You are on page 1of 8

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP LỊCH SỬ 8

Chủ đề 1: Cuộc khỏng chiến chống thực dân Pháp xâm lược từ 1858 đến 1884
I- CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG TD PHÁP TỪ 1858-1884
1.Nguyên nhân Pháp xâm lược VN.
- Do nhu cầu về thị trường và nguyên liệu của nền kinh tế tý bản Pháp
- Việt Nam là nước giàu tài nguyên thiên nhiên ,có vị trí chiến lược quan trọng. Vào cuối
thế kỷ XIX,chế độ phong kiến nhà Nguyễn đã bước vào giai đoạn cuối mùa đang lên cơn
sốt trầm trọng. Tất cả những điều đó là nguyên nhân làm cho VN trở thành đối tượng dòm
ngó của nhiều đế quốc trong đó có Pháp.
Pháp có âm mưu xâm lược Việt Nam từ rất lâu , từ thế kỷ XVI chúng đã cử các nhà buôn
và các giáo sĩ thông qua hoạt động truyền giáo để do thám, dọn đường cho cuộc xâm
lược.
- Đầu TK XIX, các hoạt động này được xúc tiến ráo riết hơn , âm mưu xâm lược nước ta
càng trở nên trắng trợn hơn. Sau nhiều lần khiêu khích, lấy cớ bảo vệ đạo Gia-tô (vì nhà
Nguyễn thi hành chính sách cấm đạo, giết đạo, đóng cửa ải) Pháp đem quân xâm lược
Việt Nam.
* Nguyên nhân mất nước:
- Trước khi pháp sang xâm lược, triều đình nhà Nguyễn đã không chăm lo đến phát triển
đất nước,ổn định đời sống nhân dân. Về kinh tế văn duy trì nền sản xuất nông nghiệp lạc
hậu, bế quan toạ cảng, trọng nông ức thương nên làm cho kinh tế suy sụp,tài chính kiệt
quệ. Đời ssonh nhân dân khổ cực,mâu thuẫn xã hội gay gắt
- Khi Pháp sang xâm lược: triều đình đi từ chỗ đánh giặc đến hoà hoãn, thương lượng rồi
đầu hàng. Không tích cực cùng nhân dân kháng chiến.
- Triều đình từ chối mọi đề nghị canh tân đất nước càng đẩy đất nước lún sâu vào khủng
hoảng
- Các phong trào kháng chiến của nhân dân chưa đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù.
2. Quá trình xâm lược của TD Pháp.
Sau quá trình thăm dò và chuẩn bị, ngày 31.8.1858, 3000 quân Pháp và Tây Ban Nha dàn
trận trước cửa biển Đà Nẵng, âm mưu của chúng là thực hiện kế hoạch “đánh nhanh,
thắng nhanh”để Chiếm Đà Nẵng rồi tiến ra Huế buộc nhà Nguyễn đầu hàng kết thúc
chiến tranh
Ngày 1.9.1858: Pháp chính thức nổ súng xâm lược nước ta, sau 5 tháng xâm lược chúng
chiếm được bán đảo Sơn Trà ( Đà Nẵng), kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” thất bại.
Sau khi thất bại trong kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh, Pháp chuyển sang đánh vào Gia
Định hòng chiếm được vựa lúa dồi dào của nước ta và dọn đường đánh sang Căm Pu chia.
Tháng 2.1859 chúng tập trung đánh Gia Định, quân triều đình chống cự yếu ớt rồi tan rã
mặc dù có nhiều lực lượng và vũ khí. Trước sự nhu nhược của triều đình Huế, năm 1861
Pháp đánh rộng ra các tỉnh miền Đông Nam Kì, chiếm: Định Tường, Biên Hoà và Vĩnh
Long. Trước tình hình đó triều đình Huế hoảng hốt xin đình chiến và đến 5.6.1862 triều
đình kí hiệp ước Nhâm Tuất, nhượng cho Pháp nhiều quyền lợi, cắt một phần lãnh thổ cho
Pháp (3 tỉnh miền Đông Nam Kì: Gia Định, Định Tường, Biên Hoà + đảo Côn Lôn).
Sau khi ký hiệp ước Nhâm Tuất triều đình Huế càng hèn yếu, ra sức ngăn cản phong trào
nhân dân và cử người sang Pháp xin lại các tỉnh đã mất. Lợi dụng thái độ đó,năm 1867
Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam kì (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) mà không tốn
một viên đạn. Pháp xây dựng bộ máy cai trị ở Nam Kỳ và xúc tiến quá trình chuẩn bị đánh
ra Bắc Kỳ
Pháp cho quân tiến hành ra thăm dò Bắc kỳ dưới hình thức nhà buôn và giáo sĩ truyền
giáo. Năm 1973,lợi dụng việc triều đình Huế nhờ ra Bắc dẹp giặc biển ,200 quân Pháp do
Gác-ni-e chỉ huy đã kéo ra Bắc. Ngày 20-11-1873, Pháp đánh thành Hà Nội, quân triều
đình chống cự yếu ớt rồi tan rã. Pháp nhanh chóng chiếm HN và các tỉnh đồng bằng Bắc
Kỳ . Do sự chiến đấu anh dũng của quân dân ta ,Pháp bị thất bại nặng nề ở Cầu giấy,
chúng hoảng hốt muốn rút về nước.Năm 1874 Triều đình Huế kí hiệp ước Giáp Tuất
(chính thức thừa nhận 6 tỉnh Nam Kì thuộc Pháp) đã làm mất một phần lãnh thổ quan
trọng của Việt Nam.
Năm 1882 Pháp đánh ra Bắc Kì lần II, một lần nữa Pháp lại chiếm được Hà Nội và Bắc
Kì.
Năm 1883 Nhân lúc triều đình Nguyễn lục đục, chia rẽ, vua Tự Đức chết, Pháp kéo quân
vào cửa biển Thuận An uy hiếp, buộc triều đình ký hiệp ước Hác-măng (25.8.1883)- thừa
nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Trung Kì.
- 1884 Pháp tiếp tục ép triều đình Huế phải ký hiệp ước Pa-tơ-nốt (6.6.1884) - Đặt cơ sở
lâu dài và chủ yếu cho quyền đô hộ của Pháp ở Việt Nam.
* Nhận xét:
Như vậy sau gần 30 năm, TD Pháp với những thủ đoạn, hành động trắng trợn đã từng
bước đặt ách thống trị trên đất nước ta. Hiệp ước Pa-tơ-nốt đã chấm dứt sự tồn tại của
triều đình phong kiến nhà Nguyễn. “Với tư cách là quốc gia độc lập, thay vào đó là chế độ
Thuộc địa nửa PK -> kéo dài cho đến tháng 8.1945.

