You are on page 1of 21

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

--------------

TIỂU LUẬN

LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH

Đề tài: Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương


pháp nghiên cứu về ảnh hưởng của lạm phát đến tăng
trưởng kinh tế

Giảng viên giảng dạy : TS. Nguyễn Thị Lan

Hà Nội, tháng 12 năm 2018


MỤC LỤC
I. NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI................................................................3
1. NGHIÊN CỨU CỦA ROBERT J. BARRO VỚI ĐỀ TÀI “INFLATION
AND ECONOMIC GROWTH” CÔNG BỐ NĂM 1996.................................3
2. NGHIÊN CỨU CỦA JOAO RICARDO FARIA VÀ FRANCISCO
GALRAO CARNEIRO VỚI ĐỀ TÀI “DOES HIGH INFLATION AFFECT
GROWTH IN THE LONG AND SHORTRUN?” NĂM 2001........................4
3. NGHIÊN CỨU CỦA STANLEY FISCHER VỚI ĐỀ TÀI “ROLE OF
MACROECONOMIC FACTORS IN GROWTH” NĂM 1993.......................5
4. NGHIÊN CỨU CỦA GIRIJASANKAR MALLIK VÀ ANIS
CHOWDHURY VỚI ĐỀ TÀI “INFLATION AND ECONOMIC GROWTH:
EVIDENCE FROM FOUR SOUTH ASIAN COUNTRIES” CÔNG BỐ
NĂM 2001.........................................................................................................6
5. NGHIÊN CỨU CỦA MICHAEL BRUNO VÀ WILLIAM EASTERLY
VỚI ĐỀ TÀI “INFLATION CRISES AND LONG-RUN GROWTH” NĂM
1998 7
II. NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC...............................................................8
1. MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ:
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM Ở VIỆT NAM.............................................8
2. HIỆU ỨNG NGƯỠNG TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT
VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM............................................11
3. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ NGƯỠNG LẠM PHÁT TỐI ƯU.....12
4. MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
TẠI VIỆT NAM THỜI GIAN QUA...............................................................13
5. DỰ BÁO TĂNG TRƯỞNG VÀ LẠM PHÁT NĂM 2014 VÀ 2015....15
6. LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM: KÍCH CẦU
HAY CẢI THIỆN TỔNG CUNG TIỀM NĂNG?..........................................17
III. DANH MỤC THAM KHẢO...................................................................20
Tăng trưởng kinh tế và lạm phát là hai vấn đề cơ bản và lớn trong kinh tế
vĩ mô. Sự tác động qua lại của tăng trưởng kinh tế và lạm phát hết sức phức tạp
và không phải lúc nào cũng tuân theo những qui tắc kinh tế. Lạm phát là một
vấn đề không phải xa lạ và là một đặc diểm của nền kinh tế hàng hoá và ở mỗi
thời kì kinh tế với các mức tăng trưởng kinh té khác nhau sẽ có những mức lạm
phát phù hợp. Do vậy vấn đề lạm phát và ảnh hưởng của lạm phát tới tăng
trưởng kinh tế là một đề tài rất hấp dẫn, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang
trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế hiện nay vấn đề này càng trở nên
cần thiết. Việc xác định mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và lạm phát đã và đang
thu hút sự chú ý của nhiều nhà kinh tế. Mục đích chính là phân tích để khẳng
định và tiến tới xác lập mối quan hệ định hướng giữa tăng trưởng kinh tế với
lạm phát và có thể sử dụng lạm phát là một trong các công cụ quản lý kinh tế vĩ
mô. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì đương nhiên các giải pháp điều hành vĩ
mô đưa ra là nhằm nâng cao lạm phát của nền kinh tế nếu như chúng có quan hệ
thuận với nhau và do vậy các giải pháp như cung ứng tiền, phá giá đồng nội tệ…
sẽ được xem xét ở mức độ hợp lý. Còn không, các nhà hoạch định chính sách
phải cân nhắc các giải pháp vĩ mô để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và yếu tố lạm
phát trở thành thứ yếu. Mặc dù vẫn phải duy trì mức độ kiểm soát. Ở nước ta
trong bối cảnh đổi mới kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng, vấn đề lạm phát
không những là một tiêu thức kinh tế mà còn kiến mang ý nghĩa chính trị nữa.

I. NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI

1. NGHIÊN CỨU CỦA ROBERT J. BARRO VỚI ĐỀ TÀI “INFLATION


AND ECONOMIC GROWTH” CÔNG BỐ NĂM 1996.
Tác giả sử dụng tập dữ liệu bao gồm hơn 100 quốc gia từ năm 1960 đến năm
1990 và một hệ thống phương trình hồi quy trong đó nhiều yếu tố quyết định
tăng trưởng khác được tổ chức không thay đổi để đánh giá ảnh hưởng của lạm
phát đến sự tăng trưởng kinh tế.
Trong nghiên cứu này, tác giả giả định rằng một loạt các chính sách của
chính phủ và lựa chọn khu vực tư nhân là không đổi trong dài hạn. Ví dụ: việc
thực hiện tốt các chính sách công- bao gồm thực hiện các quy tắc của pháp luật
về quyền sở hữu, duy trì sự ổn định của thị trường tư nhân, đâu tư công lớn vào
các khu vực có lợi nhuận cao –sẽ dẫn đến tăng GDP bình quân đầu người trong
dài hạn. Tương tự, khi khu vực tư nhân sẵn sàng tiết kiệm nhiều hơn đầu tư và
người dân có xu hướng giảm chi tiêu cho việc nuôi con, mức sống sẽ có xu
hướng nâng được nâng cao trong dài hạn. Một yếu tố quan trọng khác ảnh
hưởng đến tăng trưởng kinh tế của một quốc gia là nguồn nhân lực. Một đất
nước với nguồn nhân lực dồi dào sẽ dễ dàng hơn trong việc điều chỉnh và bắt
kịp thời đại để trở thành một quốc gia đứng đầu.
Từ những giả định trên cùng những nghiên cứu thực nghiệm, tác giả đưa ra
kết quả sơ bộ về lạm phát như sau: Không có đầy đủ thông tin để khẳng định
chính xác mức độ ảnh hưởng của lạm phát đến sự tăng trưởng kinh tế, nhưng
điều đó không có nghĩa rằng sự ảnh hưởng đó là nhỏ khi lạm phát ở mức thấp.
Để cụ thể, ông một lần nữa đánh giá lại của mối quan hệ giữa tăng trưởng và
lạm phát trên toàn bộ mẫu với các hệ số riêng biệt cho lạm phát trong ba phạm
vi: tối thiểu (<15%), trung bình (15% - 40%) và tối đa (>40%). Từ đó cho thấy
bằng chứng rõ ràng rằng có mối quan hệ tiêu cực giữa tăng trưởng và lạm phát
đến từ khoảng giữa và trên. Ví dụ trong khoảng này, khi tỷ lệ lạm phát trung
bình là 10%/năm, tốc dộ tăng trưởng GDP bình quân đầu người sẽ giảm khoảng
0,2-0,3%/năm, việc này dẫn đến sự sụt giảm của GDP thực tế trong khoảng 30
năm tiếp theo (4-7%).
Tuy nhiên, ở một vài trường hợp, ngay cả khi lạm phát ở mức thấp, vẫn có sự
đánh đổi giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, khi lạm phát ở một
mức tỷ lệ trung bình nhất định, sự thay đổi của lạm phát có thể không có mối
quan hệ đáng kể với tăng trưởng. Có thể giải thích điều này là do sự thay đổi của
lạm phát qua các giai đoạn không được đo lường một cách chính xác, điều đó có
thể tác động tiêu cực đến tăng trưởng. Vấn đề này tác giả chưa đưa ra một kết
luận chắc chắn.

