You are on page 1of 266

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

(Theo bản in của Phật Quang Viện, thành phố Bản Kiều, Ðài Loan, tháng 2
năm 1982)
Cư sĩ Lý Viên Tịnh kết tập, Ấn Quang Ðại Sư giám định.
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự - Đệ Tử Như Hòa
---o0o---
Nguồn
http://www.thuvienhoasen.org
Chuyển sang ebook 21-5--2009
Người thực hiện : Nam Thiên – namthien@gmail.com
Link Audio Tại Website http://www.phatphaponline.org

---o0o---
Mục Lục
LỜI TỰA
DUYÊN KHỞI TÁI BẢN CUỐN ẤN QUANG ÐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC
Phần 1
I. TỊNH ĐỘ THÙ THẮNG
II. KHUYÊN TÍN HẠNH NGUYỆN NÊN CHÂN THÀNH , THA THIẾT
1. Giảng về lòng tin chân thành, tâm nguyện tha thiết
2. Khuyên trừ nghi sanh tín
3. Khuyên đầy đủ tín nguyện
PHẦN 2
III. CHỈ DẠY PHƯƠNG PHÁP TU TRÌ
1. Giảng về phương pháp Niệm Phật
2. Ðối trị tập khí
3. Luận về việc gìn lòng lập phẩm
4. Luận định các pháp tu trì
5. Khuyên hành nhân nỗ lực
Phần 3
IV. LUẬN VỀ VIỆC LỚN SANH TỬ
1. Cảnh tỉnh mạng người vô thường
2. Khuyên chuyên cậy vào Phật lực
3. Dạy những điều thiết yếu về lâm chung
4. Khuyên nên giữ lòng thành kính
Phần 4
VI. KHUYÊN CHÚ TRỌNG NHÂN QUẢ
1. Luận về lý nhân quả
2. Giảng nhân quả về mặt Sự
3. Giải thích về nguyên do của kiếp vận
4. Giảng những điểm trọng yếu về việc giới sát
Phần 5
VII. PHÂN ĐỊNH GIỚI HẠN GIỮA THIỀN VÀ TỊNH
VIII. GIẢI QUYẾT NHỮNG ĐIỀU NGHI HOẶC THƯỜNG GẶP
1. Luận về sự - lý
2. Luận về tâm tánh
3. Luận về ngộ chứng
4. Luận về Tông, Giáo
5. Luận về Trì Chú
6. Luận về xuất gia
7. Luận về báng Phật
8. Luận về đạo thầy trò
9. Luận về Giới Luật
10. Luận về kinh điển
11. Luận về Trung Ấm
12. Luận về bốn cõi Tịnh Độ
13. Luận về xá-lợi
14. Luận về tý hương
15. Luận về cảnh giới
16. Luận về thần thông
17. Luận về bí truyền
18. Luận về cầu cơ
19. Luận về luyện đan
20. Luận về tu hành, xử sự phải phù hợp, thích nghi
21. Luận về phú cường
22. Luận về cách dự phòng tai họa
Phần 6
IX. Khuyên nhủ các thiện tín tại gia
1. Dạy về luân thường đại giáo
2. Luận về giáo dục gia đình
3. Khuyên nên tại gia hoằng pháp
4. Khuyên nên sống trong cõi trần học đạo
5. Các sách vở nên đọc
Phần Tăng Bổ
1. Thư gởi Sài Dã Ngu
2. Thư phúc đáp Du Huệ Úc, Trần Huệ Sưởng
3. Thư phúc đáp cư sĩ Ngu Tăng
4. Thư phúc đáp cư sĩ Thiệu Huệ Viên
5. Thư gởi cư sĩ Vương Tâm Thiền

---o0o---

LỜI TỰA

Pháp môn Tịnh Ðộ lý cực cao sâu, sự cực giản dị. Do vậy, người thiên tư
thông mẫn, tri kiến cao siêu thường xem Tịnh Ðộ là pháp tu của bọn ngu
phu, ngu phụ, chẳng chịu tu trì. Nào biết đây là pháp môn rốt ráo để mười
phương tam thế hết thảy chư Phật, trên thành Phật đạo, dưới độ chúng sanh,
thành thỉ, thành chung. Họ thấy kẻ ngu phu, ngu phụ tu được pháp này bèn
coi thường, sao chẳng xét trong hội Hoa Nghiêm, bậc đã chứng bằng với
Phổ Hiền, bằng với chư Phật, vẫn phải dùng mười đại nguyện vương hồi
hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc ngõ hầu viên mãn Phật Quả? Miệt
thị pháp môn Tịnh Ðộ chẳng chịu tu là coi những vị trong hội Hoa Nghiêm
thuộc hạng người gì? Chỗ quy tông cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm có đáng
nên tôn trọng hay nên coi thường đây?
[Có thái độ như vậy] không có gì khác hơn là do chưa xét kỹ nguyên do
của từng pháp môn thông thường và đặc biệt, cũng như tự lực, Phật lực, đại,
tiểu, khó, dễ, nên mới đến nỗi như thế. Nếu đã xét kỹ, há chẳng học đòi Hoa
Nghiêm Hải Chúng, nhất trí tiến hành cùng cầu vãng sanh ư? Ấn Quang tôi
từ lúc búi tóc đọc sách, nhiễm ngay phải cái độc bài Phật của Hàn, Âu,
Trình, Chu, may là không có được cái tài như Hàn, Âu, Trình, Chu. Nếu như
có được chút tài như họ, ắt sẽ tự mình lầm, khiến người lầm, thân còn sống
mà đã hãm trong địa ngục A Tỳ mất rồi. Từ năm mười bốn, mười lăm tuổi
về sau, bệnh nặng nhiều năm. Từ đấy chiêm nghiệm khắp xưa nay, xem kỹ
kinh sách, mới hay những thuyết do Hàn, Âu, Trình, Chu lập đó đều là
những tri kiến quẩn quanh ngoài cửa ngõ, tuyệt chẳng đạt đến những sự
huyền áo trong nhà.
Nhược quan1 được một năm, tôi liền xuất gia làm Tăng, chuyên tu Tịnh
nghiệp. Thề trọn một đời này làm một kẻ tự tu, chẳng lập môn đình, rộng
thâu đồ chúng đến nỗi con cháu đời sau làm Phật pháp bại hoại, kéo cả Ấn
Quang tôi vào trong địa ngục A Tỳ chịu khổ với chúng. Ðến năm Quang Tự
19 (Quý Tỵ - 1893), hòa thượng Hóa Văn chùa Pháp Vũ ở Phổ Ðà Sơn lên
kinh đô thỉnh Ðại Tạng Kinh, nhờ tôi coi sóc việc ấn loát. Xong việc, Hòa
Thượng mời tôi cùng về núi. Biết tôi chẳng thích tham gia Tăng sự, Ngài
cho tôi ở riêng một liêu, tùy ý tu trì. Ðến nay đã hơn ba mươi lăm năm rồi. Ở
núi lâu ngày, có việc phải dùng đến bút mực viết lách, tuyệt chẳng dùng đến
tên gọi Ấn Quang. Ngay cả những văn tự cần phải ký tên, cũng chỉ tùy tiện
viết hai chữ là xong. Vì thế trong hai mươi năm qua, không có người khách
nào đến thăm, cũng không có thư từ qua lại làm phiền.
Năm đầu Dân Quốc (1911), cư sĩ Cao Hạc Niên đem mấy thiên văn cảo
đăng trên Phật Học Tùng Báo, chẳng dám dùng tên Ấn Quang, mà dùng tên
Ấn Quang thường tự xưng là Thường Tàm Quý Tăng. Vì thế, ký tên là
Thường Tàm. Cư sĩ Từ Uất Như và Châu Mạnh Do tưởng lầm là Kiến
Thường, nghe nói [lầm như vậy] cả ba bốn năm chẳng hề biết. Sau Mạnh Do
lên núi bái yết, xin quy y, đem mấy thiên bản cảo tệ hại gởi cho Uất Như,
đưa in ở kinh đô, đặt tên là Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao khiến cho văn tôi
gai mắt khắp mọi người cao nhã nên càng thêm hổ thẹn.
Năm Dân Quốc thứ bảy, thứ tám (1918-1919), họ lại lôi ra thêm mấy
thiên nữa, soạn thành sách Tục Biên, in chung với cuốn Sơ Biên. Năm Dân
Quốc thứ chín, giao cho Thượng Hải Thương Vụ Ấn Thư Quán sắp chữ
thành hai cuốn để làm bản lưu. Mùa Xuân năm Dân Quốc thứ 10, sách in
xong. Quang tôi lại qua Dương Châu, đem bản sắp chữ năm Dân Quốc thứ 9
khắc thành một bản, chia làm bốn cuốn. Năm Dân Quốc thứ 11, lại giao cho
Thương Vụ Ấn Thư Quán in thành bốn cuốn. Khi ấy, các cư sĩ chỉ yêu cầu
in hai vạn bộ, nhưng đến khi Thương Vụ Ấn Thư Quán in xong, gởi ra bán,
số ấy vẫn chẳng đủ!
Mùa Ðông năm Dân Quốc thứ 14 (1925), lại giao cho Trung Hoa Thư
Cục in bản tăng quảng (bản mở rộng – do thêm vào những bài mới), cũng
chia thành bốn cuốn, dày hơn lần in trước một trăm tờ. Mùa Hạ năm nay in
sách, do phong trào công nhân đấu tranh, giá in rất cao, chỉ in được hai ngàn
bản. Bản gốc đã đem đánh máy ra thành bốn bản sao thì nhà in giữ lại hai
bản, trả về cho Quang hai bản. Tôi bèn giao cho Hàng Châu Chiết Giang Ấn
Loát Công Ty in trước một vạn bản, sau đó sẽ in tiếp.
Một nhân duyên tình cờ nữa là cư sĩ Viên Tịnh Lý Vinh Tường trong
mấy năm qua, chuyên tâm học Phật, đối với luận Khởi Tín, kinh Lăng
Nghiêm, kinh Viên Giác đều viết sớ giải. Quang bảo: “Người thanh niên nên
thiết thực dụng công niệm Phật trước đã, đến khi nghiệp tiêu trí rạng,
chướng tận, phước dày rồi sẽ lại phát huy, tự có thể xiển minh Phật ý truyền
khắp vũ trụ”. Khi ấy, ông Lý chẳng chịu là đúng. Sau vì dụng tâm quá độ,
tinh thần, thân thể mỗi ngày một suy, mới hay lời tôi nói chẳng sai.
Ông bèn đọc kỹ Văn Sao, hoan hỷ khôn xiết nên trích lục những nghĩa
trọng yếu, chia thành từng môn, từng loại, soạn thành một cuốn, tính dùng
giấy in báo in một ngàn cuốn để đáp ứng nhu cầu cần đọc ngay của độc giả.
Tháng Năm, ông đến thưa chuyện cùng Quang, rồi cùng vợ thọ quy y.
Tháng Tám sách in ra, chẳng lâu sau sách được thỉnh hết. Thư yêu cầu nườm
nượp gởi tới, tôi bèn bảo giám ngục Tào Hà Kinh sắp đặt việc in sách. Cư sĩ
Trần Ðịch Châu xin đảm nhiệm việc trình bày, cũng như chịu phí tổn đánh
máy bốn bản sao. Ông lại chịu tiền in hai ngàn bản, một lúc bỏ ra gần hai
vạn.
Với xuất xứ của mỗi câu trong bản này, thuộc quyển nào, trang nào, ông
Lý đều ghi kỹ để người đọc có thể đối chiếu với quyển Văn Sao. Do chỉ
chép lấy những nghĩa trọng yếu trong các bài văn, xếp vào một loại nên
trong mỗi thể loại, ý nghĩa [từng đoạn trích] khá giống nhau, nhưng tôi
chẳng lược bớt đi, ngõ hầu người đọc được khuyên đi, khuyên lại nhiều lần
sẽ đoạn ngay được lòng nghi, phát sanh lòng tin. Xuất xứ từ quyển nào,
trang số mấy đều dựa theo cách đánh số trong bản Tăng Quảng Văn Sao để
làm bản lưu thông vĩnh viễn, sau này không phải in lại nữa.
Lại vì Văn Sao ý nhiều, nghĩa lắm, có lẽ kẻ sơ cơ khó lòng phân biệt,
hiểu rõ dễ dàng được, nên tôi thuận theo cơ nghi, muốn cho họ trước hết
thấy được những điều trọng yếu của pháp môn, từ đấy sẽ thiết thực tấn tu, tự
đạt đến chỗ cùng cực, khỏi phải đến nỗi nhìn biển than dài hoặc đến nỗi lui
sụt. Nhân đây, chép cả mục lục cuốn Văn Sao Tuyển Ðộc Biên vào sau mục
lục cuốn Gia Ngôn Lục để người chưa từng nghiên cứu Phật học dễ theo dõi.
Tôi trình bày duyên do như thế để mong người đọc đều biết rõ.
Nguyện người thấy, người nghe đừng cho lời tôi nói là tầm thường, quê
mùa rồi bỏ qua, chỉ toan cầu lấy điều cao thâm, huyền diệu. Ðạo của Nghiêu
Thuấn chỉ là hiếu đễ mà thôi. Ðạo của Như Lai chỉ là Giới - Ðịnh - Huệ.
Thực hành được việc tầm thường, quê mùa, hành đến cùng cực thì lý cao
thâm huyền diệu há còn phải cầu nơi nào khác nữa ư? Nếu không thì chỉ cao
thâm huyền diệu nơi đầu môi chót lưỡi, khi sanh tử xảy đến chẳng dùng
được mảy may! Xin độc giả hãy lưu tâm!

