Professional Documents
Culture Documents
--------------
TIỂU LUẬN
Lạm phát và tăng trưởng kinh tế là hai chỉ số kinh tế vĩ mô quan trọng. Mối
quan hệ giữa hai chỉ số này tác động đến nhiều mặt của nên kinh tế như tiết
kiệm, đầu tư, mức sống của người dân… Bài viết này nghiến cứu mối tương
quan giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở VN thông qua việc kiếm định mối
quan hệ nhân quả trong mô hình hồi quy đa biến gồm: lạm phát, tăng trưởng
kinh tế, giá dầu, cung tiền và tỷ giá hối đoái. Bài viết sử dùng mô hình VAR và
ECM để kiểm định mối quan hệ nhân quả và tìm ra mối tương quan giữa lạm
phát và tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn. Kết quả nghiên cứu cho
thấy có mối quan hệ dài hạn giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Để thực hiện
mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững, cần có chiến lược phát triển kinh tế từ
ngắn hạn đến dài hạn theo hướng ưu tiên phát triển kinh tế trong ngắn hạn để tạo
đà kiềm chế lạm phát trong dài hạn.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng đồng thời phương pháp hồi
quy đồng liên kết, mô hình sai số hiệu chỉnh (ECM) cà phương pháp phân tích
phương sai dựa trên mô hình VAR để xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và
lạm phát ở VN trong ngắn hạn và dài hạn.
Quy trình nghiên cứu được thực hiện như sau:
Bước 1: Thu thập dữ liệu;
Bước 2: Kiểm định tính dừng của dãy số thời gian. Nếu là chuỗi dừng, chuyển
sang bước 4; nếu là chuỗi không ngừng thì thực hiện bước 3l
Bước 3: Sử dụng sai phân để đưa chuỗi thời gian từ không dừng thành chuỗi
dừng;
Bước 4: Lựa chọn mô hình chi tiết trong mô hình ECM và VAR;
Bước 5: Kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
Nghiên cứu này sử dụng mô hình hồi quy đa biến của McCarthy (2006) để đánh
giá mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế dựa trên việc phân tích
chuỗi thơi gian và tìm hiểu tác động của các cú sốc vào trong chỉ số giá. Trong
mô hình này, chỉ số giá ở thời kỳ t được giả định chịu ảnh hưởng bởi một số yếu
tố sau:
- Thứ nhất là tác động của cú sốc cầu.
- Thứ hai là tác động của cú sốc cung.
- Thứ ba là tác động của cú sốc tiền tệ.
- Thứ tư là tác động của cú sốc tỷ giá hối đoái.
- Thứ năm là tác động của cú sốc lãi suất.
Hàm số lạm phát: CPI = f(GDP, OIL, M2, E)
Quá trình kiểm định được thực hiển qua các bước:
Bước 1: Kiểm định tính dừng của chuỗi thời gian đối với các biến trong mô hình
bằng phương pháp kiểm định nghiệm đơn vị;
Bước 2: Kiểm định tính đồng liên kết;
Bước 3: Ước lượng mô hình sai số hiệu chỉnh ECM để phân tích mối qua hệ
trong dài hạn giữa lạm phát và tăng trưởng;
Bước 4: Kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
Kết quả kiểm nghiệm đơn vị: Tác giả sử dụng phương pháp ADF để kiểm
định tính dừng của các biến. Kết quả kiểm nghiệm cho thấy các chuỗi thời gian
trong mô hình ngoài chuỗi lnI là chuỗi dừng, các chuỗi còn lại đều là chuỗi
không dừng. Tuy nhiên các chuỗi sai phân bậc 1 của lvG, lnOIL, lnM và lnE
đều là chuỗi dung. Như vậy, có thể tồn tại mối quan hệ đồng liên kết trong dài
hạn giữa các biến trong mô hình.
