam. Luận
cương chưa nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa
dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp. Vì quá nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp (áp đặt tư
tưởng mâu thuẫn giai cấp của Quốc tế cộng sản vào Việt Nam) nên không đặt nhiệm
vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu mà lại nhấn mạnh nhiệm vụ chống
phong kiến là quan trọng. Điều này không phù hợp với tình hình xã hội Việt Nam lúc
bấy giờ (Tầng lớp địa chủ và giai cấp tư sản Việt Nam không có tiềm lực mạnh về
kinh tế, không bóc lột tầng lớp dưới nhiều dẫn đến mâu thuẫn giai cấp gay gắt như xã
hội các nước phương Tây).
- “Khẳng định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là: Đánh đổ phong kiến,
thực hành cách mạng ruộng đất triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho
Đông Dương hoàn toàn độc lập3”.Luận cương khẳng định chống đế quốc và thổ địa
cách mạng là 2 nhiệm vụ gắn bó khăng khít và không thể tách rời, đồng thời đặt vấn đề
thổ địa làm cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền. Luận cương đã quá nhấn mạnh
nhiệm vụ cách mạng ruộng đất và khẳng định cách mạng ruộng đất là cốt lõi của cách
mạng tư sản dân quyền.→ Làm kìm hãm Cách mạng giải phóng dân tộc. Nhiệm vụ
quan trọng mà cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ cần tập trung trước tiên là chống đế
quốc để giành lại độc lập, tự do dân tộc chứ không phải chống phong kiến. Hai nhiệm
vụ đó nên được thực hiện ở hai giai đoạn khác nhau để có thể huy động tối đa nguồn
lực cho mỗi nhiệm vụ.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: “Văn kiện Đảng toàn tập – tập 2 1930”, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, tr.92-109
2
Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng
khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.(2018), tr33
3
Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng
khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.(2018), tr33
- Về lực lượng cách mạng: “Giai cấp vô sản vừa là động lực chính của cách mạng
tư sản dân quyền vừa là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Dân cày là lực lượng đông đảo
nhất và là động lực mạnh của cách mạng”1. Do nhận thức giáo điều và máy móc về
vấn đề dân tộc và giai cấp ở thuộc địa, lại chịu ảnh hưởng trực tiếp từ quốc tế cộng
sản. Luận cương chỉ tập hợp những người nghèo như công nhân, nông dân và các phần
tử lao khổ, đánh giá không đúng và bỏ qua khả năng cách mạng của tầng lớp tiểu tư
sản, khả năng chống đế quốc và phong kiến ở mức độ nhất định của giai cấp tư sản dân
tộc, khả năng lôi kéo một bộ phận trung, tiểu địa chủ tham gia mặt trận dân tộc thống
nhất chống đế quốc và tay sai Luận cương không huy động được mọi lực lượng
trong xã hội Việt Nam cho cuộc đấu tranh chống đế quốc Pháp và bọn tay sai, giành
độc lập cho dân tộc, không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp
rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược.
- Về quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới: “Cách mạng Đông
Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, vì thế giai cấp vô sản Đông
Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là giai cấp vô sản
Pháp,và phải mật thiết liên lạc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa
thuộc địa nhằm mở rộng và tăng cường lực lượng cho cuộc đấu tranh cách mạng ở
Đông Dương”2. Cách mạng mở rộng ra toàn khu vực Đông Dương thể hiện qua việc
đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương cũng là một
điểm hạn chế, không phát huy được quyền tự quyết của các dân tộc trong sự nghiệp tự
giải phóng cho mình và thậm chí làm cho cách mạng Việt Nam nặng nề hơn khi phải
giải phóng toàn Đông Dương. Việc mở rộng phạm vi hoạt động sẽ ảnh hưởng, tác
động đến tinh thần dân tộc và sĩ khí đấu tranh của lực lượng ta. Các nước Đông Dương
tuy có mối quan hệ về nhiều mặt, nhưng đều có những đặc điểm kinh tế - xã hội riêng
của từng quốc gia dân tộc. Nên Đảng phải là Đảng riêng của từng dân tộc, để đảng đó

1
Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không
chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.(2018), tr33
2
Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không
chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.(2018), tr34
đánh giá được dân tộc mình, tự vạch ra chiến lược, đường lối cho cách mạng tại quốc
gia của mình, phát huy và khai thác quyền tự quyết dân tộc.
