Professional Documents
Culture Documents
Vệ sinh-Y học-Chấn thương TDTT
Vệ sinh-Y học-Chấn thương TDTT
Vệ sinh tập luyện đóng vai trò quan trọng trong hệ thống các yếu tố bổ sung cho quá trình tập
luyện và thi đấu ở vận động viên. Chế độ vệ sinh tập luyện bao gồm: Chế độ sinh hoạt trong
ngày, vệ sinh cá nhân, sự tôi luyện của cơ thể với các yếu tố môi trường, chế độ dinh dưỡng, hạn
chế và từ bỏ các thói quen có hại…. Sự tuân thủ nghiêm ngặt các chế độ vệ sinh có ảnh hưởng
tốt với cơ thể, giúp nâng cao hiệu quả của quá trình huấn luyện và thành tích thể thao ở mức độ
nhất định.
Các nguyên tắc cơ bản trong tập luyện: Tự giác tích cực, hệ thống, phù hợp, vệ sinh&dinh dưởng…
Đừng biến mình thành nô lệ của việc luyện tập: Trong giai đoạn bắt đầu, bạn chỉ nên tập nhẹ
nhàng vì các cơ chưa sẵn sàng vận động để thích ứng với những vận động nặng. Sau khi tập một
thời gian, bạn có thể điều chỉnh mức độ các bài tập tăng dần. Bên cạnh đó cũng không nên tập
quá dồn dập. Sau buổi tập đầu tiên, bạn sẽ thấy cơ thể mỏi nhừ, nếu sáng hôm sau bạn lại lao vào
một “cuộc chiến” mới thì chắc chắn ngày hôm đó bạn sẽ phải nằm bẹp vì quá sức.
Ăn hợp lý và ngủ đủ giấc: Khi đã quyết định sẽ luyện tập hàng ngày, bạn phải đảm bảo sức
khỏe để duy trì việc tập luyện như ăn đủ 2 bữa trước và sau khi tập, bổ sung đủ năng lượng nhất
là vào buổi sáng – thời điểm cơ thể cần nạp năng lượng nhất để lấy sức tập luyện và duy trì năng
lượng cả ngày làm việc. Cố gắng ngủ đủ 8 tiếng/ngày để có sức khỏe và tinh thần tốt cho lần tập
tiếp sau.
Không né tránh các bài tập khó: Nhìn chung, các bài tập có thể chia thành 2 dạng: dạng vận
động đơn khớp (ví dụ như nâng tạ tay, khi nâng tạ chỉ có khớp khuỷu tay vận động) và vận động
đa khớp (ví dụ như nâng tạ tay kết hợp động tác đứng lên ngồi xuống, khi đó cả khớp gối, khớp
hông và khớp gót chân đều vận động, các cơ được kéo dãn và linh động hơn, phần cơ thể bên
trên cũng phải vận động theo để giữ cân bằng cơ thể). Tuy các bài tập vận động đa khớp khó và
tốn sức hơn nhưng lại rất hiệu quả và phù hợp khi bạn đã tập được một thời gian. Bạn sẽ thấy tập
các bài tập khó không làm bạn mệt hơn mà ngược lại các cơ sẽ chắc chắn, dẻo dai hơn nhất là
các nhóm cơ phức tạp vùng ngực, chân, đồng thời “gia cố” cho các khớp xương được khỏe
mạnh, linh hoạt.
Phối hợp các bài tập khoa học: Bạn không nên kết hợp tập aerobic với các bài tập nặng khác
như chạy bộ, nâng tạ Nếu bạn tập aerobic trước, các cơ sẽ bị mệt và không thể hiệu quả khi bạn
tập các bài tập nặng tiếp theo, thậm chí rất dễ gây trụy tim mạch. Nếu bạn là người mới tập, chỉ
nên tập 3 lần/tuần. Không nên tập cùng một động tác tại cùng một vùng cơ trong nhiều ngày liên
tục, những vùng cơ nào bạn cảm thấy đau thì hôm sau nên tập với vùng khác. Tuân thủ trình tự
tập luyện: Tất cả hình thức tập luyện đều tuân theo trình tự: làm nóng cơ – kéo dãn cơ – tập.
