You are on page 1of 37

TIẾNG ANH TIẾNG VIỆT

3. Proving Materiality: Presumption of Materiality 3. Chứng minh tính trọng yếu: Giả định về tính trọng yếu
As previously mentioned, in a case of non-disclosure or Như đã đề cập ở trên, trong trường hợp có sự không tiết lộ
misrepresentation the insurer need not prove that the information thông tin hoặc cung cấp thông tin sai sự thật, doanh nghiệp bảo
in question would have been decisive of its underwriting hiểm không cần phải chứng minh rằng thông tin được đề cập sẽ
decision. It will suffice that a prudent insurer would have có ý nghĩa tiên quyết đối với quyết định bảo hiểm của doanh
considered the information in question in making its decision. nghiệp bảo hiểm. Quyết định bảo hiểm sẽ đủ để đáp ứng cho
[75] The materiality requirement appears to protect insureds by doanh nghiệp bảo hiểm xem xét thông tin được đề cập trong
limiting the insurer’s right of nullification to situations where việc đưa ra quyết định của mình.[75] Yêu cầu về tính trọng yếu
the information in question would have been relevant in the dường như để bảo vệ người được bảo hiểm bằng cách hạn chế
insurer’s underwriting decision. This is consistent with the quyền vô hiệu của công ty bảo hiểm trong những trường hợp mà
general rationale for insurance regulation, which tends to be thông tin được đề cập có thể có liên quan trong quyết định bảo
consumer-friendly.[76] The actual determination of whether hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm. Điều này phù hợp với cơ sở lý
particular facts are material to the insured risk, however, has luận chung về quy định bảo hiểm, có xu hướng thân thiện với
generally favoured insurers. Courts adopt a presumption of người tiêu dùng.[76] Tuy nhiên, việc xác định thực tế liệu các sự
materiality where an insurer asks a question. Where an insurer kiện cụ thể có quan trọng đối với rủi ro được bảo hiểm hay
would have behaved differently by accepting or declining the không, nhìn chung điều này là có lợi cho các doanh nghiệp bảo
risk even though other reasonable insurers would have done hiểm. Tòa án áp dụng giả định về tính trọng yếu khi doanh
otherwise or insured the risk on different terms, the issue of nghiệp bảo hiểm đưa ra yêu cầu. Trong trường hợp một doanh
materiality will be determined based on the insurer’s actual nghiệp bảo hiểm sẽ hành xử khác đi bằng cách chấp nhận hoặc

1
practice.[77] An insurer’s underwriting practice may giảm rủi ro mặc dù các công ty bảo hiểm khác sẽ làm khác hoặc
nevertheless be taken as evidence of the reasonable insurer bảo hiểm rủi ro theo các điều khoản khác nhau, thì vấn đề trọng
standard without requiring the insurer to adduce independent yếu sẽ được xác định dựa trên hoạt động thực tế của công ty bảo
evidence of that standard. Further, there need not be a hiểm.[77] Tuy nhiên, hoạt động bảo hiểm của các công ty bảo
correlation between the concealed or misrepresented fact and hiểm có thể được xem là bằng chứng về đủ tiêu chuẩn của công
materialization of the insured risk.[78] The rationale is that had ty bảo hiểm mà không yêu cầu công ty bảo hiểm viện dẫn thêm
there been proper representations, the insurance contract would bằng chứng độc lập về tiêu chuẩn đó. Hơn nữa, không cần phải
never have existed and the insurer would not have been liable có mối tương quan giữa thông tin bị che giấu hoặc cung cấp sai
for the loss.[79] These insurer-favourable positions undermine và cụ thể hoá rủi ro được bảo hiểm.[78] Cơ sở lý luận là nếu có
consumer protection and instead exacerbate the power sự cung cấp thông tin chính xác, hợp đồng bảo hiểm sẽ không
imbalance between insurers and insureds. bao giờ tồn tại và công ty bảo hiểm sẽ không phải chịu trách
nhiệm về tổn thất.[79] Những vị thế có lợi này của công ty bảo
hiểm đã làm suy yếu khả năng bảo vệ người tiêu dùng và thay
vào đó là sự mất cân bằng quyền lực trầm trọng giữa doanh
nghiệp bảo hiểm và người được bảo hiểm.
Canadian courts may accept an insurer’s own practice as Các tòa án Canada có thể chấp nhận hoạt động của riêng công
prima facie evidence of the reasonable insurer standard.[80] The ty bảo hiểm như là bằng chứng cơ bản về tiêu chuẩn hợp lý của
insurer is presumed to have acted as a reasonable insurer in its công ty bảo hiểm.[80] Công ty bảo hiểm được coi là đã hoạt
underwriting practice, which is assumed to be what other động như một công ty bảo hiểm hợp lý trong hoạt động bảo
reasonable insurers would do in assessing risks in similar hiểm của mình, điều nay được giả định rằng những gì các công

2
circumstances. Although courts have held that not all ty bảo hiểm hợp lý khác sẽ làm trong việc đánh giá rủi ro trong
information specifically requested in an application process will những trường hợp tương tự. Mặc dù các tòa án đã cho rằng
necessarily be material to the proposed risk, a further không phải tất cả các thông tin được yêu cầu cụ thể trong quá
presumption of materiality arises where an insurer seeks specific trình nộp đơn đều nhất thiết phải quan trọng đối với rủi ro được
information in the application process.[81] Answers to those đề xuất, nhưng sẽ được cho là tính trọng yếu phát sinh khi công
questions are deemed material to the insurer’s underwriting ty bảo hiểm tìm kiếm thông tin cụ thể trong quá trình đăng ký.
decision and consistent with the practice of reasonable insurers. [81] Câu trả lời cho những yêu cầu đó được coi là quan trọng
Once materiality in relation to concealed or misrepresented facts đối với quyết định bảo hiểm của công ty bảo hiểm và phù hợp
is established based on the prudent insurer test, “a presumption với thông lệ của các công ty bảo hiểm hợp lý. Một khi tính trọng
in favour of a causative effect” arises; that is, absent specific yếu liên quan đến các sự kiện bị che giấu hoặc bị cung cấp sai
evidence of the insurer’s actual practice to the contrary, there is được thiết lập dựa trên sự kiểm tra kỹ lưỡng của công ty bảo
a presumption that the breach induced the insurer to enter into hiểm, thì “một giả định có lợi cho một tác động nhân quả” phát
the contract.[82] Courts may make that determination simply sinh; nghĩa là, nếu không có bằng chứng cụ thể về hoạt động
based on evidence of the particular insurer’s practices, for thực tế của công ty bảo hiểm thì ngược lại, sẽ có một giả định
example from the testimony of its employees about the rằng hành vi vi phạm đã khiến công ty bảo hiểm giao kết hợp
company’s practices. In Henwood, where the only evidence đồng.[82] Tòa án có thể đưa ra quyết định chỉ đơn giản dựa trên
presented and accepted regarding the materiality of the bằng chứng về các hoạt động của công ty bảo hiểm cụ thể, ví dụ
undisclosed information was the testimony of the insurer’s own từ lời khai của nhân viên về các hoạt động của công ty. Tại
employees on the company’s underwriting practices, the Henwood, nơi bằng chứng duy nhất được trình bày và chấp nhận
majority of the Supreme Court of Canada stated: về tính trọng yếu của thông tin không được tiết lộ là lời khai của

3
Although the evidence of expert witnesses as to whether or chính nhân viên của công ty bảo hiểm về các hoạt động thẩm
not other insurance companies consider a question to be định của công ty, phần lớn Tòa án tối cao Canada tuyên bố:
“material,” is admissible and may be relevant in such a case as Mặc dù bằng chứng của các nhân chứng chuyên môn về
this, I do not think that when no evidence whatever has been việc các công ty bảo hiểm khác có xem “tính trọng yếu” là
adduced to suggest that the [insurer’s] practice is anything but một yêu cầu hay không, bằng chứng này có thể chấp nhận
reasonable, it is seized with the burden of proving the practice được và có thể có liên quan trong trường hợp như vậy, tôi
of other insurers.[83] không nghĩ rằng khi không có bằng chứng nào được đưa ra để
gợi ý rằng thông lệ của [công ty bảo hiểm] là bất cứ điều gì
nhưng hợp lý, nó bị thu giữ với nghĩa vụ chứng minh hoạt
động của các công ty bảo hiểm khác.[83]
Materiality, inducement and reasonableness of an insurer’s Tính trọng yếu, sự thuyết phục và sự hợp lý của hoạt động
underwriting practices are presumed unless the claimant proves bảo hiểm của công ty bảo hiểm được giả định trừ khi người yêu
otherwise, namely that the insurer’s practice is unreasonable or cầu bồi thường chứng minh khác, cụ thể là cách thức hoạt động
that it is inconsistent with the practice of other insurers.[84] This của công ty bảo hiểm là không hợp lý hoặc không phù hợp với
may be done, for example, by adducing evidence of an industry thông lệ của các công ty bảo hiểm khác.[84] Ví dụ như điều này
standard that is inconsistent with the insurer’s practice and/or có thể được thực hiện bằng cách bổ sung bằng chứng về tiêu
evidence of the insurer’s own practice that it does not consider chuẩn ngành không phù hợp với thông lệ của công ty bảo hiểm
such matters material. Further, the presumption can be rebutted và / hoặc bằng chứng về thực tiễn của chính công ty bảo hiểm
by the insured with evidence that the insurer would have insured rằng họ không coi những vấn đề đó là trọng yếu. Hơn nữa, giả
the risk notwithstanding that other insurers would not have or định có thể bị người được bảo hiểm bác bỏ với bằng chứng rằng

4
would have done so on different terms. công ty bảo hiểm sẽ bảo hiểm rủi ro mặc dù các công ty bảo
The test for materiality is applied in an abstract way without hiểm khác đã làm hoặc không làm như vậy với các điều khoản
consideration of an insured’s particular circumstances.[85] It is khác nhau.
assumed that an applicant can appreciate what a reasonable Việc kiểm tra tính trọng yếu được áp dụng một cách trừu
insurer will consider relevant. The Australian Law Reform tượng mà không cần xem xét đến hoàn cảnh cụ thể của người
Commission notes that while applicants for insurance will được bảo hiểm.[85] Người ta cho rằng người nộp đơn có thể
continue to have superior knowledge about some information đánh giá cao những gì mà một công ty bảo hiểm hợp lý sẽ cho là
material to the risk to be insured, for example in life insurance, có liên quan. Ủy ban Cải cách Luật pháp Úc lưu ý rằng, như
there is no doubt that the common law disclosure duty is in need trong bảo hiểm nhân thọ, mặc dù người nộp đơn đăng ký bảo
of modification. The current position requires more than utmost hiểm sẽ tiếp tục có kiến thức tốt hơn về một số tài liệu thông tin
good faith on the part of insureds and penalizes them for not về rủi ro được bảo hiểm, nhưng chắc chắn rằng nghĩa vụ công
appreciating the materiality of particular information regardless bố thông luật cần được sửa đổi. Tình huống hiện tại đòi hỏi sự
of a prudent insured’s perception of the relevance of the thiện chí tối đa từ phía người được bảo hiểm và tình huống này
information in question.[86] Again, persons with superior sẽ gây cản trở cho người được bảo hiểm vì đã không đánh giá
knowledge of the insurance system are likely to know what to cao tính trọng yếu của các thông tin cụ thể bất chấp sự thận
disclose. This could lead to the unfortunate situation where a trọng trong nhận thức của người được bảo hiểm về tính liên
person who has attempted to be responsible by insuring herself quan của các thông tin được đề cập.[86] Một lần nữa, những
and has acted in good faith ends up in a worse position than a người có kiến thức vượt trội về hệ thống bảo hiểm có khả năng
person who has not taken such measures, as she will have lost biết cần phải tiết lộ những gì. Điều này có thể dẫn đến tình
the opportunity to arrange her affairs differently. huống đáng tiếc khi một người cố gắng chịu trách nhiệm bằng