3. Hoàn cảnh, nội dung, 4 hiệp ước:


* Hiệp ước Nhâm tuất 1862:
- 1862 khi mất 3 tỉnh miền Đông và 1 tỉnh miền Tây Nam Kì, triều đình Nguyễn không tấn
công lấy lại những vùng đất này mà tỏ ra hoang manglo sợ xin đình chiến và ký hiệp ước
Nhâm Tuất (5.6.1862) với các điều khoản nặng nề.
+ Thừa nhận quyền cai quản của Pháp ở 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ và đảo Côn Lôn.
+ Mở 3 cửa biển cho Pháp vào buôn bán.
+ Cho người Pháp và người Tây Ban Nha tự do truyền đạo.
+ Bồi thường chiến phí cho Pháp (288 vạn lạng Bạc).
+ Pháp sẽ trả lại thành Vĩnh Long khi nào triều đình buộc nhân dân ngừng K/C.

* Hiệp ước Giáp Tuất:


Sau điều ước 1862, triều đình càng đi sâu vào con đường đối lập với nhân dân: một mặt
đàn áp phong trào của nhân dân ở Bắc-Trung Kì, mặt khác ngăn cản phong trào đấu tranh
ở Nam Kì và chủ trương thương lượng với Pháp nhằm đòi lại 3 tỉnh miền Đông nhưng thất
bại ,mặt khác để cho Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây trong 5 ngày mà không mất 1 viên
đạn.
Sau khi 6 tỉnh Nam Kì đã mất, Nhà Nguyễn vẫn không tỉnh ngộ trước âm mưu xâm lược
của thực dân Pháp, vẫn tin vào thương thuyết để cho Pháp ra Bắc Kì giải quyết vụ Đuy-
puy quấy rối, thực chất đã tạo điều kiện cho Pháp đã được ra Bắc Kì để xâm lược.
Năm 1873 Pháp đánh chiếm Hà Nội và một số tỉnh Bắc Kì (lần 1) nhà Nguyễn hoang
mang hoảng sợ. Bất chấp thái độ của triều đình, nhân đân các tỉnh miền Bắc tự kháng
chiến và làm nên chiến thắng Cầu Giấy vào ngày 23-12-1873, giết chết Gac-ni-ê gây cho
Pháp hoang mang, nhà Nguyễn không nhân cơ hội này đánh Pháp mà còn ký tiếp hiệp ước
Giáp Tuất (15.3.1873)
-Thừa nhận chủ quyền của Pháp ở 6 tỉnh Nam Kì
-Tạo điều kiện cho Pháp rút về Nam Kỳ
- Cho Pháp quyền buôn bán ở một số cảng ở Bắc Kỳ..

*Hiệp ước Hác Măng:


