You are on page 1of 19

TỔ CHỨC CỦA HỆ THỐNG LÝ LUẬN ĐÔNG Y

Biên dịch: Trần Quang Thống

I) KẾT CẤU VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỆ THỐNG LÝ LUẬN ĐÔNG Y.

A) NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỆ THỐNG LÝ LUẬN ĐÔNG Y HỌC

1 – Cơ sở triết học:
Triết học là một môn khoa học quan trọng của quy luật vận động trong Xã hội. Sự phát triển
và hình thành của bất cứ một môn khoa học nào cũng đều không rời khỏi triết học. Trong
triết học với khoa học tự nhiên thời cổ đại còn chưa có một khái niệm triệt để như vậy. Đông
y học hấp thu các thành quả triết học của đời nhà Hán, trực tiếp dùng các học thuyết và khái
niệm triết học quan trọng như Khí, Âm Dương, Ngũ Hành, Hình Thần, quan hệ Thiên Nhân
để dẫn dụng nhằm làm rõ các vấn đề trong Y học, khiến cho nó trở thành lý luận và khái
niệm quan trọng của Đông y học, mang lý luận triết học dùng lý luận Đông y học đúc kết
thành một chỉnh thể hữu cơ không thể chia cắt, thể hiện một phương thức tư duy đặc thù của
Đông phương. Triết học cổ đại Trung Hoa đã hình thành và đặt định cho lý luận triết học
Đông y học một thế giới quan và cơ sở phương pháp luận, mà sự hình thành và phát triển của
Đông y học lại làm phong phú và phát triển cho triết học cổ đại Trung hoa. Triết học cổ đại
Trung hoa với Đông y học tương bổ tương thành, tương đắc mà thêm sáng tỏ.

Khí nhất nguyên luận:


“Khí” là một phạm trù quan trọng trong triết học cổ, trong tư tưởng học thuật Đông y học có
một địa vị đặc biệt, là nền tảng cỉa lý luận y học và triết học Đông y học. Khí là thực thể vật
chất, là nguyên tố cơ bản nhất để cấu thành vũ trụ trời đất và vạn vật, bao gồm cả thuộc tính
vận động. Sự vận động của Khí là tác dụng tương hỗ của nội bộ, là nguồn của phát triển biến
hoá vạn vật, Khí và hình cùng với sự chuyển hoá của chúng là hình thức cơ bản của sự vận
động và tồn tại của thế giới vật chất.

Học thuyết âm dương:


Học thuyết âm dương được xuất hiện dựa trên nền tảng cơ sở của “Khí”, cùng với Khí nhất
nguyên luận có một sự kết hợp khắn khít làm một, là lý luận đối lập thống nhất cơ bản của
triết học cổ đại. Âm dương là sự biểu hiện phạm trù đặc trưng trạng thái sự vật. Âm dương là
quy luật chung của Vũ trụ.

Học thuyết ngũ hành:


Học thuyết ngũ hành là hệ thống luận phổ thông của triết học cổ đại. Sự vận dùng học thuyết
Ngũ hành của Đông y là từ sự vận dụng quan sát chỉnh thể quan điểm hệ thống sự vật, cho
rằng bất cứ nội bộ của một sự vật (loại) nào của đều bao hàm thành phần hoặc nguyên tố của
năm loại công năng thuộc tính là Mộc, Hoả, Thổ, Kim, Thủy, đồng thời Mộc, Hoả, Thổ, Kim,
Thuỷ, đồng thời năm phương diện Mộc, Hoả, Thổ, Kim, Thuỷ dựa vào mối liên hệ lẫn nhau
của quy luật nhất định mà hình thành một chỉnh thể kết cấu công năng của sự vật. Hệ thống
kết cấu của ngũ hành, thông qua mối quan hệ sinh, thắng, thừa, vũ (tương sinh, tương thắng,
tương thừa, tương vũ) của cơ chế tuần hoàn tái diễn, tính ổn định, thăng bằng của hệ thống tự
duy trì, từ đó mà biện chứng luận trị mối liên hệ hữu cơ giữa bộ phận với bộ phận; bộ phận
với chỉnh thể trong con người, cùng với sự hợp nhất của con người với ngoại giới, tức cơ thể
con người là một chỉnh thể của một chỉnh thể thống nhất. Sự thô sơ của hệ thống quan niệm
Học thuyết ngũ hành là hình thái sơ khởi của hệ thống lý luận hiện đại.

2 - Tạng tượng kinh lạc:


Các học thuyết Tạng tượng, Kinh lạc, Khí huyết, Tinh, Tân dịch là tri thức lý luận của Đông
y đối với hiện tượng thăng bằng của sự sống. Trong đó, học thuyết tạng tượng là tâm điểm
của hệ thống lý luận Đông y học.

Học thuyết tạng tượng:


Học thuyết Tạng tượng là học thuyết nghiên cứu về quy luật hoạt động và quan hệt tương hỗ
của tạng phủ con người. Học thuyết này cho rằng cơ thể con người lấy ngũ tạng gồm Tâm,
Can, Tỳ, Phế, Thận làm trung tâm; lấy lục phủ gồm Đởm, Vị, Tiểu trường, Đại trường, Bàng
quang, Tam tiêu mà phối hợp với nhau; lấy Khí, Huyết, Tinh, Tân dịch là vật chất cơ sở,
thông qua kinh lạc mà khiến cho tạng phủ bên trong, ngũ quan cửu khiếu bên ngoài, tứ chi
bách hài, cấu thành một chỉnh thể hữu cơ, đồng thời thống nhất với hoàn cảnh ngoại giới.
Học thuyết này thông qua một quá trình dài quan sát, nghiên cứu sự hoạt động sống của con
người và thực tiễn phòng bệnh trị bệnh, đồng thời lấy lý luận Âm Dương, Ngũ hành làm chỉ
đạo, từng bước hình thành và phát triển thành học thuyết, đối với việc chẩn trị và phòng
bệnh, dưỡng sinh và phục hồi trong Đông y có một một ý nghĩa chỉ đạo quan trọng. Khái
niệm Tạng phủ Đông y dù cho bao hàm các thành phần giải phẫu học, nhưng chủ yếu là biểu
hiện một hệ thống số liệu các mối liên hệ của công năng chỉnh thể, là mô hình công năng của
chỉnh thể cơ thể, chủ yếu là giải thích hiện tượng bệnh lý và công năng sinh lý, vì vậy không
thể có được mối tương đồng hoàn toàn với ý nghĩa tạng phủ trong giải phẫu hiện đại.

Học thuyết khí huyết, tinh, tân dịch:


Khí, Huyết, Tinh, Tân dịch vừa là cơ sở vật chất của hoạt động công năng tạng phủ, lại là sản
vật của hoạt động công năng tạng phủ. Học thuyết Khí, Huyết, Tinh, Tân dịch chủ yếu nghiên
cứu về sự hình thành vật chất của sự sống cùng với cơ sở vật chất của hoạt động sự sống. Nói
bao quát, học thuyết Khí huyết, Tinh, Tân dịch bao hàm cả học thuyết Tạng tượng.

Học thuyết thể chất:


Học thuyết thể chất là nghiên cứu về đặc trưng thể chất, loại hình và quy luật biến hóa của
con người, cùng với học thuyết về mối liên hệ của sự phát sinh, phát triển của bệnh tật. Thể
chất là đặc trưng sẵn có của tính tương đối ổn định về công năng và hình thái của sự biểu
hiện trên cơ sở tính di truyền và tự phát của cơ thể con người với mối liên hệ mật thiết giữa
bệnh tật và sức khoẻ.

Học thuyết kinh lạc:


Học thuyết kinh lạc nghiên cứu về sự hợp thành của hệ thống kinh lạc, công năng sinh lý,
phân bố và tuần hành của kinh lạc, biến hoá bệnh lý cùng với lý luận chỉ đạo lâm sàng. Kinh
lạc là đường lưu thông của sự vận hành khí huyết; kết nối xuyên suốt ngang dọc, làm thành
mạng lưỡi toàn thân, mang các bộ phận trong ngoài, tạng phủ, quan tiết hợp thành một chỉnh
thể hữu cơ.

Học thuyết tạng tượng; học thuyết Khí, Huyết, Tân dịch; học thuyết thể chất và kinh lạc thẩm
thấu và dung hoà với nhau, bổ sung cho nhau mà hình thành một nhận thức sâu xa, độc đáo
của y học đối với quy luật sự sống.

3 - Bệnh nhân bệnh cơ:


Học thuyết bệnh nhân bệnh cơ là một tri thức lý luận của Đông y học đối với bệnh tật, bao
gồm nội dung ba bộ phận là bệnh nhân (nguyên nhân bệnh), sự phát bệnh, bệnh cơ.
Học thuyết bệnh nhân:
Học thuyết bệnh nhân là sự nghiên cứu các đặc điểm gây bệnh và tính chất của các nhân tố
gây bệnh. Đông y học cho rằng: sự phát sinh của tật bệnh là nhân tố gây bệnh sau khi tác
dụng lên con người, hoạt động sinh lý chính thường gặp phải sự phá hoại, dẫn đến kinh lạc
tạng phủ, âm dương khí huyết thất điều. Bệnh nhân có thể chia ra Lục dâm (phong, hàn, thử,
thấp, táo, hoả); Dịch lê, Thất tình (hỷ, nộ, ưu, tư, bi, khủng, nộ, kinh); Ẩm thực thất nghi (ăn
uống không điều độ, không hợp lý); lao động quá sức; ngoại thương; Thai truyền (bệnh
truyền nhiễm từ thai). Nhận thức của Đông y học đối với nguyên nhân bệnh là thông qua
chứng trạng, tiến hành phân tích tìm tòi triệu chứng trên thân thể người bệnh mà có được,
đồng thời, đối với việc dùng thuốc trị liệu có thể đưa ra các cơ sở vững chắc. Phương pháp
này được gọi là “thẩm chứng cầu nhân” (kiểm tra triệu chứng tìm nguyên nhân) hoặc “biện
chứng cầu nhân”. Căn cứ vào chứng trạng, thể chứng (triệu chứng toàn thân), chứng hậu
(triệu chứng) mà xây dựng khái niệm bệnh nhân, là đặc điểm quan trọng và tiêu chuẩn đặc
thủ của việc xác định bệnh nhân trong Đông y học.

Học thuyết bệnh cơ:


Học thuyết bệnh cơ là học thuyết nghiên cứu về sự phát sinh, phát triển, và diễn biến cơ lý
(sự biến hoá của sự vật) của bệnh tật. Nội dung học thuyết này bao gồm ba bộ phận cơ lý
phát bệnh, cơ lý bệnh biến và cơ lý diễn hoá bệnh trình. Cơ lý phát bệnh là học thuyết của
một số quy luật nghiên cứu về sự phát sinh tật bệnh của cơ thể con người. Đông y học cho
rằng sự phát sinh bệnh tật có quan hệ đến hai phương diện là chính khí và tà khí, tức “chính
khí tồn nội, tà bất khả can”(chính khí có bên trong thì tà khí không thể xâm nhập), “tà khí sở
tấu, kỳ khí tất hư” (nơi nào có tà khí thì nơi đó khí hư). Cơ lý của bệnh biến thường được gọi
tắc là “Bệnh Cơ”, “Bệnh Lý”, là học thuyết nghiên cứu về quy luật biến hoá của bệnh tật, bao
gồm tà chính thịnh suy, âm dương thất điều, khí huyết tinh, tân dịch thất thường cùng với sự
thất thường của tạng phủ kinh lạc và các quy luật biến hoá bệnh lý. Diễn biến cơ lý bệnh trình
là sự nghiên cứu về học thuyết các quy luật của phát sinh, phát triển và kết cục của bệnh tật,
bao gồm truyền biến bệnh vị, chuyển hoá bệnh lý, chuyển quy bệnh tật với tái phát.