5
The presumption of materiality is problematic and unfair to cách tự bảo đảm cho bản thân và hành động có thiện chí sẽ rơi
the insured. It ignores the unequal access to expert evidence vào tình thế bất lợi hơn một người không thực hiện các biện
between insurers and insureds. Insurers are often in a better pháp đó, vì họ sẽ mất cơ hội sắp xếp công việc của mình theo
position to establish industry standards; they will likely choose cách khác.
their witnesses carefully, usually their own employees or others Giả định rằng tính trọng yếu là vấn đề khó giải quyết và
sympathetic to their position. Some insureds or beneficiaries không công bằng đối với người được bảo hiểm. Nó bỏ qua sự
may be able rebut the presumption of materiality and hence tiếp cận bất bình đẳng đối với bằng chứng bảo hiểm giữa người
avoid nullification of the contract, for instance where the bảo hiểm và người được bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm
evidence does not support subjective materiality. Such cases are thường ở vị thế tốt hơn để có thể thiết lập các tiêu chuẩn ngành;
likely rare.[87] Corporate or other wealthy insureds, on the other họ sẽ lựa chọn nhân chứng một cách cẩn thận, thường là nhân
hand, are more likely to be able to afford expert witnesses to viên của chính họ hoặc những người khác có đồng tình với họ.
contradict the insurer’s evidence of reasonableness. This, Một số người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng có thể bác
however, is out of reach for many individuals, especially those bỏ giả định về tính trọng yếu và do đó tránh việc huỷ hợp đồng,
from marginalized socio-economic backgrounds. It will often be ví dụ khi bằng chứng không ủng hộ tính trọng yếu. Những
unrealistic to expect an insured or beneficiary to gather the trường hợp như vậy sẽ hiếm khi xảy ra.[87] Mặt khác, các doanh
necessary evidence to contradict the insurer’s assertion of the nghiệp hoặc những người được bảo hiểm giàu có khác sẽ có
industry standard. Given the protectionist tendency of many nhiều khả năng được các chuyên gia thẩm định hỗ trợ chống lại
industries, it may also be difficult for the insured or beneficiary bằng chứng về tính hợp lý của công ty bảo hiểm. Tuy nhiên,
to actually get industry experts to challenge the insurer’s điều này nằm ngoài khả năng của nhiều cá nhân, đặc biệt là
position. As well, it may not be worthwhile, and indeed might be những người có hoàn cảnh kinh tế xã hội khó khăn. Thông

6
risky, for an insured to try to gather the necessary evidence thường, việc mong đợi một người được bảo hiểm hoặc người thụ
given that the expense involved can deplete the insurance money hưởng sẽ thu thập bằng chứng cần thiết để chống lại những xác
awarded even if they are successful in preventing the insurer nhận của công ty bảo hiểm về tiêu chuẩn ngành là điều không
from voiding the contract. Further hesitation may arise because thực tế. Do xu hướng bảo hộ của nhiều ngành công nghiệp,
the insured may be stuck with the substantial costs of such an người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng cũng khó có thể
investigation should its claim ultimately be unsuccessful. The mời được các chuyên gia thẩm định trong ngành để phản đối lại
insured or beneficiary is already vulnerable with the các công ty bảo hiểm. Đồng thời, việc người được bảo hiểm cố
materialization of the insured risk and would want to minimize gắng thu thập bằng chứng cần thiết có thể làm cạn kiệt số tiền
exposure to further risk of financial losses. This means that bảo hiểm được trao ngay cả khi họ thành công trong việc ngăn
subjective materiality would often be sufficient to discharge an chặn công ty bảo hiểm vô hiệu hợp đồng. Sự lưỡng lự hơn nữa
insurer’s burden under the objective insurer test, and that the có thể nảy sinh vì người được bảo hiểm có thể gặp khó khăn với
presumption of materiality will rarely be rebutted, even if the những chi phí đáng kể của cuộc điều tra như vậy nếu yêu cầu
insurer does not adduce evidence of the reasonableness of its của họ cuối cùng không thành công. Người được bảo hiểm hoặc
underwriting practices.[88] người thụ hưởng vốn đã dễ bị tổn thương với việc hiện thực hóa
rủi ro được bảo hiểm và muốn giảm thiểu rủi ro tiếp tục xảy ra
tổn thất tài chính. Điều này có nghĩa là tính trọng yếu chủ quan
thường đủ để giải phóng gánh nặng cho công ty bảo hiểm theo
In many cases, the industry standard, which is often phân tích khách quan của công ty bảo hiểm và giả định về tính
influenced not by the interests of consumers but by the self- trọng yếu sẽ hiếm khi bị bác bỏ, ngay cả khi công ty bảo hiểm
interest of insurance companies themselves, is accepted as không đưa ra bằng chứng về tính hợp lý của các hoạt động thẩm

7
reasonable practice without actually scrutinizing the định của mình.[88]
reasonableness of that practice. Even assuming there is evidence Trong nhiều trường hợp, tiêu chuẩn ngành, thường không bị
of the practice of other insurers, and hence an indication of what ảnh hưởng bởi lợi ích của người tiêu dùng mà bởi tư lợi của
a reasonable insurer would have done in the circumstances, it is chính các công ty bảo hiểm. Tiêu chuẩn ngành được chấp nhận
still problematic to presume that the industry practice is là thông lệ hợp lý mà không thực sự xem xét kỹ lưỡng tính hợp
reasonable and for a court not to independently determine the lý của thông lệ đó. Ngay cả khi giả sử có bằng chứng về hoạt
reasonableness of that practice. A truly prudent insurer would động của các công ty bảo hiểm khác, và do đó chỉ ra những gì
not necessarily follow an industry standard without thinking một công ty bảo hiểm hợp lý sẽ làm trong các tình huống đó,
about the reasonableness of that practice. This type of reliance vẫn còn vấn đề khi cho rằng hoạt động trong ngành là hợp lý và
on industry standards is inconsistent with the use of customary để tòa án không xác định một cách độc lập tính hợp lý. của thực
or professional standards to determine the standard of care in hành đó. Một công ty bảo hiểm thực sự thận trọng sẽ không nhất
negligence claims. Although courts are generally deferential to thiết phải tuân theo một tiêu chuẩn ngành mà không nghĩ đến
professional standards or customs of particular trades, they still tính hợp lý của thông lệ đó. Các dạng phụ thuộc vào tiêu chuẩn
need to be convinced that the standard itself is reasonable. There ngành không phù hợp với việc sử dụng các tiêu chuẩn thông
is a feeling that in the insurance context, courts are too thường hoặc chuyên nghiệp để xác định tiêu chuẩn chăm sóc
deferential to industry standards as evidence of what a prudent trong các khiếu nại do sơ suất. Mặc dù các tòa án thường tôn
insurer would have done, thereby giving an unjustifiably high trọng các tiêu chuẩn chuyên nghiệp hoặc tập quán của các ngành
amount of weight to such practices.[89] As well, allowing nghề cụ thể, họ vẫn cần phải được thuyết phục rằng bản thân
insurers to rely on their own practice as evidence of the industry tiêu chuẩn là hợp lý. Có lẽ trong bối cảnh bảo hiểm, các tòa án
standard, or to satisfy the reasonable insurer standard, gives quá coi trọng các tiêu chuẩn ngành để làm bằng chứng cho

8
undue deference to the underwriting practices of the particular những gì một công ty bảo hiểm sẽ làm, do đó đưa ra gánh nặng
insurer, ignores the inequality between insurers and insureds and không chính đáng cho các thông lệ như vậy.[89] Ngoài ra, việc
effectively turns the objective test of materiality into a cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm dựa vào thực tiễn của mình
subjective one. This is inconsistent with the purpose of the để làm bằng chứng cho tiêu chuẩn ngành, hoặc để đáp ứng tiêu
objective test as stated in Ontario Metal Products, where the chuẩn hợp lý của công ty bảo hiểm, đưa ra sự khác biệt quá mức
Privy Council noted that the focus of the inquiry should be on đối với các hoạt động bảo hiểm của một công ty bảo hiểm cụ
how the insurer would have used the undisclosed fact if it had thể, bỏ qua sự bất bình đẳng giữa doanh nghiệp bảo hiểm và
known of it. This position was adopted partly to address the người được bảo hiểm và chuyển đổi mục tiêu một cách hiệu quả
power imbalance between insurers and insureds, bearing in mind kiểm tra tính trọng yếu thành chủ quan. Điều này không phù hợp
that the former propounds the questions. với mục đích các khảo sát khách quan như đã nêu trong Ontario
Metal Products, trong đó Hội đồng Cơ mật lưu ý rằng trọng tâm
4. Remedies for Breach of Disclosure Duty của cuộc điều tra phải là cách công ty bảo hiểm sẽ sử dụng
thông tin chưa được tiết lộ nếu họ biết về nó. Lập trường này đã
When breach of the disclosure duty is discovered within the được thông qua một phần để giải quyết sự mất cân bằng quyền
first two years of the contract or reinstatement of a life or lực giữa công ty bảo hiểm và người được bảo hiểm, lưu ý rằng
accident insurance policy, an insurer is entitled to void the vị trí này đã đặt ra các câu hỏi.
contract ab initio and return the premiums plus interest. No 4. Các biện pháp khắc phục vi phạm nghĩa vụ công bố
relief against forfeiture can be granted in respect of breach of the thông tin
disclosure duty because it does not involve post-loss breaches of Khi vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin được phát hiện trong
contractual terms.[90] Under the incontestability principle, an vòng hai năm đầu tiên của hợp đồng hoặc việc khôi phục hợp

