You are on page 1of 15

1.

3 Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh,
bền vững.

Con người luôn được coi là yếu tố cơ bản nhất trong tất cả các yếu tố tham gia vào
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì các nguồn lực khác không có khả năng tự
thân mà phải thông qua nguồn lực con người mới phát huy tác dụng, các nguồn lực
khác dùng thì hết, trái lại nguồn lực con người càng dùng càng phát triển. Nguồn lực
con người là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần đạo đức, phẩm chất,
trình độ tri thức, vị thế xã hội,… tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng để sử
dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và trong các hoạt
động xã hội. . Trong các yếu tố trên thì phẩm chất đạo đức và trình độ học vấn là quan
trọng nhất, nó nói lên mức trưởng thành của con người, quy định phương pháp tư duy,
nhân cách, lối sống của mỗi con người. Khi nói đến nguồn lực con người chính là
chúng ta đang nói tới con người với tư cách là chủ thể hoạt động sáng tạo, tham gia cải
tạo tự nhiên, làm biến đổi xã hội.

Kinh tế muốn phát triển cần phải có 5 yếu tố sau: vốn, khoa học và công nghệ,
con người, thể chế chính trị và cơ cấu kinh tế. Lực lượng cán bộ khoa học và công
nghệ, khoa học quản lý và đội ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng
đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nguồn nhân lực cho công nghiê ̣p hóa,
hiê ̣n đại hóa cần phải đòi hỏi đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình đô ̣, có khả năng
nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghê ̣ tiên tiến của thế giới và có
khả năng sáng tạo ra công nghê ̣ mới.

Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng
đến nhu cầu tương lai. Thể chế phát triển nhanh - bền vững là thể chế mang tính dung
hợp cao, tính “vượt trội” để có khả năng đón nhận có hiệu quả các xu thế và mô hình
phát triển mới, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; đồng thời hóa giải
được các thách thức, huy động và sử dụng có hiệu quả tất cả các nguồn lực, trong đó
đặt trọng tâm vào nguồn lực con người chất lượng cao và khoa học - công nghệ hiện
đại, bảo đảm sự phát triển dựa vào năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Ở nước ta,
quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã được nhận thức rất sớm và được thể hiện
trong nhiều chủ trương, nghị định của Đảng.
Thực trạng nguồn nhân lực ở thành phố HCM

Trong quý II và 6 tháng đầu năm 2021, thị trường lao động Việt Nam nói chung và
ở TP HCM nói riêng đã bị ảnh hưởng do sự bùng phát lần thứ 3 và thứ 4 của đại dịch
Covid-19. Tình hình lao động việc làm quý II cho thấy thị trường lao động chưa thấy
dấu hiệu khả quan với số người có việc làm giảm so với quý trước, tỷ lệ thất nghiệp và
thiếu việc làm tăng so với quý trước. Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức tăng so
với cùng kỳ năm trước.

Theo báo cáo của Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực TP. Hồ Chí Minh cho thấy,
trong tháng 6/2021, thị trường lao động thành phố có nhu cầu tuyển dụng 20.000 chỗ
làm, trong đó, nhu cầu tuyển dụng của các DN trong các khu công nghiệp - khu chế
xuất (KCN - KCX) là 5.000 chỗ. Theo các nhà tuyển dụng, nhu cầu nhân lực tiếp tục
theo xu hướng cần nhiều nhân lực chất lượng cao, tuy nhiên, việc tuyển dụng lực
lượng này rất khó bởi nguồn cung lao động chưa đáp ứng được nhu cầu của các nhà
tuyển dụng. Nhiều ngành nghề, lĩnh vực luôn ở trong tình trạng thiếu hụt trầm trọng
nhân lực chất lượng cao như: kinh doanh tài chính, ngân hàng, kiểm toán, công nghệ
thông tin, điện tử, viễn thông, cơ khí chế tạo…

 Tại thị trường lao động TP Hồ Chí Minh, nghịch lý là đang rất thừa lao động
không phù hợp những ngành nghề nằm trong định hướng phát triển, nhưng lại rất thiếu
nhân lực chất lượng cao ở những ngành cần thiết cho sự phát triển. Có hơn 70% số
sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa được trang bị tốt về chuyên môn cũng như kỹ năng
mềm, trình độ ngoại ngữ để tiếp cận công việc. Ngoài ra, bằng cấp cao không quyết
định vấn đề xin việc khó hay dễ mà nguồn nhân lực đó có đáp ứng được yêu cầu của
nhà tuyển dụng hay không. Thậm chí, nhiều công ty cho biết họ đang gặp khó khăn
trong tuyển dụng nhân lực chất lượng cao. Hàng năm, công ty phải bỏ ra hàng trăm
nghìn USD để đưa người lao động đi đào tạo lại, vì nguồn nhân lực tuyển vào không
đáp ứng được yêu cầu công việc.