Xác định tính đồng liên kết và kiểm định mối quan hệ trong dài hạn giữa tăng
trưởng kinh tế và lạm phát: Giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ
đồng liên kết, tức là có mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa hai biến này. Tất
nhiên trong ngắn hạn có sự mất cân bằng. Kết quả chỉ ra rằng sự thay đổi trong
ngắn hạn của tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng ngược chiều lên tăng trưởng và
khoảng 47% sai biệt giữa các giá trị thực tế và giá trị dài hạn cảu tăng trưởng
được loại trừ sau mỗi quý. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát
trong dài hạn là nghịch biến đồng thời là giá trị tuyệt đối của hệ số này nhỏ hơn
1 chứng tỏ trong dài hạn, lạm phát sẽ giảm ít hơn so với tốc độ tăng của GDP.
Kết quả kiểm định quan hệ nhân quả Granger trong mô hình VAR: có
thể thấy trong ngắn hạn, tốc độ tăng trưởng kinh tế chịu ảnh hưởng bởi lạm phát.
Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ ra rằng tác động ngược lại là lạm phát ảnh hưởng đến
tăng trưởng kinh tế là không có ý nghĩa thống kê.
Phân tích: Tăng trưởng kinh tế và lạm phát có mối quan hệ nghịch biến
trong cả dài hạn và ngắn hạn.
Trong ngắn hạn, sự thay đổi của tăng trưởng kinh tế chậm hơn sự thay đổi
trong lạm phát. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, sự thay đổi của lạm phát lại ảnh
hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế và mức thay đổi trong lạm phát cao hơn
mức thay đổi trong tăng trưởng kinh tế; Tác động của tăng trưởng kinh tế đến
lạm phát trong ngắn hạn không có ý nghĩa thống kê, tuy nhiên tăng trưởng kinh
tế lại chịu tác động bởi lạm phát theo quan hệ nghịch biến. (Theo kết quả ước
lượng mô hình VAR).
Trong dài hạn, lạm phát và tăng trưởng kinh tế đồng liên kết với nhau theo
quan hệ nghịch biến. Khi tăng trưởng kinh tế tăng 1% thì lạm phát giảm 0,037%
và ngược lại. Do đó, để theo đuổi mục tiêu tăng trưởng bền vững phỉ kiềm chế
lạm phát trong dài hạn.
Bài viết là một nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa lạm phát và
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian trong giai đoạn
1980-2014 và áp dụng cách tiếp cận ARDL bounds test được phát triển bởi
Pesaran và các cộng sự (2001) để kiểm định mối quan hệ đồng liên kết trong dài
hạn giữa các biến, tác giả tìm thấy lạm phát và tăng trưởng kinh tế cũng như các
biến kiểm soát có mối liên hệ mật thiết vơi nhau trong cả ngắn hạn và dài hặn.
Ngoài ra, nghiên cứu xem xét liệu có tồn tại hiệu ứng ngưỡng trong mối quan hệ
giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế hay không. Kết quả là đáng chú ý với mức
ngưỡng được tìm thấy là 8%. Có nghĩa rằng quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng không phải là tuyến tính, tương quan là dương trong khoảng dưới
ngưỡng và khi làm phát vượt ngưỡng thì tương quan trở nên âm.
Phương pháp nghiên cứu: Mục đích của bài nghiên cứu là nhằm điều tra
mối quan hệ giữa tỷ lệ lạm phát ( π ) và tốc độ tăng trưởng kinh tế thực (y) đồng
thời ước lượng ngưỡng lạm phát tối ưu ở Việt Nam trong giai đoạn 1980-2014.
Các biến tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP (igdp), tốc độ tăng dân số (pop) và tỷ lệ tăng
trưởng thương mại (tot) được đưa vào mô hình như là các biến kiểm soát nhằm
phản ánh các kênh tác dộng qua lại giữa hai biến số. Các biến kiểm soát được
lựa chọn là các biến quan trọng nhất có tác động lên mối quan hệ giữa hai biến
(Khan và Senhadji, 2001). Bài viết sử dụng mô hình ARDL Bound Test để mô
hình hóa mối quan hệ của các biến. Bằng các ước lượng hồi quy cho các giá trị
khác nhau của π*, được tác giả chọn theo kết quả ngưỡng tối ưu được tìm thấy
cho các nước đang phát triển bởi Khan và Senhadji (2001) từ 7-11%, mức
ngưỡng tối ưu là mức mà ước lượng của nó làm tối thiểu bình phương các phần
dư (RSS).