9
insurer is not entitled to nullification after two years of the đồng bảo hiểm nhân thọ hoặc bảo hiểm tai nạn, doanh nghiệp
coming into force or reinstatement of the contract unless fraud is bảo hiểm có quyền vô hiệu hợp đồng ban đầu và trả lại phí bảo
established.[91] An insurer who discovers breach of the hiểm cộng với tiền lãi. Không có biện pháp giảm nhẹ nào được
disclosure duty within the first two years may also choose to áp dụng đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ tiết lộ thông tin vì nó
waive the breach and revise the terms of the contract in light of không liên quan đến việc vi phạm các điều khoản hợp đồng sau
the facts in question, for example, by adjusting premiums or the tổn thất.[90] Theo nguyên tắc không thể kiểm chứng được, công
coverage amount, or by excluding certain risks. Further, an ty bảo hiểm không có quyền vô hiệu sau hai năm kể từ khi hợp
insurer may ignore the breach and continue to provide coverage đồng có hiệu lực hoặc khôi phục hợp đồng trừ khi có gian lận.
on the same terms as the original contract as if no breach of the [91] Một công ty bảo hiểm phát hiện ra vi phạm nghĩa vụ tiết lộ
disclosure duty had occurred. The last scenario is highly trong vòng hai năm đầu tiên cũng có thể chọn từ bỏ vi phạm và
unlikely to occur but when it does, can give rise to waiver or sửa đổi các điều khoản của hợp đồng dựa trên các sự kiện được
estoppel. The second scenario is equally unlikely in the context đề cập, ví dụ, bằng cách điều chỉnh phí bảo hiểm hoặc số tiền
of personal insurance contracts. For the most part, breach of the bảo hiểm, hoặc bằng cách loại trừ rủi ro nhất định. Hơn nữa, một
disclosure duty becomes evident after loss has occurred and a công ty bảo hiểm có thể bỏ qua vi phạm và tiếp tục cung cấp bảo
claim is made. Given the option of voiding the contract ab initio hiểm theo các điều khoản tương tự như hợp đồng ban đầu như
and limiting the insurer’s liability to the return of premiums paid thể không có vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin đã xảy ra.
plus interest, it is unlikely an insurer will voluntarily opt for the Kịch bản cuối cùng rất khó xảy ra nhưng khi nó xảy ra, có thể
higher liability by providing benefits based on a revised làm phát sinh sự miễn trừ hoặc phản đối. Kịch bản thứ hai cũng
contract. Thus, the more likely scenario in instances of personal khó xảy ra trong bối cảnh hợp đồng bảo hiểm cá nhân. Phần lớn,
insurance contracts is for insurers to void the contract and avoid việc vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin trở nên rõ ràng sau khi

10
any liability. xảy ra tổn thất và yêu cầu bồi thường. Với lựa chọn vô hiệu hợp
đồng ban đầu và giới hạn trách nhiệm của công ty bảo hiểm đối
với việc hoàn trả phí bảo hiểm đã trả cộng với lãi suất, không có
The incontestability principle will often protect insureds khả năng công ty bảo hiểm sẽ tự nguyện lựa chọn trách nhiệm
against the harshness of nullification in relation to innocent cao hơn bằng cách cung cấp các quyền lợi dựa trên hợp đồng đã
breaches of the disclosure duty. The risk of nullification is real, sửa đổi. Do đó, kịch bản dễ xảy ra hơn trong các trường hợp của
however, where loss occurs within the first two years of the hợp đồng bảo hiểm cá nhân là các công ty bảo hiểm sẽ vô hiệu
contract or reinstatement. It has also been argued, at least in one hợp đồng và từ chối mọi trách nhiệm pháp lý.
case, that in the context of policies that are renewed annually, a Nguyên tắc không thể kiểm chứng thường sẽ bảo vệ người
new disclosure duty arises with each renewal, thereby creating a được bảo hiểm chống lại sự khắc khe của việc vô hiệu hóa liên
perpetual obligation to disclose changes to insurability.[92] quan đến các vô ý vi phạm nghĩa vụ tiết lộ, công bố thông tin.
Thus, the incontestability principle may be of no benefit for Tuy nhiên, khả năng vô hiệu hóa là có thật, khi tổn thất xảy ra
insureds where the policy is renewed annually. An argument trong vòng hai năm đầu tiên của hợp đồng hoặc trong việc khôi
could be made for requiring a higher standard for nullification, phục hợp đồng. Cũng có lập luận cho rằng, ít nhất là trong
such as fraudulent intent or wilful concealment, when the insurer trường hợp bối cảnh các chính sách được gia hạn hàng năm, một
did not specifically request the information in question and the nghĩa vụ công bố mới sẽ phát sinh với mỗi lần gia hạn, do đó tạo
applicant’s silence was not deliberately intended to induce the ra nghĩa vụ vĩnh viễn để tiết lộ những thay đổi đối với khả năng
contract as is the case where a contract has been in effect for at bảo hiểm.[92] Do đó, nguyên tắc không thể kiểm chứng có thể
least two years. không có lợi cho người được bảo hiểm khi chính sách được gia
hạn hàng năm. Một lập luận có thể được đưa ra để yêu cầu một

11
tiêu chuẩn cao hơn để vô hiệu hợp đồng, chẳng hạn như ý định
Insureds under individual insurance contracts may also be khai báo sai hoặc cố ý che giấu, khi công ty bảo hiểm không yêu
disadvantaged compared to those under group policies. Those cầu cụ thể thông tin được đề cập và sự im lặng của người nộp
insured under group insurance policies do not risk nullification đơn không cố ý nhằm gây ra hợp đồng như trường hợp hợp đồng
for breach of the disclosure duty in respect of evidence of đã có hiệu lực ít nhất hai năm.
insurability not specifically requested by the insurer. Coverage Người được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm cá nhân cũng
may be provided under group policies without the requirement có thể bị thiệt thòi so với người được bảo hiểm theo hợp đồng
of individual insurability of the lives insured.[93] This bảo hiểm nhóm. Những người được bảo hiểm theo hợp đồng bảo
eliminates the possibility of nullification for misrepresentation hiểm nhóm không có nguy cơ bị vô hiệu hợp đồng do vi phạm
or non-disclosure where the insured is eligible for group nghĩa vụ công bố thông tin liên quan đến bằng chứng về khả
coverage. Individual insurability would only be relevant in năng bảo hiểm mà công ty bảo hiểm không yêu cầu cụ thể.
respect of excess insurance beyond that offered by the group Phạm vi bảo hiểm có thể được cung cấp theo các chính sách
policy. An insurer can void the excess coverage for non- nhóm mà không cần yêu cầu về khả năng bảo hiểm của cá nhân
disclosure but not the basic coverage provided under the group đối với bảo hiểm nhân thọ.[93] Điều này giúp loại bỏ khả năng
policy.[94] Moreover, the contract for excess coverage in vô hiệu hợp đồng do khai báo sai hoặc không tiết lộ, công bố
respect of that person is not voidable where the breach in thông tin trong trường hợp người được bảo hiểm đủ điều kiện
question relates to information not specifically requested. The nhận bảo hiểm theo nhóm. Khả năng bảo hiểm cá nhân sẽ chỉ có
contract is voidable, however, where the evidence of insurability liên quan đối với bảo hiểm vượt quá mức bảo hiểm được cung
in question was specifically requested, subject to incontestability cấp bởi chính sách nhóm. Công ty bảo hiểm có thể vô hiệu phạm
for contracts that have been in effect for at least two years.[95] vi bảo hiểm vượt quá do không tiết lộ, công bố thông tin nhưng

12
Nothing should preclude application of this principle in relation không phải là phạm vi bảo hiểm cơ bản được cung cấp theo
to individual insurance contracts. The current position raises chính sách nhóm.[94] Hơn nữa, hợp đồng đối với phạm vi bảo
issues of inequalities as it privileges those insured under group hiểm vượt quá đối với người đó không bị vô hiệu nếu vi phạm
policies, which may be unavailable to certain members of được đề cập liên quan đến thông tin không được yêu cầu cụ thể.
society such as those from disadvantaged socio-economic Tuy nhiên, hợp đồng là vô hiệu, khi bằng chứng về khả năng
backgrounds including persons with non- standard jobs, the bảo hiểm được đề cập được yêu cầu cụ thể, tùy thuộc vào sự
unemployed and persons in receipt of income assistance.[96] không thể kiểm chứng đối với các hợp đồng đã có hiệu lực trong
ít nhất hai năm.[95] Không có gì ngăn cản việc áp dụng nguyên
tắc này liên quan đến hợp đồng bảo hiểm cá nhân. Vị trí hiện tại
đặt ra các vấn đề bất bình đẳng vì nó đặc quyền cho những
Nullification and return of premiums to the insured is người được bảo hiểm theo chính sách nhóm, có thể không có sẵn
intended to restore the parties to the position they would have cho một số thành viên của xã hội như những người có hoàn cảnh
been in absent the insured’s breach of the disclosure duty. While kinh tế xã hội khó khăn bao gồm những người có công việc lao
this is technically true, it does not meet the reasonable động truyền thống, người thất nghiệp và người nhận được hỗ trợ
expectations of insureds or beneficiaries, nor does it reflect the thu nhập.
purpose of an insurance contract, where the breach was Mục đích của việc hủy bỏ và trả lại phí bảo hiểm cho người
innocent. Nullification disproportionately benefits insurers to the được bảo hiểm là để đưa các bên trở lại vị thế ban đầu nếu người
detriment of insureds. Such an outcome is particularly được bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ tiết lộ. Mặc dù điều này đúng
problematic where the insurer would likely have provided some về mặt kỹ thuật, nhưng nó không đáp ứng được kỳ vọng hợp lý
coverage but on different terms, whether based on the prudent của người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng, cũng như

13
insurer test or subjective materiality. Nonetheless, where no không phản ánh mục đích của hợp đồng bảo hiểm, khi mà hành
coverage would have been provided with full disclosure or vi vi phạm là vô ý. Việc vô hiệu mang lại lợi ích cho công ty bảo
accurate representations, then nullification is unavoidable. As hiểm một cách bất tương xứng với việc gây thiệt hại cho người
unfortunate as this might be, if no insurer would have insured được bảo hiểm. Kết quả như vậy đặc biệt có vấn đề khi công ty
the risk in question, then this will be the only justifiable solution bảo hiểm có thể đã cung cấp một số bảo hiểm nhưng theo các
to avoid endangering the contractual freedom of insurers, điều khoản khác nhau, cho dù dựa trên kiểm tra thận trọng của
actuarial equity and the overall sustainability of the insurance công ty bảo hiểm hay trọng yếu chủ quan. Tuy nhiên, nếu không
system. The insureds or beneficiaries, who have arguably been có phạm vi bảo hiểm nào được cung cấp thông tin đầy đủ hoặc
responsible by obtaining insurance in the first place, might still trình bày chính xác, thì việc vô hiệu hóa là điều khó tránh khỏi.
be worse off because had they known they could not obtain Điều đáng tiếc là nếu không có công ty bảo hiểm nào đứng ra
insurance for the risk in question, they might have arranged their bảo hiểm rủi ro được đề cập, thì đây sẽ là giải pháp chính đáng
affairs differently to minimize the financial disruption for duy nhất để tránh gây nguy hiểm cho quyền tự do hợp đồng của
themselves and their families. The illusion of insurance các công ty bảo hiểm, vốn chủ sở hữu tính toán và tính bền vững
protection would have robbed them of that opportunity. This chung của hệ thống bảo hiểm. Người được bảo hiểm hoặc người
could be seen as undermining the social policy in favour of thụ hưởng, những người được cho là chịu trách nhiệm về việc
encouraging individuals to insure themselves against risks and a mua bảo hiểm ngay từ đầu, vẫn có thể bị thiệt thòi hơn vì họ biết
source of disappointment. Notwithstanding this concern, rằng họ không thể mua bảo hiểm cho rủi ro được đề cập, họ có
insurance is ultimately a business and insurers should not be thể đã sắp xếp công việc của mình theo cách khác để giảm thiểu
compelled to assume risks that they otherwise would not have. sự gián đoạn tài chính cho bản thân và gia đình họ. Ảo tưởng về
Where non-disclosure was innocent and it could have been sự bảo vệ của bảo hiểm lẽ ra đã cướp đi cơ hội đó của họ. Điều