Năm 1882 Pháp đưa quân ra xâm lược Bắc Kì lần II, triều đình hoang mang, khiếp sợ
sang cầu cứu Nhà Thanh nhưng Nhà Thanh câu kết với Pháp cùng nhau chia quyền lợi.
Nhân dân miền Bắc tiếp tục kháng chiến làm nên trận Cầu Giấy lần II (tướng Ri-vi-e bị
giết) quân Pháp hoang mang, dao động. Lúc đó vua Tự Đức chết, triều đình lục đục, Pháp
chớp thời cơ đánh chiếm cửa Thuận An, uy hiếp nhà Nguyễn, triều điình hoảng sợ ký Hiệp
ước Hác-măng (Quý Mùi: 25.8.1883):
- Chính thức thừa nhận quyền bảo hội của Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, cắt Bình Thuận
nhập vào Nam Kỳ, ba tỉnh Thanh- Nghệ -Tĩnh sát nhập vào Bắc Kỳ.
-Triều đình chỉ được cai quản Bắc Kỳ nhưng mọi việc đều phải thông qua khâm sứ Pháp
- Pháp nắm mọi quyền hành: giám sát triều đình, nắm các quyền trị an, nội vụ, giao thiệp
với bên ngoài.
- Triều đình rút quân ở Bắc Kỳ về Trung Kỳ
* Hiệp ước Pa tơ nốt
Do làn sóng phản đối của nhân dân Pháp và triều đình lại một hiệp ước Pa to nốt (1884),
chỉ sửa lại đôi chút về ranh giới
Với hiệp ước Hác Măng và Patonot, triều đình Nguyễn đã đầu hàng hoàn toàn TD Pháp,
nhà nước PKVN đã hoàn toàn sụp đổ, thay vào đó là chế độ “thuộc địa nửa PK”.
4. Phong trào kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta (1858-1884).
Quá trình kháng chiến:
* Tại Đà Nẵng: Ngay khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược, nhân dân Đà Nẵng đã anh
dũng cầm súng đứng lên đánh giặc,tích cực phối hợp với quân triều đình thực hiện vườn
không nhà trống, đào hào đắp luỹ cản giặc. Vì vậy sau 5 tháng Pháp chỉ chiếm được bán
đảo Sơn Trà, kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của chúng thất bại.
* Tại Gia Định và các tỉnh miền Đông: Năm 1859 khi Pháp đánh vào Gia định trong khi
quân Triều đình chống cự yếu ớt thì nhân dân đã tích cực đứng lên chiến đấu, nhiều đội
quân của nhân dân hoạt động mạnh, làm cho quân Pháp khốn đốn.Ngày 10-12-1861 nghĩa
quân Nguyễn Trung Trực đã đốt cháy tàu Hy vọng trên sông Vàm Cỏ Đông.
Từ sau 1862 bất chấp lệnh bãi binh của triều đình nhân dân vẫn tự động nổi lên kháng
chiến, đỉnh cao là khởi nghĩa Trương Định với ngọn cờ “Bình Tây đại Nguyên Soái”.Căn
cứ Tân Hoà trở thành đại bản doanh của cuộc khởi nghĩa. Nghĩa quân hoạt động mạnh làm
quân địch thất điên bát đảo. Chúng ra sức lùng sục tìm lên căn cứ, nghĩa quân Trương
Định phải chuyển sang vùng Tân Phước. Sau đó nhờ có tay sai dẫn đường thực dân Pháp
đã thọc sâu vào căn cứ, Trương Định bị thương rồi hy sinh. Mặc dù Trýừng éịnh hy sinh
nhưng phong trào vẫn tiếp tục dưới sự chỉ đạo của Trương Quyền, một số chỉ huy khác
cũng đưa quân đi xây dựng căn cứ chiến đấu ở nhiều nơi.
* Kháng chiến lan ra các tỉnh Miên Tây:
Năm 1867, Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Kì. Căm phẫn trước hành động của lũ
cướp nước và quan quân triều đình, nhân dân miền Tây tiếp tục chiến đấu với nhiều hình
thức phong phú như: khởi nghĩa vũ trang, dùng thơ văn , nhiều trung tâm kháng chiến đã
mọc lên :Bên Tre, Cần Thơ,Vĩnh Long…với nhiều lãnh tụ nổi tiếng như Trương Quyền,
Phan Tôn,Phan Liêm, Nguyễn Hữu Huân…. TD Pháp cùng triều đình ra sức đàn áp, nhiều
thủ lĩnh đã hy sinh anh dũng và thể hiện tinh thần khẳng khái ,bất khuất.
+ Nguyễn Hữu Huân: 2 lần bị giặc bắt, được thả vẫn tích cực chống Pháp, khi bị đưa đi
hành hình ông vẫn ung dung làm thơ.
+ Nguyễn Trung Trực: bị giặc bắt đem ra chém, ông đã khẳng khái nói “Bao giờ người
Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”.
* Phong trào kháng chiến của nhân dân Bắc Kỳ:
- Năm1873, TD Pháp xâm lược Bắc Kì lần I, quân triều đình chống cự yếu ớt rồi tan
rã.Trong khi đó nhân dân Hà Nội đã chiến đấu quyết liệt để giữ thành . Các đội quân được
thành lập đêm đêm lẻn vào thành quấy rối địch, đốt kho đạn, chặn đánh địch ở cửa Ô
Thanh Hà. Sau khi chiếm Hà Nội, Pháp đánh rộng ra các tỉnh BK nhưng đi đến đâu cũng
vấp phải sự phản kháng quyết liệt của nhân dân.
Ngày 21.12.1873, Đội quân cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đã phục kích giặc ở Cầu Giấy, giết
chết tướng Gác-ni-ê. Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ nhất đã làm cho quân Pháp hoang
mang,lo sợ còn quân dân ta vô cùng phấn khởi.
- Năm 1882. Pháp đánh Bắc Kì lần II: Cuộc chiến đấu giữ thành Hà Nội của tổng đốc
Hoàng Diệu bị thất thủ, nhưng nhân dân vẫn kiên trì chiến đấu . Họ tự đốt nhà tạo thành
những bức tường lửa chặn giặc. Hàng nghìn người tập hợp thành đội ngũ, gươm giáo
chỉnh tề chuẩn bị kéo vào thành đánh giặc . Sau khi thành HN bị Pháp chiếm cuộc chiến
trong lòng địch vẫn diễn ra vô cùng quả cảm. Nhân dân không bán lương thực cho Pháp,
đào hào, đắp luỹ ,lập ra các đội dân dũng...
Ngày 19- 5-1883 Đội quân cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc phục kích trận Cầu Giấy lần II và
giết chết tướng Ri-vi-e, làm cho quân Pháp rối loạn, tạo không khí phấn khởi cho nhân
dân Bắc Kỳ tiếp tục kháng chiến.
- Từ 1883-1884, triều đình Huế đã đầu hàng hoàn toàn TD Pháp , theo các hiệp ước đã ký
kết, triều đình ra lệnh bãi binh trên toàn quốc nhưng nhân dân vẫn quyết tâm kháng chiến,
nhiều trung tâm kháng chiến được hình thành,các cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra khắp nơi cho
đến khi nào “hết người Tây đánh Nam”
II- PHONG TRÀO KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP CUỐI XIX- ĐẦU XX
1- Phong trào Cần Vương
*. Hoàn cảnh lịch sử:
- Sau khi buộc triều đình Nguyễn kí các hiệp ước Hác măng, Patơnốt,TD Pháp cơ bản
hoàn thành công cuộc xâm lược Việt Nam. Trong nội bộ triều đình có sự phân hoá sâu sắc
thành 2 bộ phận: Phe chủ chiến và Phe chủ hoà. Mặc dù triều đình đã đầu hàng, nhưng phe
chủ chiến do Tôn Thất Thuyết đứng đầu vẫn nuôi hy vọng giành lại chủ quyền khi có điều
kiện. Đêm 4 rạng ngày 5 tháng 7 năm 1885, phe chủ chiến đã tiến hành cuộc phản công
quân Pháp tại kinh thành Huế nhưng thất bại.Ngay sau đó, TTT đưa vua Hàm Nghi ra Tân
Sở (Quảng Trị), tại đây ngày 13-7-1885 ông nhân danh vua Hàm Nghi ra Chiếu Cần
Vương kêu gọi văn thân và nhân dân đứng lên giúp vua cứu nước. Hưởng ứng chiếu Cần
Vương một phong trào yêu nước chống Pháp đã dâng lên sôi nổi và kéo dài đến cuối thế
kỷ XIX gọi là phong trào Cần Vương.
*. Diễn biến: chia làm 2 giai đoạn.
+ Giai đoạn 1: 1885-1888.
- Hưởng ứng chiếu Cần Vương, phong trào kháng chiến bùng lên rộng khắp trên cả nước
nhưng sôi nổi nhất là ở Bắc và Trung Kì, có nhiều cuộc khởi nghĩa lớn nổ ra như khởi
nghĩa của Phạm Bành, Khởi nghĩa Phan Đình Phùng, khởi nghĩa Nguyễn Quang Bích....
TD Pháp ráo riết truy lùng- TT Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra căn cứ Sơn Phòng, Phú Gia
thuộc Hương Khê, Hà Tĩnh.Trước những khó khăn ngày càng lớn, TT Thuyết sang Trung
Quốc cầu viện . Cuối 1888, quân Pháp có tay sai dẫn đường, đột nhập vào căn cứ, bắt sống
vua Hàm Nghi và cho đi đày biệt xứ sang Angiêri .
* Giai đoạn 2: 1888-1896.
Mặc dù Vua Hàm Nghi bị bắt nhưng phong trào khởi nghĩa vũ trang vẫn được duy trì,
phát triển và quy tụ thành những cuộc khởi nghĩa lớn : Ba Đình, Bãi Sậy, Hương Khê

