Professional Documents
Culture Documents
Chủ đề 1: Cuộc khỏng chiến chống thực dân Pháp xâm lược từ 1858 đến 1884
I- CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG TD PHÁP TỪ 1858-1884
1.Nguyên nhân Pháp xâm lược VN.
- Do nhu cầu về thị trường và nguyên liệu của nền kinh tế tý bản Pháp
- Việt Nam là nước giàu tài nguyên thiên nhiên ,có vị trí chiến lược quan trọng. Vào cuối
thế kỷ XIX,chế độ phong kiến nhà Nguyễn đã bước vào giai đoạn cuối mùa đang lên cơn
sốt trầm trọng. Tất cả những điều đó là nguyên nhân làm cho VN trở thành đối tượng dòm
ngó của nhiều đế quốc trong đó có Pháp.
Pháp có âm mưu xâm lược Việt Nam từ rất lâu , từ thế kỷ XVI chúng đã cử các nhà buôn
và các giáo sĩ thông qua hoạt động truyền giáo để do thám, dọn đường cho cuộc xâm
lược.
- Đầu TK XIX, các hoạt động này được xúc tiến ráo riết hơn , âm mưu xâm lược nước ta
càng trở nên trắng trợn hơn. Sau nhiều lần khiêu khích, lấy cớ bảo vệ đạo Gia-tô (vì nhà
Nguyễn thi hành chính sách cấm đạo, giết đạo, đóng cửa ải) Pháp đem quân xâm lược
Việt Nam.
* Nguyên nhân mất nước:
- Trước khi pháp sang xâm lược, triều đình nhà Nguyễn đã không chăm lo đến phát triển
đất nước,ổn định đời sống nhân dân. Về kinh tế văn duy trì nền sản xuất nông nghiệp lạc
hậu, bế quan toạ cảng, trọng nông ức thương nên làm cho kinh tế suy sụp,tài chính kiệt
quệ. Đời ssonh nhân dân khổ cực,mâu thuẫn xã hội gay gắt
- Khi Pháp sang xâm lược: triều đình đi từ chỗ đánh giặc đến hoà hoãn, thương lượng rồi
đầu hàng. Không tích cực cùng nhân dân kháng chiến.
- Triều đình từ chối mọi đề nghị canh tân đất nước càng đẩy đất nước lún sâu vào khủng
hoảng
- Các phong trào kháng chiến của nhân dân chưa đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù.
2. Quá trình xâm lược của TD Pháp.
Sau quá trình thăm dò và chuẩn bị, ngày 31.8.1858, 3000 quân Pháp và Tây Ban Nha dàn
trận trước cửa biển Đà Nẵng, âm mưu của chúng là thực hiện kế hoạch “đánh nhanh,
thắng nhanh”để Chiếm Đà Nẵng rồi tiến ra Huế buộc nhà Nguyễn đầu hàng kết thúc
chiến tranh
Ngày 1.9.1858: Pháp chính thức nổ súng xâm lược nước ta, sau 5 tháng xâm lược chúng
chiếm được bán đảo Sơn Trà ( Đà Nẵng), kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” thất bại.
Sau khi thất bại trong kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh, Pháp chuyển sang đánh vào Gia
Định hòng chiếm được vựa lúa dồi dào của nước ta và dọn đường đánh sang Căm Pu chia.
Tháng 2.1859 chúng tập trung đánh Gia Định, quân triều đình chống cự yếu ớt rồi tan rã
mặc dù có nhiều lực lượng và vũ khí. Trước sự nhu nhược của triều đình Huế, năm 1861
Pháp đánh rộng ra các tỉnh miền Đông Nam Kì, chiếm: Định Tường, Biên Hoà và Vĩnh
Long. Trước tình hình đó triều đình Huế hoảng hốt xin đình chiến và đến 5.6.1862 triều
đình kí hiệp ước Nhâm Tuất, nhượng cho Pháp nhiều quyền lợi, cắt một phần lãnh thổ cho
Pháp (3 tỉnh miền Đông Nam Kì: Gia Định, Định Tường, Biên Hoà + đảo Côn Lôn).