4 - Chẩn pháp biện chứng:


Chẩn pháp là nói đến bốn phương pháp chẩn sát tật bệnh gồm vọng, văn, vấn, thiết, gọi tắt là
tứ chẩn.

Vọng chẩn là tiến hành quan sát có mục đích về thần sắc, hình thái, ngũ quan, hình tượng
lưỡi cùng với các vật bài tiết, để hiểu rõ bệnh tình, đo lường bệnh biến tạng phủ.

Văn chẩn là từ ngôn ngữ, hô hấp cùng âm thanh của người bệnh cùng với các khí vị bài xuất
từ trong cơ thể người bệnh để biện biệt bệnh tình bên trong.

Vấn chẩn là thông qua quá trình hỏi han tình hình bệnh tật, để hiểu rõ trạng thái sức khoẻ
thường ngày của người bệnh và nguyên nhân phát bệnh. Thiết chẩn là kiểm tra mạch tượng
và các bộ vị khác nhau trên thân thể người bệnh, để đo lường tình hình biến hoá trong cơ thể
con người. Trong tứ chẩn, lấy vọng thần, vọng sắc, thiệt chẩn, vấn chẩn, mạch chẩn làm chủ
yếu. Trong tứ chẩn, mỗi phần đều có đặc điểm nội dung khác nhau, không thể thay thế cho
nhau, cần phải kết hợp tứ chẩn mới có thể thành hệ thống toàn diện, từ đó mới có được tư liệu
lâm sàng đầy đủ để đưa ra các cơ sở biện chứng vững chắc.

Biện chứng tức là phân tích, biện rõ triệu chứng của bệnh tật, tức là lấy lý luận cơ sở tạng
phủ, kinh lạc, bệnh nhân, bệnh cơ làm căn cứ. Đỗi với triệu chứng toàn thân, chứng trạng
được thu thập trong tứ chẩn, cùng với các tư liệu lâm sàng khác, tiến hành phân tích, tổng
hợp, biện rõ nguyên nhân, tính chật, bộ vị, cùng với mối quan hệ giữa tà chính của bệnh tật,
từ đó khái quát, phán đoán đó là triệu chứng gì để đưa ra một cơ sở luận trị chính xác.

5 - Dự phòng trị tắc:

Dự phòng:
Dự phòng là chọn lựa một phương pháp nhất định, đề phòng sự phát sinh và phát triển của
bệnh tật. Chọn lựa dự phòng tích cực hoặc các bước trị liệu, phòng chống sự phát sinh và
phát triển của bệnh tật tức là “trị vị bệnh” (trị bệnh khi chưa phát bệnh), là một nguyên tắc cơ
bản của trị liệu Đông y học. Trị vị bệnh bao gồm hai phương diện phòng trước khi bệnh chưa
phát và phòng bệnh biến của bệnh.

Phòng bệnh lúc chưa phát bệnh tức là làm tốt các loại công tác dự phòng trước khi phát sinh
bệnh để phòng ngừa sự phát sinh của bệnh tật. Muốn phòng bệnh thì trước tiên là phải cường
thân. Muốn cường thân thì cần phải xem trọng việc giữ gìn sức khoẻ, việc giữ gìn sức khoẻ
còn gọi là “Dưỡng sinh”, được căn cứ trên quy luật phát triển sự sống, chọn lựa các biện pháp
có thể bảo vệ thân thể, giảm thiểu tật bệnh, tăng tiến sức khoẻ, diên niên ích thọ. Lấy tinh,
khí, thần để làm tam bảo của thân thể, con người được xem là điểm chính của dưỡng sinh;
nhấn mạnh đạo dưỡng sinh của con người là nương theo âm dương, sống hài hoà tiết độ, hình
và thần đều phải nuôi dưỡng, âm dương hài hoà, ăn ở tiết chế, cân bằng tạng phủ, động tĩnh
thích hợp, dưỡng khí bảo tồn tinh. Dưỡng sinh là một phương pháp dự phòng tích cực nhất,
đối với sự tăng cường sức khoẻ, diên niên ích thọ, có tác dụng nâng cao chất lượng, có một ý
nghĩa rất lớn. Ngoài phương pháp nhiếp sinh phòng bệnh ra, còn cần phải đề phòng sự xâm
hại của bệnh tật ngoại tà.

Đã bệnh thì phòng bệnh biến (ký bệnh phòng biến - 既病防变) là ý nói lúc bệnh đã phát thì
nên chú trọng đề phòng, không để bệnh diễn biến ra các chứng khác. Một khi phát bệnh, nên
chú ý chẩn đoán sớm và điều trị sớm. Chẩn đoán sớm giúp đề phòng bệnh tật từ chỗ nhẹ
chuyển sang chỗ nặng, có câu nói: “kiến vi tri trứ, di hoạn ư mạt manh, thị vi thượng công (Y
Học Tâm Ngộ) (见微知著,弥患于末萌,是为上工), nghĩa là nhìn cái vi tế mà suy cái
chưa xảy ra, dập tắt bệnh tật lúc còn manh nha, đấy mới là thầy thuốc giỏi. Trị liệu trong giai
đoạn sớm thì có thể cắt đứt được con đường truyền biến của bệnh tà, trước là yên vùng đất
chư có tà để phòng sự truyền biến của bệnh tật. Chẩn đoán sớm, trị liệu sớm là mấu chốt của
công tác đề phòng bệnh biến khi đã có bệnh, một mặt có thể khống chế sự mạn tính của bệnh
tật, mặt khác lại có thể tránh được sự hao tổn chính khi quá độ, dễ dàng điều trị và khôi phục
sức khoẻ.

Trị Tắc:
Trị tắc tức là phép tắc, hoặc nguyên tắc trong phương phép điều trị bệnh tật, là quan niệm và
nguyên tắc xác định phép trị trong việc điều trị bệnh tật, đối với lập pháp lâm sàng, xử
phương đều có ý nghĩa chỉ đạo rộng.

Trị bệnh tìm gốc, nhìn cái bình thường mà thấy sự biến động, thừa thế thuận lợi mà đánh
mạnh và lấy quân bình làm đầu (trị bệnh cầu bản, tri thường đạt biến, nhân thế lợi đạo hoà dĩ
bình vi kỳ - 治病求本、知常达变、因势利导和以平为期) là quan niệm cơ bản trong lĩnh
vực điều trị của Đông y. Chính trị phản trị (正治反治), trị tiêu trị bản (治标治本 - trị ngọn trị
gốc), tiếp lý âm dương (燮理阴阳–thăng bằng âm dương), điều hoà khí huyết (调和气血),
điều lý tạng phủ (调理脏腑), hình thần kiêm cố (形神兼顾–kiêm trị cả hình và thần), bệnh
chứng tương tham (病证相参–tìm hiểu cả bệnh và chứng), nhân dị chế nghi (因异制宜 –
pháp trị phải thích hợp với từng nguyên nhân) v.v… là nguyên tắc cơ bản điều trị bệnh tật
của Đông y. Trị phá là phương pháp điều trị cụ thể được xác định dưới sự chỉ đạo của trị tắc.
Trị tắc chỉ đạo trị pháp và trị pháp thể hiện trị tắc.

Lý, Pháp, Phương, Dược là bốn yếu tố lớn có liên quan đến quy phạm thao tác trị liệu cùng
chẩn đoán của Đông y học. Biện chứng luận trị là quá trình vận dụng lâm sàng của Lý, Pháp,
Phương, Dược, là đặc sắc cơ bản của học thuật Đông y. “Lý” nghĩa là phương pháp giải thích
chuẩn xác của lý luận Đông y học, được căn cứ trên nguyên tắc bệnh biến; “Pháp” nghĩa là
các trị pháp, trị tắc tương ứng với sự xác định dựa trên nguyên lý của bệnh biến; “Phương”,
là một phương pháp trị liệu hoặc một phương tễ tiêu biểu đã được chọn lựa một cách hợp lý
nhất căn cứ trên trị pháp, trị tắc. Dược, là phương pháp chọn lựa tốt nhất về phối ngũ, liều
lượng theo quân, thần, tá, sứ trong một phương thang. Biện chứng chính là tiền đề của luận
trị, luận trị là trên cơ sở biện chứng phác thảo ra biện pháp trị liệu. Biện chứng cùng luận trị
trong quá trình chẩn trị có quan hệ tương hỗ, gắn chặt không thể chia lìa, là sự ứng dụng cụ
thể lý, pháp, phương, dược trên lâm sàng.

6) Khang phục (phục hồi sức khoẻ):


Khang phục còn gọi là bình phục, khang kiện. Khang phục, là là ý nói đến sự phục hồi hoặc
cải thiện công năng sinh lý của tổ chức tạng phủ trong cơ thể con người, tức là chọn dùng các
biện pháp tiến hành trị liệu đối với tiên thiên hoặc hậu thiên, các nhân tố làm suy thoái công
năng tổ chức tạng phủ hoặc trở ngại công năng, từ đó khiến cho các công năng sinh lý có
được sự khôi phục hoặc cải thiện tốt. Khang phục không chỉ là sự phục hồi sức khoẻ cho cơ
thể, mà quan trọng hơn là khôi phục sự khoẻ mạnh của tinh thần. Vì vậy, Đông y học cho
rằng phục hồi sức khoẻ phải là sự phục hồi của thân tâm.

Quan điểm cơ bản của Đông y học về sự khang phục chính là sự khang phục chỉnh thể, biện
chứng về khang phục và khang phục công năng. Căn cứ vào quan điểm Thiên Nhân tương
ứng; người với tự nhiên, Xã hội thống nhất với nhau; thông qua tư tưởng thuận ứng tự nhiên,
xã hội công bằng, điều trị chỉnh thể mà đạt đến sự thống nhất hình và thần trong con người.
Tư tưởng khang phục chỉnh thể còn được gọi là “chỉnh thể khang phục quan”.

Biện chứng Khang phục là biện chứng luận trị trong sự thể hiện cụ thể của khang phục. Căn
cứ vào kết quả biện chứng, xác định nguyên tắc khang phục tương ứng, đồng thời chọn dùng
phương pháp khang phục thích hợp. Thúc đẩy tư tưởng khang phục của bệnh nhân được gọi
là “biện chứng khang phục quan”. Căn cứ vào “hằng động quan” (quan điểm về vạn vật vận
động không ngừng) của Đông y học, chú trọng vào huấn luyện công năng, vận động hình thể,
thúc đẩy sự lưu thông của khí huyết để khôi phục công năng sinh lý tạng phủ, sinh hoạt
thường nhật và năng lực công tác của người bệnh được gọi là “công năng khang phục quan”.

Dự phòng, trị liệu và khang phục là ba phương cách khác nhau của Đông y học dùng để đấu
tranh với bệnh tật, nhưng lý luận và phương pháp của ba phương cách này lại kết hợp mật
thiết với nhau không thể tách rời, đối với thực tiễn điều trị lâm sàng, nó có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc bảo vệ và giúp đỡ con người khoẻ mạnh sống lâu.

B) KẾT CẤU CƠ BẢN CỦA HỆ THỐNG MÔN HỌC ĐÔNG Y HỌC


Dựa trên phân loại học thuật mà nói thì trong các môn hệ thống lý luận Đông y học, nếu chia
thành cơ sở và ứng dụng, thì có thể phân thành hai loại hình lớn là môn học cơ sở và môn học
ứng dụng. Lấy quá trình hành vi điều trị của nhận thức, trị liệu và dự phòng bệnh tật mà phân
chia thì có thể chia thành ba môn học lớn là: môn học cơ sở y học, môn học y học lâm sàng,
và môn học y học dưỡng sinh khang phục.