14
discovered with due diligence on the part of the insurer, này có thể được coi là phá hoại chính sách xã hội ủng hộ việc
however, the loss of opportunity to find alternative protections khuyến khích các cá nhân tự bảo vệ mình trước những rủi ro và
should be compensable. nguồn gốc của sự thất vọng. Bất chấp mối quan tâm này, bảo
hiểm cuối cùng vẫn là một công việc kinh doanh và các công ty
bảo hiểm không nên bắt buộc phải chấp nhận những rủi ro mà
5. Proposed Solutions nếu không, họ sẽ không có. Tuy nhiên, nếu việc không tiết lộ
A) Reforming the Materiality Test thông tin là vô ý và doanh nghiệp bảo hiểm có thể phát hiện ra
Rather than using the reasonable insurer test to determine việc này với sự thẩm định giải trình, việc mất cơ hội tìm kiếm
materiality, Canadian common law should adopt a modified các biện pháp bảo vệ thay thế sẽ được bồi thường.
objective test that focuses on the reasonable insured. The 5. Các giải pháp được đề xuất
question to be asked is how a reasonable person in the insured’s A) Cải cách Kiểm tra tính trọng yếu
position – with, for instance, the same level of education, Thay vì sử dụng bài kiểm tra hợp lý của nhà bảo hiểm để xác
experience with insurance contracts or cultural background - định tính trọng yếu, thông luật Canada áp dụng một bài kiểm tra
would have understood materiality, and what information would khách quan sửa đổi tập trung vào đối tượng được bảo hiểm hợp
she or he have considered relevant and hence expect to have lý. Câu hỏi được đặt ra là làm thế nào một người hợp lý ở vị trí
been disclosed in the circumstances. The determination would của người được bảo hiểm - chẳng hạn, có cùng trình độ học vấn,
be made in light of factors such as the nature of the insurance kinh nghiệm với các hợp đồng bảo hiểm hoặc nền tảng văn hóa -
contract, the circumstances in which protection is sought, and có thể hiểu được tính trọng yếu và thông tin nào mà người đó
the extent and amount of coverage desired. For instance, where a cho là có liên quan và do đó đã được tiết lộ trong các trường
reasonable person would have sought expert advice on a certain hợp. Việc xác định sẽ được thực hiện dựa trên các yếu tố như

15
matter, failure to do so would be unreasonable. The onus of bản chất của hợp đồng bảo hiểm, các trường hợp cần bảo vệ,
proving bad faith should be on an insurer alleging breach.[97] A phạm vi và số lượng bảo hiểm mong muốn. Ví dụ, khi một
consequence of the modified objective standard is that evidence người hợp lý sẽ tìm kiếm lời khuyên của chuyên gia về một vấn
of the insured’s actual knowledge or appreciation of the đề nào đó, nếu không làm như vậy sẽ là không hợp lý. Nguyên
materiality of the information in the particular circumstances nhân của việc chứng minh không có thiện chí sẽ thuộc về công
would not be ignored. Failure to disclose or make accurate ty bảo hiểm cáo buộc vi phạm.[97] Hệ quả của tiêu chuẩn khách
representations of that information would constitute breach of quan được sửa đổi là bằng chứng về kiến thức thực tế của người
the disclosure duty, but the applicant would not be penalized for được bảo hiểm hoặc đánh giá cao tính trọng yếu của thông tin
not appreciating the materiality of the information where a trong các trường hợp cụ thể sẽ không bị bỏ qua. Việc không tiết
reasonable person in her or his situation would not have lộ hoặc trình bày chính xác thông tin đó sẽ cấu thành vi phạm
considered it material. Such an approach would be similar to the nghĩa vụ tiết lộ, nhưng người nộp đơn sẽ không bị phạt vì không
modified objective test for ascertaining causation in medical đánh giá cao tính trọng yếu của thông tin mà một người hợp lý
malpractice cases.[98] trong hoàn cảnh của họ sẽ không coi nó là quan trọng. Cách tiếp
The reasonable insured test strikes a fair balance between the cận như vậy sẽ tương tự như bài kiểm tra khách quan đã được
interests of insureds and insurers by limiting breaches of the sửa đổi để xác định nguyên nhân trong các trường hợp sơ suất y
disclosure duty to situations where a reasonable insured so tế.[98]
placed would have considered the information material. This
would include information that the person is subjectively aware Thử nghiệm được bảo hiểm hợp lý tạo ra sự cân bằng công
would be considered material. Such a position would more bằng giữa lợi ích của người được bảo hiểm và người bảo hiểm
accurately reflect the reality of what is known and ought to be bằng cách hạn chế việc vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin đối

16
expected from applicants for insurance. The objective test would với các tình huống mà người được bảo hiểm hợp lý được đặt
not favour all insureds. It would, however, generally protect như vậy sẽ xem xét tài liệu thông tin. Điều này sẽ bao gồm
those who act reasonably, even if their conduct is not necessarily thông tin mà người đó nhận thức được một cách chủ quan sẽ
what the prudent insurer would expect in the circumstances. được coi là quan trọng. Một vị trí như vậy sẽ phản ánh chính xác
hơn thực tế về những gì đã biết và nên mong đợi từ những người
nộp đơn xin bảo hiểm. Bài kiểm tra khách quan sẽ không có lợi
B) Remedial Solutions cho tất cả những người được bảo hiểm. Tuy nhiên, nó nói chung
The nullification remedy is unfair and would appear to sẽ bảo vệ những người có hành động hợp lý, ngay cả khi hành vi
undermine the insurer’s duty of utmost good faith when there is của họ không nhất thiết là điều mà công ty bảo hiểm thận trọng
evidence that prudent insurers or the particular insurer would mong đợi trong các trường hợp.
have provided some coverage but on different terms, or where B) Giải pháp khắc phục hậu quả
the breach was innocent. A more reasonable position would be Biện pháp khắc phục hậu quả vô hiệu là không công bằng và
to vary the coverage provided by taking into account the có vẻ như sẽ làm giảm giá trị nghĩa vụ của công ty bảo hiểm khi
evidence of insurability now known to the insurer, especially có bằng chứng cho thấy các công ty bảo hiểm thận trọng hoặc
where the breach was innocent even if loss results from the công ty bảo hiểm cụ thể đã cung cấp một số khoản bảo hiểm
undisclosed risk. This is essentially the approach required by nhưng theo các điều khoản khác hoặc trong trường hợp hành vi
statute with respect to misstatements of age.[99] This option vi phạm là vô ý. Một quan điểm hợp lý hơn sẽ là thay đổi phạm
would be possible even if loss has already occurred. vi bảo hiểm được cung cấp bằng cách tính đến bằng chứng về
Presumably, where insurers are prevented from voiding the khả năng bảo hiểm mà công ty bảo hiểm hiện đã biết, đặc biệt là
contract, for example due to the incontestability principle, they khi hành vi vi phạm là vô tội ngay cả khi tổn thất do rủi ro

17
will likely revise the terms of the contract to reflect what they không được tiết lộ. Về cơ bản, đây là cách tiếp cận theo yêu cầu
would have provided had there been no breach of the disclosure của luật liên quan đến các sai sót về độ tuổi.[99] Tùy chọn này
duty. Such a position does not undermine the duty of good faith có thể thực hiện được ngay cả khi tổn thất đã xảy ra. Có lẽ, khi
nor does it detrimentally affect the interest of other các công ty bảo hiểm bị ngăn cản việc vô hiệu hợp đồng, chẳng
policyholders and the viability of the insurance industry because hạn do nguyên tắc không thể kiểm soát được, họ có thể sẽ sửa
the breach at issue was innocent. đổi các điều khoản của hợp đồng để phản ánh những gì họ đã
cung cấp nếu không vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin. Vị trí
Furthermore, the availability of nullification should be limited như vậy không làm suy yếu nghĩa vụ thiện chí cũng như không
to cases of fraudulent non-disclosure or misrepresentation out of ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích của các chủ hợp đồng bảo hiểm
fairness to insureds. There is precedent for this idea in other khác và khả năng tồn tại của ngành bảo hiểm vì vi phạm được
areas of insurance. The common law rules of absolute disclosure đề cập là vô tội.
and nullification for both deliberate and innocent breaches have Hơn nữa, khả năng vô hiệu hóa nên được giới hạn trong các
been modified by statute in relation to certain types of insurance trường hợp gian lận không tiết lộ hoặc trình bày sai lệch không
contracts. For example, although misrepresentation in fire công bằng cho người được bảo hiểm. Đã có tiền lệ cho ý tưởng
insurance entitles the insurer to void the contract regardless of này trong các lĩnh vực bảo hiểm khác. Các quy tắc thông luật về
the insured’s state of mind, a right of nullification arises in tiết lộ tuyệt đối và vô hiệu đối với cả vi phạm cố ý và vô tội đã
relation to non-disclosure only where the omission was được sửa đổi theo luật liên quan đến một số loại hợp đồng bảo
fraudulent. Actual fraud is required.100 As well, a hiểm. Ví dụ: mặc dù việc trình bày sai trong bảo hiểm hỏa hoạn
misrepresentation or non-disclosure in automobile insurance cho phép công ty bảo hiểm vô hiệu hợp đồng bất kể trạng thái
only entitles an insurer to void the contract if the misstatement của người được bảo hiểm như thế nào, quyền vô hiệu chỉ phát