2. NGHIÊN CỨU CỦA JOAO RICARDO FARIA VÀ FRANCISCO GALRAO


CARNEIRO VỚI ĐỀ TÀI “DOES HIGH INFLATION AFFECT GROWTH
IN THE LONG AND SHORTRUN?” NĂM 2001
Bài viết này điều tra mối quan hệ giữa lạm phát và đầu ra trong bối cảnh nền
kinh tế đang đối diện với lạm phát cao liên tục và những cú sốc lạm phát. Các
tác giả nhấn mạnh nhiều lý thuyết hiện có, nêu rõ ba kết quả có thể có của tác
động của lạm phát đối với tăng trưởng: tiêu cực, tích cực hoặc không có. Các tác
giả cũng trích dẫn một số nghiên cứu được hoàn thành bởi các tác giả khác bao
gồm Eckstein và Leiderman (1992), Gillman (1993), Smyth (1992, 1994, và
1995) và De Gregorio (1993). Thông qua việc phân tích dữ liệu của Brazil, các
tác giả thấy rằng lạm phát không tác động tăng trưởng trong dài hạn, nhưng
trong ngắn hạn có tồn tại đáng kể tác động tiêu cực của lạm phát lên sản lượng.
Các tác giả áp đặt tối thiểu cấu trúc và sử dụng ý tưởng rằng những cú sốc lạm
phát có thể được chia nhỏ thành các thành phần cố định và tạm thời.
Dữ liệu được sử dụng trong bài viết bao gồm tỷ lệ lạm phát hàng tháng và
sản lượng thực tế trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 1980 đến tháng 7 năm
1995. Các tác giả cơ sở lấy dữ liệu từ Viện Kinh tế và Địa lý của Braxin.
Các tác giả sử dụng mô hình chuỗi thời gian hai chiều dựa trên phương pháp
luận sau phân tích Blanchard and Quay (1989) với mô hình VAR.Vì vậy, mối
quan tâm chính của bài báo là ước tính phản ứng dài hạn của đầu ra với một cú
sốc lạm phát vĩnh viễn. Họ đặt ra giả định rằng một rối loạn bất kì trong nền
kinh tế không có ảnh hưởng lâu dài đến một trong các biến nội sinh của nền kinh
tế. Trong khuôn khổ của các tác giả, một sốc có liên quan đến những thay đổi
vĩnh viễn trong lạm phát và một là bị hạn chế chỉ có tác động tạm thời đối với
lạm phát. Cú sốc vĩnh viễn được giả định là kết quả của những thay đổi vĩnh
viễn trong tốc độ tăng trưởng của tiền, cú sốc tạm thời để lạm phát, tuy nhiên, nó
được phép có một ảnh hưởng vĩnh viễn đến lạm phát.
Các kết quả trong bài viết này có thể được coi là bằng chứng chống lại quan
điểm rằng lạm phát và đầu ra có liên quan trong dài hạn. Những kết quả này
được lập luận để ủng hộ Sidrauski (1967) về lập luận sự trung lập của tiền trong
thời gian dài, trong đó lạm phát không ảnh hưởng đến tăng trưởng dài hạn. Tuy
nhiên, trong ngắn hạn, nó đã cung cấp mâu thuẫn bằng chứng chống lại mô hình
của Sidrauski. Đang ước tính một mô hình ngắn hạn cho thay đổi về sản lượng
so với những thay đổi trong lạm phát, các tác giả nhận thấy rằng số liệu thống kê
kiểm tra đã đạt yêu cầu và đáng kể. Kết quả chỉ ra rằng trong trong ngắn hạn,
lạm phát có tác động tiêu cực đến sản lượng.

3. NGHIÊN CỨU CỦA STANLEY FISCHER VỚI ĐỀ TÀI “ROLE OF


MACROECONOMIC FACTORS IN GROWTH” NĂM 1993
Trong bài viết, Fischer đã thiết lập một khuôn khổ để xác định các kênh có
thể từ chính sách kinh tế vĩ mô đến tăng trưởng. Trong đó, tác giả xác định mức
độ đáp ứng của tăng trưởng với lạm phát, thâm hụt ngân sách và sự biến dạng
thị trường ngoại hối, xem xét kỹ nguyên nhân, mối quan hệ và các kênh thông
mà nó hoạt động. Tác giả đưa ra các minh họa trong trường hợp khi lạm phát
thấp không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế ngay cả trong thời gian dài, tuy
nhiên lạm phát cao lại không phù hợp với phát triển bền vững.
Tác giả sử dụng tập dữ liệu hoàn chỉnh bao gồm một số tài liệu kinh tế vĩ mô,
các biến lạm phát giá tiêu dùng tương ứng với 93 quốc gia.
Trong bài viết, bên cạnh việc sử dụng các bảng hồi quy đơn giản, Fischer cũng
sử dụng một hàm sản xuất đơn giản dựa trên cách tiếp cận tiên phong của Victor
Elias (1992). Cách tiếp cận này tương tự hồi quy của kế toán tăng trưởng, giúp
xác định các kênh mà thông qua đó các biến kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến tăng
trưởng. Như một vấn đề kế toán, tăng trưởng có thể là do tăng nguồn cung
các yếu tố đầu vào, phản ánh những thay đổi trong hiệu quả mà các yếu tố được
sử dụng. Phép hồi quy mặt cắt ngang dựa trên những điều này để xác định kết
quả trong khung kế toán tăng trưởng.
Từ những điều trên, Fischer rút ra kết luận: Lạm phát có tương quan đáng kể
với tốc độ tăng trưởng. Một mô hình hồi quy đơn giản có thể xác nhận mối quan
hệ giữa lạm phát, lạm phát thay đổi và tăng trưởng. Khung kế toán tăng trưởng
đã xác định các kênh chính thông qua đó, lạm phát làm giảm tăng trưởng. Tác
giả đã chỉ ra rằng, phù hợp với lý thuyết và nghiên cứu trước đây, lạm phát ảnh
hưởng đến tăng trưởng bằng cách giảm đầu tư, và giảm tỷ lệ tăng trưởng năng
suất. Kiểm tra các trường hợp đặc biệt cũng cho thấy rằng lạm phát thấp và thâm
hụt nhỏ không cần thiết cho sự tăng trưởng cao ngay cả trong thời gian dài, lạm
phát cao không nhất quán với tăng trưởng bền vững.

