You are on page 1of 68

PHẦN I: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP THỂ DỤC THỂ THAO

Bài 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG


CỦA LÝ LUẬN GIÁO DỤC THỂ CHẤT
A. M ỤC TI ÊU
- Phân tích được các khái niệm giáo dục thể chất, phát triển thể chất, thể
dục thể thao, nguồn gốc của TDTT.
- Phân tích được mục đích và các nhiệm vụ của giáo dục thể chất.
B. NỘI DUNG
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN

Lý luận giáo dục thể chất, cũng như bất kỳ môn khoa học có tính chất tổng
hợp nào khác, đòi hỏi khi tìm hiểu nội dung phải xác định rành mạch các khái
niệm mở đầu có tính chất chung nhất, liên quan đến đối tượng cần nghiên cứu và
phải chính xác hoá những mối liên quan giữa khái niệm đó với các khái niệm cơ
bản gần với chúng. Trước hết cần đề cập đến các khái niệm giáo dục thể chất và
hệ thống giáo dục thể chất cũng như các khái niệm có liên quan như phát triển
thể chất, hoàn thiện thể chất, văn hoá thể chất và thể thao.
I.1. Khái niệm giáo dục thể chất
Giáo dục thể chất là một loại hình giáo dục mà nội dung chuyên biệt là dạy
học vận động (động tác) và phát triển có chủ định các tố chất vận động của con
người. Tổng hợp quá trình đó xác định khả năng thích nghi thể lực của con
người.
Giáo dục thể chất được chia thành hai mặt riêng biệt, dạy học động tác và
giáo dục các tố chất vận động.
- Dạy học động tác là nội dung cơ bản của giáo dưỡng thể chất đó là quá
trình truyền thụ và tiếp thu có hệ thống những cách thức điều khiển hợp lý sự
vận động của con người qua đó hình thành những kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ
bản cần thiết trong cuộc sống và những hiểu biết có liên quan (tri thức chuyên
môn, luật, phương pháp, phương tiện của GDTC) Kỹ thuật các môn thể thao,

1
các hoạt động sống cơ bản: đi, chạy, nhảy, leo, trèo... Kỹ năng, kỹ xảo ngành
nghề du lịch, giải trí...
- Bản chất của thành phần thứ 2 trong giáo dục thể chất là sự tác động hợp lý
tới sự phát triển tố chất vận động, đảm bảo phát triển năng lực vận động. Trong
hệ thống giáo dục nội dung đặc trưng ấy của GDTC được gắn liền với trí dục,
đạo đức, mỹ thuật và giáo dục lao động.
Bên cạnh thuật ngữ GDTC người ta thường dùng thuật ngữ chuẩn bị thể lực,
về bản chất hai thuật ngữ này có ý nghĩa như nhau. Nhưng thuật ngữ thứ 2
thường được nhắc tới khi nhấn mạnh tính thực dụng của GDTC đối với lao động
hoặc các hoạt động khác.
GDTC kết hợp các mặt giáo dục khác như: đức, trí, thể, mĩ nhằm phát triển
con người cân đối toàn diện.
I.2. Khái niệm phát triển thể chất
Thể chất chỉ chất lượng cơ thể con người
Phát triển thể chất là qúa trình hình thành và thay đổi hình thái chức năng cơ
thể diễn ra trong suốt cuộc đời mỗi cá nhân (chúng được hình thành trên và
trong cái nền thân thể ấy).
I.2.1. Hình thái:
Thể chất con người có thể nhìn thấy cân đo, đong đếm được, hình thái bao
gồm chiều cao cân nặng, các chỉ số vòng ngực vòng eo, vòng đùi, vòng cổ, vòng
bụng, chiều dài bàn tay bàn chân v.v... tất cả các chỉ số đó có thể cân đo đong
đếm được gọi là hình thái.
I.2.2 Chức năng:
Các chỉ số về sinh lý sinh hoá, sinh cơ trong cơ thể.
VD: trọng lượng của tim, mạch đập lưu lượng phút, lưu lượng tâm thu,
thông khí phổi, hệ cơ xương, thần kinh.vv...
I.3 Quá trình phát triển thể chất đồng thời là quá trình tự nhiên và quá trình
Xã hội.
- Phát triển thể chất là 1 quá trình tự nhiên đồng thời là quá trình xã hội.
Phát triển thể chất là quá trình tự nhiên vì nó tuân theo những quy luật
sinh học tự nhiên, như quy luật phát triển thể chất theo lứa tuổi giới tính, quy

2
luật thống nhất hữu cơ giữa cơ thể và môi trường, quy luật thay đổi về hình thái
dẫn đến thay đổi về chức năng, theo những quy luật thay đổi số lượng dẫn đến
thay đổi chất lượng...
Tuy vậy sự phát triển thể chất của con người còn chịu sự chi phối của môi
trường xã hội như điều kiện sống vật chất, điều kiện vệ sinh, điều kiện lao động,
học tập, nghỉ ngơi.
- Sự phát triển thể chất của con người chịu ảnh hưởng của 3 yếu tố: Bẩm
sinh di truyền, môi trường (điều kiện sống) và giáo dục. Trong đó bẩm sinh di
truyền là tiền đề vật chất cho sự phát triển. Ví dụ: 2 bố mẹ đều khoẻ mạnh thì
khi sinh ra con, đứa con đó sẽ có điều kiện thuận lợi phát triển thể chất.
Môi trường (điều kiện sống) tác động đến sự phát triển thể chất một cách
tự phát nghĩa là với điều kiện như ăn uống đầy đủ, lao động đúng mức thì thể
chất phát triển tốt và ngược lại.
Giáo dục: Tác động đến sự phát triển thể chất 1 cách tự giác (chủ động,
tích cực hợp lý). Về bản chất giáo dục là quá trình điều khiển sự phát triển thể
chất 1 cách hợp lý hoá.
Vai trò của giáo dục còn thể hiện ở chỗ có thể khắc phục được những hậu
quả tiêu cực của lao động, học tập hoặc những hoạt động sống khác gây nên.
VD: Như chữa các bệnh cong vẹo cột sống hoặc phát triển mất cân đối
giữa các bộ phân cơ thể, hồi phục chức năng của các cơ quan bị tổn thương,
thậm trí thông qua tập luyện có thể tạo ra được những phẩm chất mà bản thân di
truyền không có, VD: khả năng làm việc trên không trung hay dưới độ sâu của
nước...
- Cả 3 yếu tố này diễn ra đồng thời, có quan hệ chặt chẽ và bổ sung cho
nhau trong việc phát triển tố chất và nhân cách con người. Trên cơ sở yếu tố
bẩm sinh di truyền là tiền đề cũng với điều kiện sống phù hợp đảm bảo tính
khoa học và quá trình giáo dục diễn ra đúng lúc sẽ mang lại hiệu quả cao.
*Tập luyện TDTT sẽ thúc đẩy và nâng cao sự phát triển thể chất như tăng
cường sức khoẻ, thể hình đẹp, cân đối nâng cao các khả chức phận của cơ thể
như tim, phổi, hệ tim mạch, hô hấp… nâng cao và phát triển các tố chất thể lực,
sức đề kháng với bệnh tật, các năng lực vận động cơ bản của cuộc sống như
chạy, nhảy, bò, trườn... ngoài ra còn là mục tiêu để rèn luyện phẩm chất đạo
đức, hình thành nhân cách của con người và có thể khẳng định một điều rằng
người nào tập luyện TDTT 1 cách hợp lý thì chắc chắn sẽ có sự phát triển thể

3
chất hơn hẳn người không tập luyện TDTT mà do sự phát triển của các quy luật
tự nhiên (bẩm sinh di truyền).
I.4. Khái niệm về sức khoẻ.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đó là một trạng thái hài hoà về thể chất,
tinh thần và xã hội, mà không chỉ nghĩa là không có bệnh hay thương tật, cho
phép mỗi người thích ứng nhanh chóng với các biến đổi của môi trường, giữ
được lâu dài khả năng lao động và lao động có kết quả.
Sức khoẻ bao gồm sức khoẻ cá thể (từng người), sức khoẻ gia đình, sức khoẻ
cộng đồng, sức khoẻ xã hội. Sức khoẻ là một trong những yếu tố cơ bản, đầu
tiên để học tập, lao động, đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng đất
nước.
Sức khoẻ phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Cá nhân, môi trường, cộng đồng, xã
hội, tình trạng và những vấn đề chung của từng nước và toàn thế giới môi trường
sinh thái, chiến tranh khu vực, mức sống còn thấp, sự bóc lột ở một số nước
chậm phát triển...).
I.5. Khái niệm thể dục thể thao
Khoảng những năm 70 về trước thuật ngữ TD và TT đã được giải thích bằng
cách cắt nghĩa từng từ.
Ví dụ: Thể là cơ thể, dục là giáo dục "giáo dục cơ thể", song thuật ngữ
TDTT vẫn rơi vào tình trạng chưa được xác định nội dung cụ thể. Năm 1972
cuốn sách dịch đầu tiên về lý luận và phương pháp giáo dục thể chất đã nêu
được nội dung của khái niệm "TDTT là tổng hoà các giá trị vật chất và tinh thần
được sáng tạo ra trong qúa trình phát trển xã hội loài người trong lĩnh vực hoàn
thiện thể chất cho con người". Thuật ngữ TDTT được dùng lần đầu tiên vào cuối
thế kỷ 19 trong ngôn ngữ Anh SPORT.
Gần đây trong quá trình phát triển khái niệm TDTT ngày càng hoàn thiện
được bổ sung những nội dung mới, theo sự phát triển của nhận thức xã hội sự
hiểu biết phát triển - khái niệm phát triển. Thực ra nếu dịch theo đúng từ điển thì
thuật ngữ thể dục thể thao đang dùng phải mang tên là văn hoá thể chất. Như
vậy thuật ngữ TDTT đồng nghĩa với VHTC.

4
Muốn hiểu được văn hoá thể chất hay TDTT ta cần đi sâu nghiên cứu khái
niệm văn hóa. Trong các ngôn ngữ của các dân tộc trên thế giới có hàng trăm
nghĩa khác nhau. Thông thường người ta dùng thuật ngữ văn hoá để chỉ những
hoạt động tinh thần của con người và xã hội, chỉ trình độ học vấn của loài người,
văn hoá cũng thường dùng để chỉ hành vi cử chỉ con người "người thiếu văn
hóa" những hành vi văn minh.
Trong khoa học các tài liệu gốc theo từ điển triết học bách khoa toàn thư
người ta định nghĩa "Văn hoá là hoạt động của con người và toàn xã hội nhằm
cải tạo tự nhiên. Như vậy văn hoá chính là hoạt động của con người nhằm vào tự
nhiên (Cày bừa cuốc xới cải tạo tự nhiên để đáp ứng cho con người để lại những
di sản hoạt động gọi là văn hoá).
Trong những tài liệu hiện đại, nội dung khái niệm văn hoá phong phú và đa
dạng hơn. Văn hoá bao gồm hoạt động sáng tạo của con người chinh phục tự
nhiên, những phương tiện, phương pháp hoạt động và những kết quả hoạt động
đem lại cho cá nhân và xã hội. Trong quá trình phát triển của xã hội loài người
đã nảy sinh một loại hoạt động đặc biệt, nó không chỉ tác động vào tự nhiên bên
ngoài mà tác động vào ngay phần tự nhiên trong con người, đó là cơ thể con
người. Cơ thể con người gồm 2 phần: Thực thể tự nhiên (thể xác) và thực thể xã
hội (tinh thần).
Vậy TDTT được hiểu là sự luyện tập cơ thể cải tạo cơ thể bằng sự vận động
tích cực của cơ bắp. Đối tượng của TDTT là điều khiển quá trình phát triển thể
chất của con người. Để phân tích sâu hơn khái niệm TDTT được xem xét 3 quan
điểm.
- TDTT là một hoạt động.
Đây là một hoạt động của con người, nó là một hoạt động có đối tượng là
con người, đặc biệt của hoạt động này là một hoạt động hỗ trợ bổ sung cho hoạt
động chính cơ bản. Nó là một hoạt động phụ làm tăng hiệu quả của hoạt động
chính. Nó là hoạt động phụ bổ sung nâng cao hiệu quả hoạt động sống cơ bản.
TDTT ra đời gắn liền với lao động cụ thể gắn liền với nghề săn bắn. Nghề săn
bắn đòi hỏi con người phải có sức mạnh khéo léo bền bỉ, phải có kỹ năng leo

5
trèo rình rập bò trườn và đặc biệt là lao ném. Nhờ có ý thức phát triển mà con
người nhận thức được mối liên hệ nhân quả giữa chuẩn bị trước cho lao động và
kết quả lao động vì vậy nó nảy sinh hình thức tập luyện để chuẩn bị trước cho
lao động. Ở những nước Châu Phi, Châu Úc còn lại những di tích chứng tỏ
người cổ xưa đã tập luyện săn bắn như hình vẽ của thú vật trên đá.
Vậy nó là hoạt động chuẩn bị cho lao động, đi trước lao động để làm tăng
hiệu quả của lao động, phục vụ cho lao động đây là chức năng xã hội vốn có của
TDTT và lúc đó giáo dục thể chất cũng thuộc phạm trù vĩnh hằng. Cùng với sự
phát triển của xã hội loài người, tính chất của lao động thay đổi lao động chân
tay ngày càng giảm nhẹ lao động trí óc và lao động bằng máy ngày càng tăng
lên. Nhưng mối quan hệ giữa TDTT với lao động không hề bị xoá bỏ. Nếu như
trước đây TDTT liên hệ trực tiếp với lao động mang tính thực dụng trực tiếp
nhưng ngày nay nó mang tính chất gián tiếp. Ảnh hưởng của nó là nâng cao sức
khoẻ, chúng thúc đẩy nhanh quá trình hồi phục sau lao động nâng cao khả năng
hoạt động thể lực.
- TDTT là tổng hoà giá trị vật chất và tinh thần
Đó là những công cụ phương tiện được sáng tạo ra tác động vào tự nhiên, đó
là nhưng giá trị vật chất và tinh thần được lưu trữ và truyền bá ví dụ: Xây nhà
phải có những phương pháp dụng cụ sáng tạo ra gọi là văn hoá (trong trường
hợp này TDTT bao gồm những môn tập những bài tập mà con người sáng tạo ra
như thể dục nhịp điệu, thể dục thể hình, phương pháp tập luyện) được sử dụng
trong thi đấu và tập luyện.
- TDTT là kết quả của hoạt động.
Kết quả của tập luyện TDTT thể hiện ngay trên chính cơ thể con người đó là
sức khoẻ, thể chất phát triển, kỷ lục thể thao, phong trào thể thao. Vậy TDTT
theo nghĩa hẹp là: Bộ phận hữu cơ của nền văn hoá xã hội ... Theo nghĩa rộng là
tổng hoà những giá trị vật chất và tinh thần loài người sáng tạo ra trong lĩnh vực
tập luyện.
II. NGUỒN GỐC CỦA THỂ DỤC THỂ THAO VÀ CHỨC NĂNG VỐN CÓ.

6
Thể dục thể thao ra đời phát triển theo sự phát triển của xã hội loài người. Lao
động sản xuất là nguồn gốc cơ bản của thể dục thể thao. Nói cách khác, đó là cơ
sở sinh tồn của tất cả mọi hoạt động, là hoạt động thực tiễn cơ bản nhất. Thể dục
thể thao được phát sinh trong những điều kiện sinh hoạt vật chất nhất định của
xã hội đặc biệt là săn bắt.
Trong thời cổ xưa con người sống thành từng bầy lớn sinh sống bằng săn bắt
là bộ phận kinh tế sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng chủ yếu nhất của thời đó.
Ngay trong quá trình giải quyết những vấn đề thiết thân: Ăn, ở, mặc... của mình.
Tất cả mọi hoạt động của con người đều phục vụ săn bắn. Nhờ săn bắt con
người kiếm được thức ăn và một số vật phẩm tiêu dùng. Chính vì vậy muốn có
được thức ăn và sống được an toàn, họ luôn phải đấu tranh với thiên tai và thú
dữ, con người phải biết leo trèo, lội qua suối, bơi qua sông v.v... Nói cách khác
săn bắt là cuộc thi giữa con người và con vật về sức nhanh và sức mạnh, sức
bền. Thực tế đấu tranh khốc liệt để sinh tồn đó buộc con người phải biết chuẩn
bị, dạy và học. Đây chính là điều kiện khách quan đề ra đời TDTD mặt khác do
hoạt động tư duy có rất sớm những kinh nghiệm hoạt động của con người được
lặp lại nhiều lần trong cuộc sống và dần được tích luỹ lại đã làm cho con người
nhận thức được hiện tượng tập luyện, vì họ hiểu rằng chạy nhiều thì chạy càng
nhanh, càng dẻo dai hiệu quả của cuộc săn bắt càng tốt hơn.
Vì vậy trong quá trình lao động con người nhận thấy việc tập luyện là cần
thiết để chuẩn bị cho lao động, để lao động được khoẻ dẻo dai bền bỉ cho nên
người ta tập động tác tương tự như ném, leo trèo dần già quá trình lao động và
tập luyện con người đã tích luỹ được thêm nhiều hiểu biết để truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Đây chính là điều kiện chủ quan của sự ra đời của TDTT.
Vậy chức năng vốn có của TDTT là chuẩn bị cho lao động đi trước lao động
trong thời kì này TDTT mang tính thực dụng trực tiếp cùng với sự phát triển của
loài người đặc biệt là sự phát triển KH- KT ngày càng phát triển nó giảm nhẹ
sức lao động của con người, thay vào đó là những máy móc hiện đại tinh vi chủ
động, con người chỉ cần điều khiển thì vai trò của TDTT lại mang tính thực
dụng gián tiếp nó chuẩn bị thể lực cho con người ngoài ra nó còn nhiều vai trò

7
chức năng khác như thể dục chữa bệnh, thể dục nghề nghiệp, thể dục vệ sinh,
TD trong thời gian nhàn rỗi, TD hồi phục làm cho con người có trạng thái thoải
mái để bước vào lao động đạt hiệu quả cao.
Như vậy TDTT xuất hiện cùng với sự hình thành của xã hội loài người
TDTT trở thành biện pháp quan trọng để chuẩn bị cho lao động mà lao động là
điều kiện tự nhiên để đảm bảo cho cuộc sống. Xã hội loài người càng phát triển
TDTT cũng theo đà đó mà phát triển cho nên TDTT là một hiện tượng xã hội nó
thuộc phạm trù vĩnh cửu với ý nghĩa xuất hiện cùng với sự xuất hiện của XH
loài ngươì sẽ tiến triển theo quá trình tiến triển của XH sẽ tồn tại mãi mãi như
những điều kiện tất yếu của nền sản xuất.
III. TÁC DỤNG CỦA TẬP LUYỆN THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI CƠ THỂ
Cơ thể con người là một khối thống nhất. Tất cả các hệ thống, cơ quan trong
cơ thể có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau. Khi ta vận động( tập
luyện TDTT) thì không những cơ bắp hoạt động mà tim, phổi, hệ thần kinh, hệ
bài tiết…đều tăng cường hoạt động và chịu ảnh hưởng rõ rệt.
Tập luyện TDTT có tác dụng làm cho các tổ chức cơ quan trong cơ thể thay
đổi hình thái và nâng cao năng lực vận động. Hai mặt đó luôn liên qua mật thiết
và tác động lẫn nhau ( cấu trúc thay đổi dẫn đến chức năng thay đổi).
Hoạt động TDTT là một trong những hoạt động vận động tích cực thực hiện
trong những điều kiện phức tạp của thế giới tự nhiên. Phương tiện hoạt động
TDTT gồm có các bài tập thể chất, các điều kiện tự nhiên như: ánh sáng, không
khí, nước, bức xạ mặt trời… và các yêu cầu về vệ sinh, chính vì vậy mà tập
luyện TDTT có tác động và ảnh hưởng tốt đối với thể người tập.
Tập luyện TDTT là phương pháp phòng bệnh tích cực, tăng cường sức đề
kháng cho cơ thể, chống bệnh tật, tạo điều kiện cho cơ thể phát triển tự nhiên,
cân đối, tăng cường sức khoẻ và kéo dài tuổi thọ.
Nâng cao năng lực hoạt động của cơ thể, góp phần rèn luyện những phẩm
chất đạo đức - ý chí cần thiết cho con người, phát triển toàn diện các tố chất vận
động: sức nhanh, sức mạnh, sức bền, độ mềm dẻo và sự khéo léo.

8
Tập luyện TDTT sẽ góp phần khắc phục sửa chữa được một số khuyết tật
của cơ thể và những hiệu quả tiêu cực của hoạt động lao động và học tập gây ra
(chữa các bệnh cong vẹo cột sống, bẹt bàn chân), phòng chống bệnh nghề
nghiệp và góp phần quan trọng vào việc điều trị, hồi phục tích cực các cơ quan
vận động và một số bệnh lý khác.
Thông qua hoạt động TDTT một cách có hệ thống sẽ nâng cao được khả
năng trao đổi chất trong cơ thể, góp phần tích cực nâng cao sức khoẻ, giúp cơ
thể phát triển tự nhiên cân đối hài hoà về thể chất, nâng cao được cường độ hoạt
động, khả năng thăng bằng, độ linh hoạt, khả năng phân tích - tổng hợp của hệ
thần kinh, từ đó nâng cao năng lực thích ứng của cơ thể đối với những thay đổi
của thời tiết, khí hậu và hoàn cảnh, tạo điều kiện thích nghi với môi trường sống.
Ngoài ra TDTT còn giúp cho người tập có được tinh thần sảng khoái, nâng cao
năng lực trí tuệ giảm stress.
Do vậy, tập luyện TDTT thường xuyên có ảnh hưởng rất lớn tới chất
lượng cuộc sống cũng như năng lực công tác, lao động, học tập của con người,
làm thay đổi theo hướng tích cực và và nâng cao khả năng làm viêc của các hệ
thống cơ quan trong cơ thể, nhờ đó có thể tao ra những phẩm chất, khả năng mà
bẩm sinh di truyền không có được: như làm việc trong môi trường chân không
của cá nhà du hành vũ trụ, điều kiện áp suất cao như thợ lặn.
Nhưng một điều cần chú ý là những tác động của GDTC phải trong giới
hạn cho phép nhất định. Trong những nhân tố về đặc điểm hình thái chức năng
của cơ thể có những nhân tố ít chịu ảnh hưởng của tập luyện mà chịu sự chi phối
của bẩm sinh và di truyền, đó là những đặc điểm “bảo thủ” của cơ thể. Như đối
với phụ nữ tập luyện TDTT có thể làm cho vòng eo nhỏ lại nhưng lại không thể
làm cho vòng ngực lớn ra. Tiền đề vật chất cho sự phát triển thể chất là bẩm sinh
di truyền còn xu hướng, tốc độ phát triển lại chịu ảnh hưởng lớn của các điều
kiện sinh hoạt, vật chất, chế dộ sống, chế độ lao động, học tập và nghỉ ngơi đặc
biệt là quá trình giáo dục.
IV. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DỤC THỂ CHẤT.
IV .1. Mục đích:

9
Mục đích của giáo dục hay nói đúng hơn là mục đích mà con người và xã
hội đề ra cho mình trong lĩnh vực giáo dục. Mục đích là sự dự báo kết quả của
hoạt động cần đạt được, mục đích giáo dục là sự phản ánh những nhu cầu khách
quan của xã hội, không thể đặt ra mục đích một cách tuỳ tiện.
Một trong những nhân tố khách quan cơ bản của mục đích GDTC là những
yêu cầu của nền sản xuất xã hội đối với sức khoẻ, thể chất và trình độ thể lực
của con người. Chức năng vốn có của GDTC là chuẩn bị cho lao động nó tồn tại
vĩnh hằng cùng với lao động, chính nền sản xuất lớn XHCN đòi hỏi con người
phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần. Các Mác nói "Đến một giai đoạn
nào đó trong xã hội tất yếu nảy sinh vấn đề thay thế những công nhân chỉ đơn
giản thực hiện chức năng lao động bằng những cá nhân phát triển toàn diện".
Chính những người sáng tạo ra chủ nghĩa Mác đã nhận ra nhu cầu khách quan
về con người phát triển toàn diện có từ thời cổ xưa trong kho tàng trí tuệ của loài
người.
Nguyên nhân khách quan thứ hai quyết định mục đích của giáo dục thể chất
là những yêu cầu củng cố quốc phòng của đất nước, trong bất kỳ tình thế nào
mỗi quốc gia đều phải thực hiện chức năng quốc phòng (qua năm thời kỳ nô lệ -
CNCS) đều có quân sự trong TDTT. Một trong những thành phần quan trọng
nhất tạo nên sức mạnh quân sự là trình độ chuẩn bị thể lực cho chiến sỹ. Phương
tiện kỹ thuật hiện đại đòi hỏi quân sự phải tiếp thu và sử dụng chúng có hiệu quả
trong các tình huống chiến đấu, yêu cầu tối đa về hoạt động thể lực và tinh thần.
Mục đích của giáo dục thể chất XHCN là sự phản ánh nhu cầu cụ thể của xã
hội có cội nguồn từ lao động, song điều đó không có nghĩa giáo dục thể chất chỉ
hoàn toàn nhằm tới sức khoẻ thoả mãn nhu cầu thực dụng xã hội. Mục đích của
giáo dục thể chất và mục đích của giáo dục nói chung trong chế độ XHCN phải
là sự phản ánh nguyên tắc cao nhất của CNCS "tất cả vì con người". Tính nhân
đạo cao cả của thực tiễn giáo dục XHCN còn thể hiện ở chỗ lần đầu tiên trên cơ
sở thực tế xoá bỏ mâu thuẫn giữa chức năng xã hội thực dụng của giáo dục và
đáp ứng đầy đủ lợi ích phát triển toàn diện cân đối của mọi thành viên trong xã
hội.