Giải pháp phát triển nguồn lực con người

Cần xác định rõ nguồn lực con người là tài nguyên quý giá nhất của thành phố,
trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, từ đó có chiến lược để phát triển
nguồn nhân lực cho từng ngành, từng nghề, từng lĩnh vực,... gắn với thực tế hiện nay.
Phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài. Cần xây dựng chính sách phát hiện,
thu hút, bồi dưỡng, đãi ngộ nhân tài đồng bộ, hợp lí và thực hiện theo một quy trình
thống nhất, liên hoàn gồm nhiều khâu, nhiều giai đoạn; phát hiện, đào tạo bồi dưỡng
và bố trí sử dụng; trong đó sử dụng vừa là mục tiêu, vừa là động lực của các quy trình
phát triển tài năng. Các cơ quan quản lí nhân sự kết hợp chặt chẽ với các trường đại
học nhằm phát hiện những ứng cử viên tiềm năng.

Không ngừng nâng cao chất lượng, chăm sóc sức khỏe người dân, chính sách
lương thưởng, đảm bảo an sinh xã hội. Theo các chuyên gia, để phát triển nguồn nhân
lực cho toàn thành phố thì trước mắt và lâu dài phải quan tâm đến yếu tố chất lượng
sinh đẻ, và yếu tố bồi dưỡng sức dân. Không thể nói đến phát triển nguồn nhân lực khi
sinh ra những đứa trẻ còi cọc, ốm yếu, khi sức dân không được bồi dưỡng. Vấn đề này
liên quan đến hàng loạt các yếu tố khác như chính sách xã hội, chính sách y tế, bảo
hiểm, chính sách tiền lương, chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng,..

Phát triển giáo dục- đào tạo, không ngừng nâng cao tay nghề, hiểu biết pháp luật.
Nhà nước phải có kế hoạch phối hợp tạo nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, tri
thức, có kế hoạch khai thác, đào tạo, sử dụng các nguồn nhân lực phù hợp để giảm
thiểu thất nghiệp cũng như các chi phí phát sinh. Để làm được điều đó, cần:

 Đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương pháp đào tạo, giáo dục.
 Đổi mới công tác quản lí giáo dục, đào tạo một cách toàn diện cả về tư duy lẫn
phương thức quản lí.
 Đầu tư hợp lí và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực con người cho giáo dục và
đào tạo nhằm mục đích đưa ngành giáo dục khỏi tình trạng chậm phát triển so
với khu vực và cả nước.
 Xây dựng, chuẩn hóa đội ngủ giáo viên, nhân viên cả về số lượng lẫn chất
lượng, có trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp, toàn tâm toàn ý với sự nghiệp
giáo dục.
 Nhà nước có chính sách khuyến khích hoặc bắt buộc người sử dụng lao động
có trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ tay nghề cho người lao
động
 Đề cao vai trò, vị trí của các tổ chức Công đoàn trong việc động viên công
nhân lao động tích cực, phối hợp với các cơ quan chức năng xây dựng chế độ
đãi ngộ và chính sách thỏa đáng, tạo động lực cho mọi người phát huy tối đa
năng lực làm việc của bản thân.

Đảm bảo phát triển cân đối ngành nghề ngay từ khi chọn ngành, đào tạo đại học.
Các cơ sở giáo dục cần đánh giá đúng nhu cầu nhân lực của xã hội, chuyển từ đào tạo
những gì mình có sang đào tạo những gì xã hội cần. Ví dụ như trong thời buổi đại dịch
COVID-19 hoành hành như hiện nay thì như cầu nguồn lực con người cho ngành y tế
là rất lớn. Ở khía cạnh khác, ngay từ bậc phổ thông trung học, các trường nên có định
hướng và thực hiện song song giữa việc dạy học và hướng nghiệp.

Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu thị
trường lao động. Triệt để khắc phục "bệnh thành tích" và những tiêu cực trong giáo
dục, đào tạo; khắc phục tâm lý và hiện tượng quá coi trọng và đề cao "Bằng cấp",
"Chứng chỉ" một cách hình thức trong tuyển dụng và đánh giá nhân lực.

1.4 Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.

 “KH&CN góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở phạm vi
quốc gia, ngành và doanh nghiệp Ở tầm vĩ mô, sự phát triển của KH&CN có tác động
quyết định đối với tăng trưởng dài hạn và chất lượng tăng trưởng thông qua tác động
đến tổng cung và tổng cầu. Sản phẩm KH&CN đóng góp trực tiếp vào GDP. KH&CN
tạo điều kiện cho quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều
sâu, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ. Ở phạm vi
doanh nghiệp, KH&CN góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm và của
doạn nghiệp. Một quốc gia có tiềm lực KH&CN là quốc gia có sức cạnh tranh quốc tế
cao.’’1

Khoa học công nghệ là nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Trong  sự nghiệp Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa như hiện nay thì KH&CN đang
chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi vì nước ta tiến lên CNXH từ  một nền kinh tế
phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. cái thiếu thốn của chúng ta  là
một nên đại công nghiệp, chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành Công nghiệp hóa –

1
Theo Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên, Khoa học và Công nghệ: Nền tảng quan trọng để tái cơ
cấu ngành Công Thương.
Hiện đại hóa ở nước ta là nhằm xây dựng Cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. Đó là
nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiên tiến CNXH ở nước ta. KHCN có vai
trò quan trọng như sau:

 Nâng cao năng suất lao động


 Giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm
 Nâng cao lợi thế cạnh tranh

KHCN giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo
vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát
triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển KHCN nhằm mục tiêu đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước2

KHCN là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành, các cấp, là
nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng cố quốc phòng an ninh. Hoạt
động KHCN không chỉ là nhiệm vụ của các nhà KHCN, các nhà quản lý khoa học mà
là công việc của mọi ngành, mọi cấp, mọi người... Mọi hoạt động kinh tế - xã hội đều
đòi hỏi phải có nội dung KHCN để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Mọi
hành động phải xác định cơ sở khoa học của nó, phải điều tra, nghiên cứu, tìm ra quy
luật, dự báo sự phát triển, đề xuất các giải pháp phù hợp với quy luật khách quan.

KHCN là động lực của công nghiệp hóa và hiện đại hóa

Khoa học và công nghệ đã đến với con người thông qua quá trình giáo dục, đào
tạo và hoạt động thực tiễn, đã trang bị cho con người những tri thức lý luận và kinh
nghiệm cần thiết để họ có thể nhanh chóng vận hành tốt và thích nghi với các trang
thiết bị kỹ thuật hiện đại, tiên tiến trong sản xuất, cũng như có đủ năng lực giải quyết
những tình huống phức tạp, có vấn đề trong sản xuất và đời sống. Mặt khác, sự thường
xuyên đổi mới theo hướng hiện đại dần của các trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ trong
sản xuất và đời sống đa buộc con người -với tư cách là yếu tố của lực lượng sản xuất -
phải luôn nỗ lực học tập, thường xuyên trau dồi kiến thức, nghiệp vụ, chuyên môn để
khỏi bị đào thải ra khỏi quá trình sản xuất xa hội, để có thể nhanh chóng thích ứng với
cuộc sống hiện đại. Chính nhờ vậy mà trình độ và chất lượng của đội ngũ những
người lao động không ngừng được nâng cao và được hiện đại hóa theo đà phát triển
của khoa học và công nghệ.Ngoài ra, nếu theo cách hiểu mới về công nghệ thì sự
2
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
phát triển của khoa học và công nghệ ngày nay còn liên quan rất chặt chẽ, thậm chí
còn có vai trò rất to lớn đối với quan hệ sản xuất. Công nghệ, theo cách hiểu mới, bao
gồm 4 yếu tố: trang thiết bị, máy móc kỹ thuật... (là phần cứng của công nghệ); con
người; thông tin; tổ chức và quản lý (ba yếu tố này là phần mềm của công nghệ). Như
đã biết, trang thiết bị, máy móc kỹ thuật... và con người là thuộc về lực lượng sản xuất.
Hai yếu tố thông tin, tổ chức quản lý, theo nghĩa chung, vừa là những yếu tố của lực
lượng sản xuất, vừa là những yếu tố của quan hệ sản xuất. Thậm chí, bản thân con
người, xét theo các mối quan hệ của nó trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, là yếu tố
chủ thể của quan hệ sản xuất. Do vậy, sự phát triển của khoa học và công nghệ không
chỉ có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà còn có ảnh
hưởng sâu sắc đến quan hệ sản xuất theo chiều hướng hiện đại.