1) Y học cơ sở:
Lý luận cơ sở Đông y: Lý luận cơ sở Đông y là cơ sở của toàn bộ các môn học Đông y hiện
đại. Nội dùng chủ yếu là là các học thuyết về cơ sở triết học; tạng tượng; kinh lạc; khí, huyết,
tinh, tân dịch; bệnh nhân bệnh cơ; cùng với dự phòng, trị tắc, khang phục.

Chẩn đoán học Đông y: Chẩn đoán học Đông y là một môn học được căn cứ trên lý luận cơ
sở Đông y, nghiên cứu lý luận, tri thức và phương pháp của chẩn pháp và biện chứng, là trụ
cột của việc liên kết giữa lý luận với lâm sàng.

Đông dược học: Việc dùng các vật chất dược loại của truyền thống Đông y để dự phòng và
chẩn trị tật bệnh gọi là Đông dược, còn gọi là Bản thảo, Thảo dược, Đông dược… hiện tại
được thống nhất gọi là Đông dược (Trung dược – vì Việt nam ta có dùng cả thuốc nam và
thuốc bắc để thay thế và phát huy tác dụng lẫn nhau nên trong tài liệu này Trung dược được
gọi là Đông dược).

Đông dược chủ yếu có nguồn gốc chủ yếu là từ thiên nhiên và các loại nhân tạo, bao gồm
thuốc thực vật, thuốc động vật, thuốc khoáng vật cùng một số thuốc có nguồn gốc từ hoá học
và bào chế từ sinh vật. Đông dược học chủ yếu nghiên cứu lý luận cơ bản của Đông dược và
các tính năng, công hiệu, ứng dụng, thu hái, bào chế, nguồn gốc của Đông dược, bao gồm:
dược lý học Đông dược, Cao đơn hoàn tán, kỹ thuật canh tác đông dược, dược liệu Đông
dược, bào chế Đông dược. Ngoài ra còn có một phân ngành về Dược học chuyên nghiên cứu
về thành phần hoá học trong Đông dược.

Phương tễ học: Phương tễ được gọi tắc là “phương”. Phương tức là Y phương, Tễ nghĩa là
điều tễ (phương thang đã được đúc kết dựa trên lý luận). Phương tễ được căn cứ trên nguyên
tắc phối ngũ, để tạo thành một liều lượng nhất định trong phối phương của dược vật, là thể
hiện của trị pháp, là bộ phận quan trọng tạo thành của lý, pháp, phương, dược trong đông y
học. Phương tễ học là một môn học nghiên cứu sự tạo thành, biến hoá và ứng dụng lâm sàng
của phương tễ Đông y. Nội dung của phương tễ bao gồm nguyên tắc tạo thành phương tễ,
quy luật phối ngũ dược vật, biến hoá tạo thành của phương tễ, loại hình cùng với cách dùng
của phương tễ.

2) Y học lâm sàng:


Đông y học, đối với nhận thức bệnh chứng cùng nguyên tắc trị, biện pháp và kinh nghiệm
liệu bệnh chứng, đã cấu thành một chủ thể của môn học ứng dụng Đông y, đồng thời phân
biệt, kết hợp để trở thành các môn học lâm sàng như: “nội khoa học Đông y”, “ngoại khoa
học Đông y”, “phụ khoa học Đông y”, “nhi khoa học Đông y”, “cốt khoa, thương khoa Đông
y”, ngũ quan khoa Đông y”, “châm cứu thôi nã (xoa bóp) học”.

3) Y học dưỡng sinh khang phục:


Dưỡng sinh học Đông y là một môn học ứng dụng, dưới sự chỉ đạo của lý luận Đông y, tìm
hiểu, nghiên cứu các phương pháp và lý luận về điều dưỡng thân tâm, tăng cường thể chất,
dự phòng tật bệnh, diên niên ích thọ của truyền thống Đông phương, đồng thời dùng các
phương pháp và lý luận này hướng dẫn hoạt động bảo vệ sức khoẻ cho mọi người.

Khang phục học Đông y là môn học lấy sự chỉ đạo của lý luận cơ sở Đông y, vận dụng điều
nhiếp tìh chí, vui vẻ, thể dục truyền thống, tắm rửa, ăn uống cùng các quan điểm bệnh tật,
tiến hành biện chứng khang phục, là một môn học có liên quan đến Xã hội học, luận lý học,
tâm lý học và nhiều học có tính ứng dụng khác.

II) ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỆ THỐNG LÝ LUẬN ĐÔNG Y HỌC

A) Quan niệm chỉnh thể:


1) Khái niệm cơ bản của quan niệm chỉnh thể:
Từ thế giới khách quan tự nhiên giới cho đến xã hội loài người, mọi sự vật đều là một chỉnh
thể thống nhất được cấu thành bởi một hình thức nhất định của nhiều yếu tố. Chỉnh thể là một
bộ phận tạo thành được cấu thành bởi một hình thức quan hệ nhất định. Nói chung, giữa các
bộ phận tạo thành (nguyên tố) có một bản chất ổn định, một mối liên hệ ổn định, thì gọi đấy
là mối quan hệ kết cấu. Bao gồm một chỉnh thể có kết cấu quan hệ ổn định thì gọi là hệ
thống. Tính chỉnh thể tính thống nhất, tính hoàn chỉnh và tính quan hệ. Nhận thức của loài
người đối với tính chỉnh thể, có một lịch sử lâu dài. Quan niệm chỉnh thể thô sơ của người Á
đông là một với quan hệ nhận thức của nguồn gốc thế giới. Các học thuyết âm dương ngũ
hành, khí nhất nguyên luận của triết học Đông phương cho rằng các yếu tố trong tự nhiên
giới là do một yếu tố nào đấy tương bổ tương thành mà tạo thành một chỉnh thể hữu cơ, ở
một mức độ nhất định nào đấy cho thấy tính chỉnh thể của sự vật khách quan cùng với các
cấp độ liên hệ của biện chứng. Quan niệm chỉnh thể thô sơ của Đông phương xưa được xây
dựng trên hình thức hoặc hình thái tư duy của cơ sở học thuyết âm dương ngũ hành và khí
nhất nguyên luận. Tư duy chỉnh thể là hình thái tư duy độc đáo của Đông phương xưa, nó
nhấn mạnh tính hài hoà và hiệp điều của chỉnh thể. Nhưng quan niểm chỉnh thể của Đông
phương xưa còn có tính tự phát, tính trực quan và tính tư duy biện chứng, nó cùng với quan
niệm chỉnh thể của chủ nghĩa duy vật biện chứng tức là quan niệm chỉnh thể, là hệ thống của
khoa học, không thể so sánh với nhau được. Quan niệm chỉnh thể là nhận thức về tính hoàn
chỉnh của hiện tượng, tính thống nhất và tính liên hệ của sự vật.

Triết học Đông phương lấy hệ thống triết học khí nhất nguyên luận làm cơ sở, lấy Thiên, Địa,
Nhân tam tài là điểm lập luận căn bản, nhấn mạnh thiên nhân hợp nhất, vạn vật nhất thể, con
người cùng với tự nhiên, xã hội là một chỉnh thể hữu cơ, toàn thể thế giới ở một vị trí cao độ
và hài hoà, hiệp điều, đó gọi là “Thiên Nhân hợp nhất” quan. Đông y lấy học thuyết âm
dương ngũ hành để làm sáng tỏ tính hoàn chỉnh hiệp điều giữa các tổ chức tạng phủ trong cơ
thể con người, cùng với mối liên hệ thống nhất của cơ thể với hoàn cảnh ngoại giới, từ đấy
hình thành một đặc điểm đặc biệt về quan niệm chỉnh thể của Đông y học. Chỉnh thể quan
của Đông y học là nhận thức về tính liên hệ và tính hoàn chỉnh, tính thống nhất giữa thân thể
con người với hoàn cảnh ngoại giới, là duy vật luận và tư tưởng phép biện chứng tự phát
được thể hiện trong Đông y, là một trong những đặc điểm cơ bản của Đông y học, nó xuyên
suốt trong sinh lý, bệnh lý, chẩn pháp, biện chứng, trị liệu cùng toàn bộ hệ thống lý luận
trong Đông y, có ý nghĩa chỉ đạo rất quan trọng.

2) Nội dung quan niệm chỉnh thể:


Đông y học lấy nội tạng con người và thể biểu bên ngoài, các bộ phận tổ chức, khí quan tạo
thành một chỉnh thể hữu cơ, đồng thời cho rằng thời tiết bốn mùa, địa thổ phương nghi, hoàn
cảnh xung quanh cùng các nhân tố đối với bệnh lý và sinh lý của con người có một mức độ
ảnh hưởng khác nhau, vừa nhấn mạnh tính thống nhất trong nội tại con người, lại vừa coi
trọng tính thống nhất của cơ thể với hoàn cảnh ngoại giới, đây là nội dung chủ yếu của quan
niểm chỉnh thể trong Đông y học.

a) Con người là một chỉnh thể hữu cơ:


Một là dựa trên kết cấu hình thể mà nói, con người được cấu thành bởi một số lượng. tạng
phủ khí quan. Kết cấu của những tạng phủ khí quan này là không thể tách rời, tương hỗ liên
hệ. Mỗi một tạng phủ đều là một bộ phận tạo thành trong một chỉnh thể hữu cơ của con
người, đều không thể tách rời chỉnh thể mà tồn tại độc lập, nó phải là một bộ phận thuộc về
chỉnh thể.
Hai là dựa trên vật chất sự sống mà nói, khí, huyết, tinh, tân, dịch là vật chất cơ bản để tạo
thành và duy trì hoạt động sự sống của con người. Nói rời ra thì khí, huyết, tinh, tân, dịch,
thực ra đều do sự hoá của khí mà có. Chúng trong quá trình khí hoá, đều có sự chuyển hoá,
phân bố, vận hành đối với các khí quan tạng phủ toàn thân, tính đồng nhất của loại vật chất
này đảm bảo cho tính thống nhất của cơ năng hoạt động khí quan tạng phủ.

Ba là dựa trên cơ năng hoạt động mà nói thì tính thống nhất của kết cấu hình thể và vật chất
sự sống, quyết định tính thống nhất của hoạt động cơ năng, khiến cho các cơ năng hoạt động
khác nhau có sự hỗ căn hỗ dụng, hiệp điều hài hoà, liên hệ mật thiết, chế ước lẫn nhau, về
mặt bệnh lý có sự ảnh hưởng lẫn nhau. Sự hình thành của tính thống nhất chỉnh thể cơ thể là
lấy Ngũ tạng là trung tâm, phối hợp Lục phủ, thông qua tác dụng của hệ thống kinh lạc
“trong thì nối với tạng phủ, ngoài hợp với các chi tiết” mà thực hiện công năng. Ngũ tạng là
năm hệ thống cấu thành toàn bộ con người, tổ chức khí quan trong cơ thể con người đều bao
quát trong năm hệ thống này. Con người lấy Ngũ tạng làm trung tâm, thông qua hệ thống
kinh lạc, lấy Lục phủ, Ngũ tạng, Ngũ quan, Cửu khiếu, Tứ chi, Bách hài cùng các tổ chức khí
quan hữu cơ toàn thân liên kết lại với nhau, cấu thành một tương quan biểu lý, thông suốt
thượng hạ, liên hệ mật thiết, cùng nhau hiệp điều, toàn bộ là một chỉnh thể thống nhất có trật
tự, đồng thời thông qua tác dụng của Tinh, Khí, Thần mà hoàn thành cơ năng hoạt động của
một cơ thể thống nhất. Quan niểm Ngũ tạng nhất thể này phản ánh lên một cách mạnh mẽ các
tổ chức khí quan trong nội tại cơ thể con người là không thể độc lập, mà phải là một chỉnh thể
hữu cơ thống nhất, luôn tương hỗ quan hệ lẫn nhau.

b) Tính thống nhất giữa con người với hoàn cảnh tự nhiên giới:
Quan niểm chỉnh thể của Đông y học nhấn mạnh đến sự hài hoà, hiệp điều và thống nhất
chỉnh thể của hoàn cảnh trong và ngoài cơ thể con người, cho rằng cơ thể con người là một
chỉnh thể hữu cơ, vừa nhấn mạnh tính thống nhất của hoàn cảnh nội tại trong con người, lại
chú trọng đến tính thống nhất của con người với hoàn cảnh ngoại giới. Có thể nói rằng, hoàn
cảnh ngoại giới là nói đến hoàn cảnh Xã hội và tự nhiên mà con người phải nương tựa vào để
tồn tại. Hệ thống lý luận hiện đại cho rằng: hệ thống sự sống bao gồm 8 loại hình là tế bào,
khí quan, thể sinh vật, quần thể, tổ chức, khu vực xã hội, xã hội, cùng với hệ thống siêu quốc
gia. Trong hoàn cảnh đó, căn cứ theo dòng chảy vật chất (vật chất lưu) của sự biến hoá không
ngừng, dòng chảy của năng lượng (năng lượng lưu) và dòng chảy của tin tức (tín tức lưu),
điều tiết vô số các biến lượng mà duy trì sinh tồn. Mối quan hệ Thiên Nhân là vấn đề cơ bản
của triết học Đông phương cổ đại. Trong triết học Đông phương cổ đại, hàm nghĩa của Thiên
đại thể có 3 nghĩa: Một là nói đến Thiên trong tự nhiên, hai là nói đến vị trí chủ tể của Thiên,
ba là nói đến hàm ý của Thiên; hàm nghĩa của Nhân đại thể có 2 nghĩa: một là nói đến chủ
thể của nhận thức trong hiện thực hoặc chủ thể thực tiễn. Hai là nói đến nhân cách đầy đủ
trên ý nghĩa giá trị.