18
was knowingly made or omitted. Although this need not include sinh liên quan đến việc không tiết lộ khi sự thiếu sót là gian dối.
an intention to deceive the insurer, the insured must have been Cần có gian lận thực tế.[100] Ngoài ra, việc trình bày sai hoặc
aware that the information was inaccurate.101 Commenting on không tiết lộ trong bảo hiểm ô tô chỉ cho phép công ty bảo hiểm
the test for automobile insurance, Norwood and Weir note: hủy hợp đồng nếu sai sót đã được cố ý thực hiện hoặc bỏ qua.
“...the test goes to the state of mind of the insured in consciously Mặc dù điều này không cần thiết phải có ý định lừa dối công ty
failing to convey facts that the insured knows about to the bảo hiểm, nhưng người được bảo hiểm phải biết rằng thông tin
insurer...”102 đó là không chính xác.[101] Nhận xét về bài kiểm tra bảo hiểm
Critics have expressed concerns about making such a ô tô, Norwood và Weir lưu ý: “... bài kiểm tra đi vào trạng thái
distinction in the context of personal insurance contracts của tâm trí của người được bảo hiểm khi cố ý không truyền đạt
because, among other things, it may not be entirely clear những sự kiện mà người được bảo hiểm biết cho người bảo hiểm
whether a particular situation constitutes non- disclosure or ... ”[102]
misrepresentation. Some situations may be characterized in the Các nhà phê bình đã bày tỏ lo ngại về việc phân biệt như vậy
alternative as non-disclosure or misrepresentation, thereby trong bối cảnh hợp đồng bảo hiểm cá nhân bởi vì, trong số
making it difficult to determine when an insurer is entitled to những điều khác, có thể không hoàn toàn rõ ràng liệu một tình
void a contract.103 As well, it may be difficult to determine ex huống cụ thể có cấu thành hành vi không tiết lộ hoặc trình bày
post facto whether non-disclosure was innocent or sai hay không. Một số tình huống có thể được mô tả trong
fraudulent.104 This casts an onerous duty on insurers who have phương án thay thế là không tiết lộ hoặc trình bày sai, do đó gây
to prove fraud. These concerns, however, may not be entirely khó khăn cho việc xác định thời điểm công ty bảo hiểm có
justified. Since both misrepresentation and fraudulent non- quyền hủy hợp đồng.[103] Ngoài ra, có thể khó xác định xem
disclosure entitle the insurer to void the contract, the significant việc không tiết lộ có vô tội hay không. hoặc gian lận.[104] Điều

19
inquiry would often be whether there has been an innocent or này đặt ra một nhiệm vụ khó khăn đối với các công ty bảo hiểm,
fraudulent concealment. Some situations will clearly give rise to những người phải chứng minh hành vi gian lận. Tuy nhiên,
strong indications of fraud, for example, failure to disclose an những lo ngại này có thể không hoàn toàn chính đáng. Vì cả
obviously material fact. Even in equivocal cases, courts can việc trình bày sai và không tiết lộ gian lận đều cho phép công ty
make inferences from the nature of the information, the type of bảo hiểm vô hiệu hợp đồng, nên cuộc điều tra quan trọng thường
insurance, as well as the circumstances in question.105 Courts là liệu có sự che giấu vô tội hay gian dối hay không. Một số tình
are able to make the distinction in relation to fire insurance huống rõ ràng sẽ làm phát sinh các dấu hiệu gian lận mạnh mẽ,
where the nullification option is limited to fraudulent non- chẳng hạn như việc không tiết lộ sự thật rõ ràng là quan trọng.
disclosure. There is no reason why such a distinction cannot be Ngay cả trong các trường hợp tương đương, các tòa án có thể
made in the context of personal insurance contracts. đưa ra suy luận từ bản chất của thông tin, loại bảo hiểm, cũng
6. Lessons from Other Jurisdictions như các trường hợp được đề cập.[105] Tòa án có thể phân biệt
Similar questions regarding the efficacy of the requirement liên quan đến bảo hiểm hỏa hoạn trong đó tùy chọn vô hiệu
and test of materiality, and the unfairness of the nullification được giới hạn ở hành vi gian lận. không tiết lộ. Không có lý do
remedy, have arisen in other jurisdictions. In some US gì mà không thể phân biệt như vậy trong bối cảnh hợp đồng bảo
jurisdictions, nullification is not available to insurers as a hiểm cá nhân.
remedy in cases of innocent non-disclosure.106 Segalla and 6. Bài học từ các cơ quan tài phán khác
Parks have observed that US courts are more sympathetic to Các câu hỏi tương tự liên quan đến hiệu quả của yêu cầu và
plaintiffs in cases of non-disclosure where the insurer did not kiểm tra tính trọng yếu cũng như tính không công bằng của biện
specifically request the information in question and could have pháp hủy bỏ hiệu lực, đã phát sinh ở các khu vực pháp lý khác.
obtained it from other sources.107 The current law in the UK is Ở một số khu vực pháp lý của Hoa Kỳ, việc vô hiệu hóa không

20
similar to the Canadian position in that insurers may void an có sẵn cho các công ty bảo hiểm như một biện pháp khắc phục
insurance contract for an innocent breach of the disclosure duty. trong các trường hợp không tiết lộ vô tội.[106] Segalla và Parks
Yet, in practice, the absolute position may not always prevail. đã nhận thấy rằng các tòa án Hoa Kỳ thông cảm hơn với nguyên
The UK Financial Ombudsman Service (FOS),108 the agency đơn trong các trường hợp không tiết lộ mà công ty bảo hiểm
that hears most consumer insurance disputes, does not insist on a không yêu cầu cụ thể thông tin được đề cập và có thể lấy từ các
voluntary disclosure duty; there will be no finding of breach of nguồn khác.[107] Luật hiện hành ở Vương quốc Anh tương tự
that duty where the insurer did not specifically request that như quan điểm của Canada trong đó các công ty bảo hiểm có thể
information.109 Since the FOS does not permit insurers to void vô hiệu hợp đồng bảo hiểm do vi phạm vô tội nghĩa vụ tiết lộ.
contracts for failure to provide information not specifically Tuy nhiên, trong thực tế, vị trí tuyệt đối có thể không phải lúc
requested,110 the issue of good or bad faith non-disclosure does nào cũng chiếm ưu thế. Cơ quan Thanh tra Tài chính Vương
not arise. The focus of claims before the FOS is on the nature of quốc Anh (FOS), [108] cơ quan xét xử hầu hết các tranh chấp
responses provided by the insured to questions asked by the bảo hiểm người tiêu dùng, không nhấn mạnh vào nghĩa vụ tiết lộ
insurer in the application process. Even in the context of tự nguyện; Sẽ không có phát hiện vi phạm nghĩa vụ đó khi công
misrepresentations, the FOS does not adopt an absolute rule. ty bảo hiểm không yêu cầu cụ thể thông tin đó.[109] Vì FOS
Only deliberate or reckless misrepresentation entitles an insurer không cho phép các công ty bảo hiểm vô hiệu hợp đồng do
to void the contract but not an innocent misstatement. Where không cung cấp thông tin không được yêu cầu cụ thể, [110] vấn
misrepresentation was inadvertent, the FOS will order a đề về lòng tin tốt hay xấu không tiết lộ không phát sinh. Trọng
variation of the contract to reflect the policy that the insurer tâm của các khiếu nại trước FOS là bản chất của các câu trả lời
would have issued absent the misrepresentation.111 của người được bảo hiểm đối với các câu hỏi mà công ty bảo
hiểm đặt ra trong quá trình nộp đơn. Ngay cả trong bối cảnh

21
trình bày sai lệch, FOS không áp dụng một quy tắc tuyệt đối.
Furthermore, the Association of British Insurers has urged its Chỉ có sự trình bày sai một cách cố ý hoặc thiếu thận trọng mới
members to ask clear questions about factors they consider cho phép công ty bảo hiểm làm mất hiệu lực của hợp đồng
material in their underwriting process and suggested they should nhưng không phải là một sai sót vô tội. Trong trường hợp vô
only rely on inaccurate or incomplete answers to those questions tình trình bày sai, FOS sẽ ra lệnh thay đổi hợp đồng để phản ánh
to void policies.112 Courts have also noted the unfairness to chính sách mà công ty bảo hiểm sẽ ban hành nếu không có
insureds in allowing insurers to void a contract for non- thông tin sai lệch.[111]
disclosure of information not specifically requested, noting that Hơn nữa, Hiệp hội các công ty bảo hiểm Anh đã kêu gọi các
insurers should ask for specific information if they consider it thành viên đặt câu hỏi rõ ràng về các yếu tố mà họ coi là trọng
important in making their underwriting decision.113 The yếu trong quá trình bảo lãnh phát hành và đề nghị họ chỉ nên
England and Scottish Law Commissions support a consumer- dựa vào những câu trả lời không chính xác hoặc không đầy đủ
favourable regime, as reflected in their recent report and draft cho những câu hỏi đó để làm mất hiệu lực của hợp đồng.[112]
Bill on consumer insurance contracts. Among other things, the Tòa án cũng đã lưu ý đến sự không công bằng đối với người
Commissions recommend abolition of the prudent insurer test được bảo hiểm trong việc cho phép công ty bảo hiểm vô hiệu
for materiality in favour of a reasonable insured test, duty on hợp đồng vì không tiết lộ thông tin không được yêu cầu cụ thể,
insured to volunteer information, and adoption of an insured’s lưu ý rằng các công ty bảo hiểm nên hỏi thông tin cụ thể nếu họ
duty to take reasonable care not to misrepresent information and cho rằng điều đó là quan trọng trong việc đưa ra quyết định bảo
the proportionality rule in cases of innocent breaches.114 Some lãnh phát hành.[113] Ủy ban pháp luật Anh và Scotland ủng hộ
courts have also expressed support for the proportionality chế độ có lợi cho người tiêu dùng , như được phản ánh trong báo
rule.115 cáo gần đây của họ và dự thảo Dự luật về các hợp đồng bảo

22
hiểm tiêu dùng. Trong số những điều khác, Ủy ban khuyến nghị
bãi bỏ kiểm tra nhà bảo hiểm thận trọng về tính trọng yếu để
The Australian solution appears sound and worth emulating. chuyển sang kiểm tra được bảo hiểm hợp lý, nghĩa vụ của người
The Australian Insurance Contracts Act (ICA) codifies the được bảo hiểm đối với thông tin tình nguyện và chấp nhận nghĩa
common law duty of disclosure owed by applicants for vụ của người được bảo hiểm để có sự cẩn thận hợp lý để không
insurance but narrows the scope of that duty, focusing on what xuyên tạc thông tin và quy tắc tương xứng trong các trường hợp
the insured knew or a reasonable person in her or his situation vi phạm vô tội.[114] Một số tòa án cũng đã bày tỏ sự ủng hộ đối
would be expected to know is relevant to the assessment of risk. với quy tắc tương xứng.[115]
Section 21 of the ICA obliges an insured to disclose “every Giải pháp của Úc xuất hiện âm thanh và đáng để mô phỏng.
matter that is known to the insured, being a matter that: Đạo luật Hợp đồng Bảo hiểm Úc (ICA) quy định nghĩa vụ tiết lộ
(a) the insured knows to be a matter so relevant to the thông thường của người nộp đơn đăng ký bảo hiểm nhưng thu
decision of the insurer whether to accept the risk and, if so, on hẹp phạm vi nghĩa vụ đó, tập trung vào những gì người được
what terms; or bảo hiểm biết hoặc một người hợp lý trong hoàn cảnh của họ
(b) a reasonable person in the circumstances could be hoặc người đó sẽ biết là có liên quan. đánh giá rủi ro. Mục 21
expected to know to be a matter so relevant.”116 của ICA bắt buộc người được bảo hiểm phải tiết lộ “mọi vấn đề
In Permanent Trustee Australia Ltd v Fai General Insurance mà người được bảo hiểm biết, đó là:
Co Ltd (in liq),117 the High Court of Australia described the (a) người được bảo hiểm biết rằng đây là một vấn đề liên
effect of section 21 in the following terms: quan đến quyết định của người bảo hiểm có chấp nhận rủi ro hay
The first matter to notice about s 21(1)(a) is that “every không và nếu có thì theo những điều khoản nào; hoặc
matter that is known to the insured” is qualified by the (b) một người hợp lý trong hoàn cảnh có thể được mong đợi