Mồng Tám tháng Chạp năm Ðinh Mão, Dân Quốc 16 (1927), Cổ Tân
Thường Tàm Quý Tăng Thích Ấn Quang cẩn soạn.

---o0o---

DUYÊN KHỞI TÁI BẢN CUỐN ẤN QUANG ÐẠI SƯ GIA NGÔN


LỤC
Cổ đức nói: “Pháp chẳng thể phát khởi một mình mà cần phải có nhân
duyên”. Rõ ràng là người có thể hoằng đạo, chứ đạo chẳng thể hoằng người,
pháp chẳng tự hoằng, đao chẳng thể tự sát thương, toàn là phải nhờ vào con
người hoằng dương, vận dụng. Nay muốn in hơn ngàn cuốn ắt cũng phải có
nhân duyên. Vì thế, tôi nay chia ra ba điều duyên khởi để thuật rõ gốc ngọn,
ngõ hầu độc giả biết được một đôi điều, sanh ý tưởng khó gặp gỡ, sanh tâm
khánh hạnh2 . Do Văn - Tư - Tu, khởi Tín - Nguyện - Hạnh, nhập Niệm Phật
tam muội, ai nấy cùng thấy Di Ðà, người người chứng địa vị Bất Thoái. Ðấy
chính là điều tôi thắp hương cầu khẩn vậy.
Thứ nhất là thực hiện nguyện cũ: nhớ lúc năm Dân Quốc 57 (1968), tôi
đến học tại Trung Quốc Phật Giáo Nghiên Cứu Viện, có dịp đọc được trong
thư viện cuốn Ấn Quang Ðại Sư Gia Ngôn Lục, chẳng ngăn nổi vỗ tay, giậm
chân, hớn hở vô lượng, nhận thấy đây là một tác phẩm ngàn đời khó thấy,
ngàn kiếp khó gặp, chẳng gieo trồng cội đức dễ đâu được gặp mà nay được
gặp gỡ. Tôi bèn hạ quyết tâm đọc một mạch, không dưới mấy mươi lần, ngộ
được chẳng ít Phật lý. Trong tác phẩm này có rất nhiều đạo lý tôi chưa từng
bao giờ biết đến, và có cảm giác phải nghiền ngẫm phi thường. Tôi nhận ra
hết thảy những Phật pháp được nhắc đến trong Văn Sao đều là những của
báu có sẵn trong nhà mình, chẳng đến từ bên ngoài, khác nào đếm của gia
bảo, vói tay liền được.
Nhân đó, tôi đọc đi đọc lại những kinh điển, luận tạng được nhắc đến
trong Văn Sao như ba kinh Tịnh Ðộ, Tịnh Ðộ Thập Yếu, Tịnh Ðộ Thánh
Hiền Lục, Long Thư Tịnh Ðộ Văn, Tây Quy Trực Chỉ, Liên Tông Bảo
Giám, Niệm Phật Luận, Tịnh Nghiệp Chỉ Nam v.v... Trong mỗi một cuốn
ấy, câu câu đều là lời vàng, chữ chữ đều quy tông. Tu theo đó thì đều do hữu
niệm chứng nhập vô niệm, chuyển nhiễm niệm thành tịnh niệm, tự chứng tối
thượng thừa “tâm này làm Phật, tâm này là Phật”.
Trong cuốn Gia Ngôn Lục, đại sư Ấn Quang đã giãi bày trọn vẹn lẽ sai
biệt giữa Tự Lực và Phật Lực, giới hạn của Thiền tông và Tịnh tông, phân
tích rõ ràng, khiến kẻ sơ học đoạn nghi sanh tín, biết nên lấy bỏ những gì,
càng vào càng sâu. Tu theo đó, ngàn người tu, ngàn người được vãng sanh,
vạn người tu vạn người vãng sanh.
Nhất là chữ “Tử” (chết) do đích thân đại sư Ấn Quang viết chính là diệu
dược vô thượng để tiêu phiền não, trừ khử vọng niệm. Mọi loài chúng sanh
dựa vào chữ Tử ấy, nghĩ đến địa ngục, phát tâm Bồ Ðề, dùng tín nguyện sâu
xa trì danh hiệu Phật, lâm chung gặp Phật, vãng sanh Tây Phương chẳng biết
là bao nhiêu. Bởi thế, ngay khi ấy, tôi liền phát nguyện rằng: “Trong tương
lai, ngày nào đó, khi có nhân duyên diễn giảng Phật pháp cho đại chúng, tôi
nguyện sẽ đề xướng ấn loát và giảng giải cuốn Gia Ngôn Lục hòng đại
chúng hiểu rõ yếu nghĩa tâm này làm Phật, tâm này là Phật, tự tánh Di Ðà,
duy tâm Tịnh Ðộ mới thôi!” Ðây chính là nhân duyên thứ nhất vậy.
Thứ hai là kinh nghiệm niệm Phật: kể từ khi đọc được Văn Sao Gia
Ngôn Lục rồi tôi thường đọc đi, đọc lại, cơ hồ gần chán, nhưng vẫn chưa
hiểu hết ý nghĩa. Tiếp đó, đọc hai cuốn Văn Sao thượng hạ, những chỗ chưa
hiểu lại đem thỉnh vấn lão sư. Tư duy, thọ trì đôi ba lượt như thế, đem những
chữ Tử do Ðại Sư viết dán đầy cả phòng, giờ giờ tự kinh hãi, khắc khắc tự
răn nhắc mình. Lúc ấy tôi mới mười bảy tuổi, suốt ngày chấp trì danh hiệu,
có thể nói là Phật chẳng lìa tâm, tâm chẳng rời Phật. Suốt ngày hiếm mở
miệng nói năng một đôi câu. Nếu ai hỏi đến cũng chỉ dùng tay ra hiệu mà
thôi. Có lúc thậm chí cả hai ba ngày tôi chẳng mở miệng nói câu nào; bởi
thế, những người thường gặp mặt tôi bèn hủy báng: “Ðồ bệnh thần kinh, đồ
ma dựa”. Tôi nghe riết thành quen, chẳng lưu tâm đến nữa, cho rằng đấy là
một đại nhân duyên để tiêu diệt tội nghiệp đời trước của mình, khiến cho
mình càng thêm dũng mãnh, tinh tấn, chẳng lười nhác.
Dụng công như thế mãi đến khi tôi tốt nghiệp ở Nghiên Cứu Viện vào
năm Dân Quốc 59 (1970). Lúc ấy tôi vừa 19 tuổi, thân thể yếu đuối, lắm
bệnh, nhưng luôn nhớ kỹ lời Ðại Sư khai thị cho hành giả trong Văn
Sao: “Người niệm Phật chẳng sợ sanh bệnh, chỉ sợ chẳng thể thấy Phật,
niệm Phật. Khi thân thể trở bệnh thường nghĩ đến cái chết, vạn duyên buông
xuống, nhất tâm niệm Phật. Như thế thì nếu tuổi thọ chưa hết sẽ chóng lành
bệnh, nếu hết tuổi thọ sẽ mau được vãng sanh. Là do tâm hợp với Phật, tâm
hợp với đạo vậy!” Do đấy, tôi lập công khóa nhất định, trong vòng một
ngày, Phật sự phải làm là lễ bái bốn mươi tám nguyện, trì tụng một trăm lẻ
tám biến thần chú Ðại Bi, niệm Phật hiệu vô số. Dụng công như thế suốt một
năm, chẳng những thân thể không khỏe hơn, lại càng thêm hư nhược. Lúc
ấy, tôi đang ở chùa Thập Phổ đường Nam Xương tại Ðài Bắc.
Khéo sao, có một vị pháp sư tên là Tánh Quán bị ung thư gan đến thời
kỳ thứ ba, phải đưa vào bệnh viện. Ít lâu sau, bác sĩ bảo không còn cách nào
chữa được, đưa sang thiền đường chùa Lâm Tế chờ chết. Mấy ngày sau, sư
thượng thổ hạ tả3, ói ra toàn là máu, được ít lâu thì chết. Khi đó, tôi mới chỉ
20 tuổi, thân thể hư nhược đến cùng cực, thân như cây khô, tinh thần yếu
đuối. Người trong chùa thấy tình cảnh ấy, không ít người bảo tôi: “Tôi xem
thầy chẳng mấy chốc cũng giống như pháp sư Tánh Quán, nhất định phải
chết thôi!” Hoặc bảo: “Tôi xem thầy chẳng sống được bao lâu nữa!” Lúc ấy
đúng là đạo cao một thước, ma cao một trượng. Vừa phát tâm dụng công thì
ma chướng càng nhiều. Nghe toàn những lời nói như vậy, vạn phần hoảng
sợ, chẳng sao diễn tả nổi.
Sau cùng bất đắc dĩ chẳng biết làm sao, suốt ngày chỉ nghe băng xướng
niệm thánh hiệu A Di Ðà Phật của pháp sư Sám Vân mà niệm theo, nhất tâm
đợi Phật tiếp dẫn vãng sanh. Suốt một năm như thế, chẳng những chưa vãng
sanh mà tình cờ sao, trong một lần đang niệm Phật, niệm đến mức tâm
không cảnh vắng, tâm tịnh Phật hiện, đích thân thể hội mùi vị “niệm mà vô
niệm, vô niệm mà niệm”.
Từ đó, thân thể của tôi ngày càng khang kiện, máy cassette tặng cho
người khác, đem hết thảy tiền bạc mình dành dụm hoặc đồ cúng dường của
tín đồ, mỗi mỗi đều dùng làm phương tiện khuyên người khác niệm Phật,
phỏng theo cách của Liên Tông Tứ Tổ Pháp Chiếu Ðại Sư và Ngũ Tổ Thiếu
Khang Ðại Sư, xin tiền đem cho trẻ, dụ chúng niệm Phật, hoặc mua tự điển,
bút chì tặng cho trường tiểu học, hoặc mua bút máy, sổ nhật ký tặng cho học
trò bậc cao trung trở lên. Trước hết, dạy chúng lễ Phật, niệm Phật, rồi mới
tặng cho chúng thứ này, thứ nọ. Trong vòng khoảng một cây số, không có
trẻ nhỏ nào chưa từng nhận lãnh sự giáo hóa, bố thí của tôi. Ai nấy thấy tôi
đều kêu lên: “Tiểu sư phụ! A Di Ðà Phật!” Sau hơn một năm như thế, lớn
nhỏ đều biết niệm Phật.
Một hôm, tôi nhận được công văn kêu đi nhập ngũ4 , ngày trình diện là
mồng Một tháng Năm năm Dân Quốc sáu mươi ba (1974), trong lòng thầm
nghĩ: “Lần này đi quân dịch, chuyện sanh tử khó lòng đảm bảo, vạn nhất
chết trận thì biết làm sao, chẳng bằng lúc còn sống phải dự bị ổn thỏa mới
nên!” Nhân đó, bèn đem bộ Tịnh Ðộ Tùng Thư 20 quyển mới mua chưa lâu
(lúc ấy, còn đang trong thời kỳ ấn hành, chưa in xong toàn bộ) tặng cho
Truyền Ðạo học trưởng, đem các tự điển Từ Hải và Khang Hy tặng cho pháp
sư Minh Quảng. Cố lão sư có tặng cho tôi một bản Thánh Giáo Tự của
Vương Hy Chi, mang từ Ðại Lục qua, thật là của báu vô giá, tôi cũng tặng
luôn cho bạn đồng học là Ngộ Khiết. Áo hải thanh và y ca sa tặng luôn cho
bạn đồng học là Ngộ Quán. Còn thì đồ đạc trong ngoài, dù lớn hay nhỏ đều
tặng hết cho đại chúng, chỉ còn mỗi một cái túi da xấu xí là chưa tặng ai cả.
Lòng nghĩ nếu như trong quân đội, vạn nhất mình may mắn bỏ xác cũng là
nguyện vọng của mình đã thành đạt. Vì sao vậy? Vì tôi đã sớm chuẩn bị,
nhớ kinh Ðịa Tạng có dạy: “Hết thảy công đức đã làm khi còn sống, đều thọ
được hết cả. Nhưng chết đi, làm hết thảy công đức thì bảy phần chỉ được
hưởng một phần”. Cho nên những điều mình có thể làm được trong khả
năng của mình thì đều làm hết.
Vì thế, một hai ngày trước khi nhập ngũ, tôi đem số tiền tín đồ cúng
dường là bảy ngàn đồng, chia thành ba phần: Một phần là năm ngàn đồng
tặng cho công trình xây dựng Tịnh Giác Dục Ấu Viện (viện nuôi trẻ Tịnh
Giác). Một phần là sáu trăm đồng cúng dường cho huynh đệ đồng tu. Còn tự
mình chỉ mang 1.400 đồng đi nhập ngũ mà thôi.
Sau đấy, suốt ba tháng tại trung tâm huấn luyện, chịu cam khổ như mọi
người. Có tháng, tiền chỉ còn ba trăm năm mươi đồng, lại cần phải mua thức
ăn chay. Lúc ấy mới hay tiền chẳng đủ dùng, tiền là trọng yếu. Xong hai
năm quân dịch, chẳng những không chết, thân thể còn càng thêm cường
tráng, khang kiện. Thế mới biết công đức Niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn, quả
báo cũng chẳng thể nghĩ bàn. Hiện tại tôi đã giải ngũ hơn năm năm rồi, phải
làm lại hết thảy từ đầu. Muốn mua kinh sách gì, hoặc là thành lập đạo tràng
và những thứ cần dùng hằng ngày đều hoàn toàn cậy vào sự nỗ lực của chính
mình. Do đó, đến nay đã ba mươi tuổi đầu rồi mới bắt đầu xây dựng đạo
tràng, ngoài việc giảng kinh, thuyết pháp, chẳng quên đề xướng ấn loát bộ
Ấn Quang Ðại Sư Gia Ngôn Lục. Ðấy là nhân duyên thứ hai.
Thứ ba chính là để kết duyên lành. Kinh dạy: “Lúc chưa thành Phật nên
rộng kết nhân duyên”. Kinh còn dạy: “Phật đạo kiến lập trên thân chúng
sanh. Nếu không có chúng sanh nào để độ thì chư Phật chẳng thể thành
Chánh Giác”. Bởi thế, sau khi giải ngũ, tôi liền đối trước Phật phát nguyện:
“Phàm là ai có lòng muốn học Phật pháp thì nghĩa vụ của con là phải dạy dỗ
họ cho đến khi họ học hiểu mới thôi!”
Tiếp đó, duyên khởi in cuốn Gia Ngôn Lục là do cư sĩ Kim Bích Hoa và
cư sĩ Ngô Cẩm Hoàng giới thiệu nên tôi được quen biết cư sĩ Khưu Bính
Lân và vợ là cư sĩ Khưu Ngô Sắc. Họ nói trước đây đã từng học hiểu cuốn
Tứ Kinh Hợp Ðính Bổn, hiện tại muốn học Tam Muội Thủy Sám, xin tôi
phát tâm giảng dạy cho họ. Tôi liền đáp: “Ðược”. Lúc đó Ngô cư sĩ và tín đồ
của họ đang có mặt đều phát tâm muốn học, muốn đến chùa tôi, xin tôi mỗi
một tuần chọn một ngày nhất định đến chỗ họ giảng dạy. Tôi nói: “Trước
mắt, Phật Quang Viện chưa lạc thành, dự định ngày 19 tháng Sáu năm nay,
đúng ngày thành đạo của Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ làm lễ khai quang thánh
tượng (khéo sao, ngày ấy lại đúng vào Chủ Nhật). Hiện tại trong Phật Tổ
Hội đang tích cực quyên góp. Hội này do hai vị cư sĩ Kim Bích Hoa và Ngô
Bảo Ngọc cùng phát khởi. Một hội chọn ra tên hai người, lần lượt chia phiên
nhau xuất ra năm trăm đồng trong một tháng nào đó, định hạn là hai mươi
tháng, cho đủ một vạn đồng. Trong ấy có người thanh toán trong một lần, có
người chia ra hai lần đóng góp tùy sức mỗi người (mục đích là đại chúng
hóa, phổ biến hóa, để người hữu duyên có cơ hội tham dự công đức đúc kim
thân Phật)”.
Khưu cư sĩ nghe xong liền phát nguyện đúc tượng Tây Phương Tam
Thánh, ngoài ra thì tham gia một hội hoặc hai hội khác nhau. Kinh nói: “Lục
độ vạn hạnh, bố thí làm đầu, trong các nhiệm vụ cấp bách của việc phát tâm
thì hỷ xả là bậc nhất”. Chúa trời Ðao Lợi xưa làm cư sĩ, trông thấy tượng
Phật bị hư nát không chịu nổi, bèn phát tâm rủ rê bè bạn ba mươi hai người,
tạo kim thân Phật. Do nhân duyên ấy, sau khi mạng chung, sanh làm Ðế
Thích Thiên Chúa, tục gọi là Ngọc Hoàng Ðại Ðế. Ba mươi hai người kia
mỗi người làm chúa một cõi trời, thống trị nhân dân trong nước mình, phước
đức, trí huệ vô lượng, được người đời lễ bái.
Bởi vậy, kính mong chư vị đại đức đều sanh lòng hoan hỷ hớn hở, phát
lòng tùy hỷ, xuất tiền, xuất lực, tam luân không tịch5 , vô trụ sanh tâm, công
đức vô lượng. Hiện tại muốn ấn loát hơn một ngàn cuốn Gia Ngôn Lục,
riêng Khưu cư sĩ đã phát tâm xin in một ngàn cuốn. Ðem công đức này hồi
hướng pháp giới chúng sanh cùng sanh Tịnh Ðộ. Ðấy là nhân duyên thứ ba.
Ba điều duyên khởi vừa lược thuật trên đây đều nói đúng theo sự thực,
chứ chẳng phải là lời thêu dệt, cốt để bày tỏ những điều ấp ủ trong lòng tôi,
nhằm nói lên nguyện lực Phật Di Ðà rộng sâu, công đức niệm Phật thù
thắng, đọc Văn Sao lợi ích vô tận. Chỉ nguyện bậc trưởng bối xem đến, phát
lòng từ bi chỉ dạy, người ngang hàng nghe đến, sanh ý niệm tham khảo, tùy
hỷ. Kẻ vãn bối biết đến sẽ sanh lòng hỗ trợ, tăng trưởng pháp. Từ một truyền
mười, mười truyền trăm, trăm truyền ngàn, ngàn truyền vạn, cha mẹ dạy bảo
con cái, thầy dạy trò, quan trên dạy bảo cấp dưới, từ gần lan ra xa, phổ độ
hữu tình, chỉ mong mình lẫn người cùng dự trong Liên Trì Hải Hội, chúng u
minh cùng nhập Di Ðà Nguyện Hải, đều thành Chánh Giác, cùng hóa độ
chúng sanh.
Con chỉ mong mười phương Tam Bảo, hộ pháp long thiên cùng xét soi
tấm lòng thành khẩn của con đỏ, cùng rủ lòng từ mẫn gia bị. Phổ nguyện
thập phương thiện tín, chư vị đại đức, đều sanh tâm từ bi hỷ xả, cùng khởi ý
niệm ủng hộ Tam Bảo. Chỉ mong những ai thấy nghe đều phát Bồ Ðề tâm,
hết một báo thân này, cùng sanh về Cực Lạc. Nếu được như thế thì pháp
môn may mắn lắm, chúng sanh may mắn lắm!