Việc duy trì các bước thực hiện cũng như khoảng thời gian giữa các bước này rất quan trọng.
Lúc nào cũng phải duy trì một bài tập gồm các bước khởi động, tập luyện và điều hòa.
Không được bỏ qua giai đoạn “phục hồi”: Giai đoạn “phục hồi” đóng vai trò quan trọng không
kém giai đoạn tập luyện chính, khi tập luyện, bạn gập, vặn xoắn các cơ lại, sau đó các cơ rất cần
có thời gian để hồi phục trạng thái ban đầu (thả lỏng). Bỏ qua giai đoạn này nghĩa là bạn đã vô
tình ngăn không cho các cơ hồi phục, mà để cho các cơ giữ nguyên tình trạng “gập, xoắn” đó đến
ngày hôm sau. Như vậy các cơ sẽ không còn khỏe mạnh nữa mà đã bị bạn làm cho méo mó,
khiến bạn thấy đau người và mệt mỏi. Giai đoạn phục hồi chỉ đơn giản là các bài tập điều hòa
hoặc hoạt động nghỉ ngơi như đi lại và bổ sung năng lượng.
Đa dạng hóa các bài tập: Nếu bạn tập đi tập lại một động tác, cơ thể sẽ quen với các vận động
đó, nó sẽ thích ứng dần với các vận động và mất dần tác dụng chuyển hóa năng lượng và co giãn
cơ. Nếu bạn cảm thấy hiệu quả tập thể dục bắt đầu chững lại thì đó là lúc bạn nên “đổi món” cho
cơ thể bằng những vận động mới.
- Thời điểm khởi động cơ thể tốt nhất là ngay sau khi ngủ dậy. Vài động tác thể dục, đi bộ...
sẽ đánh thức cơ thể, tạo sự lưu thông khí huyết và tinh thần sảng khoái, sẵn sàng cho một ngày
lao động nặng nhọc.
- Ăn no, ăn nhiều khi tập luyện sẽ làm sa dạ dày vì khi vừa ăn xong, máu tập trung ở dạ dày và
ưu tiên cho cơ quan tiêu hóa. Nếu lúc đó chúng ta tập luyện, vận động, máu phải phân tán tới các
cơ quan ngoại biên làm cản trở quá trình tiêu hóa và hấp thu thức ăn, dẫn tới tiêu hóa chậm.
Ngược lại, quá trình tiêu hóa cũng ngăn cản quá trình vận động chung của cơ thể, gây ra biểu
hiện rối loạn tuần hoàn. Như vậy, cả sự tập luyện và tiêu hóa đều không có hiệu quả. Hơn nữa,
tác dụng cơ học của vận động sẽ ngăn trở quá trình tiêu hóa của dạ dày, lâu dần gây viêm loét dạ
dày, đường tiêu hóa.
- Nguyên tắc vận động bao giờ cũng phải đủ ngưỡng. Tập luyện với cường độ cao thường
xuyên là bắt cơ thể lao động vượt ngưỡng.Tình trạng này kéo dài sẽ dẫn tới mệt mỏi quá sức mãn
tính và sinh ra các bệnh lý thực sự như: rối loạn kinh nguyệt, suy thượng thận, thay đổi về mặt
tâm lý, cảm xúc, rối loạn về giấc ngủ, tiêu hóa... Khi rơi vào tình trạng này, bệnh nhân phải có sự
điều trị thực sự chứ không phải chỉ là nghỉ ngơi hay phục hồi đơn thuần.
- Thời gian tập luyện giúp đạt tới đỉnh cao là sáng 9-10h, buổi chiều 15-18h. Đây là thời gian
nhịp độ sinh học lên cao, cơ bắp thoát khỏi sự ỳ, hệ thống tuần hoàn, hô hấp hoạt động tốt nên
tập luyện dễ đạt thành tích cao, thực hiện động tác chuẩn xác hơn.Sau tập luyện, cần uống nước
đường để bổ sung năng lượng tiêu hao, cân bằng đường huyết và giảm lượng axit latic trong
máu. Sau khi tập luyện, cần nghỉ 30 phút mới ăn; nếu tập nặng, nên nghỉ nhiều hơn (khoảng 45
phút) và có thể ăn nhiều hơn.