Mối quan hệ Thiên Nhân trên thực chất bao quát mối quan hệ của con người với tự nhiên và
Xã hội. Thuyết khí nhất nguyên luận của triết học Đông phương cổ đại cho rằng: Thiên Nhân
nhất khí, toàn thể vũ trụ đều thống nhất một khí. Thiên và Nhân có tính vật chất thống nhất,
có tính quy luật cộng đồng. Đông y học căn cứ thuyết chủ nghĩa duy vật thô sơ “Thiên Nhân
hợp nhất”, “Thiên Nhân nhất khí”, dùng Y học, Thiên văn, Khí tượng học cùng tư liệu, luận
chứng khoa học tự nhiên, để làm phong phú học thuyết Thiên Nhân hợp nhất, đưa ra quan
điểm Thiên Nhân nhất thể của tư tưởng “người với trời đất cùng hoà nhập”(Nhân dữ Thiên
Địa tương tham - 人与天地相参) (Tố Vấn – Khái Luận), nhấn mạnh “muốn nói đến Thiên,
cần phải nghiệm ở Nhân”(thiện ngôn Thiên giả, tất hữu nghiệm ư nhân - 善言天者,必有验于
人) (Tố Vấn – Cử Thống Luận), mang sự quan trọng của con người và đối với sự nghiên cứu
về con người, đặt tại vị trí trung tâm của lý luận quan hệ Thiên Nhân.

c) Tính thống nhất của con người với hoàn cảnh tự nhiên giới:
Con người có thuộc tính và nguồn gốc thống nhất với tự nhiên giới. Con người sản sinh bởi
tự nhiên, quy luật hoạt động và mạng sống của con người cần phải nhận sự ảnh hưởng và
định luật của tự nhiên giới. Tính vật chất thống nhất của con người với tự nhiên quyết định
tính thống nhất của quy luật vận động tự nhiên và con người.

Cuộc sống của con người là ở trong tự nhiên giới, tự nhiên giới tồn tại các điều kiện tất yếu
cho sự nương tựa và sinh tồn của con người. Sự biến hoá vận động của tự nhiên giới lại có
thể trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến cơ thể con người, như vậy cơ thể con người sẽ có
sự biến hoá bệnh lý và sinh lý tương ứng. Quan điểm “Thiên nhân nhất thể quan” cho rằng
Thiên có sự biến hoá tam âm, tam dương, lục khí và ngũ hành, con người cũng có sự vận
động của khí tam âm, tam dương, lục kinh, lục khí và ngũ tạng. Sự biến hoá vận động âm
dương, ngũ hành của tự nhiên giới với sự vận động khí của ngũ tạng lục phủ con người có sự
đón nhận thống ứng lẫn nhau. Cho nên cơ thể con người luôn luôn tương thông và có quan hệ
mật thiết với thế giới tự nhiên. Con người không những có thể chủ động thích ứng tự nhiên,
mà còn có thể chủ động cải thiện tự nhiên, từ đó mà giữ gìn được sức khoẻ, cuộc sống tích
cực, đấy gọi là tính thống nhất của nội bộ con người với hoàn cảnh ngoại giới. Cụ thể thể
hiện ở những phương diện sau.

Con người bẩm thị khí Thiên Địa mà sinh tồn:


Đông y học cho rằng, nguồn gốc của thế giới là khí, là kết quả tác dụng tương hỗ lẫn nhau
của hai khí âm dương. Thiên Địa là nền tảng của khởi nguồn sự sống. Sự vận động thống
nhất, đối lập của hai khí âm dương Thiên Địa là hoàn cảnh thích nghi nhất được sản sinh để
cung cấp cho sự sống. Vậy nên thiên Bảo Mệnh Toàn Hình Luận sách Tố Vấn chép: “con
người sinh ra từ Địa, mệnh ở Thiên, khí Thiên Địa hợp với nhau, được gọi là Nhân (người)”
(nhân sinh ư Địa, huyền mệnh ư Thiên, Thiên Địa hợp khí, mệnh chi viết Nhân - 人生于地,
悬命于天,天地合气,命之曰人 ), “Trời che đất chở, vạn vật đều đầy đủ, không gì quý bằng
con người” (Thiên phú Địa tải, vạn vật tất bị, mạc quý hồ Nhân - 天覆地载,万物悉备,莫贵
乎人 ). Sự sống là sản phẩm tất nhiên bởi một giai đoạn phát triển nhất định của tự nhiên
giới. Con người và Thiên Địa vạn vật giống nhau, đều là sản vật của sự tương cảm âm dương
hình khí Thiên Địa, là kết quả của quy luật biến hoá vật chất tự nhiên giới. Con người được
sinh ra từ tự nhiên giới, tự nhiên giới là điều kiện tất yếu cung cấp cho sự sống con người, vì
vậy thiên Lục Tiết Tạng Tượng Luận sách Tố Vấn chép: “Thiên nuôi người bằng ngũ khí,
Địa nuôi người bằng ngũ vị” (Thiên thực Nhân dĩ ngũ khí, Địa thực Nhân dĩ ngũ vị - 天食人
以五气,地食人以五味 ). Sự thay cũ đối mới là đặc trưng cơ bản của sự sống. Sự sống vừa là
hệ thống tự động, lại vừa là hệ thống tự do. Nó cần phải có sự trao đổi thông tin, năng lượng,
vật chất với hoàn cảnh ngoại giới. Con người là một hệ thống lớn phức tạp. Khí là vật chất cơ
bản cấu thành cơ thể con người, cũng là cơ sở vật chất duy trì hoạt động của sự sống. Nó
thường ở một trạng thái tự làm mới và tự phục hồi trong quá trình thay cũ đổi mới, từ đấy
hình thành một quá trình vận động khí hoá của sự chuyển hoá hình khí và của khí hoá thành
hình, hình hoá thành khí. Không có sự vận động khí hoá thì không có hoạt động sự sống.
Thăng giáng xuất nhập là hình thức cơ bản của sự vận động khí hoá. Vì vậy, thiên Lục Vi Chỉ
Đại Luận sách Tố Vấn chép: “không xuất nhập thì không có sự sinh trưởng khoẻ mạnh,
không thăng giáng thì không có sinh, trưởng, hoá, thu, tàng” (phi xuất nhập tắc vô dĩ sinh
trưởng tráng lão dĩ, phi thăng giáng tắc vô dĩ sinh, trưởng, hoá, thâu, tàng - 非出入则无以生
长壮老已,非升降则无以生长化收藏 ), “xuất nhập rối loạn thì thần cơ bị hoá diệt, thăng
giáng ngừng thì khí sẽ bị nguy ngay” (xuất nhập phế tắc thần cơ hoá diệt, thăng giáng tức tắc
khí lập cô nguy - 出入废则神机化灭,升降息则气立孤危 ). Nói chung, con người là sản vật
của tự nhiên giới, lại tồn tại sinh sống trong tự nhiên giới.

Ảnh hưởng của tự nhiên giới đối với con người:


Con người và tự nhiên giới thống nhất với nhau, con người với tự nhiên giới có quy luật
tương đồng, đều đón nhận tính chế ước của quy luật vận động âm dương ngũ hành. Hoạt
động sinh lý của con người là theo sự biến hoá của điều kiện tự nhiên và vận động của tự
nhiên giới. Thiên Huyết Khí Hình Chí sách Tố Vấn chép: “số của con người” (nhân chi
thường số - 人之常数) cũng tức là “số của Thiên”(Thiên chi thường số - 天之常数), hay như
thiên Chí Chân Yếu Đại Luận sách Tố Vấn chép: “Đại kỹ (cương kỹ của trời đất) thống ứng
với thần của con người” (Thiên Địa chi đại kỷ, nhân thần chi thông ứng dã - 天地之大纪,人
神之通应也). Nếu như đi ngược lại với quy luật tự nhiên, thì sẽ dẫn đến hậu quả không tốt,
như thiên Thiên Nguyên Kỷ Đại Luận sách Tố Vấn đã chép: “huyền cơ vi diệu … khí đi có
thể theo kịp, tôn trọng nó thì sống khoẻ mạnh, xem thường nó thì có thể mất mạng” (chí số
chi cơ … kỳ vãng khả truy, kính chi giả sương, mạn chi giả vong - 至数之机…其往可追,敬
之者昌,慢之者亡). Trong tự nhiên giới, khí hậu bốn mùa, địa thổ phương nghi đều có thể
ảnh hưởng một cách sâu sắc đến bệnh tật và hoạt động sinh mệnh của con người. Những ảnh
hưởng đó thường như sau:

1c) khí hậu thời tiết với cơ thể con người:


Thiên Bảo Mệnh Toàn Hình Luận sách Tố Vấn chép: “người có thể ứng với tứ thời, Thiên
Địa là cha mẹ” (Nhân năng ứng tứ thời giả, Thiên Địa vi chi Phụ Mẫu - 人能应四时者,天地
为之父母). Khí hậu bốn mùa của một năm thể hiện rõ tính quy luật biến hoá thời tiết của
Xuân ôn, Hạ nhiệt, Thu táo, Đông hàn, từ đó mà cơ thể con người cũng có sự phát sinh tương
ứng tính biến hoá thích ứng, như mục Tứ Ngôn Cử Yếu sách Tần Hồ Mạch Học chép: “Xuân
huyền, Hạ hồng, Thu mao, Đông thạch, đấy là bình mạch”. Khí trời nóng bức thì sự vận hành
của khí huyết nhanh gấp, tấu lý khai mở, mồ hôi ra nhiều; khí trời lạnh lẽo thì khí huyết vận
hành chậm chạp, tấu lý kín đáo, mồ hôi không ra. Như vậy có thể nói lên rất rõ sự thay đổi
khí hậu bốn mùa có ảnh hưởng đến công năng sinh lý của cơ thể con người. Khả năng thích
ứng với hoàn cảnh tự nhiên giới của con người có một giới hạn nhất định. Nếu khí hậu thay
đổi khắc nghiệt, vượt qua giới hạn nhất định của điều tiết cơ năng cơ thể con người, hoặc sự
điều tiết cơ năng của cơ thể thất thường, không thể điều tiết phản ứng kịp thời đối với sự thay
đổi của tự nhiên, thì cơ thể sẽ phát sinh bệnh tật. Những bệnh phát nhiều theo thời tiết hoặc
bệnh lây nhiễm theo thời lệnh (theo mùa) thì có khuynh hướng thời tiết rõ rệt, như trong thiên
Kim Quỹ Chân Ngôn Luận sách Tố Vấn chép: “mùa xuân dễ mắc bệnh cừu nục, trọng hạ
(tháng 5 âm lịch, hai tháng đầu tiên của mùa hạ) dễ mắc bệnh ngực sườn, trường hạ (đa số
gọi nhầm thành trưởng hạ. Thời gian này vào khoảng tháng 6 âm lịch. Vì thời gian này ngày
dài hơn đêm nên gọi là “trường hạ”) dễ mắc chứng tiêu chảy, lạnh trong bụng, mùa thu dễ
mắc bệnh phong sốt rét, mùa đông dễ mắc bệnh tý quyết (cơ thể chân tay đau đớn, tê dại)”
(Xuân thiện bệnh cừu nục, trọng hạ thiện bệnh hung hiếp, trường hạ thiện bệnh đổng tiết hàn
trung, thu thiện bệnh phong ngược, đông thiện bệnh tý quyết - 春善病鼽衄,仲夏善病胸胁,
长夏善病洞泄寒中,秋善病风疟,冬善病痹厥 ). Ngoài ra, mỗi một bệnh tái phát mạn tính
như tý chứng, hao chứng (hen), thường thường, khi thời tiết thay đổi nặng nề hoặc khí của
mùa quá khắc nghiệt thì sự phát tác càng gia tăng.
2c) Ngày đêm sáng tối với cơ thể con người:
Thiên Địa có tính quy luật biến hoá thời tiết theo chu kỳ của ngũ vận lục khí. Như dương khí
của cơ thể theo nhịp điệu của ngày đêm sáng sinh ra, trưa là thịnh nhất, chiều bắt đầu yếu,
nửa đêm suy mà xuất hiện các nhịp điệu mà tính quy luật. Vậy nên thiên Sinh Khí Thông
Thiên Luận sách Tố Vấn chép: “dương khí, ban ngày thì chủ bên ngoài, sáng sớm khí con
người được sinh ra, giữa ngày thì dương khí thịnh, mặt trời lặn về phía tây thì dương khí đã
yếu, lúc đó khí môn đóng lại”(khí môn còn gọi là Quỷ Môn, tức lỗ thoát mồ hôi trên da. Lỗ
thoát mồ hôi là nơi dương khí tán tiết ra nên gọi là khí môn) (dương khí giả, nhất nhật nhi
chủ ngoại, bình đán nhân chi khí sinh, nhật trung nhi dương khí long, nhật tây nhi dương khí
dĩ hư, khí môn nãi bế - 阳气者,一日而主外,平旦人气生,日中而阳气隆,日西而阳气已虚,
气门乃闭 ). Trong bệnh lý, nói chung, đại đa số bệnh ban ngày thường nhẹ, về chiều tối thì
nặng thêm, nửa đêm là nặng nhất, thể hiện tính tình trạng biến hoá của tính chu kỳ. Vì vậy
thiên Thuận Khí Nhất Nhật Vi Tứ Thời sách Linh Khu chép: “các bệnh đa số thì ban ngày
tỉnh táo khoẻ mạnh, đến đêm thì thêm nặng”(bách bệnh giả, đa dĩ đán tuệ trú an, tịch gia dạ
thậm - 百病者,多以旦慧昼安,夕加夜甚).

3c) Vùng miền địa phương với cơ thể:


Hoàn cảnh địa lý là nhân tố quan trọng của hoàn cảnh tự nhiên. Hoàn cảnh địa lý bao gồm địa
chất thuỷ thổ, tính khí hậu địa phương và nhân văn địa lý, phong tục tập quán. Sự khác biệt
của hoàn cảnh địa lý, trong một mức độ nhất định có ảnh hưởng đến cơ năng sinh lý và hoạt
động tâm lý của con người. Đông y học đặc biệt coi trọng sự ảnh hưởng của vùng miền địa
phương đến cơ thể con người. Sinh trưởng có Nam Bắc, địa thế có cao thấp, thể chất có âm
dương, ăn uống có sang hèn đều có những đặc thù khác nhau, lại thêm vào đó thời tiết lúc
lạnh lúc nóng có khác nhau, mắc bệnh cũng có nông sâu khác nhau. Vì vậy thiên Ngũ
Thường Chính Đại Luận sách Tố Vấn chép: “khí của một châu (địa phương), sinh hoá thọ
yểu không giống nhau” (nhất châu chi khí, sinh hoá thọ yểu bất đồng - 一州之气,生化寿夭
不同). Nói chung, đất đai miền Đông Nam thấp yếu, khí hậu đa phần ẩm nóng (thấp nhiệt),
cơ thể thường rắn chắc. Con người sống thời gian dài trong một hoàn cảnh địa lý đặc biệt,
dần dần hình thành tính thích ứng biến hoá của phương diện cơ năng. Một khi thay đổi vùng
đất, hoàn cảnh đột nhiên thay đổi, các cơ năng sinh lý cá thể rất khó phát sinh sự thay đổi
thích ứng kịp thời nhanh chóng. Vì vậy, trong thời gian đầu sẽ dễ cảm thấy không thích ứng
lắm, có đôi khi cũng do lý do trên mà phát sinh bệnh tật. Có thể nói “thuỷ thổ bất
phục”(không quen thổ nhưỡng) là nói đến tình huống này. Nói chung, sự khác nhau của hoàn
cảnh địa lý, sẽ hình thành các đặc điểm khác nhau về thể chất, sinh lý, từ đó các tình huống
phát sinh bệnh tật ở mỗi địa phương cũng khác nhau.

4c) Con người với tính thống nhất xã hội:


Bản chất của con người, trong hiện thực là một tổng hoà của các mối quan hệ xã hội. Con
người vừa có thuộc tính tự nhiên, vừa có thuốc tính xã hội. Xã hội là một bộ phận tạo thành
của hệ thống sự sống. Quá trình trưởng thành của con người từ trẻ con cho đến người lớn là
một quá trình của sinh vật con người biến đổi thành xã hội con người. Cuộc sống của con
người trong hoàn cảnh x官 thân tâm của con người có một mối quan hệ mật thiết. Sự khác
biệt về địa vị, góc độ sắc thái xã hội cùng với biến động hoàn cảnh xã hội không chỉ ảnh
hưởng đến cơ năng thân tâm của con người mà còn tạo nên khác biệt nhau rất nhiều giữa sự
cấu thành bệnh tật. Trong mục “Phú Quý Bần Tiện Trị Bệnh Hữu Biệt Luận” sách “Y Tông
Tất Độc” chép: “Nói chung người giàu có thường hay lao tâm, người nghèo khó thường hay
lao lực; người giàu có thì thường ăn cao lương mỹ vị, người nghèo khó thì ăn uống thiếu
thốn, đạm bạc; người giàu có ở nơi thoáng mát rộng rãi, người nghèo khó thì ở ngõ hẹp nhà
tranh; lao tâm thì trung hư (hư bên trong) mà gân mềm xương loãng; lao lực thì trung thực
(bên trong khoẻ mạnh) mà gân dai xương cứng. Kẻ ăn cao lương mỹ vị thì tạng phủ thường
mỏng dòn, kẻ ăn uống đạm bạc thì tạng phủ thường chắc chắn; kẻ ở nhà cửa rộng rãi thì da
lông thưa hở mà lục dâm dễ xâm phạm, kẻ ở ngõ hẹp nhà tranh thì tấu lý kín đáo mà ngoại tà
khó xâm phạm. Vì vậy, bệnh của người giàu có nên bổ chính khí, bệnh của người nghèo khổ
nên công tà là chính” (đại để phúc quý chi nhân đa lao tâm, bần tiện chi nhân đa lao lực; phú
quý giả cao lương tự phụng, bần tiện giả lê hoắc cẩu sung; phú quý giả khúc phòng quảng hạ,
bần tiện giả lậu hạng mao tỳ; lao tâm tắc trung hư nhi cân nhu cốt thuý, lao lực tắc trung thực
nhi cốt nhi cốt kính cân cường; cao lương tự phụng giả tạng phủ hằng kiều, lê hoặc cẩu sung
giả tạng phủ hằng cố; khúc phòng quảng hạ giả huyền phủ sơ nhi lục dâm dị khách, mao tỳ
lậu hàng giả tấu lý mật nhi ngoại tà nan can. Cố phú quý chi tật, nghi ư bổ chính, bần tiện chi
tật, dị ư công tà – 大抵富贵之人多劳心,贫贱之人多劳力;富贵者膏粱自奉贫贱者藜藿苟
充;富贵者曲房广厦,贫贱者陋巷茅茨,劳心则中虚而筋柔骨脆,劳力则中实而骨劲筋强;膏
粱自奉者脏腑恒娇,藜藿苟充者脏腑恒固;曲房广厦者玄府疏而六淫易客茅茨陋巷者腠理
密而外邪难干.故富贵之疾,宜于补正,贫贱之疾,易于攻邪). Người sống ở thời thái bình thì
đa phần là trường thọ, ở thời có nhiều thiên tai địch hoạ thì sẽ có dịch bệnh, đấy là tư tưởng
xã hội của y học thời kỳ đầu. Theo sự phát triển của khoa học, sự tiến bộ và biến thiên của xã
hội, đối với sự ảnh hưởng cơ năng của thân tâm con người cũng có sự phát sinh thay đổi. Sự
phát sinh “các hội chứng tổng hợp đa khoa”, “các chứng uất kết”, “các hội chứng suy nhược
mạn tính” của xã hội hiện đại với nhân tố xã hội, có mối quan hệ mật thiết. Nói chung, Đông
y học xuất phát từ quan niệm chỉnh thể Thiên Nhân hiệp nhất, nhấn mạnh ứng dụng nghiên
cứu trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, ở giữa thì biết về con người, trị bệnh không
ngoài hiểu biết về con người, như sách Y Học Nguyên Lưu Luận đã chép: “kẻ không biết
Thiên Địa Nhân thì không thể làm thầy thuốc” (bất trị Thiên Địa Nhân giả, bất khả dĩ vi Y -
不知天地人者,不可以为医).

5c) Năng lực thích ứng hoàn cảnh của con người:
Quan niệm Thiên Nhân hợp nhất của Đông y học nhấn mạnh sự hài hoà làm một giữa con
người với tự nhiên. Con người và tự nhiên có quy luật giống nhau. Quá trình sinh, trưởng,
tráng, lão của con người có sự tiếp nhận quy luận chế ước của tự nhiên, bệnh lý và sinh lý của
con người cũng tuân theo biến hoá của tự nhiên mà có sự biến hoá tương ứng. Con người cần
phải trải qua những phương pháp dưỡng sinh, tích cực chủ động thích ứng với tự nhiên.
Ngoài ra, còn cần phải tăng cường tu dưỡng tính tình, rèn luyện tính trung hoà, xây dựng một
nhân cách tốt đẹp, hợp nhất với hoàn cảnh xã hội. Nhưng, khả năng thích ứng của con người
có giới hạn, một khi sự thay đổi hoàn cảnh ngoại giới quá khắc nghiệt, hoặc khả năng thích
điều tiết của cá thể suy yếu, không thể đưa ra được sự điều chỉnh thay đổi tương ứng đối với
hoàn cảnh tự nhiên hoặc xã hội, thì con người sẽ rơi vào trạng thái không khoẻ mạnh, thậm
chí còn phát sinh biến hoá bệnh lý mà sinh tật bệnh.