Trung Hoa Dân Quốc năm thứ 71 (1982), tháng Giêng âm lịch, tiết Nguyên
Tiêu, Bản Kiều Thường Tàm Quý Tăng Thích Ngộ Tông kính soạn

---o0o---

ẤN QUANG PHÁP SƯ GIA NGÔN LỤC,

Phần 1

I. TỊNH ĐỘ THÙ THẮNG

* Lớn lao thay! Ðiều được pháp môn Tịnh Ðộ chỉ dạy là “tâm này làm
Phật, tâm này là Phật”, chỉ thẳng tâm người. Nếu vẫn cho là kém kỳ lạ, đặc
biệt thì mỗi niệm niệm Phật chính là thành Phật ngay trong niệm ấy. Ðộ
khắp ba căn, thống nhiếp Thiền, Luật, Giáo. Như mưa đúng thời nhuần thấm
vạn vật; giống như biển cả dung nạp trăm sông.
Hết thảy pháp Thiên, Viên, Ðốn, Tiệm, không pháp nào chẳng phát xuất
từ pháp giới này. Hết thảy hạnh Ðại, Tiểu, Quyền, Thiệt, không hạnh nào
chẳng quy về nơi pháp giới này. Chẳng đoạn Hoặc nghiệp, liền được dự vào
hàng Bổ Xứ, viên mãn Bồ Ðề ngay trong một đời này. Chúng sanh trong
cửu giới lìa môn này thì trên là chẳng thể viên thành Phật đạo. Mười phương
chư Phật bỏ pháp môn này thì dưới là chẳng thể lợi khắp quần manh. Bởi đó,
trọn Hoa Nghiêm hải chúng cùng tuân theo mười đại nguyện vương; Pháp
Hoa vừa xưng một tiếng liền chứng Thật Tướng các pháp.
[Tịnh Ðộ là] hạnh phương tiện tối thắng nên trong luận Khởi Tín, ngài
Mã Minh bảo là dễ hành mau đến; ngài Long Thọ xiển dương pháp này
trong luận Tỳ Bà Sa. Hậu thân của đức Thích Ca là ngài Trí Giả nói ra Thập
Nghi Luận chuyên chí Tây Phương. Sư Vĩnh Minh là Phật Di Ðà thị hiện,
soạn Tứ Liệu Giản, chung thân niệm Phật dẫn tam thừa ngũ tánh cùng chứng
Chân Thường, đưa thượng thánh hạ phàm cùng lên bờ kia.
Vì thế pháp môn này cả cửu giới cùng hướng về, mười phương cùng
khen ngợi. Ngàn kinh cùng xiển dương, vạn luận đều tuyên thuyết. Thật có
thể nói là pháp cực đàm của một đời giáo hóa [của Ðức Phật], là đại giáo
Nhất Thừa vô thượng. Chẳng trồng cội đức thì trải bao kiếp khó gặp được.
Ðã được thấy nghe phải siêng tu tập.

* Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm
Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo
- Lý - Hạnh - Quả) đều đủ. Còn đời này nếu bỏ Tịnh Ðộ thì hoàn toàn chẳng
chứng được đạo quả. Ấy là vì cách biệt thánh đã xa, căn tánh con người hèn
kém, nếu chẳng cậy vào Phật lực, quyết khó được giải thoát.
Như đã nói: “Pháp môn Tịnh Ðộ nhiếp khắp căn cơ thượng, trung, hạ;
cao trỗi hơn Luật, Giáo, Thiền Tông, thực là lòng từ bi triệt để của chư
Phật, chỉ bày thể tánh sẵn có của chúng sanh, dẫn tam thừa ngũ tánh đồng
quy cõi tịnh, đưa thượng thánh hạ phàm cùng chứng Chân Thường. Cửu
giới chúng sanh lìa pháp này thì trên chẳng thể viên thành Phật đạo. Mười
phương chư Phật bỏ pháp môn này thì dưới chẳng thể lợi khắp quần manh”.
Thế nên, vãng thánh tiền hiền (thánh hiền đời trước) ai nấy đều hướng
về. Ngàn kinh vạn luận đâu đâu cũng chỉ quy. Từ sau hội Hoa Nghiêm dẫn
khởi quy hướng, các đại Bồ Tát tận khắp mười phương thế giới không vị nào
chẳng cầu sanh Tịnh Ðộ; kể từ khi diễn thuyết tại Kỳ Viên đến nay, cuối hết
thảy các trước thuật của Tây Thiên, Ðông Ðộ đều quy kết Liên Bang.
* Cổ nhân nói: “Thân người khó được, trung quốc 6 khó sanh, Phật pháp
khó nghe, sanh tử khó xong”. Chúng ta may mắn được thân người, sanh ở
trung quốc, được nghe Phật pháp. Ðiều bất hạnh là tự thẹn nghiệp chướng
sâu nặng, không sức đoạn Hoặc để mau thoát khỏi Tam Giới, liễu sanh thoát
tử; nhưng lại may mắn được nghe đức Như Lai ta tâm bi triệt để nói ra pháp
môn Tịnh Ðộ là pháp đại quyền xảo, phương tiện lạ lùng, khiến hàng phàm
phu lè tè sát đất được đới nghiệp vãng sanh, thật không còn gì may mắn hơn
nữa! Nếu chẳng phải là từ vô lượng kiếp đến nay đã trồng thiện căn sâu dày,
làm sao nghe được pháp chẳng thể nghĩ bàn này? Chẳng nên gấp sanh lòng
tin chân thành, phát nguyện cầu sanh ư?