10
Mục đích của GDTC trong các trường đại học là góp phần thực hiện nục tiêu
đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế và văn hoá xã hội,
phát triển hài hoà, cường tráng, đáp ứng yêu cầu chuyên môn nghề nghiệp và có
khả năng tiếp cận với thực tiễn lao động sản xuất… của nền kinh tế thị trường.
Mục đích của GDTC đựơc cụ thể hoá trong 3 nhóm nhiệm vụ
IV.2. NHIỆM VỤ.
IV.2.1. Nhóm nhiệm vụ giáo dục thể chất theo nghĩa hẹp.
" Giáo dục cơ thể" củng cố và tăng cường sức khoẻ phát triển toàn diện cân
đối, hình thái chức năng cơ thể, phát triển toàn diện các tố chất vận động và khả
năng hoạt động thể lực.
- Nhóm nhiệm vụ này được đảm bảo phát triển toàn diện các tố chất nhanh,
mạnh, bền, khéo léo, chúng là nhân tố tổng hợp chủ yếu của khả năng vận động,
giáo dục các tố chất thể lực và còn có ý nghĩa sức khoẻ. Chính sức khoẻ lại quy
định tự nhiên hoàn thiện hình thái chức năng cơ thể thông qua vận động có hệ
thống "Không có gì làm, kiệt quệ và huỷ hoại cơ thể bằng sự thiếu vận động kéo
dài" Arixtôt.
Đồng thời nhiệm vụ giáo dục sức khoẻ trong giáo dục thể chất cũng được
giải quyết tương đối độc lập đó là dùng các thủ pháp tôi luyện cơ thể nâng cao
khả năng thích nghi trước những biến đổi đột ngột của thời tiết .
Ví Dụ: Tập làm quen với nước lạnh, tạo ra sức khoẻ một cách trực tiếp và
đảm bảo yêu cầu vệ sinh trong sinh hoạt.
- Hoàn thiện thể hình.
Trong hệ thống giáo dục thể chất XHCN nhiệm vụ hoàn thiện thể hình
không có nghĩa độc lập.
Về việc hoàn thiện thể hình chỉ đúng đắn chừng nào nó không trở thành mục
đích duy nhất, mà phải phục vụ cho yêu cầu phát triển toàn diện thể lực phẩm
chất và năng lực con người, trong một số trường hợp việc hoàn thiện hình thể có
ý nghĩa phòng chữa bệnh và chỉnh hình.
IV.2.2. Nhiệm vụ giáo dưỡng thể chất:

11
Hình thành và hoàn thiện kỹ năng kỹ xảo, quan trọng trong cuộc sống kể cả
kỹ xảo thực dụng trực tiếp và thể thao, trang bị kiến thức chuyên môn.
Nhiệm vụ giáo dưỡng được đặt ra bởi khả năng vận động của con người
được bộc lộ trong các kỹ năng vận động, nói cách khác muốn có trình độ chuẩn
bị thể lực chỉ phát triển các tố chất vận động thì chưa đủ.
Nội dung cụ thể của việc giáo dưỡng ở các giai đoạn khác nhau trong quá
trình giáo dục thể chất nhiều năm phụ thuộc vào kinh nghiệm vận động mà con
người đã tiếp thu được và lôgíc chuyển tiếp từ kỹ năng, kỹ xảo đơn giản đến kỹ
xảo phức tạp còn năng khiếu cá nhân phụ thuộc vào đặc điểm hoạt động và
nhiều nhân tố khác.
Quy tắc chung là chuyển dần từ giáo dưỡng chung rộng rãi sang hoàn thiện
sâu kỹ năng, kỹ xảo vận động. Giáo dưỡng chung, đi, chạy, nhảy, leo trèo các
bài tập đơn giản chuyển từ kỹ năng cơ bản đã là các kỹ năng, kỹ xảo thể thao.
Một nội dung quan trọng của giáo dưỡng thể chất là trang bị những kiến
thức chuyên môn cũng như thường xuyên bổ sung vận dụng chúng trong thực
tiễn. Đó là những kiến thức làm tiền đề cho việc tiếp thu kỹ xảo (sự hiểu biết kỹ
thuật, những kiến thức về vệ sinh tập luyện, phương pháp tập luyện thi đấu,
những ý kiến về ý nghĩa xã hội của GDTC).
IV.2.3. Nhiệm vụ hình thành nhân cách con người
Đây là quá trình hình thành nhân cách cho con người, nhiệm vụ giáo dục
Chủ nghĩa Cộng sản. Rõ ràng những nhiệm vụ phức tạp để hình thành nhân cách
hoàn chỉnh chỉ được giải quyết trong điều kiện thống nhất hữu cơ các mặt giáo
dục riêng biệt với giáo dục đạo đức. Giáo dục đạo đức dường như xuyên suốt
toàn bộ thực tiễn giáo dục xã hội, xuyên suốt các mặt giáo dục và hình thức giáo
dục. Bởi vì hiệu quả cuối cùng của bất kỳ mặt giáo dục nào cũng phụ thuộc chủ
yếu vào giải quyết toàn diện nhiệm vụ hình thành lý tưởng tiêu chuẩn đạo đức,
thói quen đạo đức. Tính giai cấp của giáo dục chính là hình thành nhân cách đặc
trưng cho chế độ xã hội. Giáo dục đạo đức dường như xuyên suốt toàn bộ quá
trình giáo dục xã hội, xuyên suốt bất kỳ bộ phận, khía cạnh, hình thức nào của

12
thực tiễn đó. Bởi vì đạo đức là một thành viên xã hội, để điều chỉnh hành vi của
con người
Để điều chỉnh hành vi của con người mỗi chế độ xã hội đặt ra những chuẩn
mực quy định thái độ của con người đối với bản thân, bạn bè, gia đình, tập thể,
quốc gia.
Trong quá trình giáo dục thể chất chúng ta cũng phải giải quyết nhiệm vụ
này, đối với trí dục cũng vậy nhất là những môn xã hội học văn học.
Bên cạnh việc giáo dục đạo đức, chúng ta cần tiến hành giáo dục ý chí. Ý chí
là khả năng của con người tập trung sức mạnh tinh thần để khắc phục những khó
khăn trong quá trình hoạt động và trong quá trình sống.
Chỉ có những người có ý chí, có bản lĩnh mới vượt qua được trở ngại trên
đường đạt tới mục đích. Trong hành vi của con người gọi là hành động ý chí
khác hành động bản năng, trong hoạt động con người bao giờ cũng đặt cho mình
một cái đích đạt tới. Muốn đạt được mục đích đó đòi hỏi phải có ý chí.
Những biểu hiện của ý chí trong một con người thường thấy cương quyết, tự
tin, kiên trì, nhẫn nại, dũng cảm. Trong quá trình giáo dục thể chất phải kết hợp
những nét về giáo dục ý chí.
Đây không phải là nhiệm vụ đặc trưng nhưng nhất thiết phải làm vì đây là
nhiệm vụ xuyên suốt toàn bộ hệ thống giáo dục Cộng sản Chủ nghĩa.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

1. Phân tích khái niệm GDTC?


2. Phát triển thể chất là gì?
3. Sự phát triển thể chất của con người tuân theo những quy luật nào?
4. Phân tích khái niệm TDTT?
5. Trình bày nguồn gốc của TDTT?
6. Tác dụng của việc tập luyện TDTT đối với cơ thể
7. Trình bày mục đích và các nhiệm vụ của GDTC?

13
Bài 2
CÁC PHƯƠNG TIỆN - PHƯƠNG PHÁP
VÀ CÁC NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC THỂ CHẤT
A. MỤC TIÊU
- Phân tích được bài tập thể chất là phương tiện chuyên môn cơ bản của
giáo dục thể chất.
- Trình bày được các nhân tố tác động hợp lý tới hiệu quả của bài tập
thể chất và đặc điểm các nhân tố môi trường tự nhiên và điều kiện vệ sinh.
- Trình bày được lượng vận động và quãng nghỉ là yếu tố thành phần cơ
bản của giáo dục thể chất.
- Mô tả được cáu trúc buổi tập thể dục thể thao.
B. NỘI DUNG
I. CÁC PHƯƠNG TIỆN GIÁO DỤC THỂ CHẤT
Để đạt mục đích giáo dục thể chất người ta sử dụng tổng hợp các phương
tiện khác nhau kể cả các phương tiện chung cho quá trình sư phạm. Các phương
tiện giáo dục giáo dục thể chất được sử dụng để tác động đến các đối tượng tập
luyện nhằm đạt được những mục đích của giáo dục thể chất. Chúng bao gồm các
bài tập thể dục thể thao, các nhân tố môi trường tự nhiên, điều kiện vệ sinh.
Trong đó bài tập thể chất là phương tiện chuyên môn cơ bản của GDTC.
I.1. BÀI TẬP THỂ CHẤT LÀ PHƯƠNG TIỆN CHUYÊN MÔN CƠ BẢN CỦA
GIÁO DỤC THỂ CHẤT.
I.1.1. Khái niệm bài tập thể chất:
Bài tập thể chất là những hành vi vận động của con người, được lựa chọn để
giải quyết các nhiệm vụ của giáo dục thể chất.
Trong cuộc sống con người thực hiện những hành động vận động như lao
động, vui chơi, sinh hoạt, giao tiếp. Thông qua hoạt động con người biểu thị nhu
cầu cảm xúc và thái độ tích cực đối với thế giới bên ngoài. Song không phải tất
cả những hành động đó đều gọi là bài tập thể chất. Đặc điểm quan trọng nhất

14
của bài tập thể chất là sự phù hợp giữa hình thức và nội dung của bài tập thể
chất.
Ví dụ: Những hình thức vận động cơ bản của con người như đi, chạy, nhảy
v.v... có thể trở thành bài tập thể chất khi chúng có hình thức hợp lý theo quan
điểm giáo dục thể chất và tạo ra được các quá trình biến đổi chức năng của cơ
thể ở mức độ cần thiết, phù hợp với yêu cầu giữ gìn sức khoẻ, nâng cao các tố
chất thể lực, hoàn thiện các kỹ năng vận động v.v... Như vậy bất kỳ động tác nào
của lao động và đời sống cũng có thể được cải biến để trở thành phương tiện
giáo dục thể chất. Như vậy bài tập thể chất nhất thiết không phải là những môn
thể thao.
Dấu hiệu đặc trưng của bài tập thể chất là sự lặp đi lặp lại động tác, chỉ có
lặp lại nhiều lần một hành động vận động nào đó mới có thể hình thành kỹ năng
kỹ xảo, hoặc làm phát triển tố chất thể lực.
I.1.2. Nguồn gốc bài tập thể chất:
Các công trình nghiên cứu lịch sử cho thấy bài tập thể chất đã xuất hiện cùng
với sự xuất hiện của xã hội loài người trong quá trình lao động. Nhân tố quan
trọng nhất làm nảy sinh BTTC là điều kiện sống vật chất và hoạt động của con
người mà trước nhất là lao động, các bài tập thể chất đầu tiên có liên hệ trực tiếp
với các động tác lao động ngoài lao động các hoạt động quân sự, nghệ thuật, tôn
giáo v.v... cũng ảnh hưởng tới sự phát triển bài tập thể chất, các bài tập nảy sinh
và đáp ứng nhu cầu lao động được gọi là bài tập tự nhiên. Nhưng xã hội loài
người ngày càng phát triển những bài tập tự nhiên mất dần tính thực dụnh trực
tiếp, người ta sáng tạo ra những bài tập không có những động tác giống tự nhiên,
(do sản xuất ngày càng phát triển sự hiện đại của máy móc) sự gián tiếp nhiều
cho nên BTTC mất dần tính thực dụng trực tiếp dần dần các bài tập tự nhiên
được thay thế bằng các bài tập phân tích. Đó là các bài tập được sáng tạo để giải
quyết các nhiệm vụ giáo dục, giáo dưỡng và chữa bệnh.
Ví dụ: Các bài tập thể dục vệ sinh buổi sáng, những bài tập thể dục thể hình ,
các bài tập thể dục dụng cụ...
- Sự khác biệt giữa bài tập thể chất và lao động chân tay.

15
Giống nhau: Đều là sự vận động của cơ bắp với những cơ chế biến đổi về
sinh cơ, sinh lý, sinh hoá... tương tự nhau. Nhưng không thể coi hai hiện tượng
đó có cùng một bản chất mà giữa chúng có sự khác biệt cơ bản.
Bài tập thể chất Lao động chân tay
BTTC tác động vào con người LĐCT tác động vào tự nhiên
Mục đích: Tăng cường sức khoẻ Mục đích: Tạo ra của cải vật chất
- chữa bệnh nghề nghiệp - Gây bệnh nghề nghiệp
- Tạo ra những tố chất thể lực mới - Phát minh ra những phương pháp
mà bẩm sinh di truyền không có được để cải tạo tự nhiên.
Lao động là quá trình con người tác động vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên bắt
tự nhiên đáp ứng nhu cầu của mình, qua lao động con người cải tạo chính bản
thân mình. Song sự tác động đó chỉ mang tính tự phát. Trong sản xuất hiện đại
lao động chân tay được giảm nhẹ sẽ làm thu hẹp vận động thể lực và kết quả là
hạn chế sự phát triển thể chất của con người.
Trong khi đó bài tập thể chất tác động tới cơ thể theo quy luật của quá trình
giáo dục nhờ bài tập thể chất ta có thể định hướng tác động con người để phát
triển thể chất và tinh thần của họ.
Như vậy TDTT và lao động chân tay có mỗi quan hệ hữu cơ với nhau được
thể hiện ỏ chỗ. TDTT sau khi được hình thành trên cơ sở lao động đã trở thành
một hoạt động không thể thay thế được của công việc chuẩn bị cho lao động.
để nghiên cứu sâu hơn về bản chất của bài tập thể chất chúng ta cần phân
tích nội dung và hình thức của BTTC.
I.1.3. Nội dung và hình thức của bài tập thể chất:
- Nội dung:
Là các tác động cấu thành bài tập và các quá trình cơ bản diễn ra trong cơ
thể phản ánh tác động của BTTC đối với người tập. Mỗi bài tập khác nhau có
nội dung khác nhau, quá trình sinh lý diễn ra cũng khác nhau. Những quá trình
này rất đa dạng và phức tạp chúng có thể được xem xét theo các quan điểm tâm
lý học, sinh lý học, sinh hoá, sinh cơ v.v...

16
Dưới góc độ tâm lý, BTTC là các động tác tự ý đó là những động tác được
điều khiển bằng trí tuệ và ý chí khác với động tác “vô ý thức”, tức là các động
tác phản xạ không điều kiện.
Việc thực hiện bài tập thể chất bao giờ cũng nhằm đạt được hiệu quả cụ thể
nói cách khác mỗi bài tập thể chất đều có mục đích tự giác. Để đạt được mục
đích con người phải tư duy tích cực, xác định phương hướng hành động đáng
giá điều kiện hành động và điều khiển động tác nỗ lực ý chí. Như vậy về mặt
tâm lý nội dung của bài tập thể chất là quá trình nhận thức cảm xúc và ý chí.
Xét về mặt sinh lý học, BTTC là sự chuyển cơ thể sang một mức hoạt động
chức năng cao hơn so với trạng thái không hoạt động. Những biến đổi sinh lý
trong vận động sẽ kích thích quá trình hồi phục và thích nghi sau đó.
VD: Thông khí phổi tăng hơn 30 lần, hấp thụ ôxy tăng 20 lần, lưu lượng
phút của máu tăng đến 10 lần hoặc hơn, tương ứng với quá trình đó các quá trình
đồng hoá và dị hoá cũng tăng lên. Nhờ đó BTTC trở thành một nhân tố mạnh mẽ
làm tăng cường khả năng chức phận và hoàn thiện cấu trúc cơ thể.
Khi xem xét nội dung BTTC theo quan điểm sư phạm thì điều quan trọng
không hẳn chỉ là những biến đổi sinh lý, sinh hoá diễn ra trong cơ thể, mà chủ
yếu là những khả năng do bài tập tạo ra để phát triển hợp lý năng lực con người,
cùng với việc hình thành kỹ xảo nhất định. Về mặt sư phạm tác động của bài
tập thể chất không chỉ hạn chế về mặt trong phạm vi sinh học mà còn tác động
đến tâm lý, ý thức hành vi con người.
- Hình thức của bài tập thể chất:
Hình thức của bài tập phụ thuộc vào đặc điểm nội dung của nó trong triết
học hình thức được hiểu là phương thức tồn tại của nội dung, là kết cấu của nội
dung cho nên hình thức BTTC là kết cấu bên trong và bên ngoài của nó.
- Cấu trúc bên trong của bài tập thể chất.
Là mỗi liên hệ qua lại tương hỗ phối hợp và tác động lẫn nhau giữa quá trình
sinh lý diễn ra trong cơ thể khi tập luyện.

17
VD: Các quá trình phối hợp thần kinh cơ, sự phối hợp qua lại giữa chức
năng vận động và thực vật, tương quan giữa khả năng yếm khí và ái khí trong
chạy sẽ khác trong đẩy tạ.
- Cấu trúc bên ngoài của bài tập thể chất:
Biểu hiện mỗi quan hệ không gian, thời gian và dùng sức tức là hình dáng
động tác có thể nhìn thấy được.
Mối quan hệ giữa hình thức và nội dung của bài tập thể chất.
hình thức và nội dung của bài tập thể chất có mỗi liên hệ hữu cơ với nhau.
Trong đó nội dung là mặt quyết định, nội dung đi trước và để đạt được mục đích
trong một bài tập nào đó thì phải thay đổi nội dung, sau đó hình thức mới thay
đổi sau cho phù hợp. Mặt khác hình thức cũng ảnh hưởng tới nội dung, hình
thức bài tập không phù hợp sẽ cản trở việc thực hiện nội dung.
VD: Người có kỹ thuật chạy sẽ đạt kết quả cao hơn người không có kỹ
thuật. Vì vậy hình thức phù hợp sẽ tạo điều kiện thực hiện nội dung.
Trong thực tế có những bài tập có nội dung khác nhau nhưng lại có hình
thức tương tự nhau (như chạy và đi bộ). Đồng thời có những bài tập có nội dung
giống nhau nhưng hình thức lại khác (nhau như chạy bơi cùng một cường độ
sinh lý).

I.2. CÁC NHÂN TỐ XÁC ĐỊNH SỰ TÁC ĐỘNG HỢP LÝ CỦA BÀI TẬP THỂ
CHẤT.
Tuỳ theo nội dung và hình thức mà mỗi bài tập thể chất đều gây tác động
nhất định đến cơ thể con người.
Vì cơ thể con người là khối thống nhất hoàn chỉnh, bất cứ một tác động nào
cũng gây nên sự biến đổi trong cơ thể cho nên trong quá trình tập luyện nếu
không dựa trên những quy luật GDTC thì sẽ mang lại tác hại đối với cơ thể. Cho
nên trong quá trình tập luyện TDTT để đạt được hiệu quả tốt nhất, ngoài việc
lựa chọ được các phương tiện và phương pháp tập luyện hợp lý thì người tập cần
phải chú ý đến các nhân sau đây.
- Bản thân bài tập.

18
Các bài tập khác nhau về cấu trúc, lượng vận động, về độ phức tạp và độ
mới lạ sẽ gây ra những phản ứng khác nhau trong cơ thể người tập.
VD: Bài tập bơi khác bài tập đi bộ, những bài tập khác nhau dẫn đến phản
ứng cơ thể cũng khác nhau.
- Đặc điểm cá nhân người tập.
Lứa tuổi, giới tính, trạng thái sức khoẻ, trình độ tập luyện...
Cùng một bài tập, đối tượng khác nhau dẫn đến phản ứng cơ thể cũng khác
nhau hoặc cùng một lượng vận động trạng thái sức khoẻ khác nhau cũng khác
nhau.
- Điều kiện bên ngoài
Như thời tiết, địa điểm, điều kiện vệ sinh phòng tập, chất lượng dụng cụ tập
luyện
-Phương pháp tập luyện.
Tập phương pháp khác nhau dẫn đến phản ứng cơ thể cũng khác nhau. Ví dụ
phương pháp đồng đều khác phương pháp lặp lại với quãng nghỉ ngắn.
Như vậy, để có được hiệu quả định trước của việc sử dụng bài tập, người tập
phải trả lời được câu hỏi: Ai tập? tập cái gì? tập ở đâu? tập như thế nào?

I.3. Ý NGHĨA PHƯƠNG TIỆN CỦA CÁC NHÂN TỐ MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN
VÀ CÁC NHÂN TỐ VỆ SINH.
I.3.1. Các nhân tố của môi trường tự nhiên
Các nhân tố của môi trường tự nhiên như ánh sáng mặt trời, không khí và
nước, cũng là những phương tiện không kém phần quan trọng để củng cố sức
khoẻ, tôi luyện cơ thể và nâng cao khả năng hoạt động thể lực của con người,
trong quá trình giáo dục thể chất các nhân tố của môi trường tự nhiên được sử
dụng theo hai hướng.
- Bổ sung tăng cường và hợp lý hoá tác động của bài tập thể chất như luyện
tập trong điều kiện giàu ôxy bãi biển, tập dưới ánh nắng, tập trong điều kiện thời
tiết đồi núi.