⇨ Nguyên nhân của những hạn chế này xuất phát từ sự thiếu nghiên cứu và đánh giá
thực tiễn về tình hình xã hội Việt Nam lúc bấy giờ cùng với những nhận thức giáo
điều, máy móc về vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng ở thuộc địa
IV. Quá trình phát triển và giải quyết những hạn chế trong Luận cương chính trị
tháng 10 – 1930 trong giai đoạn 1939 – 1945
1. Phân tích quá trình phát triển và giải quyết hạn chế trong Luận cương chính trị
tháng 10-1930 của văn kiện 1 (Hội nghị trung ương VI của Đảng năm 1939)
1.1. Hoàn cảnh lịch sử và cơ sở dẫn đến hội nghị trung ương VI của Đảng
Tình hình chính trị thế giới và Việt Nam trong những năm 1939
Ngày 1/9/1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan. Ngày 3/9/1939, Pháp và Anh tuyên
chiến với Đức, Chiến tranh Thế giới thứ 2 bùng nổ. Chính phủ Pháp thực hiện chính
sách thù địch đối với các lực lượng tiến bộ trong nước và phong trào cách mạng ở các
thuộc địa, trong đó có Đông Dương. Tăng cường đàn áp, ban bố lệnh thiết quân luật,
phát xít hóa bộ máy nhà nước
Tình hình kinh tế - xã hội thế giới và Việt Nam trong những năm 1939:
- Thực dân Pháp thi hành chính sách “Kinh tế chỉ huy”. Chúng tăng mức thuế cũ, đặt
thêm thuế mới... đồng thời sa thải bớt công nhân, viên chức, giảm tiền lương, tăng
giờ làm....
- Bọn phong kiến dựa vào đế quốc để giữ đặc quyền, đặc lợi, chia nhiều phe đảng
- Do đó tình hình kinh tế chính trị trong nước gặp nhiều khó khăn, loạn lạc.
 Trước tình hình đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp trong ba ngày
6, 7, 8- 11-1939, nhằm giải quyết vấn đề chuyển hướng đường lối và phương pháp
cách mạng trong tình hình mới.
1.2. Nội dung cơ bản của hội nghị trung ương VI của Đảng vào năm 1939
- Nhiệm vụ chiến lược trước mắt: đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc
Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. "Bước đường sinh tồn của các
dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế
quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để tranh lấy giải
phóng độc lập".
- Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của
bọn đế quốc và địa chủ phản bội cho dân cày nghèo, chống tô cao, lãi nặng...
- Ban Chấp hành Trung ương đã xác định rõ mâu thuẫn chủ yếu, gay gắt nhất ở
Đông Dương cũng như nước ta đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách đó là mâu thuẫn
giữa các dân tộc và bọn đế quốc, phát xít Nhật - Pháp.
- Lần đầu tiên, Hội nghị làm sáng tỏ mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế và
phản phong, xác định rõ nhiệm vụ phản đế là quan trọng, làm rõ thêm tính chất khăng
khít nhưng không tiến hành nhất loạt ngang nhau giữa hai nhiệm vụ đó.
Từ đó cho ta thấy nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu.
- Phương pháp cách mạng: chuyển từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ sang
đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền tay sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp
sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp, “bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng
dân tộc".
- Lực lượng cách mạng: liên minh công nông là "hai lực lượng chính của cách
mạng" để đoàn kết tất cả các giai cấp các đảng phái, các dân tộc các phần tử phản đế
chĩa mũi nhọn của cách mạng vào kẻ thù chủ yếu là đế quốc và tay sai của chúng. Để
tập trung mọi lực lượng dân tộc vào nhiệm vụ chủ yếu là chống chiến tranh đế quốc và
ách thống trị phát xít thuộc địa, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất dân
tộc Phản đế Đông Dương (gọi tắt là Mặt trận Phản đế Đông Dương) thay cho Mặt trận
Dân chủ Đông Dương không còn phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới.
1.3. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VI giải quyết một số hạn chế trong Luận
cương chính trị tháng 10/1930
- Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11/1939 đánh dấu bước chuyển hướng quan
trọng về lý luận và đường lối phương pháp cách mạng của Đảng. Đảng đã khắc phục
được hạn chế trong vấn đề xác định nhiệm vụ chiến lược, đã nhìn nhận ra “Giải phóng
dân tộc” là nhiệm vụ hàng đầu. Đối với thực tiễn Việt Nam, các mâu thuẫn giữa các
giai cấp trong dân tộc không gay gắt nhưng giữa toàn dân tộc đối với đế quốc phát xít
thì lại cần thiết để ưu tiên tiến hành nhiệm vụ chống đế quốc.
- Hội nghị TW Đảng lần VI (11/1939) cũng đã đánh dấu sự chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược của Đảng. Đây là sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đúng đắn. Đảng ta
đã gương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đoàn kết được rộng rãi mọi tầng lớp giai
cấp, dân tộc Đông Dương trong một mặt trận dân tộc thống nhất để đấu tranh chống kẻ
thù chung.