* Trộm nghe Tịnh Ðộ chính là pháp tỏ bày rốt ráo bổn hoài của Phật, cao
vượt hết thảy Thiền - Giáo - Luật, thống nhiếp hết thảy Thiền - Giáo - Luật.
Nói gọn thì một lời, một câu, một kệ, một sách đều có thể gồm trọn không
còn sót. Nói rộng ra, dù huyền ngôn của Tam Tạng mười hai bộ kinh, diệu
nghĩa của chư Tổ năm tông cũng chẳng thể diễn giảng trọn [pháp môn Tịnh
Ðộ này].
Giả sử khắp cả đại địa chúng sanh đều thành Chánh Giác, hiện tướng
lưỡi rộng dài, dùng sức thần thông, sức trí huệ, vi trần nói, cõi nước nói, nói
hăm hở, nói không gián đoạn, vẫn còn chưa thể tận nổi! Bởi lẽ Tịnh Ðộ vốn
là chẳng thể nghĩ bàn.
Hãy thử nghĩ xem: Hoa Nghiêm đại kinh là vua trong Tam Tạng, trong
phẩm cuối cùng quy trọng nơi nguyện vương. Áo điển Pháp Hoa mầu nhiệm
đứng đầu các kinh, nghe kinh liền vãng sanh, địa vị ngang với Ðẳng Giác.
Vậy thì ngàn kinh muôn luận đâu đâu đều chỉ quy Tịnh Ðộ là có nguyên do
vậy.
Văn Thù phát nguyện, Phổ Hiền khuyến khích. Trong hội Ðại Tập, đức
Như Lai thọ ký rằng: Trong đời Mạt Pháp, không do pháp này chẳng thể đắc
độ. Trong luận Tỳ Bà Sa, ngài Long Thọ phán định là pháp dễ hành, mau
thoát sanh tử. Thế nên, vãng thánh tiền hiền người người hướng đến, nào
phải phí công toi! Thật có thể nói là cả một đời giáo hóa đều chỉ là để đặt cơ
sở cho pháp môn Niệm Phật!
Chẳng phải chỉ có thế! Phàm hết thảy cảnh giới đối ứng sáu căn, tức là:
núi, sông, đại địa, sáng, tối, sắc, không, thấy, nghe, hay, biết, thanh, hương,
vị v.v... không gì chẳng phải là văn tự để phô diễn, xiển dương Tịnh Ðộ đó
sao? Lạnh - nóng đắp đổi, già - bệnh chen nhau, lụt, hạn, chiến tranh, tật
dịch, bạn ma, tà kiến, không gì chẳng phải là để răn nhắc cảnh tỉnh con
người mau cầu sanh Tịnh Ðộ đó ư? Nói rộng ra, há có thể trọn hết được sao?
Còn như bảo “một lời đã gộp hết cả” thì lời đó là “Tịnh”. Tịnh đến cùng
cực thì sáng tỏ, thông suốt. Nếu chưa đạt Diệu Giác, há dễ đảm đương nổi
một lời này ư? Nghiên cứu bài tụng Lục Tức Thành Phật7 thì sẽ biết.
“Một câu” là “Tín, Nguyện, Hạnh”. Với Tín - Nguyện - Hạnh thì không
Tín chẳng đủ để khởi Nguyện. Không Nguyện thì chẳng đủ để dẫn dắt Hạnh.
Không có diệu hạnh Trì Danh thì chẳng đủ để viên mãn điều mình Nguyện,
chứng điều mình tin. Hết thảy kinh luận Tịnh Ðộ đều phát minh ý chỉ này.
“Một kệ” là kệ tán Phật8: Nêu chánh báo để gồm thâu y báo, thuật Hóa
Chủ để bao gồm đồ chúng; tuy chỉ gồm tám câu nhưng đã nêu trọn đại
cương của cả ba kinh Tịnh Ðộ.
Một cuốn sách là cuốn Tịnh Ðộ Thập Yếu. Chữ chữ đều là bến cầu9 cho
đời Mạt Pháp. Lời lời đều là gương báu của Liên Tông. Buốt lòng trào lệ,
phanh tim vẩy máu, xứng tánh phát huy, chỉ bày cốt tủy. Dù dùng những thí
dụ như cứu người chết đuối, cứu người bị lửa cháy vẫn chẳng thể diễn tả
lòng thống thiết [của chư Tổ] được. Bỏ qua [sách này] thì chánh tín không
do đâu mà sanh được, tà kiến không do đâu mà diệt được!

* Nên biết rằng chúng ta từ vô thỉ đến nay đã tạo ác nghiệp vô lượng, vô
biên. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Giả sử ác nghiệp có thể tướng thì mười
phương hư không chẳng thể chứa đựng nổi”. Lẽ đâu tu trì lơ mơ, hời hợt, lại
tiêu nổi được nghiệp ư? Bởi vậy, Thích Ca, Di Ðà, giáo chủ hai cõi, đau đáu
nghĩ đến chúng sanh không sức đoạn Hoặc, riêng mở ra một pháp môn
nương vào từ lực của Phật để đới nghiệp vãng sanh. Lòng hoằng từ đại bi ấy
dù trời đất, cha mẹ cũng chẳng thể bằng được một phần Hằng hà sa. Chỉ nên
phát lòng thẹn hổ, phát tâm sám hối mới tự có thể được Phật gia bị, nghiệp
tiêu, thân an thôi!

* Hòa Thượng Thiện Ðạo nói: “Nếu muốn học về Giải thì hết thảy các
pháp từ địa vị phàm phu cho đến địa vị Phật, không pháp nào chẳng nên
học. Nếu muốn học về Hạnh, nên chọn lấy một pháp khế lý, khế cơ, chuyên
tinh tận sức mới mau chứng được lợi ích chân thật. Nếu không thì từ kiếp
này qua kiếp nọ vẫn khó xuất ly!” Pháp khế lý, khế cơ Ngài nói đó không gì
hơn là Tín Nguyện Trì Danh Cầu Sanh Tây Phương!

* Kinh A Di Ðà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ gọi là
“Tịnh Ðộ Tam Kinh”, chuyên luận về sự lý duyên khởi của Tịnh Ðộ. Các
kinh Ðại Thừa khác đều nói kèm về Tịnh Ðộ. Nhưng kinh Hoa Nghiêm
chính là khi đức Như Lai mới thành Chánh Giác, vì bốn mươi mốt địa vị
Pháp Thân Ðại Sĩ mà xứng tánh giảng thẳng diệu pháp Nhất Thừa. Cuối
kinh, Thiện Tài đi tham học khắp các thiện tri thức. Sau khi chứng ngộ như
chư Phật, Thiện Tài đồng tử được Phổ Hiền Bồ Tát giảng cho nghe mười đại
nguyện vương. Ngài dạy Thiện Tài và khắp Hoa Nghiêm hải chúng hồi
hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới ngõ hầu được viên mãn Phật
Quả.
Trong Quán kinh, phần nói về hạ phẩm hạ sanh, kẻ ngũ nghịch -thập ác
đủ các điều bất thiện, lúc lâm chung tướng địa ngục hiện, có thiện tri thức
dạy cho niệm Phật. Kẻ ấy liền vâng lời dạy, xưng niệm Phật danh, chưa đầy
mười tiếng liền thấy Hóa Thân Phật đưa tay tiếp dẫn vãng sanh.
Kinh Ðại Tập dạy: “Ðời Mạt Pháp ức ức người tu hành, hiếm có một
người đắc đạo. Chỉ có nương vào Niệm Phật mới thoát khỏi sanh tử”. Do
đấy, ta biết rằng pháp niệm Phật là đạo để thượng thánh hạ phàm cùng tu, là
pháp dù trí hay ngu đều hành được. Hạ thủ dễ, thành công cao, dùng sức ít
nhưng được hiệu quả nhanh. Do chuyên cậy vào Phật lực nên lợi ích thù
thắng, vượt trội những giáo pháp thông thường. Người xưa nói: “Các môn
khác học đạo như kiến bò lên núi cao. Niệm Phật vãng sanh như căng buồm
thuận gió, nước xuôi”, thật rất khéo hình dung vậy!

* Ðại Giác Thế Tôn thương các chúng sanh mê trái tự tâm, luân hồi lục
đạo, trải bao kiếp dài lâu chưa thể thoát ra. Do vậy, Ngài hưng khởi Vô
Duyên Từ, vận lòng bi đồng thể, thị hiện sanh trong thế gian, thành Ðẳng
Chánh Giác, tùy thuận cơ nghi nói rộng các pháp. Nói đại cương, gồm có
năm tông. Năm tông gì? Là Luật, là Giáo, là Thiền, là Mật, là Tịnh.
Luật là thân Phật, Giáo là lời Phật, Thiền là tâm Phật. Sở dĩ Phật được
gọi là Phật chỉ là do ba pháp này mà thôi. Sở dĩ đức Phật độ sanh cũng chỉ là
do ba pháp này. Nếu chúng sanh thật sự có thể nương theo Luật, Giáo, Thiền
tu trì thì ba nghiệp của chúng sanh sẽ chuyển thành ba nghiệp của chư Phật.
Ba nghiệp đã chuyển thì phiền não chính là Bồ Ðề, sanh tử chính là Niết
Bàn.
Lại sợ túc nghiệp sâu nặng chẳng thể dễ chuyển nên dùng sức đà-ra-ni
tam mật gia trì để un đúc. Hoặc lại sợ rằng căn khí kém cỏi, chưa được giải
thoát, phải thọ sanh lần nữa sẽ khó tránh khỏi mê lầm; vì thế đặc biệt mở ra
một môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ, ngõ hầu dù thánh hay
phàm đều cùng vãng sanh Tây Phương ngay trong đời này. Bậc thánh thì
mau chứng Vô Thượng Bồ Ðề, kẻ phàm thì vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử trói
buộc. Do dựa vào từ lực của Phật nên công đức, lợi ích chẳng thể nghĩ bàn.
Nên biết rằng: Luật là nền tảng của Giáo, Thiền, Tịnh, Mật. Nếu chẳng
nghiêm trì giới cấm sẽ chẳng thể đạt được lợi ích chân thật nơi Giáo, Thiền,
Tịnh, Mật. Như lầu cao vạn trượng, nếu nền móng chẳng vững thì chưa cất
xong đã sụp. Tịnh là chỗ quy túc của Giáo, Thiền, Tịnh, Mật, như trăm sông,
vạn dòng đều đổ vào biển cả.
Bởi lẽ, pháp môn Tịnh Ðộ là pháp môn để mười phương chư Phật trên
thành Phật đạo, dưới độ chúng sanh, thành thỉ, thành chung. Vì thế trong
phẩm Nhập Pháp Giới kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài được ngài Phổ Hiền gia
bị, khai thị, chứng được Ðẳng Giác. Ðức Phổ Hiền lại khuyên Thiện Tài nên
phát mười đại nguyện vương, hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới ngõ hầu mau viên mãn Phật Quả. Ngài lại dùng pháp này phổ khuyến
toàn bộ Hoa Tạng đại chúng [nên tu tập như thế].
Trong Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, phần nói về Hạ Phẩm Hạ Sanh,
hạng người ngũ nghịch thập ác, sắp đọa địa ngục A Tỳ, được thiện tri thức
dạy cho niệm Phật, niệm mười tiếng hoặc chỉ niệm mấy tiếng là mạng
chung, cũng vẫn được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương.
Xem đó thì trên từ bậc Ðẳng Giác Bồ Tát chẳng thể ra khỏi pháp này,
dưới đến kẻ tội ngũ nghịch, thập ác cũng có thể chứng nhập pháp này. Công
đức, lợi ích của pháp môn đây vượt trỗi hơn [các giáo pháp khác trong] cả
một đời giáo hóa của Ðức Phật. Bởi lẽ, các giáo pháp khác toàn dạy dùng tự
lực để thoát ly sanh tử. Kẻ chưa đoạn Hoặc, nương vào từ lực của Phật liền
có thể đới nghiệp vãng sanh. Kẻ đã đoạn Hoặc nếu nương theo từ lực của
Phật sẽ chóng chứng được phẩm vị cao.
Vì thế, đây là một pháp môn đặc biệt nhất trong cả một đời giáo hóa của
Ðức Phật, chẳng thể dùng những giáo pháp thông thường để bàn luận pháp
này được! Do đó, các kinh Ðại Thừa như kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa v.v...,
các đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền...; các đại tổ sư như Long Thọ, Mã
Minh... đều hiển thị, xiển dương, khen ngợi, chỉ dạy, phổ khuyến vãng sanh.