* Khởi nghĩa Hương Khê (1885-1895) ?


Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa là Phan Đình Phùng, bên cạnh ông có nhiều tướng tài tiêu biểu
là Cao Thắng
Dựa vào địa thế núi rừng hiểm trở, nghĩa quân đóng căn cứ ở Ngàn Trươi, Hương Khê, Hà
Tĩnh. Địa bàn hoạt động trải dài trên 4 tỉnh: Quảng Bình ,Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá.
Cuộc khởi nghĩa diễn ra qua hai giai đoạn:
- Giai đoạn 1: từ 1885-1888 nghĩa quân lo tổ chức,huấn luyện, xây dựng công sự, rèn đúc
khí giới, tích trữ lương thảo. Lực lượng của nghĩa quân chia làm 15 thứ quân, mỗi thứ
quân có từ 100- 500 người, phân bố trên địa bàn 4 tỉnh. Họ đã chế tạo được súng trường
theo mẫu của Pháp.
- Giai đoạn 2: Từ 1889-1895 là thời kỳ tích cực chiến đấu. Dựa vào địa thế hiểm trở, có sự
chỉ huy và phối hợp thống nhất nghĩa quân đã đẩy lùi được nhiều cuộc tấn công của địch.
Năm 1895 Pháp huy động lực lượng, nhờ tay sai dẫn đường thọc sâu vào căn cứ,lực lượng
nghĩa quân bị tổn thất nặng nề. Chủ tướng Phan Đình Phùng bị thương rồi hy sinh, cuộc
khởi nghĩa duy trì thêm một thời gian rồi tan rã.
Cuộc khởi nghĩa Hýừng Khờ được xem là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong Cần
Vương bởi vì:
*. Ý nghĩa lịch sử phong trào Cần Vương.
- Mặc dù thất bại xong các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương đã nêu cao tinh
thần yêu nước, ý chí chiến đấu kiên cường, quật khởi của nhân dân ta, làm cho TD Pháp bị
tổn thất nặng nề, hơn 10 năm sau mới bình định được Việt Nam.
- Các cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng đã tạo tiền đề vững chắc cho các phong trào đấu
tranh giai đoạn sau,
- Các cuộc KN cho thấy vai trò lãnh đạo của giai cấp PK trong lịch sử đấu tranh của dân
tộc.