19
- Sử dụng như một phương tiện độc lập để tôi luyên cơ thể, củng cố sức
khoẻ (tôi luyện là dùng những thủ pháp để nâng cao khả năng thích nghi của cơ
thể).
Một trong những kết quả cơ bản của việc sử dụng hợp lý các nhân tố môi
trường tự nhiên trong quá trình giáo dục thể chất là tôi luyện cơ thể tức là nâng
cao tính ổn định của cơ thể trước những thay đổi đột ngột của thời tiết. Tôi luyện
cơ thể trong phạm vi khả năng thích nghi cho phép sẽ có tác dụng củng cố sức
khoẻ và tăng cường khả năng hoạt động của thể lực của con người. Để tôi luyện
cần tôi luyện từ lứa tuổi nhỏ. Cơ thể cần sử dụng các phương tiện có tác động
trái ngược nhau đối với cơ thể như có thể dùng nước nóng lạnh.
I.3.2. Các nhân tố vệ sinh
Cũng có ý nghĩa như một nhân tố bổ sung của GDTC việc tuân thủ các quy
tắc vệ sinh trong quá trình giáo dục thể chất ở mức đáng kể quyết định hiệu quả
của bài tập thể chất. Điều quan trọng ở đây là phải đảm bảo những yêu cầu vệ
sinh của chế độ lượng vận động và quãng nghỉ. Vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi
trường tập luyện, dụng cụ, trang phục cũng như điều kiện thúc đẩy quá trình hồi
phục sau buổi tập, phòng bệnh và củng cố sức khoẻ. Mặc dù môi trường tự
nhiên và các điều kiện vệ sinh không phải là phương tiện chính của giáo dục thể
chất nhưng nó là các nhân tố bổ sung để làm tăng hiệu quả của quá trình tập
luyện và thi đấu.

II. CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC THỂ CHẤT

II.1. CƠ SỞ CẤU TRÚC CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC THỂ CHẤT
II.1.1. Lượng vận động và quãng nghỉ là yếu tố thành phần cơ bản của
phương pháp giáo dục thể chất.
Một trong những cơ sở quan trọng nhất của tất cả các phương pháp giáo
dục thể chất là phương pháp điều chỉnh lượng vận động và trật tự kết hợp lượng
vận động với nghỉ ngơi.
II.1.1.1. Khái niệm lượng vận động:

20
Lượng vận động trong các bài tập thể lực là mức độ tác động của chúng tới
cơ thể người tập. Nói cách khác thuật ngữ lượng vận động được dùng để chỉ sự
định lượng tác động của các bài tập thể lực. Lượng vận động dẫn đến những
diễn biến chức năng trong cơ thể như các trạng thái trước vận động, bắt đầu vận
động, ổn định, mệt mỏi. Sự tiêu hao năng lượng trong vận động cũng như mệt
mỏi nói chung chính là nguyên nhân tạo nên sự hoàn thiện cơ thể bằng vận
động. Mệt mỏi sau vận động không mất đi hoàn toàn mà để lại những “dấu vết”.
Quá trình tích luỹ những “dấu vết”, những biến đổi thích nghi đó sẽ làm phát
triển trình độ tập luyện. Như vậy, lượng vận động dẫn tới mệt mỏi và tiếp đó là
hồi phục thích nghi.
Hiệu quả của lượng vận động tỉ lệ thuận với khối lượng và cường độ của nó
nếu coi bài tập là một nhân tố tác động thì khái niệm khối lượng vận động là độ
dài thời gian tác động là tổng số lần vận động thể lực đã được thực hiện và nhiều
thông số khác. Cường độ vận động là sự tác động vào cơ thể của bài tập vào mỗi
thời điểm cụ thể, là mức căng thẳng chức năng, là trị số một lần gắng sức…
Lượng vận động chung của một số bài tập hay của cả buổi tập nói chung được
xác định thông qua cường độ và khối lượng trong mỗi bài tập.
Trong thực tế, người ta thường đánh giá tổng khối lượng vận động theo các
thông số riêng lẻ bên ngoài tuỳ theo đặc điểm bài tập. Ví dụ, khối lượng là tổng
số công và VĐV sinh ra trong suốt buổi tập, 1 tuần, 1 tháng, 1 năm, tổng số dộ
dài, tổng số thời gian, số lần lặp lại vv..
Cường độ: Được đánh giá bằng mức độ căng thẳng về mặt sinh lý sinh hoá
thực tế người ta tình bằng tốc độ trung bình. Ví dụ, tỉ lệ giữa kilômét chạy với
tốc độ cần thiết trên tổng số kilômét đã vượt qua trong buổi tập.
Các chỉ số tối đa của khối lượng và cường độ có liên quan tỷ lệ nghịch với
nhau lượng vận động có cường độ tối đa chỉ có thể kéo dài một số dây hoặc ít
hơn, ngược lại lượng vận động có khối lượng tối đa chỉ có thể thực hiện với
cường độ thấp. Vì cường độ bài tập càng cao thì khối lượng càng nhỏ và ngược
lại. Trong những bài tập có cường độ trung bình thì khối lượng vận động có thể
đạt tới những trị số lớn.

21
Người ta phân biệt lượng vận động bên trong và lượng vận động bên ngoài
- Lượng vận động bên trong: Là mức độ biến đổi sinh lý sinh hoá trong cơ
thể khi thực hện bài tập. Trong điều kiện nhất định thì lượng vận động bên ngoài
và lượng vận động bên trong tương ứng với nhau. Cường độ và khối lượng vận
động càng lớn thì mức độ biến đổi sinh lý, sinh hoá trong cơ thể càng mạnh và
ngược lại. Khi cơ thể ở những trạng thái khác nhau thì quan hệ giữa lượng vận
động bên trong và lượng vận động bên ngoài cũng đổi khác.
VD: Khi sử dụng một lượng vận động bên ngoài có hệ thống trong cơ thể đã
diễn ra những biến đổi thích nghi khi có lượng vận động không còn gây nên
những phản ứng mạnh mẽ như trước nữa. Hoặc cơ thể ở những trạng thái khác
nhau thì cùng một lượng vận động sẽ dẫn đến những phản ứng trả lời khác nhau.
- Lượng vận động bên ngoài: Có thể xác định bằng những thông số vận động
theo các hệ số đo lường như thời gian, độ dài, trọng lượng các vật. Lượng vận
động bên ngoài dễ xác định nhưng chỉ một cách tương đối
VD: Quan sát bằng cảm giác chủ quan mệt hay không mệt, sắc thái, màu da
hay bắt mạch.
Lượng vận động bên trong phải thông qua các phương pháp kiểm tra y học.
VD: Xác định sự tiêu hao năng lượng, phân tích máu v.v...
Lập kế hoạch và điều chỉnh lượng vận động là nội dung cơ bản trong xây
dựng phương pháp giáo dục thể chất, song nếu chỉ dừng ở đó thì chưa đủ, hiệu
quả tập luyện còn phụ thuộc vào trật tự kết hợp một cách koa học giữa lượng
vận động và nghỉ ngơi tích cực có tác dụng thúc đẩy nhanh quá trình hồi phục
sau vận động, thông thường người ta kết hợp hai hình thức nghỉ ngơi với nhau.
Ví dụ, giữa các lần tập nghỉ ngơi thụ động, giữa các loạt tập nghỉ tích cực.
Thời gian quãng nghỉ trong các phương pháp khác nhau được xác định tuỳ
theo mục đích của buổi tập và các quy luật của quá trình hồi phục.
II.1.1.2. Các quãng nghỉ trong phương pháp giáo dục thể chất
Căn cứ vào mức độ hồi phục sau vận động mà người ta phân biệt 3 quãng
nghỉ: Quãng nghỉ đầy đủ, quãng nghỉ ngắn, quãng nghỉ vượt mức.

22
- Quãng nghỉ đầy đủ: Là quãng nghỉ đảm bảo, cho lượng vận động tiếp theo
được thực hiện vào thời điểm khả năng vận động thể lực đã hồi phục tới mức
ban đầu, nhờ vậy khi lặp lại các chức năng không bị căng thẳng.
- Quãng nghỉ vượt mức: Là quãng nghỉ đảm bảo cho lượng vận động lặp lại
được tiến hành vào thời điểm diễn ra pha hồi phục vượt mức. Tức là dường như
xẩy ra trên nền nâng cao năng lực hoạt động, trên nền hiệu quả lưu lại từ buổi
tập trước.
- Quãng nghỉ ngắn: Là quãng nghỉ mà trong đó lượng vận động được lặp lại vào
thời điểm các chức năng riêng lẻ hoặc toàn bộ cơ thể chưa kịp hồi phục đầy đủ.
Với quãng nghỉ này lượng vận động bên trong ngày càng tăng lên.
II.2. Cấu trúc buổi tập TDTT
Dựa trên quy luật diễn biến khả năng hoạt động thể lực trong phạm vi buổi
tập và đặc biệt tổ chức hoạt động người tập, người ta chia buổi tập thành 3 phần:
Chuẩn bị, cơ bản, kết thúc
- Phần chuẩn bị:
Việc tổ chức cho một buổi tập cần phải chuẩn bị về dụng cụ sân bãi đầy đủ
sạch sẽ cho buổi tập.
Phần này cơ thể chuyển từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động gồm gồm
khởi động chung và khởi động chuyên môn để chuẩn bị cho những nhóm cơ
chính chịu lượng vận động của giờ học. Cấu trúc của phần chuẩn bị phải phù
hợp với phần cơ bản phần này chiếm từ 10- 15% thời gian của buổi tập.
- Phần cơ bản:
Phần cơ bản được dành để giải quyết các nhiệm vụ phức tạp nhất của buổi
tập. Tuỳ thuộc nội dung cụ thể, phần cơ bản có thể chia thành nhiều phần nhỏ.
Đây là phần chủ yếu của buổi tập được tiến hành khi năng lực hoạt động đạt
giá trị cao nhất. Phần này gải quyết những nhiệm vụ khó khăn khác nhau của
buổi tập như thực hiện những động tác mới, động tác phức tạp được bố trí ngay
vào đầu của phần cơ bản. Khi tập những động tác mới người tập cần nắm vững
quy luật hình thành và tiếp thu động tác. Giáo dục các tố chất thể lực cần tiến
hành giáo dục sức nhanh, sức mạnh, sức bền hoặc sức mạnh, sức nhanh, sức

23
bền. Trong các buổi tập thể thao, giai đoạn khả năng hoạt động thể lực tối ưu
được dành cho phát triển sức mạnh và sức mạnh tốc độ. Thông thường phần này
chiếm 70 - 80% thời gian buổi tập.
- Phần kết thúc:
Được tiến hành vào lúc năng lực hoạt động đã giảm xuống dần dần. Tổ chức
thu gọn dụng cụ tập luyện. Để thúc đẩy nhanh quá trình hồi phục trong phần kết
thúc người ta sử dụng các bài tập nhẹ nhàng như đi bộ, các động tác đơn giản,
các động tác vũ đạo, nghỉ ngơi tích cực để đưa cơ thể về trạng thái bình thường.
Phần này thời gian chiếm 5 - 10%.

Bài 3
24
CÁC NGUYÊN TẮC VỀ PHƯƠNG PHÁP
TẬP LUYỆN TDTT
A. MỤC TIÊU
- Kể tên được các nguyên tắc
- Phân tích đặc điểm các nguyên tắc
B. NỘI DUNG
Những nguyên lý chung nhất để xác định toàn bộ phương hướng và tổ chức
hoạt động trong giáo dục thể chất là ba nguyên tắc chung. Ngoài ra còn có
những nguyên tắc về phương pháp giáo dục thể chất. Đó là những nguyên lý, cơ
sở khoa học - thực tiễn, dùng để xác định những yêu cầu cơ bản về cấu tạo, nội
dung, phương pháp tổ chức quá trình giáo dục thể chất nhằm đạt được hiệu quả
mong muốn. Các nguyên tắc nghiên cứu dưới đây một mặt phản ánh quy luật
của quá trình sư phạm mặt khác phản ánh quy luật đặc thù của giáo dục thể chất.
Hệ thống nguyên tắc bao gồm năm nguyên tắc.
III.1. NGUYÊN TẮC TỰ GIÁC TÍCH CỰC :
Nguyên tắc tự giác tích cực phản ánh quy luật tâm lý hoạt động. Hiệu quả
của quá trình tập luyện TDTT phụ thuộc rất nhiều vào tinh thần thái độ bản thân
người tập việc hiểu được bản chất các nhiệm vụ cũng như tích cực thực hiện
chúng sẽ rút ngắn thời thực hiện bài tập, tạo điều kiện sử dụng sáng tạo kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo vào cuộc sống. Nội dung của nguyên tắc thể hiện ở yêu
cầu sau.
Xây dựng thái độ tự giác và hứng thú đối với mục đích chung và nhiệm vụ
cụ thể của từng buổi tập.
Tiền đề cần thiết của thái độ này là động cơ tham gia hoạt động đó. Các nhà
tâm lý học Mác Xít cho rằng con người hoạt động là do động cơ tâm lý thúc
đẩy.
Động cơ hoạt động chi phối thúc đẩy con người hoạt động suy cho cùng là
nhu cầu Mác nói: “Trước nhất con người phải có ăn ở mặc. Không có nhu cầu
sống thì không lao động, nhu cầu thấp thì trình độ thấp”.

25
Động cơ nhà nhu cầu đã được nhận thức nó trở thành trạng thái tâm lý thúc
đẩy con người hoạt động.
Động cơ mạnh mẽ thúc đẩy lâu dài con người tích cực hoạt động là nhận
thức được nhu cầu. Nhận thức được ý nghĩa tầm quan trọng của kết quả hoạt
động đối với cuộc sống cá nhân, gia đình, tập thể và xã hội.
Động cơ học tập nói chung và động cơ tập luyện TDTT nói riệng nói riêng
nhiều khi còn là hứng thú, hứng thú tới mức say mê.
Hứng thú là thái độ đặc thù của cá nhân do đối tượng đem lại. Vì vậy cần tổ
chức quá trình tập luyện TDTT có sức lôi cuốn và hấp dẫn bằng cách lựa chọn
những bài tập, các phương pháp tập phù hợp với đối tượng. Có hai loại hứng
thú: hứng thú nhất thời và hứng thú bên vững.
- Hứng thú nhất thời
Không đáp ứng được nhu cầu, nó chỉ do vẻ bề ngoài của đối tượng đem lại
trước sau đó cũng mất đi sức mạnh không thúc đẩy được con người tích cực học
tập.
- Hứng thú bề vững
Hứng thú chỉ có giá trị lâu dài khi nó gắn liền với nhu cầu và như vậy người
ta gọi là hứng thú bền vững. Chính vì vậy trong quá trình tập luyện TDTT thì
trước hết người tập cần phải thấm nhuần giá trị chân chính của việc tập luyện
TDTT. Phải lựa chon môn tập phù hợp với đặc điểm thể chất, khả năng, sở thích
và điều kiện của người tập.
Nguồn gốc thứ ba của tính tự giác tích cực đó là lý tưởng. Nhiều loại hoạt
động đặc biệt đồi hỏi con người phải có nỗ lực vượt bậc mới đảm bảo sự thhành
công. Hoạt động thể dục thể thao phải có lý tưởng.
Lý tưởng là mục đích cao đẹp của cuộc sống được phản ánh dưới dạng hình
ảnh cao đẹp. Lý tưởng mang tính hiện thực lãng mạn. Khi có lý tưởng nó có tác
động định hướng cho hoạt động. Trong hoạt động đặc biệt khó khăn, gian nan
vất vả đòi hỏi con người phải có lý tưởng.
Trong thể thao đỉnh cao để xây dựng lý tưởng cho vận động viên đặc biệt là
với các vận động viên trẻ, những phương pháp lý tưởng thể thao thường người

26
ta cho vận động viên trẻ đọc về tiểu sử của những vận động viên kiệt xuất. Tổ
chức những buổi trao đổi mạn đàm, gặp gỡ những huấn luyện viên, trọng tài và
những vận động viên lỗi lạc.
Đối với việc tập luyện TDTT với mục đích tăng cường sức khoẻ, phát triển
thể chất, thì việc xây dựng lý tưởng cho chính bản thân người tập cũng là một
trong những yếu tố cần thiết.
III.2. NGUYÊN TẮC TRỰC QUAN.
Đây là nguyên tắc quan trọng trong giáo dục thể chất, bởi vì hoạt động của
người tập về cơ bản là mang tính chất thực hành và một trong những nhiệm vụ
chuyên môn của mình là phát triển toàn diện các cơ quan cảm giác.
Tính trực quan trong dạy học và giáo dục thể chất biểu hiện ở việc sử dụng
rộng rãi các cảm giác, các cơ quan cảm thụ nhờ đó có thể tiếp xúc trực tiếp
nhiều mặt với hiện thực xung quanh.
Cơ sở triết học người ta đã nhận ra rằng con người có thể nhận thức được
thông qua các giác quan.
Nội dung nguyên tắc trực quan là quy luật của quá trình nhận thức: "Từ trực
quan sinh động tới tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng tới thực tiễn".
III.2.1. Trực quan là tiền đề để tiếp thu động tác:
Như chúng ta đã biết, nhận thức thực tế được bắt đầu từ mức độ cảm giác
“trực quan sinh động”. Để thực hiện đúng động tác người tập phải hình dung ra
toàn bộ kỹ thuật bài tập, phải có được biểu tượng vận động.
Biểu tượng vận động là sự phản ánh sự vật và hiện tượng khi nó không còn
trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng ta nữa.
Để trực quan làm tiền đề tiếp thu động tác thì phải khắc phục một khó khăn
đáng kể về phương pháp. Để có cảm giác thực sự về động tác thì phải thực hiện
nó, nhưng không thể thực hiện đúng động tác nếu sơ bộ chưa có được biểu
tượng vận động cơ bản. Vấn đề này người ta tiến hành bằng hai cách. Một là,
bằng cách tuân thủ nguyên tắc tập luyện hợp lý từ đơn giản đến phức tạp, tờ dễ
đến khó. Nhờ vậy kinh nghiệm vận động đã thu được ở giai đoạn trước sẽ tự
nhiên dẫn đến các kỹ năng vận động mới. Thứ hai là sử dụng tổng hợp các hình

27
thức trực quan khác nhau và tham khảo các loại tài liệu có liên khác nhau để tạo
nên những mặt rêng lẻ của các động tác đó v.v...
III.2.2. Trực quan là điều kiện tiếp tục hoàn thiện động tác.
Nếu trong giai đoạn đầu trực quan là tiền đề để tiếp thu động tác thì giai
đoạn sau trực quan sẽ hoàn thiện động tác ở mức độ cao.
Vai trò của trực quan là phát triển các cơ quan cảm giác, đặc biệt là cơ quan
cảm giác vận động. Trong rất nhiều bài tập thể thao sự phát triển các giác quan
có ý nghĩa quyết định thành tích. Trong trường hợp này trực quan là tác động
làm hoàn thiện các cơ quan cảm thụ của cơ thể để xây dựng lên cảm giác chuyên
môn như cảm giác không gian, cảm giác thời gian, cảm giác dùng sức .
VD: vận động viên bóng chuyền có cảm giác không gian rất nhạy bén, phán
đoán bóng trong hay ngoài sân, vận động viên điền kinh có cảm giác thời gian
rất tốt. Đó là trình độ điêu luyện, chỉ có điêu luyện mới đạt được hiệu quả cao
quyết định thành tích.
Đặc biệt cần phát triển cảm giác cơ bắp có thể sử dụng các biện pháp như
loại trừ thị giác.
VD: Như bịt mắt dẫn bóng ném rổ, đến giai đoạn tự động hoá thì vai trò của
cảm giác bản thể chiếm ưu thế.
Để hình dung ra động tác thì trong quá trình dạy học phải sử dụng tổng hợp các
phương tiện và phương pháp trực quan. Có hai trực quan: Trực quan trực tiếp
và trực quan gián tiếp.
Trực quan trực tiếp: Xem các vận động viên, các giáo viên, hướng dẫn viên
làm mẫu trực tiếp.
Trực quan gián tiếp: Để tiếp thu nhanh động tác ngày nay người ta thường
sử dụng rất nhiều các phương tiện trực quan, phương pháp trực quan gián tiếp
như tranh ảnh, sơ đồ, sa bàn, mô hình, phim ảnh v.v... Ngày nay có những động
tác mà người không làm được đã có camêra quay lại.
Việc sử dụng rộng rãi các hình thức trực quan khác nhau làm tăng hứng thú
tập luyện, thúc đẩy nhanh quá trình nhận thức, làm cho các động tác phức tạp

28
cũng trở nên dễ hiểu, dễ thực hiện nhiệm vụ, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho
việc tiếp thu các kiến thức, các kỹ năng, kỹ xảo khác cảu người tập.
III.3. NGUYÊN TẮC THÍCH HỢP
Trong tập luyện TDTT nguyên tắc này đặc biệt quan trọng. Về bản chất, nó
thể hiện yêu cầu xây dựng quá trình tập luyện TDTT phù hợp với khả năng của
người tập, đồng thời có tính đến đặc điểm của người tập về lứa tuổi, giới tính,
trình độ tập luyện trạng thái sức khoẻ và cả những khác biệt cá nhân về năng lực
thể chất và tinh thần. Bởi lẽ sự không phù hợp giữa yêu cầu tập luyện với khả
năng chủ quan của người tập sẽ dẫn tới tổn hại về sức khoẻ, gây nên hiệu quả
ngược lại. Việc tuân thủ đúng mức nguyên tắc này đảm bảo hiệu quả của giáo
dục thể chất. Bản chất của nguyên tắc này được thể hiện ở một số yêu cầu sau.
III.3.1. Xác định mức độ thích hợp.
Tính thích hợp bài tập thể chất phụ thuộc trực tiếp vào khả năng của người
tập và những khó khăn khách quan khi thực hiện một bài tập đó với những đặc
điểm tiêu biểu của nó (tính phối hợp vận động phức tạp, cường độ và khoảng
thời gian nỗ lực v.v...). Sự phù hợp hoàn toàn giữa khả năng chủ quan và khó
khăn khách quan là tiêu chuẩn đánh giá mức độ thích hợp. Song thích hợp
không có nghĩa là không có khó khăn mà phải có những khó khăn nhưng vừa
sức.
Khi nói đến khả năng chủ quan của người tập cần chú ý tới những đặc điểm
như: Lứa tuổi, giới tính, trình độ tập luyện, trạng thái sức khoẻ.
Những yêu cầu khách quan của bài tập bao gồm: Tính chất mới lạ của bài
tập, mức độ phức tạp về kỹ thuật, mức độ dùng sức, lượng vận động của bài tập.
Thước đo của sự phù hợp là sức khỏe. Chính vì vậy, phải thường xuyên
kiểm tra y học kết hợp với kiểm tra sư phạm.
Để lựa chọn phương tiện thích hợp ta có thể căn cứ vào các chương trình về
tiêu chuẩn đã được quy định cho mỗi loại cụ thể (chương trình môn học TDTT
trong các trường, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể).
Việc xác định khả năng của người tập được xác định thông qua kiểm tra y
học và kiểm tra sư phạm. Cần chú ý rằng các giới hạn thích hợp trong giáo dục