Dữ liệu hàng năm của các biến tốc độ tăng trưởng kinh tế thực (y), tỷ lệ lạm
phát (π), tỷ lệ đầu tư trên GDP (igdp), tỷ lệ tăng trưởng dân số (pop) và tỷ lệ
tăng trưởng thương mại (tot) trong giai đoạn 1980-2014 được thu thập từ Quỹ
tiền tệ thế giới IMF, mục World Economic Outlook (WEO). Tương quan giữa
tốc độ tăng trưởng kinh tế thực và tỷ lệ lạm phát là dương ở mức lạm phát thấp
và trở nên âm khi lạm phát ở mức cao, tương tự như kết quả được tìm thấy bởi
Ghosh và Philips (1998) và Khan và Senhadji (2001).
Kết quả kiểm định hiệu ứng ngưỡng: Tác giả thực hiện kiểm định ngưỡng
cho Việt Nam trong khoảng 7-11% để tìm ra mức ngưỡng tối ưu nhất. Giá trị tối
ưu của π* được chọn là 8%, tương ứng với RSS nhỏ nhất và R 2 là lớn nhất, đồng
thời các hệ số ước lượng có ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Kết quả phù hợp với
Sarrel (1996).
Sử dụng mô hình ARDL bound test, tác giả tìm thấy tỷ lệ lạm phát và tốc độ
tăng trưởng kinh tế cùng với nhau cả trong ngắn hạn và dài hạn. Tác động trong
dài hạn của lạm phát tới tăng trưởng kinh tế được tìm thấy là tác động âm.
Nghiên cứu đồng thời tìm ra mức ngưỡng tối ưu cho lạm phát ở Việt nam là 8%.
Từ những kết quả thu được, tác giả khuyến nghị Chính phủ không nên kiềm chế
lạm phát ở mức thấp. Dưới mức 8%, lạm phát tác động dương đến tăng trưởng,
chỉ khi vượt mức qua mức 8% lạm phát mới tác động tiêu cực tới tăng trưởng.
Do đó, để đạt được tốc độ tăng trưởng khá, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước trong xu thế hội nhập, nước ta cần xem xét duy trì lạm
phát ở mức tối ưu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bài viết nghiên cứu quan hệ giữa tăng trưởng và kinh tế lạm phát tại Việt
Nam giai đoạn từ năm 1992 đến 2016. Bằng kỹ thuật Bootstap, nghiên cứu tìm
ra ngưỡng lạm phát tối ưu tại Việt Nam là ở mức 3,22%/năm, nghĩa là muốn có
tăng trưởng kinh tế tốt, cần duy trì lạm phát ở mức vừa phải (3,22%/năm). Nếu
lạm phát cao hơn mức này, khả năng suy giảm tăng trưởng sẽ xuất hiện. Để giữ
cho tăng trưởng đạt mục tiêu, Chính phủ buộc phải nới lỏng các chính sách tài
khóa và tiền tệ, việc làm này khiến lạm phát lại tăng lên.
Như vậy, nếu mức lạm phát được giữ ở mức dưới ngưỡng này sẽ kích thích
cho tăng trưởng kinh tế (lạm phát tăng thêm 1% thì kinh tế tăng trưởng thêm
0,45%).
Ngoài ra, trong ngưỡng này thì tăng độ sâu tài chính cũng giúp tăng trưởng (độ
sâu tài chính tăng thêm 1% giúp tăng trưởng kinh tế thêm 0,37%), ngược lại
tăng chi tiêu chính phủ nếu không đẩy mạnh tăng thu nhập thì tạo hiệu ứng
ngược (tỷ lệ chi tiêu chính phủ so GDP tăng 1% làm tăng trưởng giảm 1,33%).
Với mức lạm phát trên 3,22%/năm sẽ tạo hiệu ứng kiềm chế tăng trưởng, tuy
nhiên cũng ở mức thấp (lạm phát tăng 1%, tăng trưởng kinh tế giảm 0,005%).
Ngoài ra, nếu mức lạm phát trên 3,22%, các chỉ số về độ sâu tài chính, hay chi
tiêu chính phủ so với GDP đều có quan hệ thuận chiều và kích thích tăng
trưởng, đặc biệt ảnh hưởng của chi tiêu chính phủ/GDP lên tăng trưởng rất cao
(tỷ lệ này tăng 1%, tăng trưởng kinh tế thêm 0,84%).