2. Phong trào Nông dân Yên Thế và Phong trào chống pháp của đồng bào Miền núi
cuối TK XIX.
a. Khởi nghĩa Yên Thế (1884-1913)
* Căn cứ Yên Thế: Yên Thế là vùng rừng núi trung du ở phía Tây tỉnh Bắc Giang, có diện
tích khoảng 40-50 km2. Yên Thế được chọn làm căn cứ của nghĩa quân bởi vì đây là vùng
có địa bàn hiểm trở, có rừng núi sau lưng và đồng bằng trước mặt thông với nhiều tỉnh
như Lạng Sơn, Thái Nguyên, và vùng đồng bằng như Bắc Ninh,Hà Nội.
* Nguyên nhân: Giữa thế kỷ XIX,do tình hình kinh tế sa sút dưới thời Nguyễn, khiến cho
nông dân đồng bằng Bắc Kì phải rời quê hương lên Yên Thế sinh sống, khi TD Pháp mở
rộng phạm vi chiếm đóng Bắc Kì, Yên Thế trở thành mục tiêu bình định của chúng, nhân
dân Yên Thế đứng trước nguy cơ mất đất lần thứ 2,để bảo vệ cuộc sống của mình, nhân
dân Yên Thế đứng lên đấu tranh chống Pháp.
* Diễn biến: Cuộc khởi nghĩa diễn ra qua 3 giai đoạn
- Gđ 1: 1884-1892: nghĩa quân hoạt động riêng rẽ,chưa có sự lãnh đạo thống nhất,hoatj
động mạnh nhất là nghĩa quân của Đề Nắm
- Gđ 2: 1893-1908: Do Đề Thám lãnh đạo,nghĩa quân vừa chiến đấu, vừa xây dựng cơ sở,
lực lượng .Đề Thám đã 2 lần phải xin giảng hoà với Pháp rồi chuẩn bị lương thực, quân
đội sẵn sàng chiến đấu và bắt liên lạc với các nhà yêu nước khác.
- Gđ 3: 1909-1913: Pháp tập trung lực lượng tấn công quy mô lớn lên Yên Thế, lực lượng
nghĩa quân bị hao mòn dần.
* Kết quả: 10.2.1913 Đề thám bị ám sát, phong trào tan rã.
* Nguyên nhân thất bại:
- Phong trào Cần Vương tan rã, TD Pháp có điều kiện để đàn áp KN Yên Thế.
- Lực lượng nghĩa quân gặp nhiều bất lợi: bị tiêu hao dần, bị khủng bố, mất tiếp tế, thủ
lĩnh thì bị ám sát.
- Do hạn chế của người lãnh đạo (giai cấp nông dân không có khả năng lãnh đạo cách
mạng)
* ý nghĩa: Thấy được khả năng lớn lao của giai cấp nông dân trong lịch sử đấu tranh của
dân tộc. Khẳng định truyền thống yêu nước, tinh thần bất khuất của nhân dân,tô thắm cho
trang sử chống ngoại xâm của nhân dân
Chủ đề 2: Trào lưu cải cách duy tân ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX.