- Không nên tập luyện thể thao vào buổi trưa để tránh bị say nắng.Buổi trưa là lúc nhiệt độ
cao nhất trong ngày. Tia tử ngoại có trong ánh nắng mùa hè thường rất mạnh, nếu phơi nắng
trong thời gian dài sẽ gây tổn hại đến nhiều cơ quan, bộ phận trong cơ thể. Luyện tập trong mùa
hè nhất định sẽ ra nhiều mồ hôi. Khi đó áo có thể ướt đẫm. Có một số người cho là mình khoẻ
mạnh không cần phải thay áo, mặc một lúc là khô, như vậy rất dễ bị viêm khớp hoặc thấpkhớp.
- Trong khi luyện tập, uống quá nhiều nước Sau tập, ăn uống đồ lạnh Sau khi ra mồ hôi không
thay áo Sau khi luyện tập không nên tắm nước lạnh ngay, khi gặp nước lạnh, các lỗ chân lông co
lại rất nhanh, dễ gây rối loạn các hoạt động trong cơ thể. Sự thay đổi đột ngột nhiệt độ trong cơ
thể sẽ gây nên những xáo trộn, dễ mắc bệnh.
Y HỌC TDTT
Y học thể dục thể thao (TDTT) là một ngành y học nghiên cứu ảnh hưởng của TDTT đến
cơ thể con người và phương pháp áp dụng TDTT vào việc phòng chữa bệnh, nâng cao sức khoẻ
cho con người. Đó là một môn khoa học thực hành, ứng dụng những kiến thức y – sinh học để
nghiên cứu và hoàn thiện quá trình giáo dục thể chất. Y học TDTT là một bộ phận cấu thành của
hệ thống phòng và điều trị bệnh lý, chấn thương trong thể thao. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu ảnh hưởng TDTT đến cơ thể con người: Y học TDTT vận dụng kiến thức
y học, sinh lý và các khoa học khác để nghiên cứu những biến đổi về cấu trúc và chức năng của
cơ thể con người trong tập luyện và thi đấu TDTT.
- Tổ chức, tiến hành kiểm tra và theo dõi thường xuyên về y học trong tập luyện và thi
đấu TDTT. Trên cơ sở đó điều chỉnh và xây dựng nội dung kế hoạch huấn luyện, xác định các
chế độ đảm bảo cho quá trình tập luyện với từng đối tượng khác nhau như chế độ dinh dưỡng,
nghỉ ngơi, hồi phục trong và sau tập luyện.
- Chẩn đoán, phòng ngừa và điều trị chấn thương, bệnh lý trong quá trình tập luyện
gây nên
- Ap dụng phương pháp thể dục để chữa bệnh
Tính các chỉ số nhân trắc:
- Chỉ số Broca – Brugseh: Là chỉ số phản ánh mối liên hệ giữa trọng lượng
(P) và chiều cao (h) đo bằng cm.
P = h – 100 (kg) khi h trong khoảng 155 – 165cm.
P = h – 105 (kg) khi h trong khoảng 166 – 175cm.
P = h – 110 (kg) khi h trong khoảng > 176cm.
- Chỉ số Quetelet: Là chỉ số phản ánh mối liên hệ giữa cân nặng và chiều
cao được tính theo công thức:
Chỉ số Quetelet được tính theo công thức sau:
Trọng lượng (g)
Chỉ số Q =_______________
Chiều cao (cm)
Chỉ số Quetelete phản ánh quan hệ tương tác hợp lý giữa yếu tố môi trường và yếu tố di truyền
trong quá trình trưởng thành phát dục của cơ thể con người. Chỉ số Quetelet quá lớn hoặc quá
nhỏ đều phản ánh trẻ em phát triển không bình thường, mất cân bằng (quá béo hoặc quá gầy) ,
bất lợi cho sự hình thành và phát triển năng lực vận động, thích ứng với LVĐ lớn. Chỉ số tăng
theo lứa tuổi, người trưởng thành vào khoảng 350 - 450.