23
expression “being a matter that the insured knows ...”. The word biết là một vấn đề có liên quan.”[116]
“knows” is a strong word. It means considerably more than Trong Permanent Trustee Australia Ltd v Fai General
“believes” or “suspects” or even “strongly suspects.” And the Insurance Co Ltd (bằng liq), [117] Tòa án Tối cao của Australia
matter, to answer the description that part (a) of the sub-section đã mô tả hiệu lực của mục 21 trong các thuật ngữ sau:
states, must be a matter that is not only “relevant to the decision Điều đầu tiên cần lưu ý về điều 21 (1) (a) là “mọi vấn đề mà
of the insurer whether to accept the risk, and if so, on what người được bảo hiểm đã biết” đều đủ tiêu chuẩn theo cụm từ “là
terms,” but also one that the insured knows to be such a matter. vấn đề mà người được bảo hiểm biết…”. Từ “biết” là một từ
The alternative for which part (b) of the sub-section provides, is mạnh. Nó có nghĩa là nhiều hơn đáng kể so với "tin tưởng" hoặc
also important: if the insured does not “know,” the question "nghi ngờ" hoặc thậm chí "nghi ngờ mạnh mẽ." Và vấn đề, để
becomes, whether a “reasonable person in the circumstances” trả lời cho mô tả mà phần (a) của tiểu mục nêu rõ, phải là một
would “know [the matter] to be a matter so relevant.”118 vấn đề không chỉ “liên quan đến quyết định của công ty bảo
The Court in Permanent Trustee held that the presence of the hiểm có chấp nhận rủi ro hay không, và nếu có, thì dựa trên
words “accept the risk” in s 21(1)(a) instead of phrases such as những điều khoản nào, Nhưng cũng là một vấn đề mà người
“to enter into the contract of insurance” or “to renew a contract được bảo hiểm biết là một vấn đề như vậy. Phương án thay thế
of insurance” is significant.119 Whereas the common law “was cho phần (b) của tiểu mục này cung cấp, cũng rất quan trọng:
generally concerned with materiality,” the ICA “is concerned nếu người được bảo hiểm không “biết”, câu hỏi sẽ trở thành, liệu
with relevance.”120 In that case, the Court addressed whether một “người hợp lý trong hoàn cảnh” sẽ “biết [vấn đề] là một vấn
the insured was required to disclose its intention not to seek a đề rất liên quan.”[118]
future renewal of professional indemnity insurance during an Tòa án Người được Ủy thác Thường trực cho rằng sự hiện
initial application for renewal. In holding that the insured had diện của các từ “chấp nhận rủi ro” trong mục 21 (1) (a) thay vì

24
not breached its disclosure duty, the Court distinguished các cụm từ như “tham gia hợp đồng bảo hiểm” hoặc “để gia hạn
between matters relevant to an assessment of the insured risk hợp đồng bảo hiểm” là đáng kể.[119] Trong khi thông luật
(such as the nature of the business activity) and matters of “thường quan tâm đến tính trọng yếu”, thì ICA “quan tâm đến
“commerciality” which have no bearing on the risk but may tính liên quan.”[120] Trong trường hợp đó, Tòa án giải quyết
nonetheless influence the decision of the insurer to enter into the liệu người được bảo hiểm có được yêu cầu tiết lộ ý định không
insurance contract.121 While the facts in Permanent Trustee do tìm kiếm sự gia hạn bồi thường nghề nghiệp trong tương lai hay
not involve life, accident or sickness insurance, the majority of không. bảo hiểm trong lần đăng ký gia hạn ban đầu. Khi cho
the Court made the following statement on the scope of the rằng người được bảo hiểm không vi phạm nghĩa vụ công bố
disclosure duty as defined in the ICA: thông tin của mình, Tòa án đã phân biệt giữa các vấn đề liên
quan đến việc đánh giá rủi ro được bảo hiểm (chẳng hạn như
To require an insured to disclose to an insurer every matter bản chất của hoạt động kinh doanh) và các vấn đề “tính thương
known to the insured, or reasonably knowable by the insured, mại” không liên quan đến rủi ro nhưng có thể tuy nhiên vẫn ảnh
relevant to the decision of the insurer to enter into a contract of hưởng đến quyết định giao kết hợp đồng bảo hiểm của công ty
insurance would be to impose an extraordinarily high burden bảo hiểm.[121] Mặc dù các sự kiện trong Người được ủy thác
upon an insured, indeed a burden that few insureds could ever thường trực không liên quan đến bảo hiểm nhân thọ, tai nạn
fully discharge.122 hoặc ốm đau, phần lớn Tòa án đã đưa ra tuyên bố sau đây về
The ICA also limits insurers’ ability to rely on non-disclosure phạm vi nghĩa vụ tiết lộ như được định nghĩa trong ICA:
and misrepresentation defences by emphasizing the need for Yêu cầu người được bảo hiểm tiết lộ cho người bảo hiểm mọi
unambiguous questions that are relevant to the proposed risk in vấn đề mà người được bảo hiểm biết, hoặc người được bảo hiểm
application forms. The disclosure duty arises only in relation to biết một cách hợp lý, liên quan đến quyết định giao kết hợp

25
specific questions on application forms, including requests to đồng bảo hiểm của người bảo hiểm sẽ tạo ra một gánh nặng cực
disclose exceptional circumstances within the insured’s actual or kỳ cao đối với người được bảo hiểm. một gánh nặng mà rất ít
constructive knowledge that are known to be relevant to the người được bảo hiểm có thể trút bỏ hoàn toàn.[122]
insurer in assessing the proposed risk.123 As well, insurers are ICA cũng hạn chế khả năng của các công ty bảo hiểm dựa
required to “clearly inform the insured in writing of the general vào các biện pháp bảo vệ không tiết lộ và trình bày sai bằng
nature and effect of the duty of disclosure.”124 Failure to cách nhấn mạnh sự cần thiết của các câu hỏi rõ ràng có liên quan
comply with this requirement may disentitle the insurer from đến rủi ro được đề xuất trong các biểu mẫu đăng ký. Nghĩa vụ
alleging breach of the disclosure duty unless the insured’s tiết lộ chỉ phát sinh liên quan đến các câu hỏi cụ thể trong đơn
breach was fraudulent. An insurer bears the onus of đăng ký, bao gồm cả các yêu cầu tiết lộ các trường hợp ngoại lệ
demonstrating steps taken to comply with the informational trong phạm vi hiểu biết thực tế hoặc mang tính xây dựng của
requirement. người được bảo hiểm được biết là có liên quan đến công ty bảo
hiểm trong việc đánh giá rủi ro đề xuất.[123] Ngoài ra, doanh
nghiệp bảo hiểm phải “Thông báo rõ ràng bằng văn bản cho
The ICA gives insurers the option of voiding a contract only người được bảo hiểm về bản chất và tác dụng chung của nghĩa
where non-disclosure or misrepresentation was fraudulent. vụ tiết lộ.”[124] Việc không tuân thủ yêu cầu này có thể khiến
Where the insurer chooses not to exercise its right to void a người bảo hiểm không cho rằng vi phạm nghĩa vụ tiết lộ trừ khi
contract for fraudulent non- disclosure or misrepresentation, or hành vi vi phạm của người được bảo hiểm là gian dối. Công ty
where the breach was not fraudulent, the remedial options open bảo hiểm có trách nhiệm chứng minh các bước được thực hiện
to the insurer depends on the impact of the breach on the để tuân thủ yêu cầu cung cấp thông tin.
insurer’s underwriting decision. Where an insurer would have ICA cung cấp cho các công ty bảo hiểm tùy chọn hủy bỏ hợp

26
provided some coverage but perhaps on different terms, the đồng chỉ khi việc không tiết lộ hoặc trình bày sai là gian lận.
insurer can revise the contract accordingly to reflect the terms Trong trường hợp công ty bảo hiểm chọn không thực hiện quyền
and extent of liability it would have assumed under the contract vô hiệu hợp đồng do không tiết lộ hoặc trình bày sai sự thật,
had there been full disclosure or accurate representations; this is hoặc trường hợp vi phạm không phải là gian dối, thì các phương
known as the proportionality rule.125 In the context of life án khắc phục dành cho công ty bảo hiểm phụ thuộc vào tác động
insurance, where the insurer would not have entered into the của vi phạm đối với quyết định bảo lãnh phát hành của công ty
contract had there been proper disclosure or accurate bảo hiểm. Trong trường hợp công ty bảo hiểm có thể cung cấp
representations, the insurer is entitled to void the contract within một số phạm vi bảo hiểm nhưng có thể theo các điều khoản khác
three years of its commencement,126or vary the insurance nhau, thì công ty bảo hiểm có thể sửa đổi hợp đồng cho phù hợp
amount to what it would have been had there been no breach để phản ánh các điều khoản và mức độ trách nhiệm mà công ty
upon giving written notice to the insured. The rectification phải chịu trong hợp đồng nếu có sự tiết lộ đầy đủ hoặc trình bày
remedy within three years of the coming into force of the chính xác; Điều này được gọi là quy tắc tương xứng.[125] Trong
contract is also available for non-fraudulent breach of the bối cảnh của bảo hiểm nhân thọ, nếu công ty bảo hiểm sẽ không
disclosure duty.127 An insurer’s assertion that it would not have tham gia hợp đồng nếu có sự tiết lộ phù hợp hoặc trình bày
provided coverage with full disclosure or accurate representation chính xác, thì công ty bảo hiểm có quyền hủy bỏ hợp đồng trong
may be challenged based on the insurer’s underwriting practices. vòng ba năm kể từ khi bắt đầu, [126] hoặc thay đổi số tiền bảo
An insurer could be compelled to give the insured or beneficiary hiểm so với số tiền mà nó sẽ có nếu không có vi phạm khi thông
access to its underwriting records through discovery.128 The báo bằng văn bản cho người được bảo hiểm. Biện pháp khắc
Australian Insurance Ombudsman Service specifically requires phục trong vòng ba năm kể từ khi hợp đồng có hiệu lực cũng có
insurers alleging non-disclosure and misrepresentation to sẵn đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin không