* Ðức Di Ðà, đức Thích Ca trong những kiếp xưa, phát đại thệ nguyện
độ thoát chúng sanh. Vị này thì thị hiện sanh trong uế độ, dùng nhơ, dùng
khổ chiết phục, hòng đưa chúng sanh đi. Vị kia thì an cư Tịnh Ðộ, dùng tịnh,
dùng vui nhiếp thọ để lôi kéo, uốn nắn.
Ông chỉ thấy ngu phu, ngu phụ cũng niệm Phật được bèn coi thường
Tịnh Ðộ; sao chẳng thấy trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm,
sau khi Thiện Tài đã chứng ngộ ngang với chư Phật thì Phổ Hiền Bồ Tát bèn
chỉ dạy phát khởi mười đại nguyện vương, hồi hướng vãng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới hòng viên mãn Phật Quả? Huống hồ Bồ Tát còn
đem pháp này khuyên khắp cả Hoa Tạng hải chúng nữa? Hoa Tạng Hải
Chúng không một ai là phàm phu, nhị thừa, toàn là Pháp Thân Ðại Sĩ thuộc
bốn mươi mốt địa vị, cùng phá vô minh, cùng chứng pháp tánh, đều có thể
do bổn nguyện hiện làm Phật trong thế giới không có Phật.
Hơn nữa, trong biển Hoa Tạng, tịnh độ vô lượng, nhưng ai nấy đều hồi
hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đủ biết là vãng sanh Cực
Lạc chính là huyền môn để thoát khổ, là đường tắt để thành Phật. Vì thế, từ
xưa tới nay, trong tất cả tùng lâm Thiền, Giáo, Luật, không đâu chẳng sớm
chiều trì danh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương vậy.

* Hết thảy chúng sanh vốn sẵn có trí huệ, đức tướng Như Lai. Chỉ do mê
chân theo vọng, quay lưng với Giác, xuôi theo trần lao, nên toàn thể chuyển
thành phiền não, ác nghiệp. Vì thế phải trải bao kiếp dài lâu, luân hồi sanh
tử. Như Lai thương xót giảng ra các pháp khiến họ bỏ vọng quy chân,
ngoảnh mặt với trần lao, xuôi theo giác ngộ, khiến cho toàn thể phiền não ác
nghiệp lại trở thành trí huệ, đức tướng. Từ đây cho đến cùng tột đời vị lai, an
trụ trong cõi Thường Tịch Quang. Khác nào nước đóng thành băng, băng lại
tan thành nước, thể vốn chẳng khác, nhưng công dụng thực khác nhau một
trời một vực.
Nhưng căn cơ chúng sanh có Tiểu, có Ðại, mê có cạn, có sâu; Phật tùy
thuận cơ nghi của mỗi người khiến ai nấy đều được lợi ích. Pháp môn Ngài
nói ra mênh mông như Hằng sa, nhưng cầu lấy pháp chí viên, chí đốn, tối
diệu, tối huyền, hạ thủ dễ, thành công cao, dùng sức ít được hiệu quả nhanh,
độ khắp ba căn, thống nhiếp các pháp, thượng thánh hạ phàm cùng chung tu,
đại cơ cùng tiểu căn cùng lãnh thọ được thì không gì thù thắng, siêu tuyệt
bằng pháp môn Tịnh Ðộ. Vì sao nói thế?
Hết thảy pháp môn tuy đốn - tiệm khác nhau, quyền - thật đều khác,
nhưng đều phải dụng công tu tập sâu xa mới hòng đoạn Hoặc, chứng chân,
xuất ly sanh tử, siêu phàm nhập thánh. Ðó gọi là cậy vào tự lực, không
nương dựa vào điều gì khác cả. Nếu như còn chút Hoặc chưa tận thì vẫn bị
luân hồi như cũ. Ðấy đều là các pháp phải thấu đạt lý rất sâu, chẳng dễ tu
tập. Nếu chẳng phải hạng sẵn có linh căn từ trước, đời này thật khó lòng
chứng nhập.
Chỉ có mình pháp môn Tịnh Ðộ, chẳng luận là phú quý hay bần tiện, già,
trẻ, gái, trai, trí, ngu, tăng, tục, sĩ, nông, công, thương, hết thảy hạng người
đều tu tập được là do đại bi nguyện lực của đức A Di Ðà Phật nhiếp thủ
chúng sanh khổ não cõi Sa Bà. Vì thế, so với các pháp môn khác, tu Tịnh Ðộ
đắc quả dễ dàng hơn.

* Một niệm tâm tánh của chúng sanh và một niệm tâm tánh của Phật
chẳng hai. Tuy còn mê chưa giác, khởi Hoặc tạo nghiệp, gây đủ các tội, Phật
tánh sẵn có vẫn không bị tổn thất. Ví như ma-ni bảo châu vứt nhà xí, sánh
cùng phẩn uế trọn chẳng khác gì. Kẻ ngu chẳng biết là báu, coi hệt như phẩn
uế. Người trí biết là diệu bảo vô giá, chẳng hiềm ô uế, vào trong nhà xí nhặt
lên, dùng đủ mọi cách gột rửa cho sạch. Sau đó, treo lên tràng cao, liền
phóng đại quang minh, tùy lòng người muốn gì đều tuôn khắp các thứ báu.
Bởi đó kẻ ngu mới biết là quý báu.
Ðại Giác Thế Tôn thấy các chúng sanh cũng giống như vậy: do hôn mê,
đảo, Hoặc, gây đủ ngũ nghịch, thập ác, vĩnh viễn đọa trong đường ác tam
đồ; Phật không hề có tâm niệm vứt bỏ, luôn tìm kiếm cơ duyên, hiển nhiên
hoặc ngầm gia bị cho, vì họ thuyết pháp, mong họ giũ sạch Hoặc nghiệp
huyễn vọng, ngộ Phật tánh chân thường, mãi cho đến khi viên chứng Vô
Thượng Bồ Ðề mới thôi. Ðối với kẻ tội tày đình, ác cùng cực cũng vẫn như
vậy. Với kẻ tội nghiệp ít, dạy cho tu Giới và Thiện. Với người có sức thiền
định sâu, không một ai là chẳng [được Phật hóa độ] như vậy.
Phàm là trong tam giới, người nhiếp được tâm, chế ngự được các phiền
hoặc, nhưng còn chấp thân, tình chủng vẫn còn; một khi phước báo hết, sanh
xuống cõi dưới, gặp cảnh, đụng duyên, lại khởi Hoặc tạo nghiệp. Do nghiệp
cảm khổ, luân hồi lục đạo không lúc nào xong. Vì thế kinh Pháp Hoa
bảo: “Ba cõi không an giống như nhà cháy. Các khổ đầy dẫy, thật đáng sợ
hãi”. Nếu chẳng phải là kẻ nghiệp tận, tình không, đoạn Hoặc chứng chân
thì chẳng có hy vọng thoát khỏi tam giới.
Nay chỉ có mỗi pháp môn Tịnh Ðộ, cốt sao lòng tin chân thành, nguyện
thiết tha, trì danh hiệu Phật, liền có thể nương Phật từ lực vãng sanh Tây
Phương. Ðã được vãng sanh liền nhập Phật cảnh giới, thọ dụng như Phật,
phàm tình, thánh kiến thứ gì cũng chẳng sanh. Thật là ngàn phần ổn thỏa,
vạn phần thích đáng, là pháp môn vạn phần chẳng thể bỏ sót vậy. Nay đang
lúc Mạt Pháp, bỏ pháp môn này thì không còn có cách nào khác cả.

* Phật quang chính là trí huệ có sẵn ngay trong tâm của phàm, thánh,
chúng sanh và Phật trong mười pháp giới. Tâm ấy thể lộ quang minh chiếu
suốt, trạm tịch, thường hằng, bất sanh, bất diệt, vô thỉ, vô chung, theo chiều
dọc tột cùng ba đời nhưng ba đời bởi đó mà mất hết, theo chiều ngang trọn
khắp mười phương nhưng mười phương bởi đó tiêu sạch. Nếu bảo là Không
thì vạn đức cùng hiển bày trọn vẹn. Nếu bảo là Có thì một trần chẳng lập.
Chính là hết thảy pháp nhưng lìa hết thảy tướng. Tại phàm chẳng giảm, nơi
thánh chẳng tăng. Dù có ngũ nhãn cũng chẳng thấy được, có tứ biện tài cũng
chẳng diễn tả được; nhưng pháp nào cũng phải nương vào sức nó, chỗ nào
cũng gặp nó cả.
Nhưng do chúng sanh chưa triệt ngộ nên chẳng những không thọ dụng
được, trái lại còn dùng sức chẳng thể nghĩ bàn ấy để khởi Hoặc tạo nghiệp.
Do nghiệp cảm khổ đến nỗi sanh tử, luân hồi không lúc nào xong, dùng chân
tâm thường trụ để lãnh huyễn báo sanh diệt. Ví như đang say thấy nhà cửa
quay cuồng, nhà thật sự chẳng quay; mê bảo là phương vị di chuyển, phương
vị thật sự chẳng dời động! Toàn là do vọng nghiệp hóa hiện, trọn không có
pháp nào để được cả.
Vì thế, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn thị hiện thành Phật đạo, lúc Ngài
chứng ngộ triệt để Phật quang bèn than: “Lạ thay! Lạ thay! Hết thảy chúng
sanh đều có đủ Như Lai trí huệ, đức tướng, chỉ do vọng tưởng, chấp trước
nên chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa được vọng tưởng thì Nhất Thiết Trí, Tự
Nhiên Trí, Vô Ngại Trí sẽ được hiện tiền”.
Kinh Lăng Nghiêm chép: “Diệu tánh viên minh lìa các danh tướng, vốn
chẳng có thế giới, chúng sanh. Do vọng mà có sanh, do sanh nên có diệt.
Sanh diệt gọi là Vọng. Diệt vọng gọi là Chân. Ðấy gọi là Như Lai Vô
Thượng Bồ Ðề hay Ðại Niết Bàn, hai danh hiệu sử dụng lẫn nhau”.
Ngài Bàn Sơn nói: “Một mảnh trăng tâm lưỡi liềm, nuốt mất ánh sáng
muôn vật. Tâm chẳng chiếu cảnh, cảnh cũng chẳng còn. Tâm, cảnh cùng
mất, còn là vật gì?”
Ngài Quy Sơn nói: “Linh quang riêng chiếu, thoát khỏi căn - trần. Thể
lộ chân thường, chẳng phiền văn tự. Tâm tánh chẳng nhiễm, vốn tự viên
thành. Chỉ lìa vọng niệm tức Như Như Phật”.
Do đấy, biết rằng mọi ngôn giáo của Phật, Tổ, không lời nào chẳng phải
là nhằm chỉ bày tâm tánh sẵn có của chúng sanh, khiến họ bỏ mê quy ngộ,
phản bổn hoàn nguyên (trở về nguồn gốc) đó thôi! Nhưng chúng sanh căn cơ
có sâu cạn, mê có dày, mỏng, nếu chẳng nhọc nhằn dùng mọi thứ ngôn giáo
để khai thị, chỉ dẫn, dùng các thứ pháp môn để đối trị thì mỗi người nhờ đâu
mới nhìn xuyên được mây mê che lấp tánh không, thấy được vầng tâm
nguyệt?
Bởi thế, lúc Như Lai mới thành đạo, trước hết ngài diễn giảng Ðại Hoa
Nghiêm, luận thẳng vào đại pháp vượt ngoài cửu giới, chẳng xen lẫn với
pháp Quyền - Tiểu, hòng những hàng đại cơ túc căn thành thục đều chứng
Chân Thường, vượt lên bến Giác. Lại do độn căn chúng sanh chưa được
hưởng lợi ích, Phật liền khéo dẫn dụ dần dần, tùy cơ diễn thuyết: hoặc dùng
Ngũ Giới, Thập Thiện để nhiếp phục hai thừa nhân - thiên khiến họ gieo
nhân Phật đạo thù thắng; hoặc là dùng Tứ Ðế, Thập Nhị Nhân Duyên, Lục
Ðộ Vạn Hạnh nhiếp phục ba thừa Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát khiến họ
chứng được cận duyên của Phật đạo.
Bắt đầu từ thời A Hàm cho đến thời Bát Nhã, không kinh nào là chẳng
tuyên thuyết thuận theo căn tánh của chúng sanh, khiến họ lần lượt tiến dần
trên đường về nhà. Bổn hoài của Phật vẫn giữ kín chưa nói. Mãi đến thời
Pháp Hoa, Phật mới khai Quyền hiển Thật, khai Tích hiển Bổn10 , nhân -
thiên - quyền - tiểu đều là Nhất Thừa, khách làm thuê thật là con ông trưởng
giả! Ba căn đều được thọ ký, diễn bày trọn vẹn bổn hoài xuất thế, cùng hội
Hoa Nghiêm ban sơ, đầu cuối chiếu rọi lẫn nhau. Có thể nói là một đại sự
nhân duyên đem giao phó trọn vẹn, không còn giấu diếm chút gì.
Lại vì chúng sanh đời Mạt căn cơ hèn kém, thật chẳng ai có thể đoạn
Hoặc chứng chân. Vì thế, Phật đặc biệt mở ra một môn Tịnh Ðộ hòng
thượng, trung, hạ căn, dù phàm hay thánh cùng lìa khỏi Sa Bà, sanh về Cực
Lạc ngay trong đời này, chứng dần dần vô lượng quang - thọ. Lòng thâm từ
đại bi ấy thật là chí cực không còn gì hơn được nữa!