29
thể chất luôn thay đổi, chúng tăng lên theo sự phát triển thể chất và tinh thần của
người tập. Nhũng gì chưa vừa sức ở giai đoạn này lại trở nên dễ thực hiện ở giai
đoạn sau. Vì vậy, các yêu cầu đề ra đối với người tập phải được thay đổi tương
ứng để không ngừng kích thích sự phát triển tiếp theo các khả năng của con
người.
III.3.2. Điều kiện và phương pháp đảm bảo tính thích hợp.
Ngoài những điều nêu trên thích hợp trong giáo dục thể chất còn được xác
định bởi mức độ hợp lý của các phương pháp được lựa chọn và cấu trúc chung
của buổi tập. Vì vậy vấn đề này ở trong chừng mực nào đó có liên quan tới
những vấn đề khác thuộc lãnh vực phương pháp giáo dục thể chất hợp lý, đặc
biệt là phương pháp thừa kế tối ưu giữa các buổi tập và tăng dần khó khăn trong
tập luyện.
Mọi người đều biết rằng, các kỹ năng và kỹ xảo mới sẽ xuất hiện trên cơ sở
các kỹ năng, kỹ xảo đã được tiếp thu từ trước. Ví dụ: Trẻ em biết đứng, biết đi,
biết chạy.
Vì vậy một trong những điều kiện vừa sức là phải đảm bảo tính kế thừa của
buổi tập. Còn sắp xếp nội dung học tập ra sao cho nội dung của buổi tập trước là
bậc thang, là con đường ngắn nhất để tiếp thu nội dung của buổi tập sau được
thể hiện trong quy tắc sự phạm từ đã biết đến chưa biết, từ cái tiếp thu đến cái
chưa tiếp thu. Ví dụ: Nhảy xa là phải học chạy ngắn trước, các bài tập đẩy giống
nhau ở giai đoạn ra sức cuối cùng hoặc học ném lựu đạn, ném lao.
Để đảm bảo yêu cầu tăng dần khó khăn trong giáo dục thể chất cần phải tuân
thủ các nguyên tắc từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó.
III.4. NGUYÊN TẮC HỆ THỐNG.
Nguyên tắc này có liên quan đến tính thường xuyên trong tập luyện và hệ
thống luân phiên lượng vận động với nghỉ ngơi, cũng như tính tuần tự trong tập
luyện và mối liên hệ lẫn nhau giữa các mặt khác nhau trong nội dung tập luyện.
Đây là một nguyên tắc cơ bản trong quá trình tập luyện TDTT vì kiến thức về kỹ
thuật phải được sắp xếp theo một trật tự lôgic.
III.4.1. Đảm bảo thường xuyên liên tục cúa quá trình giáo dục thể chất

30
Phải tập luyện thường xuyên liên tục vì chỉ có như vậy mới đảm bảo sự phát
triển thể chất, củng cố sức khoẻ tăng cường khả năng làm việc, vốn kỹ năng, kỹ
xảo, có thành tích thể thao.
Thường xuyên là quá trình lặp lại đảm bảo mật độ học tập cần thiết trong
một đơn vị thời gian.
Ví dụ: Trong tuần, trong tháng.
Thường xuyên khác với gián đoạn sở dĩ phải đảm bảo mật độ buổi tập trong
một tuần. Vì kết quả của quá tập luyện TDTT, đặc biệt là quá trình hình thành
kỹ năng và kỹ xảo vận động phụ thuộc rất nhiều vào tần suất lặp lại các đường
dây liên hệ tạm thời. Vì vậy, nếu kéo dãn quá dài khoảng cách giữa các buổi tập
sẽ làm cho các đường dây liên hệ tạm thời mới hình thành sẽ bị mờ đi theo quy
luật ức chế dập tắt. Ngoài ra những diễn biến thích nghi thu được trong giáo dục
tố chất vận động cũng được phát triển theo chiều hướng ngược lại.
Vì vậy để đảm bảo thường xuyên trong giáo dục thể chất cần tổ chức tập ít
nhất là 3 buổi trong một tuần. Hoàn thiện thể chất chỉ có thể có trong quá trình
giáo dục thể chất là liên tục mà thôi.
Liên tục không có nghĩa là không nghỉ, mà qua một hệ thống luân phiên
giữa lượng vận động và nghỉ ngơi. Tính liên tục trong quá trình giáo dục thể
chất còn được thể hiện trong yêu cầu phải tham gia tập luyện trong suốt cuộc đời
của mỗi cá nhân, bởi lẽ kết quả tập luyện không phải là một giá trị vật chất bất
biến mà nó sẽ mòn dần quên đi khi ngừng tập.
III.4.2. Luân phiên hợp lý giữa vận động và nghỉ ngơi.
Tập luyện thường xuyên chỉ có hiệu quả khi bố trí những quãng nghỉ hợp lý
giữa các buổi tập, việc bố trí quãng nghỉ được dựa trên cơ sở những quy luật hồi
phục khả năng hoạt động sau mỗi buổi tập.
Quy luật lớn nhất của quá trình hồi phục là quy luật hồi phục vượt mức.
Người ta đã chứng minh rằng sau một lượng vận động đủ lớn khả năng hoạt
động thể lực không chỉ hồi phục lại mức ban đầu mà còn vượt lên cao hơn mức
khởi điểm rồi giao động như sóng tắt dần.

31
Trong thực tiễn giáo dục thể chất có ba quãng nghỉ: Quãng nghỉ vượt mức,
quãng nghỉ ngắn và quãng nghỉ đầy đủ.
Nhưng trong thực tế có sự hồi phục không đồng thời tức là các chức năng
sinh lý, sinh hoá của cơ thể trở về trạng thái ban đầu không cùng một lúc mà có
bộ phận hồi phục sớm, có bộ phận lại hồi phục muộn.
VD: Hàm lượng ATP hồi phục sớm hơn trong khi đó nồng độ máu hồi phục
chậm, trả nợ dưỡng cùng diễn ra chậm. Hồi phục của quá trình thần kinh diễn ra
nhanh chóng hơn so với sự hồi phục của các cơ quan thực vật.
Để vận dụng quy luật này người ta thường tổ chức các buổi tập xen kẽ để
giải quyết các nhiệm vụ vận động khác nhau trong một chu kỳ ngắn để tiết kiệm
thời gian.
- Tính lặp lại và tính biến dạng:
Tại sao ta phải tập luyện lặp lại?
Trước hết do yêu cầu của cơ thể hình thành và hoàn thiện kỹ xảo nhờ có sự
lặp lại mà đường dây liên hệ tạm thời được củng cố vững chắc thành lập được
định hình động lực.
Vậy chỉ có lặp lại mới tạo nên những biến đổi thích nghi làm cho cơ thể
phát triển. Song chỉ giới hạn ở lặp lại đơn thuần thì sớm muộn sẽ dẫn đến hiện
tượng thích nghi sự phát triển sẽ dừng lại, cho nên lặp lại phải kết hợp với biến
dạng (Biến dạng có thể là biến đổi bài tập, điều kiện tập luyện, thay đổi lượng
vận động…).
III.4.3. Tuần tự giữa các nội dung của buổi tập.
Trong một buổi tập thường có nhiều nội dung khác nhau song tập luyện nội
dung nào trước, nội dung nào sau cần phải cân nhắc.
Thông thường người ta áp dụng các trật tự như sau (nhanh, mạnh, bền hoặc
mạnh, nhanh, bền). Không bao giờ được đặt sức bền lên trên, hay học động tác
mới phải được tiến hành vào đầu giờ vì cơ thể còn hưng phấn, củng cố vào cuối
buổi tập.

32
III.5. NGUYÊN TẮC TĂNG TIẾN.
Nguyên tắc này thể hiện những xu hướng chung về các yêu cầu đặt ra người
tập trong quá trình giáo dục thể chất, đề ra các nhiệm vụ ngày càng khó ở việc
tăng từ từ lượng vận động có liên quan đến các nhiệm vụ đó. Nội dung của
nguyễn tắc thể hiện ở những yêu cầu sau đây:
III.5.1. Cần thường xuyên đổi mới nhiệm vụ vận động và tăng lượng vận
động.
Trong quá trình giáo dục thể chất phải không ngừng tăng số lượng và chất
lượng của các kỹ xảo vận động. Chỉ có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu cuộc
sống cũng như yêu cầu của chính bản thân của quá trình giáo dục. Lượng kỹ
năng, kỹ xảo vận động phong phú và đa dạng là tiền đề để tiếp thu nhanh chóng
những kỹ năng, kỹ xảo mới của ngành nghề hoặc chuyên môn hoá thể thao.
Phải không ngừng tăng lượng vận động vì: Lượng vận động là nguyên nhân
của sự phát triển, lượng vận động dẫn tới mệt mỏi và những biến đổi hồi phục
thích nghi sau đó. Mệt mỏi không mất đi hoàn toàn mà để lại những “dấu vết”
chú ng được tích luỹ lại và cuối cùng là nâng cao khả năng hoạt động thể lực.
Mặt khác, khi sử dụng thường xuyên một lượng vận động ổn định nào đó sẽ dẫn
đến phản ứng thích nghi trong cơ thể, trước đây là lớn đối với cơ thể thì lúc này
không còn là kích thích mạnh với cơ thể nữa, mà nó dường như nhỏ hơn so với
khả năng của cơ thể đã được nâng lên, nó không làm kích thích cho sự phát triển
nữa. Chính vì vậy, để đảm bảo tiếp tục nâng cao các khả năng chức phận của cơ
thể thì cần phải đổi mới có hệ thống lượng vận động, đồng thời phải nâng thích
hợp cả khối lượng và cường độ lên một bậc thang mới cao hơn. Đây là một quy
luật căn bản của quá trình giáo dục thể chất. Tăng lượng vân động là tăng vốn
kỹ năng, kỹ xảo, tăng phẩm chất ý chí cho người tập.
III.5.2. Điều kiện để phức tạp hoá nhiệm vụ vận động.
Để tăng chất lượng cũng như số lượng các kỹ năng kỹ xảo chúng ta cần phải
đảm bảo các yêu cầu nêu trong nguyên tắc thích hợp, nguyên tắc hệ thống. Cụ
thể là sự tăng dần yêu cầu chỉ mang lại hiệu quả tốt khi nhiệm vụ mới và các
lượng vận động có liên quan đến các nhiệm vụ đó là vừa sức đối với người tập,

33
tương ứng với các đặc điểm lứa tuổi, giới tính và các đặc điểm cá nhân, phải bảo
đảm tính kế thừa giữa các bài tập, đảm bảo luân phiên hợp lý giữa vận động và
nghỉ ngơi. Nguyên tắc tăng tiến đặt ra một yêu cầu cần đặc biệt trong tập luyện
những kỹ thuật mới, đảm bảo kỹ xảo cũ đã được củng cố vững chắc.
III.5.3. Yêu cầu tăng lượng vận động
Khi tăng lượng vận động cần phải đảm bảo các yêu cầu tăng từ từ, tăng dần
dần. Phải tăng từ từ và tăng dần dần vì quá trình diễn biến thích nghi trong cơ
thể xẩy ra rất chậm, phải trải qua một quá trình tích luỹ về số lượng mới dẫn tới
sự phát triển về chất lượng. Mặt khác quá trình thích nghi lại diễn ra không đồng
thời lại càng kéo dài thêm quá trình này.
Để đảm bảo các yêu cầu tăng từ từ trong thực tế huấn luyện người ta thường
áp dụng ba hình thức tăng lượng vận động.
- Hình thức tăng theo đường thẳng dốc
Với hình thức này yêu cầu tăng từ từ được đảm bảo bằng lượng gia tăng rất
nhỏ.

K
L
L
1 2L 3 4 5 6 7
L
- Hình thức tăng theo bậc thang
Lượng vận động được ổn định trong một thời gian tương đối lớn, tới khi
quan sát thấy những biến đổi thích nghi thì áp dụng lượng vận động lớn gấp bội
lượng vận động ban đầu hay còn gọi là tăng nhảy vọt.
K
L

1 2 3 4 5 6 7 34
- Tăng theo hình thức làn sóng
Hình thức này cho phép tăng lượng vận động tới một đỉnh cao rồi giảm bớt
dần, sau đó “sóng” này lại được lặp lại ở trình độ cao hơn. Cách này cho phép
vừa không vi phạm tính tuần tự, vừa đưa khối lượng và cường độ vận động đến
những trị số lớn nhất. Hình thức này được áp dụng rộng rãi hơn cả trong huấn
luyện thể thao.
Ưu điển của hình thức tăng lượng vận động theo hình làn sóng.
- Giải quyết mâu thuẫn diễn biến lượng vận động bên ngoài (khối lượng và
cường độ) và quá trình thích nghi chậm chạp bên trong.
- Phù hợp quy luật sinh học (nhà khoa học Mỹ đã nghiên cứu rằng trong một
ngày vào lúc 11h trưa và 4 giờ chiều lực bóp tay lớn nhất, trong tuần có ngày
yếu và ngày khoẻ).
- Giải quyết mâu thuẫn giữa tăng khối lượng và cường độ ở những thông số
tối đa (chạy nhanh thì không chạy xa được và ngược lại).
Chú ý tập luyện thì bao giờ cũng tập khối lượng trước khi khối lượng đã đạt
tới mức tối đa thì giảm khối lượng và từ đó tăng cường độ.
Như vậy tuỳ theo điều kiện và nhiệm vụ cụ thể của từng thời kỳ giáo dục thể
chất mà lựa chọn áp dụng hình thức tăng khối lượng vận động thích hợp. Hình
thức đường thẳng dốc được sử dụng khi yêu cầu tăng chậm và tăng ít lượng vận
động, ngược lại khi cần kích thích đột ngột sự phát triển trình độ thì sử dụng
hình thức bậc thang. Còn hình thức làn sóng làm nền cho hình thức đường thẳng
dốc và hình thức bậc thang.
Hình vẽ.

1 2 3 4 5 6 7

35
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

1. BTTC là gì? BTTC với các hoạt động lao động chân tay giống và khác
nhau như thế nào?
2 Tại sao nói BTTC là phương tiện chuyên môn cơ bản của GDTC?
3. Phân tích các nhân tố xác định sự tác động hợp lý của BTTC?
4. Vai trò của các nhân tố môi trường tự nhiên và điều kiện tự nhiên?
5. Trình bày cơ sở khoa học của các phương pháp GDTC?
6. Trình bày đặc điểm phương pháp trò chơi và thi đấu?
7. Trình bày khái niệm “thích hợp”? Những yêu cầu về phương pháp để đảm
bảo tính thích hợp? Xu hướng cá biệt hoá trong GDTC?
8. Tại sao phải đảm bảo tính thường xuyên liên tục trong quá trình GDTC?
9. Tại sao phải thường xuyên đổi mới nhiệm vụ vân động và tăng LVĐ?
Trình bày các hình thức tăng LVĐ?

36
PHẦN II
Y SINH HỌC THỂ DỤC THỂ THAO

A. MỤC TIÊU
Sau khi học xong, sinh viên có khả năng:
1. Trình bày được khái niệm sức khoẻ và vai trò của tập luyện TDTT đối với
tăng cường sức khoẻ và phòng chữa bệnh tật;
2. Kể được tên 7 nguyên tắc vàng trong tập luyện TDTT;
3. Trình bày được các nguyên tắc vệ sinh và dinh dưỡng trong thời gian tập
luyện TDTT;
4. Phân loại được các chấn thương thể thao thường gặp và mô tả cách xử lý
ban đầu;
5. Trình bày được các bước của nguyên lý “RICE” trong sơ cứu và điều trị
các chấn thương thường gặp;
6. Kể tên một số bệnh, chứng và cách xử lý ban đầu các chứng thường gặp
trong tập luyện và thi đấu TDTT;
7. Mô tả được trình tự thao tác của phương pháp hô hấp nhân tạo và xoa bóp
tim ngoài lồng ngực.
8. Thực hiện được một số kỹ năng như: băng bó vết thương, cố định gãy
xương và hô hấp nhân tạo.

B. NỘI DUNG
I. VAI TRÒ CỦA TẬP LUYỆN TDTT ĐỐI VỚI SỨC KHOẺ VÀ PHÒNG
CHỮA BỆNH TẬT
1.1. Khái niệm về sức khoẻ
Định nghĩa sức khỏe theo Tổ chức y tế thế giới (WHO) “Sức khỏe là trạng
thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không chỉ bao gồm
tình trạng không có bệnh hay thương tật”.
Có một sức khỏe tốt nhất là một trong những quyền cơ bản con người dù
thuộc bất kỳ chủng tộc, tôn giáo, chính kiến chính trị hay điều kiện kinh tế - xã
hội nào.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sức khoẻ con người: di truyền, dinh dưỡng, bệnh
tật, xã hội, tự nhiên, chế độ làm việc, tập luyện…
Mỗi người thấy thoải mái và hạnh phúc khi mình là một người khoẻ
mạnh. Mỗi người dù ở lứa tuổi nào cũng phải cần củng cố và duy trì sức khoẻ
cho mình trong quá trình sống. Để đạt được điều đó, mỗi chúng ta phải có một
chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý, chế độ ăn điều độ và không dư thừa, hạn
chế và tránh các thói quen có hại như rượu, bia, thuốc lá. Nhưng trước hết phải
tăng cường lượng vận động của cơ thể bằng cách thường xuyên tham gia tập
luyện TDTT củng cố và tăng cường sức khoẻ.
Để đạt được sức khỏe cho mọi người, chăm sóc sức khỏe quan tâm đến cả 3
mặt của sức khỏe là:
- Sức khỏe thể chất
Sức khoẻ thể chất được thể hiện một cách tổng quát là sự sảng khoái và thoải
mái về thể chất. Càng sảng khoái, thoải mái càng chứng tỏ là người khoẻ mạnh.
37
Cơ sở của sự sảng khoái, thoải mái về thể chất là: sức lực, sự nhanh nhẹn,
sự dẻo dai, khả năng chống đỡ được các yếu tố gây bệnh, khả năng chịu đựng
được các điều kiện khắc nghiệt của môi trường.
- Sức khỏe tinh thần
Sức khoẻ tinh thần là hiện tượng của sự thoã mãn về mặt giao tiếp xã hội,
tình cảm và tinh thần. Nó được thể hiện ở sự sảng khoái, ở cảm giác dễ chịu, cảm
xúc vui tươi, thanh thản, ở ý nghĩ lạc quan, yêu đời, ở những quan niệm sống tích
cực, dũng cảm, chủ động; ở khả năng chống lại những quan niệm bi quan và lối
sống không lành mạnh; văn minh và có đạo đức. Cơ sở của sức khoẻ tinh thần là sự
thăng bằng và hài hoà trong hoạt động tinh thần giữa lý trí và tình cảm.
- Sức khỏe xã hội
Sức khoẻ xã hội thể hiện ở sự thoải mái trong các mối quan hệ chằng chịt,
phức tạp giữa thành viên: gia đình, nhà trường, bạn bè, xóm làng, nơi công
cộng, cơ quan. Nó thể hiện ở sự được chấp nhận và tán thành của xã hội. Càng
hoà nhập với mọi người, được mọi người đồng cảm, yêu mến càng có sức khoẻ
xã hội tốt và ngược lại.
Cơ sở của sức khoẻ xã hội là sự thăng bằng giữa hoạt động và quyền lợi cá
nhân với hoạt động và quyền lợi xã hội, của những người khác; là sự hoà nhập
giữa cá nhân, gia đình và xã hội.
1.2. Vai trò của tập luyện TDTT đối với sức khoẻ
Khả năng vận động là một tính chất quan trọng nhất của cơ thể động vật.
Vận động đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống con người. Một khối
lượng vận động nhất định là điều kiện quyết định để giữ gìn sức khoẻ và khả
năng lao động.
Theo học thuyết phản xạ - nội tạng của R. M. Mogendovich thì giữa hoạt
động của bộ máy vận động, cơ bắp và tuần hoàn, hô hấp, bài tiết có mối liên
quan chặt chẽ. Thiếu vận động, các mối liên hệ phản xạ thần kinh được di truyền
và củng cố trong quá trình lao động trong cơ thể bị rối loạn, dẫn đến rối loạn
điều hoà hoạt động hệ thống tim – mạch và các hệ thống khác, rối loạn trao đổi
chất và phát triển các bệnh thoái hoá và quá trình lão hoá. Tập thể dục hàng
ngày với bài tập và lượng vận động phù hợp nâng cao sức dẻo dai, củng cố và
tăng cường chức năng của hệ thống tim mạch và hô hấp, giảm trọng lượng, bình
thường hoá chức năng hệ thần kinh.
Để cơ thể hoạt động bình thường và duy trì sức khoẻ cần phải có lượng
(dose) vận động phù hợp.
Hoạt động cơ – là hoạt động của toàn bộ cơ thể, nó xác định mức độ của
các quá trình trao đổi chất. Năng lượng cần cho hoạt động cơ được cung cấp do
sự đốt cháy các nguồn nguyên liệu khác nhau (glucoza, axit béo tự do).
Khi hoạt động cơ, cơ thể đòi hỏi các yêu cầu sau: nguồn nhiên liệu, lượng
oxy, bài tiết sản phẩm quá trình chuyển hoá. Khi hoạt động, tim tăng tần số và
lực co, mạch máu ở cơ giãn ra nên lưu lượng tuần hoàn tăng lên. Hệ hô hấp cũng
tăng cường hoạt động bằng tăng nhịp thở và thông khí phổi, oxy vào máu nhiều,
dẫn đến tăng cường oxy hoá các chất cung cấp năng lượng. Như vậy, hoạt động
TDTT củng cố và tăng cường sức khoẻ có một vai trò đặc biệt trong việc bù đắp

38
thiếu hụt tiêu hao năng lượng, củng cố và tăng cường trạng thái chức năng của
cơ, xương, khớp và tim mạch.
1.3. Vai trò của tập luyện TDTT đối với phòng, chữa bệnh tật
- Tập luyện giúp bạn giảm nguy cơ bệnh tật, đặc biệt là những chứng bệnh
như: cao huyết áp, đau tim, loãng xương, đái đường hay béo phì và giảm nguy
cơ mắc một số bệnh ung thư như: ung thư ruột kết, tuyến tiền liệt, tử cung hay
ung thư vú…
- Phòng ngừa chứng đột quỵ: Chứng bệnh này dễ gặp ở người bị thiếu máu,
họ rất dễ bị choáng váng, thậm chí ngất xỉu khi mệt mỏi hay căng thẳng. Nhưng
việc tập luyện sức bền có tác dụng giúp máu vận chuyển nhanh hơn, lưu thông
đều khắp cơ thể nên chứng bệnh này sẽ dần dần biến mất.
- Phòng và chữa một số bệnh tim mạch như: cao huyết áp, thấp huyết áp,
bệnh mạch vành, giãn tĩnh mạch, thiểu năng tuần hoàn não, suy tĩnh mạch…
- Việc luyện tập sẽ làm cho hàm lượng cholesterol trong máu cao giảm
xuống. Còn nếu không, luyện tập cũng giúp bạn tránh khỏi nguy cơ cholesterol
cao.
- Tập luyện thể thao thường xuyên có thể làm giảm nguy cơ bị mắc bệnh tiểu
đường thể II ở người trưởng thành do lượng đường trong máu luôn được điều
hoà.
- Đi bộ và chạy sức khoẻ còn là phương pháp tin cậy trong việc phòng các
bệnh viêm đường hô hấp và chữa bệnh mãn tính đường hô hấp, kể cả các bệnh
có cơ chế dị ứng. Những người có cơ địa hay bị dị ứng thì đi bộ và chạy sức
khoẻ giúp phục hồi chức năng của tuyến thượng thận.
- Điển hình là chạy sức khoẻ có hiệu quả nhất định trong việc chữa trị một
số bệnh về đường tiêu hoá: Viêm dạ dày, viêm đại tràng co thắt, loét dạ dày và
hành tá tràng. 
- Tập luyện một số bài tập chuyên biệt có tác dụng phòng và chữa một số
bệnh tật học đường như cận thị, cong vẹo cột sống.
Tóm lại, củng cố và nâng cao sức khoẻ bằng các bài tập sức bền có ảnh
hưởng tốt tới mọi chức năng của cơ thể, có tác dụng phòng ngừa bệnh tật, nâng
cao trạng thái thể lực cũng như tinh thần của con người.