Nếu chỉ số này lớn thì biểu hiện cơ thể to, béo phì, nếu chỉ số nhỏ thì ngườigày ốm .
Kết quả được đánh giá trung bình vào khoảng 370 – 400gam đối với
nam; 325 – 375gam đối với nữ; đối với trẻ em 15 tuổi: nam khoảng:325gam; nữ: 318gam.
- Chỉ số Pignet: Là chỉ số đánh giá mối tương quan giữa chiều cao với cân nặng và chu vi
vòng ngực. Được tính theo công thức sau:
Pi = h – ( P + v)
Trong đó:
Pi: Chỉ số Pignet. h: Chiều cao.
v: Vòng ngực trung bình (cm). P: Cân nặng.
Kết quả được đánh giá như sau:
Rất tốt Tốt Trung bình Yếu Rất yếu
Pi <10 Pi = 10 - 20 Pi = 20 - 25 Pi = 25 - 35 Pi > 35
- Chỉ số QVC: Là chỉ số quay vòng cao (tác giả Nguyễn Quang Quyền và cộng sự)
nghiên cứu trên đối tượng 18 – 25 tuổi. Đây cũng là chỉ số đánh giá tỉ lệ giữa chiều cao với bề
ngang của cơ thể, được tính theo công thức sau:
Q = h (cm) – (vòng ngực hít vào hết sức + vòng đùi phải + vòng cánh tay co)
Kết quả được đánh giá như sau:
Rất tốt Tốt Trung bình Yếu Rất yếu
Q < -4 –1,9 Q< -2 –7,9 Q= 8 -14 Q = 14 - 20 Q> 20
- Chỉ số Eris – man (A): Đây là chỉ số đánh giá mối quan hệ giữa chu vi vòng ngực với
chiều cao, được tính theo công thức:
A = Chu vi vòng ngực trung bình – ½ cao
Kết quả được đánh giá là trung bình nếu A = 5 đối với nam; với nữ A =3
- Chỉ số BMI:
Trong đó:
W là khối lượng của một người (tính bằng kg)
H là chiều cao của người đó (tính bằng m)
Đánh giá:
BMI < 18,5: người gầy
BMI = 18,5 - 24,9: người bình thường
BMI = 25 - 29,9: người thừa cân
BMI > 30: người béo phì
HW >11 Kém
+ Step - Test Haward:
Test này được nghiên cứu tại trường đại học Haward (Mỹ) 1994. Ý tưởng của test này là
nghiên cứu quá trình hồi phục (theo sự thay đổi mạch) sau khi ngừng hoạt động có tính định
hướng trên lượng vận độngchuẩn.
Trang thiết bị: Bục có kích thước khác nhau. Đồng hồ bấm giây. Máy đếm nhịp.
Cách tiến hành .
Lượng vận động ở dạng bước lên, bước xuống bục. Chiều cao của bục và thời gian thực
hiện test tuỳ thuộc vào giới tính, lứa tuổi và mức phát triển thể lực của vận động viên.
Nhóm thực hiện Chiều cao bục (cm) Thời gian (s)
VĐV thực hiện test cần bước lên xuống bục theo tần số 30 lần trong một phút, theo máy đếm
nhịp phát ra tần số 120 lần/1phút. Một bước lên xuống bao gồm 4 chuyển động và mỗi chuyển
động đó tương đương với 1 nhịp của máy đếm nhịp.
- Vận động viên đặt một chân lên bục.
- Vận động viên đặt tiếp một chân nữa lên bục.
- Vận động viên xuống một chân xuống sàn nhà (chân lên trước).
- Vận động viên xuống một chân còn lại xuống sàn nhà
Khi thực hiện thân người ở tư thế thẳng và chân đứng trên bục phải thẳng
Sau khi kết thúc test VĐV ngồi nghỉ.
Bắt đầu từ phút thứ 2 sau khi ngưng vận động, đếm mạch hồi phục cho VĐV 3 lần, mỗi lần 30
giây: từ giây 60 – 90; từ 120 – 150 và từ giây 180 – 210, trị số mạch tương ứng là f1, f2, f3.