* Phật pháp rộng sâu như biển cả. Kẻ phàm phu sát đất nào lại có thể một
hơi hút sạch tận nguồn, cạn đáy được? Tuy nhiên, nếu có thể sanh tâm chánh
tín sẽ tự có thể tùy theo sức mình được hưởng lợi ích. Ví như Tu La, hương
tượng và các loài muỗi mòng uống nước biển cả; loài nào, loài nấy uống no
mới thôi. Ðức Như Lai xuất thế tùy thuận chúng sanh thuyết pháp khiến mỗi
loài được lợi ích cũng giống như thế. Chúng sanh đời mạt nghiệp chướng
sâu dày, thiện căn cạn mỏng, tâm trí hẹp kém, thọ mạng ngắn ngủi. Ðã thế,
tri thức ít ỏi, ma tà, ngoại đạo tung hoành. Tu các pháp môn khác muốn ngay
trong hiện đời đoạn Hoặc chứng chân, liễu sanh thoát tử thật là một việc hy
hữu cực khó.
Chỉ mỗi mình pháp Tịnh Ðộ chuyên cậy vào Phật lực. Thế nên chẳng cần
biết đến Ðoạn, Chứng, chỉ trọng Tín - Nguyện. Nếu có đủ tín - nguyện, dẫu
là hạng tội ác cực đại sắp đọa A Tỳ địa ngục vẫn có thể nương vào sức thập
niệm, mau chóng được Phật từ tiếp dẫn vãng sanh. Ôi! Như Lai đại từ phổ
độ chẳng bỏ sót một ai. Chỉ mình pháp này thật là tóm thâu trọn khắp.

* Pháp môn Niệm Phật nguyên lai ra sao? Do một niệm tâm tánh của
chúng ta giống như hư không thường hằng, bất biến. Tuy thường chẳng biến,
nhưng lại niệm niệm tùy duyên. Nếu chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên
theo cửu giới. Chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo. Chẳng
duyên theo nhân thiên, ắt sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên theo nhiễm - tịnh
sai khác thành ra quả báo sướng - khổ khác xa.
Dù bản thể trọn chẳng biến đổi, nhưng Tướng và Dụng dĩ nhiên khác biệt
một trời, một vực! Ví như hư không, mặt trời chiếu thì sáng, mây đùn thì tối.
Tuy bản thể của hư không chẳng vì mặt trời hay mây mà tăng, giảm, nhưng
tướng trạng hiện rõ hay ngăn che cố nhiên chẳng thể nói là cá mè một lứa.
Do nghĩa này, Như Lai dạy mọi chúng sanh duyên niệm nơi Phật.
Vì thế mới nói: “Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật thì hiện tại,
tương lai nhất định thấy Phật, cách Phật chẳng xa”.
Lại nói: “Chư Phật Như Lai là pháp giới thân vào trong tâm tưởng của
hết thảy chúng sanh. Vì thế, lúc tâm các ngươi tưởng Phật thì tâm ấy chính
là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp phụ. Tâm này làm Phật, tâm này là
Phật. Biển Chánh Biến Tri của chư Phật từ tâm tưởng sanh”.
Hễ duyên theo Phật giới thì tâm này làm Phật, tâm này là Phật. Nếu
duyên theo các giới chúng sanh thì tâm này làm chúng sanh, tâm này là
chúng sanh. Ðã hiểu vậy rồi mà vẫn chẳng niệm Phật, thật là chuyện chưa
từng có! Một pháp Niệm Phật lấy vạn đức hồng danh của Như Lai làm
duyên, mà vạn đức hồng danh ấy chính là Vô Thượng Giác Ðạo do đức Như
Lai đã chứng khi Ngài đắc quả. Do lấy Quả Ðịa Giác (sự giác ngộ khi đã
chứng quả) làm Nhân Ðịa Tâm (cái tâm dùng để tu nhân), cho nên Nhân
trùm biển Quả, Quả thấu tột nguồn Nhân. Như người nhiễm hương, thân có
mùi thơm; như tò vò nuôi nhện, lâu ngày hóa tò vò con11 . Thành Phật ngay
trong đời này, chuyển phàm thành thánh; công năng, lực dụng của pháp này
vượt xa hết thảy các pháp môn khác trong cả một đời giáo hóa của Ðức Phật.
Bởi lẽ, các pháp môn khác đều cậy vào Tự Lực, phải đoạn Hoặc chứng chân
mới hòng liễu sanh thoát tử.
Pháp môn Niệm Phật: Tự Lực và Phật Lực cả hai cùng đủ. Bởi thế,
người đã đoạn Hoặc Nghiệp sẽ mau chứng Pháp Thân. Người đầy dẫy Hoặc
Nghiệp thì đới nghiệp vãng sanh. Pháp này cực kỳ bình thường, dù là kẻ ngu
phu, ngu phụ cũng được hưởng lợi ích; nhưng lại cực kỳ huyền diệu, dẫu là
Ðẳng Giác Bồ Tát cũng chẳng thoát khỏi phạm vi của pháp này. Vì thế,
không một ai là chẳng tu được. Hạ thủ dễ, thành công cao. Dùng sức ít, hiệu
quả nhanh chóng. Thật là pháp môn đặc biệt trong cả một đời giáo hóa của
Như Lai. Vì thế, chẳng thể dùng những giáo lý thông thường để bình luận,
phán đoán được! Mạt Pháp chúng sanh phước mỏng, huệ cạn, chướng dày,
nghiệp sâu, chẳng tu pháp này, toan cậy Tự Lực để đoạn Hoặc chứng chân
hòng liễu sanh tử thật là vạn nan, vạn nan!

* Kể từ Ðại Giáo truyền sang Ðông (ý nói: Phật giáo truyền sang Trung
Hoa), Lô Sơn hưng khởi Liên Xã, một xướng trăm hòa, không đâu chẳng
thuận theo. Nhưng những vị có đại công làm rạng rỡ Tịnh tông thì đời Bắc
Ngụy có ngài Ðàm Loan. Ngài Ðàm Loan là bậc chẳng thể suy lường nổi.
Do có việc, ngài phải xuống Nam gặp Lương Vũ Ðế; sau trở về Bắc, Vũ Ðế
thường hướng về Bắc cúi lạy, nói: “Loan Pháp Sư là bậc nhục thân Bồ Tát!”.
Ðời Trần - Tùy có ngài Trí Giả. Ðời Ðường có ngài Ðạo Xước, noi theo
giáo pháp của ngài Ðàm Loan, chuyên tu Tịnh nghiệp, cả đời giảng ba kinh
Tịnh Ðộ hơn hai trăm lượt. Từ cửa ngài Ðạo Xước, có ngài Thiện Ðạo. Cho
đến các vị Thừa Viễn, Pháp Chiếu, Thiếu Khang, Ðại Hạnh thì liên phong đã
thổi khắp cả trung ngoại (trong và ngoài Trung Hoa). Do vậy, tri thức các
tông không ai là chẳng dùng đạo này để mật tu hoặc hiển hóa, tự lợi, lợi tha.
Với nhà Thiền, nếu chỉ đề cao hướng thượng thì một pháp chẳng lập,
Phật còn chẳng thèm bận tâm tới, huống là niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ?
Ðấy là Chân Ðế: một pháp đã mất thì hết thảy đều mất. Nói: “Thật Tế Lý
Ðịa chẳng nhận một mảy trần” là nói về Tánh thể. Nếu luận đích xác về mặt
tu trì thì lại chẳng bỏ một pháp nào, chẳng làm việc thì chẳng ăn, huống hồ
niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ! Ðấy là Tục Ðế: một pháp đã lập thì hết thảy
đều lập.
Nói: “Trong cửa Phật sự chẳng bỏ một pháp” là nói về Tánh sẵn đủ vậy.
Nếu toan bỏ Tục Ðế để luận Chân Ðế thì chẳng phải là Chân Ðế, khác nào
bỏ tứ đại, ngũ uẩn đi tìm tâm tánh. Thân đã chẳng còn, tâm gởi vào đâu?
Nếu dùng Tục Ðế để hiển Chân Ðế thì đích thực là Chân Ðế. Như ở nơi mắt
thì bảo là thấy, ở tai gọi là nghe; tức là dùng tứ đại, ngũ uẩn để hiển tâm
tánh.
Những điều vừa nói trên đây chính là ý chỉ lớn lao của việc chư Tổ ngầm
tu Tịnh Ðộ; nhưng các ngài chẳng giảng rộng, thuật rõ, nên nếu chẳng hiểu
sâu xa ý Tổ sẽ chẳng biết được. Cứ như quy chế kỳ đảo cho những vị Tăng
mắc bệnh và quy cách thiêu hóa, tống táng những vị đã mất do ngài Bách
Trượng xác lập, ta thấy đều quy về Tịnh Ðộ.
Có vị nói: “Tu hành dùng niệm Phật là ổn thỏa, thích đáng”. Ngài Chân
Hiệt Liễu bảo: “Pháp môn Tịnh Ðộ chính là để tiếp dẫn căn khí thượng
thượng, chỉ kiêm tiếp dẫn căn khí trung hạ”. Ngài còn bảo: “Trong cả tông
Tào Ðộng hết thảy đều ngầm tu.Do vì tu Tịnh Ðộ thấy Phật giản dị hơn
Tông môn rất nhiều”. Ngài cũng bảo: “Dù Phật hay Tổ, dù Giáo hay Thiền
đều tu Tịnh Ðộ, đồng quy một nguồn”. [Những lời ấy] đủ cho ta thấy được
đại khái [quan điểm của các thiền sư thời ấy].
Kịp đến ngài Vĩnh Minh đại sư, bản thân là Cổ Phật, do nguyện xuất thế
mới lưu lại ngôn giáo rõ ràng, soạn sách lưu truyền, hoằng dương. Ngài lại
sợ người học chẳng rõ đường nẻo, lẫn lộn lợi hại, nên cực lực xướng ra bài
kệ Tứ Liệu Giản, có thể nói là cương tông của cả Ðại Tạng. Ngài làm bậc
hướng đạo nơi đường rẽ, khiến cho người học chỉ trong tám mươi chữ đốn
ngộ yếu đạo xuất sanh tử, chứng Niết Bàn. Tấm lòng đau đáu cứu thế của
ngài thật là thiên cổ chưa từng có.
Sau đấy, các tông sư đều lưu lại ngôn giáo rõ ràng, chuyên khen ngợi
pháp này như các đại tổ sư: Trường Lô Trách, Thiên Y Hoài, Viên Chiếu
Bổn, Ðại Thông Bổn, Trung Phong Bổn, Thiên Như Tắc, Sở Thạch Kỳ,
Không Cốc Long v.v... tuy hoằng dương Thiền Tông, vẫn chú trọng khen
ngợi Tịnh Ðộ.
Ðến khi Liên Trì đại sư tham học với Tiếu Nham Ðại Ngộ xong, cân
nhắc mọi bề, đề xướng: “Nếu Tịnh nghiệp đã thành, Thiền Tông sẽ tự
chứng. Giống như tắm nơi biển cả là đã dùng nước của cả trăm sông. Thân
đã đến điện Hàm Nguyên, cần gì hỏi Trường An đâu nữa!” Sau đấy, các đại
tổ sư: Ngẫu Ích, Triệt Lưu, Tỉnh Am, Mộng Ðông v.v... không vị nào chẳng
xướng như vậy. Bởi lẽ, lập cách hóa độ theo thời, pháp phải phù hợp căn cơ.
Nếu không như thế, chúng sanh chẳng thể đắc độ!
Từ đấy về sau, Phật pháp suy dần, lại thêm quốc gia lắm biến cố, pháp
luân cơ hồ ngừng chuyển. Dù có bậc trí thức ra sức chống chọi, nhưng chẳng
đủ sức, đến nỗi chẳng ai hỏi đến đạo này. Nếu có ai bàn đến pháp này, người
nghe cứ như đang bị làm phiền. May còn có một hai vị Tăng, Tục đại tâm, in
khắc lưu truyền, khiến cho những lời giáo huấn của chư Tổ chẳng bị diệt,
khiến cho người ta được tạm nghe đến thì thật không còn gì may mắn hơn!