Sau khi ký hiệp ước Nhâm Tuất triều đình Huế càng hèn yếu, ra sức ngăn cản phong trào
nhân dân và cử người sang Pháp xin lại các tỉnh đã mất. Lợi dụng thái độ đó,năm 1867
Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam kì (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) mà không tốn
một viên đạn. Pháp xây dựng bộ máy cai trị ở Nam Kỳ và xúc tiến quá trình chuẩn bị đánh
ra Bắc Kỳ
Pháp cho quân tiến hành ra thăm dò Bắc kỳ dưới hình thức nhà buôn và giáo sĩ truyền
giáo. Năm 1973,lợi dụng việc triều đình Huế nhờ ra Bắc dẹp giặc biển ,200 quân Pháp do
Gác-ni-e chỉ huy đã kéo ra Bắc. Ngày 20-11-1873, Pháp đánh thành Hà Nội, quân triều
đình chống cự yếu ớt rồi tan rã. Pháp nhanh chóng chiếm HN và các tỉnh đồng bằng Bắc
Kỳ . Do sự chiến đấu anh dũng của quân dân ta ,Pháp bị thất bại nặng nề ở Cầu giấy,
chúng hoảng hốt muốn rút về nước.Năm 1874 Triều đình Huế kí hiệp ước Giáp Tuất
(chính thức thừa nhận 6 tỉnh Nam Kì thuộc Pháp) đã làm mất một phần lãnh thổ quan
trọng của Việt Nam.
Năm 1882 Pháp đánh ra Bắc Kì lần II, một lần nữa Pháp lại chiếm được Hà Nội và Bắc
Kì.
Năm 1883 Nhân lúc triều đình Nguyễn lục đục, chia rẽ, vua Tự Đức chết, Pháp kéo quân
vào cửa biển Thuận An uy hiếp, buộc triều đình ký hiệp ước Hác-măng (25.8.1883)- thừa
nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Trung Kì.
- 1884 Pháp tiếp tục ép triều đình Huế phải ký hiệp ước Pa-tơ-nốt (6.6.1884) - Đặt cơ sở
lâu dài và chủ yếu cho quyền đô hộ của Pháp ở Việt Nam.
* Nhận xét:
Như vậy sau gần 30 năm, TD Pháp với những thủ đoạn, hành động trắng trợn đã từng
bước đặt ách thống trị trên đất nước ta. Hiệp ước Pa-tơ-nốt đã chấm dứt sự tồn tại của
triều đình phong kiến nhà Nguyễn. “Với tư cách là quốc gia độc lập, thay vào đó là chế độ
Thuộc địa nửa PK -> kéo dài cho đến tháng 8.1945.
2. Phong trào Nông dân Yên Thế và Phong trào chống pháp của đồng bào Miền núi
cuối TK XIX.
a. Khởi nghĩa Yên Thế (1884-1913)
* Căn cứ Yên Thế: Yên Thế là vùng rừng núi trung du ở phía Tây tỉnh Bắc Giang, có diện
tích khoảng 40-50 km2. Yên Thế được chọn làm căn cứ của nghĩa quân bởi vì đây là vùng
có địa bàn hiểm trở, có rừng núi sau lưng và đồng bằng trước mặt thông với nhiều tỉnh
như Lạng Sơn, Thái Nguyên, và vùng đồng bằng như Bắc Ninh,Hà Nội.
* Nguyên nhân: Giữa thế kỷ XIX,do tình hình kinh tế sa sút dưới thời Nguyễn, khiến cho
nông dân đồng bằng Bắc Kì phải rời quê hương lên Yên Thế sinh sống, khi TD Pháp mở
rộng phạm vi chiếm đóng Bắc Kì, Yên Thế trở thành mục tiêu bình định của chúng, nhân
dân Yên Thế đứng trước nguy cơ mất đất lần thứ 2,để bảo vệ cuộc sống của mình, nhân
dân Yên Thế đứng lên đấu tranh chống Pháp.
* Diễn biến: Cuộc khởi nghĩa diễn ra qua 3 giai đoạn
- Gđ 1: 1884-1892: nghĩa quân hoạt động riêng rẽ,chưa có sự lãnh đạo thống nhất,hoatj
động mạnh nhất là nghĩa quân của Đề Nắm
- Gđ 2: 1893-1908: Do Đề Thám lãnh đạo,nghĩa quân vừa chiến đấu, vừa xây dựng cơ sở,
lực lượng .Đề Thám đã 2 lần phải xin giảng hoà với Pháp rồi chuẩn bị lương thực, quân
đội sẵn sàng chiến đấu và bắt liên lạc với các nhà yêu nước khác.
- Gđ 3: 1909-1913: Pháp tập trung lực lượng tấn công quy mô lớn lên Yên Thế, lực lượng
nghĩa quân bị hao mòn dần.
* Kết quả: 10.2.1913 Đề thám bị ám sát, phong trào tan rã.
* Nguyên nhân thất bại:
- Phong trào Cần Vương tan rã, TD Pháp có điều kiện để đàn áp KN Yên Thế.
- Lực lượng nghĩa quân gặp nhiều bất lợi: bị tiêu hao dần, bị khủng bố, mất tiếp tế, thủ
lĩnh thì bị ám sát.