Chỉ số Step – test được tính theo công thức:
HST = ( t.100)
(f1+ f 2+f 3) 2
+Test cooper:
Test do một bác sỹ người Mỹ (cooper. K) năm 1970. Ý tưởng của test là xác định quãng
đường tối đa mà vận động viên có thể chạy trong thời gian 12 phút. Thời gian này được chọn
trên cơ sở kết quả thực nghiệm. Test mục đích đánh giá năng lực hoạt động thể lực của vận động
viên, nếu trong 12 phút đó vận động viên chạy càng dài thì khả năng hoạt động thể lực càng tốt.
Trang thiết bị:
- Chạy trên đường chạy quanh sân bóng (sân vận động).
- Đồng hồ bấm giây.
Phương pháp tiến hành:
Trước khi thực hiện test vận động viên phải khởi động, sau đó vào lệnh xuất phát chạy có
bấm giờ, vận động viên chạy đúng 12 phút và cho dừng lại, đo quãng đường chạy là chỉ số để
đánh giá công suất hoạt động của cơ.
Đánh giá kết quả :
Kết quả thực hiện test được đánh giá theo bảng sau (bảng 1. 9).
Bảng 1. 9: Bảng đánh giá kết quả (Km) test cooper chạy 12 phút.
Bảng dung tích sống trung bình của lứa tuổi từ 8 – 51 tuổi
(theo tài liệu viện khoa học TDTT ở người Việt Nam).
Một người có thể bị ngất do cảm xúc quá mạnh, chấn thương nặng, mất máu nhiều, thiếu ôxy,
bệnh tim hay say nóng, say nắng... Gặp tình huống này, cần để người bệnh nằm thấp đầu ở nơi
thoáng khí, yên tĩnh; nới lỏng quần áo để máu dễ lưu thông.
Triệu chứng của ngất: Người bệnh tự nhiên thấy choáng váng, hoa mắt, chóng mặt, ù tai... rồi
ngã lăn ra; có khi toát mồ hôi, da nhợt nhạt, chân tay lạnh. Tuần hoàn và hô hấp ngừng hoặc rất
yếu, huyết áp hạ, đồng tử giãn.
Sau khi đặt bệnh nhân nằm và nới lỏng quần áo, cần xoa bóp, kích thích lên cơ thể như giật tóc
mai, tát vào má, đắp khăn ướt lên mặt, xoa bóp bằng cồn long não, cho ngửi amoniac, giấm...
Đồng thời gọi hân viên y tế để tiêm thuốc trợ tim. Nếu có điều kiện, cần châm cứu các huyệt
nhân trung, thập tuyền. Trong trường hợp ngất nặng, ngoài cách xử trí như trên còn phải làm hô
hấp nhân tạo hoặc thổi ngạt, ấn tim ngoài lồng ngực.
Một số bài thuốc Nam có thể đem lại hiệu quả trong việc chữa ngất:
- Gây hắt hơi: Quả bồ kết nướng giòn, tán mịn, thổi nhẹ vào 2 lỗ mũi; hoặc đốt bồ kết, thổi khói
vào 2 lỗ mũi. Cũng có thể dùng lông gà ngoáy kích thích niêm mạc trong mũi để gây hắt hơi.
- Nếu chân tay lạnh, dùng gừng tươi 12 g, tỏi 4 g giã nhỏ, cho thêm 20 ml nước sôi, vắt lấy nước,
lọc trong, sau đó cho thêm 5 ml rượu trắng, khuấy đều cho uống.
- Dùng khăn sạch (hoặc dùng tay nếu không có khăn) ấn chặt ngay vào vết thương. Giữ chặt cho
đến khi máu ngừng chảy,
- Nếu máu chảy không cầm được khi ấn chặt vào vết thương, hoặc nếu nạn nhân đang mất nhiều
máu:
* Cứ ấn chặt vào vết thương
* Giữ cho phần bị thương giơ cao lên, càng cao càng tốt
* Buộc ga rô tay hoặc chân càng gần chỗ vết thương càng tốt. Xiết chặt vừa đủ làm máu cầm lại.