Theo quan điểm của Đảng thì KHCN là quốc sách hàng đầu có nghĩa là chủ
trương, chính sách phát triển đất nước, kinh tế - xã hội cũng như bảo vệ Tổ quốc đều
phải dựa vào KHCN và thực hiện bằng KHCN. Chỉ có phát triển KHCN, chúng ta mới
phát triển được kinh tế - xã hội, giữ vững được độc lập dân tộc, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội. Để KHCN nhanh chóng phát huy được vai trò là nền tảng và động
lực đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng, Nhà nước luôn có những chính sách quan
tâm đặc biệt đến phát triển KHCN.

Một số thành tựu về khoa học - công nghệ

Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, mặc dù điều kiện đất nước còn nhiều
khó khăn, nhưng nhờ có sự quan tâm của Ðảng, Nhà nước, sự nỗ lực, tâm huyết của
đội ngũ các nhà khoa học, sự cố gắng của các doanh nghiệp và nhân dân, khoa học và
công nghệ nước ta đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp thiết thực vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Khoa học xã hội và nhân văn đã cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường lối,
chủ trương của Ðảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần xây dựng hệ
thống quan điểm phát triển đất nước; khẳng định lịch sử hình thành và phát triển dân
tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo tồn các giá trị và bản sắc văn hóa
Việt Nam. Nhiều kết quả nghiên cứu đã đóng góp cho việc chuẩn bị các văn kiện của
Đảng; xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước qua các thời kì; xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Cùng với các nghiên cứu lý luận cơ bản, khoa
học xã hội còn hướng vào giải quyết nhiều vấn đề cụ thể, bức xúc trong thực tiễn phát
triển kinh tế - xã hội như: vấn đề toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực,
CNH – HĐH trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; tác động của
khủng hoảng kinh tế khu vực với tăng trưởng của Việt Nam; các vấn đề về nông
nghiệp, nông thôn, nông dân, vấn đề tôn giáo, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, v.v…

Khoa học tự nhiên đã có bước phát triển trong nghiên cứu cơ bản, tạo cơ sở cho
việc hình thành một số lĩnh vực khoa học và công nghệ đa ngành mới, góp phần nâng
cao trình độ và năng lực của khoa học cơ bản. Khoa học kỹ thuật và công nghệ đã
đóng góp tích cực vào việc nâng cao năng suất, chất lượng hàng hóa và dịch vụ; cải
thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế; một số lĩnh vực đã tiếp cận
trình độ tiên tiến khu vực và thế giới. Các nghành khoa học và công nghệ gắn bó hơn
với sản xuất và đời sống. Nhiều thành tựu khoa học và công nghệ mới đã được ứng
dụng, góp phần rất quan trọng vào việc nâng cao nǎng suất , chất lượng và hiệu quả
trong các nghành sản xuất nông nghiêp, y tế, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải,
xây dựng, nǎng lượng, dầu khí, hành tiêu dùng, hàng xuất khẩu..., xây dựng và củng cố
quốc phòng - an ninh.

Đặc biệt, KH – CN đã đóng góp hiệu quả rất lớn trong công tác phòng, chống
dịch trong cả nước nói chung và trên địa bàn TP HCM nói riêng trong thời đại dịch
bệnh như hiện nay.

“Trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và
Thủ tướng Chính phủ, ngay từ đầu năm 2020, Bộ KH-CN đã vào cuộc với tinh thần
chủ động, kịp thời và trách nhiệm, qua đó đã có những đóng góp hiệu quả vào việc
phòng, chống dịch Covid-19. Bộ KH-CN đã phê duyệt 10 nhiệm vụ KH-CN cấp quốc
gia đột xuất để nâng cao năng lực phòng, chống dịch Covid-19. Kết quả nghiên cứu
nổi bật gồm: Nuôi cấy, phân lập thành công virus SARS-CoV-2; Nghiên cứu, sản xuất
thành công bộ Kít phát hiện virus SARS-CoV-2, đáp ứng nhu cầu sử dụng trong nước
và có năng lực xuất khẩu; Sản phẩm vắc-xin phòng Covid-19 Nanocovax đã được thử
nghiệm lâm sàng trên người; Nghiên cứu, sản xuất, thử nghiệm thành công sản phẩm
robot sử dụng tại các bệnh viện và khu cách ly; chiếu xạ khử khuẩn miễn phí thiết bị,
vật phẩm y tế phục vụ công tác phòng, chống dịch.”
Chúng ta có thể thấy thời gian qua KH&CN đã có những đóng góp quan trọng,
toàn diện trong phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt 6 tháng đầu năm 2021, trong bối
cảnh đại dịch COVID-19 tác động tiêu cực đến mọi mặt đời sống xã hội, thực hiện chỉ
đạo của Chính phủ, Bộ KH&CN đã chủ động, tích cực triển khai nhiều hoạt động
nghiên cứu khoa học, phát triển, ứng dụng công nghệ góp phần nâng cao năng lực
phòng, chống dịch COVID-19.

Hạn chế

Mặc dù trong thời gian qua, chúng ta đã có những cố gắng nhằm xây dựng và phát
triển nền KHCN nước nhà, nhưng cũng không thể phủ nhận rằng : Khoa học và công
nghệ vẫn còn một số mặt hạn chế cần phải khắc phục như:

Đầu tư cho khoa học công nghệ còn ở mức thấp. Đảng và Nhà nước đã có nhiều
chủ trương, nghị quyết sáng suốt, nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ và coi
trọng nó không kém gì các quốc gia khác trên thế giới, nhưng mức đầu tư cho khoa
học vẫn rất thấp. Có thể giải thích theo hai khả năng sau: Thứ nhất, nếu huy động gấp
đôi vốn cho nghiên cứu khoa học và công nghệ thì việc nghiên cứu khoa học có mang
lại hiệu quả thiết thực hay không trong khi trình độ quản lý khoa học hiện tại còn yếu
kém. Thứ hai, ngân sách nhà nước trong nhiều năm thâm hụt, phải bảo đảm chi cho
nhiều ngành cũng quan trọng, do đó mức đầu tư kinh phí cho khoa học nhiều khi lại
phụ thuộc vào quan điểm của người lãnh đạo và các cơ quan quản lý của Nhà nước.
Với mức đầu tư như vậy nên chỗ làm việc chật chội, thiết bị lạc hậu, phòng thí nghiệm
và cụng cụ thí nghiệm thiếu… cơ quan khoa học và công nghệ chỉ có thể hoạt động
cầm chừng, chỉ giải quyết những vấn đề trước mắt mà không thể tạo ra được thành quả
khoa học có tầm chiến lược.

Lực lượng cán bộ nòng cốt thiếu và già yếu. Theo kết quả điều tra, trong số
22.313 cán bộ công nhân viên thì số người có trình độ trên đại học là 2.509 người, cao
đẳng và đại học 11.447 người và dưới cao đẳng là 8.357. Tuổi trung bình của cán bộ
khoa học có học vị, học hàm khá cao. Bình quân chung là 57,2 tuổi trong đó giáo sư là
59,5 tuổi và phó giáp sư là 56,4 tuổi. Số cán bộ cán học vị, học hàm cao ở tuổi 50 chỉ
chiếm 12% trong khi đó tuổi từ 56 trở lên là 65,7%, riêng giáo sư chiếm tới 77,4% và
phó giáo sư chiếm 62%. Khi một bộ phận lớn các cán bộ khoa học chủ chốt đang về
già và sẽ không có khả năng làm việc thì đội ngũ cán bộ trẻ thay thế lại chưa được
chuẩn bị bồi dưỡng đào tạo. Điều này sẽ là nguyên nhân dẫn đến thiếu hụt về đội ngũ
cán bộ khoa học công nghệ đầu ngành sẽ diễn ra trong tương lai rất gần.

Sự phân bố lực lượng lao động khoa học không hợp lý. Có thể nói sự phân bố
lực lượng lao động mất cân đối giữa các ngành, các khu vực giữa các vùng, giữa các
thành phần kinh tế đã gây ra hậu quả xấu cho quá trình phát triển, càng làm sâu sắc
thêm sự chênh lệch và phát triển giữa các vùng, các ngành.