27
provide copies of their underwriting guidelines at the time of the gian lận.[127] Việc công ty bảo hiểm khẳng định rằng họ sẽ
contract in issue and examples of proposals for insurance in không cung cấp thông tin tiết lộ đầy đủ hoặc trình bày chính xác
similar circumstances declined for similar reasons. A greater có thể bị phản đối dựa trên thông lệ bảo lãnh phát hành của
onus is placed on insurers where the non-disclosure relates to an người bảo hiểm. Công ty bảo hiểm có thể bị buộc phải cung cấp
unusual matter that is rarely the subject matter of specific cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng quyền truy cập
questions in insurance application forms or guidelines.129 vào hồ sơ bảo lãnh phát hành của mình thông qua việc khám
phá.[128] Dịch vụ thanh tra bảo hiểm của Úc đặc biệt yêu cầu
các công ty bảo hiểm cáo buộc không tiết lộ và trình bày sai
The ICA gives courts the discretion to refuse avoidance of the cung cấp bản sao hướng dẫn bảo lãnh phát hành của họ tại thời
contract in relation to a particular loss even in cases of điểm hợp đồng được phát hành và ví dụ về đề xuất bảo hiểm
fraudulent non-disclosure or misrepresentation if nullification trong những trường hợp tương tự bị từ chối vì những lý do
would be harsh and unfair in the circumstances and the insurer tương tự. Các công ty bảo hiểm phải chịu trách nhiệm lớn hơn
has suffered no prejudice, minimal or insignificant prejudice khi việc không tiết lộ liên quan đến một vấn đề bất thường hiếm
from the breach.[130] As well, exercise of the discretion khi là chủ đề của các câu hỏi cụ thể trong các mẫu đơn hoặc
depends on the extent of the insured’s culpability and the loss he hướng dẫn đăng ký bảo hiểm.[129]
or she would suffer if the insurer is permitted to void the ICA cho phép các tòa án quyết định từ chối việc huỷ hợp
contract, bearing in mind the need to deter fraudulent conduct in đồng liên quan đến một tổn thất cụ thể, ngay cả trong trường
the insured’s relationship with the insurer.131 The ICA attempts hợp không tiết lộ hoặc trình bày sai nếu việc vô hiệu hóa sẽ là
to balance the competing interests of insureds and insurers while khắc nghiệt và không công bằng trong các trường hợp và công
recognizing the vulnerability of insureds. At the same time, the ty bảo hiểm không phải chịu thành kiến, thành kiến tối thiểu

28
ICA tries to avoid prejudice to insurers by essentially restoring hoặc không đáng kể.[130] Ngoài ra, việc thực thi quyền quyết
insurers to the position they would have been in had there been định phụ thuộc vào mức độ trách nhiệm của người được bảo
no misrepresentation or non-disclosure. Insurers are not able to hiểm và tổn thất mà người được bảo hiểm phải gánh chịu nếu
avoid liability after a loss has occurred when they would have người bảo hiểm được phép vô hiệu hợp đồng, lưu ý rằng cần
provided coverage even with full disclosure and accurate phải ngăn chặn hành vi gian dối của người được bảo hiểm. mối
representations. In commenting on the ICA, Hawke notes that it quan hệ với người được bảo hiểm.[131] ICA cố gắng cân bằng
is “generally speaking a reasonably fair and sensible code...and lợi ích cạnh tranh của người được bảo hiểm và người bảo hiểm
is certainly more favourable to the interests of insured than is, trong khi nhận ra tính dễ bị tổn thương của người được bảo
for example, the English common law.”132 hiểm. Đồng thời, ICA cố gắng tránh gây thành kiến cho các
công ty bảo hiểm bằng cách khôi phục về cơ bản các công ty
bảo hiểm về vị trí mà họ đã có nếu không có sự xuyên tạc hoặc
7. Conclusion không tiết lộ. Doanh nghiệp bảo hiểm không thể trốn tránh trách
Private insurance is increasingly becoming an important nhiệm pháp lý sau khi xảy ra tổn thất khi họ đã cung cấp bảo
aspect of financial planning in the neo-liberal state. Given the hiểm ngay cả khi công bố đầy đủ và trình bày chính xác. Khi
ubiquitous nature of private insurance, there is a tendency to bình luận về ICA, Hawke lưu ý rằng nó “nói chung là một quy
conceive of insurance funds as quasi- public. It is therefore tắc hợp lý công bằng và hợp lý ... và chắc chắn có lợi hơn cho
important for the law to facilitate access to insurance funds by lợi ích của người được bảo hiểm hơn là, ví dụ, luật chung của
those who have taken steps to seek financial security through the Anh.”[132]
private market, specifically, insurance. Private insurance is not,
however, a social security benefit available on the basis of 7. Kết luận

29
criteria like citizenship or need. It is ultimately a voluntary Bảo hiểm tư nhân ngày càng trở thành một khía cạnh quan
agreement between insurers and persons who face common trọng của kế hoạch tài chính ở nhà nước tự do mới. Do tính chất
risks. Fairness to insurers and others in the insurance pool is phổ biến của bảo hiểm tư nhân, nên có xu hướng quan niệm các
critical to maintaining the financial sustainability of the quỹ bảo hiểm là bán công. Do đó, điều quan trọng đối với luật
insurance system and meeting legitimate expectations of pháp là tạo điều kiện để tiếp cận các quỹ bảo hiểm của những
stakeholders. người đã từng bước để tìm kiếm biện pháp đảm bảo tài chính
thông qua thị trường tư nhân, cụ thể là thị trường bảo hiểm. Tuy
nhiên, bảo hiểm tư nhân không phải là một phúc lợi an sinh xã
One mechanism for ensuring fairness within the insurance hội dựa trên các tiêu chí cơ bản như quyền công dân hoặc nhu
system is the obligation for applicants or prospective insureds to cầu. Cuối cùng, nó là một thỏa thuận tự nguyện giữa công ty bảo
disclose and not to misrepresent material information. The hiểm và những người phải đối mặt với rủi ro chung. Công bằng
purpose of the disclosure duty is to remedy the unequal access to đối với các công ty bảo hiểm và những người khác trong hiệp
information relevant for the proposed risk between the insurer hội bảo hiểm là rất quan trọng để duy trì tính bền vững tài chính
and applicant or prospective insured. It allows insurers to fairly của hệ thống bảo hiểm và đáp ứng các kỳ vọng chính đáng của
assess the proposed risk and make informed decisions about các bên liên quan.
insurability and terms of the contract. As well, the disclosure Một cơ chế để đảm bảo tính công bằng trong hệ thống bảo
duty promotes fairness to other policy holders and the viability hiểm là nghĩa vụ đối với người nộp đơn hoặc người được bảo
of the insurance industry. The current position in Canadian hiểm tiềm năng phải tiết lộ và không xuyên tạc thông tin quan
common law jurisdictions on the scope of the disclosure duty, trọng. Mục đích của nghĩa vụ công bố thông tin là để khắc phục
determinations of materiality and remedies for breach, however, tình trạng tiếp cận bất bình đẳng vào thông tin liên quan đến rủi

30
appears to favour insurers to the detriment of insureds. Such a ro được đề xuất giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người nộp đơn
position also disregards the power imbalance between insurers hoặc người được bảo hiểm tiềm năng. Nó cho phép các doanh
and insureds and the ways in which insurance products are nghiệp bảo hiểm đánh giá một cách công bằng rủi ro được đề
marketed in contemporary society, which may exacerbate the xuất và đưa ra quyết định sáng suốt về khả năng bảo hiểm và các
vulnerability of insureds. There should be more emphasis on the điều khoản của hợp đồng. Đồng thời, nghĩa vụ công bố thông tin
mutuality of the duty of utmost good faith in insurance thúc đẩy sự công bằng cho các chủ hợp đồng khác và khả năng
contracts. Insurers should be mandated to inform prospective tồn tại của ngành bảo hiểm. Tuy nhiên, quan điểm hiện tại trong
insureds of the disclosure duty, although this will not necessarily các khu vực pháp lý thông luật của Canada về phạm vi nghĩa vụ
give applicants an idea of the scope of the duty or factors the tiết lộ, xác định tính trọng yếu và biện pháp khắc phục vi phạm,
insurer considers relevant in the circumstances. The scope of the dường như có lợi cho các doanh nghiệp bảo hiểm khi gây tổn hại
disclosure duty should be circumscribed, focusing on cho người được bảo hiểm. Lập trường như vậy cũng coi thường
information specifically requested by the insurer, as well as on sự mất cân bằng quyền lực giữa doanh nghiệp bảo hiểm và
what a reasonable insured would know is material to the người được bảo hiểm cũng như cách thức tiếp thị sản phẩm bảo
proposed risk, rather than the current reasonable insurer test. hiểm trong xã hội hiện nay, điều này có thể làm trầm trọng thêm
Nullification of the insurance contract for breach of the tính dễ bị tổn thương của người được bảo hiểm. Cần nhấn mạnh
disclosure duty is a harsh remedy in many cases, especially hơn đến tính tương hỗ của nghĩa vụ hoàn toàn thiện chí trong
since breach is often innocent. As well, allowing an insurer to hợp đồng bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm phải ủy quyền
void a contract regardless of whether it would have insured the thông báo cho người được bảo hiểm tiềm năng về nghĩa vụ công
risk on different terms with proper disclosure is unfair and bố thông tin, mặc dù điều này không nhất thiết cung cấp cho
inconsistent with the parties’ reasonable expectations in the người nộp đơn ý tưởng về phạm vi của nghĩa vụ hoặc các yếu tố

31
circumstances. It is particularly unfair to treat innocent and mà công ty bảo hiểm cho là có liên quan trong từng trường hợp.
fraudulent breaches of the disclosure duty in the same way, Phạm vi của nghĩa vụ công bố thông tin nên được giới hạn, tập
subject to incontestability, as well as penalizing the insured for trung vào thông tin cụ thể do công ty bảo hiểm yêu cầu, cũng
non-disclosure of information not specifically requested. This is như những gì một người được bảo hiểm hợp lý sẽ biết là trọng
especially true in light of pressures placed on individuals in the yếu đối với rủi ro được đề xuất, thay vì thử nghiệm hợp lý hiện
neo-liberal state to manage their own risk by relying less upon tại của công ty bảo hiểm. Việc hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm do vi
government schemes and more upon private ordering for phạm nghĩa vụ tiết lộ là một biện pháp khắc phục trong nhiều
financial security. trường hợp, đặc biệt là vì hành vi vi phạm thường là vô ý. Ngoài
ra, việc cho phép công ty bảo hiểm vô hiệu hợp đồng bất kể
doanh nghiệp bảo hiểm có bảo hiểm rủi ro theo các điều khoản
khác nhau với việc tiết lộ thông tin thích hợp hay không là
không công bằng và không phù hợp với kỳ vọng hợp lý của các
bên trong hoàn cảnh. Đặc biệt điều này là không công bằng khi
xử lý các hành vi vi phạm nghĩa vụ do vô ý không tiết lộ và cố
tình không tiết lộ theo cùng một cách, tùy thuộc vào khả năng
Variation of the insurance contract based on the không thể kiểm soát được, cũng như phạt người được bảo hiểm
proportionality rule is a reasonable response to innocent non- vì không tiết lộ thông tin không được yêu cầu cụ thể. Điều này
disclosure. Variation in these circumstances does not prejudice đặc biệt đúng trong bối cảnh áp lực đặt ra đối với các cá nhân
the insurer because revision allows it to achieve the same result trong nhà nước tự do mới để quản lý rủi ro của chính họ bằng
as would have existed had there been no breach of the disclosure cách ít dựa vào các kế hoạch của chính phủ và nhiều hơn vào