 Bước chuyển hướng quan trọng phù hợp với tình hình thực tiễn tại Việt Nam. Nghị
quyết cũng góp phần làm phong phú kho tàng lý luận của Đảng ta về cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân.
- So với giai đoạn 1930-1935, có thể thấy rõ Đảng ta đã có những quan điểm mới
rất khác so với Luận cương chính trị tháng 10/1930 và Nghị quyết Đại hội Đại biểu
tháng 3/1935 của Đảng, đó là các quan điểm về nhiệm vụ chiến lược và lực lượng cách
mạng. Những quan điểm này đã khắc phục được những mặt hạn chế của giai đoạn
trước. Tuy nhiên, ở giai đoạn này vẫn còn tồn tại một hạn chế đó là phạm vi giải quyết
vấn đề dân tộc vẫn trên toàn Đông Dương.
2. Phân tích quá trình phát triển và giải quyết hạn chế trong Luận cương chính trị
tháng 10-1930 của văn kiện 2 (Hội nghị trung ương VII của Đảng năm 1940)
2.1. Hoàn cảnh lịch sử và cơ sở dẫn đến Hội nghị trung ương VII của Đảng
Lúc này, chiến tranh Thế Giới lan rộng. Tháng 6/1940, Pháp đầu hàng Đức. Chính
quyền mới thực hiện một loạt chính sách vơ vét sức người, sức của của Đông Dương dốc
vào chiến tranh.
Cuối tháng 9/1940, quân Nhật vượt biên giới Việt-Trung vào miền Bắc Việt Nam.
Quân Pháp nhanh chóng đầu hàng. Phát xít Nhật giữ nguyên bộ máy thống trị của thực
dân Pháp, dùng nó để bóc lột kinh tế phục vụ cho nhu cầu chiến tranh và đàn áp phong
trào cách mạng Nhân dân Việt Nam chịu cảnh một cổ bị hai tròng áp bức và đặt dưới
ách thống trị của Nhật - Pháp. Từ đó làm cho mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc, phát
xít Nhật - Pháp ngày càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết
2.2. Nội dung cơ bản của hội nghị trung ương VII của Đảng vào năm 1940
Từ 6-9/11/1940 hội nghị Trung ương Đảng đã họp tại làng Đình Bảng, huyện Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Tham dự Hội nghị có các đồng chí Trường Chinh, Hạ Bá Cang,
Hoàng Văn Thụ, Phan Đăng Lưu, Trần Đăng Ninh. Hội nghị khẳng định sự đúng đắn chủ
trương cách mạng của đảng vạch ra tại hội nghị trung ương tháng 11/1939 và hoàn chỉnh
thêm một bước sự điều chỉnh chủ trương cách mạng của đảng, nhận định kẻ thù: hội nghị
vạch rõ kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là phát xít Pháp – Nhật
 Nội dung của hội nghị:
Nhận định kẻ thù: Pháp đầu hàng Nhật làm cho Đông Dương rơi vào cảnh “một cổ
hai tròng”, vừa bị thực dân Pháp đàn áp, vừa bị phát xít Nhật hành hạ. Kẻ thù mà nhân
dân Đông Dương cần phải đánh đổ trong lúc này là thực dân Pháp và phát xít Nhật. Từ
đó, Hội nghị Trung ương lần thứ 7 – 1940 đã chỉ rõ kẻ thù chính của nhân dân Đông
Dương lúc này là phát xít Nhật và đề quốc Pháp.
Tính chất của cuộc cách mạng:
- Hội nghị trung ương VII đã nhấn mạnh Cách mạng Đông Dương vẫn là cách mạng
tư sản dân quyền.
- Xác định quyền lãnh đạo cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương thuộc về giai
cấp vô sản. Hội nghị đã nêu rõ trong văn kiện Đảng rằng: “Nếu giai cấp tư sản giữ quyền
lãnh đạo cách mạng thì sau khi đánh đổ được ách đế quốc, nhân dân Đông Dương vẫn
phải chịu ách tư bản; những tàn tích phong kiến sẽ không xóa hết được, thợ thuyền dân
cày, các lớp lao động sẽ thống khổ không kém bây giờ. Cho nên chỉ có giai cấp Đông
Dương lĩnh đạo cho cuộc cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương mới làm cho cuộc
cách mạng ấy đến đầu đến đuôi” 1
Xác định nhiệm vụ: Đánh đổ đế quốc và tay sai làm cho Đông Dương hoàn toàn độc
lập.