4. NGHIÊN CỨU CỦA GIRIJASANKAR MALLIK VÀ ANIS CHOWDHURY


VỚI ĐỀ TÀI “INFLATION AND ECONOMIC GROWTH: EVIDENCE
FROM FOUR SOUTH ASIAN COUNTRIES” CÔNG BỐ NĂM 2001.
Mục đích của bài viết này là để điều tra mối quan hệ giữa lạm phát và
tăng trưởng kinh tế của 4 mước Nam Á: Bangladesh, Ấn Độ, Pakistan và Sri
Lanka. Lý do cho bài này rất đơn giản: các nước này chịu áp lực từ các cơ quan
cho vay quốc tế (IMF, Ngân hàng Thế giới và ADB) để giảm tỷ lệ lạm phát của
họ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Không có quốc gia nào trong số này có
khủng hoảng lạm phát cao (trừ Bangladesh chỉ trong thời gian 1972-1974); tỷ lệ
lạm phát từ 7 đến 10% có thể được coi là vừa phải. Bên cạnh các mô hình DF và
ADF, tác giả sử dụng mô hình Phillips-Perron (PP) (Phillips và Perron, 1988) để
đưa ra những ước tính chính xác trong trường hợp cấu trúc thị trường bị phá vỡ.
Bài viết cũng bổ sung các kết quả bằng phép thử tối đa hóa khả năng được đề
xuất bởi Johansen (1988) và Johansen và Juselius (1990).
Tác giả chia bài viết làm 3 phần.
Phần I: Mô tả mô hình kinh tế lượng
Để kiểm tra mức độ tăng trưởng kinh tế có liên quan đến lạm phát và ngược
lại, lý thuyết về mô hình ECM được áp dụng. Theo đó, nếu hai chuỗi thời gian
được tích hợp theo cùng một thứ tự thì có thể tiến hành ước tính của theo
phương pháp hồi quy đồng kết hợp sau đây:
yt = a11 + b11. pt + µt (ia)
pt = a21 + b21. yt + ηt (ib)
Trong đó: yt là tốc độ tăng trưởng kinh tế
pt là tỷ lệ lạm phát tại thời điểm t
µt và ηt là sai số ngẫu nhiên
Phần II: Đưa ra dữ liệu và phân tích các kết quả thực nghiệm
Trong phần này, tác giả sủ dụng dữ liệu hàng năm từ CD-ROM thống kê tài
chính quốc tế của IMF, kết hợp các mô hình DF, ADF, PP, phương trình kết hợp
(ia) và (ib) để rút ra hai phát hiện thú vị, nhất quán cho cả bốn quốc gia: (1) Mối
quan hệ giữa lạm phát và tốc độ tăng trưởng là tích cực: (2) Ước tính độ co giãn
(ở giữa điểm) cho tỷ lệ lạm phát (pt) lớn hơn so với tăng trưởng (yt) hay độ nhạy
cảm của lạm phát đối với những thay đổi trong tốc độ tăng trưởng lớn hơn độ
nhạy cảm của tốc độ tăng trưởng với những thay đổi về tỷ lệ lạm phát.
Phần III: Rút ra kết luận
Có một mối quan hệ tích cực lâu dài giữa tốc độ tăng trưởng GDP và lạm phát
cho cả bốn quốc gia. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc hoạch
định chính sách. Trái ngược với lời khuyên chính sách của các cơ quan cho vay
quốc tế, nỗ lực giảm lạm phát xuống mức rất thấp (hoặc bằng 0) có thể ảnh
hưởng bất lợi đến tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nỗ lực để đạt được tăng
trưởng kinh tế nhanh hơn có thể làm nóng nền kinh tế dẫn đến mức tỷ lệ lạm
phát trở nên không ổn định. Do đó, các nền kinh tế này đang ở trên một cạnh
dao. Thách thức cho họ là phải tìm tốc độ tăng trưởng phù hợp với tỷ lệ lạm phát
ổn định. Họ cần lạm phát cho tăng trưởng, nhưng tốc độ tăng trưởng quá nhanh
có thể đẩy nhanh tốc độ lạm phát và đưa họ xuống dốc như Bruno và Easterly
(1998) tìm thấy.

5. NGHIÊN CỨU CỦA MICHAEL BRUNO VÀ WILLIAM EASTERLY VỚI


ĐỀ TÀI “INFLATION CRISES AND LONG-RUN GROWTH” NĂM 1998
Bài viết này được khởi xướng về cơ bản để kiểm tra các yếu tố quyết định
tăng trưởng kinh tế. Bruno và Easterly, trong việc thực hiện nghiên cứu, đề xuất
một định nghĩa không cân đối về các cuộc khủng hoảng lạm phát cao gọi là
"thời kỳ lạm phát hàng năm trên 40% ”. Mục tiêu của họ là xây dựng một lý
thuyết mới phát triển từ cuộc sống hiện thực.
Hai tác giả sử dụng chuỗi dữ liệu gồm CPI hàng năm của 26 quốc gia từng
xảy ra khủng hoảng lạm phát tại trong giai đoạn 1961-1992. Các ngưỡng cho
một cuộc khủng hoảng lạm phát là tỷ lệ lạm phát từ 40% trở lên.
Bruno và Easterly chọn các quốc gia xảy ra khủng hoảng lạm phát từ 40 phần
trăm trở lên. Tiếp theo là đánh giá sự tăng trưởng của đất nước trước, trong và
sau khi khủng hoảng lạm phát xảy ra. Độ bền của kết quả được kiểm tra bằng
cách kiểm soát các kết quả khác như khủng hoảng chính trị, các cú sốc thương
mại và chiến tranh.
Từ đó, Bruno và Easterly tìm thấy một mối quan hệ tiêu cực giữa lạm phát
và tăng trưởng, được thiết lập vững chắc khi nhìn vào thời gian kết hợp tăng
trưởng với các cuộc khủng hoảng lạm phát cao rời rạc. Tuy nhiên, họ cũng nhận
thấy ảnh hưởng của lạm phát ở mức thấp đến tăng trưởng kinh tế là rất mơ hồ.
Theo kết quả thu được, quan hệ nhân quả vẫn được duy trì, nhưng kết quả của
họ phù hợp với quan điểm rằng ảnh hưởng của lạm phát chỉ trở nên đáng kể ở
mức lạm phát tương đối cao. Tại tỷ lệ thấp hơn của lạm phát, tăng trưởng và lạm
phát có thể chỉ đơn giản là cùng gặp khó khăn bởi các cú sốc cung và cầu khác
nhau và không cho thấy mẫu phù hợp.
Họ cũng tìm thấy sự phục hồi mạnh mẽ của sự tăng trưởng sau thành công
của việc giảm lạm phát khi ở mức cao. Các tác giả kết luận rằng một cuộc khủng
hoảng lạm phát sẽ không ảnh hưởng đến tỷ lệ lạm phát trung bình trong dài hạn,
nó sẽ không làm thay đổi tỷ lệ tăng trưởng trung bình dài hạn nếu có đủ thời
gian để phục hồi từ cuộc khủng hoảng. Khủng hoảng lạm phát, như họ tin rằng,
có tác động tạm thời lên đầu ra nhưng không ảnh hưởng vĩnh viễn đến tăng
trưởng đầu ra. Do đó, khủng hoảng lạm phát có thể chỉ ảnh hưởng trong một chu
kì của nề kinh tế, mặc dù sự thay đổi theo chu kỳ thực sự lớn.

II. NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC

1. MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ:


NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM Ở VIỆT NAM
Trương Minh Tuấn
Trường Đại học Kinh tế TPHCM
Tạp chí Phát triển kinh tế 278 (12/2013) 02-12.
Ngày nhận: 24/07/2013
Ngày nhận lại: 05/09/2013
Ngày duyệt đăng: 25/11/2013
Mã số: 07-13-DE-16

Lạm phát và tăng trưởng kinh tế là hai chỉ số kinh tế vĩ mô quan trọng. Mối
quan hệ giữa hai chỉ số này tác động đến nhiều mặt của nên kinh tế như tiết
kiệm, đầu tư, mức sống của người dân… Bài viết này nghiến cứu mối tương
quan giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở VN thông qua việc kiếm định mối
quan hệ nhân quả trong mô hình hồi quy đa biến gồm: lạm phát, tăng trưởng
kinh tế, giá dầu, cung tiền và tỷ giá hối đoái. Bài viết sử dùng mô hình VAR và
ECM để kiểm định mối quan hệ nhân quả và tìm ra mối tương quan giữa lạm
phát và tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn. Kết quả nghiên cứu cho
thấy có mối quan hệ dài hạn giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Để thực hiện
mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững, cần có chiến lược phát triển kinh tế từ
ngắn hạn đến dài hạn theo hướng ưu tiên phát triển kinh tế trong ngắn hạn để tạo
đà kiềm chế lạm phát trong dài hạn.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng đồng thời phương pháp hồi
quy đồng liên kết, mô hình sai số hiệu chỉnh (ECM) cà phương pháp phân tích
phương sai dựa trên mô hình VAR để xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và
lạm phát ở VN trong ngắn hạn và dài hạn.
Quy trình nghiên cứu được thực hiện như sau:
Bước 1: Thu thập dữ liệu;
Bước 2: Kiểm định tính dừng của dãy số thời gian. Nếu là chuỗi dừng, chuyển
sang bước 4; nếu là chuỗi không ngừng thì thực hiện bước 3l
Bước 3: Sử dụng sai phân để đưa chuỗi thời gian từ không dừng thành chuỗi
dừng;
Bước 4: Lựa chọn mô hình chi tiết trong mô hình ECM và VAR;
Bước 5: Kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế.

Nghiên cứu này sử dụng mô hình hồi quy đa biến của McCarthy (2006) để đánh
giá mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế dựa trên việc phân tích
chuỗi thơi gian và tìm hiểu tác động của các cú sốc vào trong chỉ số giá. Trong
mô hình này, chỉ số giá ở thời kỳ t được giả định chịu ảnh hưởng bởi một số yếu
tố sau:
- Thứ nhất là tác động của cú sốc cầu.
- Thứ hai là tác động của cú sốc cung.
- Thứ ba là tác động của cú sốc tiền tệ.
- Thứ tư là tác động của cú sốc tỷ giá hối đoái.
- Thứ năm là tác động của cú sốc lãi suất.
Hàm số lạm phát: CPI = f(GDP, OIL, M2, E)
Quá trình kiểm định được thực hiển qua các bước:
Bước 1: Kiểm định tính dừng của chuỗi thời gian đối với các biến trong mô hình
bằng phương pháp kiểm định nghiệm đơn vị;
Bước 2: Kiểm định tính đồng liên kết;
Bước 3: Ước lượng mô hình sai số hiệu chỉnh ECM để phân tích mối qua hệ
trong dài hạn giữa lạm phát và tăng trưởng;
Bước 4: Kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế.

Kết quả kiểm nghiệm đơn vị: Tác giả sử dụng phương pháp ADF để kiểm
định tính dừng của các biến. Kết quả kiểm nghiệm cho thấy các chuỗi thời gian
trong mô hình ngoài chuỗi lnI là chuỗi dừng, các chuỗi còn lại đều là chuỗi
không dừng. Tuy nhiên các chuỗi sai phân bậc 1 của lvG, lnOIL, lnM và lnE
đều là chuỗi dung. Như vậy, có thể tồn tại mối quan hệ đồng liên kết trong dài
hạn giữa các biến trong mô hình.
Xác định tính đồng liên kết và kiểm định mối quan hệ trong dài hạn giữa tăng
trưởng kinh tế và lạm phát: Giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ
đồng liên kết, tức là có mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa hai biến này. Tất
nhiên trong ngắn hạn có sự mất cân bằng. Kết quả chỉ ra rằng sự thay đổi trong
ngắn hạn của tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng ngược chiều lên tăng trưởng và
khoảng 47% sai biệt giữa các giá trị thực tế và giá trị dài hạn cảu tăng trưởng
được loại trừ sau mỗi quý. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát
trong dài hạn là nghịch biến đồng thời là giá trị tuyệt đối của hệ số này nhỏ hơn
1 chứng tỏ trong dài hạn, lạm phát sẽ giảm ít hơn so với tốc độ tăng của GDP.

Kết quả kiểm định quan hệ nhân quả Granger trong mô hình VAR: có
thể thấy trong ngắn hạn, tốc độ tăng trưởng kinh tế chịu ảnh hưởng bởi lạm phát.
Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ ra rằng tác động ngược lại là lạm phát ảnh hưởng đến
tăng trưởng kinh tế là không có ý nghĩa thống kê.

Phân tích: Tăng trưởng kinh tế và lạm phát có mối quan hệ nghịch biến
trong cả dài hạn và ngắn hạn.
Trong ngắn hạn, sự thay đổi của tăng trưởng kinh tế chậm hơn sự thay đổi
trong lạm phát. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, sự thay đổi của lạm phát lại ảnh
hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế và mức thay đổi trong lạm phát cao hơn
mức thay đổi trong tăng trưởng kinh tế; Tác động của tăng trưởng kinh tế đến
lạm phát trong ngắn hạn không có ý nghĩa thống kê, tuy nhiên tăng trưởng kinh
tế lại chịu tác động bởi lạm phát theo quan hệ nghịch biến. (Theo kết quả ước
lượng mô hình VAR).
Trong dài hạn, lạm phát và tăng trưởng kinh tế đồng liên kết với nhau theo
quan hệ nghịch biến. Khi tăng trưởng kinh tế tăng 1% thì lạm phát giảm 0,037%
và ngược lại. Do đó, để theo đuổi mục tiêu tăng trưởng bền vững phỉ kiềm chế
lạm phát trong dài hạn.