3) Ý nghĩa của quan niệm chỉnh thể:


Quan niệm chỉnh thể của Đông y học, đối với sự quan sát và nghiên cứu cơ thể con người
cùng với mối quan hệ giữa cơ thể con người với hoàn cảnh ngoại giới và công tác chẩn trị tật
bệnh lâm sàng có một ý nghĩa chỉ đạo rất quan trọng.

a) Chỉnh thể quan niệm với sinh lý:


Dưới sự chỉ đạo của quan niệm chỉnh thể, Đông y học cho rằng hoạt động chính thường của
sự sống cơ thể con người, một mặt cần phải dựa vào sự phát huy công năng của các tạng phủ,
mặt khác cần phải dựa vào tác dụng kết hợp tương bổ tương thành giữa các tạng phủ, mới có
thể duy trì được. Công năng hiệp điều của mỗi tạng phủ lại là một quá trình phân công hợp
tác dưới hoạt động của chỉnh thể, đấy là sự thống nhất của cục bộ với chỉnh thể. Tác dụng
chỉnh thể này cần phải dưới sự chỉ huy thống nhất của Tâm, mới có thể hoạt động không
ngừng, như thiên Linh Lan Bí Điển Luận sách Tố Vấn chép: “trên sáng suốt thì dưới mới
yên … trên không sáng suốt thì mười hai cơ quan đều nguy” (chủ minh tắc hạ an … chủ bất
minh tắc thập nhị quan nguy - 主明则下安…主不明则十二官危”), “phàm mười hai cơ quan
tạng phủ, không được mất đi công năng hiệp điều” (phàm thử thập nhị quan giả, bất đắc
tương thất dã - 凡此十二官者,不得相失也). Hệ thống kinh lạc tạo nên tác dụng quan hệ, nó
mang các ngũ tạng, lục phủ, chi thể, quan khiếu kết hợp thành một chỉnh thể hữu cơ. Học
thuyết Tinh Khí Thần phản ánh tính chỉnh thể của hình thể với cơ năng. Đông y học còn
thông qua lý luận “Âm bình Dương bí”(阴平阳秘 - âm thăng bằng, dương kín đáo), và
“kháng tắc hại, thừa nãi chế, chế tắc sinh hoá”(亢则害,承乃制,制则生化 - Kháng quá thì sẽ
gây hại, chỉ có cái mạnh hơn nó mới có thể chế được nó, chế được thì vạn vật sinh hoá) để
thuyết minh về động thái thăng bằng, bình hoành của quá trình duy trì tính tương đối âm
dương trong cơ thể con người. Ngũ tạng chế ước lẫn nhau là điều kiện cơ bản của hoạt động
sinh lý chính thường. Lý luận Ngũ hành sinh khắc chế hoá đã nói rõ mối quan hệ chỉnh thể
của quy luật tương phản tương thành, chế ước hỗ dụng giữa tạng phủ với nhau. Các quan
điểm về “động thái bình hoành quan”, “hằng động quan”, “chế ước quan” có rất nhiều điểm
tương thông với hệ thống lý luận hiện đại, đối với sự phát triển Sinh Lý Học có ý nghĩa quan
trọng.

b) Quan niệm chỉnh thể với bệnh lý:


Đông y học không chỉ từ chỉnh thể để nghiên cứu về quy luật của hoạt động sự sống, mà
trong lúc phân tích cơ chế bệnh lý tật bệnh, còn để ý đến chỉnh thể trước tiên, để ý đến phản
ánh bệnh lý của phát sinh bệnh biến cục bộ, mang sự biến hoá của bệnh biến cục bộ với phản
ánh bệnh biến của chỉnh thể thống nhất lại với nhau. Vừa coi trọng bệnh biến cục bộ và các
tạng phủ trực tiếp tương quan với nó, lại vừa nhấn mạnh giữa bệnh biến và các tạng phủ khác
có quan hệ với nhau, đồng thời căn cứ trên lý luận sinh khắc chế hoá để đưa ra quy luật
truyền biến bệnh tật giữa các tạng phủ. Dùng học thuyết âm dương để tổng hợp phân tích và
khái quát phản ứng bệnh lý của các biểu hiện xuất hiện khi cơ năng chỉnh thể thất điều.
Dương thắng thì âm bệnh, Âm thắng thì dương bệnh; Dương thắng thì nhiệt, Âm thắng thì
hàn; Dương hư thì hàn, âm hư thì nhiệt. Âm dương thất điều khái quát cao độ của bệnh lý học
trong đông y.

Trong Bệnh Nhân Học và Phát Bệnh Học, Đông y học đặc biệt nhấn mạnh chính khí của
chỉnh thể đối với sự phát sinh bệnh tật với tác dụng quyết định trên bệnh tật. Thiên Thích
Pháp Luận sách Tố Vấn chép: “bên trong có chính khí thì ngoại tà không xâm phạm được”
(chính khí tồn nội, tà bất khả can - 正气存内,邪不可干), thiên Bình Nhiệt Bệnh Luận sách
Tố Vấn chép: “tà khí tập trung lại thì chính khí sẽ bị hư”(tà chi sở tấu, kỳ khí tất hư - 邪之所
凑,其气必虚), thiên Bách Bệnh Thỉ Sinh sách Linh Khu chép: “hư và và chính khí hư, hai
cái hư này kết hợp với nhau thì sẽ khiến cho cho ngoại tà xâm tập mà trú ẩn trong thân
thể”(lưỡng hư tương đắc, nãi khách kỳ hình - 两虚相得,乃客其形). Quan niệm chỉnh thể
này của Bệnh Nhân Học, Phát Bệnh Học, đối với thực tiển điều trị có ý nghĩa rất quan trọng.

c) Quan niệm chỉnh thể với chẩn đoán:


Trong chẩn đoán học, Đông y học nhấn mạnh, chẩn đoán tật bệnh cần phải kết hợp các nhân
tố trong ngoài gây ra bệnh để khảo sát bệnh tật một cách toàn diện. Đối với các chứng trạng
sản sinh ra bởi tật bệnh, đều không thể cô lập để phân tích mà phải liên hệ đến khí hậu bốn
mùa, thuỷ thổ địa phương, tập quán sinh hoạt, tính tình lành dữ, bản chất, tuổi tác, giới tính,
nghề nghiệp v.v… vận dụng phương pháp tứ chẩn, nắm rõ tình hình bệnh một cách toàn diện
để thêm phần nghiên cứu phân tích, khái quát các tính chất , bệnh vị, bệnh nhân của tật bệnh
với nhân tố gây bệnh cùng các trạng thái phản ứng của tác dụng tương hỗ trong cơ thể, sau đó
mới có thể đưa ra một phương pháp chẩn đoán chính xác. Vậy nên thiên Sơ Ngũ Quá Luận
sách Tố Vấn chép: “phép trị bệnh của Thánh nhân là phải biết Thiên Địa Âm Dương, trật tự
bốn mùa, ngũ tạng lục phủ, nam nữ biểu lý, châm cứu biêm thạch, tác dụng của các loại
thuốc độc, hiểu rõ sự đời, thấu triệt phép trị bệnh, giàu nghèo sang hèn, mỗi hoàn cảnh đều có
sự khác biệt, phải hiểu rõ sự khác biệt về tâm lý, khoẻ yếu của từng tuổi tác, phải phân biệt rõ
ràng bộ vị tật bệnh để thẩm tra, nắm rõ nguyên nhân sinh bệnh, nắm rõ nhân tố khí hậu của 8
tiết khí quan trọng trong một năm để tham chiếu mạch tượng tam bộ cửu hậu trong cơ thể, có
như vậy thì việc chẩn đoán mới toàn diện” (Thánh nhân chi trị bệnh dã, tất tri Thiên Địa Âm
Dương, tứ thời kinh kỷ, ngũ tạng lục phủ, thư hùng biểu lý, thích cứu biêm thạch, độc dược
sở chủ, thung dung nhân sự, dĩ minh kinh đạo, quý tiện bần phú, các dị phẩm lý, vấn niên
thiếu trường, dũng khiếp chi lý, thẩm ư phân bộ, tri bệnh bản thỉ, bát chính cửu hậu, chẩn tất
phó hỷ -圣人之治病也,必知天地阴阳,四时经纪,五脏六腑,雌雄表里,刺灸砭石,毒药所主,
从容人事,以明经道,贵贱贫富,各异品理,问年少长,勇怯之理,审于分部,知病本始,八正九
候,诊必副矣). Cục bộ và chỉnh thể của con người là sự thống nhất của biện chứng, bất kỳ
một bộ phận tương đối độc lập nào của cơ thể, đều cất giữ thông tin sự sống của toàn bộ cơ
thể. Cho nên bất kỳ một sự biến hoá bệnh lý của một bộ cục bộ trong cơ thể con người,
thường thường chứa đựng một chỉnh thể thông tin của tạng phủ, khí huyết, âm dương, thịnh
suy toàn cơ thân. Ví dụ như lưỡi tương thông trực tiếp với điều hành của kinh lạc hoặc gián
tiếp tương thông với ngũ tạng. Vậy nên trong sách “Lâm Chứng Nghiệm Thiệt Pháp” có
chép: “muốn biết về tạng phủ tỳ, can phế, thận thì không thể không liên hệ đến tâm. Gộp các
kinh lạc lại, các kinh âm dương ở tay chân, không có mạch nào là không thông lên lưỡi. Như
vậy, để biết bệnh của kinh lạc tạng phủ, không phải chỉ có mỗi chứng thương hàn phát nhiệt
mới có rêu, mà phàm các chứng nội thương tạp chứng, không có chứng nào là không hiển thị,
đồng thời còn hiển thị cả sắc lên lưỡi - 查诸脏腑图,脾,肝,肺,肾无不系根于心.核诸经络,考
手足阴阳,无脉不通于舌,则知经络脏腑之病,不独伤寒发热有苔可验,即凡内伤杂证,也无
一不呈其形,著其色于其舌). Vì vậy “tứ chẩn hợp tham”, “thẩm sát nội ngoại” là thể hiện cụ
thể của chẩn đoán học trong chỉnh thể quan niệm.

d) Quan niệm chỉnh thể với phòng trị:


Môn Phòng Trị Học của Đông y nhấn mạnh sự thống nhất của con người với hoàn cảnh ngoại
giới, cùng với chỉnh thể tính của cơ thể con người. Dự phòng và trị liệu tật bệnh cần tuân thủ
quy luật khách quan của sự thống nhất lẫn nhau giữa cơ thể con người với hoàn cảnh ngoại
giới. Cơ thể con người cần phải thích ứng với sự biến hoá của khí hậu mùa màng, thích ứng
với biến hoá âm dương của ngày đêm, “mùa xuân hạ dưỡng dương, mùa thu đông dưỡng âm”
(xuân hạ dưỡng dương, thu đông dưỡng âm - 春夏养阳,秋冬养阴) mới có thể bảo vệ được
sức khoẻ, dự phòng được bệnh tật. Thiên Sơ Ngũ Quá Luận sách Tố Vấn chép: “cần phải biết
Thiên Địa âm dương, quy luật bốn mùa” (tất tri Thiên Địa âm dương, tứ thời kinh kỷ - 必知
天地阴阳,四时经纪), thiên Ngũ Thường Chính Đại Luận sách Tố Vấn chép: “khi trị bệnh thì
thuận theo thời khí mà cho dùng thuốc, mùa nóng thì nên dùng thuốc hàn lương, mùa lạnh thì
cho dùng thuốc ôn nhiệt, không nên ngược lại mà phá đi sự hài hoà giữa Thiên Nhân” (tất
tiên tuế khí, vật phạt Thiên hoà - 必先岁气,勿伐天和), thiên Âm Dương Ứng Tượng Đại
Luận sách Tố Vấn chép: “trị bệnh không theo quy luật của Thiên, không dùng lý của Địa, thì
tai hại sẽ đến” (trị bất pháp Thiên chi kỷ, bất dụng Địa chi lý, tắc tai hại chí hỷ - 治不法天之
纪,不用地之理,则灾害至矣). Vậy nên sách Y Môn Pháp Luật chép: “phàm, thầy thuốc trị
bệnh mà không nắm rõ được sự thịnh suy của thời khí trong năm, hư thực của chính khí con
người mà giải phóng cho tà khí, phá hoại chính khí, mập mập mờ mờ là cái tội của thầy
thuốc; phàm trị bệnh mà ngược với tứ thời, ngược với khí của sinh, trưởng, hoá, thâu, tàng là
không am hiểu luật trời, đó là tội của thầy thuốc” (phàm trị bệnh bất minh tuế khí thịnh suy,
nhân khí hư thực, nhi thích tà công chính, thực thực hư hư, Y chi tội dã; phàm trị bệnh nhi
nghịch tứ thời, sinh trưởng hoá thâu tàng chi khí, sở vị vi Thiên giả bất tường, y chi tội dã -
凡治病不明岁气盛衰,人气虚实,而释邪攻正,实实虚虚,医之罪也;凡治病而逆四时,生长化
收藏之气,所谓违天者不祥,医之罪也). Cho nên, trong trị liệu bệnh tật, cần phải lấy quan
niệm Thiên Nhân nhất thể để chỉ đạo tư tưởng, chọn lựa một phương pháp điều trị thích hợp,
mới có thể nhận được hiệu quả tốt đẹp.