II. BẢY NGUYÊN TẮC VÀNG TRONG TẬP LUYỆN TDTT


Trong tập luyện, dù là thể dục thẩm mỹ, thể hình hay aerobic, yếu tố quyết
định hiệu quả của quá trình tập không phải là tập nhiều, tập nặng mà là kỹ thuật
tập kết hợp với chế độ dinh dưỡng hợp lý để đạt hiệu quả cao nhất.
1. Đừng biến mình thành nô lệ của việc luyện tập
Rất nhiều người khi mới tập đều nghĩ rằng tập càng nhiều, càng nặng thì
hiệu quả càng nhanh. Chính vì vậy mà gắng sức tập đủ các thể loại mà không
theo một trật tự nào. Nhưng thực tế là: trong giai đoạn bắt đầu chỉ nên tập nhẹ
nhàng vì các cơ chưa sẵn sàng vận động để thích ứng với những vận động nặng.
Sau khi tập một thời gian, có thể điều chỉnh mức độ các bài tập tăng dần.
Bên cạnh đó cũng không nên tập quá dồn dập. Sau buổi tập đầu tiên, cơ thể mỏi
nhừ, nếu sáng hôm sau lại tiếp tục tập thì chắc chắn lại càng đau mỏi.
2. Ăn hợp lý và ngủ đủ giấc 
39
Khi đã quyết định sẽ luyện tập hàng ngày, phải đảm bảo sức khỏe để duy trì
việc tập luyện như ăn đủ 2 bữa trước và sau khi tập, bổ sung đủ năng lượng nhất
là vào buổi sáng - thời điểm cơ thể cần nạp năng lượng nhất để lấy sức tập luyện
và duy trì năng lượng cả ngày làm việc. Cố gắng ngủ đủ 7-8 tiếng/ngày để có
sức khỏe và tinh thần tốt cho học tập và lần tập tiếp sau.
3. Không né tránh các bài tập khó
Khi đã tập quen, không nên tránh những bài tập khó. Nhìn chung, các bài tập
có thể chia thành 2 dạng: dạng vận động đơn khớp (ví dụ như nâng tạ tay, khi
nâng tạ chỉ có khớp khuỷu tay vận động) và vận động đa khớp (ví dụ như nâng
tạ tay kết hợp động tác đứng lên ngồi xuống, khi đó cả khớp gối, khớp hông và
khớp gót chân đều vận động, các cơ được kéo dãn và linh động hơn, phần cơ thể
bên trên cũng phải vận động theo để giữ cân bằng cơ thể).
Tuy các bài tập vận động đa khớp khó và tốn sức hơn nhưng lại rất hiệu quả
và phù hợp khi chúng ta đã tập được một thời gian. Và lúc đó sẽ thấy tập các bài
tập khó không làm bạn mệt hơn mà ngược lại các cơ sẽ chắc chắn, dẻo dai hơn
nhất là các nhóm cơ phức tạp vùng ngực, chân, đồng thời “gia cố” cho các khớp
xương được khỏe mạnh, linh hoạt.
4. Phối hợp các bài tập khoa học
Không nên kết hợp tập aerobic với các bài tập nặng khác như chạy bộ, nâng
tạ... Nếu chiều nay sẽ tập bài chạy bộ hoặc lắc bụng thì không nên tập thêm cả
aerobic nữa. Nếu thích thì chỉ nên tập các động tác khởi động, sau đó có thể tập
các động tác thể dục nhẹ nhàng.
Nếu bạn tập aerobic trước, các cơ sẽ bị mệt và không thể hiệu quả khi bạn
tập các bài tập nặng tiếp theo, thậm chí rất dễ gây trụy tim mạch. Nếu là người
mới tập, chỉ nên tập 3 lần/tuần.
Không nên tập cùng một động tác tại cùng một vùng cơ trong nhiều ngày
liên tục, những vùng cơ nào bạn cảm thấy đau thì hôm sau nên tập với vùng
khác. Nên nhớ tập để tăng sức khỏe nhưng hãy để sức khỏe đó tác động đến tim
ít hơn là tim tác động đến sức khỏe đấy.
5. Tuân thủ trình tự tập luyện
Tất cả hình thức tập luyện đều tuân theo trình tự: làm nóng cơ - kéo dãn cơ -
tập. Việc duy trì các bước thực hiện cũng như khoảng thời gian giữa các bước
này rất quan trọng.
Cơ thể vận động trong thời gian nhất định thì sau đó cũng cần nghỉ trong
thời gian nhất định, đừng bao giờ vì bận việc nọ việc kia mà dồn các bài tập vào
một lúc để tập cho đủ động tác. Lúc nào cũng phải duy trì một bài tập gồm các
bước khởi động, tập luyện và điều hòa. Ví dụ, một chương trình tập trong vòng
60 phút, cần dành 10 phút khởi động để làm ấm cơ thể với các bài tập kéo dãn
cơ, sau mỗi một lần thực hiện một động tác (tùy theo nhịp), nghỉ từ 15-20 giây
rồi chuyển sang động tác khác. Sau khi khởi động, nên dành 3-5 phút đi lại trước
khi đi vào bài tập chính (40 phút). Thời gian cho động tác điều hòa từ 5-10 phút.
6. Không được bỏ qua giai đoạn “phục hồi”
Giai đoạn “phục hồi” đóng vai trò quan trọng không kém giai đoạn tập luyện
chính. Có một thực tế là rất nhiều người sau khi hoàn thành bài tập chỉ tập lấy lệ
vài động tác điều hòa rồi sấp ngửa ra về. Đa số mọi người nghĩ các động tác thể
40
dục đều như nhau, nhưng thực tế mỗi động tác đều có những tác dụng khác
nhau. Việc bỏ qua các bài tập điều hòa chính là nguyên nhân khiến việc tập
luyện của nhiều người không hiệu quả.
7. Đa dạng hóa các bài tập
Nếu tập đi tập lại một động tác, cơ thể sẽ quen với các vận động đó, nó sẽ
thích ứng dần với các vận động và mất dần tác dụng chuyển hóa năng lượng và
co giãn cơ. Khi hiệu quả tập thể dục bắt đầu chững lại thì nên thay đổi lượng vận
động hoặc chuyển đổi bài tập khác.
III. VỆ SINH TRONG TẬP LUYỆN TDTT
3.1. Dinh dưỡng và thể thao
Tính đặc thù của môn thể thao đó sẽ liên quan tới mức độ tiêu thụ năng
lượng, tính chất tiêu thụ năng lượng, loại nào sẽ bị hao tổn nhiều, trên cơ sở đó
ta sẽ điều chỉnh chế độ dinh dưỡng cho phù hợp với môn tập đó và với mỗi cá
thể. Vì vậy, trước khi bắt đầu luyện tập bạn nên kiểm tra thể lực nhất là đối với
một số người chơi những môn thể thao đòi hỏi sức lực nhiều. Tuy mỗi người tìm
và áp dụng cho mình một chế độ dinh dưỡng riêng nhưng cơ bản cần áp dụng
những nguyên tắc sau:
Trước và trong khi tập
- Không nên tiến hành tập luyện trước 1,5 – 2 giờ sau khi ăn. Nên ăn trước
khi tập luyện khoảng 2 - 3 tiếng và ăn các thực phẩm có nhiều carbonhydrat có
trong gạo, mì, phở, ngũ cốc. Khi tham gia các hoạt động TDTT, bạn cần chú ý
tới việc tăng cường vitamin có trong rau xanh, hoa quả, vỏ ngoài của ngũ cốc...
hay các loại vitamin có trong thịt, cá, gan, trứng... Cũng phải đặc biệt chú ý tới
các chất khoáng như: sắt, canxi, magie... để bảo đảm sức khỏe.
- Không nên tập luyện khi đói vì lúc đó dự trữ đường của cơ thể giảm làm
ảnh hưởng đến khả năng hoạt động thể lực của cơ thể và gây hạ đường huyết.
Biểu hiện của hạ đường huyết là hoa mắt, chóng mặt, đau đầu hoặc buồn nôn.
- Khi tập luyện, cơ thể ra nhiều mồ hôi vì sản sinh nhiều nhiệt hơn; nước sẽ
giúp hạ nhiệt và bù lại lượng dịch thể hao hụt. Nếu không kịp thời bổ sung nước,
cơ thể sẽ lâm vào tình trạng rối loạn, mệt mỏi hoạt động cơ bắp giảm hiệu suất
và xuất hiện chuột rút.
- Luyện tập hoặc chơi thể thao trong thời tiết nóng nực có thể gây mất nước
qua mồ hôi từ 2-2,5 lít/giờ. Vì vậy, trước khi luyện tập 20 phút, bạn nên uống
khoảng 400-600 ml nước. Nước uống tốt nhất là có pha thêm 4-8% đường và
cho thêm ít muối, không nên uống nước quá ngọt sẽ làm ảnh hưởng tới việc tiêu
hóa ở dạ dày.
- Trong khi luyện tập bạn vẫn phải uống nước đều đặn với lượng nhỏ khoảng
100-200ml/lần và mỗi lần cách nhau khoảng 20 phút (điều này tùy thuộc cường
độ bạn tập luyện có mất nhiều mồ hôi hay không).
Một vài khuyến cáo đặc biệt về ăn uống trước buổi tập hay thi đấu:
- Nếu có tâm trạng bồn chồn hay lo âu về cuộc thi đấu sắp tới thì nên ăn thức
ăn dạng lỏng.
- Khoảng 1-2 giờ trước buổi tập hay thi đấu, nên uống 350-500 ml nước mát
hoặc "nước tăng lực" để bảo đảm cho cơ thể không thiếu nước.

41
- Vài phút trước khi vào cuộc, nên uống "nước tăng lực" để duy trì được
huyết đường lượng của bạn ở mức tối ưu.
- Ngay trước khi bắt đầu tập, nên uống 1/2-1 ly nước.
Sau khi tập
- Khoảng thời gian phù hợp nhất là từ 45-60 phút sau khi tập, đây được coi là
"giờ vàng" vì đó là khoảng thời gian các cơ hấp thụ nhiều chất dinh dưỡng nhất
và khi đó lượng glycogen - một dạng năng lượng dự trữ trong các cơ được thay
thế hiệu quả nhất.
- Bữa ăn sau khi tập thể dục có thể đa dạng tùy theo mục đích của từng
người: ví dụ muốn nâng cao hiệu qua thay thế glycogen thì nên chọn các thức ăn
giàu carbonhydrat. Nếu muốn các cơ phục hồi và phát triển nhanh thì nên ăn
nhiều protein (lượng protein chiếm 10%).
Còn nếu là người "hơi thừa cân" thì nên chọn các thức ăn nhiều protein và ít
carbonhydrat hơn.
Một bữa ăn sau khi tập lý tưởng cần kết hợp hài hòa giữa carbonhydrat -
protein - chất béo và nhất thiết phải ăn trong vòng 2 tiếng sau khi tập.
3.2. Trang phục khi tập luyện TDTT
Mỗi loại môn tập phải lựa chọn quần áo, dày dép cho phù hợp.
Quần áo tập luyện: Quần áo tập luyện phù hợp góp phần làm cho buổi tập an
toàn và mang lại sự thỏa mãn. Trong lúc tập luyện, quần áo nên sử dụng các loại
được làm từ chất liệu bông, cotton để cơ thể không bị tích nhiệt.
Giày tập: Giày đặc biệt quan trọng đối với người tập luyện thể dục thể thao.
Giày chọn đúng sẽ làm cho người tập luyện thể thao cảm thấy dễ chịu, thoải mái
và không ra gây chấn thương. Trong khi tập chạy với đôi giày xấu (không đúng
loại, không đúng kích cỡ hoặc kém chất lượng) thường gây nên cảm giác khó
chịu và có thể sẽ gây nên chấn thương ở vùng bàn chân và khớp gối.
Nguy cơ khi đi giày thể thao không phù hợp
Cách chọn giày thể thao theo cảm tính riêng là hoàn toàn sai. Chân cần phải
cảm thấy thoải mái nhất khi đi giày. Giày phải phù hợp với hình dáng bàn chân
(dạng bình thường, dạng ngửa cong ra ngoài, hoặc dạng úp khum vào trong),
không quá rộng cũng không quá chật. Nếu quá chật, chân sẽ phải học cách thích
ứng và có thể dẫn tới những nguy cơ sau:
- Vết bỏng giộp, phồng da
- Chân bị chai, sần
- Nốt viêm tấy ở kẽ ngón chân cái
- Ngón chân khoằm xuống
- Sự biến dạng chân
- Gây ra những tổn thương nơi bàn chân, mắt cá nhân và các vị trí khác.
Cách chọn giày cho tập luyện TDTT
- Một đôi giày có dáng chuẩn tức là tâm của đầu mũi giày và đầu gót giày
đều phải thẳng.
- Khi chạm nhẹ vào đỉnh của mũi hoặc gót, giày không thấy bị bấp bênh.
- Kiểm tra xem gót giày có bị cộm, hoặc gồ ghề do các vật liệu thừa còn sót
lại hay không.

42
- Đưa tay vào lòng giày để chắc chắn rằng miếng lót không bị quăn hoặc keo
dán chảy ra lòng giày để tránh cho chân không bị chai hay phồng rộp sau thời
gian dài sử dụng.
- Thử cả hai bàn chân khi đo giày vì hầu hết mọi người đều có một bàn chân
lớn hơn chân kia. Thử giày cùng với loại tất và quần áo thể thao bạn sẽ mặc
cùng. Ngoáy ngó ngón chân, nếu các ngón chân có thể tự do ngoáy ngó trong
giày là phù hợp.
- Nên chọn giày lớn hơn chân bạn khoảng nửa centimét và nên đi mua giày
vào buổi chiều, thời điểm mà chân bạn “nở” nhất.
Khi hoạt động thể thao, chân thường tiết ra một lượng lớn mồ hôi. Nên làm
sạch giáy thường xuyên như lau chùi, phơi nắng, chống ẩm giày để hạn chế sự
phát triển của vi khuẩn gây nên mùi hôi chân, tất, giày. Giày thể thao có thể giặt
sạch bằng nước và xà phòng mà không cần phải sử dụng các biện pháp làm sạch
cầu kỳ nào.
Sau một ngày sử dụng, nếu chân ra nhiều mồ hôi, bạn có thể tháo lót giày
và để nó tự khô trong 24h. Nếu giày bị ngấm nước mưa, phải để khô hoàn toàn
rồi mới sử dụng lại.
3.3. Sáu điều cần tránh khi tập thể thao trong mùa hè
Luyện tập thể dục thể thao trong mùa hè phải chú ý mấy điểm sau đây.
Không nên luyện tập dưới trời nắng chói chang
Trước và sau buổi trưa là lúc nhiệt độ cao nhất trong ngày. Ngoài đi bơi ra,
không nên rèn luyện vào buổi trưa để tránh bị say nắng. Tia tử ngoại có trong
ánh nắng mùa hè thường rất mạnh, nếu phơi nắng trong thời gian dài da sẽ bị
cháy nắng. Tia tử ngoại còn có thể xuyên qua da và xương, gây tổn hại đến não,
võng mạc và con ngươi mắt.
Không nên luyện tập trong thời gian quá dài
Mỗi lần luyện tập khoảng 20-30 phút là tốt nhất, để tránh ra quá nhiều mồ
hôi, nhiệt độ cơ thể tăng lên quá cao, dễ bị say nắng. Mỗi lần luyện tập trong
thời gian dài thì giữa giờ nên nghỉ 1 - 2 lần.
Trong khi luyện tập không nên uống quá nhiều nước
Tập luyện trong mùa hè ra nhiều mồ hôi, nếu lúc này mà uống nhiều nước
sẽ tăng thêm gánh nặng cho hệ thống tuần hoàn máu, hệ thống tiêu hóa, đặc biệt
là tim. Đồng thời, uống nhiều nước sẽ càng ra nhiều mồ hôi, làm cơ thể mất
nhiều muối, dẫn đến những triệu chứng co giật, chuột rút…
Sau khi luyện tập không nên tắm nước lạnh ngay
Bởi vì tập luyện trong mùa hè, nhiệt lượng trong cơ thể tăng lên rất nhanh,
mao mạch dưới da sẽ giãn ra để giúp cho cơ thể tỏa nhiệt. Đột nhiên gặp nước
lạnh, khiến cho các lỗ chân lông co lại rất nhanh nên dễ gây rối loạn các nội tạng
trong cơ thể, sự điều tiết nhiệt độ trong cơ thể của não bộ không bình thường,
dẫn đến bị ốm.
Sau khi tập luyện, nên tắm nước ấm, vừa giúp cơ thể sạch sẽ và giúp có một
giấc ngủ ngon. Nên tránh tắm nước nóng hoặc tắm hơi, nước lạnh vì nhiệt lượng
trong cơ thể tăng lên rất nhanh, mao mạch dưới da sẽ giãn ra để giúp cho cơ thể
tỏa nhiệt.

43
Sau tập luyện, cả về mùa đông hay mùa hè đều phải nghỉ ngơi 20-30 phút rồi
mới bắt đầu tắm, vì khoảng thời gian này cơ thể đang ở trạng thái hồi phục các
chức năng.
Sau khi luyện tập không nên ăn, uống những thứ để trong tủ lạnh
Luyện tập khiến cho một lượng máu lớn dẫn đến các cơ bắp và dưới da, còn
hệ thống tiêu hóa thì lại ở trong trạng thái thiếu máu. Ăn nhiều đồ ướp lạnh
không những hạ thấp nhiệt độ trong dạ dày, mà cũng làm loãng dịch trong dạ
dày, nếu nhẹ thì bị đầy bụng, nặng thì dẫn đến viêm dạ dày cấp tính.
Sau khi ra mồ hôi nhiều cần thay áo
Luyện tập trong mùa hè nhất định là ra nhiều mồ hôi, áo hầu như là ướt đẫm
mồ hôi. Có một số người cho là mình khỏe mạnh không cần phải thay áo, mặc
một lúc là khô, như vậy rất dễ bị viêm khớp hoặc thấp khớp.

3.4. Tập luyện trong thời kỳ có kinh


Kinh nguyệt là hiện tượng sinh lý bình thường, khi có kinh chỉ có cảm giác
như bụng dưới nặng, có thể có cảm giác hơi khác thường, có những hiện tượng
không bình thường như: đau bụng, đau lưng, cơ thể mệt mỏi, nhức đầu, ngủ
không ngon, nên trong những ngày có kinh mọi sinh hoạt cũng như tập luyện
vẫn tiến hành bình thường, tuy nhiên người huấn luyện viên phải hiểu đặc điểm
sinh lý của phụ nữ để có những biện pháp tập luyện cho thích hợp. Những biện
pháp đó là:
- Tuyệt đối không được tập những môn thể thao dưới nước, vì khi có kinh
máu là môi trường rất thích hợp cho vi khuẩn trong âm đạo phát triển, nên rất dễ
viêm nhiễm, cổ tử cung mở rộng để cho máu thoát ra, vi khuẩn dễ xâm nhập từ
âm đạo vào. Hơn nữa độ pH ở cổ tử cung thay đổi làm giảm khả năng tiêu diệt
vi khuẩn, nên dễ bị nhiễm trùng. Do các tĩnh mạch vùng chậu giãn nở, máu ứ
đọng trong vùng chậu và cơ quan sinh dục nhiều, niêm mạc tử cung và niêm
mạc âm đạo xung huyết nên dễ tổn thương chảy máu, dễ nhiễm trùng. Cho nên
trong sinh hoạt bình thường phải giữ cho bộ phận sinh dục ngoài luôn luôn sạch
sẽ.
- Tránh những hoạt động yêu cầu thể lực cao, căng thẳng vì những ngày này
chức năng của các cơ quan ít nhiều có giảm sút, tránh các hoạt động, chấn động
làm tăng áp lực khoang bụng.
- Đối với những người mới tham gia tập luyện hoặc vận động viên trẻ chưa
có kinh nghiệm, ngoài những điều trên huấn luyên viên cần theo dõi sát sức
khoẻ và nâng cao dần khối lượng để cơ thể thích nghi dần.
* Nếu thấy ra nhiều, cục, đỏ tươi, kéo dài ngày hơn hoặc đau bụng kinh thì
nên đi khám phụ khoa, coi chừng có bệnh lý. Nếu thấy ra huyết bất thường
ngoài những ngày hành kinh, thì cần phải đi khám bệnh ngay, vì đó có thể là
dấu hiệu của viêm nhiễm sinh dục, khối u sinh dục hoặc ung thư tử cung hay
thân tử cung.
* Vệ sinh ăn uống: Ăn uống bình thường, nên tránh các chất gây kích thích
thần kinh như: rượu, cà phê, thuốc lá, gia vị mạnh...

IV. CHẤN THƯƠNG THỂ THAO


44
4.1. Khái niệm chấn thương thể thao
Là các chấn thương xảy ra trong quá trình tập luyện và thi đấu thể dục thể
thao. Chấn thương thể thao khác với các chấn thương trong sinh hoạt và lao
động ở chỗ nó có liên quan trực tiếp với các nhân tố và điều kiện tập luyện thể
thao như các môn thể thao, kế hoạch huấn luyện, động tác kỹ thuật, trình độ tập
luyện....
Trong tập luyện TDTT, chấn thương xảy ra phụ thuộc vào từng môn thể
thao khác nhau, trong thi đấu chấn thương nhiều hơn trong tập luyện. Ngoài ra,
chấn thương còn phụ thuộc vào trình độ tập luyện của mỗi người.
Chấn thương thể thao có thể chia thành chấn thương hở và chấn thương kín.
Dựa vào mức độ chấn thương chia thành:
- Chấn thương mức độ nhẹ là chấn thương không gây ảnh hưởng nhiều đến
năng lực vận động của người tập và giảm sút chức năng sinh lý cơ thể.
- Chấn thương mức độ trung bình là chấn thương có những biến đổi về
chức năng sinh lý cơ thể và giảm năng lực vận động.
- Chấn thương nặng là chấn thương có những biến đổi về chức năng sinh lý
của cơ thể và ảnh hưởng đến khả năng vận động của người tập, cần phải nghỉ
ngơi để điều trị và hồi phục.
Trong tập luyện và thi đấu thể thao, loại chấn thương thường kín: bầm tụ
máu, giãn dây chằng, đứt cơ và dây chằng…trong đó bầm tụ máu chiếm 50%,
phần lớn là chấn thương hệ khớp, khớp gối chiếm 30%.
4.2. Nguyên nhân và cơ chế chấn thương thể thao
4.2.1. Nguyên nhân gây ra chấn thương
Sai lầm trong phương pháp giảng dạy và huấn luyện
Là nguyên nhân dẫn tới 30-60% trường hợp chấn thương ở các môn thể
thao khác nhau. Các chấn thương này gắn liền với các nguyên tắc huấn luyện cơ
bản đó là: tập luyện phải hợp lý, thường xuyên, liên tục, tǎng dần lượng vận
động, tǎng dần độ khó của động tác và nguyên tắc đối xử cá biệt trong tập luyện
TDTT. Nguyên nhân này trong hoạt động thể thao quần chúng còn cao hơn, bởi
không phải ở đâu người tập cũng có sự hướng dẫn của huấn luyện viên (HLV).
Đơn giản chỉ do không khởi động hoặc khởi động không tốt có thể dẫn đến
những tai nạn đáng tiếc, đặc biệt điều đó liên quan đến tập luyện môn bơi lội.
Thiếu sót trong tổ chức tập luyện và thi đấu
Là nguyên nhân dẫn tới 4-8% các trường hợp chấn thương. Những chấn
thương này xảy ra là do việc bố trí người tập bất hợp lý, không đảm bảo kỷ luật
trật tự, duy trì tổ chức tập luyện lộn xộn, mật độ người tập quá đông, sự phối
hợp tập luyện giữa các nhóm vận động viên (VĐV) có trình độ, đẳng cấp, hạng
cân thi đấu không đều, tổ chức bảo hiểm không tốt, hoặc tổ chức tập luyện và thi
đấu không có mặt của HLV và giáo viên TDTT.
Những thiếu sót trong khởi động:
Thiếu sót trong khởi động dẫn đến chấn thương có những tình huống sau đây:
+ Không khởi động hoặc khởi động không đầy đủ.

