Professional Documents
Culture Documents
1 – Cơ sở triết học:
Triết học là một môn khoa học quan trọng của quy luật vận động trong Xã hội. Sự phát triển
và hình thành của bất cứ một môn khoa học nào cũng đều không rời khỏi triết học. Trong
triết học với khoa học tự nhiên thời cổ đại còn chưa có một khái niệm triệt để như vậy. Đông
y học hấp thu các thành quả triết học của đời nhà Hán, trực tiếp dùng các học thuyết và khái
niệm triết học quan trọng như Khí, Âm Dương, Ngũ Hành, Hình Thần, quan hệ Thiên Nhân
để dẫn dụng nhằm làm rõ các vấn đề trong Y học, khiến cho nó trở thành lý luận và khái
niệm quan trọng của Đông y học, mang lý luận triết học dùng lý luận Đông y học đúc kết
thành một chỉnh thể hữu cơ không thể chia cắt, thể hiện một phương thức tư duy đặc thù của
Đông phương. Triết học cổ đại Trung Hoa đã hình thành và đặt định cho lý luận triết học
Đông y học một thế giới quan và cơ sở phương pháp luận, mà sự hình thành và phát triển của
Đông y học lại làm phong phú và phát triển cho triết học cổ đại Trung hoa. Triết học cổ đại
Trung hoa với Đông y học tương bổ tương thành, tương đắc mà thêm sáng tỏ.
Học thuyết tạng tượng; học thuyết Khí, Huyết, Tân dịch; học thuyết thể chất và kinh lạc thẩm
thấu và dung hoà với nhau, bổ sung cho nhau mà hình thành một nhận thức sâu xa, độc đáo
của y học đối với quy luật sự sống.
Vọng chẩn là tiến hành quan sát có mục đích về thần sắc, hình thái, ngũ quan, hình tượng
lưỡi cùng với các vật bài tiết, để hiểu rõ bệnh tình, đo lường bệnh biến tạng phủ.
Văn chẩn là từ ngôn ngữ, hô hấp cùng âm thanh của người bệnh cùng với các khí vị bài xuất
từ trong cơ thể người bệnh để biện biệt bệnh tình bên trong.
Vấn chẩn là thông qua quá trình hỏi han tình hình bệnh tật, để hiểu rõ trạng thái sức khoẻ
thường ngày của người bệnh và nguyên nhân phát bệnh. Thiết chẩn là kiểm tra mạch tượng
và các bộ vị khác nhau trên thân thể người bệnh, để đo lường tình hình biến hoá trong cơ thể
con người. Trong tứ chẩn, lấy vọng thần, vọng sắc, thiệt chẩn, vấn chẩn, mạch chẩn làm chủ
yếu. Trong tứ chẩn, mỗi phần đều có đặc điểm nội dung khác nhau, không thể thay thế cho
nhau, cần phải kết hợp tứ chẩn mới có thể thành hệ thống toàn diện, từ đó mới có được tư liệu
lâm sàng đầy đủ để đưa ra các cơ sở biện chứng vững chắc.
Biện chứng tức là phân tích, biện rõ triệu chứng của bệnh tật, tức là lấy lý luận cơ sở tạng
phủ, kinh lạc, bệnh nhân, bệnh cơ làm căn cứ. Đỗi với triệu chứng toàn thân, chứng trạng
được thu thập trong tứ chẩn, cùng với các tư liệu lâm sàng khác, tiến hành phân tích, tổng
hợp, biện rõ nguyên nhân, tính chật, bộ vị, cùng với mối quan hệ giữa tà chính của bệnh tật,
từ đó khái quát, phán đoán đó là triệu chứng gì để đưa ra một cơ sở luận trị chính xác.
Dự phòng:
Dự phòng là chọn lựa một phương pháp nhất định, đề phòng sự phát sinh và phát triển của
bệnh tật. Chọn lựa dự phòng tích cực hoặc các bước trị liệu, phòng chống sự phát sinh và
phát triển của bệnh tật tức là “trị vị bệnh” (trị bệnh khi chưa phát bệnh), là một nguyên tắc cơ
bản của trị liệu Đông y học. Trị vị bệnh bao gồm hai phương diện phòng trước khi bệnh chưa
phát và phòng bệnh biến của bệnh.
Phòng bệnh lúc chưa phát bệnh tức là làm tốt các loại công tác dự phòng trước khi phát sinh
bệnh để phòng ngừa sự phát sinh của bệnh tật. Muốn phòng bệnh thì trước tiên là phải cường
thân. Muốn cường thân thì cần phải xem trọng việc giữ gìn sức khoẻ, việc giữ gìn sức khoẻ
còn gọi là “Dưỡng sinh”, được căn cứ trên quy luật phát triển sự sống, chọn lựa các biện pháp
có thể bảo vệ thân thể, giảm thiểu tật bệnh, tăng tiến sức khoẻ, diên niên ích thọ. Lấy tinh,
khí, thần để làm tam bảo của thân thể, con người được xem là điểm chính của dưỡng sinh;
nhấn mạnh đạo dưỡng sinh của con người là nương theo âm dương, sống hài hoà tiết độ, hình
và thần đều phải nuôi dưỡng, âm dương hài hoà, ăn ở tiết chế, cân bằng tạng phủ, động tĩnh
thích hợp, dưỡng khí bảo tồn tinh. Dưỡng sinh là một phương pháp dự phòng tích cực nhất,
đối với sự tăng cường sức khoẻ, diên niên ích thọ, có tác dụng nâng cao chất lượng, có một ý
nghĩa rất lớn. Ngoài phương pháp nhiếp sinh phòng bệnh ra, còn cần phải đề phòng sự xâm
hại của bệnh tật ngoại tà.
