Professional Documents
Culture Documents
Pháp và Đức là hai nước Việt Nam xuất khẩu nhiều trong khu vực Châu Âu. Pháp - cửa
ngõ cho sản phẩm của Việt Nam sang các nước khác trong khu vực liên minh Châu Âu.
Hiện nay Việt Nam tham gia đàm phán với EU về Hiệp định thương mại tự do (FTA)
nhằm từng bước giảm thuế nhập khẩu ở hai phía cho một số sản phẩm. FTA Việt Nam -
EU ký kết sẽ có lợi cho cả hai bên. Về thương mại, năm 2012 kim ngạch xuất khẩu hàng
hóa của Việt Nam sang Pháp đạt 2,16 tỷ USD, tăng 30,4% so với 2011, trong đó mặt
hàng xuất khẩu chủ yếu là điện thoại, các linh kiện, máy vi tính, sản phẩm điện tử,... Và
kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam tại Pháp là 1,59 tỷ USD, tăng 31,9 % so với 2011.
Trong đó mặt hàng chủ yếu nhập từ Pháp gồm phương tiện vận tải, phụ tùng, máy móc,
thiết bị...
Tính đến hết tháng 3 năm 2013, hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang Pháp đạt 502,15
triệu USD, tăng 18,37% so với cùng kỳ năm trước; trong đó riêng tháng 3 kim ngạch đạt
151,58 triệu USD, tăng 23,24% so với tháng trước đó. Mặt hàng điện thoại và linh kiện
xuất khẩu nhiều nhất sang thị trường Pháp, chiếm 36,84% tổng kim ngạch, đạt 184,99
triệu USD, tăng 37,59% so với cùng kỳ; nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh
kiện chiếm 16,7%, đạt 83,83 triệu USD, đạt mức tăng mạnh 243%; giày dép chiếm
7,33%, đạt 36,83 triệu USD, giảm 21%; hàng dệt may chiếm 6,07%, đạt 30,47 triệu USD,
giảm nhẹ 0,04%.
Trong EU, Đức là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam và cũng là thị trường xuất
khẩu lớn nhất ở châu Âu nói chung.
Đức là thị trường xuất khẩu đầu tiên của Việt Nam ở EU và cả châu Âu đạt kim ngạch 1
tỷ USD.
Mỹ và Brazil
Tính đến hết tháng 9/2017, cán cân thương mại Việt Nam thặng dư 24,1 tỷ USD trong
thương mại hàng hóa với Mỹ, tương đương 78% tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta
sang thị trường này. Dệt may là nhóm hàng dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ.
Tốc độ tăng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Mỹ trong giai đoạn từ năm
2010 đến 2018 bình quân đạt 16,3%/năm, từ mức 14,24 tỷ USD trong năm 2010 thì đến
2018 đạt 47,53 tỷ USD. Nổi bật: trong năm 2011 tăng 18,9%, năm 2013 tăng 21,3%; năm
2014 tăng 20,1%.
Úc và Niu Di-Lân
Trong giai đoạn 2008-2018, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường
Australia có nhiều biến động Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2009 đã khiến cho
xuất khẩu của Việt Nam sang Australia sụt giảm gần một nửa, từ 4.591 triệu USD năm
2008 xuống chỉ còn 2.563 triệu USD năm 2009. Ngay sau đó, Hiệp định Thương mại Tự
do ASEAN – Australia và New Zealand có hiệu lực từ năm 2010 đã giúp khôi phục xuất
khẩu của Việt Nam sang Australia, khiến cho giá trị xuất khẩu tăng khá đều trong giai
đoạn 2010-2014. Các năm sau đó do nhiều nguyên nhân như tình hình kinh tế thế giới
tiếp tục biến động, tác động chệch hướng thương mại do cả Australia và Việt Nam tiếp
tục thực hiện nhiều FTA song phương và đa phương mới khiến cho xuất khẩu của Việt
Nam sang Australia giảm mạnh giai đoạn 2014-2016 rồi lại tăng giai đoạn 2016-2018.
Phương Pháp nghiên cứu và kết quả
Phân tích hồi quy tuyến tính là một phương pháp phân tích quan hệ giữa biến phụ thuộc
Y với một hay nhiều biến độc lập X. Mô hình hóa sử dụng hàm tuyến tính (bậc 1). Các
tham số của mô hình (hay hàm số) được ước lượng từ dữ liệu.