Nhiệm vụ và giải pháp

Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng và chính quyền về vai trò
của khoa học và công nghệ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Xác định việc phát huy và phát triển khoa học và công nghệ là một nhiệm vụ trọng tâm
của các cấp ủy đảng và chính quyền; là một trong những nội dung lãnh đạo quan trọng
của người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Gắn các
mục tiêu, nhiệm vụ khoa học và công nghệ với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội của từng ngành và từng cấp; kế hoạch ứng dụng và phát triển khoa học và
công nghệ là một nội dung của quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành và địa phương.

Ðẩy mạnh thực hiện cơ chế đặt hàng, đấu thầu thực hiện nhiệm vụ khoa học và
công nghệ và cơ chế khoán kinh phí đến sản phẩm khoa học và công nghệ cuối cùng
theo kết quả đầu ra. Xây dựng cơ chế đặc thù trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà
nước để thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo hướng giao quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm cho tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Mở
rộng áp dụng cơ chế tài chính của quỹ phát triển khoa học và công nghệ. Tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát; hình thành cơ chế đánh giá độc lập, tư vấn, phản biện,
giám định xã hội đối với các hoạt động khoa học và công nghệ.

Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ, các trường đại
học, bảo đảm hoạt động có hiệu quả, phù hợp với các mục tiêu và định hướng nhiệm
vụ phát triển khoa học và công nghệ trong từng giai đoạn. Xây dựng các trung tâm
nghiên cứu hiện đại, làm hạt nhân cho việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa
học và công nghệ ở các lĩnh vực được ưu tiên. Phát triển, nâng cao năng lực hệ thống
các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ, đáp ứng yêu cầu phát triển thị trường khoa
học và công nghệ.
Giao quyền sở hữu các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ có sử
dụng ngân sách nhà nước cho cơ quan chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ, đồng
thời có cơ chế phân chia hợp lý lợi ích giữa Nhà nước, cơ quan chủ trì và tác giả. Tạo
điều kiện để các tổ chức khoa học và công nghệ được vay vốn từ các quỹ dành cho
khoa học và công nghệ hoặc các tổ chức tín dụng.

Xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn
vinh đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, nhất là các chuyên gia giỏi, có nhiều đóng
góp. Tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất để cán bộ khoa học và công nghệ
phát triển bằng tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của
mình. Nâng cao năng lực, trình độ và phẩm chất của cán bộ quản lý khoa học và công
nghệ ở các ngành, các cấp.

Sử dụng hiệu quả đội ngũ sinh viên, nghiên cứu sinh, thực tập sinh, chuyên gia
khoa học và công nghệ học tập và làm việc ở nước ngoài. Có chính sách hỗ trợ cán bộ
khoa học và công nghệ đi làm việc và thực tập có thời hạn tại các tổ chức khoa học và
công nghệ, doanh nghiệp ở nước ngoài để giải quyết các nhiệm vụ khoa học và công
nghệ có ý nghĩa quốc gia.

 Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ theo hướng
tinh gọn, tập trung vào việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính
sách; tăng cường điều phối liên ngành, liên vùng. Phân định rõ trách nhiệm và quyền
hạn của cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ ở Trung ương và địa
phương; gắn với trách nhiệm của người đứng đầu các bộ, ngành Trung ương và chính
quyền địa phương.

Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên
cứu, sáng tạo, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học. Tiếp tục phát huy mạnh mẽ vai
trò của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã
hội trong các hoạt động tư vấn, phản biện xã hội, vai trò xung kích của đoàn thanh
niên, các tổ chức và cá nhân trong phong trào thi đua sáng tạo, ứng dụng tiến bộ khoa
học và công nghệ.

Phát triển mạng lưới các tổ chức dịch vụ kỹ thuật khoa học và công nghệ, môi
giới, chuyển giao, tư vấn, đánh giá và định giá công nghệ. Ðầu tư xây dựng các sàn
giao dịch công nghệ quốc gia tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Ðà Nẵng liên thông
với hệ thống các trung tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ của các tỉnh, thành
phố, kết nối với các sàn giao dịch công nghệ khu vực và thế giới.

  Có cơ chế, chính sách ưu đãi về đầu tư, đất đai, cơ sở hạ tầng, thủ tục hành
chính... để tạo đột phá trong thu hút các chuyên gia, nhà khoa học và công nghệ Việt
Nam ở nước ngoài, các chuyên gia, nhà khoa học và công nghệ nước ngoài tham gia
hoạt động khoa học và công nghệ ở Việt Nam.