Kết quả nghiên cứu này khá tương đồng với nghiên cứu của Khan (2005) tìm
ra ngưỡng lạm phát tối ưu ở các nước Trung Đông và Trung Á là khoảng
3,2%/năm, hay nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (2006) về mức độ lạm phát
ở Việt Nam với các nước Đông Nam Á.
Lịch sử lạm phát của VN 33 năm qua cho thấy phần lớn thời gian nước ta
lâm vào tình trạng lạm phát cao và mức lạm phát cao này ảnh hưởng nghiêm
trọng đến đời sống người lao động, người có thu nhập thấp và ảnh hưởng đến
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vì thế trong bài viết này, nhóm tác giả thực hiện một
nghiên cứu xác định ngưỡng lạm phát tại VN nên ở mức nào sẽ hỗ trợ tốt cho
tăng trưởng kinh tế. Để thực hiện nghiên cứu, nhóm tác giả tiến hành thu thập
dữ liệu thống kê nhằm xác định mối tương quan giữa lạm phát (tính bằng chỉ số
giá tiêu dùng CPI) và tốc độ tăng trưởng kinh tế (tính bằng tốc độ tăng GDP) ở
VN trong vòng 26 năm (1987-2012). Mối quan hệ này cũng được tác giả so sánh
giữa hai giai đoạn 1987-2000 và 2001-2012. Kết quả nghiên cứu cho thấy
ngưỡng lạm phát CPI ở VN nên ở mức 5-7%/năm.
Phương pháp nghiên cứu: Định lượng kết hợp định tính được sử dụng để
thực hiện nghiên cứu này. Với số liệu thu thập được từ báo cáo thường niên của
Tổng cục Thống kê, nhóm tác giả sử dụng phần mềm SPSS để xác định mối
tương quan giữa hai biến lạm phát (CPI) và tăng trưởng kinh tế (tốc độ tăng
GDP). Phần mềm SPSS tiếp tục được sử dụng trong quá trình xác định ngưỡng
lạm phát ở VN. Tuy nhiên, để có được kết luận ngưỡng lạm phát ở VN nên là
bao nhiêu nhóm tác giả sử dụng phương pháp phỏng vần chuyên gia đề có thêm
thông tin cho những lập luận.
Dữ liệu: Báo cáo thưởng niên của Tổng cục thống kê; Thực hiện một cuộc
khảo sát đối với các chuyên gia kinh tế đang làm công việc giảng dạy ở các
trường đại học, công tác tại viện nghiên cứu và các nhà quản lý ngân hàng, tổng
công ty trên địa bàn TPHCM.
Để dự báo 2 chỉ số kinh tế quan trọng lạm phát và tăng trưởng kinh tế, nhóm
nghiên cứu sử dụng mô hình SARIMA.
Dự báo của quốc tế: Nhìn chung, các tổ chức quốc tế đều dự báo tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2014 dao động trong khoảng 5,4% -5,6%
(thấp hơn so với chỉ tiêu mà Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ Sáu thông qua cuối
năm 2013 là 5,8%) và lạm phát biến động quanh mức 6,5% - 7,9%.
Mô hình ARIMA
ARIMA là mô hình sự báo chuỗi thời gian đơn biến được Box, G.E.P., và
G.M. Jenkins giới thiệu vào năm 1976 dựa trên ý tưởng cho rằng, chuỗi thời
gian có thể giải thích bằng cách kết hợp các hành vi hiện tại và trong quá khứ
với các yếu tố ngẫu nhiên không giải thích được ở hiện tại và quá khứ (gọi là các
nhiễu). Quá trình xây dựng mô hình này đòi hỏi chuỗi thời gian phải dừng,
chính vì vậy, thực chất ARIMA là gộp của các mô hình: mô hình tự hồi quy
(AR); quá trình tích hợp (I); mô hình trung bình trượt (MA).