Hạn chế của nghiên cứu:


- Nguồn số liệu: Số liệu được tổng hợp từ nhiều nguồn và thời gian thu
thập dữ liệu còn hạn chế. Do đó không tránh khỏi những sai số trong
quá trình tập hợp dữ liệu và tính khách quan của dữ liệu chưa cao.
- Nghiên cứu chưa phân tích và xác định các yếu tố tác dộng đến lạm
phát và tăng trưởng kinh tế một cách chi tiết mà chỉ phân tích tác động
qua lại giữa hai chỉ số kinh tế vĩ mô này.
2. HIỆU ỨNG NGƯỠNG TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM
Th.S Hồ Thị Lam
Báo Kinh tế & Phát triển, số 217 tháng 7/2015
Ngày nhận: 20/10/2014
Ngày nhận bản sửa: 17/12/2014
Ngày duyêt đăng: 30/5/2015

Bài viết là một nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa lạm phát và
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian trong giai đoạn
1980-2014 và áp dụng cách tiếp cận ARDL bounds test được phát triển bởi
Pesaran và các cộng sự (2001) để kiểm định mối quan hệ đồng liên kết trong dài
hạn giữa các biến, tác giả tìm thấy lạm phát và tăng trưởng kinh tế cũng như các
biến kiểm soát có mối liên hệ mật thiết vơi nhau trong cả ngắn hạn và dài hặn.
Ngoài ra, nghiên cứu xem xét liệu có tồn tại hiệu ứng ngưỡng trong mối quan hệ
giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế hay không. Kết quả là đáng chú ý với mức
ngưỡng được tìm thấy là 8%. Có nghĩa rằng quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng không phải là tuyến tính, tương quan là dương trong khoảng dưới
ngưỡng và khi làm phát vượt ngưỡng thì tương quan trở nên âm.

Phương pháp nghiên cứu: Mục đích của bài nghiên cứu là nhằm điều tra
mối quan hệ giữa tỷ lệ lạm phát ( π ) và tốc độ tăng trưởng kinh tế thực (y) đồng
thời ước lượng ngưỡng lạm phát tối ưu ở Việt Nam trong giai đoạn 1980-2014.
Các biến tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP (igdp), tốc độ tăng dân số (pop) và tỷ lệ tăng
trưởng thương mại (tot) được đưa vào mô hình như là các biến kiểm soát nhằm
phản ánh các kênh tác dộng qua lại giữa hai biến số. Các biến kiểm soát được
lựa chọn là các biến quan trọng nhất có tác động lên mối quan hệ giữa hai biến
(Khan và Senhadji, 2001). Bài viết sử dụng mô hình ARDL Bound Test để mô
hình hóa mối quan hệ của các biến. Bằng các ước lượng hồi quy cho các giá trị
khác nhau của π*, được tác giả chọn theo kết quả ngưỡng tối ưu được tìm thấy
cho các nước đang phát triển bởi Khan và Senhadji (2001) từ 7-11%, mức
ngưỡng tối ưu là mức mà ước lượng của nó làm tối thiểu bình phương các phần
dư (RSS).

Dữ liệu hàng năm của các biến tốc độ tăng trưởng kinh tế thực (y), tỷ lệ lạm
phát (π), tỷ lệ đầu tư trên GDP (igdp), tỷ lệ tăng trưởng dân số (pop) và tỷ lệ
tăng trưởng thương mại (tot) trong giai đoạn 1980-2014 được thu thập từ Quỹ
tiền tệ thế giới IMF, mục World Economic Outlook (WEO). Tương quan giữa
tốc độ tăng trưởng kinh tế thực và tỷ lệ lạm phát là dương ở mức lạm phát thấp
và trở nên âm khi lạm phát ở mức cao, tương tự như kết quả được tìm thấy bởi
Ghosh và Philips (1998) và Khan và Senhadji (2001).

Kết quả kiểm định hiệu ứng ngưỡng: Tác giả thực hiện kiểm định ngưỡng
cho Việt Nam trong khoảng 7-11% để tìm ra mức ngưỡng tối ưu nhất. Giá trị tối
ưu của π* được chọn là 8%, tương ứng với RSS nhỏ nhất và R 2 là lớn nhất, đồng
thời các hệ số ước lượng có ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Kết quả phù hợp với
Sarrel (1996).

Sử dụng mô hình ARDL bound test, tác giả tìm thấy tỷ lệ lạm phát và tốc độ
tăng trưởng kinh tế cùng với nhau cả trong ngắn hạn và dài hạn. Tác động trong
dài hạn của lạm phát tới tăng trưởng kinh tế được tìm thấy là tác động âm.
Nghiên cứu đồng thời tìm ra mức ngưỡng tối ưu cho lạm phát ở Việt nam là 8%.
Từ những kết quả thu được, tác giả khuyến nghị Chính phủ không nên kiềm chế
lạm phát ở mức thấp. Dưới mức 8%, lạm phát tác động dương đến tăng trưởng,
chỉ khi vượt mức qua mức 8% lạm phát mới tác động tiêu cực tới tăng trưởng.
Do đó, để đạt được tốc độ tăng trưởng khá, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước trong xu thế hội nhập, nước ta cần xem xét duy trì lạm
phát ở mức tối ưu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

3. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ NGƯỠNG LẠM PHÁT TỐI ƯU


TS. Nguyễn Anh Phong
Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Tạp chí Tài Chính, 30/05/2017.

Bài viết nghiên cứu quan hệ giữa tăng trưởng và kinh tế lạm phát tại Việt
Nam giai đoạn từ năm 1992 đến 2016. Bằng kỹ thuật Bootstap, nghiên cứu tìm
ra ngưỡng lạm phát tối ưu tại Việt Nam là ở mức 3,22%/năm, nghĩa là muốn có
tăng trưởng kinh tế tốt, cần duy trì lạm phát ở mức vừa phải (3,22%/năm). Nếu
lạm phát cao hơn mức này, khả năng suy giảm tăng trưởng sẽ xuất hiện. Để giữ
cho tăng trưởng đạt mục tiêu, Chính phủ buộc phải nới lỏng các chính sách tài
khóa và tiền tệ, việc làm này khiến lạm phát lại tăng lên.

Kết quả nghiên cứu


Theo Keynes và các nghiên cứu đã phân tích cho thấy, giữa tăng trưởng với
lạm pháp có mối quan hệ phi tuyến (đường cong).
Do đó, tác giả sử dụng hồi quy ngưỡng theo phương pháp của Hansen để xác
định ngưỡng lạm phát tối ưu cho Việt Nam, với dữ liệu được thu thập từ năm
1992 cho đến năm 2016 (sử dụng phương pháp bootstrap 1000 lần, nhằm tăng
số mẫu và độ tin cậy cho bộ dữ liệu nghiên cứu). Kết quả cho thấy, tồn tại quan
hệ ngưỡng giữa tăng trưởng và lạm phát, với ngưỡng lạm phát tối ưu là
3,22%/năm.

Như vậy, nếu mức lạm phát được giữ ở mức dưới ngưỡng này sẽ kích thích
cho tăng trưởng kinh tế (lạm phát tăng thêm 1% thì kinh tế tăng trưởng thêm
0,45%).

Ngoài ra, trong ngưỡng này thì tăng độ sâu tài chính cũng giúp tăng trưởng (độ
sâu tài chính tăng thêm 1% giúp tăng trưởng kinh tế thêm 0,37%), ngược lại
tăng chi tiêu chính phủ nếu không đẩy mạnh tăng thu nhập thì tạo hiệu ứng
ngược (tỷ lệ chi tiêu chính phủ so GDP tăng 1% làm tăng trưởng giảm 1,33%).