1.5 Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

“Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó,
trước hết kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Chỉ có như vậy mới có
khả năng xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân,
phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng…
Mục tiêu đó thể hiện sự phát triển vì con người, mọi con người đều được hưởng thành
quả của sự phát triển.”3

Thế giới của chúng ta hiện nay hiện đang đối mặt với vô vàn thách thức về môi
trường, như môi trường ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng, tình trạng biến đổi khí
hậu, nước biển dâng cùng với nguy cơ về khủng khoảng lương thực, khoảng khoảng
năng lượng, khủng khoảng nguồn nước, khủng khoảng tài chính kinh tế. Trong bối
cảnh đó, nhiều quốc gia muốn tăng trưởng kinh tế nhanh, song thiếu chú ý tới tác động
đối với môi trường sinh thái, do vậy vừa làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên
vừa phải gánh chịu những hậu quả của một sự phát triển tàn phá môi trường. Mặt khác,
việc chú trọng phát triển kinh tế mà không quan tâm đến giải quyết những vấn đề bình
đẳng xã hội sẽ dẫn đến tình trạng gia tăng khoảng cách giàu nghèo, bất công xã hội,
tạo nguy cơ gây mất ổn định chính trị -xã hội, dẫn đến khủng khoảng thể chế . Do vậy
phát triển hiệu quả, bền vững ngày càng trở thành mục tiêu quan trọng, tổng quan
xuyên suốt mà nhiều quốc gia trên thế giới phải quan tâm hướng tới.

Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững

3
Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối
không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.(2018), tr95
Phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững vừa bao hàm cả phát triển theo chiều
rộng và phát triển theo chiều sâu; đồng thời, thể hiện tốc độ và chất lượng của mô hình
tăng trưởng kinh tế nước ta. Về phạm vi, mô hình kinh tế này thể hiện sự gắn kết hài
hoà giữa phát triển nhanh, hiệu quả và phát triển bền vững trên nhiều lĩnh vực rộng
lớn, đan xen nhau cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và an ninh, quốc phòng. Do
đó, phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững là phát triển kinh tế ổn định gắn với
việc đảm bảo an sinh xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.

Ở Việt Nam, xuất phát điểm từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ lạc hậu, bị tàn phá
nặng nề bởi sau chiến tranh, tụt hậu xa với khu vực và thế giới, đời sống nhân dân vô
cùng khó khăn. Phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và điều kiện cụ thể của đất
nước, Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình đổi mới đã lựa chọn chiến lược phát
triển đất nước theo hướng nhanh và bền vững để thực hiện mục tiêu “ Dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Điều này phù hợp với mục đích lý tưởng của
Đảng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
không vì mục đích tự thân, tôn chỉ của Đảng không có gì khác ngoài việc phục sự và
trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam: “Đảng không
phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân
tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng” 4

Đại hội XI (năm 2011) chỉ rõ: phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững, phát
triển bền vững là yêu cầu xuyến suốt trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến
năm 2020 và rút ra bài học: “ Phải thực sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng
và phát triển bền vững. Tăng cường huy động, gắn với sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực trong và ngoài nước”; “ Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã  hội và bảo vệ môi trường.”5

Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội.

Tăng trưởng là điều kiện của phát triển, của tiến bộ, đó là tiền đề về vật chất - kinh
tế để thực hiện công bằng và hiệu quả. Một xã hội có nền kinh tế phồn vinh, giàu có
phải là một xã hội đạt được và duy trì được sức tăng trưởng kinh tế đồng thời phải bảo
4
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, tập 5, tr.289
5
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia -Sự thật Hà
Nội, 2011,tr21
vệ môi trường. Không có một nền kinh tế tăng trưởng thì không thể có tiềm lực vật
chất để tiếp tục đầu tư cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, không có vốn và các
nguồn lực nói chung để có thể tái sản xuất mở rộng, càng không thể có điều kiện vật
chất để cải thiện, nâng cao mức sống, chất lượng cuộc sống của dân cư bị ô nhiễm và
tài nguyên cạn kiệt.