* Cho đến khi đại giáo truyền sang Ðông, Viễn công đại sư (tổ Huệ
Viễn) bèn dùng pháp này lập tông. Lúc đầu, ngài muốn cùng đồng học là
Huệ Vĩnh qua La Phù, nhưng bị pháp sư Ðạo An lưu lại. Ngài Huệ Vĩnh bèn
một mình đi trước qua Tầm Dương. Thứ sử Ðào Phạm ngưỡng mộ đạo
phong của Sư, bèn lập chùa Tây Lâm cho Ngài ở. Ðấy là năm Ðinh Sửu niên
hiệu Thái Nguyên thứ hai (377) đời Hiếu Vũ Ðế nhà Ðông Tấn. Ðến năm
Thái Nguyên thứ 9 (Giáp Thân - 384), Viễn công mới đến Lô Sơn.
Thoạt đầu, Ngài trụ tại Tây Lâm, nhưng bạn tu tìm đến quá đông, chùa
Tây Lâm chật hẹp không chứa nổi. Thứ sử Hoàn Y bèn bắt đầu dựng chùa
tại phía Ðông núi, đặt tên là Ðông Lâm. Ðến ngày 28 tháng Bảy năm Canh
Dần (390 - Thái Nguyên thứ 15), Viễn công bèn cùng tăng, tục 123 người,
kết Liên Xã niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, sai ông Lưu Di Dân soạn bài
văn khắc vào đá để minh thệ.
Pháp Sư Huệ Vĩnh cũng dự vào Liên Xã. Vĩnh công sống tại Tây Lâm,
trong gian nhà tranh biệt lập trên đảnh núi. Khi ấy có người đi Thiền hành,
đến bên thất ngài, liền ngửi thấy mùi hương lạ, nhân đó đặt tên là Hương
Cốc (hang thơm) để người khác suy ra thì biết.
Lúc Viễn công mới kết xã, có một trăm hai mươi ba người đều là bậc
long tượng trong pháp môn, Thái Sơn - Bắc Ðẩu trong làng Nho. Do đạo
phong của Viễn công lan tỏa nên đều rủ nhau tìm tới. Nếu tính suốt cả hơn
ba mươi năm trong đời Ngài thì số người dự vào Liên Xã tu Tịnh nghiệp,
được tiếp dẫn vãng sanh rất nhiều không thể tính nổi.
Sau này, các vị Ðàm Loan, Trí Giả, Ðạo Xước, Thiện Ðạo, Thanh
Lương, Vĩnh Minh... không vị nào chẳng như thế cả: tự hành, dạy người.
Ngài Ðàm Loan soạn Vãng Sanh Luận Chú diệu tuyệt cổ kim. Ngài Trí Giả
viết Thập Nghi Luận diễn giải đến tột cùng lẽ được mất. Ngài soạn Quán
Kinh Sớ giảng sâu xa cách quán tưởng đúng đắn. Ngài Ðạo Xước giảng ba
kinh Tịnh Ðộ gần hai trăm lượt. Ngài Thiện Ðạo sớ giải ba kinh Tịnh Ðộ,
cực lực khuyên chuyên tu. Ngài Thanh Lương sớ giải Phổ Hiền Hạnh
Nguyện Phẩm phát huy đạo rốt ráo thành Phật. Ngài Vĩnh Minh nói Tứ Liệu
Giản chỉ thẳng pháp liễu thoát ngay trong đời này.
Từ xưa, các bậc cao nhân trong các tông, không vị nào lại chẳng hướng
lòng về Tịnh Ðộ, chỉ có các tông sư nhà Thiền lại chuyên ngầm tu nên
không xiển dương rõ rệt. Từ sau khi ngài Vĩnh Minh xướng xuất, các vị mới
lưu lại ngôn giáo rõ rệt, thiết tha khuyên tu trì. Vì thế, bài Khuyến Tu Tịnh
Ðộ Văn của Tử Tâm Tân Thiền Sư có câu: “Di Ðà rất dễ niệm, Tịnh Ðộ thật
dễ sanh”.Còn viết: “Người tham thiền rất nên niệm Phật. Nếu căn cơ độn,
chỉ e đời này chưa thể đại ngộ, phải nhờ Di Ðà nguyện lực tiếp dẫn vãng
sanh”. Ngài còn viết: “Nếu ông niệm Phật mà chẳng sanh Tịnh Ðộ thì lão
tăng sẽ đọa trong địa ngục kéo lưỡi”.
Tác phẩm Tịnh Ðộ Thuyết của Chân Hiết Liễu thiền sư có câu: “Cả một
tông Tào Ðộng thảy đều chú trọng ngầm tu. Là vì sao vậy? Là vì pháp môn
Niệm Phật là đường tắt tu hành, thật dựa vào Ðại Tạng, tiếp dẫn căn khí
thượng thượng kiêm tiếp dẫn căn cơ trung, hạ”.
Ngài còn viết: “Bậc đại tượng trong Tông môn đã ngộ pháp bất hữu bất
không bèn quyết chí khăng khăng nơi Tịnh nghiệp. Do Tịnh nghiệp thấy
được Phật giản dị hơn Tông môn rất nhiều”.
Ngài còn nói: “Dù Phật hay Tổ, dù Giáo hay Thiền đồng quy một nguồn.
Nhập được pháp môn này thì vô lượng pháp môn thảy đều chứng nhập”.
Trường Lô Trách thiền sư kết Liên Hoa Thắng Hội phổ khuyến đạo, tục
niệm Phật cầu vãng sanh, cảm hai vị Bồ Tát Phổ Hiền, Phổ Huệ trong mộng
đến xin dự hội. Sư liền để tên hai vị Bồ Tát đứng đầu hội. Ðủ thấy pháp này
khế lý, khế cơ, chư thánh ngầm khen ngợi.
Trong hai triều Tống Thái Tông và Tống Chân Tông, pháp sư Tỉnh
Thường trụ trì chùa Chiêu Khánh ở Chiết Giang, hâm mộ đạo phong của tổ
Lô Sơn Huệ Viễn, lập Tịnh Hạnh Xã. Ông Vương Văn Chánh Công Ðán
quy y đầu tiên, làm người chủ xướng. Những bậc tể quan, châu mục, học sĩ,
đại phu đều xưng là đệ tử, tham dự Tịnh Hạnh Xã đến hơn một trăm hai
mươi người. Hàng sa môn tham dự đến hơn ngàn người, còn hàng sĩ thứ
chẳng thể tính nổi số.
Sau lại có Lộ Công Văn Ngạn Bác làm quan suốt bốn triều Nhân Tông,
Anh Tông, Thần Tông, Triết Tông, xuất tướng nhập tướng hơn năm mươi
năm, quan phẩm đến chức Thái Sư, được phong là Lộ Quốc Công. Ông bình
sinh dốc lòng tin Phật pháp, tuổi già càng tận lực hỗ trợ đạo pháp, chuyên
niệm A Di Ðà Phật. Sáng, chiều, đi, đứng, chưa từng thiếu lười. Ông cùng
với pháp sư Tịnh Nghiêm kết xã 10 vạn người ở kinh đô để cầu sanh Tịnh
Ðộ. Phần lớn các sĩ đại phu thời ấy đều được ông giáo hóa. Ông có bài tụng
như sau:
Tri quân khí đảm đại như thiên,
Nguyện kết Tây Phương thập vạn duyên,
Bất vị tự thân cầu kế hoạt,
Ðại gia tề thượng độ đầu thuyền.
(Tạm dịch:
Biết ngài lớn mật bằng trời,
Xin cùng Tịnh Ðộ kết mười vạn duyên
Cứu thân nào tính kế riêng,
Ai ai đều đã bước lên thuyền rồi!)
Ông thọ đến chín mươi hai tuổi, niệm Phật qua đời.
Ðời Nguyên - Minh thì có các ngài Trung Phong, Thiên Như, Sở Thạch,
Diệu Hiệp. Mỗi vị để lại thi ca, hoặc tạo luận giải thích, không vị nào là
chẳng cực lực xiển dương pháp khế lý, khế cơ, suốt trên, tột dưới này.
Nhưng các vị Liên Trì, U Khê, Ngẫu Ích là những người thành khẩn, thiết
tha tột bực nhất.
Ðời Thanh có ngài Phạm Thiên Tư Tề, Hồng Loa Triệt Ngộ đều tận lực
hoằng dương đạo này. Các tác phẩm Khuyến Phát Bồ Ðề Tâm Văn của ngài
Phạm Thiên, Thị Chúng Pháp Ngữ của ngài Hồng Loa có thể nói là những
tác phẩm tiếp nối chí nguyện cổ thánh, khai phát kẻ học hậu lai, kinh thiên
địa, động quỷ thần. Nếu người học thật có thể hành theo đó thì không ai là
chẳng giã biệt Sa Bà, cao đăng Cực Lạc, làm đệ tử của Phật Di Ðà, làm bạn
hiền trong Hải Hội.

* Cho đến khi nào căn cơ của chúng sanh hết sạch, đức Như Lai mới
nghỉ ngơi, nhưng lòng đại bi lợi sanh của Phật chẳng bao giờ cùng tận. Do
đó, các vị đại đệ tử phân phát xá lợi, kết tập Kinh Tạng mong được lưu
thông khắp mọi cõi, ngõ hầu tất cả đều được Phật pháp thấm nhuần. Mãi đến
đời Ðông Hán, đại giáo mới bắt đầu truyền đến [Trung Quốc]. Nhưng do
phong khí chưa mở nên chỉ lưu thông ở phương Bắc. Ðến đời Tôn Ngô, vào
năm Xích Ô thứ tư (241), tôn giả Khang Tăng Khải sang giáo hóa tại Kiến
Nghiệp, cảm được xá lợi của Như Lai giáng lâm khiến cho Tôn Quyền sanh
lòng tin tưởng tột bậc. Họ Tôn bèn sửa chùa, dựng tháp để hoằng dương
pháp hóa. Nam phương bắt đầu được thọ hưởng giáo pháp từ đấy.
Ðến đời Tấn, giáo pháp lan khắp các nước Cao Ly, Nhật Bản, Miến
Ðiện, An Nam, Tây Tạng, Mông Cổ. Từ đấy về sau, ngày càng hưng thịnh.
Ðến đời Ðường, các tông đã thành lập đầy đủ, có thể nói là cực thịnh. Các
tông Thiên Thai, Hiền Thủ, Từ Ân hoằng Giáo. Lâm Tế, Tào Ðộng, Quy
Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn hoằng Tông. Nam Sơn thì nghiêm tịnh Tỳ Ni
(Luật). Liên Tông thì chuyên tu Tịnh Ðộ. Giống như các bộ chia nhau coi
sóc công việc, hệt như sáu căn hỗ trợ nhau. Ấy là vì Giáo là lời Phật, Tông là
tâm Phật, Luật là hạnh Phật. Tâm, ngữ, hạnh ba thứ khó thể tách rời, chỉ là
ước trên phương diện chú trọng vào mặt nào mà lập danh.
Chỉ mỗi mình pháp Tịnh Ðộ mới nhìn thì là phương tiện để phàm phu
nhập đạo, nhưng thực ra nó là chỗ quy túc rốt ráo của các tông. Bởi thế, kẻ
sắp đọa A Tỳ được dự vào phẩm chót, bậc đã chứng ngộ ngang với chư Phật
vẫn cầu vãng sanh. Lúc đức Như Lai còn tại thế, ngàn căn cơ cùng được
nuôi dưỡng, vạn mạch đều quy hướng. Phật diệt độ rồi, bậc đại sĩ hoằng
pháp ai nấy chỉ hoằng dương một pháp để mong thâm nhập được một môn.
Chư pháp dung thông, ví như ngàn hạt châu nơi cái lưới của Ðế Thích,
mỗi hạt châu chẳng lẫn vào nhau, nhưng ánh sáng mỗi châu lại chiếu vào
hàng ngàn hạt châu khác, ánh sáng của ngàn hạt châu chiếu vào một hạt
châu. Soi rọi lẫn nhau nhưng chẳng tạp, riêng biệt nhưng chẳng thể phân
khai. Kẻ câu nệ vào Tích thì bảo: “Hết thảy pháp, mỗi pháp đều sai khác”.
Kẻ khéo hiểu sẽ nói: “Hết thảy pháp, các pháp viên thông”. Như bốn cửa
thành, gần cửa nào theo cửa đó mà vào. Cửa tuy khác nhau, nhưng vào thành
chẳng khác. Nếu biết ý này thì chẳng phải chỉ có những giáo lý rất sâu do
chư Phật, chư Tổ đã nói mới là pháp để “quy chân đạt bổn” (thấu hiểu một
cách chân thật, thông đạt tận nguồn cội), minh tâm kiến tánh, mà hết thảy
Ấm, Nhập, Xứ, Giới, Ðại v.v... trong khắp thế gian cũng đều là pháp để quy
chân đạt bổn, minh tâm kiến tánh! Mà mỗi một pháp cũng chính là chân, là
bổn, là tâm, là tánh!
Bởi vậy, kinh Lăng Nghiêm coi Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị Xứ, Thập
Bát Giới, Thất Ðại đều là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh. Vì thế bảo
rằng: Hết thảy pháp không một pháp nào chẳng phải là Phật pháp, cũng như
không một ai chẳng phải là Phật. Tiếc thay chúng sanh châu đeo trong vạt áo
trọn chẳng biết hay, ôm của báu đi ăn xin, chịu khốn cùng oan uổng. Dùng
tâm Như Lai tạo nghiệp chúng sanh, dùng pháp giải thoát chịu khổ luân hồi,
đáng thương lắm thay! Vì thế, bậc đại sĩ hoằng pháp chẳng nề gian nan, cay
đắng, dùng đủ mọi phương tiện để khai ngộ, dẫn dắt khiến chúng sanh hiểu
đúng sự lý, nhân quả của mười pháp giới, triệt ngộ tự tánh của tâm, ngõ hầu
viên chứng rốt ráo.
Từ Ðường, sang Tống, sang Nguyên, sang Minh, đến Thanh, cả một
ngàn năm, thanh giáo chẳng khuất lấp. Dẫu chẳng hưng thịnh bằng thời
Ðường, nhưng cũng có thể nói là suýt soát. Từ đời Hàm Phong, Ðồng Trị trở
đi, binh hỏa liên miên, đói kém liên tiếp, cao nhân ngày một hiếm hoi, kẻ
dung tục ngày càng nhiều, quốc gia chẳng bận tâm đề xướng, tăng lữ không
sức chấn hưng. Do đó, hàng cao nhân tại gia vì chưa từng nghiên cứu Phật
pháp, chuộng lầm khuôn sáo cũ của Âu - Hàn (Âu Dương Tu, Hàn Dũ), đến
nỗi đạo pháp suy sụp sát đất. Mãi đến cuối đời Thanh, học vấn phát triển,
những người thiên tư cao tìm đọc kinh Phật mới hay gốc đạo chính là đây,
mới bèn quyết chí nghiên cứu.
---o0o---