Buộc ga rô bằng một cái khǎn gấp lại hoặc dây lưng rộng, đừng bao giờ dùng một dây thừng
mảnh, dây thép...
* Chuyển ngay nạn nhân đến cơ sở y tế.
- Dùng khăn sạch (hoặc dùng tay nếu không có khăn) ấn chặt ngay vào vết thương. Giữ chặt cho
đến khi máu ngừng chảy,
- Nếu máu chảy không cầm được khi ấn chặt vào vết thương, hoặc nếu nạn nhân đang mất nhiều
máu:
Chú ý:
* Chỉ buộc ga rô ở chân hoặc tay nếu máu chảy nhiều và ấn chặt trực tiếp vào vết thương mà
máu không thể cầm được,
* Cứ 30' lại nới lỏng dây ga rô một lát để xem còn cần buộc ga rô nữa hay không và để cho máu
lưu thông.
* Nếu máu chảy nhiều hoặc bị thương nặng, để cao chân và đầu thấp để đề phòng sốc.
Khi bị chấn thương phần mềm, bệnh nhân không được chườm nóng hay kéo, nắn trong 2 ngày
đầu. Chườm nóng làm máu chảy nhiều hơn; kéo nắn làm tổn thương bị nặng thêm, thậm chí có
thể gây đứt cơ hoàn toàn và bầm dập mô xung quanh. Kết quả là tổn thương viêm tăng lên, vết
thương lâu lành và sẹo bị xấu.
Trong sinh hoạt thể dục thể thao, có thể xảy ra các chấn thương ở cơ, gân và dây chằng. Do mức
độ tổn thương nhẹ nên bệnh nhân có thể tự chăm sóc vết thương tại nhà.
Bác sĩ Vương Huy Đồng, Trung tâm Chấn thương Chỉnh hình TP HCM, cho biết, chấn thương
cơ bắp có thể chia làm 3 mức độ:
1. Giãn cơ: Là tổn thương cơ dạng nhẹ do dây chằng, gân, cơ bị kéo giãn. Số lượng bó sợi cơ bị
đứt là dưới 25%. Ngay lúc bị chấn thương, người bệnh thấy đau nhói ở vùng gân cơ. Sau ít phút,
cảm giác đau giảm và vùng bị tổn thương sẽ sưng nhẹ. Khi này, dây chằng bị tổn thương buộc
bệnh nhân phải ngừng hoạt động; nếu tiếp tục vận động, máu sẽ tụ lại nhiều, không có lợi cho
việc điều trị sau đó.
2. Rách cơ: Số cơ bị rách chiếm 25-75% bó sợi. Xuất hiện vết bầm do các sợi cơ bị đứt nhiều
hơn. Bệnh nhân có thể nghe tiếng "bựt" hay "rắc" tại chỗ bị thương, có cảm giác đau dữ dội và
phải ngưng hoạt động hoàn toàn. Khớp có thể bị mất độ vững.
3. Đứt cơ: Số cơ bị rách chiếm trên 75% bó sợi, có khi đứt hoàn toàn làm máu bầm tụ nhiều ngày
sau đó, khớp sưng nhiều và trở nên lỏng lẻo. Bệnh nhân có thể bị trật khớp và hoàn toàn không
hoạt động được.
Với chấn thương phần mềm, việc xử lý ban đầu đúng cách là rất cần thiết, giúp chỗ tổn thương
ổn định và mau lành. Việc sơ cứu gồm 4 bước:
- Nghỉ ngơi: ngay sau khi bị chấn thương, cần ngưng tập luyện hoặc thi đấu. Có thể giữ vùng bị
thương bằng nẹp cố định trong 1-3 ngày đầu.
- Chườm lạnh: Mục đích để phòng ngừa biến chứng, không gây tụ máu hay chảy máu. Dùng túi
đá ướp chườm lạnh ngay tại chỗ 10-15 phút, mỗi lần cách nhau khoảng 1 giờ, lặp lại nhiều lần
trong ngày. Có thể chườm lạnh trong 1-3 ngày đầu sau khi bị thương. Không nên chườm một lần
quá lâu hoặc chườm lạnh trực tiếp vì da sẽ bị bỏng.