Đã bệnh thì phòng bệnh biến (ký bệnh phòng biến - 既病防变) là ý nói lúc bệnh đã phát thì
nên chú trọng đề phòng, không để bệnh diễn biến ra các chứng khác. Một khi phát bệnh, nên
chú ý chẩn đoán sớm và điều trị sớm. Chẩn đoán sớm giúp đề phòng bệnh tật từ chỗ nhẹ
chuyển sang chỗ nặng, có câu nói: “kiến vi tri trứ, di hoạn ư mạt manh, thị vi thượng công (Y
Học Tâm Ngộ) (见微知著,弥患于末萌,是为上工), nghĩa là nhìn cái vi tế mà suy cái
chưa xảy ra, dập tắt bệnh tật lúc còn manh nha, đấy mới là thầy thuốc giỏi. Trị liệu trong giai
đoạn sớm thì có thể cắt đứt được con đường truyền biến của bệnh tà, trước là yên vùng đất
chư có tà để phòng sự truyền biến của bệnh tật. Chẩn đoán sớm, trị liệu sớm là mấu chốt của
công tác đề phòng bệnh biến khi đã có bệnh, một mặt có thể khống chế sự mạn tính của bệnh
tật, mặt khác lại có thể tránh được sự hao tổn chính khi quá độ, dễ dàng điều trị và khôi phục
sức khoẻ.
Trị Tắc:
Trị tắc tức là phép tắc, hoặc nguyên tắc trong phương phép điều trị bệnh tật, là quan niệm và
nguyên tắc xác định phép trị trong việc điều trị bệnh tật, đối với lập pháp lâm sàng, xử
phương đều có ý nghĩa chỉ đạo rộng.
Trị bệnh tìm gốc, nhìn cái bình thường mà thấy sự biến động, thừa thế thuận lợi mà đánh
mạnh và lấy quân bình làm đầu (trị bệnh cầu bản, tri thường đạt biến, nhân thế lợi đạo hoà dĩ
bình vi kỳ - 治病求本、知常达变、因势利导和以平为期) là quan niệm cơ bản trong lĩnh
vực điều trị của Đông y. Chính trị phản trị (正治反治), trị tiêu trị bản (治标治本 - trị ngọn trị
gốc), tiếp lý âm dương (燮理阴阳–thăng bằng âm dương), điều hoà khí huyết (调和气血),
điều lý tạng phủ (调理脏腑), hình thần kiêm cố (形神兼顾–kiêm trị cả hình và thần), bệnh
chứng tương tham (病证相参–tìm hiểu cả bệnh và chứng), nhân dị chế nghi (因异制宜 –
pháp trị phải thích hợp với từng nguyên nhân) v.v… là nguyên tắc cơ bản điều trị bệnh tật
của Đông y. Trị phá là phương pháp điều trị cụ thể được xác định dưới sự chỉ đạo của trị tắc.
Trị tắc chỉ đạo trị pháp và trị pháp thể hiện trị tắc.
Lý, Pháp, Phương, Dược là bốn yếu tố lớn có liên quan đến quy phạm thao tác trị liệu cùng
chẩn đoán của Đông y học. Biện chứng luận trị là quá trình vận dụng lâm sàng của Lý, Pháp,
Phương, Dược, là đặc sắc cơ bản của học thuật Đông y. “Lý” nghĩa là phương pháp giải thích
chuẩn xác của lý luận Đông y học, được căn cứ trên nguyên tắc bệnh biến; “Pháp” nghĩa là
các trị pháp, trị tắc tương ứng với sự xác định dựa trên nguyên lý của bệnh biến; “Phương”,
là một phương pháp trị liệu hoặc một phương tễ tiêu biểu đã được chọn lựa một cách hợp lý
nhất căn cứ trên trị pháp, trị tắc. Dược, là phương pháp chọn lựa tốt nhất về phối ngũ, liều
lượng theo quân, thần, tá, sứ trong một phương thang. Biện chứng chính là tiền đề của luận
trị, luận trị là trên cơ sở biện chứng phác thảo ra biện pháp trị liệu. Biện chứng cùng luận trị
trong quá trình chẩn trị có quan hệ tương hỗ, gắn chặt không thể chia lìa, là sự ứng dụng cụ
thể lý, pháp, phương, dược trên lâm sàng.