1. Hoàn cảnh: Vào những năm 60 của TK XIX, Pháp mở rộng chương trình xâm lược
Nam Kì và chuẩn bị đánh chiếm cả nước ta. Trong khi đó triều đình Huế vẫn tiếp tục thực
hiện chính sách đối nội, ngoại giao lỗi thời, lạc hậu khiến cho kinh tế, XH Việt Nam
khủng hoảng nghiêm trọng. Bộ máy chính quyền từ TW xuống địa phương mục ruỗng.
Nông nghiệp,thủ công nghiệp, thương nghiệp đình trệ. Tài chính cạn kiệt, đời sống nhân
dân khó khăn,cực khổ. Mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc ngày càng gay gắt làm bùng
nổ các cuộc khởi nghĩa của nhân dân, binh lính, đẩy đất nướcvào tình trạng rối ren.
Trong bối cảnh đó, một số quan lại, sĩ phu yêu nước thức thời đã nhận thức được tình
hình đất nước, xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân, mong nuốn nước nhà giàu mạnh,
đủ sức tấn công kẻ thù nên họ đã mạnh dạn đưa ra những đề nghị cải cách, những yêu cầu
đổi mới trên tất cả các lĩnh cực việc nội trị, ngoại giao, kinh tế, văn hoá của nhà nước
phong kiến.
2. Cỏc ðề nghị cải cỏch
Tiêu biểu:
+ Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế xin mở cửa biển Trà Lý (Nam Định).
+ Đinh Văn Điền xin khai khẩn ruộng hoang, khai mỏ, phát triển buôn bán, chấn chỉnh
quốc phòng.
+ Viện Thương Bạc xin mở 3 cửa biển ở miền Bắc và Trung để thông thương với bên
ngoài.
+ Nguyễn Trường Tộ đã kiên trì gửi lên triều đình 30 bản điều trần đề cập đến một loạt
các vấn đề như: - Chấn chỉnh bộ máy quan lại,phát triển công thương nghiệp và tài
chính,chỉnh đốn võ bị ,mở rộng ngoại giao, cải tổ giáo dục.
+Nguyễn Lộ Trạch dâng 2 bản “Thời Vụ Sách” lên Vua Tự Đức đề nghị: Trấn hưng dân
khí, khai thông dân trí và bảo vệ đất nước.
Nội dung của các đề nghị cải cách đều mang tính chất tiến bộ, thiết thực, thúc đẩy sự đổi
mới và phát triển trong mọi lĩnh vực của nhà nước phong kiến.
3. Kết cục của những đề nghị cải cách.
- Ưu điểm: Trong bối cảnh bế tắc của xã hội phong kiến cuối TK XIX, các sĩ phu, quan lại
tiến bộ đã dũng cảm vượt qua những nghi kị ,hà khắc,bảo thủ thậm chí nguy hiểm đến
tính mạng để đưa ra những đề nghị cải cách nhằm canh tân đất nước, đáp ứng phần nào
những yêu cầu của nước ta lúc đó.
- Hạn chế:
Các đề nghị trên mang tính lẻ tẻ, rời rạc, chưa xuất phát từ cơ sở bên trong, chưa động
trạm đến vấn đề cơ bản của thời đại là giảI quyết 2 mâu thuẫn chủ yếu của XH Việt Nam
lúc đó là: Nông dân và PK và Nhân dân VN và TD Pháp.
- Kết cục: Những đề nghị cải cách đó không thực hiện được vì triều đình PK Nguyễn bảo
thủ, bất lực, không chấp nhận thay đổi, từ chối mọi đề nghị cảI cách,mặt khác nước ta
chưa đủ cơ sở về KT-XH . Các đề nghị không thực hiện được đã làm cản trở sự phát triển
của những tiền đề mới khiến cho xã hội chỉ luẩn quẩn trong vòng bế tắc của chế độ thuộc
địa nửa PK.
- ý nghĩa- tác dụng:
Dù không thành hiện thực nhưng những tư tưởng cải cách cuối TK XIX đã gây một tiếng
vang tấn công vào tư tưởng bảo thủ, lỗi thời PK, phản ánh trình độ nhận thức mới của
những người Việt Nam hiểu biết, thức thời, góp phần vào việc chuẩn bị cho sự ra đời của
phong trào Duy Tân ở Việt Nam ở đầu TK XX.

You might also like