Mô hình tự hồi quy (Autoregressive) AR(p): là quá trình trong đó giá trị
dự báo dựa trên các giá trị trong quá khứ của nó. Giá trị của chuỗi thời gian
được xác định là dừng và tồn tại mối quan hệ phụ thuộc tuyến tính của các phân
tử chuỗi vào phần tử p của nó cộng với nhiễu trắng không tương quan với nó, thì
chuỗi này được gọi là quá trình tự hồi quy bậc p:
Trong đó α1, α2,…, αp là p hệ số tự hồi quy được lựa chọn để sinh ra giá
trị dự báo phù hợp nhất cho Xt qua các giá trị quá khứ Xt−1; Xt−2, ..., Xt−p, và
εt là nhiễu trắng có trung bình bằng 0.
Điều kiện để quá trình AR(p) hội tụ là -1 < αi < 1 với i = 1,… p, hàm ý
trọng số đặt trên các phần từ giảm dần. Điều này phù hợp thực tiễn, đó là ảnh
hưởng của các yếu tố càng cũ thì càng ít tác động đến các giá trị hiện tại.
Mô hình trung bình trượt (Moving Average) MA(q): giá trị của chuỗi thời
gian tại thời điểm hiện tại được xác định từ trung bình trượt (có trọng số) của
nhiễu tại thời điểm hiện tại và q thời điểm trước đó:
Với βi là các hệ số không đổi, εi là các nhiễu trắng có trung bình bằng 0.
Quá trình xây dựng mô hình ARIMA đòi hỏi chuỗi thời gian dừng. Tuy
nhiên, trên thực tế chuỗi thời gian thường không dừng, do vậy cần biến đổi
chuỗi thời gian trở thành chuỗi dừng. Phương pháp chủ yếu thường được sử
dụng là lấy sai phân để chuỗi biến đổi thu được là chuỗi dừng và chuỗi này được
gọi là chuỗi tích hợp. Khi lấy sai phân bậc d để chuỗi cuối cùng thu được là
chuỗi dừng thì được gọi là chuỗi tích hợp bậc d: I(d).
Như vậy, mô hình ARIMA(p,d,q) sẽ bao gồm mô hình tự hồi quy AR(p),
mô hình trung bình trượt MA(q) và quá trình tích hợp I(d). Mô hình ARIMA
được thực hiện theo phương pháp Box-Jenkins với bốn bước lặp: nhận dạng mô
hình thử nghiệm; ước lượng; kiểm định bằng chuẩn đoán; và dự báo.
Trong thực tế nghiên cứu cho thấy, tồn tại rất nhiều chuỗi thời gian thể
hiện các mẫu lặp lại có yếu tố mùa vụ. Phân tích, dự báo chuỗi thời gian có yếu
tố mùa vụ, người ta thường sử dụng ARIMA mùa vụ (SARIMA).
Dự báo GDP và CPI của Việt Nam bằng mô hình ARIMA
Dự báo GDP
Khi khảo sát chuỗi số liệu, tác giả nhận thấy chuỗi GDP có xu thế và biến
động có tính chu kỳ.
Để giảm bớt tính xu thế, trước hết chuỗi này được biến đổi qua hàm
logarit (LNGDP). Tuy nhiên, dựa trên lược đồ tương quan thì chuỗi LNGDP vẫn
mang tính mùa vụ. Đồng thời, thông qua lược đồ tương quan của chuỗi này cũng
gợi ý rằng, chuỗi LNGDP có sự tương quan theo mùa vụ với trễ mùa vụ s = 4.
Bởi vậy, để loại bỏ quan hệ tự tương quan theo mùa vụ, thì chuỗi này đã được
lấy sai phần bậc 1 theo trễ mùa vụ.
Dựa trên kết quả kiểm định và chuẩn đoán, mô hình được sử dụng để dự
báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2014 và 2015 gồm 2 mô hình: mô hình
1 là mô hình SARIMA(3,1,3)x(1,2,1)4 và mô hình 2 là mô hình
SARIMA(2,1,1)x(1,1,1)4. Kết ước lượng được từ mô hình 1 và mô hình 2 là khá
tốt, các hệ số ước lượng được đều có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 1%, giá
trị của R2 ước lượng khá cao lần lượt bằng 0,673 và 0,785. Kiểm định nghiệm
đơn vị của phần dư trong 2 mô hình ước lượng cho thấy, phần dư là nhiễu trắng.
Như vậy, có thể sử dụng 2 mô hình này để thực hiện dự báo.