Cơ thể con người là một chỉnh thể hữu cơ, giữa cục bộ và chỉnh thể duy trì một mối quan hệ
chế ước lẫn nhau, hiệp điều lẫn nhau. Vì vậy, trị liệu tật bệnh cần phải có một cái nhìn toàn
cục, chú ý điều tiết đối với chỉnh thể, tránh “đau đầu chữa đầu, đau chân chữa chân”. Như
thiên Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận sách Tố Vấn chép: “từ âm dẫn dương, tùng dương
dẫn âm” (tùng âm dẫn dương, tùng dương dẫn âm - 从阴引阳,从阳引阴), hay “lấy trái trị
phải, lấy phải trị trái” (dĩ tả trị hữu, dĩ hữu trị tả - 以左治右,以右治左); thiên Chung Thỉ sách
Linh Khu chép: “bệnh bên trên thì trị bên dưới, bệnh bên dưới thì trị bên trên” (bệnh tại
thượng giả hạ thủ chi, bệnh tại hạ giả thượng thủ chi - 病在上者下取之,病在下者上取之)
v.v… đều là nguyên tắc trị liệu được xác định dưới sự chỉ đạo của quan niệm chỉnh thể.

Nói tóm lại, Trị Liệu Học Đông y nhấn mạnh, trị bệnh cần phải dựa vào Thời, dựa vào Địa,
dựa vào Nhân mà kết hợp cho hợp lý, phải xuất phát từ chỉnh thể, hiểu biết và phân tích bệnh
tình một cách toàn diện, không những phải chú trọng đến tình hình cục diện của bệnh biến,
biến hoá bệnh lý của tạng phủ có bệnh biến, mà còn càng cần phải chú trọng đến bệnh biến
tạng phủ cùng mối quan hệ với các tạng phủ khác, nắm chắc tình hình của sự rối loạn khí
huyết âm dương chỉnh thể, đồng thời từ ảnh hưởng của sự hiệp điều âm dương, khí huyết,
xuất phát quan hệ bình hoành tạng phủ, phù chính khu tà, tiêu trừ bệnh tật đối với toàn thân,
cắt đứt sự liên kết phản ứng bệnh lý do bệnh tà tạo thành giữa cơ thể với tạng phủ, thông qua
tác dụng của chỉnh thể đối với cục bộ, từ đó mới đạt được mục đích tiêu trừ được bệnh tà, trị
khỏi bệnh tật. Biện chứng luận trị, trên thực tế là thể hiện của quan niệm chỉnh thể trị liệu.

Con người vừa có thuộc tính tự nhiên, vừa có thuộc tính Xã hội. Thiên Địa Nhân là tam tài
nhất thể. Cuộc sống con người là giữa khoảng Thiên Địa, trong khoảng thời gian, không gian,
hoạt động sự sống con người tất nhiên là đón nhận ảnh hưởng của hoàn cảnh tự nhiên và
hoàn cảnh xã hội. Vì vậy, đặt con người vào vị trí tự nhiên, sự biến hoá của hoàn cảnh xã hội
để phân tích trạng thái cơ năng của nó, kết hợp với các nhân tố biến hoá của hoàn cảnh, tiến
hành chẩn đoán, điều trị, dự phòng, khang phục cùng các hệ thống hoạt động thực tiển y học
là nguyên tắc cơ bản của Đông y học. Cho nên, các Thầy thuốc cần phải đạt yêu cầu: trên
thông Thiên văn, dưới thông Địa lý, giữa hiểu chuyện người.

Đông y học dựa trên quan niệm chỉnh thể của “Nhân dữ Thiên Địa tương tham” (con người
và Thiên Địa hoà hợp với nhau), “Thiên Nhân hợp nhất” của triết học Đông phương cổ đại,
có một ý nghĩa hiện thực quan trọng.

Đầu tiên, quan niệm chỉnh thể của Đông y học nhấn mạnh, con người thống nhất hài hoà với
tự nhiên. Đối với sự thay đổi quan điểm sai lầm con người đối lập với tự nhiên, phiến diện
nhấn mạnh con người là chủ tự nhiên, mù quáng “chinh phục tự nhiên”, khai thác tự nhiên,
phá hoại sự thăng bằng sinh thái có một ý nghĩa giáo dục rất lớn, đồng thời, đối với công việc
xây dựng một hoàn cảnh khoa học hiện đại có một tác dụng mở đầu.

Thứ đến, quan niệm chỉnh thể Đông y học nhấn mạnh Thiên Địa Nhân tam tài nhất thể, lấy
nhận thức thế giới và nhận thức con người của tự thân thống nhất lại, đối với nhận thức thô
sơ về biện chứng quan hệ thống nhất giữa chủ thể với khách thể, đối với sự xây dựng, phát
triển mô thức y học hiện đại có ý nghĩa rất quan trọng.

Tiếp đến, quan niểm chỉnh thể Đông y học vừa đồng thời nhấn mạnh Thiên Địa Nhân tam tài
nhất thể, lại đặc biệt chú trọng đến “trời che đất chở, vạn vật đều đầy đủ, không gì quý bằng
con người” (Thiên phú Địa tải, vạn vật tất bị, mạc quý hồ Nhân - 天覆地载,万物悉备,莫贵
乎人 ), mang con người làm trung tâm của việc lý giải mối quan hệ tam tài, lấy việc nâng cao
tinh thần của con người để giữ gìn sự mạnh khoẻ của thân tâm làm nhiệm vụ quan trọng, đối
với nhân thức và giải quyết phát triển quá độ của lý tính khoa học kỹ thuật, coi trọng văn
minh vật chất mà không coi trọng bệnh xã hội về văn minh tinh thần, cũng có một sự giúp ích
lớn.

B) Quan niệm Hằng Động:


a) Khái niệm cơ bản về quan niệm hằng động:
Hoạt động là hình thức tồn tại và là thuộc tính có sẵn của vật chất. Các hiện tượng trên thế
giới đều là hình thức biểu hiện hoạt động của vật chất. Hoạt động mang tính tuyệt đối; tĩnh tại
mang tính tương đối, tạm thời và cục bộ. Tĩnh tại là hình thức đặc thù của hoạt động vật chất.
Đông y học cho rằng: Khí bao gồm có thuộc tính vận động, khí không phải là loại vật chất
chết và bất động, mà là loại vật chất tràn trề sức sống, vì thế, toàn bộ thế giới tự nhiên được
hình thành bời khí thường luôn không ngừng vận động và biến hóa. Các biến hóa của sự vật
trong tự nhiên giới, đều có căn nguyên bởi tác dụng thăng giáng của khí Thiên Địa, khí là vật
chất cơ bản nhất duy trì hoạt động sự sống và cấu thành của con người. Cho nên, cơ thể con
người cũng là một cơ thể có cả tác dụng năng động, như mục “Cách Chí Dư Luận” sách
“Tướng Hỏa Luận” chép: Thiên chủ sinh vật, nên thường hay động, người được sinh từ đó
nên cũng thường động” (Thiên chủ sinh vật, cố hằng ư động, nhân hữu thử sinh, diệc hằng ư
động - 天主生物,故恒于动,人有此生,亦恒于动). Sự sống con người luôn có đặc tính hằng
động. Hằng động luôn luôn vận động thay đổi, phát triển và biến hóa. Quan điểm của Đông y
học là luôn vận động, biến hóa, phát triển, mà không phải là ngưng nghỉ, bất biến (không
thay đổi, biến hóa), thoái hóa, để phân tích, nghiên cứu các vấn đề y học về sự sống, sức
khỏe, bệnh tật. Các quan điểm này được gọi là quan niệm hặng động.

b) Nội dung của quan niệm hằng động:


Thế giới là một tập hợp của vận động, tất cả vật chất, bao gồm toàn bộ tự nhiên giới, đều nằm
trong sự vận động mãi mãi không ngưng nghỉ. Động mà không nghỉ là quy luật căn bản của
tự nhiên giới. Thiên Lục Vi Chỉ Đại Luận sách Tố Vấn chép: “Trên cao dưới thấp kết hợp với
nhau, thăng giáng tạo động lực cho nhau” (cao hạ tương triệu, thăng giáng tương nhân - 高下
相召,升降相因), giữa trời đất, trên dưới luôn có sự kết thăng giáng, hỗ trợ, tạo thành tác
dụng tương hỗ và thăng giáng của khí, từ đó khiến cho vạn vật có được sự biến hóa đa dạng.
Bất luận sự sinh sôi nảy nở của động thực vật, hay sự tụ tan sinh hóa của các vật thể vô tri vô
giác, sự sinh thành, phát triển, biến hóa, cho đến sự diệt vong của thế giới vạn vật, không có
gì là không có căn nguyên từ sự vận động của khí. Tác dụng thắng phục của khí, tức là tác
dụng tương hỗ của khí âm dương, là cha mẹ của sự biến hóa, là gốc rễ của sự sinh sát. Đó là
ý nói đến tác dụng tương hỗ của khí là nguyên nhân cội nguồn của sự vận động biến hóa,
thúc đẩy mọi sự vật. Thế giới chính là thế giới của vật chất khí, vật chất khí không ngưng
nghỉ sự tiến hành vận động thăng giáng xuất nhập. Thế giới vật chất, nhờ vận động mà tồn
tại. Đông y học dùng quan điểm vận động của khí và chuyển hóa của khí để nói rõ các vấn đề
về sự sống, sức khỏe và bệnh tật, như thiên Bảo Mệnh Toàn Hình Luận sách Tố Vấn chép:
“con người lấy khí của Thiên Địa mà sinh ( sống ), lấy phép tắc bốn mùa để thành” ( Nhân dĩ
Thiên Địa chi khí sinh, tứ thời chi pháp thành - 人以天地之气生,四时之法成 ). Sự sống là
vật chất, con người và vạn vật cũng giống nhau, đều là sản vật bởi quy luật kết hợp tự nhiên
của Thiên Địa. Cơ thể con người là một cơ thể không ngừng phát sinh tác dụng khí hóa nhờ
sự thăng giáng xuất nhập.