Tiến bộ và công bằng xã hội là những khái niệm phản ánh trình độ phát triển của
xã hội, phù hợp với quy luật vận động khách quan của lịch sử và nhu cầu, nguyện
vọng chính đáng của con người. Công bằng xã hội là một giá trị cơ bản định hướng
cho việc giải quyết hài hòa quan hệ giữa người và người trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội theo nguyên tắc: công hiến về vật chất và tinh thần ngang nhau cho sự
phát triển xã hội thì được hưởng thụ ngang nhau về những giá trị vật chất, tinh thần do
xã hội tạo ra, phù hợp với điều kiện và khả năng cung ứng của mỗi quốc gia ở một thời
kỳ, giai đoạn phát triển cụ thể.

Phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, gắn với tiến bộ và công bằng xã
hội là yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Văn hóa là mục
tiêu của phát triển kinh tế - xã hội. Đối với Việt Nam, mục đích tối cao của phát triển
kinh tế - xã hội là nhằm phục vụ công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, công cuộc
cách mạng giải phóng con người. Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, xét cho
cùng, chính là để giải phóng những giá trị văn hóa tích cực nhất cho loài người. Mặt
khác, phát triển kinh tế đồng thời giúp cho con người có nhiều cơ hội, khả năng tiếp
nhận các giá trị văn hóa. Phát triển kinh tế nhằm mục tiêu văn hóa chính là “đặc sắc”
của cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mục tiêu cụ thể của cách mạng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là: xã hội dân chủ, công bằng, văn minh - những kết quả, giá trị to lớn
nhất của văn hóa. Cách mạng để giải phóng con người, để con người có thể tồn tại
trong một xã hội ngày càng dân chủ, công bằng văn minh hơn. Đối với cách mạng
nước ta, các giá trị kinh tế trước hết và tối cao nhất là để phục vụ cho con người đạt
được các giá trị văn hóa, nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng.

Tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường là những
vấn đề mấu chốt của lý luận đổi mới, cũng là những nội dung rất căn bản của lý luận
phát triển ở nước ta. Giải quyết hợp lý và đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường là những đòi hỏi tất yếu của phát
triển, trực tiếp nhất là phát triển kinh tế và xã hội, hướng tới phát triển bền vững.

 Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội có mối quan hệ biện chứng
với nhau, vừa là tiền đề, vừa là điều kiện của nhau. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện
để thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; tiến bộ, công bằng xã hội là nhân tố động lực
để có tăng trưởng kinh tế cao và bền vững; tiến bộ, công bằng xã hội là biểu hiện của
tăng trưởng kinh tế. Như vậy, tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội không
phải là những yếu tố đối lập mà có quan hệ nhân quả với nhau.

Tài liệu tham khảo:

[1] Nguyễn Thu Hiền(31/08/2013). Quan điểm “ Lấy phát huy nguồn lực con người là
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” và những giải pháp để phát triển
nguồn nhân lực. Truy cập từ:https://123docz.net/document/548006-quan-diem-lay-
phat-huy-nguon-luc-con-nguoi-la-yeu-to-co-ban-cho-su-phat-trien-nhanh-va-ben-
vung-va-nhung-giai-phap-phat-trien-nguon-nhan-luc-o-viet-na.htm

[2]ThS. Nguyễn Thanh Hằng.(04/08/2021).Thực trạng và đề xuất một số giải pháp về


nguồn lao động chất lượng cao của Việt Nam. Truy cập từ:
https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/thuc-trang-va-de-xuat-mot-so-giai-phap-ve-
nguon-lao-dong-chat-luong-cao-cua-viet-nam-82693.htm

[3]Dân kinh tế(2021). Thực trạng khoa học – công nghệ Việt Nam. Truy cập từ:
http://www.dankinhte.vn/thuc-trang-khoa-hoc-cong-nghe-viet-nam/

[4]Tư liệu văn kiện Đảng(30/09/2015). Phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn
hóa, gắn với tiến bộ và công bằng xã hội - đặc trưng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Đoàn Thị Bích Hiền - Tạp chí Cộng sản. Truy cập
từ:https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/gioi-thieu-van-kien-
dang/phat-trien-kinh-te-hai-hoa-voi-phat-trien-van-hoa-gan-voi-tien-bo-va-cong-bang-
xa-hoi-dac-trung-cua-nen-877

[5] PGS. TSKH Trần Nguyễn Tuyên(24/05/2021). Phát triển nhanh và bền vững theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Truy cập từ: http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---
trao-doi/phat-trien-nhanh-va-ben-vung-theo--dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-
nam.html
[6] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT

KHCN: Khoa học công nghệ

CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

You might also like