Dự báo CPI
Trong phần này, mô hình SARIMA vẫn được sử dụng để dự báo tốc độ
tăng CPI của Việt Nam trong năm 2014 và 2015. Số liệu CPI sử dụng trong mô
hình dự báo được thu thập từ Tổng cục Thống kê gồm 170 quan sát, là giá trị
của CPI theo tháng với năm cơ sở là năm 2009, từ tháng 1/2000 đến tháng
2/2014. Sau khi thực hiện các kiểm định cần thiết để nhận dạng mô hình, chúng
tôi thấy chuỗi CPI không dừng, đồng thời chuỗi LNCPI (là giá trị logarít của
chuỗi CPI) có sự tương quan theo mùa vụ với trễ mùa vụ s=12. Sau khi loại bỏ
tương quan theo mùa và lấy sai phân bậc 1 của chuỗi LNCPI_DS, thì chuỗi
LNCPI_DS1 là dừng. Như vậy, mô hình SARIMA được sử dụng trong dự báo
tốc độ tăng của CPI cho năm 2014 và 2015 gồm 2 mô hình: mô hình 1 là
SARIMA(3,1,2)x(0,1,1)12 và mô hình 2 là SARIMA(9,1,2)x(0,1,1)12.
Kết luận
Theo dự báo trên, mặc dù tốc độ tăng trưởng năm 2014 có tăng so với
năm 2013, tuy nhiên vẫn tăng ở mức nhỏ hơn mục tiêu tăng trưởng mà Quốc hội
thông qua cho năm 2014 là 5,8%. Như vậy, để đạt mục tiêu tăng trưởng cho năm
2014, cần có sự điều hành chính sách của Chính phủ linh hoạt hơn, đặc biệt cần
có sự kết hợp chặt chẽ hơn trong việc phối hợp chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ trong thời gian tới để có những tác động và kích thích mạnh hơn tới
quá trình sản xuất của nền kinh tế.
Kết quả dự báo chỉ số giá tiêu dùng năm 2014 có xu hướng tăng khá so
với năm 2013, tuy nhiên mức tăng này xấp xỉ bằng mục tiêu mà Quốc hội thông
qua (khoảng 7%). Đối với năm 2015, tốc độ tăng của CPI dự báo được sẽ vượt
quá 7% và tiệm cận về mức khoảng 8%. Như vậy, kết quả dự báo cho thấy xu
hướng lạm phát từ nay đến 2015 ở Việt Nam có xu hướng gia tăng. Điều này
cho thấy sức ép về lạm phát luôn tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt khi
năm 2014, chính sách tài khóa và trần thâm hụt ngân sách được mở rộng, nhu
cầu phát hành tiền đề xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại vẫn tồn tại...
Ngoài ra, những biến động của kinh tế thế giới cũng sẽ có những ảnh hưởng
không nhỏ đến mục tiêu tăng trưởng và lạm phát của Việt Nam từ nay đến
2015./.
6. LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM: KÍCH CẦU HAY
CẢI THIỆN TỔNG CUNG TIỀM NĂNG?
Phạm Thế Anh, Đinh Mai Hương, Chu Thị Mai Phương
KT&PT Số 190 (II), tháng 04 năm 2013, trang 3-10
Kết quả phân rã: xu hướng dài hạn của lạm phát đã tăng, trong khi đó xu
hướng dài hạn của tăng trưởng kinh tế lại giảm xuống một mức mới, kể từ sau
năm 2006. Trong khi đó, xu hướng dài hạn của tăng trưởng cung tiền và tăng
trưởng đầu tư công cũng giảm, tuy nhiên biến động chu kỳ của chúng lại lớn
hơn. Bên cạnh đó, các biến động chu kỳ của tăng trưởng trưởng cung tiền có
mối quan hệ chặt chẽ với các biến động chu kỳ của lạm phát.
Kiểm đinh nhân quả Granger: tăng trưởng cung tiền là biến gây ra sự biến
động của lạm phát chứ không có chiều ngược lại. Tốc độ tăng đầu tư công và
lạm phát có mối quan hệ chu kỳ. Thành phần chu kỳ của cung tiền có ảnh hưởng
đến thành phần chu kỳ của tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên đầu tư công thì lại
không. Để ước tính chính xác hơn mối quan hệ biến động chu kỳ giữa lạm phát
và tăng trưởng kinh tế với các chính sách vĩ mô, tác giả thực hiện phương trình
hồi quy.