Với mức lạm phát trên 3,22%/năm sẽ tạo hiệu ứng kiềm chế tăng trưởng, tuy
nhiên cũng ở mức thấp (lạm phát tăng 1%, tăng trưởng kinh tế giảm 0,005%).

Ngoài ra, nếu mức lạm phát trên 3,22%, các chỉ số về độ sâu tài chính, hay chi
tiêu chính phủ so với GDP đều có quan hệ thuận chiều và kích thích tăng
trưởng, đặc biệt ảnh hưởng của chi tiêu chính phủ/GDP lên tăng trưởng rất cao
(tỷ lệ này tăng 1%, tăng trưởng kinh tế thêm 0,84%).

Kết quả nghiên cứu này khá tương đồng với nghiên cứu của Khan (2005) tìm
ra ngưỡng lạm phát tối ưu ở các nước Trung Đông và Trung Á là khoảng
3,2%/năm, hay nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (2006) về mức độ lạm phát
ở Việt Nam với các nước Đông Nam Á.

4. MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI


VIỆT NAM THỜI GIAN QUA

Trần Hoàng Ngân, Vũ Thị Lệ Giang, Hoàng Hải


Trường Đại học Kinh tế TPHCM
Tạp chí Phát triển kinh tế 276 (10/2013) 02-10
Ngày nhận: 30/05/2013
Ngày nhận lại: 12/08/2013
Ngày duyệt đăng: 30/09/2013
Mã số: 05-13-DE-15

Lịch sử lạm phát của VN 33 năm qua cho thấy phần lớn thời gian nước ta
lâm vào tình trạng lạm phát cao và mức lạm phát cao này ảnh hưởng nghiêm
trọng đến đời sống người lao động, người có thu nhập thấp và ảnh hưởng đến
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vì thế trong bài viết này, nhóm tác giả thực hiện một
nghiên cứu xác định ngưỡng lạm phát tại VN nên ở mức nào sẽ hỗ trợ tốt cho
tăng trưởng kinh tế. Để thực hiện nghiên cứu, nhóm tác giả tiến hành thu thập
dữ liệu thống kê nhằm xác định mối tương quan giữa lạm phát (tính bằng chỉ số
giá tiêu dùng CPI) và tốc độ tăng trưởng kinh tế (tính bằng tốc độ tăng GDP) ở
VN trong vòng 26 năm (1987-2012). Mối quan hệ này cũng được tác giả so sánh
giữa hai giai đoạn 1987-2000 và 2001-2012. Kết quả nghiên cứu cho thấy
ngưỡng lạm phát CPI ở VN nên ở mức 5-7%/năm.

Phương pháp nghiên cứu: Định lượng kết hợp định tính được sử dụng để
thực hiện nghiên cứu này. Với số liệu thu thập được từ báo cáo thường niên của
Tổng cục Thống kê, nhóm tác giả sử dụng phần mềm SPSS để xác định mối
tương quan giữa hai biến lạm phát (CPI) và tăng trưởng kinh tế (tốc độ tăng
GDP). Phần mềm SPSS tiếp tục được sử dụng trong quá trình xác định ngưỡng
lạm phát ở VN. Tuy nhiên, để có được kết luận ngưỡng lạm phát ở VN nên là
bao nhiêu nhóm tác giả sử dụng phương pháp phỏng vần chuyên gia đề có thêm
thông tin cho những lập luận.

Dữ liệu: Báo cáo thưởng niên của Tổng cục thống kê; Thực hiện một cuộc
khảo sát đối với các chuyên gia kinh tế đang làm công việc giảng dạy ở các
trường đại học, công tác tại viện nghiên cứu và các nhà quản lý ngân hàng, tổng
công ty trên địa bàn TPHCM.

Kết quả nghiên cứu:


- Lạm phát và tốc độ tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ qua lại với
nhau. Tuy nhiên đó là mối quan hệ tỉ lệ nghịch hay thuận còn tùy
thuộc vào mức lạm phát xem xét.
- Nếu chỉ sử dụng hệ số tương quan giữa CPI và tốc độ tăng GDP để
đưa ra các con số dự báo về tỉ lệ lạm phát khi muốn đạt tốc đọ tăng
trưởng ở mức nhất định hoặc ngược lại đưa ra con số dự báo về tốc độ
tăng trưởng kinh tế nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát ở một mức nhất
định là không chính xác. Bởi lạm phát chỉ là một yếu tố, dù quan
trọng, trong vô vàn các yếu tố khác tác động tới tăng trưởng kinh tế.
- Mức lạm phát được coi là ngưỡng lạm phát khi lạm phát lớn hơn mức
này thì tăng trưởng kinh tế có quan hệ tỷ lệ nghịch và ngược lại.
- Ngưỡng lạm phá ở VN là 5-7%. Ở mức này, thì lạm phát ảnh hưởng
tích cực mạnh đến tăng trưởng kinh tế. Ở khoảng này, lạm phát có thể
giải thích được xấp xỉ 65% sự thay đổi của GDP.