Mặt trận đấu tranh:
1
Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 77
- Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Dân tộc
Thống nhất Phản đế, nhằm tập hợp hết thảy những lực lượng phản đế, phản phong kiến ở
Đông Dương đánh đổ đế quốc Pháp – phát xít Nhật và bè lũ tay sai phản lại quyền lợi dân
tộc
- Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11.1940 đã đưa ra quan niệm về “Mặt
trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh phản đế
không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống nhất
hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế
quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng phản bội
quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng” 1
- Đi kèm với đó là việc lựa chọn những người hăng hái nhất trong các đoàn thể của
Mặt trận, tổ chức các đội tự vệ, trực tiếp vũ trang cho dân chúng, tổ chức nhân dân cách
mạng quân, tiến lên vũ trang bạo động.
Phương pháp và hình thức đấu tranh:
- Duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, thành lập những đội du kích, làm cơ sở cho
xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. khi cần thiết thì chiến đấu chống khủng bố, bảo
vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, phát triển cơ sở và lực lượng cách mạng, tiến tới
thành lập khu căn cứ lấy vùng Bắc Sơn – Võ Nhai làm trung tâm. Do Trung ương trực
tiếp chỉ đạo và đồng chí Hoàng Văn Thụ chịu trách nhiệm thực hiện Nghị quyết này.
- Chỉ thị cho xứ ủy Nam Kỳ hoãn cuộc khởi nghĩa vì chưa đủ điều kiện bảo đảm
cho khởi nghĩa thắng lợi. Đồng chí Phan Đăng Lưu, Ủy viên Trung ương Đảng được giao
nhiệm vụ truyền đạt chủ trương này của Trung ương đến Đảng bộ Nam Kỳ.
2.3. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VII giải quyết một số hạn chế trong Luận
cương chính trị tháng 10/1930
Hội nghị trung ương VII đã có những chuyển biến tích cực trong đường lối đấu
tranh cách mạng giành độc lập dân tộc. Cho ta thấy được hướng phát triển và từng bước
giải quyết các hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10/1930 như:

1
Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 72
Nhận định đúng kẻ thù của nhân dân Đông Dương lúc này là thực dân Pháp và
phát xít Nhật. Việc đánh đổ đế quốc và tay sai, giành hoàn toàn độc lập tự do cho dân tộc
mới là điều quan trọng và phải đặt lên ưu tiên hàng đầu → Giải quyết được hạn chế đầu
tiên của Luận cương chính trị tháng 10/1930, đó là Luận cương chưa vạch rõ được
mâu thuẫn chủ yếu của một xã hội thuộc địa là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với
thực dân Pháp xâm lược và bọn tay sai của chúng mà chỉ nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp
và đưa nhiệm vụ chống phong kiến lên hàng đầu. Trong Luận cương chính trị xác định
mâu thuẫn xã hội: “ Một bên là thợ thuyền dân cày và các phần tử lao khổ, một bên là
địa chủ phong kiến, tư bản và chủ nghĩa đế quốc ” 1
Hội nghị trung ương VII đã xác định rõ nhiệm vụ lúc bấy giờ đó là phải giành lại độc lập
hoàn toàn.  Đã giải quyết được hạn chế thứ hai của Luận cương chính trị tháng
10/1930, khi đó Luận cương khẳng định chống đế quốc và thổ địa cách mạng là hai
nhiệm vụ không thể tách rời, đồng thời cũng đặt vấn đề thổ địa làm cái cốt của cách
mạng. Điều này đã làm kiềm hãm cách mạng giải phóng dân tộc
Việc thành lập một mặt trận chung (mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông
Dương) đã thể hiện sự kêu gọi toàn dân tộc, đặt tinh thần dân tộc lên trên mâu thuẫn giai
cấp. Từ đó lôi kéo những thành phần giai cấp khác như tiểu tư sản, tư sản dân tộc, yêu
nước → Giải quyết được hạn chế thứ ba trong Luận cương chính trị tháng 10/1930,
đó là Luận cương không đề ra được chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi
trong cuộc đấu tranh chống đế quốc và tay sai. Dẫn chứng từ phần III “Luận cương đã
quá nhấn mạnh vai trò của giai cấp công nhân, nông dân mà chưa thấy được hết khả
năng cách mạng của các giai cấp, tầng lớp khác như phong kiến, tư sản, tiểu tư sản, trí
thức, đặt họ đứng chung phe với đế quốc”. Dẫn chứng là trong Luận cương chính trị đã
xác định: “Giai cấp vô sản vừa là động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền vừa
là giai cấp lãnh đạo cách cách mạng. Dân cày là lực lượng đông đảo nhất và là động lực
mạnh của cách mạng”2. Mặt khác, Luận cương tháng 10/1930 không những phủ nhận vai
1
Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không
chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.(2018), tr33
2
Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không
chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.(2018), tr33
trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, phủ nhận mặt tích cực của giai cấp tư sản dân tộc
mà còn cường điệu mặt tiêu cực của họ: “Giai cấp Tư sản thương nghiệp thì đứng về đế
quốc chống Cộng Sản. Tư sản công nghiệp thì đứng về quốc gia cải lương, khi cách
mạng phát triển cao thì họ sẽ đứng về đế quốc. Trong giai cấp tiểu tư sản: bộ phận thủ
công nghiệp thì do dự, thành phần thương gia thì không tán thành cách mạng, tri thức thì
có xu hướng quốc gia cần hăng hái trong thời kỳ đầu chỉ các phần tử lao khổ mới theo
cách mạng mà thôi.”1
3. Phân tích quá trình phát triển và giải quyết hạn chế trong Luận cương chính trị
tháng 10-1930 của văn kiện 3 (Hội nghị trung ương VIII của Đảng năm 1941)
3.1. Hoàn cảnh lịch sử và cơ sở dẫn đến Hội nghị trung ương VIII của Đảng
Tình hình thế giới:
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và nhanh chóng lan rộng ra nhiều nước. Phát
xít Đức ráo riết chuẩn bị xâm lược Liên Xô. Nhật mở rộng xâm lược Trung Quốc và tiến
công xuống miền Nam.