- Băng ép: Mục đích là làm giảm chảy máu, sưng bầm và đau nhức. Dùng băng thun quấn ép
dưới vùng tổn thương, những vòng đầu phải quấn chặt, sau đó lỏng dần.
- Kê cao vùng bị thương: Giúp máu trở về tim tốt hơn; làm giảm sưng, đau và viêm. Đặc biệt có
thể kê cao chân 10-15 cm trong 1-3 ngày đầu. Tuy nhiên, không nên kê cao quá so với tim.
Khi bị chấn thương, bệnh nhân có thể dùng thuốc giảm đau, nhưng tuyệt đối không nên xoa các
loại dầu nóng. Nhiều người làm vậy vì lầm tưởng loại thuốc mà các vận động viên được xịt khi
bị chấn thương là dầu nóng. Thực ra, đó là một loại khí lạnh dễ bốc hơi, có công dụng giống như
chườm lạnh.
Khi bị chấn thương, bệnh nhân không được chườm nóng hoặc xoa bóp. Việc chườm nóng khiến
máu chảy nhiều hơn, còn xoa bóp lại khiến các dây chằng bị xơ chai, mất đi độ đàn hồi. Chúng
sẽ trở nên yếu hơn và dễ chấn thương trở lại khi có những cử động hơi mạnh.
Thông thường, nếu tổn thương nhẹ, bệnh nhân sẽ hoàn toàn phục hồi sau khi điều trị được 2-3
ngày. Lúc này, họ có thể tập luyện nhẹ nhàng (khoảng 50% sức), và tăng từ từ để cơ thể dễ thích
nghi. Nếu là chấn thương nặng hoặc đã qua sơ cứu mà hoạt động vẫn còn khó khăn, bệnh nhân
nên đến khám ở các bệnh việc chuyên khoa để được điều trị càng sớm càng tốt.
Cấp cứu người bị ngất xỉu: Một người có thể bị ngất do cảm xúc quá mạnh, chấn thương nặng,
mất máu nhiều, thiếu ôxy, bệnh tim hay say nóng, say nắng... Gặp tình huống này, cần để người
bệnh nằm thấp đầu ở nơi thoáng khí, yên tĩnh; nới lỏng quần áo để máu dễ lưu thông.
Triệu chứng của ngất: Người bệnh tự nhiên thấy choáng váng, hoa mắt, chóng mặt, ù tai... rồi
ngã lăn ra; có khi toát mồ hôi, da nhợt nhạt, chân tay lạnh. Tuần hoàn và hô hấp ngừng hoặc rất
yếu, huyết áp hạ, đồng tử giãn.
Sau khi đặt bệnh nhân nằm và nới lỏng quần áo, cần xoa bóp, kích thích lên cơ thể như giật tóc
mai, tát vào má, đắp khăn ướt lên mặt, xoa bóp bằng cồn long não, cho ngửi amoniac, giấm...
Đồng thời gọi hân viên y tế để tiêm thuốc trợ tim. Nếu có điều kiện, cần châm cứu các huyệt
nhân trung, thập tuyền. Trong trường hợp ngất nặng, ngoài cách xử trí như trên còn phải làm hô
hấp nhân tạo hoặc thổi ngạt, ấn tim ngoài lồng ngực.
Một số bài thuốc Nam có thể đem lại hiệu quả trong việc chữa ngất:
- Gây hắt hơi: Quả bồ kết nướng giòn, tán mịn, thổi nhẹ vào 2 lỗ mũi; hoặc đốt bồ kết, thổi khói
vào 2 lỗ mũi. Cũng có thể dùng lông gà ngoáy kích thích niêm mạc trong mũi để gây hắt hơi.
- Nếu chân tay lạnh, dùng gừng tươi 12 g, tỏi 4 g giã nhỏ, cho thêm 20 ml nước sôi, vắt lấy nước,
lọc trong, sau đó cho thêm 5 ml rượu trắng, khuấy đều cho uống.