Quan điểm cơ bản của Đông y học về sự khang phục chính là sự khang phục chỉnh thể, biện
chứng về khang phục và khang phục công năng. Căn cứ vào quan điểm Thiên Nhân tương
ứng; người với tự nhiên, Xã hội thống nhất với nhau; thông qua tư tưởng thuận ứng tự nhiên,
xã hội công bằng, điều trị chỉnh thể mà đạt đến sự thống nhất hình và thần trong con người.
Tư tưởng khang phục chỉnh thể còn được gọi là “chỉnh thể khang phục quan”.
Biện chứng Khang phục là biện chứng luận trị trong sự thể hiện cụ thể của khang phục. Căn
cứ vào kết quả biện chứng, xác định nguyên tắc khang phục tương ứng, đồng thời chọn dùng
phương pháp khang phục thích hợp. Thúc đẩy tư tưởng khang phục của bệnh nhân được gọi
là “biện chứng khang phục quan”. Căn cứ vào “hằng động quan” (quan điểm về vạn vật vận
động không ngừng) của Đông y học, chú trọng vào huấn luyện công năng, vận động hình thể,
thúc đẩy sự lưu thông của khí huyết để khôi phục công năng sinh lý tạng phủ, sinh hoạt
thường nhật và năng lực công tác của người bệnh được gọi là “công năng khang phục quan”.
Dự phòng, trị liệu và khang phục là ba phương cách khác nhau của Đông y học dùng để đấu
tranh với bệnh tật, nhưng lý luận và phương pháp của ba phương cách này lại kết hợp mật
thiết với nhau không thể tách rời, đối với thực tiễn điều trị lâm sàng, nó có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc bảo vệ và giúp đỡ con người khoẻ mạnh sống lâu.
1) Y học cơ sở:
Lý luận cơ sở Đông y: Lý luận cơ sở Đông y là cơ sở của toàn bộ các môn học Đông y hiện
đại. Nội dùng chủ yếu là là các học thuyết về cơ sở triết học; tạng tượng; kinh lạc; khí, huyết,
tinh, tân dịch; bệnh nhân bệnh cơ; cùng với dự phòng, trị tắc, khang phục.
Chẩn đoán học Đông y: Chẩn đoán học Đông y là một môn học được căn cứ trên lý luận cơ
sở Đông y, nghiên cứu lý luận, tri thức và phương pháp của chẩn pháp và biện chứng, là trụ
cột của việc liên kết giữa lý luận với lâm sàng.
Đông dược học: Việc dùng các vật chất dược loại của truyền thống Đông y để dự phòng và
chẩn trị tật bệnh gọi là Đông dược, còn gọi là Bản thảo, Thảo dược, Đông dược… hiện tại
được thống nhất gọi là Đông dược (Trung dược – vì Việt nam ta có dùng cả thuốc nam và
thuốc bắc để thay thế và phát huy tác dụng lẫn nhau nên trong tài liệu này Trung dược được
gọi là Đông dược).
Đông dược chủ yếu có nguồn gốc chủ yếu là từ thiên nhiên và các loại nhân tạo, bao gồm
thuốc thực vật, thuốc động vật, thuốc khoáng vật cùng một số thuốc có nguồn gốc từ hoá học
và bào chế từ sinh vật. Đông dược học chủ yếu nghiên cứu lý luận cơ bản của Đông dược và
các tính năng, công hiệu, ứng dụng, thu hái, bào chế, nguồn gốc của Đông dược, bao gồm:
dược lý học Đông dược, Cao đơn hoàn tán, kỹ thuật canh tác đông dược, dược liệu Đông
dược, bào chế Đông dược. Ngoài ra còn có một phân ngành về Dược học chuyên nghiên cứu
về thành phần hoá học trong Đông dược.
Phương tễ học: Phương tễ được gọi tắc là “phương”. Phương tức là Y phương, Tễ nghĩa là
điều tễ (phương thang đã được đúc kết dựa trên lý luận). Phương tễ được căn cứ trên nguyên
tắc phối ngũ, để tạo thành một liều lượng nhất định trong phối phương của dược vật, là thể
hiện của trị pháp, là bộ phận quan trọng tạo thành của lý, pháp, phương, dược trong đông y
học. Phương tễ học là một môn học nghiên cứu sự tạo thành, biến hoá và ứng dụng lâm sàng
của phương tễ Đông y. Nội dung của phương tễ bao gồm nguyên tắc tạo thành phương tễ,
quy luật phối ngũ dược vật, biến hoá tạo thành của phương tễ, loại hình cùng với cách dùng
của phương tễ.
Khang phục học Đông y là môn học lấy sự chỉ đạo của lý luận cơ sở Đông y, vận dụng điều
nhiếp tìh chí, vui vẻ, thể dục truyền thống, tắm rửa, ăn uống cùng các quan điểm bệnh tật,
tiến hành biện chứng khang phục, là một môn học có liên quan đến Xã hội học, luận lý học,
tâm lý học và nhiều học có tính ứng dụng khác.