5. DỰ BÁO TĂNG TRƯỞNG VÀ LẠM PHÁT NĂM 2014 VÀ 2015

TS. Hà Quỳnh Hoa


Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 8/2014

Để dự báo 2 chỉ số kinh tế quan trọng lạm phát và tăng trưởng kinh tế, nhóm
nghiên cứu sử dụng mô hình SARIMA.
Dự báo của quốc tế: Nhìn chung, các tổ chức quốc tế đều dự báo tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2014 dao động trong khoảng 5,4% -5,6%
(thấp hơn so với chỉ tiêu mà Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ Sáu thông qua cuối
năm 2013 là 5,8%) và lạm phát biến động quanh mức 6,5% - 7,9%.
Mô hình ARIMA
ARIMA là mô hình sự báo chuỗi thời gian đơn biến được Box, G.E.P., và
G.M. Jenkins giới thiệu vào năm 1976 dựa trên ý tưởng cho rằng, chuỗi thời
gian có thể giải thích bằng cách kết hợp các hành vi hiện tại và trong quá khứ
với các yếu tố ngẫu nhiên không giải thích được ở hiện tại và quá khứ (gọi là các
nhiễu). Quá trình xây dựng mô hình này đòi hỏi chuỗi thời gian phải dừng,
chính vì vậy, thực chất ARIMA là gộp của các mô hình: mô hình tự hồi quy
(AR); quá trình tích hợp (I); mô hình trung bình trượt (MA).
Mô hình tự hồi quy (Autoregressive) AR(p): là quá trình trong đó giá trị
dự báo dựa trên các giá trị trong quá khứ của nó. Giá trị của chuỗi thời gian
được xác định là dừng và tồn tại mối quan hệ phụ thuộc tuyến tính của các phân
tử chuỗi vào phần tử p của nó cộng với nhiễu trắng không tương quan với nó, thì
chuỗi này được gọi là quá trình tự hồi quy bậc p:
Trong đó α1, α2,…, αp là p hệ số tự hồi quy được lựa chọn để sinh ra giá
trị dự báo phù hợp nhất cho Xt qua các giá trị quá khứ Xt−1; Xt−2, ..., Xt−p, và
εt là nhiễu trắng có trung bình bằng 0.
Điều kiện để quá trình AR(p) hội tụ là -1 < αi < 1 với i = 1,… p, hàm ý
trọng số đặt trên các phần từ giảm dần. Điều này phù hợp thực tiễn, đó là ảnh
hưởng của các yếu tố càng cũ thì càng ít tác động đến các giá trị hiện tại.
Mô hình trung bình trượt (Moving Average) MA(q): giá trị của chuỗi thời
gian tại thời điểm hiện tại được xác định từ trung bình trượt (có trọng số) của
nhiễu tại thời điểm hiện tại và q thời điểm trước đó:
Với βi là các hệ số không đổi, εi là các nhiễu trắng có trung bình bằng 0.
Quá trình xây dựng mô hình ARIMA đòi hỏi chuỗi thời gian dừng. Tuy
nhiên, trên thực tế chuỗi thời gian thường không dừng, do vậy cần biến đổi
chuỗi thời gian trở thành chuỗi dừng. Phương pháp chủ yếu thường được sử
dụng là lấy sai phân để chuỗi biến đổi thu được là chuỗi dừng và chuỗi này được
gọi là chuỗi tích hợp. Khi lấy sai phân bậc d để chuỗi cuối cùng thu được là
chuỗi dừng thì được gọi là chuỗi tích hợp bậc d: I(d).
Như vậy, mô hình ARIMA(p,d,q) sẽ bao gồm mô hình tự hồi quy AR(p),
mô hình trung bình trượt MA(q) và quá trình tích hợp I(d). Mô hình ARIMA
được thực hiện theo phương pháp Box-Jenkins với bốn bước lặp: nhận dạng mô
hình thử nghiệm; ước lượng; kiểm định bằng chuẩn đoán; và dự báo.
Trong thực tế nghiên cứu cho thấy, tồn tại rất nhiều chuỗi thời gian thể
hiện các mẫu lặp lại có yếu tố mùa vụ. Phân tích, dự báo chuỗi thời gian có yếu
tố mùa vụ, người ta thường sử dụng ARIMA mùa vụ (SARIMA).
Dự báo GDP và CPI của Việt Nam bằng mô hình ARIMA
Dự báo GDP
Khi khảo sát chuỗi số liệu, tác giả nhận thấy chuỗi GDP có xu thế và biến
động có tính chu kỳ.
Để giảm bớt tính xu thế, trước hết chuỗi này được biến đổi qua hàm
logarit (LNGDP). Tuy nhiên, dựa trên lược đồ tương quan thì chuỗi LNGDP vẫn
mang tính mùa vụ. Đồng thời, thông qua lược đồ tương quan của chuỗi này cũng
gợi ý rằng, chuỗi LNGDP có sự tương quan theo mùa vụ với trễ mùa vụ s = 4.
Bởi vậy, để loại bỏ quan hệ tự tương quan theo mùa vụ, thì chuỗi này đã được
lấy sai phần bậc 1 theo trễ mùa vụ.
Dựa trên kết quả kiểm định và chuẩn đoán, mô hình được sử dụng để dự
báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2014 và 2015 gồm 2 mô hình: mô hình
1 là mô hình SARIMA(3,1,3)x(1,2,1)4 và mô hình 2 là mô hình
SARIMA(2,1,1)x(1,1,1)4. Kết ước lượng được từ mô hình 1 và mô hình 2 là khá
tốt, các hệ số ước lượng được đều có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 1%, giá
trị của R2 ước lượng khá cao lần lượt bằng 0,673 và 0,785. Kiểm định nghiệm
đơn vị của phần dư trong 2 mô hình ước lượng cho thấy, phần dư là nhiễu trắng.
Như vậy, có thể sử dụng 2 mô hình này để thực hiện dự báo.

Dự báo CPI
Trong phần này, mô hình SARIMA vẫn được sử dụng để dự báo tốc độ
tăng CPI của Việt Nam trong năm 2014 và 2015. Số liệu CPI sử dụng trong mô
hình dự báo được thu thập từ Tổng cục Thống kê gồm 170 quan sát, là giá trị
của CPI theo tháng với năm cơ sở là năm 2009, từ tháng 1/2000 đến tháng
2/2014. Sau khi thực hiện các kiểm định cần thiết để nhận dạng mô hình, chúng
tôi thấy chuỗi CPI không dừng, đồng thời chuỗi LNCPI (là giá trị logarít của
chuỗi CPI) có sự tương quan theo mùa vụ với trễ mùa vụ s=12. Sau khi loại bỏ
tương quan theo mùa và lấy sai phân bậc 1 của chuỗi LNCPI_DS, thì chuỗi
LNCPI_DS1 là dừng. Như vậy, mô hình SARIMA được sử dụng trong dự báo
tốc độ tăng của CPI cho năm 2014 và 2015 gồm 2 mô hình: mô hình 1 là
SARIMA(3,1,2)x(0,1,1)12 và mô hình 2 là SARIMA(9,1,2)x(0,1,1)12.

Kết luận
Theo dự báo trên, mặc dù tốc độ tăng trưởng năm 2014 có tăng so với
năm 2013, tuy nhiên vẫn tăng ở mức nhỏ hơn mục tiêu tăng trưởng mà Quốc hội
thông qua cho năm 2014 là 5,8%. Như vậy, để đạt mục tiêu tăng trưởng cho năm
2014, cần có sự điều hành chính sách của Chính phủ linh hoạt hơn, đặc biệt cần
có sự kết hợp chặt chẽ hơn trong việc phối hợp chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ trong thời gian tới để có những tác động và kích thích mạnh hơn tới
quá trình sản xuất của nền kinh tế.
Kết quả dự báo chỉ số giá tiêu dùng năm 2014 có xu hướng tăng khá so
với năm 2013, tuy nhiên mức tăng này xấp xỉ bằng mục tiêu mà Quốc hội thông
qua (khoảng 7%). Đối với năm 2015, tốc độ tăng của CPI dự báo được sẽ vượt
quá 7% và tiệm cận về mức khoảng 8%. Như vậy, kết quả dự báo cho thấy xu
hướng lạm phát từ nay đến 2015 ở Việt Nam có xu hướng gia tăng. Điều này
cho thấy sức ép về lạm phát luôn tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt khi
năm 2014, chính sách tài khóa và trần thâm hụt ngân sách được mở rộng, nhu
cầu phát hành tiền đề xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại vẫn tồn tại...
Ngoài ra, những biến động của kinh tế thế giới cũng sẽ có những ảnh hưởng
không nhỏ đến mục tiêu tăng trưởng và lạm phát của Việt Nam từ nay đến
2015./.

6. LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM: KÍCH CẦU HAY
CẢI THIỆN TỔNG CUNG TIỀM NĂNG?
Phạm Thế Anh, Đinh Mai Hương, Chu Thị Mai Phương
KT&PT Số 190 (II), tháng 04 năm 2013, trang 3-10

Bài viết có 2 mục tiêu chính


Thứ nhất, bài viết đánh giá vai trò của các chính sách quản lý tổng cầu đối
với tăng trưởng và lạm phát ở Việt Nam trong hơn một thập kỷ gần đây. Các
chính sách quản lý tổng cầu được xem xét bao gồm chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ. Trong đó, chính sách tài khóa được thể hiện qua biến đầu tư công,
còn chính sách tiền tệ được thể hiện qua biến cung tiền. Các phân tích định
lượng cho thấy sự gia tăng các biến số này ít có tác động đến tăng trưởng kinh tế
mà chủ yếu gây ra lạm phát cao và bất ổn, đặc biệt là trong những năm gần đây.
Các số liệu tính toán từ Tổng cục Thống kê cho thấy thành tựu của kinh tế
Việt Nam, thông qua hai chỉ tiêu là lạm phát và tăng trưởng kinh tế, đã xấu đi
đáng kể trong giai đoạn 2007-2012 so với giai đoạn 2001-2006 trước đó. Đóng
góp vào sự suy giảm kinh tế và bất ổn gia tăng này còn có sự góp phần không
nhỏ của các chính sách quản lý tổng cầu. Để lượng hóa mối quan hệ giữa các
chính sách với lạm phát và tăng trưởng kinh tế, trước tiên tác giả đã thực hiện
hiệu chỉnh yếu tố mùa vụ, sau đó phân rã các biến này thành các yếu tố dài hạn
(trend) và chu kỳ (cycle). Các chuỗi số có tần suất theo quý trong giai đoạn
2001-2012 được hiệu chỉnh mùa vụ theo phương pháp X12 Census và được
phân rã theo phương pháp lọc Hodrick-Prescott (HP Filter).

Kết quả phân rã: xu hướng dài hạn của lạm phát đã tăng, trong khi đó xu
hướng dài hạn của tăng trưởng kinh tế lại giảm xuống một mức mới, kể từ sau
năm 2006. Trong khi đó, xu hướng dài hạn của tăng trưởng cung tiền và tăng
trưởng đầu tư công cũng giảm, tuy nhiên biến động chu kỳ của chúng lại lớn
hơn. Bên cạnh đó, các biến động chu kỳ của tăng trưởng trưởng cung tiền có
mối quan hệ chặt chẽ với các biến động chu kỳ của lạm phát.

Kiểm đinh nhân quả Granger: tăng trưởng cung tiền là biến gây ra sự biến
động của lạm phát chứ không có chiều ngược lại. Tốc độ tăng đầu tư công và
lạm phát có mối quan hệ chu kỳ. Thành phần chu kỳ của cung tiền có ảnh hưởng
đến thành phần chu kỳ của tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên đầu tư công thì lại
không. Để ước tính chính xác hơn mối quan hệ biến động chu kỳ giữa lạm phát
và tăng trưởng kinh tế với các chính sách vĩ mô, tác giả thực hiện phương trình
hồi quy.

Đặc biệt, tác giả không tìm thấy bằng chứng tích cực nào về ảnh hưởng của
tăng trưởng đầu tư công, hay tăng trưởng cung tiền đối với biến động chu kỳ của
tăng trưởng kinh tế. Hay nói cách khác, duy trì tốc độ tăng trưởng cao của các
biến số này, chủ yếu khiến lạm phát gia tăng và gây ra sự bất ổn, hơn là giúp ích
cho tăng trưởng kinh tế.

Thứ hai, trong bối cảnh dư địa hạn chế của các chính sách quản lý tổng cầu
hiện nay, bài viết đưa ra các định hướng chính sách nhằm thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế trong dài hạn ở Việt Nam. Thay vì kích thích tổng cầu, các giải pháp
chính sách này hướng trọng tâm vào việc nâng cao tổng cung tiềm năng của nền
kinh tế.

Một số định hướng chính sách chủ yếu ở cấp đọ vi mô nhằm cải thiện tổng cung
tiềm năng của nền kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động của các thị trường và
ngành, do vậy có thể dẫn đến tốc độ tăng trưởng cao hơn của thu nhập quốc dân
trong tương lai:
- Cổ phần hóa thực sự và giảm sự can thiệp của Nhà nước vào các thị
trường.
- Tăng cường cạnh tranh và tự do thương mại.
- Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm khuyến khích đầu tư vốn và
phát minh sáng chế của khu vực tư nhân.
- Tăng chi tiêu nâng cao chất lượng cho giáo dục và đào tạo.
- Giải quyết triệt để nạn tham nhũng trong khu vực công.
III. DANH MỤC THAM KHẢO

1. Policy Research Working Paper, The World Bank (1995)

2. NBER Working Paper 5329 (1996)

3. NBER Working Paper No. 4565 (1993)

4. Journal of Applied Economics, Vol. IV, No.1 (2001) 89-105

5. Asia-Pacific Development Journal Vol. 8, No. 1, June 2001

6. Tạp chí Kinh tế và Dự báo, “Dự báo tăng trưởng và lạm phát năm 2014 và
2015”, http://kinhtevadubao.vn/chi-tiet/91-651-du-bao-tang-truong-va-
lam-phat-nam-2014-va-2015.html

7. Tạp chí tài chính, “Tăng trưởng kinh tế và ngưỡng lạm phát tối ưu”,
02:00, ngày 30/05/2017 http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/tang-
truong-kinh-te-va-nguong-lam-phat-toi-uu-114130.html

8. Tạp chí Kinh tế & Phát triển, Đại học Kinh tế Quốc dân, “Lạm phát và
tăng trưởng kinh tế” http://ktpt.neu.edu.vn/tap-chi/so-190-ii/muc-luc-
179/lam-phat-va-tang-truong-kinh-te-viet-nam-kich-cau-hay-cai-thien-
tong-cung-tiem-nang.373658.aspx

9. Tạp chí Kinh tế & Phát triển, Đại học Kinh tế Quốc dân, “Hiệu ứng
ngưỡng trong mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam” http://ktpt.neu.edu.vn/tap-chi/so-217/muc-luc-726/hieu-ung-
nguong-trong-moi-quan-he-giua-lam-phat-va-tang-truong-kinh-te-o-viet-
nam.374040.aspx

10.Tạp chí Kinh tế & Phát triển, Đại học Kinh tế Quốc dân, “Dự báo tăng
trưởng và lạm phát của Việt Nam năm 2015”, Nguyễn Kim Anh, số 213
tháng 03 năm 2015, tr. 34-41 http://ktpt.neu.edu.vn/tap-chi/so-213/muc-
luc-582/du-bao-tang-truong-va-lam-phat-cua-viet-nam-nam-
2015.373921.aspx

11.Tạp chí Phát triển Kinh tế, Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh,
http://jabes.ueh.edu.vn/Home/SearchArticle?article_Id=3c883df1-ac79-
4405-96f6-a3ed4342c6d7
12.Tạp chí Phát triển Kinh tế, Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh,
http://www.vjol.info/index.php/PTKT/article/view/34546

13.Tạp chí phát triển kinh tế, “Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng
kinh tế: Nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam”, Trương Minh Tuấn,
http://jabes.ueh.edu.vn/Home/SearchArticle?article_Id=f2ca448e-b215-
4d4b-ba31-c5e57d04e0b4

You might also like