32
duty. Protecting innocent breaches will also have the additional lệnh tư nhân để đảm bảo tài chính.
benefit of avoiding the unfairness of nullification where the loss Sự thay đổi của hợp đồng bảo hiểm dựa trên quy tắc tương
is totally unrelated to the breach of the disclosure duty. Insurers xứng là một phản ứng hợp lý đối với việc vô ý không tiết lộ
will not be compelled to provide coverage where they would not thông tin. Sự thay đổi trong những trường hợp này không ảnh
have done so had the risk in question been disclosed even if non- hưởng đến doanh nghiệp bảo hiểm bởi vì việc sửa đổi cho phép
disclosure was in good faith. There is no advantage for doanh nghiệp bảo hiểm đạt được kết quả tương tự như đã có nếu
applicants or insureds to risk breach of the disclosure duty không có vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin. Bảo vệ các sự vi
because only innocent breaches will be protected. As well, good phạm do vô ý cũng sẽ có thêm lợi ích là tránh được sự vô hiệu
faith will be objectively determined. Deliberate or fraudulent hợp đồng không công bằng trong đó tổn thất hoàn toàn không
breaches of the disclosure duty will still be punished with liên quan đến việc vi phạm nghĩa vụ tiết lộ. Các doanh nghiệp
nullification and forfeiture of premiums paid even if there is no bảo hiểm sẽ không bị buộc phải cung cấp phạm vi bảo hiểm mà
causal link between the risk that materialized and the họ đã không làm như vậy nếu rủi ro được đề cập được tiết lộ
misrepresented or concealed information. This should allay ngay cả khi việc không tiết lộ là có thiện chí. Không có lợi thế
concerns about moral hazards or potential abuse by insureds, for cho người nộp đơn hoặc người được bảo hiểm nếu có nguy cơ vi
example, by taking chances and hoping loss will be unrelated to phạm nghĩa vụ tiết lộ thông tin vì chỉ những vi phạm do vô ý
the breach. Variation is also consistent with freedom of contract mới được bảo vệ. Đồng thời, thiện chí sẽ được xác định một
and the reality that disclosure of material facts, including cách khách quan. Cố ý hoặc gian lận vi phạm nghĩa vụ công bố
unfavourable health conditions will not always result in denial thông tin sẽ vẫn chịu chế tài bằng việc vô hiệu hóa và tịch thu
of coverage. Rather, the insurer may still provide some coverage phí bảo hiểm đã trả ngay cả khi không có mối liên hệ nhân quả
but exclude some conditions, demand higher premiums and/or nào giữa rủi ro xảy ra với thông tin bị xuyên tạc hoặc che giấu.

33
provide reduced benefits. Thus, the revised contract can still be Điều này sẽ làm giảm bớt lo ngại về các nguy cơ đạo đức hoặc
considered a voluntary obligation assumed by the insurer. lạm dụng tiềm năng của người được bảo hiểm, chẳng hạn, bằng
Further, variation of the contract as opposed to nullification in cách nắm lấy cơ hội và hy vọng tổn thất sẽ không liên quan đến
the event of a breach will encourage insurers to be more diligent hành vi vi phạm. Sự khác biệt cũng phù hợp với quyền tự do
in investigating responses in the application process prior to hợp đồng và thực tế là việc tiết lộ các sự kiện quan trọng, bao
materialization of the insured risk. This will allow insureds to gồm cả tình trạng sức khỏe không thuận lợi sẽ không phải lúc
make alternative arrangements for financial security if it turns nào cũng dẫn đến việc từ chối bảo hiểm. Thay vào đó, doanh
out that they are not insurable or cannot obtain the desired nghiệp bảo hiểm vẫn có thể cung cấp một số bảo hiểm nhưng
insurance amount because of their substandard risk status. It is loại trừ một số điều kiện, yêu cầu phí bảo hiểm cao hơn và /
also important for courts to have discretion to refuse hoặc giảm quyền lợi. Như vậy, hợp đồng sửa đổi vẫn có thể
nullification where the insured risks significant hardship and được coi là một nghĩa vụ tự nguyện do doanh nghiệp bảo hiểm
there will be little or no prejudice to the insurer. Although this đảm nhận. Hơn nữa, sự thay đổi của hợp đồng thay vì vô hiệu
could create uncertainty, encourage litigation and the risk of trong trường hợp vi phạm sẽ khuyến khích các công ty bảo hiểm
further financial losses by the insured or beneficiary should they chăm chỉ hơn trong việc điều tra các phản ứng trong quá trình
lose the action, it will allow courts to at least consider the đăng ký trước khi xác định rủi ro được bảo hiểm. Điều này sẽ
reasons for non- disclosure and whether dispensation is cho phép người được bảo hiểm thực hiện các thỏa thuận thay thế
warranted in the circumstances. để đảm bảo an toàn tài chính nếu họ không thể bảo hiểm hoặc
không thể có được số tiền bảo hiểm mong muốn do tình trạng
rủi ro không đạt tiêu chuẩn của họ. Điều quan trọng là các tòa án
phải có quyền quyết định từ chối việc vô hiệu khi người được

34
bảo hiểm gặp khó khăn đáng kể và sẽ có ít hoặc không có ảnh
Revision of the contract based on the proportionality rule to hưởng đến người bảo hiểm. Mặc dù điều này có thể tạo ra sự
reflect what would have been the case had the non-disclosure không chắc chắn, thúc đẩy kiện tụng, hơn nữa là rủi ro thiệt hại
not occurred is an insured-favourable position and consistent tài chính cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng nếu
with the consumer protection rationale of insurance regulation. họ thua kiện, nhưng ít nhất nó sẽ cho phép tòa án xem xét lý do
However, critics have rejected this approach as being complex: không tiết lộ và liệu sự miễn trừ có được đảm bảo trong các
ex post facto determination of terms, premiums, and contract trường hợp này hay không.
amount can result in increased litigation and administrative costs Việc sửa đổi hợp đồng dựa trên quy tắc tương xứng để phản
to insurers, and ultimately to other policyholders.[133] As well, ánh những gì đáng lẽ sẽ xảy ra nếu việc không tiết lộ không xảy
critics have noted that the revised contract will be fictional and ra là một vị trí được bảo hiểm thuận lợi và phù hợp với cơ sở
cannot be said to reflect the intentions of the parties as there is bảo vệ người tiêu dùng của quy định bảo hiểm. Tuy nhiên, các
no guarantee that such a contract would have in fact been nhà phê bình đã bác bỏ cách tiếp cận này vì nó phức tạp: việc
concluded with full disclosure.[134] Perhaps the insured would xác định các điều khoản, phí bảo hiểm và số tiền hợp đồng sau
have chosen to order his or her affairs differently rather than thực tế có thể dẫn đến tăng chi phí kiện tụng và hành chính cho
accepting the contract on the revised terms. Notwithstanding các công ty bảo hiểm và cuối cùng là cho các chủ hợp đồng
these concerns, the proportionality rule is favoured in some khác.[133] Ngoài ra, các nhà phê bình cũng lưu ý rằng việc sửa
jurisdictions and can be applied in Canada. It is fair from an đổi hợp đồng sẽ là hư cấu và không thể được cho là phản ánh ý
insured’s perspective as it avoids the all or nothing approach in định của các bên vì không có gì đảm bảo rằng một hợp đồng
the event of innocent breaches of the disclosure duty. A system như vậy trên thực tế sẽ được ký kết với sự tiết lộ đầy đủ.[134]
that penalizes insureds for innocent breaches, even in respect of Có lẽ người được bảo hiểm đã chọn cách sắp xếp công việc của

35
information not specifically requested and whose materiality the mình theo cách khác chứ không phải chấp nhận hợp đồng với
insured had no means of knowing, even based on an objective các điều khoản sửa đổi. Bất chấp những lo ngại này, quy tắc tỷ
determination, can hardly be considered just. Variation also lệ được ưa chuộng ở một số khu vực pháp lý và có thể được áp
recognizes the vulnerability of insureds while preserving their dụng ở Canada. Từ quan điểm của người được bảo hiểm, điều
reasonable expectations, and may be mandated by the mutuality này là công bằng vì nó tránh được cách tiếp cận tất cả hoặc
of the duty of utmost good faith and the need for fairness không có gì trong trường hợp vi phạm vô tội vạ nghĩa vụ tiết lộ.
between insurers and insureds. As already noted, variation of the Một hệ thống trừng phạt người được bảo hiểm đối với những vi
contract is possible in Canadian common law jurisdictions in phạm do vô ý, ngay cả đối với thông tin không được yêu cầu cụ
relation to misstatement of age in life, accident and sickness thể và tính trọng yếu mà người được bảo hiểm không thể biết
insurance contracts. Similarly, in Quebec, in the context of được, thậm chí dựa trên một quyết định khách quan, khó có thể
damage insurance, the proportionality rule applies where breach được coi là công bằng. Sự khác biệt cũng thừa nhận tính dễ bị
of the disclosure duty was not in bad faith and the insurer would tổn thương của người được bảo hiểm trong khi vẫn duy trì kỳ
have covered the risk even with full disclosure.[135] Finally, vọng hợp lý của họ, và có thể được yêu cầu bởi nghĩa vụ hết sức
any prejudice to the insurer is minimal as it will not be thiện chí lẫn nhau và nhu cầu công bằng giữa người bảo hiểm và
compelled to offer coverage if the prudent insurer or in người được bảo hiểm. Như đã lưu ý, có thể có sự thay đổi của
appropriate cases, the particular insurer would not have done so hợp đồng trong các khu vực pháp lý thông luật của Canada liên
with full disclosure. Since other insureds could be similarly quan đến việc khai báo sai độ tuổi trong các hợp đồng bảo hiểm
penalized by the current position of nullification in future nhân thọ, tai nạn và ốm đau. Tương tự như vậy, ở Quebec, trong
claims, they should support the proportionality rule in relation to bối cảnh bảo hiểm thiệt hại, quy tắc tương xứng được áp dụng
innocent breaches in situations where insurers would have still khi việc vi phạm nghĩa vụ tiết lộ là không có thiện ý và công ty

36
insured the risk in question. The changes suggested in this paper bảo hiểm sẽ bảo hiểm rủi ro ngay cả khi tiết lộ đầy đủ.[135]
will help bring insurance law in Canadian common law Cuối cùng, mọi thành kiến đối với công ty bảo hiểm là tối thiểu.
jurisdictions into the twenty-first century and also ensure vì sẽ không bắt buộc phải cung cấp bảo hiểm nếu công ty bảo
consistency with developments in other jurisdictions. hiểm thận trọng hoặc trong những trường hợp thích hợp, công ty
bảo hiểm cụ thể sẽ không làm như vậy với việc tiết lộ đầy đủ. Vì
những người được bảo hiểm khác có thể chịu chế tài tương tự
bởi vị trí vô hiệu hiện tại trong các yêu cầu bồi thường trong
tương lai, họ nên ủng hộ quy tắc tương xứng liên quan đến vi
phạm do vô ý trong các tình huống mà công ty bảo hiểm vẫn bảo
hiểm rủi ro được đề cập. Những thay đổi được đề xuất trong bài
báo này sẽ giúp đưa luật bảo hiểm trong các khu vực pháp lý
thông luật của Canada vào thế kỷ XXI và cũng đảm bảo tính
nhất quán với sự phát triển trong các khu vực pháp lý khác.

37

You might also like