Triết học Đông phương lấy hệ thống triết học khí nhất nguyên luận làm cơ sở, lấy Thiên, Địa,
Nhân tam tài là điểm lập luận căn bản, nhấn mạnh thiên nhân hợp nhất, vạn vật nhất thể, con
người cùng với tự nhiên, xã hội là một chỉnh thể hữu cơ, toàn thể thế giới ở một vị trí cao độ
và hài hoà, hiệp điều, đó gọi là “Thiên Nhân hợp nhất” quan. Đông y lấy học thuyết âm
dương ngũ hành để làm sáng tỏ tính hoàn chỉnh hiệp điều giữa các tổ chức tạng phủ trong cơ
thể con người, cùng với mối liên hệ thống nhất của cơ thể với hoàn cảnh ngoại giới, từ đấy
hình thành một đặc điểm đặc biệt về quan niệm chỉnh thể của Đông y học. Chỉnh thể quan
của Đông y học là nhận thức về tính liên hệ và tính hoàn chỉnh, tính thống nhất giữa thân thể
con người với hoàn cảnh ngoại giới, là duy vật luận và tư tưởng phép biện chứng tự phát
được thể hiện trong Đông y, là một trong những đặc điểm cơ bản của Đông y học, nó xuyên
suốt trong sinh lý, bệnh lý, chẩn pháp, biện chứng, trị liệu cùng toàn bộ hệ thống lý luận
trong Đông y, có ý nghĩa chỉ đạo rất quan trọng.
Ba là dựa trên cơ năng hoạt động mà nói thì tính thống nhất của kết cấu hình thể và vật chất
sự sống, quyết định tính thống nhất của hoạt động cơ năng, khiến cho các cơ năng hoạt động
khác nhau có sự hỗ căn hỗ dụng, hiệp điều hài hoà, liên hệ mật thiết, chế ước lẫn nhau, về
mặt bệnh lý có sự ảnh hưởng lẫn nhau. Sự hình thành của tính thống nhất chỉnh thể cơ thể là
lấy Ngũ tạng là trung tâm, phối hợp Lục phủ, thông qua tác dụng của hệ thống kinh lạc
“trong thì nối với tạng phủ, ngoài hợp với các chi tiết” mà thực hiện công năng. Ngũ tạng là
năm hệ thống cấu thành toàn bộ con người, tổ chức khí quan trong cơ thể con người đều bao
quát trong năm hệ thống này. Con người lấy Ngũ tạng làm trung tâm, thông qua hệ thống
kinh lạc, lấy Lục phủ, Ngũ tạng, Ngũ quan, Cửu khiếu, Tứ chi, Bách hài cùng các tổ chức khí
quan hữu cơ toàn thân liên kết lại với nhau, cấu thành một tương quan biểu lý, thông suốt
thượng hạ, liên hệ mật thiết, cùng nhau hiệp điều, toàn bộ là một chỉnh thể thống nhất có trật
tự, đồng thời thông qua tác dụng của Tinh, Khí, Thần mà hoàn thành cơ năng hoạt động của
một cơ thể thống nhất. Quan niểm Ngũ tạng nhất thể này phản ánh lên một cách mạnh mẽ các
tổ chức khí quan trong nội tại cơ thể con người là không thể độc lập, mà phải là một chỉnh thể
hữu cơ thống nhất, luôn tương hỗ quan hệ lẫn nhau.
b) Tính thống nhất giữa con người với hoàn cảnh tự nhiên giới:
Quan niểm chỉnh thể của Đông y học nhấn mạnh đến sự hài hoà, hiệp điều và thống nhất
chỉnh thể của hoàn cảnh trong và ngoài cơ thể con người, cho rằng cơ thể con người là một
chỉnh thể hữu cơ, vừa nhấn mạnh tính thống nhất của hoàn cảnh nội tại trong con người, lại
chú trọng đến tính thống nhất của con người với hoàn cảnh ngoại giới. Có thể nói rằng, hoàn
cảnh ngoại giới là nói đến hoàn cảnh Xã hội và tự nhiên mà con người phải nương tựa vào để
tồn tại. Hệ thống lý luận hiện đại cho rằng: hệ thống sự sống bao gồm 8 loại hình là tế bào,
khí quan, thể sinh vật, quần thể, tổ chức, khu vực xã hội, xã hội, cùng với hệ thống siêu quốc
gia. Trong hoàn cảnh đó, căn cứ theo dòng chảy vật chất (vật chất lưu) của sự biến hoá không
ngừng, dòng chảy của năng lượng (năng lượng lưu) và dòng chảy của tin tức (tín tức lưu),
điều tiết vô số các biến lượng mà duy trì sinh tồn. Mối quan hệ Thiên Nhân là vấn đề cơ bản
của triết học Đông phương cổ đại. Trong triết học Đông phương cổ đại, hàm nghĩa của Thiên
đại thể có 3 nghĩa: Một là nói đến Thiên trong tự nhiên, hai là nói đến vị trí chủ tể của Thiên,
ba là nói đến hàm ý của Thiên; hàm nghĩa của Nhân đại thể có 2 nghĩa: một là nói đến chủ
thể của nhận thức trong hiện thực hoặc chủ thể thực tiễn. Hai là nói đến nhân cách đầy đủ
trên ý nghĩa giá trị.