Đặc biệt, tác giả không tìm thấy bằng chứng tích cực nào về ảnh hưởng của
tăng trưởng đầu tư công, hay tăng trưởng cung tiền đối với biến động chu kỳ của
tăng trưởng kinh tế. Hay nói cách khác, duy trì tốc độ tăng trưởng cao của các
biến số này, chủ yếu khiến lạm phát gia tăng và gây ra sự bất ổn, hơn là giúp ích
cho tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, trong bối cảnh dư địa hạn chế của các chính sách quản lý tổng cầu
hiện nay, bài viết đưa ra các định hướng chính sách nhằm thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế trong dài hạn ở Việt Nam. Thay vì kích thích tổng cầu, các giải pháp
chính sách này hướng trọng tâm vào việc nâng cao tổng cung tiềm năng của nền
kinh tế.
Một số định hướng chính sách chủ yếu ở cấp đọ vi mô nhằm cải thiện tổng cung
tiềm năng của nền kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động của các thị trường và
ngành, do vậy có thể dẫn đến tốc độ tăng trưởng cao hơn của thu nhập quốc dân
trong tương lai:
- Cổ phần hóa thực sự và giảm sự can thiệp của Nhà nước vào các thị
trường.
- Tăng cường cạnh tranh và tự do thương mại.
- Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm khuyến khích đầu tư vốn và
phát minh sáng chế của khu vực tư nhân.
- Tăng chi tiêu nâng cao chất lượng cho giáo dục và đào tạo.
- Giải quyết triệt để nạn tham nhũng trong khu vực công.
III. DANH MỤC THAM KHẢO
6. Tạp chí Kinh tế và Dự báo, “Dự báo tăng trưởng và lạm phát năm 2014 và
2015”, http://kinhtevadubao.vn/chi-tiet/91-651-du-bao-tang-truong-va-
lam-phat-nam-2014-va-2015.html
7. Tạp chí tài chính, “Tăng trưởng kinh tế và ngưỡng lạm phát tối ưu”,
02:00, ngày 30/05/2017 http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/tang-
truong-kinh-te-va-nguong-lam-phat-toi-uu-114130.html
8. Tạp chí Kinh tế & Phát triển, Đại học Kinh tế Quốc dân, “Lạm phát và
tăng trưởng kinh tế” http://ktpt.neu.edu.vn/tap-chi/so-190-ii/muc-luc-
179/lam-phat-va-tang-truong-kinh-te-viet-nam-kich-cau-hay-cai-thien-
tong-cung-tiem-nang.373658.aspx
9. Tạp chí Kinh tế & Phát triển, Đại học Kinh tế Quốc dân, “Hiệu ứng
ngưỡng trong mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam” http://ktpt.neu.edu.vn/tap-chi/so-217/muc-luc-726/hieu-ung-
nguong-trong-moi-quan-he-giua-lam-phat-va-tang-truong-kinh-te-o-viet-
nam.374040.aspx
10.Tạp chí Kinh tế & Phát triển, Đại học Kinh tế Quốc dân, “Dự báo tăng
trưởng và lạm phát của Việt Nam năm 2015”, Nguyễn Kim Anh, số 213
tháng 03 năm 2015, tr. 34-41 http://ktpt.neu.edu.vn/tap-chi/so-213/muc-
luc-582/du-bao-tang-truong-va-lam-phat-cua-viet-nam-nam-
2015.373921.aspx
11.Tạp chí Phát triển Kinh tế, Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh,
http://jabes.ueh.edu.vn/Home/SearchArticle?article_Id=3c883df1-ac79-
4405-96f6-a3ed4342c6d7
12.Tạp chí Phát triển Kinh tế, Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh,
http://www.vjol.info/index.php/PTKT/article/view/34546
13.Tạp chí phát triển kinh tế, “Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng
kinh tế: Nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam”, Trương Minh Tuấn,
http://jabes.ueh.edu.vn/Home/SearchArticle?article_Id=f2ca448e-b215-
4d4b-ba31-c5e57d04e0b4