- Do hạn chế của người lãnh đạo (giai cấp nông dân không có khả năng lãnh đạo cách
mạng)
* ý nghĩa: Thấy được khả năng lớn lao của giai cấp nông dân trong lịch sử đấu tranh của
dân tộc. Khẳng định truyền thống yêu nước, tinh thần bất khuất của nhân dân,tô thắm cho
trang sử chống ngoại xâm của nhân dân
Chủ đề 2: Trào lưu cải cách duy tân ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX.
1. Hoàn cảnh: Vào những năm 60 của TK XIX, Pháp mở rộng chương trình xâm lược
Nam Kì và chuẩn bị đánh chiếm cả nước ta. Trong khi đó triều đình Huế vẫn tiếp tục thực
hiện chính sách đối nội, ngoại giao lỗi thời, lạc hậu khiến cho kinh tế, XH Việt Nam
khủng hoảng nghiêm trọng. Bộ máy chính quyền từ TW xuống địa phương mục ruỗng.
Nông nghiệp,thủ công nghiệp, thương nghiệp đình trệ. Tài chính cạn kiệt, đời sống nhân
dân khó khăn,cực khổ. Mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc ngày càng gay gắt làm bùng
nổ các cuộc khởi nghĩa của nhân dân, binh lính, đẩy đất nướcvào tình trạng rối ren.
Trong bối cảnh đó, một số quan lại, sĩ phu yêu nước thức thời đã nhận thức được tình
hình đất nước, xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân, mong nuốn nước nhà giàu mạnh,
đủ sức tấn công kẻ thù nên họ đã mạnh dạn đưa ra những đề nghị cải cách, những yêu cầu
đổi mới trên tất cả các lĩnh cực việc nội trị, ngoại giao, kinh tế, văn hoá của nhà nước
phong kiến.
2. Cỏc ðề nghị cải cỏch
Tiêu biểu:
+ Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế xin mở cửa biển Trà Lý (Nam Định).
+ Đinh Văn Điền xin khai khẩn ruộng hoang, khai mỏ, phát triển buôn bán, chấn chỉnh
quốc phòng.
+ Viện Thương Bạc xin mở 3 cửa biển ở miền Bắc và Trung để thông thương với bên
ngoài.
+ Nguyễn Trường Tộ đã kiên trì gửi lên triều đình 30 bản điều trần đề cập đến một loạt
các vấn đề như: - Chấn chỉnh bộ máy quan lại,phát triển công thương nghiệp và tài
chính,chỉnh đốn võ bị ,mở rộng ngoại giao, cải tổ giáo dục.
+Nguyễn Lộ Trạch dâng 2 bản “Thời Vụ Sách” lên Vua Tự Đức đề nghị: Trấn hưng dân
khí, khai thông dân trí và bảo vệ đất nước.
Nội dung của các đề nghị cải cách đều mang tính chất tiến bộ, thiết thực, thúc đẩy sự đổi
mới và phát triển trong mọi lĩnh vực của nhà nước phong kiến.
3. Kết cục của những đề nghị cải cách.
- Ưu điểm: Trong bối cảnh bế tắc của xã hội phong kiến cuối TK XIX, các sĩ phu, quan lại
tiến bộ đã dũng cảm vượt qua những nghi kị ,hà khắc,bảo thủ thậm chí nguy hiểm đến
tính mạng để đưa ra những đề nghị cải cách nhằm canh tân đất nước, đáp ứng phần nào
những yêu cầu của nước ta lúc đó.
- Hạn chế:
Các đề nghị trên mang tính lẻ tẻ, rời rạc, chưa xuất phát từ cơ sở bên trong, chưa động
trạm đến vấn đề cơ bản của thời đại là giảI quyết 2 mâu thuẫn chủ yếu của XH Việt Nam
lúc đó là: Nông dân và PK và Nhân dân VN và TD Pháp.
- Kết cục: Những đề nghị cải cách đó không thực hiện được vì triều đình PK Nguyễn bảo
thủ, bất lực, không chấp nhận thay đổi, từ chối mọi đề nghị cảI cách,mặt khác nước ta
chưa đủ cơ sở về KT-XH . Các đề nghị không thực hiện được đã làm cản trở sự phát triển
của những tiền đề mới khiến cho xã hội chỉ luẩn quẩn trong vòng bế tắc của chế độ thuộc
địa nửa PK.
- ý nghĩa- tác dụng:
Dù không thành hiện thực nhưng những tư tưởng cải cách cuối TK XIX đã gây một tiếng
vang tấn công vào tư tưởng bảo thủ, lỗi thời PK, phản ánh trình độ nhận thức mới của
những người Việt Nam hiểu biết, thức thời, góp phần vào việc chuẩn bị cho sự ra đời của
phong trào Duy Tân ở Việt Nam ở đầu TK XX.