45
+ Sự kết hợp giữa nội dung khởi động với nội dung buổi học, nội dung
huấn luyện không thích đáng, thiếu phần khởi động chuyên môn, chức năng của
các bộ phận gánh vác nặng, trọng lượng chưa được cải thiện.
+ Lượng vận động khởi động quá lớn. Do lượng vận động phần khởi động
quá lớn nên vừa mới bắt đầu bước vào vận động chính thức đã sản sinh cảm giác
mệt mỏi, chức năng cơ thể không ở vào trạng thái tốt mà bắt đầu giảm xuống.
+ Thời gian cách quãng giữa khởi động và vận động chính quá dài. Khi thời
gian cách quãng quá dài sẽ làm cho tác dụng sinh lý do khởi động tạo ra giảm đi
hoặc mất hẳn.
Không đáp ứng đầy đủ yêu cầu vật chất kỹ thuật của buổi tập
Có thể dẫn tới 25% các chấn thương. Cụ thể là chất lượng trang thiết bị dụng
cụ, sân bãi thi đấu và trang phục cá nhân kém, các phương tiện bảo vệ, bảo hiểm
không có hoặc không đầy đủ. Nguyên nhân này rất dễ nhận thấy khi ta quan sát
bất kỳ một sân chơi nào, bởi chúng ta còn thiếu hiểu biết hoặc do tâm lý coi
thường hay tùy tiện trong việc chọn địa điểm và các phương tiện, giày dép và
trang bị tập luyện.
Điều kiện khí hậu và điều kiện vệ sinh không phù hợp
Là nguyên nhân của 2-6% các trường hợp chấn thương ví dụ như: sân bãi,
dụng cụ thi đấu tập luyện không được vệ sinh sạch sẽ, ánh sáng không đảm bảo
(tối hoặc chói sáng), thông gió kém, nhiệt độ của phòng tập hoặc của bể bơi
không đúng yêu cầu vệ sinh, độ ẩm môi trường tập quá cao...
Hành vi không đúng đắn của VĐV
Là nguyên nhân đưa tới 5-15% các trường hợp chấn thương. Đó là sự vội
vàng, thiếu tập trung chú ý, vô ý thức tổ chức kỷ luật hoặc phạm luật bằng các
động tác bị nghiêm cấm, đặc biệt trong các môn đối kháng.
Vi phạm các nguyên tắc kiểm tra y học
Dẫn tới 2-10% các trường hợp chấn thương. Đó là các trường hợp cho phép
tập luyện và thi đấu thể thao không qua kiểm tra y học, không thực hiện chỉ dẫn
của bác sĩ. Đây là một trong những khâu rất yếu của y học thể thao nước nhà.
Chúng ta chưa có hệ thống y học thể thao rộng khắp để có thể tư vấn và hướng
dẫn cho mọi người là mình có được phép tập luyện hay không hoặc tập luyện ở
mức độ nào thì có lợi cho sức khỏe của mỗi người.
Trạng thái cơ thể không tốt. Đó là ngủ và nghỉ không tốt, bị ốm hoặc chấn
thương chưa lành hoàn toàn hoặc mệt mỏi và khi chức năng cơ thể giảm sút...
VĐV tham gia tập luyện và thi đấu thể thao trong tình trạng chuẩn bị thể lực
chưa tốt, chưa đáp ứng được yêu cầu thực hiện các động tác khó, hoặc có biểu
hiện rối loạn về khả nǎng định hình động lực trong không gian, giảm sút các
phản ứng bảo vệ và độ tập trung chú ý, có thể do quá cǎng thẳng hoặc tập luyện
quá sức.
Ngoài ra còn do một số nguyên nhân khác do tác động bên trong như: Do rối
loạn phối hợp các nhóm cơ, do căng thẳng quá độ; do đặc điểm lứa tuổi; do đặc
điểm kỹ thuật môn thể thao.
4.2.2. Cơ chế xuất hiện chấn thương

46
Phần lớn các trường hợp chấn thương đều do va đập. Sự va đập chủ yếu
xẩy ra khi người tập bị ngã xuống đất, sân hoặc sàn; số còn lại do vận động vien
tự va chạm vào nhau hoặc đối phương tạo ra.
Do hoạt động vượt quá biên độ cho phép, nghĩa là chấn thương xẩy ra theo cơ
chế kéo giãn hay xoắn vặn. Trong trường hợp này chấn thương thường xảy ra là
giãn cơ, dây chằng, nhất là khớp.
Để hạn chế và giảm thiểu tình trạng này, chúng ta nên thực hiện một số giải
pháp sau:
- Phải kiểm tra sức khỏe cho người tập và kiểm tra y học cho VĐV trước khi
cho phép hoặc khuyến khích nên tập luyện môn thể thao nào cho phù hợp với
từng người. Cần có vǎn bản pháp quy quy định công tác kiểm tra y học, chǎm
sóc y tế và bảo vệ sức khỏe cho VĐV cũng như người tập TDTT.
- Tǎng cường giáo dục và hướng dẫn VĐV và người tập về nguyên tắc huấn
luyện, phương pháp tập luyện và thi đấu thể thao. Khi tập luyện và thi đấu ở mọi
cấp độ bắt buộc phải có sự hiện diện của huấn luyện viên.
- Tuân thủ nguyên tắc và thời gian khởi động.
- Tǎng cường cơ sở vật chất và những điều kiện đảm bảo về trang thiết bị,
sân bãi và dụng cụ thi đấu thể thao.
- Tǎng cường giáo dục đạo đức cho VĐV nêu cao tinh thần trung thực cao
thượng và fair play trong thi đấu thể thao.
- Tǎng cường công tác y tế thường trực và đảm bảo an toàn trong tập luyện
và thi đấu thể thao. Hướng dẫn cho VĐV và người tập chế độ dinh dưỡng hợp lý
và các giải pháp hồi phục khác khi tham gia tập luyện và thi đấu thể thao.
- Không ngừng nâng cao chất lượng sơ, cấp cứu và điều trị các chấn thương
và tai nạn trong hoạt động thể dục thể thao.
4.3. Phân loại chấn thương thể thao

Mức độ Các triệu chứng Phương pháp xử lý ban đầu


chấn
thương
- Không ảnh hưởng nhiều đến các - Ngừng tập luyện
động tác vận động. - Thay đổi bài tập phù hợp
Nhẹ - Đau sau buổi tập - Sử dụng phương pháp
- Ít sưng hoặc không “RICE”
- Không bầm tụ máu
- Thực hiện bài tập khó khăn - Băng bất động chỗ đau
- Đau xuất hiện trong và sau tập - Sử dụng phương pháp
Trung
- Sưng nhẹ vùng đau “RICE”
bình
- Có bầm tụ máu nơi đau + Dùng thuốc giảm đau, kháng
viêm
- Đau xuất hiện trước, trong, sau tập - Nghỉ tập hoàn toàn
- Không thực hiện được các động - Đến khám bác sĩ và điều trị
Nặng
tác kể cả sinh hoạt.
- Sưng, phù nề, đổi màu sắc

47
4.4. “RICE” nguyên lý nền tảng của sơ cứu và điều trị chấn thương thể thao
“RICE” là chữ viết tắt của Rest – nghỉ ngơi, Ice – chườm đá, Compression –
băng ép, Elevation – nâng cao chi.
Điều trị bằng phương pháp RICE được tiến hành ngay sau khi bị chấn
thương có thể rút ngắn được thời gian điều trị được vài ngày, vài tuần và giúp
vận động viên phục hồi nhanh chóng.
Phương pháp RICE gồm 4 bước:
- Rest (nghỉ ngơi): nghỉ ngơi hoặc yên tĩnh tương đối;
- Ice (chườm đá): đó là phương pháp làm lạnh tại chỗ vết thương ngay sau
khi chấn thương. Cách này làm giảm sưng, đau, chảy máu và chống viêm. Tuỳ
theo mức độ chấn thương mà có thể chườm đá liên tục và kéo dài vài ngày.
- Compression (băng ép): để làm giảm phù nề nên đặt băng ép lên chỗ bị
chấn thương. Băng ép có thể tiến hành ngay cả trong khi chườm đá và kể cả sau
khi chườm đá.
- Elevation (nâng cao chi): khi bị chấn thương cần phải giữ chỗ bị chấn
thương ở vị trí nâng cao hơn đầu nhằm làm giảm sự tích tụ dịch và máu xuất
hiện do các mô và tổ chức bị tổn thương và viêm nhiễm. Giữ chỗ bị chấn thương
ở tư thế nâng lên từ 24 – 72 giờ.
Trong thời gian từ 24-48 giờ đầu sau khi chấn thương không được dùng các
liệu pháp như tắm nóng, xoa dầu nóng, không xoa bóp chỗ bị chấn thương và
không uống rượu bia. Vì điều đó làm tăng phù nề và tăng chảy máu tại chỗ bị
thương.
“RICE” không những là phương pháp điều trị mà còn là phương pháp sơ
cứu chấn thương thể thao.
4.5. Một số chấn thương thể thao thường gặp và cách xử lý ban đầu
4.5.1 . Choáng chấn thương
Choáng chấn thương thường hay xẩy ra khi tác nhân kích thích quá mạnh
do thương tích gây ra, nhất là ở cơ quan vận động. Thường thấy khi vết thương
dập nát nhiều, vết thương nhẹ nhưng nhiều nơi, gãy xương lớn, chấn thương
bụng, ngực nặng, hoặc khi trời lạnh, quá đau đớn, chảy máu ri rỉ kéo dài, lúc
tháo garô, hay quá sợ hãi.
Triệu chứng: da nhợt tím tái, lạnh toát mồ hôi, mạch nhanh, thở nhanh, hạ
huyết áp và vô niệu.
Phương pháp sơ cứu: động viên người bị choáng bình tĩnh. Ủ ấm, thăm khám
nhẹ nhàng, hạn chế đau. Nhanh chóng cầm máu tạm thời và nhẹ nhàng vận
chuyển đến cơ quan y tế gần nhất.
4.5.2. Chấn thương phần mềm
Chấn thương phần mềm là chấn thương gây nên các thương tích ở các phần
mềm của cơ thể như: da, niêm mạc, gân, cơ, dây chằng. Tuỳ theo mức độ và tính
chất tổn thương mà có thể phân loại thành:
Vết xây xát: Là sự tổn thương bề mặt da do quá trình cọ xát lâu dài của da với
một điểm vật nào đó như giầy, quần áo và phương tiện tập luyện. Vết xây xát
gây cảm giác đau nhẹ và khó chịu, cản trở hoạt động bình thường của người tập
luyện và buộc người tập phải ngừng tập một thời gian.
48
Điều trị: làm sạch vết thương bằng dung dịch thuốc tím, bôi mỡ kháng sinh
và băng lại.
Vết xước: Đó là sự tổn thương bề mặt da ở tầng biểu bì do cọ xát mạnh với
vật cứng như: nền nhà, sàn thi đấu, bê tông… Khi bị xước da, xuất hiện cảm
giác đau, gây chảy máu mao mạch và đôi khi bị nhiễm trùng do viêm nhiễm.
Điều trị: Làm sạch vết thương bằng các dung dịch nước muối sinh lý, sau đó
lau khô, bôi xanh metylen có hoà dung dịch novocain 2%. Các vết xước lớn nên
bôi mỡ kháng sinh trước khi băng và tiêm phòng ngừa uốn ván.
Vết thương: là sự tổn thương tổ chức mềm với sự phá huỷ bề mặt da hay lớp
niêm mạc. Vết thương được phân thành: vết đâm, vết cắt, vết rách, vết đụng dập.
Các vết thương thường có dấu hiệu chung là: chảy máu, vết thương há rộng, đau
và giảm sút chức năng.
Sơ cứu nạn nhân có vết thương chảy máu: xử lý vết thương trước khi quyết
định gọi cấp cứu.
- Cầm máu bằng cách đè nhẹ lên vết thương bằng gạc sạch hoặc quần áo
sạch. Đè liên tục trong 20-30 phút. Đừng hé vết thương xem cầm máu hay chưa
vì sẽ làm chảy máu trở lại do cục máu đông chưa kịp hình thành. Nếu vết
thương nhẹ gây chảy máu ít nên chỉ cần băng ép là đủ. Nếu máu chảy nhiều cần
phải garô cầm máu.
- Làm sạch vết thương: rửa vết thương bằng nước sạch. Xà phòng làm kích
thích vết thương do đó nên tránh. Nếu dị vật còn sót trong vết thương thì dùng
nhíp rửa bằng alcohol lấy ra. Rửa nhiều nước sẽ tránh được nguy cơ uốn ván.
Xung quanh vết thương có thể rửa bằng xà phòng.
- Bôi kem có chứa kháng sinh hay dầu mù u sau khi đã rửa sạch vết thương.
Kem hay dầu không làm cho vết thương lành mau hơn nhưng sẽ giữ ẩm cho vết
thương giúp quá trình lành vết thương dễ dàng hơn.

Rửa sạch vết thương Bôi kem có kháng sinh Băng vết thương

- Băng vết thương bằng


băng đã tiệt trùng (có bán ở các hiệu thuốc). Bạn nên thay băng khi băng ướt hay
bị dơ.
- Nên đi tiêm ngừa uốn ván nếu vết thương sâu, bẩn.
Nếu vết thương mình bị đau ngày càng nhiều, tấy đỏ, sưng nề, chảy dịch
hay không lành sau một thời gian đó là dấu hiệu của sự nhiễm trùng. Nên đến
bệnh viện để được chăm sóc tốt hơn.
* Phương pháp đặt garô: dây garô có thể là dây cao su, dây vải bền, ở đầu
dây có gắn móc xích để cố định garô. Trước khi đặt garô nên dùng vải quấn
quanh vùng định thắt để tránh xoắn và kẹp da phía dưới dây thắt. Các vòng garô
nằm cạnh nhau sao cho da không bị xoắn kẹp, đầu dây garô phải được cố định

49
lại. Sau khi đặt garô xong, nếu máu ngừng chảy là đúng. Không nên đặt garô
quá chặt làm tổn thương cơ, thần kinh, mạch máu và có thể gây liệt chi.
Không nên để garô quá lâu từ 1,5 – 2 giờ dễ gây hoại tử phần dưới chỗ đặt
garô. Cứ khoảng 30 giây nới lỏng garô một lần.

Hình. Phương pháp Garo


4.5.3. Chấn thương hệ vận động
Chấn thương hệ vận động là chấn thương thường gặp nhất trong tập luyện
và thi đấu thể thao, xảy ra khi người tập bị ngã, bị va đập vào dụng cụ, sân bãi
hoặc va chạm nhau trong thi đấu. Các chấn thương thường gặp là: đụng dập, tổn
thương dây chằng bao khớp, giãn đứt cơ gân và trật, gãy xương.
- Đau cơ: Những cơn đau nhức thường xảy ra sau khi tập luyện (thời gian
đầu), vốn thường xảy ra vào ngày hôm sau, ngay cả khi bạn chỉ thực hiện những
bài tập với cường độ nhẹ nhàng. Nghỉ ngơi và chế độ ăn uống cân đối sẽ giúp
bạn loại bỏ được cơn đau.
- Đụng dập: là tổn thương cơ học của các tổ chức hay các cơ quan, do các vật
cứng, tày gây nên. Khi bị tổn thương sẽ xuất hiện phản ứng co mạnh cục bộ sau
đó là phản ứng giãn mạch. Vì vậy, sẽ dẫn đến xung huyết và thấm huyết thanh của
tổ chức, có thể gây chảy máu hoặc tụ máu do bị đứt, tổn thương các mao mạch.
Phương pháp sơ cứu và điều trị bằng nguyên lý cơ bản “RICE”.
- Giãn cơ: khi bị giãn cơ, cấu trúc giải phẫu của cơ không thay đổi nhưng cơ
tổn thương ở tổ chức quanh cơ như tổn thương các mao mạch. Giãn cơ có thể ở
khu vực bụng cơ hay vị trí gân bám vào cơ.
Phương pháp sơ cứu và điều trị bằng nguyên lý cơ bản “RICE”.
Trong trường hợp giãn cơ, người tập cần phải nghỉ tập một thời gian ngắn, vài
giờ hoặc vài ngày.
- Rách, đứt cơ: Rách và đứt cơ bao giờ cũng kèm theo chảy máu, thường rất
mạnh và thường xảy ra tụ huyết. Khớp mất khả năng chuyển động do đau. Khi
nắn trên chỗ cơ đau có cảm giác rắn chắc do kích thích gây phản xạ co cơ và do
sự chèn ép khối máu tụ. Trong trường hợp đứt cơ hoàn toàn có thể sờ thấy hõm
giữa hai phần cơ bị đứt khi căng gân. Cơ thường bị nhiều nhất là cơ tứ đầu đùi
và cơ nhị đầu cánh tay, hoặc cơ nhị đầu đùi (bóng đá), cơ khép đùi (điền kinh),
cơ tam đầu cẳng chân (thể dục).
Sơ cứu ban đầu: Phương pháp sơ cứu và điều trị bằng nguyên lý cơ bản
“RICE”. Nếu cơ bị rách đứt thì nhất thiết phải cố định khớp sao cho hai đầu cơ
bị đứt thật gần sát nhau.
50
- Bong gân: Bong gân do chấn thương là tổn thương dây chằng, bao khớp và
các cơ tham gia vào việc giữ vững khớp. Khi bị chấn thương trẹo khớp đột ngột,
các dây chằng bị kéo giãn quá mức, bị rách hay bị đứt. Trong lao động, sinh
hoạt, nhất là học sinh trong kỳ nghỉ hè học thêm các môn năng khiếu như bóng
chuyền, bóng đá, võ thuật… rất dễ bị chấn thương bong gân.
Bong gân và giãn dây chằng là tổn thương thường gặp nhất trong tập luyện
và thi đấu thể thao. Các khớp hay bị bong gân nhất là: khớp cổ chân, khớp gối
(bóng đá, điền kinh); khớp cổ tay, khớp ngón cái (thể dục, bóng chuyền); khớp
khuỷu và khớp cổ tay (tennis).
Ổ khớp là chỗ nối các đầu xương với nhau, các đầu xương được bọc các
sụn viền trơn bóng, trong hệ thống bao khớp có các sợi dây chằng, gân cơ quanh
khớp vừa chắc, vừa mềm dẻo để khớp hoạt động hết biên độ mà đầu xương
không bị trật ra ngoài. Khi hoạt động quá biên độ, bao khớp phải mở rộng cùng
các dây chằng quanh khớp phải giãn mạnh do kéo căng, có thể bị đứt, gây tổn
thương bao khớp, chảy máu và ảnh hưởng đến vận động của khớp.
Triệu chứng: đau, sưng to ngay từ lúc chấn thương, các hõm quanh khớp bị
đẩy lên do trong ổ khớp tràn dịch và máu. Cử động của khớp bị hạn chế nhiều
và đau.
Phương pháp sơ cứu và điều trị bằng nguyên lý cơ bản RICE.
Điều trị: Giảm đau và kháng viêm. Khi bị tổn thương dây chằng và bao khớp,
người tập phải nghỉ ngơi 4 – 5 tuần.
  Để phòng tránh bong gân cần thực hiện: phụ nữ không nên đi giày cao gót,
tránh bước dài vì dễ trượt chân bong gân. Nên mang bao khớp gối, bao cổ chân
khi vận động nặng. Hằng ngày nên tập các động tác làm tăng trương lực các cơ
quanh khớp cổ chân, khớp gối, khớp cổ tay…
- Chấn thương màng xương : rất đau, đau lâu vì màng xương là nơi tập
trung nhiều đầu mút thần kinh, thường gặp ở mặt trước xương chày (trong chạy
vượt rào hay tranh bóng trong bóng đá), xương ngực (trong cử tạ), gót chân
(trong nhãy cao, nhãy xa). Cách sơ cứu cũng chườm lạnh như trên và bất động
chi trong ít ngày.
Sơ cứu và điều trị bằng nguyên lý cơ bản RICE.
- Gãy xương: là sự phá huỷ cấu trúc giải phẫu bình thường của xương dưới
tác động cơ học trực tiếp hay gián tiếp gây nên. Khi bị gãy xương bao giờ cũng
gây tổn thương gân cơ, dây chằng, thần kinh và mạch máu bao quanh. Gãy
xương là một tổn thương nặng trong chấn thương thể thao. Thường gặp là gãy
xương kín (không gây tổn thương ở bề mặt da), gãy xương không hoàn toàn
(rạn, nứt) và gãy xương hoàn toàn (gãy thành hai hay nhiều đoạn), ít gặp gãy
xương hở (cơ bị tổn thương, rách da và đầu xương bị lộ ra ngoài.
Triệu chứng:
- Nạn nhân có thể cảm thấy hoặc nghe thấy tiếng kêu "răng rắc" của xương gãy.
Khi bị gãy xương kèm theo mất nhiều máu, rất đau và nhiều khi có thể bị sốc. Da
xanh nhợt, chân tay lạnh, đổ mồ hôi. Mạch nhanh và nhỏ, huyết áp hạ thấp.
- Biến dạng chi do xương thay đổi hướng trục và chi ngắn đi. Chi bị gãy bất
động; nắn chỗ bị thương cảm giác rất đau và có tiếng lạo xạo gãy xương do các
mảnh xương vỡ.
51
- Ðau ở chỗ chấn thương hoặc gần vị trí đó. Ðau tăng khi vận động.
- Giảm hoặc mất hoàn toàn khả năng vận động.
- Có phản ứng tại chỗ gãy khi ấn nhẹ lên vùng bị thương
- Sưng nề và sau đó bầm tím ở vùng chấn thương
- Biến dạng tại vị trí gãy: ví dụ chi gãy bị ngắn lại, gập góc hoặc xoắn vặn,
v.v..
- Khi khám có thể nghe hoặc cảm thấy tiếng lạo xạo của 2 đầu xương gãy cọ
vào nhau.
- Có thể có triệu chứng của sốc.
Tình trạng sốc thường xảy ra và được nhận thấy rõ trong các trường hợp
gãy xương đòn hoặc vỡ xương chậu.