Tình hình trong nước:
Tháng 9/1940, Nhật nhảy vào Đông Dương, Pháp đầu hàng và cấu kết với Nhật,
áp bức bóc lột nhân dân. Nhân dân các dân tộc Đông Dương phải chịu hai tầng áp bức
của Pháp – Nhật. Mâu thuẫn giữa các dân tộc ở Đông Dương với Pháp – Nhật trở nên sâu
sắc hơn bao giờ hết. Vận mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng.
Nhân dân Đông Dương ngày càng cách mạng hóa. Nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra.
Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi nghĩa Nam Kì và cuộc binh biến Đô
Lương vào cuối năm 1940 đầu năm 1941.
Ngày 28/01/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách
mạng, triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 ở Pắc Pó (Cao
Bằng) từ ngày 10 đến 19/5/1941.

1
Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không
chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.(2018), tr34
3.2. Nội dung cơ bản của hội nghị trung ương VIII của Đảng vào năm 1941
Phân tích tình hình thế giới và tình hình Đông Dương: Hội nghị nhận định phát xít
Đức sẽ tấn công Liên Xô và chiến tranh Thái Bình Dương sẽ bùng nổ. Dự đoán phe Đồng
minh chống phát xít sẽ thắng lợi và sinh ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, nhận định cách
mạng Đông Dương là một bộ phận của Cách mạng chống phát xít thế giới. Tại Đông
Dương, từ khi Nhật nhảy vào xâm chiếm, Pháp đầu hàng Nhật, mọi hoạt động kinh tế ở
Đông Dương đều bị chiến tranh hoá, tất cả bộ máy cai trị đều bị phát xít hoá. Chính sách
phản động đó của Pháp - Nhật càng làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông Dương với
chủ nghĩa đế quốc xâm lược thêm sâu sắc. Hội nghị vạch rõ mâu thuẫn chủ yếu, đòi hỏi
phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa các dân tô ̣c Đông Dương với bọn đế
quốc - phát xít xâm lược Pháp - Nhâ ̣t.
Về nhiệm vụ cách mạng Đông Dương: Xác định nhiê ̣m vụ bức thiết nhất của cách
mạng không còn phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là một cuộc cách
mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “giải phóng dân tô ̣c” vì “quyền lợi của tất cả
các giai cấp bị cướp giâ ̣t; vâ ̣n mê ̣nh dân tô ̣c nguy vong không lúc nào bằng”1. Hô ̣i nghị
chỉ rõ: “Trong lúc này, quyền lợi của bô ̣ phâ ̣n, của giai cấp phải đă ̣t dước sự sinh tử, tồn
vong của quốc gia dân tô ̣c. Trong lúc này, nếu không đòi được đô ̣c lâ ̣p tự do cho toàn thể
dân tô ̣c thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tô ̣c còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền
lợi của bô ̣ phâ ̣n, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.2
Về khẩu hiệu: Trung ương Đảng khẳng định: “Chưa chủ trương làm cách mạng tư
sản dân quyền mà chủ trương làm cách mạng giải phóng dân tộc”. Nhằm triệt để phát huy
yếu tố dân tộc, phân hoá hàng ngũ giai cấp địa chủ, Hội nghị tiếp tục thực hiện chủ
trương tạm gác khẩu hiê ̣u “tịch thu ruộng đất của giai cấp địa chủ chia cho dân nghèo”
thay bằng khẩu hiê ̣u “tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày
nghèo, chia lại ruộng công, giảm tô, giảm tức”, tiến tới thực hiê ̣n “người cày có ruộng”.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2000) Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.7, tr. 118-
119.