Mối quan hệ Thiên Nhân trên thực chất bao quát mối quan hệ của con người với tự nhiên và
Xã hội. Thuyết khí nhất nguyên luận của triết học Đông phương cổ đại cho rằng: Thiên Nhân
nhất khí, toàn thể vũ trụ đều thống nhất một khí. Thiên và Nhân có tính vật chất thống nhất,
có tính quy luật cộng đồng. Đông y học căn cứ thuyết chủ nghĩa duy vật thô sơ “Thiên Nhân
hợp nhất”, “Thiên Nhân nhất khí”, dùng Y học, Thiên văn, Khí tượng học cùng tư liệu, luận
chứng khoa học tự nhiên, để làm phong phú học thuyết Thiên Nhân hợp nhất, đưa ra quan
điểm Thiên Nhân nhất thể của tư tưởng “người với trời đất cùng hoà nhập”(Nhân dữ Thiên
Địa tương tham - 人与天地相参) (Tố Vấn – Khái Luận), nhấn mạnh “muốn nói đến Thiên,
cần phải nghiệm ở Nhân”(thiện ngôn Thiên giả, tất hữu nghiệm ư nhân - 善言天者,必有验于
人) (Tố Vấn – Cử Thống Luận), mang sự quan trọng của con người và đối với sự nghiên cứu
về con người, đặt tại vị trí trung tâm của lý luận quan hệ Thiên Nhân.
c) Tính thống nhất của con người với hoàn cảnh tự nhiên giới:
Con người có thuộc tính và nguồn gốc thống nhất với tự nhiên giới. Con người sản sinh bởi
tự nhiên, quy luật hoạt động và mạng sống của con người cần phải nhận sự ảnh hưởng và
định luật của tự nhiên giới. Tính vật chất thống nhất của con người với tự nhiên quyết định
tính thống nhất của quy luật vận động tự nhiên và con người.
Cuộc sống của con người là ở trong tự nhiên giới, tự nhiên giới tồn tại các điều kiện tất yếu
cho sự nương tựa và sinh tồn của con người. Sự biến hoá vận động của tự nhiên giới lại có
thể trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến cơ thể con người, như vậy cơ thể con người sẽ có
sự biến hoá bệnh lý và sinh lý tương ứng. Quan điểm “Thiên nhân nhất thể quan” cho rằng
Thiên có sự biến hoá tam âm, tam dương, lục khí và ngũ hành, con người cũng có sự vận
động của khí tam âm, tam dương, lục kinh, lục khí và ngũ tạng. Sự biến hoá vận động âm
dương, ngũ hành của tự nhiên giới với sự vận động khí của ngũ tạng lục phủ con người có sự
đón nhận thống ứng lẫn nhau. Cho nên cơ thể con người luôn luôn tương thông và có quan hệ
mật thiết với thế giới tự nhiên. Con người không những có thể chủ động thích ứng tự nhiên,
mà còn có thể chủ động cải thiện tự nhiên, từ đó mà giữ gìn được sức khoẻ, cuộc sống tích
cực, đấy gọi là tính thống nhất của nội bộ con người với hoàn cảnh ngoại giới. Cụ thể thể
hiện ở những phương diện sau.
5c) Năng lực thích ứng hoàn cảnh của con người:
Quan niệm Thiên Nhân hợp nhất của Đông y học nhấn mạnh sự hài hoà làm một giữa con
người với tự nhiên. Con người và tự nhiên có quy luật giống nhau. Quá trình sinh, trưởng,
tráng, lão của con người có sự tiếp nhận quy luận chế ước của tự nhiên, bệnh lý và sinh lý của
con người cũng tuân theo biến hoá của tự nhiên mà có sự biến hoá tương ứng. Con người cần
phải trải qua những phương pháp dưỡng sinh, tích cực chủ động thích ứng với tự nhiên.
Ngoài ra, còn cần phải tăng cường tu dưỡng tính tình, rèn luyện tính trung hoà, xây dựng một
nhân cách tốt đẹp, hợp nhất với hoàn cảnh xã hội. Nhưng, khả năng thích ứng của con người
có giới hạn, một khi sự thay đổi hoàn cảnh ngoại giới quá khắc nghiệt, hoặc khả năng thích
điều tiết của cá thể suy yếu, không thể đưa ra được sự điều chỉnh thay đổi tương ứng đối với
hoàn cảnh tự nhiên hoặc xã hội, thì con người sẽ rơi vào trạng thái không khoẻ mạnh, thậm
chí còn phát sinh biến hoá bệnh lý mà sinh tật bệnh.