Chú ý:
Không phải tất cả các xương, đều có những dấu hiệu và triệu chứng trên.
Ðể tìm ra những dấu hiệu của gãy xương phải chủ yếu dựa vào sự quan sát,
đừng cho vận động bất kỳ nơi nào của cơ thể nếu không cần thiết. Nếu có thể thì
hãy so sánh chi bị thương với chi lành.
Nếu có sự kết hợp của 2 hay 3 triệu chứng của các triệu chứng kể trên
hoặc nếu nạn nhân có biểu hiện của tình trạng sốc và đau nhiều ở chi hoặc nếu
có nghi ngờ về tính nghiêm trọng của một chấn thương thì hãy xử trí như một
trường hợp gãy xương.
Sơ cứu ban đầu: ủ ấm nạn nhân và bất động chi gãy bằng phương pháp nẹp
(nẹp phải đủ dài để bất động chi), nếu vết thương hở phải xử lý như vết thương,
chống viêm nhiễm, khử trùng, băng bó và nẹp bất động chi. Sau đó chuyển bệnh
nhân đến bệnh viện.
Nếu gãy xương sườn nên dùng băng dính hay băng cuộn bản lớn băng ép
xung quanh ngực nơi có xương sườn bị gãy. Khi có nghi vấn gãy xương cột
sống, trong mọi trường hợp phải để nạn nhân nằm yên và luôn đặt nạn nhân trên
cáng (ván) cứng và chuyển đến bệnh viện.
Nguyên tắc cố định gãy xương
- Không đặt nẹp trực tiếp lên da thịt nạn nhân phải có đệm lót ở đầu nẹp, đầu
xương (không cởi quần áo, cần thiết rạch theo đường chỉ).

52
- Cố định trên, dưới ổ gãy, khớp trên và dưới ổ gãy, riêng xương đùi bất động
3 khớp.
- Bất động ở tư thế cơ năng: chi trên treo tay vuông góc, chi dưới duỗi thẳng 180o.
- Trường hợp gãy kín phải kéo chi liên tục bằng một lực không đổi trong suốt
thời gian cố định.
- Trường hợp gãy hở: không được kéo nắn ấn đầu xương gãy vào trong nếu có
tổn thương động mạch phải đặt ga rô tùy ứng, xử trí vết thương để nguyên tư thế
gãy mà cố định.
- Sau khi cố định buộc chi gãy với chi lành thành một khối thống nhất.
- Nhanh chóng, nhẹ nhàng, vận chuyển nạn nhân đến cơ sở điều trị.
Một số chú ý khi gãy xương hở
- Không bao giờ kéo đầu xương gãy vào trong
- Băng bó vết thương rồi mới cố định theo tư thế gãy
4.5.4. Một số gãy xương thường gặp
 Gãy xương sườn và xương ức
Cách 1:
- Dùng băng dính to bản cố định
- Treo tay cùng bên với bên lồng ngực có xương gãy vào cổ
- Xử trí vết thương lồng ngực nếu có.
Cách 2:
- Buộc bằng 3 khăn:
+ Khăn 1 đặt giữa nơi xương sườn bị gãy, bảo nạn nhân thở ra, buộc nút
trước nách bên đối diện xương sườn gãy.
+ Khăn 2, 3 đặt trên và dưới khăn 1, buộc giống như trên.
Sau khi xử trí như cách 1 hoặc 2 thì:
- Treo tay cùng bên với bên lồng ngực có xương gãy vào cổ.
- Chuyển nạn nhân tới bệnh viện. Trường hợp biến chứng thì phải chuyển
ngay lập tức.
- Trường hợp gãy xương sườn có biến chứng (xem phần xử trí cấp cứu các vết
thương lồng ngực).
Gãy xương đòn: xương đòn còn được gọi là xương quai xanh. Nó là một
xương dẹt cong hình chữ S, một đầu xương tiếp khớp với xương ức, đầu còn lại
tiếp khớp với xương bả vai. Đây là một xương nhỏ nhưng có vai trò quan trọng
trong việc vận động của cánh tay, đặc biệt là hoạt động mang vác... Dấu hiệu gãy
xương đòn rất dễ nhận ra bởi sự biến dạng xương và mất vận động nâng, co vai.
Trong trường hợp này cần cho nạn nhân ưỡn ngực, hai vai kéo về phía sau
rồi chèn bông hoặc băng dưới hai hố nách và hai bả vai. Tiếp đó đặt nẹp hình
chữ T sau vai (nhánh dài dọc theo cột sống và phải dài qua thắt lưng; nhánh
ngang to bản hơn và dài qua vai, bảo đảm áp vào vai) và quấn băng vòng tròn từ
nách qua vai, buộc nút ở bả vai và quấn băng vòng quanh thắt lưng. Trường hợp
không có nẹp thì dùng băng số 8. Việc này cần hai người thực hiện. Người thứ
nhất nắm 2 cánh tay nạn nhân nhẹ nhàng kéo ra phía sau bằng một lực vừa phải,
không đổi trong suốt thời gian người thứ hai thực hiện việc băng kiểu số 8 để cố
định xương đòn. Trong cách làm trên cần lưu ý đệm lót bông hoặc vải mềm ở
hai hố nách cho nạn nhân để tránh gây cọ sát làm nạn nhân đau khi băng.
53
 Gãy xương tay:
Tay có 3 xương dài: một xương ở phần trên cánh tay và hai xương ở cẳng
tay. Đây là các xương thường dễ bị gãy. Gãy xương cánh tay rất đau vì ở đó có
nhiều dây thần kinh.
Cách xử trí khi bị gãy:
- Nếu gãy xương cánh tay, để cánh tay sát thân mình, cẳng tay vuông góc với
cánh tay (tư thế co). Đặt 2 nẹp, nẹp trong từ hố nách tới quá khuỷu tay, nẹp
ngoài từ quá bả vai đến quá khớp khuỷu. Có thể dùng nẹp Cramer làm thành góc
90 độ đỡ cả cánh tay và cẳng tay băng lại. Dùng 2 dây rộng bản buộc cố định
nẹp, một ở trên và một ở dưới ổ gãy. Có thể dùng khăn tam giác đỡ cẳng tay treo
trước ngực, cẳng tay vuông góc với cánh tay, bàn tay cao hơn khuỷu tay, bàn tay
để ngửa. Sau đó dùng băng rộng bản băng ép cánh tay vào thân mình. Thắt nút
phía trước nách bên lành.
- Nếu gãy xương cẳng tay: Để cẳng tay sát thân mình, cẳng tay vuông góc
cánh tay. Lòng bàn tay ngửa. Người cứu dùng hai nẹp, nẹp trong từ lòng bàn tay
đến nếp khuỷu tay, nẹp ngoài từ đầu các ngón tay đến quá khuỷu tay. Tiếp đó
dùng 3 dây rộng bản buộc cố định nẹp bàn tay và thân cẳng tay (một ở trên và
một ở dưới ổ gãy) rồi dùng khăn tam giác đỡ cẳng tay treo trước ngực. Nếu
không thể gấp khuỷu tay được thì không nên cố gắng dùng sức để gấp khuỷu tay
mà yêu cầu nạn nhân dùng tay lành đỡ tay bị gãy ở vị trí đó, rồi người cứu đặt
một miếng đệm dài vào giữa tay bị thương và thân người bị nạn và buộc tay bị
thương vào cơ thể bằng 3 dải băng rộng bản ở quanh cổ tay và đùi, quanh cánh
tay và ngực, quanh cẳng tay và bụng. Tiếp đó cho nạn nhân nằm xuống và đặt
tay bị thương dọc theo thân.

Bất động gãy xương cẳng tay.

 Gãy xương chân: (xương đùi và xương cẳng chân)


+ Gãy cổ xương đùi: là một trong những loại gãy xương hay gặp, nhất là
những người cao tuổi và dễ bị bỏ qua. Nếu gãy cổ xương đùi không được điều
trị kịp thời sẽ dẫn tới tử vong do bệnh nhân bị sốc do đau, ngoài ra gãy cổ xương
đùi làm chân không cử động được phải nằm liệt một chỗ gây nên những biến
chứng như loét da vùng lưng, viêm phổi, nhiễm trùng tiểu...

54
+ Gãy xương đùi: Cho nạn nhân nằm bất động, giữ nguyên chân gãy theo tư
thế bàn chân vuông góc với cẳng chân. Sau đó cố định bằng 3 nẹp gỗ, một từ hố
nách đến gót chân, hai từ vai đến quá gót chân, ba là từ bẹn đến quá gót chân.
Sau đó buộc cố định nẹp ở các vị trí trên, dưới ổ gãy, cổ chân, ngang ngực,
ngang hông, dưới gối. Lưu ý phải nệm lót tốt ở phần giữa 2 đầu gối và cổ chân,
cố định chân xong nên nâng chân cao lên một chút để giảm sự sưng nề và khó
chịu cho người bệnh rồi chuyển đến khoa chấn thương.

Nẹp bất động gãy xương đùi


+ Gãy xương cẳng chân: Chân có 2 xương dài là xương chày (xương ống
chân) nằm sát bề mặt và nếu bị gãy có thể làm rách da tạo nên gãy xương hở.
Xương mác thì nhỏ hơn và khó gãy hơn nên khi gãy cũng ít ảnh hưởng tới khả
năng đi lại của người bệnh. Hầu hết khi bị tai nạn, các xương dài ở vùng chân dễ
bị gãy hơn.

Nẹp bất động khi gãy xương cẳng chân

Cách xử trí khi bị gãy xương dài: Đặt bệnh nhân ở tư thế thoải mái nhất và
bất động. Kiểm tra xem vết gãy đó có bị hở hay không, nếu hở phải làm sạch vết
thương. Sau đó nẹp cố định bằng 2 nẹp trong và ngoài từ giữa đùi đến quá gót
chân rồi chuyển người bệnh đến khoa chấn thương để được xử trí tiếp.
- Trật khớp (sái khớp) là sự chuyển dịch hai đầu xương và diện khớp vượt
quá giới hạn cấu trúc giải phẫu cho phép và diện khớp mất đi sự tiếp xúc, cản trở
hoạt động tự nhiên của khớp. Sai khớp có thể rách bao khớp, đứt và giãn dây
chằng, gây tổn thương các phần mềm. Có thể gặp sai khớp hoàn toàn hoặc
không hoàn toàn.

55
Trật khớp thường do những chấn thương mạnh tác động gián tiếp vào thân
xương là đầu xương bật ra khỏi bao khớp.
Trong hoạt động thể dục thể thao, các khớp thường dễ trậ nhất là khớp vai,
khớp khuỷu và khớp ngón cái.
Triệu chứng: khi bị trật khớp, nạn nhân rất đau ở vùng khớp tổn thương, chi
bị tổn thương nằm ở tư thế phơi tự nhiên, mọi cố gắng để đưa chi trở lại vị trí
bình thường rất khó khăn và đau đớn nên khớp bất động. Khi quan sát thấy hình
dạng khớp thay đổi, biến dạng khớp, sờ vào ổ khớp thấy rỗng.

Sơ cứu ban đầu: Nếu nghi ngờ có trật khớp nên gọi ngay cấp cứu. Trong khi
chờ đợi chở đi cấp cứu bạn có thể làm những việc sau đây: cần phải bất động
khớp tạm thời, tuyệt đối không nắn sửa khớp vì sẽ làm tổn thương ổ khớp, các
dây chằng, gân cơ.
4.5.5. Chấn thương vùng mũi: do va đập mạnh, mũi bị dập và xuất hiện chảy
máu tại mũi, có thể gãy xương và sụn mũi.
Sơ cứu
Trong những trường hợp như vậy chúng ta hay có khuynh hướng nằm ngữa
để máu đừng chảy ra nhưng thực tế là máu lại chảy ngược vào trong. Vậy thì
nếu bạn bị hay người khác bi chảy máu mũi bạn hãy làm như sau:
- Cho nạn nhân ngồi
- Kẹp mũi 5-10 phút
- Để tránh chảy máu mũi trở lại: không móc mũi, đừng cúi người xuống
trong vài giờ, giữ cho đầu cao hơn tim.
- Nếu chảy máu trở lại: hỉ sạch máu trong mũi, xịt dung dịch rửa mũi có
chất giảm sung huyết, kẹp mũi trở lại.
Gọi cấp cứu khi:
- Chảy máu mũi hơn 20 phút.
- Chảy máu mũi sau tai nạn, té hoặc có chấn thương vùng đầu, mặt... có thể
làm vỡ mũi.
4.5.6. Chấn thương vùng mắt: thường gặp trong môn đấm bốc hoặc do bóng va
mạnh vào mắt. Thông thường gây tụ máu hoặc chảy máu dưới da, phù nề vùng
mi mắt hay kết mạc. Tụ máu nên áp dụng biện pháp chườm nóng. Trong trường

56
hợp quá nặng (tổn thương nhãn cầu, võng mạc, đáy mắt) nên chuyển bệnh nhân
đi bệnh viện.
4.5.7. Chấn Thương Ngực : Thường là loại không có vết thương. Nếu nhẹ : chỉ
đau và bầm tím ngoài da; nặng có thể gây tổn thương phổi (hay gặp) hoặc tim
(hiếm gặp), phải sơ cứu. Có thể bị : khó thở do màng phổi bị tổn thương, khạc ra
máu : do xương sườn gãy đâm vào phổi; tràn khí dưới da, ấn da thấy kêu lép bép
: thủng phổi hoặc phế quản; có thể gãy xương sườn.
- Sơ cứu : cần băng ép quanh lồng ngực, cố định nạn nhân, không để giãy giụa
nhiều. Đắp ấm và nhanh chóng chuyển nạn nhân đến bệnh viện.
4.5.9. Chấn Thương Bụng: Có thể gây thủng tạng rỗng như ruột, dạ dày, vỡ
thận gây đái ra má. Hay xảy ra khi vận động viên va đập mạnh, bị ngã. Chấn
thương bụng hay gây choáng nên phải ủ ấm và đề phòng. Chườm lạnh vùng đau.
Bất động và nhanh chóng chuyển nạn nhân đến bệnh viện, không cho ăn uống,
không được tiêm giảm đau vì sẽ làm mờ triệu chứng nguy hiểm.
4.6. Nguyên tắc đề phòng chấn thương
1. Tăng cường giáo dục về mục đích của tập luyện thể dục thể thao
Những người tham gia tập luyện TDTT cần không chỉ nhận thức được mục
đích của tập luyện TDTT là tăng cường thể chất, thúc đẩy sự phát triển cơ thể,
nâng cao trình độ kỹ thuật TDTT mà còn nhận thức được rằng chỉ có bảo đảm
được sức khoẻ mới có thể tránh được những chấn thương trong tập luyện TDTT
Nắm được những kiến thức có liên quan về vấn đề chấn thương. Tăng cương
giáo dục tính tổ chức kỷ luật trong tập luyện.
2. Sắp xếp hợp lý quá trình tập luyện và thi đấu
Tìm hiểu kỹ trọng tâm và những nội dung khó của buổi tập. Đối với những
nội dung khó nắm vững, những khâu mà người tập dễ mắc sai lầm hoặc những
động tác có nhiều nguy cơ xảy ra chấn thương thì phải có sự chuẩn bị, dự phòng
tốt để đảm bảo an toàn cho tập luyện.
3. Phải khởi động tốt
Mục đích của khởi động là nâng cao tính hưng phấn của hệ thống các trung
khu thần kinh, tăng cường chức năng của các hệ thống cơ quan, khắc phục tính ý
sinh lý của các chức năng, chuẩn bị tốt khả năng cơ thể cho phần tập luyện
chính.
4. Tăng cường bảo hiểm và tự bảo hiểm
Bảo hiểm là một biện pháp quan trọng để ngăn ngừa chấn thương khi tiến
hành những động tác trên không và những động tác có độ khó lớn. Trong lúc tập
luyện chỉ cần hơi nơi lỏng hoặc bảo hiểm không thoả đáng là đã có thể xảy ra
chấn thương nhất là trong thể dục dụng cụ.
Người tham gia tập luyện thể dục thể thao cần phải học được phương pháp
tự bảo hiểm, khi rơi từ độ cao xuống mặt đất cần phải co gối, hai chân khép song
song, khi trọng tâm không vững có nguy cơ bị ngã thì phải lập tức cúi đầu, gập
khuỷu tay cuộn tròn thân người lại, dùng vai và lưng tiếp đồng thời theo đà lộn
vòng.
5. Tăng cường công tác kiểm tra y sinh học và chú ý vệ sinh sân bãi, dụng cụ
Đối với những người thường xuyên tham gia tập luyện thể dục thể thao cần
phải định kỳ tiến hành kiểm tra thể lực, sức khoẻ...trọng tâm kiểm tra là đo chức
57
năng tim phổi và xét nghiệm máu, nước tiểu để để quan sát và tìm hiểu sự biến
đổi chức năng cơ thể trong tập luyện và sau thi đấu.
Đối với những người mắc một số bệnh mãn tính càng cần phải tăng cường
quan sát, kiểm tra y học và kiểm tra sức khoẻ định kỳ cũng như kiểm tra bổ
sung, ngăn cấm người có bệnh hoặc người chưa được tập luyện đầy đủ tham gia
hoặc thi đấu căng thẳng.

V. MỘT SỐ BỆNH VÀ CHỨNG THƯỜNG GẶP TRONG TẬP LUYỆN


VÀ THI ĐẤU THỂ THAO
5.1. Ngất
Ngất xỉu là sự mất tỉnh táo trong chốc lát do lượng máu chảy đến não tạm
thời bị giảm. Không giống như bị sốc, mạch đập rất chậm mặc dù chẳng bao lâu
nó sẽ trở lại mức bình thường. Việc hồi phục diễn ra nhanh và hoàn toàn.
Ngất xỉu có thể là phản ứng khi bị đau hay sợ sệt hoặc do tức tối, kiệt sức và
đói. Tuy nhiên, nó thường xảy ra hơn sau một thời thời gian dài không hoạt
động thể chất, đặc biệt là ở nơi nóng bức. Máu chảy xuống phần phía dưới cơ
thể làm giảm lượng máu hiện có trong não.
Cách nhận biết
Người bệnh tự nhiên thấy choáng váng, hoa mắt, chóng mặt, ù tai... rồi ngã
lăn ra; có khi toát mồ hôi, da nhợt nhạt, chân tay lạnh mạch đập chậm.. Tuần
hoàn và hô hấp ngừng hoặc rất yếu, huyết áp hạ, đồng tử giãn.
Những điều nên làm :
Tăng lượng máu chảy đến não.
Trấn an khi bệnh nhân tỉnh lại và làm bệnh nhân cảm thấy dễ chịu, thoải mái.
Đặt bệnh nhân nằm xuống, nâng và đỡ chân bệnh nhân lên.
Bảo đảm cho bệnh nhân thở nhiều không khí trong lành; nếu cần thiết thì
hãy mở cửa sổ ra.
Khi bệnh nhân tỉnh lại, trấn tĩnh và giúp bệnh nhân ngồi dậy từ từ.
Tìm xem bệnh nhân có còn bị thương tích nào do bị ngã gây ra không và
điều trị cho bệnh nhân. Nếu bệnh nhân không hồi tỉnh lại nhanh, hãy kiểm tra
nhịp thở và mạch đập của bệnh nhân, chuẩn bị hô hấp nhân tạo nếu thấy cần
thiết. Đặt bệnh nhân ở tư thế dễ hồi sức và quay số 115 gọi cấp cứu. Nếu bệnh
nhân bắt đầu cảm thấy muốn ngất xỉu trở lại, hãy đặt đầu bệnh nhân giữa hai đầu
gối họ và bảo họ hít sâu vào.
5.2. Căng thẳng quá mức
Là hiện tượng bệnh lý phát sinh đột ngột, thường xảy ra trong và sau khi tập
luyện và thi đấu, do tập luyện và thi đấu với lượng vận động quá lớn hoặc do
chức năng tim mạch kém không đáp ứng được yêu cầu cung cấp máu, dinh
dưỡng, oxy cho cơ hoạt động, và cũng do tình trạng sức khoẻ, trạng thái chức
năng của người tập bị giảm sút sau một thời gian nghỉ ngơi. Có thể gặp các loại
căng thẳng quá mức sau:
Căng thẳng cấp tính: nên đưa ngay nạn nhân vào nơi thoáng mát, yên tĩnh,
nằm ngữa và đầu thấp hơn chân cho máu về não tốt hơn, hít thở thật sâu. Sau vài
giờ, nạn nhân tỉnh táo nhưng vẫn còn mệt mỏi. Cần phải nghỉ 2-3 ngày mới
tham gia tập luyện.
58
Căng thẳng mãn tính (suy tim cấp tính): cảm giác hoa mắt, chóng mặt,
buồn nôn, khó thở, mặt tím tái, đi đứng không vững. Nếu nặng thì mặt tím tái và
đau nhói ở vùng tim. Sơ cứu: đưa nạn nhân đến bệnh viện gấp
Co thắt mạch máu não: thường gặp trong các môn chạy, tự nhiên ngã quỵ,
tri giác giảm hoặc mất, buồn nôn và thậm chí liệt nửa người. Sơ cứu: đưa nạn
nhân đến nơi thoáng mát, nằm ngửa, đầu thấp hơn chân, có thể dụng thuốc an
thần và đưa tới bệnh viện.
5.3. Mệt mỏi quá sức trong tập luyện TDTT
Tập luyện quá sức là do cơ thể hoạt động với cường độ và thời gian nhất định
sẽ xuất hiện cảm giác mệt mỏi biểu hiện bởi giảm trương lực chung của cơ thể,
giảm năng lực hoạt động, nhưng sau khi được nghỉ ngơi, cảm giác mệt mỏi bị
mất đi, trương lực chung và khả năng hoạt động lại trở lại bình thường. Vì vậy,
trạng thái mệt mỏi là trạng thái sinh lý bình thường của cơ thể. Yêu cầu trong
huấn luyện phải nâng cao dần lượng vận động và cơ thể xuất hiện mệt mỏi và
thích nghi. Nhưng nếu tập luyện với lượng vận động quá mức, tạo mệt mỏi quá
độ là quá trình tích luỹ của mệt mỏi gây nên và đó là hiện tượng bệnh lý và có
nhiều biểu hiện lâm sàng phức tạp.
Bảng. Bảng đánh giá dấu hiệu biểu hiện ra bên ngoài của sự mệt mỏi

Mức độ Mồ hôi Sắc mặt Sự chú ý Độ chính xác


Mệt mỏi Mặt, cổ, lưng Bình thường Bình thường Chuẩn
nhẹ
Mệt mỏi Mặt, thân, tứ Tái hoặc đỏ Giảm Nhiều động tác
trung chi chưa chính xác
bình
Rất mệt Mồ hôi nhiều Nhặt nhạt Mất chú ý Động tác sai
mỏi nhiều