2
Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác -  Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng (1995) Lịch sử cách
mạng tháng 8 -1945, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 38-40.
Như vâ ̣y, vấn đề ruô ̣ng đất chỉ được đề ra ở mô ̣t mức đô ̣ nhất định của giai cấp địa chủ,
tâ ̣p trung mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc - phát xít Pháp - Nhâ ̣t.
Về mối quan hệ giữa cách mạng ở Đông Dương: Căn cứ tình hình cụ thể của cách
mạng mỗi nước ở Đông Dương, Hô ̣i nghị chủ trương thi hành đúng quyền “dân tộc tự
quyết” giải quyết vấn đề dân tô ̣c trong khuôn khổ mỗi nước ở Đông Dương, để “làm sao
đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân (hơn hết là dân tộc Việt
Nam)”. Đây là cơ sở cho sự đổi mới hình thức tên gọi Mặt trận dân tộc thống nhất để “có
tính dân tộc hơn, cho có một mãnh lực dễ hiệu triệu hơn”. Song các dân tô ̣c ở Đông
Dương phải đoàn kết cùng nhau chống kẻ thù chung là Pháp - Nhâ ̣t, đồng thời liên hê ̣ mâ ̣t
thiết với Liên Xô và các lực lượng dân chủ chống phát xít.
Về mặt trận dân tộc: Hội nghị quyết định thành lâ ̣p ở Viê ̣t Nam mă ̣t trâ ̣n lấy tên là:
“Viê ̣t Nam độc lập đồng minh” (gọi tắt là Viê ̣t Minh) vào ngày 19/05/1941, nhằm liên
hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái,
không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải
phóng và sinh tồn. Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc trong mặt trận đều
lấy tên Hội Cứu Quốc như: Hội Công nhân Cứu quốc, Hội Nông dân Cứu quốc, Hội Phụ
nữ Cứu quốc, Hội Thanh niên Cứu quốc,… nhằm tâ ̣p hợp, đoàn kết mọi lực lượng quần
chúng nhân dân chống kẻ thù chính là phát xít Pháp - Nhâ ̣t và tay sai.
Về phương pháp cách mạng: Hô ̣i nghị xác định phương pháp cách mạng là khởi
nghĩa vũ trang “cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ
trang”. Coi viê ̣c chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiê ̣m vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn
dân; vạch ra khởi nghĩa vũ trang muốn thắng lợi phải nổ ra đúng thời cơ, phải có đủ điều
kiê ̣n chủ quan và khách quan; chủ trương đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi
nghĩa “với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong
từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi
nghĩa to lớn”1.
Về tổ chức: Hội nghị đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng, làm cho Đảng đủ năng lực
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị đề ra gấp rút đào tạo cán
1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2000) Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.7, tr. 132.
bộ và tăng thêm thành phần vô sản trong Đảng. Hội nghị bầu Ban Chấp hành Trung ương
mới và cử đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư. Đồng thời phác họa về một nhà nước
tương lai sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước “của chung cả toàn thể dân
tộc” 1 . Hội nghị chỉ rõ, “không nên nói công nông liên hiệp và lập chính quyền Xô-viết
mà phải nói toàn thể nhân dân liên hiệp và thành lập chính phủ dân chủ cộng hòa” 2.
3.3. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII giải quyết một số hạn chế trong Luận
cương chính trị tháng 10/1930
Xác định rõ mâu thuẫn: Mâu thuẫn chủ yếu và cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc
Việt Nam và đế quốc phát xít Pháp – Nhật, không còn nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp như
trong Luận cương chính trị 10-1930.
Xác định rõ nhiệm vụ: Nếu như trong Luận cương 10-1930 xác định hai nhiệm vụ
chống đế quốc và thổ địa cách mạng gắn bó khăng khít không thể tách rời thì Hội nghị
trung ương lần VIII đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên ưu tiên hàng đầu để giành lại
độc lập, tự do dân tộc.
Khắc phục được hạn chế về lực lượng tham gia, tăng cường liên minh dân tộc,
đoàn kết dân tộc: Hội nghị thấy được khả năng cách mạng và tinh thần yêu nước của các
giai cấp, tầng lớp khác ngoài công – nông và lôi họ về với cách mạng.
Khắc phục hạn chế về phạm vi: Hội nghị quyết định đặt vấn đề dân tộc trong
khuôn khổ của từng nước Việt Nam, Lào, Khơ me, thi hành đúng quyền “dân tộc tự
quyết”, với tinh thần liên hệ mật thiết, giúp đỡ nhau giành thắng lợi.