Trong Bệnh Nhân Học và Phát Bệnh Học, Đông y học đặc biệt nhấn mạnh chính khí của
chỉnh thể đối với sự phát sinh bệnh tật với tác dụng quyết định trên bệnh tật. Thiên Thích
Pháp Luận sách Tố Vấn chép: “bên trong có chính khí thì ngoại tà không xâm phạm được”
(chính khí tồn nội, tà bất khả can - 正气存内,邪不可干), thiên Bình Nhiệt Bệnh Luận sách
Tố Vấn chép: “tà khí tập trung lại thì chính khí sẽ bị hư”(tà chi sở tấu, kỳ khí tất hư - 邪之所
凑,其气必虚), thiên Bách Bệnh Thỉ Sinh sách Linh Khu chép: “hư và và chính khí hư, hai
cái hư này kết hợp với nhau thì sẽ khiến cho cho ngoại tà xâm tập mà trú ẩn trong thân
thể”(lưỡng hư tương đắc, nãi khách kỳ hình - 两虚相得,乃客其形). Quan niệm chỉnh thể
này của Bệnh Nhân Học, Phát Bệnh Học, đối với thực tiển điều trị có ý nghĩa rất quan trọng.
Cơ thể con người là một chỉnh thể hữu cơ, giữa cục bộ và chỉnh thể duy trì một mối quan hệ
chế ước lẫn nhau, hiệp điều lẫn nhau. Vì vậy, trị liệu tật bệnh cần phải có một cái nhìn toàn
cục, chú ý điều tiết đối với chỉnh thể, tránh “đau đầu chữa đầu, đau chân chữa chân”. Như
thiên Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận sách Tố Vấn chép: “từ âm dẫn dương, tùng dương
dẫn âm” (tùng âm dẫn dương, tùng dương dẫn âm - 从阴引阳,从阳引阴), hay “lấy trái trị
phải, lấy phải trị trái” (dĩ tả trị hữu, dĩ hữu trị tả - 以左治右,以右治左); thiên Chung Thỉ sách
Linh Khu chép: “bệnh bên trên thì trị bên dưới, bệnh bên dưới thì trị bên trên” (bệnh tại
thượng giả hạ thủ chi, bệnh tại hạ giả thượng thủ chi - 病在上者下取之,病在下者上取之)
v.v… đều là nguyên tắc trị liệu được xác định dưới sự chỉ đạo của quan niệm chỉnh thể.
Nói tóm lại, Trị Liệu Học Đông y nhấn mạnh, trị bệnh cần phải dựa vào Thời, dựa vào Địa,
dựa vào Nhân mà kết hợp cho hợp lý, phải xuất phát từ chỉnh thể, hiểu biết và phân tích bệnh
tình một cách toàn diện, không những phải chú trọng đến tình hình cục diện của bệnh biến,
biến hoá bệnh lý của tạng phủ có bệnh biến, mà còn càng cần phải chú trọng đến bệnh biến
tạng phủ cùng mối quan hệ với các tạng phủ khác, nắm chắc tình hình của sự rối loạn khí
huyết âm dương chỉnh thể, đồng thời từ ảnh hưởng của sự hiệp điều âm dương, khí huyết,
xuất phát quan hệ bình hoành tạng phủ, phù chính khu tà, tiêu trừ bệnh tật đối với toàn thân,
cắt đứt sự liên kết phản ứng bệnh lý do bệnh tà tạo thành giữa cơ thể với tạng phủ, thông qua
tác dụng của chỉnh thể đối với cục bộ, từ đó mới đạt được mục đích tiêu trừ được bệnh tà, trị
khỏi bệnh tật. Biện chứng luận trị, trên thực tế là thể hiện của quan niệm chỉnh thể trị liệu.
Con người vừa có thuộc tính tự nhiên, vừa có thuộc tính Xã hội. Thiên Địa Nhân là tam tài
nhất thể. Cuộc sống con người là giữa khoảng Thiên Địa, trong khoảng thời gian, không gian,
hoạt động sự sống con người tất nhiên là đón nhận ảnh hưởng của hoàn cảnh tự nhiên và
hoàn cảnh xã hội. Vì vậy, đặt con người vào vị trí tự nhiên, sự biến hoá của hoàn cảnh xã hội
để phân tích trạng thái cơ năng của nó, kết hợp với các nhân tố biến hoá của hoàn cảnh, tiến
hành chẩn đoán, điều trị, dự phòng, khang phục cùng các hệ thống hoạt động thực tiển y học
là nguyên tắc cơ bản của Đông y học. Cho nên, các Thầy thuốc cần phải đạt yêu cầu: trên
thông Thiên văn, dưới thông Địa lý, giữa hiểu chuyện người.
Đông y học dựa trên quan niệm chỉnh thể của “Nhân dữ Thiên Địa tương tham” (con người
và Thiên Địa hoà hợp với nhau), “Thiên Nhân hợp nhất” của triết học Đông phương cổ đại,
có một ý nghĩa hiện thực quan trọng.