5.4. Choáng trọng lực (Shock)


Choáng trọng lực là một loại bệnh cấp tính xảy ra sau khi người tập chạy
xong ngã xuống và mất tri giác.
Nguyên nhân: sau khi chạy về đích, tự nhiên giảm tốc độ đột ngột hoặc dừng
lại làm cho máu tính mạch mất đi tác dụng đè ép khi cơ co duỗi cộng với tác
dụng trọng lực của máu làm cho máu dồn xuống chi dưới quá nhiều, máu trở về
tim khó khăn, làm cho cung lượng tim giảm đột ngột, quá trình đó làm cho não
thiếu máu và oxy đột ngột làm cho người chạy bị choáng.
Triệu chứng: mất tri giác và ngã xuống, chóng mặt, hoa mắt, ù tai, tay chân
lạnh, tim đập chậm, yếu và đồng tử mắt co lại. Triệu chứng này chỉ xuất hiện
thời gian ngắn cơ thể sẽ hồi phục lại.
Xử trí ban đầu: đưa nạn nhân vào nơi thoáng mát, nằm đầu thấp hơn chân,
nới lỏng quần áo, bấm huyệt nhân trung. Nếu ngừng thở thì dùng phương pháp
hà hơi thổi ngạt, xoa bóp tim ngoài lồng ngực, cho uống nước trà đường nóng.
Cách đề phòng: chạy về đích không nên dừng lại đột ngột, tiếp tục chạy và
giảm tốc độ, hít thật sâu, không nên ngồi ngay sau khic hãy ong. Nếu có vận

59
động viên bị choáng, nên sốc hai vai cho đi tiếp, hít thở sâu, sau đó cho nằm
nghĩ, để đầu thấp hơn chân cho máu về não.
5.5. Hội chứng đau bụng trong tập luyện và thi đấu
Một số người khi vận động như đi bộ, chạy, đi xe đạp … thường xuất hiện
hiện tượng đau bụng (đau khu sườn phải hoặc bụng trên). Dạng đau này xuất
hiện trước, trong hoặc sau tập luyện và thi đấu.
Nguyên nhân: Cơ chế của hội chứng đau bụng trong tập luyện và thi đấu do
các nguyên nhân:
+ Trình độ tập luyện kém: khi tiến hành vận động cường độ cao do công
năng tim kém nên đẩy máu vào động mạch được ít, do đó máu từ tĩnh mạch về
tim khó khăn, máu tập trung nhiều ở gan, tuỵ làm cho màng gan, tuỵ căng gay
đau bụng.
+ Phương pháp thở không đúng: khi chạy, thở quá gấp làm cho hoạt động
của cơ hoành bị rối loạn, cơ hoành thiếu oxy làm cho cơ hoành co rút gây nên
đau bụng.
+ Chuẩn bị hoạt động không tốt: do không thực hiện đúng thời gian ăn và
hoạt động thể lực nên thức ăn bị tích tụ ở một đoạn nào đó làm căng dẫn đến đau
bụng, ngoài ra màng ruột căng cũng dẫn tới đau bụng.
+ Chuẩn bị khởi động không tốt, hoặc chạy quá nhanh làm cho ống tiêu hoá
thiếu máu, thiếu oxy gây rối loạn co thắt nhu động ruột sinh ra đau.
+ Sau ăn tập luyện ngay
Ngoài ra còn có nguyên nhân khác do bệnh tật như: viêm gan, các bệnh về
đường mật, viêm ống tiêu hoá.
Triệu chứng: Đau ở vùng hạ sườn phải và trái. Lúc đầu ấn tay vào cảm thấy
đỡ, sau đó cơn đau tăng. Khi dừng lại thì cơn đau giảm.
Xử trí ban đầu:
- Nếu xuất hiện đau bụng nhẹ dùng tay ấn chỗ đau, giảm tốc độ chạy, dùng
sức hít – thở sâu và đều.
- Nếu nặng quá, dừng vận động và cần có bác sĩ khám để chẩn đoán và điều trị.
Cách đề phòng
- Tăng cường huấn luyện toàn diện về các tố chất vận động, chủ yếu sức
mạnh và sức bền.
- Chú ý tập trung hít thở thật sâu và có phương pháp.
- Trước khi tập luyện không ăn quá no, uống nước quá nhiều. Sau khi ăn no
cần nghỉ ngời 90 – 120 phút mới được tập.
- Chuẩn bị hoạt động chu đáo, biết phân sức trong tập luyện và thi đấu,nhất là
các môn sức bền.
- Khởi động kỹ, chú ý các động tác hoạt động phải kết hợp với thưor nhịp
nhàng và sâu.
- Phải tuân theo các nguyên tắc trong tập luyện thể dục thể thao nhất là
nguyên tắc tăng tiến.
5.6. Các dấu hiệu và triệu chứng nhận biết say nóng, say nắng
 Say nóng:
- Da lạnh, ẩm ướt và tái mét;
- Vã mồ hôi;
60
- Miệng khô;
- Mệt mỏi, đuối sức;
- Choáng váng;
- Nhức đầu;
- Buồn nôn, thỉnh thoảng nôn;
- Vọp bẻ;
- Mạch nhanh và yếu.
Say nắng:
Say nóng thường gặp vào buổi xế chiều, có nhiều tia hồng ngoại, còn say
nắng hay gặp vào lúc giữa trưa, khi trời nắng gay gắt, có nhiều tia tử ngoại. Say
nắng thường nặng hơn say nóng, có thể gây tử vong.
- Sốt cao (39,8 C trở lên);
- Da nóng, khô và đỏ;
- Không có mồ hôi;
- Thở sâu, mạch nhanh sau đó là thở nông và mạch yếu;
- Đồng tử giãn;
- Lú lẫn, mê sảng, ảo giác;
- Co giật;
- Bất tỉnh.
Những việc cần làm khi gặp nạn nhân bị say nóng, say nắng
1. Bằng mọi cách làm giảm thân nhiệt người bị nạn.
2. Đưa ngay người bị nạn vào chỗ mát, thoáng gió, quạt mát;
3. Đặt nằm ngửa, gác chân cao;
4. Nới lỏng, cởi quần áo;
5. Cho uống nước mát có muối;
6. Chườm mát khắp người (chú ý cổ, nách, háng).
Nếu bệnh nhân còn tỉnh và uống được thì cho uống oresol 1,5-2 lít trong giờ
đầu, nếu không có thì pha nước với ít muối và đường.
Trường hợp phải gọi cấp cứu hoặc đưa đến bệnh viện ngay
- Không uống nước được;
- Nôn liên tục;
- Sốt tăng liên tục;
- Bất tỉnh;
- Kèm triệu chứng khác như đau ngực, khó thở, đau bụng;
Phòng tránh say nóng, say nắng
Để ngừa say nắng, say nóng, khi lao động  ngoài trời phải đội mũ nón,
tránh cho ánh nắng mặt trời chiếu vào gáy. Có thể phải uống nhiều nước có pha
muối, mỗi giờ phải uống một lượng muối chừng một nhúm.
- Không ở lâu, làm việc hay tập luyện quá sức trong môi trường quá nóng,
nắng;
- Trẻ em,người lớn tuổi, bệnh lâu ngày hoặc người uống rượu bia không phơi
nắng, nóng lâu.
Vào mùa nắng, tiết nóng:
- Uống nhiều nước;
- Mặc quần áo rộng, thoáng, thoát mồ hôi.
61
Say nóng thường gặp vào buổi xế chiều, có nhiều tia hồng ngoại, còn say
nắng hay gặp vào lúc giữa trưa, khi trời nắng gay gắt, có nhiều tia tử ngoại. Say
nắng thường nặng hơn say nóng, có thể gây tử vong.
5.7. Chuột rút
Chuột rút hay vọp bẻ là cảm giác đau gây ra bởi sự co rút, thường là co cơ.
Nguyên nhân
Có 4 nguyên nhân chính dẫn đến chuột rút.
- Do thiếu oxy, acid lactic tích tụ nhiều trong cơ, kết hợp với ra nhiều mồ
hôi, mất chất điện giải.
- Do khí hậu lạnh: tập luyện và thi đấu trong màu rét cùng với sự khởi động
không kỹ, cơ bị kích thích dẫn đến chuột rút.
- Do thời tiết nóng nực, tập luyện với cường độ lớn, thời gian dài, mồ hôi tiết
nhiều dẫn đến mất nước và mất muối trong cơ. Các rối loạn điện giải có thể gây
ra chuột rút hay tetani của cơ, đặc biệt là hạ canxi máu (thiếu canxi) hoặc hạ kali
máu (thiếu kali) .
- Trong tình trạng cơ thể quá mệt mỏi, khi hoạt động cơ duỗi quá nhanh, cơ
không thay nhau co duỗi được cũng gây chuột rút.
Triệu chứng
Cơ bị co cứng không tự thả lỏng được.
Hậu quả
Chuột rút có thể xảy ra với những vận động viên thể thao hoạt động với
cường độ cao, mất nước và khoáng chất do ra mồ hôi nhiều, ảnh hưởng đến
thành tích thể thao.
Chuột rút nguy hiểm nếu xảy ra trong khi bơi lội, cơn đau do chuột rút có
thể dẫn đến giảm khả năng bơi và nghiêm trọng hơn là tử vong do chết đuối.
Phòng ngừa
Có bác sĩ cho rằng để phòng tránh chuột rút, có thể uống nhiều nước, ăn đủ
muối khoáng; cung cấp các chất này thường xuyên sau khi ra mồ hôi. Trước khi
bơi lội hay hoạt động thể thao, phải khởi động để điều hòa tuần hoàn máu, tránh
tiếp xúc với nước lạnh đột ngột để giảm nguy cơ máu khó tuần hoàn, ăn uống đủ
dinh dưỡng (đủ calo) để giữ ấm cơ thể.
Xử lý ban đầu
Kéo căng cơ bị chuột rút, sau đó dùng các kỹ thuật xoa bóp mạnh và ấn
huyệt. Nếu chuột rút ở dưới nước cần nhanh chóng đưa nạn nhân lên bờ, sau đó
mới xử lý.
Chữa trị
Chuột rút do thiếu ôxy có thể được chữa bằng việc hít thở sâu, và làm giãn
cơ. Chuột rút do thiếu nước và muối ăn có thể chữa bằng việc giãn cơ, uống
thêm nước và ăn thêm muối.
Chuột rút cơ bắp cũng được chữa bằng cách xoa bóp nhẹ lên chỗ bị đau, giãn
cơ và chườm nóng hoặc chườm lạnh. Việc chườm nóng làm tăng tuần hoàn máu
và làm cơ đàn hồi hơn, tuy nhiên một số người cảm thấy việc chườm nóng làm
đau hơn là chườm đá. Sau khi đỡ đau cũng có thể vận động nhẹ tăng dần để máu
lưu thông tốt hơn.

62
Chuột rút chân lúc ngủ đêm là sự co cơ có thể xảy ra ở cơ bắp chân, cơ bàn
chân trong lúc ngủ hay nằm nghỉ. Triệu chứng có thể là cẳng chân duỗi đơ với
các ngón chân quắp xuống. Chuột rút kiểu này có thể xảy thoáng qua trong vài
giây hoặc vài phút và sự đau kéo dài một lúc sau đó. Chuột rút kiểu này hay xảy
ra với người lớn tuổi, nhưng cũng có thể xảy ra với bất cứ ai.
Kiểu chuột rút này vẫn chưa rõ nguyên nhân. Có thể lý do là thiếu một số
khoáng chất (magiê, kali, canxi và natri), thiếu nước hoặc nằm bất động lâu quá.
Các nguyên nhân hiếm gặp hơn có thể gây ra bởi tác dụng phụ của thuốc men.
Để làm giảm sự đau đớn, người ta thường áp dụng phương pháp xoa bóp
hoặc nhẹ nhàng kéo dãn những cơ bị co rút.
5.8. Hạ đường huyết
Khi hoạt động với lượng vận động lớn trong một thời gian dài thì lượng
đường trong cơ thể bị tiêu hao nhiều để cung cấp năng lượng nên đường huyết
giảm. Hạ đường huyết thường xảy ra với những người tập luyện các môn sức
bền.
Triệu chứng: mệt mỏi, chóng mặt, ra mồ hôi lạnh, cảm giác vô lực. Nếu
đường huyết giám quá mức có thể mát trí nhớ hoặc hôn mê. Khi kiểm tra y học
thấy mạch nhanh, yếu; xét nghiệm đường huyết giảm dưới 0,40-0,5g/lít (bình
thường 0,8 – 1,2g/lít).
Xử lý: cho nạn nhân nghỉ ngơi, uống nước chè pha đặc đường, ăn bánh ngọt.
Nếu đường huyết giảm quá nhiều thì có thể truyền glucoza tĩnh mạch.
Đề phòng: nạp đủ carbonhydrat trong các bữa ăn hoặc trong hoạt động sức
bền kéo dài như marathon và đua xe đường trường cần bổ sung nước uống có bổ
sung đường và chất khoáng.
5.9. Chết đuối và cấp cứu
Chết đuối là một dạng chết ngạt dưới nước do tràn vào trong phổi ngăn cản
đường hô hấp làm nạn nhân suy hô hấp và chết. Có thể xảy ra với cả những
người bơi giỏi mà chủ quan hoặc bị chuột rút. Điều quan trọng nhất trong cấp
cứu nạn nhân là phải khẩn trương thực hiện sơ cứu.
Nạn nhân bị chết đuối (nếu sớm) có các triệu chứng sau:
- Bị ngạt do nước tràn vào miệng, mũi, phổi.
- Nạn nhân lơ mơ, thân người tím tái.
- Thở yếu, tim còn đập nhưng rất yếu hoặc có thể ngưng thở, ngừng tim.
Xử lý ban đầu
Khi vớt nạn nhân lên bờ, người cứu vác nạn nhân lên vai, bụng nạn nhân úp
vào vai, đầu dốc ngược xuống và chạy 15-20m để nước trong dạ dày, phổi nạn
nhân thoát ra ngoài bằng miệng và mũi. Sau đó đặt nạn nhân xuống, móc hết
đờm dãi và các dị vật trong miệng hoặc mũi để làm thông đường hô hấp và cởi
ngay quần áo. Ngay lập tức tiến hành phương pháp hà hơi thổi ngạt và xoa bóp
tim ngoài lồng ngực (khoảng 15-30 phút). Cứ 4 lần xoa bóp tim ngoài lồng ngực
thì thực hiện 1 lần hà hơi thổi ngạt. Nếu cơ thể nạn nhân ấm, thở được, tim đập
trở lại, nhanh chóng chuyển đến bệnh viện để điều trị.
Với người chết đuối, làm hô hấp nhân tạo theo phương pháp nằm sấp là tốt
nhất: đặt nạn nhân nằm sấp, đầu nghiêng về một bên, người cấp cứu quỳ ở phía

63
đầu nạn nhân, dùng hai bàn tay ấn mạnh lên vùng bả vai để nạn nhân thở ra. Sau
đó, cầm hai cánh tay đưa lên và ra sau để nạn nhân thở vào, làm 10-20 lần/phút.
VI. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP HÔ HẤP NHÂN TẠO
6.1. Phương pháp hà hơi thổi ngạt
Phương pháp hà hơi thổi ngạt là phương pháp cấp cứu đơn giản nhưng mang
hiệu quả rất cao trong các trường hợp ngừng thở hoặc thở rất yếu, tim còn đập.
Thao tác:
- Đặt nạn nhân nằm ngữa, người cấp cứu quỳ một bên đầu nạn nhân.
- Làm sạch đường hô hấp của nạn nhân (miệng, mũi và lấy các dị vật trong
miệng).
- Ngửa cổ nạn nhân ra phía sau để thông đường hô hấp.
- Một tay bịt mũi nạn nhân và dùng hơi hít thật sâu áp miệng của mình vào
miệng nạn nhân rối thổi một hơi thật mạnh, thực hiện xong thả tay bịt mũi, tiếp
tục thực hiện lần sau như trên sao cho 15-20 lần/phút (tần số hô hấp của người
bình thường 16-20 lần/phút). Khi thực hiện luôn nhớ miệng mũi của nạn nhân
phải sạch để thông đường hô hấp.

Trình tự phương pháp hà hơi thổi ngạt và xoa bóp tim ngoài lồng ngực
Tóm lại khi hô hấp nhân tạo phải thực hiện qua các bước ABC sau:

64
Airway (thông đường thở): đặt nạn nhân trên nền cứng, quì cạnh cổ và vai
bệnh nhân. Mở đường thở của nạn nhân bằng thủ thuật ngửa đầu nâng cằm.
Kiểm tra bệnh nhân có thở bằng cách nghe hơi thở, nhìn lồng ngực di động. Nếu
nạn nhân không thở thực hiện ngay giúp thở miệng - miệng hoặc miệng - mũi.
Breathing (thở): giúp thở miệng - mũi. Thực hiện cái đầu tiên và nhìn xem
lồng ngực bệnh nhân có phồng lên? Nếu không thực hiện tiếp cái thứ hai sau khi
mở đường thở bằng thủ thuật ngửa đầu và nâng cằm. Sau đó thực hiện ép ngực.
Circulation (giúp máu lưu thông): ấn ngực đi xuống 3,8-5cm. Ấn 70-80
lần/phút. Động tác này sẽ giúp tim bơm máu đi để đưa máu đến não và các cơ
quan quan trọng khác.
6.2. Phương pháp xoa bóp tim ngoài lồng ngực
Trong trường hợp nạn nhân ngừng thở, tim đập yếu hoặc ngừng đập, không
bắt mạch được, không nghe thấy tiếng tim phải tiến hành xoa bóp tim ngoài lồng
ngực ngay.
Thao tác:
- Đặt nạn nhân nằm ngửa nơi thoáng.
- Người cấp cứu quỳ bên cạnh nạn nhân, đặt bàn tay phải lên xương ức
(ngay núm vú) và bàn tay trái đặt chồng trên bàn tay phải, dùng sức mạnh vừa
đủ của cả hai tay ấn mạnh vào 1/3 dưới của xương ức (không ấn vào xương
sườn vì sẽ gây gãy xương sườn nạn nhân) và thả ra ngay, tiếp tục thực hiện liên
tục như thế, sao cho nhịp nhàng.
Việc hô hấp nhân tạo vẫn là một tiêu chuẩn vàng nếu cứu người bị đột
quỵ, ngừng tim, tuy nhiên nếu một người không được đào tạo thì cách tốt nhất là
chỉ nên ép lồng ngực. Cụ thể là đan hai tay vào nhau và ấn xuống ngực sâu 5-6
cm, 100 đến 120 lần một phút.
- Thực hiện phải liên trì từ 20-30 phút, nếu nhịp tim đã trở lại, phải tiếp tục
thực hiện và theo dõi nhịp tim, nhiều trường hợp tim ngừng đập trở lại.
Dấu hiệu của tim đã hồi phục sau khi xoa bóp tim ngoài lồng ngực: Sắc mặt
nạn nhân bớt tím tái. Đồng tử giãn to.
Lưu ý::
- Nếu hai người cấp cứu thì 1 người hà hơi thổi ngạt và 1 người xoa bóp tim
ngoài lồng ngực. Cứ 5 lần ép tim thì 1 lần thổi miệng – miệng. Nếu chỉ 1 người
cấp cứu thì 15 lần ép tim 2 lần thổi miệng – miệng.
- Ép tim ngoài lồng ngực kết hợp thổi miệng-miệng liên tục trên đường
chuyển đến bệnh viện.

Xác định vị trí ấn tim ngoài lồng ngực

65
Chống chỉ định: Không dùng phương pháp xoa bóp tim ngoài lồng ngực trong
các trường hợp sau: chấn thương vùng ngực, ứ má, chảy máu ngoài màng phổi,
tràn dịch màng phổi, khí thủng phổi.
6.3. Phương pháp Nielsen
- Đặt người bị nạn nằm sấp, đầu quay sang một bên, gối lên 2 bàn tay đã bắt
chéo lên đầu. Người cấp cứu quỳ ở phía đầu người bị nạn.
- Thì thở ra: Người cấp cứu ép mạnh 2 bàn tay vào lưng người bị nạn, lòng
bàn tay đè lên 2 xương bả vai. Khi ép, người cấp cứu hơi ngả về phía trước, 2
cánh tay ấn thẳng rồi buông ra đột ngột.
- Thì thở vào: Người cấp cứu cầm tay người bị nạn ở sát mỏm khuỷu, kéo
cánh tay lên trên và về phía đầu (không nhắc đầu lên) xong lại đặt tay về tư thế
lúc đầu. Làm với nhịp độ từ 10 – 12 lần 1 phút.
Phương pháp Nielsen thích hợp trong cấp cứu chết đuối, cần phải cho người
bị nạn nằm sấp để tống được nước trong bụng ra.

5.4. Phương pháp Sylvester


- Người bị nạn nằm ngửa, đầu quay về một bên, đệm dưới lưng một chiếc
chăn hoặc quần áo.
- Người cấp cứu quỳ ở phía đầu người bị nạn, nắm chặt lấy hai cổ tay người
bị nạn.

- Thì thở ra: Đưa 2 cẳng tay người bị nạn gập vào trước ngực và ép mạnh, tư
thế người cấp cứu hơi nhổm về phía trước, tay duỗi thẳng.

66
- Thì thở vào: Người cấp cứu ngồi xuống đồng thời kéo 2 cổ tay người bị
nạn cho tay dang rộng ra tới chạm đất.
Phương pháp Sylvester áp dụng trong trường hợp người bị nạn không nằm
sấp được như khi bị ngạt thở do vùi lấp, mới bởi được nửa người phía trên.

CÂU HỎI ĐÁNH GIÁ


1. Khái niệm sức khỏe, vai trò tập luyện TDTT đối với sức khỏe, phòng và chữa
bệnh ?
2. Phân tích 7 nguyên tắc vàng trong tập luyện và thi đấu thể thao
3. Kể tên các chứng thường gặp, mô tả cách xử lý ban đầu.
4. Nguyên nhân, biểu hiện và cách xử lý ban đầu khi ngất ?
5. Nguyên nhân, biểu hiện của say nóng, say nắng và cách xử lý ban đầu
6. Trình bày các bước của phương pháp hô hấp nhân tạo
7. Trình bày 6 điều cần tránh trong tập luyện và thi đấu thể thao về mùa Hè.
8. Nguyên tắc dinh dưỡng trước, trong và sau tập luyện TDTT ?
9. Khái niệm chấn thương thể thao, phân loại và các nguyên nhân gây chấn
thương thể thao.
10. Trình bày nguyên lý “RICE” trong sơ cứu và điều trị chấn thương thể thao.
11.Kể các chấn thương thường gặp, mô tả các sơ cứu ban đầu ?
12. Kể tên các chấn thương hệ vận động, mô tả cách sơ cứu ban đầu ?
13. Phân loại gãy xương, mô tả cách sơ cứu ban đầu của gãy xương, nguyên tắc
cố định gãy xương .
14. Biểu hiện của trật khớp, cách sơ cứu ban đầu ?
15. Chấn thương mắt, mũi ? Mô tả cách sơ cứu ban đầu

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1) Tập thể tác giả trường Đại học thể dục thể thao Matxitcơva - Lý luận và

phương pháp giáo dục thể chất. Tập 1,2 NXB TDTT, Hà nội - 1980.

2) Nguyễn Toán - Phạm Danh Tốn - Lý luận và phương pháp TDTT, NXB

TDTT, Hà Nội 1993.

67
3) Nguyễn Toán - Phạm Danh Tốn - Lý luận và phương pháp TDTT, NXB

TDTT, Hà Nội 2000.

4) Đồng Văn Triệu và cộng sự - Lý luận và phương pháp giáo dục thể chất

trong trường học, NXB TDTT, Hà Nội 2000.

5) Vũ Đức Thu - Nguyễn Trương Tuấn - Lý luận và phương pháp giáo dục

thể chất, NXB TDTT, Hà Nội 1998.

6) Lê Bửu - Nguyễn Thế Truyền - Lý luận và phương pháp TDTT trẻ, Sở

TDTT, Thành phố Hồ Chí Minh 1991.

68

You might also like