Hội nghị đưa ra phương thức khởi nghĩa vũ trang và chú trọng xây dựng Đảng:
Hội nghị khẳng định chủ trương điều chỉnh chiến lược trong Hội nghị Trung ương lần VI
và VII là đúng và hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược cách
mạng đã đề. Đưa ra biện pháp, nhiệm vụ cụ thể và tập trung xây dựng tổ chức để tích cực
chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2000) Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.7, tr. 114.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam (2000) Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.7, tr. 127.
 Hội nghị Trung ương lần VIII đã giải quyết hầu hết các hạn chế trong bản luận
cương chính trị tháng 10-1930, không còn nhận thức một cách giáo điều, máy móc về
quốc tế cộng sản mà đã có sự cải biến phù hợp với tình hình dân tộc Việt Nam. Đồng thời
Hội nghị cũng đưa ra những phương hướng đấu tranh, nhiệm vụ cụ thể và chú trọng hơn
về xây dựng Đảng. Có tác dụng quyết định trong việc vận động toàn Đảng, toàn dân
chuẩn bị tiến tới cách mạng tháng Tám.
4. Phân tích quá trình phát triển và giải quyết hạn chế trong Luận cương chính trị
tháng 10-1930 của văn kiện 4 (Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta” ban hành vào ngày 12-3-1945)
4.1. Hoàn cảnh lịch sử và cơ sở dẫn đến Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động
của chúng ta”
Sau khi Nhật vào Đông Dương, để tiến hành quá trình xâm lược của mình, Nhật
đã bắt tay với thực dân Pháp tiến hành đàm áp phong trào cách mạng ở Việt Nam. Tuy
nhiên mâu thuẫn về quyền lợi giữa chúng ngày càng gia tăng, nguy cơ nổ ra xung đột
ngày càng cao và tất yếu phát-xít Nhật sẽ hất cẳng thực dân Pháp ra khỏi Đông Dương.
Lúc bấy giờ trên thế giới, với chiến thắng của Liên Xô và các lực lượng đồng
minh trước chủ nghĩa phát-xít, thời cơ cách mạng đã đến với nhiều nước trên thế giới khi
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Hàng loạt cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã nổ ra
thắng lợi, hình thành một hệ thống các nước chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Cách mạng
giải phóng dân tộc ở Á, Phi, Mỹ la-tinh đứng trước vận hội lớn của lịch sử trong đó có
Việt Nam.
Ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), Hội nghị Thường vụ mở rộng,
dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh, đã khai mạc tại chùa Đồng Kỵ, sau đó
họp tiếp tại làng Đình Bảng (Bắc Ninh), ra Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động
của chúng ta" vào ngày 12-3-1945.
4.2. Nội dung cơ bản của hội nghị trung ương VIII của Đảng vào năm 1941
Nhận định tình hình: Cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông
Dương đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc nhưng điều kiện khởi nghĩa
chưa thực sự chín muồi. Tuy vậy, hiện đang có những cơ hội tốt làm cho những điều kiện
Tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi.
Xác định kẻ thù: Sau cuộc đảo chính, phát xít Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể
trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương. Vì vậy phải thay khẩu hiệu “đánh đuổi
phát xít Nhật – Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”.
Chủ trương: Phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề
cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh lúc
này phải thay đổi cho thích hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa như tuyên truyền xung phong,
biểu tình tuần hành, bãi công chính trị, biểu tình phá kho thóc của Nhật để giải quyết nạn
đói, đẩy mạnh xây dựng các đội tự vệ cứu quốc, v.v…
Phương châm đấu tranh lúc này là phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng
vùng, mở rộng căn cứ địa.
Dự kiến những thời cơ thuận lợi để thực hiện Tổng khởi nghĩa như khi quân Đồng
minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng
minh để phía sau sơ hở. Cũng có thể là cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách
mạng của nhân dân Nhật được thành lập, hoặc Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940 và
quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần.
Đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận: từ giữa tháng
3/1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất sôi nổi, mạnh mẽ và phong
phú về nội dung cũng như hình thức.
Phong trào đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần đã diễn ra trong nhiều nơi ở
vùng thượng du và trung du Bắc kỳ. Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc
quân phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng hàng loạt xã, châu,
huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang.