Động và tĩnh là hai loại hình thức biểu hiện sự vận động của vật chất. Khí có Âm Dương,
cảm ứng lẫn nhau mà có động tĩnh. Sách Thái Cực Biện có chép: “Động tĩnh vốn là cảm của
khí; Âm Dương là tên của khí”. Động cũng gồm tĩnh, tĩnh cũng bao hàm động. Dương chủ
động, Âm chủ tĩnh; trong động của Dương vốn đã có cái lý của tĩnh, trong tĩnh của âm vốn đã
có cái gốc động của dương. Mục “Y Dịch Nghĩa” sách “Loại Kinh Phụ Dức” có chép: “thái
cực động mà sinh Dương, tĩnh mà sinh Âm” (太极动而生阳,静而生阴), “Dương là nơi gặp
gỡ của Âm, Âm là nền móng của Dương” (阳为阴之偶,阴为阳之基), “một động một tĩnh, là
gốc rễ của nhau” (一动一静,互为其根). Động tĩnh lẫn tương hỗ chính là dụng, súc tiến sự
phát triển phát sinh, vận động biến hóa của thể sự sống. Sự khởi đầu và kết thúc của vận động
sự sống cơ thể con người, giữ gìn được trạng thái động tĩnh hài hòa, duy trì được tính chỉnh
thể trong quy luật đối lập, thống nhất của động tĩnh, từ đó mà bảo đảm được hoạt động sự
sống chính thường của cơ thể con người.

c) Ý nghĩa của quan niệm hằng động:


Sự sống là vận động. Sự biến hóa, phát triển và khởi đầu, kết thúc của thể sự sống (thể sinh
mệnh) là nhờ ở trạng thái luôn tự làm mới bởi quy luật đối lập, bình hoành của động tĩnh. Ở
mục “Tăng Diễn Dịch Cân Tẩy Tủy” sách “Nội Công Đồ Thuyết” có chép: “cơ thể con
người, ấy là Âm Dương; Âm Dương, ấy là động tĩnh. Động tĩnh hợp nhất, khí huyết hòa
sướng, trăm bệnh không sinh. Nhờ vậy mà sống trọn tuổi trời cho”. Vì vậy, quan điểm đối
lập, thống nhất của động tĩnh xuyên suốt trong các lĩnh vực Đông Y học, chỉ đạo chính xác
cho nhận thức của con người về sự sống và sức khỏe, chẩn đoán bệnh tật và trị liệu, cùng với
công tác phục hồi và dự phòng.

Từ sức khỏe và bệnh tật mà nói, thiên Điều Kinh Luận sách Tố Vấn có chép: “Âm Dương
thăng bằng, sẽ khiến cho hình thể được sung mãn, cửu hậu được thống nhất” (Âm Dương
quân bình, dĩ sung kỳ hình, cửu hậu nhược nhất - 阴阳匀平,以充其形,九候若). Thiên Chung
Thỉ sach Linh Khu chép: “hình thể, cơ nhục, khí huyết cùng tương xứng, thì đó là người
mạnh khỏe” ( hình nhục khí huyết tất tương xứng dã, thị vị bình nhân - 形肉血气必相称也,
是谓平人 ). “Bình nhân” tức là người mạnh khỏe, khí huyết vận hành có trật tự, hài hòa,
công năng tạng phủ kinh lạc chính thường, hình thể, cơ nhục, khí huyết điều hòa hiệp trợ. Âm
Dương của nội bộ cơ thể thăng bằng, cùng với âm dương của ngoại giới thăng bằng thì đó là
mạnh khỏe.

Mạnh khỏe là khái niệm của một động thái, chỉ một khi sự biến hóa của cơ thể nằm trong
động thái của Âm Dương mới có thể giữ gìn và súc tiến sức khỏe. Quan hệ tiêu trưởng giữa
sức khỏe và bệnh tật trong cùng một cơ thể là đặc điểm chủ yếu của tính cộng tồn. Sự mất
thăng bằng của động thái Âm Dương có nghĩa là bệnh tật. Thiên “Sinh Khí Thông Thiên
Luận” sách “Tố Vấn” chép: “âm thăng bằng, dương kín đáo thì tinh và thần mới mạnh mẽ”
( Âm bình Dương bế, tinh thần nãi trị - 阴平阳秘,精神乃治 ), “trong ngoài điều hòa, thì tà
không thể tổn hại được” ( Nội ngoại điều hòa, tà bất năng hại - 内外调和,邪不能害 ). Âm
dương tổn hại lẫn nhau thì bệnh tật sẽ phát sinh.

Về phương diện công năng sinh lý mà nói, sự hấp thụ tiêu hóa đồ ăn thức uống, sự trao đổi
tuần hoàn của tân dịch, sự vận hành và tưới tắm của huyết dịch, cùng vật chất với sự chuyển
hóa lẫn nhau của công năng v.v… không gì là không được thực hiện bởi sự vận động của Âm
Dương bên trong và bên ngoài cơ thể.

Về phương diện bệnh lý mà nói, bất luận là tổn thương do lục dâm, hay là do thất tình, đều sẽ
khiến cho vận động khí hóa trong công năng thăng giáng xuất nhập của con người phát sinh
chướng ngại, động thái thăng bằng của Âm Dương thất điều mà dẫn đến bệnh tật. Nói cách
khác, các biến hóa bệnh lý xuất hiện sau khi phát bệnh, như hí huyết ứ trệ, đàm ẩm đình trệ,
chất cặn bả, đều là kết quả của sự vận động khí hóa tạng phủ trong cơ thể con người bị thất
thường. Nói tóm lại, sự vận động khí hóa trong cơ thể con người, bất luận là chỉnh thể hay
cục bộ, chỉ cần công năng vận động xuất nhập thăng giáng thất thường, thì có thể ảnh hưởng
đến sự kết hiệp thăng bằng của tạng phủ, kinh lạc, khí huyết âm dương, dẫn đến các loại biến
hóa bệnh tật của tứ chi cửu khiếu, biểu lý nội ngoại, ngũ tạng lục phủ.

Về phương diện phòng trị bệnh tật mà nói thì quá trình bệnh tật là một quá trình không ngừng
vận động biến hóa, các biến hóa bệnh lý đều là sự mất đi tính thăng bằng, hiệp điều trong quy
luật vận động mâu thuẫn của âm dương, xuất hiện kết quả thiên thắng, thiên suy của âm
dương. Mục đích căn bản trong quy tắc trị bệnh phải tìm đến gốc là ở phù chính khu tà, điều
chỉnh động thái thăng bằng âm dương, thể hiện đặc điểm của Đông Y học trong quan điểm
vận dụng quy luật vận động của tính đối lập, thống nhất để chỉ đạo công tác trị liệu lâm sàng.
Đông y học chủ trương: khi chưa phát bệnh, thì nên lo phong bệnh; khi đã phát bệnh, thì cần
phải đề phòng sự truyền biến. Tư tưởng phòng bệnh khi chưa phát, phòng biến khi đã phát,
chính là dùng quan điểm vận dụng để xử lý tính mâu thuẫn của bệnh tật và khỏe mạnh, ý nói
đến sự điều tiết cái thái quá thiên lệch của Âm Dương, khiến cho động thái hoạt động sinh lý
của nó được thăng bằng. Nguyên tắc cơ bản của dưỡng sinh phòng trị bệnh trong Đông Y
học, thể hiện tư tưởng biện chứng động tĩnh hàm chứa lẫn nhau.

C) Quan niệm biện chứng:


a) Hàm nghĩa của quan niệm biện chứng:
Đông Y học không chỉ cho rằng tất cả các sự vật đều có căn nguyên vật chất cộng đồng, mà
còn cho rằng tất cả các sự vật đều không có tính cố định và bất biến, các sự vật không cô lập,
giữa chúng có một mối tương hỗ quan hệ, tương hỗ chế ước, xem sức khỏe và bệnh tật của sự
sống là một biến hóa vận động thường hằng và là mối liên hệ phổ biến. Sự biến hóa về mặt
sức khỏe và bệnh tật; sinh, trưởng, tráng, lão, dĩ (sinh ra, lớn lên, trưởng thành, già nua và lụi
tàn) của sự sống là kết quả biến hóa của mâu thuẫn, phát triển âm dương vốn có từ tự thân cơ
thể. Đông Y học dùng quan điểm mâu thuẫn, chỉnh thể và vận động để tạo thành tư tưởng
nghiên cứu về sự biến hóa, phát sinh, phát triển của sự sống, sức khỏe và bệnh tật, đó gọi là
quan điểm biện chứng Đông Y học.

b) Nội dung quan niệm biện chứng:


Âm Dương là quy luật căn bản của sự phát triển vận động trong tự nhiên giới. Sự sống là
trạng thái phát triển cao độ của vận động vật chất trong tự nhiên giới, là kết quả bởi tác dụng
hỗ tương của Âm Dương. Bản chất sự sống là Âm Dương mâu thuẫn của nội bộ cơ thể, là sự
đối lập thống nhất giữa “Dương hóa khí” với “Âm thành hình”, cùng với sự thống nhất, mâu
thuẫn của hoàn cảnh bên ngoài cơ thể. Quá trình sự sống của con người được hình thành bởi
sự đối lập của Âm Dương.

“Phép biện chứng có liên quan đến tính rộng khắp của khoa học” ( “Phép Biện Chứng Tự
Nhiên”). Đông Y học cho rằng, con người với thể giới tự nhiên, xã hội, cùng ở trong một thể
thống nhất. Sinh lý, bệnh lý cùng xã hội, tự nhiên của con người có một liên hệ mật thiết với
nhau. Cơ năng, kết cấu của cơ thể con người, cũng là một chỉnh thể hợp nhất hữu cơ giữa
hình với thần. Trong sinh lý và bệnh lý cũng có sự liên hệ và ảnh hưởng lẫn nhau. Đông y
học đặc nặng quan điểm liên hệ để nhận thức rõ về liên hệ giữa con người với tự nhiên, xã
hội, từ đó xử lý mối liên hệ giữa sức khỏe và tật bệnh.

Vận động là thuộc tính của vật chất. Đông y học cho rằng: tất cả mọi vật chất, bao gồm tất cả
tự nhiên giới, tất cả loài người, đều là sự vận động bất tận không ngừng, mà hình thức vận
động của chúng là thăng, giáng, xuất, nhập. Quá trình sự sống con người, là một quá trình của
động thái thăng bằng. Trong sự thăng bằng tương đối của một động thái, biểu hiện các giai
đoạn sinh, trưởng, tráng, lão, dĩ một quá trình sự sống.
Ba quan điểm chủ yếu của tư tưởng phép biện chứng của Đông y học kể trên, xuyên suốt
trong các phương diện trị liệu, chẩn đoán, bệnh lý và sinh lý của Đông y học.

b1) Tư tưởng phép biện chứng sinh lý học:


Đặc điểm chủ yếu của tư tưởng này là quan điểm chỉnh thể học thuyết tạng tượng lấy ngũ
tạng trong cơ thể con người làm trung tâm, hoàn cảnh ngoại giới với nội bộ cơ thể có sự
thống nhất với nhau; quan niệm đối lập và thống nhất của sự hỗ căn lẫn nhau, chế ước lẫn
nhau giữa các tạng phủ; quan niệm biện chứng thống nhất giữa khí huyết tân dịch cùng các
hoạt động sinh lý với hoạt động tinh thần, công năng sinh lý tạng phủ với vật chất cần thiết
của hoạt động sự sống.

b2) Tư tưởng phép biện chứng bệnh lý học:


Tư tưởng này là quan điểm bệnh nhân học, cho rằng tà khí tổn thương con người thường hay
có sự biến hóa nhanh. Vừa chú ý đến nguyên nhân bên trong (nội nhân) lại không loại trừ
nguyên nhân bên ngoài (ngoại nhân); quan điểm phát bệnh học cho rằng chính khí có bên
trong thì tà khí không xâm phạm được, đồng thời nhấn mạnh đến nguyên nhân bên trong;
quan điểm bệnh lý học cho rằng ngũ tạng tương thông, bệnh tật truyền biến lẫn nhau, sự
truyền biến có thứ tự, chú trọng đến quan điểm liên hệ chỉnh thể.

You might also like