{\displaystyle Y=\beta _{0}+\beta _{1}X+\epsilon }
Trong đó,
{\displaystyle Y}Y giá trị của biến phụ thuộc
{\displaystyle X_{i}}{\displaystyle X_{i}} giá trị của biến độc lập
{\displaystyle \beta _{0}}{\displaystyle \beta _{0}} điểm cắt của đường thẳng hồi quy và
trục Y
{\displaystyle \beta _{1}}{\displaystyle \beta _{1}} hệ số góc
{\displaystyle \epsilon }\epsilon sai số. Lưu ý, {\displaystyle \epsilon }\epsilon thực tế
không tính được
Từ kết quả trên cho thấy quan hệ giữa xuất khẩu và khoảng cách là âm, có nghĩa là
khoảng cách tăng 1% thì số lượng xuất khẩu của Việt Nam với các nước giảm một số
phần trăm nhất định
Mối quan hệ giữa GDP và xuất khẩu dương, có nghĩa là nước có GDP càng lớn thì nhập
khẩu nhiều từ Việt Nam ( Ví dụ: Mỹ và Trung Quốc là hai nước có GDP cao và do đó
cũng nhập khẩu nhiều hàng hóa từ Việt Nam)
Kết Luận và mô ̣t số khuyến nghị
Xuất khẩu của Việt Nam ngày càng phát triển và mở rộng thị trường ra các khu vực trên
thế giới. Tuy nhiên, việc xuất khẩu ảnh hưởng rất nhiều bởi yếu tố GDP và khoảng cách.
Để phát triển hơn nữa ngành xuất khẩu,Việt Nam cần chú trọng mô ̣t số giải pháp sau:
Một là, tiếp tục mở rô ̣ng thị trường xuất khẩu. Việc mở rộng thị trường xuất khẩu được
coi là một chiến lược dài hạn nhằm giúp DN Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị khu
vực, nâng cao năng lực sản xuất xuất khẩu và cạnh tranh. Đồng thời, giúp DN Việt Nam
cọ xát với thế giới bên ngoài, có điều kiện để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh và
khẳng định vị thế mới của mình trên trường quốc tế.
Hai là, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu sản phẩm xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng sản
phẩm có giá trị gia tăng cao. Trong đó, đối với nông sản xuất khẩu: Chuyển từ xuất khẩu
nguyên liệu thô sang sản phẩm đã chế biến, từ sản phẩm chế biến đơn giản sang sản
phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao. Đối với hàng công nghiệp xuất khẩu: Chuyển từ
sản phẩm giá trị gia tăng thấp sang sản phẩm giá trị gia tăng cao.
Ba là, nâng cao chất lượng đối với sản phẩm xuất khẩu: Đẩy nhanh việc xây dựng và áp
dụng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực,
tiêu chuẩn nước ngoài đối với hàng hóa xuất khẩu, bao gồm tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu
chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn môi trường. Xây dựng năng lực của tổ chức
thử nghiệm, tổ chức chứng nhận, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế để phục vụ việc đánh
giá sự phù hợp các tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực, tiêu
chuẩn nước ngoài và tiêu chuẩn riêng đối với hàng hóa xuất khẩu.
Bốn là, nâng cao hiệu quả và đổi mới phương thức xúc tiến thương mại, tập trung vào các
hàng hóa có lợi thế xuất khẩu, các thị trường tiềm năng và các thị trường ngách để mở ra
các thị trường mới nhằm đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Tiếp tục đàm phán, ký kết và
triển khai các hiệp định thương mại song phương và đa phương theo hướng tạo thuận lợi
và nâng cao lợi thế cạnh tranh cho hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường thế giới…
Năm là, tăng cường xây dựng thương hiệu quốc gia, thương hiệu sản phẩm xuất khẩu và
thương hiệu DN Xây dựng thương hiệu quốc gia chung Việt Nam tại các thị trường xuất
khẩu. Bên cạnh đó, khuyến khích, hỗ trợ DN xây dựng sản phẩm xuất khẩu đạt thương
hiệu quốc gia và xây dựng thương hiệu DN. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ DN trong việc
xác lập, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của DN ở thị trường trong nước và tại các thị trường
xuất khẩu.
Sáu là, tăng cường công tác theo dõi, nghiên cứu diễn biến chính sách và phân tích tác
động tới Việt Nam: Trong bối cảnh xu thế bảo hộ gia tăng, đặc biệt là các diễn biến
nhanh, khó lường của tranh chấp thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, các cơ quan
quản lý, hiệp hội ngành hàng, DN cần tăng cường công tác nghiên cứu, cập nhật các thay
đổi về chính sách thương mại, quy định của các nước, đặc biệt tại các thị trường xuất
khẩu lớn; phân tích tác động của các thay đổi này tới sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam
để có sự điều chỉnh, ứng phó thích hợp.
Đẩy mạnh công tác cảnh báo sớm để có biện pháp cần thiết, hạn chế thiệt hại từ các vụ
kiện phòng vê ̣ thương mại của các nước nhâ ̣p khẩu. Phổ biến, tư vấn, đào tạo DN sản
xuất xuất khẩu về áp dụng tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa của các thị trường nước ngoài.
Khuyến khích, hỗ trợ DN phát triển các sản phẩm xuất khẩu đạt giải thưởng chất lượng
quốc gia và giải thưởng chất lượng quốc tế…