Ở Bắc Giang, quần chúng nổi dậy thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng ở nhiều
làng. Đội du kích Bắc Giang được thành lập. Ở Quảng Ngãi, cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Ba
Tơ. Đội du kích Ba Tơ được thành lập. Giữa lúc cao trào kháng Nhật cứu nước đang dâng
lên mạnh mẽ, ngày 15/4/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân
sự cách mạng Bắc kỳ tại Hiệp Hòa (Bắc Giang). Hội nghị nhận định: Tình thế đã đặt
nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này. Chúng
ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật để chuẩn
bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ. Hội nghị đã quyết định thống nhất các lực lượng
vũ trang sẵn có thành Việt Nam giải phóng quân; quyết định xây dựng 7 chiến khu trong
cả nước và chủ trương phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang, v.v…
Trong hai tháng 5 và 6/1945, các cuộc khởi nghĩa từng phần liên tục nổ ra, nhiều
chiến khu được thành lập ở cả ba miền. Ở khu giải phóng và một số địa phương, chính
quyền nhân dân đã hình thành, tồn tại song song với chính quyền tay sai của phát xít
Nhật. Ngày 4/6/1945, khu giải phóng chính thức được thành lập gồm hầu hết các tỉnh
Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và một số vùng
lân cận thuộc tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên.
Giữa lúc phong trào quần chúng trong cả nước đang phát triển mạnh mẽ ở cả nông
thôn và thành thị thì nạn đói đã diễn ra nghiêm trọng ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ
do Nhật, Phát đã vơ vét hàng triệu tấn lúa gạo của nhân dân. Hơn 2 triệu đồng bào ta bị
chết đói. Xuất phát từ lợi ích sống còn trước mắt của quần chúng, Đảng kịp thời đề ra
khẩu hiệu “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”. Chủ trương đó đã đáp ứng đúng nguyện
vọng cấp bách của nhân dân ta. Vì vậy, trong một thời gian ngắn, Đảng đã động viên
được hàng triệu quần chúng tiến lên trận tuyến cách mạng.
4.3. Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” giải quyết một số hạn
chế trong Luận cương chính trị tháng 10/1930
Khắc phục hạn chế về xác định mâu thuẫn:
Xác định phát xít Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân
dân Đông Dương. Chỉ thị chỉ rõ: Kẻ thù của nhân dân Đông Dương là phát-xít Nhật và
tay sai của chúng. Vì vậy, Thường vụ Trung ương Đảng đã quyết định thay đổi khẩu hiệu
“Đánh đuổi phát-xít Nhật - Pháp” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát-xít Nhật”
Về phương châm đấu tranh: phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng,
mở rộng căn cứ địa. Khắc phục hạn chế về phương pháp cách mạng “võ trang bạo
động”, “phải tuân theo khuôn phép nhà binh”.
PHẦN KẾT LUẬN
Qua bài tập nhỏ lần này, nhóm chúng em đã làm rõ và phân tích được Quá trình
phát triển và giải quyết những hạn chế trong Luận cương chính trị tháng 10 – 1930 trong
giai đoạn 1939 – 1945 thông qua việc phân tích những hạn chế và quá trình giải quyết
những hạn chế đế trong các văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII và chỉ thị “Nhật Pháp
bắn nhau và hành động của chúng ta” nhằm tìm hiểu và hiểu rõ hơn về sự hình thành và
phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng trong
thời kì 1930-1945. Qua đó, nhóm chúng em nhận thấy được sự quan trọng của Đảng
trong quá trình giải phóng dân tộc và đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc
Hội nghị Trung ương VIII của Đảng (tháng 5/1941) là ngọn đèn pha soi sáng, là ngọn cờ
dẫn đường chỉ lối cho toàn dân ta giành thắng lợi vĩ đại trong cách mạng tháng 8/1945,
lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng (2008),
Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam tập II, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.
3. Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử
Đảng (2005) Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập – tập 7, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
5. Bài học hay, triết lí nhân sinh (11/03/2020), Nội dung cơ bản của Nghị quyết các hội

nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ tháng 11 - 1939 đến tháng 5 – 1941.Truy
cập từ: https://baihochay.com/lich-su-12/noi-dung-co-ban-cua-nghi-quyet-cac-hoi-
nghi-ban-chap-hanh -trung-uong-dang-tu-thang-11-1939-den-thang-5-1941-4661.html
6. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam (19/09/2019) Hội nghị Ban Chấp hành Trung

ương Đảng. Truy cập từ: https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-


nghiem-tim-hieu-90-nam-lich-su-ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-lieu-90-
nam-lich-su-dang/hoi-nghi-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-535532.html
7. Trang thông tin điện tử Hội đồng lý luận trung ương (29/08/2021), Sự hình thành,

phát triển, hoàn thiện đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ
1930-1945. Truy cập từ: http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/su-hinh-thanh-phat-
trien-hoan-thien-duong-loi-cach-mang-giai-phong-dan-toc-cua-dang-thoi-ky-1930-
1945----%E2%80%8B.html

You might also like