Đầu tiên, quan niệm chỉnh thể của Đông y học nhấn mạnh, con người thống nhất hài hoà với
tự nhiên. Đối với sự thay đổi quan điểm sai lầm con người đối lập với tự nhiên, phiến diện
nhấn mạnh con người là chủ tự nhiên, mù quáng “chinh phục tự nhiên”, khai thác tự nhiên,
phá hoại sự thăng bằng sinh thái có một ý nghĩa giáo dục rất lớn, đồng thời, đối với công việc
xây dựng một hoàn cảnh khoa học hiện đại có một tác dụng mở đầu.
Thứ đến, quan niệm chỉnh thể Đông y học nhấn mạnh Thiên Địa Nhân tam tài nhất thể, lấy
nhận thức thế giới và nhận thức con người của tự thân thống nhất lại, đối với nhận thức thô
sơ về biện chứng quan hệ thống nhất giữa chủ thể với khách thể, đối với sự xây dựng, phát
triển mô thức y học hiện đại có ý nghĩa rất quan trọng.
Tiếp đến, quan niểm chỉnh thể Đông y học vừa đồng thời nhấn mạnh Thiên Địa Nhân tam tài
nhất thể, lại đặc biệt chú trọng đến “trời che đất chở, vạn vật đều đầy đủ, không gì quý bằng
con người” (Thiên phú Địa tải, vạn vật tất bị, mạc quý hồ Nhân - 天覆地载,万物悉备,莫贵
乎人 ), mang con người làm trung tâm của việc lý giải mối quan hệ tam tài, lấy việc nâng cao
tinh thần của con người để giữ gìn sự mạnh khoẻ của thân tâm làm nhiệm vụ quan trọng, đối
với nhân thức và giải quyết phát triển quá độ của lý tính khoa học kỹ thuật, coi trọng văn
minh vật chất mà không coi trọng bệnh xã hội về văn minh tinh thần, cũng có một sự giúp ích
lớn.
Động và tĩnh là hai loại hình thức biểu hiện sự vận động của vật chất. Khí có Âm Dương,
cảm ứng lẫn nhau mà có động tĩnh. Sách Thái Cực Biện có chép: “Động tĩnh vốn là cảm của
khí; Âm Dương là tên của khí”. Động cũng gồm tĩnh, tĩnh cũng bao hàm động. Dương chủ
động, Âm chủ tĩnh; trong động của Dương vốn đã có cái lý của tĩnh, trong tĩnh của âm vốn đã
có cái gốc động của dương. Mục “Y Dịch Nghĩa” sách “Loại Kinh Phụ Dức” có chép: “thái
cực động mà sinh Dương, tĩnh mà sinh Âm” (太极动而生阳,静而生阴), “Dương là nơi gặp
gỡ của Âm, Âm là nền móng của Dương” (阳为阴之偶,阴为阳之基), “một động một tĩnh, là
gốc rễ của nhau” (一动一静,互为其根). Động tĩnh lẫn tương hỗ chính là dụng, súc tiến sự
phát triển phát sinh, vận động biến hóa của thể sự sống. Sự khởi đầu và kết thúc của vận động
sự sống cơ thể con người, giữ gìn được trạng thái động tĩnh hài hòa, duy trì được tính chỉnh
thể trong quy luật đối lập, thống nhất của động tĩnh, từ đó mà bảo đảm được hoạt động sự
sống chính thường của cơ thể con người.
Từ sức khỏe và bệnh tật mà nói, thiên Điều Kinh Luận sách Tố Vấn có chép: “Âm Dương
thăng bằng, sẽ khiến cho hình thể được sung mãn, cửu hậu được thống nhất” (Âm Dương
quân bình, dĩ sung kỳ hình, cửu hậu nhược nhất - 阴阳匀平,以充其形,九候若). Thiên Chung
Thỉ sach Linh Khu chép: “hình thể, cơ nhục, khí huyết cùng tương xứng, thì đó là người
mạnh khỏe” ( hình nhục khí huyết tất tương xứng dã, thị vị bình nhân - 形肉血气必相称也,
是谓平人 ). “Bình nhân” tức là người mạnh khỏe, khí huyết vận hành có trật tự, hài hòa,
công năng tạng phủ kinh lạc chính thường, hình thể, cơ nhục, khí huyết điều hòa hiệp trợ. Âm
Dương của nội bộ cơ thể thăng bằng, cùng với âm dương của ngoại giới thăng bằng thì đó là
mạnh khỏe.
Mạnh khỏe là khái niệm của một động thái, chỉ một khi sự biến hóa của cơ thể nằm trong
động thái của Âm Dương mới có thể giữ gìn và súc tiến sức khỏe. Quan hệ tiêu trưởng giữa
sức khỏe và bệnh tật trong cùng một cơ thể là đặc điểm chủ yếu của tính cộng tồn. Sự mất
thăng bằng của động thái Âm Dương có nghĩa là bệnh tật. Thiên “Sinh Khí Thông Thiên
Luận” sách “Tố Vấn” chép: “âm thăng bằng, dương kín đáo thì tinh và thần mới mạnh mẽ”
( Âm bình Dương bế, tinh thần nãi trị - 阴平阳秘,精神乃治 ), “trong ngoài điều hòa, thì tà
không thể tổn hại được” ( Nội ngoại điều hòa, tà bất năng hại - 内外调和,邪不能害 ). Âm
dương tổn hại lẫn nhau thì bệnh tật sẽ phát sinh.
Về phương diện công năng sinh lý mà nói, sự hấp thụ tiêu hóa đồ ăn thức uống, sự trao đổi
tuần hoàn của tân dịch, sự vận hành và tưới tắm của huyết dịch, cùng vật chất với sự chuyển
hóa lẫn nhau của công năng v.v… không gì là không được thực hiện bởi sự vận động của Âm
Dương bên trong và bên ngoài cơ thể.
Về phương diện bệnh lý mà nói, bất luận là tổn thương do lục dâm, hay là do thất tình, đều sẽ
khiến cho vận động khí hóa trong công năng thăng giáng xuất nhập của con người phát sinh
chướng ngại, động thái thăng bằng của Âm Dương thất điều mà dẫn đến bệnh tật. Nói cách
khác, các biến hóa bệnh lý xuất hiện sau khi phát bệnh, như hí huyết ứ trệ, đàm ẩm đình trệ,
chất cặn bả, đều là kết quả của sự vận động khí hóa tạng phủ trong cơ thể con người bị thất
thường. Nói tóm lại, sự vận động khí hóa trong cơ thể con người, bất luận là chỉnh thể hay
cục bộ, chỉ cần công năng vận động xuất nhập thăng giáng thất thường, thì có thể ảnh hưởng
đến sự kết hiệp thăng bằng của tạng phủ, kinh lạc, khí huyết âm dương, dẫn đến các loại biến
hóa bệnh tật của tứ chi cửu khiếu, biểu lý nội ngoại, ngũ tạng lục phủ.
Về phương diện phòng trị bệnh tật mà nói thì quá trình bệnh tật là một quá trình không ngừng
vận động biến hóa, các biến hóa bệnh lý đều là sự mất đi tính thăng bằng, hiệp điều trong quy
luật vận động mâu thuẫn của âm dương, xuất hiện kết quả thiên thắng, thiên suy của âm
dương. Mục đích căn bản trong quy tắc trị bệnh phải tìm đến gốc là ở phù chính khu tà, điều
chỉnh động thái thăng bằng âm dương, thể hiện đặc điểm của Đông Y học trong quan điểm
vận dụng quy luật vận động của tính đối lập, thống nhất để chỉ đạo công tác trị liệu lâm sàng.
Đông y học chủ trương: khi chưa phát bệnh, thì nên lo phong bệnh; khi đã phát bệnh, thì cần
phải đề phòng sự truyền biến. Tư tưởng phòng bệnh khi chưa phát, phòng biến khi đã phát,
chính là dùng quan điểm vận dụng để xử lý tính mâu thuẫn của bệnh tật và khỏe mạnh, ý nói
đến sự điều tiết cái thái quá thiên lệch của Âm Dương, khiến cho động thái hoạt động sinh lý
của nó được thăng bằng. Nguyên tắc cơ bản của dưỡng sinh phòng trị bệnh trong Đông Y
học, thể hiện tư tưởng biện chứng động tĩnh hàm chứa lẫn nhau.
“Phép biện chứng có liên quan đến tính rộng khắp của khoa học” ( “Phép Biện Chứng Tự
Nhiên”). Đông Y học cho rằng, con người với thể giới tự nhiên, xã hội, cùng ở trong một thể
thống nhất. Sinh lý, bệnh lý cùng xã hội, tự nhiên của con người có một liên hệ mật thiết với
nhau. Cơ năng, kết cấu của cơ thể con người, cũng là một chỉnh thể hợp nhất hữu cơ giữa
hình với thần. Trong sinh lý và bệnh lý cũng có sự liên hệ và ảnh hưởng lẫn nhau. Đông y
học đặc nặng quan điểm liên hệ để nhận thức rõ về liên hệ giữa con người với tự nhiên, xã
hội, từ đó xử lý mối liên hệ giữa sức khỏe và tật bệnh.
Vận động là thuộc tính của vật chất. Đông y học cho rằng: tất cả mọi vật chất, bao gồm tất cả
tự nhiên giới, tất cả loài người, đều là sự vận động bất tận không ngừng, mà hình thức vận
động của chúng là thăng, giáng, xuất, nhập. Quá trình sự sống con người, là một quá trình của
động thái thăng bằng. Trong sự thăng bằng tương đối của một động thái, biểu hiện các giai
đoạn sinh, trưởng, tráng, lão, dĩ một quá trình sự sống.
Ba quan điểm chủ yếu của tư tưởng phép biện chứng của Đông y học kể trên, xuyên suốt
trong các phương diện trị liệu, chẩn đoán, bệnh lý và sinh lý của Đông y học.