II. KHUYÊN TÍN HẠNH NGUYỆN NÊN CHÂN THÀNH , THA


THIẾT

1. Giảng về lòng tin chân thành, tâm nguyện tha thiết

* Nói đến Tín là nói phải tin Sa Bà thật là khổ, Cực Lạc thật là vui. Sa Bà
khổ vô lượng, vô biên. Nói chung, chẳng ngoài tám nỗi khổ, tức là: sanh,
già, bệnh, chết, ân ái biệt ly, oán ghét nhưng vẫn phải gặp mặt, cầu chẳng
được thỏa ý, năm ấm lừng lẫy. Tám nỗi khổ này dù người cả đời giàu sang
tột bực hay kẻ nghèo đến nỗi phải ăn mày, ai nấy đều có. Bảy thứ đầu là quả
báo do đời quá khứ cảm thành, cứ suy nghĩ kỹ ắt tự biết, chẳng cần phải nói
rõ. Nói rõ sẽ phải tốn nhiều giấy mực.
Nỗi khổ thứ tám (năm ấm lẫy lừng) là do hiện tại khởi tâm động niệm
cũng như những hành động, nói năng. Ðây chính là nhân thọ khổ trong đời
sau. Nhân quả vấn vít lôi kéo liên tục từ kiếp này sang kiếp khác chẳng thể
giải thoát.
Ngũ Ấm là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc chính là cái thân do
nghiệp báo cảm thành. Thọ, Tưởng, Hành, Thức là những thứ do tâm huyễn
vọng khởi lên khi tiếp xúc với cảnh. Do các pháp thân tâm huyễn vọng này
bèn đối với sáu trần cảnh khởi Hoặc tạo nghiệp như lửa cháy hừng hực
chẳng thể dập tắt, nên bảo là “xí thạnh” (lừng lẫy).
Thêm nữa, Ấm có nghĩa là ngăn che. Do năm pháp này ngăn che nên
chân tánh chẳng thể hiển hiện, như mây dầy che khuất mặt trời. Tuy vầng
thái dương rực rỡ trọn chẳng bị tổn giảm, nhưng vì mây che lấp nên chẳng
soi thấu được. Cũng giống như thế, phàm phu chưa đoạn Hoặc nghiệp bị
năm pháp này che phủ, bầu trời chân tánh và vầng mặt trời trí huệ chẳng thể
hiển hiện được. Ðấy là nỗi khổ thứ tám, chính là cội gốc của hết thảy các
khổ.
Người tu đạo sức Thiền Ðịnh sâu, đối với cảnh giới sáu trần trọn không
chấp trước, chẳng khởi oán ghét. Từ đây lại gia công dụng hạnh, tiến lên
chứng đắc Vô Sanh thì Hoặc nghiệp hết sạch, cắt đứt căn bản sanh tử.
Nhưng công phu này thật chẳng dễ dàng gì, trong đời mạt thật khó có ai đạt
được. Vì thế phải chuyên tu Tịnh nghiệp cầu sanh Cực Lạc, nương Phật từ
lực vãng sanh Tây phương.
Ðã được vãng sanh thì liên hoa hóa sanh, chẳng còn các nỗi khổ, thuần
mang hình dáng bé trai, thọ ngang hư không, thân không tai biến. Những
danh từ lão, khổ, bệnh v.v... còn chẳng nghe đến, huống là thật có! Kề cận
thánh chúng, chầu hầu Di Ðà. Chim, nước, rừng cây đều diễn pháp âm. Tùy
theo căn tánh nghe xong liền chứng, người thân còn chẳng thấy, huống là
oán thù? Mong áo được áo, tưởng ăn liền ăn. Lầu các, đền đài đều do bảy
báu tạo thành, chẳng nhọc sức người, chỉ là hóa hiện. Vậy thì bảy nỗi khổ
cõi Sa Bà biến thành bảy điều vui.
Nơi thân có đại thần thông, có đại oai lực, chẳng rời chỗ mình đang ở mà
ngay trong một niệm ở khắp các thế giới của chư Phật trong mười phương,
làm các Phật sự, thượng cầu, hạ hóa. Tâm có đại trí huệ, đại biện tài; nơi một
pháp biết Thật Tướng của hết thảy pháp. Tùy cơ thuyết pháp chẳng hề lầm
lạc. Tuy nói những lời thuộc về Thế Ðế nhưng đều khế hợp diệu lý Thật
Tướng. Không có nỗi khổ Ngũ Ấm Xí Thạnh, hưởng niềm vui thân tâm tịch
diệt. Bởi thế kinh dạy: “Không có các nỗi khổ, chỉ hưởng các sự vui, nên gọi
là Cực Lạc”.
Sa Bà khổ, khổ chẳng thể nói. Cực Lạc vui, vui chẳng gì ví nổi. Tin sâu
lời Phật, trọn chẳng nghi hoặc mới gọi là Chân Tín. Ðừng nên dùng tri kiến
ngoại đạo, phàm phu để so lường lầm lạc, cho rằng mọi thứ trang nghiêm
thắng diệu chẳng thể nghĩ bàn của Tịnh Ðộ đều là chuyện ngụ ngôn, là thí
dụ, là tâm pháp, chẳng phải cảnh thật. Nếu có các thứ tà kiến, hiểu biết sai
lạc như vậy sẽ đánh mất điều lợi ích thực sự là được vãng sanh Tịnh Ðộ. Cái
hại ấy rất lớn, chẳng thể chẳng biết.

* Ðã biết Sa Bà là khổ, Cực Lạc là vui thì hãy nên phát thệ nguyện thiết
thực, nguyện lìa khổ Sa Bà, nguyện hưởng vui Cực Lạc. Nguyện ấy phải tha
thiết như bị rớt xuống hầm xí, cầu được thoát ra gấp. Lại như bị giam cầm
trong ngục, đau đáu nghĩ đến quê nhà. Sức mình chẳng thể tự thoát, ắt phải
cầu người có đại thế lực cứu cho thoát khỏi.
Hết thảy chúng sanh trong thế giới Sa Bà đối với cảnh thuận - nghịch,
khởi tham, sân, si, tạo giết, trộm, dâm, ô uế diệu giác minh tâm sẵn có. Ðấy
chính là hầm xí không đáy. Ðã tạo nghiệp ác, ắt phải chịu ác báo, qua nhiều
kiếp dài lâu luân hồi sáu nẻo. Ðấy chính là chốn lao ngục chẳng hề phóng
thích tội nhân. A Di Ðà Phật trong nhiều kiếp quá khứ, phát bốn mươi tám
nguyện độ thoát chúng sanh. Có một nguyện là: “Nếu có chúng sanh nghe
danh hiệu ta, cầu sanh về nước ta, dẫu chỉ mười niệm mà nếu chẳng sanh,
chẳng lấy Chánh Giác”. A Di Ðà Phật thệ nguyện độ sanh; nhưng nếu
chúng sanh chẳng cầu tiếp dẫn, Phật cũng chẳng biết làm cách nào! Nếu như
chí tâm xưng danh, thề cầu xuất ly Sa Bà thì không một ai chẳng được Phật
rủ lòng từ nhiếp thọ. A Di Ðà Phật có đại thế lực, cứu được người đang ở
trong hầm phân không đáy, trong lao ngục chẳng hề phóng thích, khiến họ
thoát ngay những chốn ấy, đặt yên họ nơi quê nhà sẵn có là cõi Cực Lạc,
khiến họ nhập cảnh giới Phật, được thọ dụng giống như Phật.
* Phật Di Ðà vì chúng ta phát nguyện, lập hạnh để mong chúng ta thành
Phật. Chúng ta bội nghịch hạnh nguyện của đức Di Ðà nên bao kiếp dài lâu
ngụp lặn mãi trong lục đạo, vĩnh viễn làm chúng sanh. Hiểu rõ Di Ðà chính
là đức Phật ở ngay trong tâm chúng ta, ta chính là chúng sanh trong tâm Phật
Di Ðà. Tâm đã là một, nhưng phàm và thánh cách nhau một trời một vực là
do ta cứ một bề mê muội, trái nghịch nên mới đến nỗi thế. Tín tâm như vậy
mới đáng là Chân Tín. Dùng tín tâm này phát nguyện quyết định vãng sanh,
hành hạnh quyết định niệm Phật mới hòng thâm nhập Tịnh tông pháp giới,
thành tựu ngay trong một đời, một phen siêu thăng liền vào thẳng ngay địa
vị Như Lai như mẹ con gặp gỡ, vui sướng vĩnh viễn thường hằng vậy!

* Trong sự niệm Phật, điều trọng yếu nhất là để liễu sanh thoát tử. Ðã vì
liễu sanh tử thì với nỗi khổ sanh tử, tự sanh tâm chán nhàm; với sự vui Tây
phương, tự sanh tâm ưa thích. Như thế thì hai pháp Tín - Nguyện sẽ được
đầy đủ, trọn vẹn ngay trong khoảnh khắc ấy. Rồi lại thêm chí thành, khẩn
thiết như con nhớ mẹ mà niệm thì Phật lực, tự lực, tự tâm tín nguyện công
đức lực, cả ba pháp cùng hiển hiện trọn vẹn, khác nào mặt trời rực rỡ trên
không. Dù cho mây đùn, băng đóng tầng tầng, không lâu cũng sẽ tan hết cả.

* Hãy thử hỏi: Ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm. Chẳng khẩn
thiết thì có đạt được như thế chăng? Không Tín - Nguyện có đạt được như
thế chăng?

* Phàm là bọn hữu tình chúng ta hễ nghe nói đến pháp môn Tịnh Ðộ thì
phải tin Sa Bà cực khổ, Tây Phương cực vui, phải tin rằng từ nhiều đời đến
nay, nghiệp chướng sâu nặng, chẳng cậy vào Phật lực, khó thể xuất ly. Phải
nên tin rằng cầu được vãng sanh thì ngay trong đời này sẽ được vãng sanh.
Phải tin niệm Phật nhất định được Ngài từ bi nhiếp thọ. Dùng một lòng kiên
định này, nguyện lìa Sa Bà như kẻ tù muốn thoát khỏi lao ngục, trọn chẳng
có tâm lưu luyến. Nguyện sanh Tây Phương như lữ khách mong quay về cố
hương, chẳng hề có ý niệm do dự. Từ đó, tùy phận, tùy lực, chí tâm trì niệm
thánh hiệu A Di Ðà Phật, chẳng luận là nói năng, im lặng, động, tịnh, đi,
đứng, nằm, ngồi, đón tiếp khách khứa, mặc áo, ăn cơm, giữ sao Phật hiệu
chẳng lìa tâm, tâm chẳng lìa Phật.

* Kinh A Di Ðà nói: “Từ đây đi qua Tây Phương khỏi mười vạn ức cõi
có thế giới tên là Cực Lạc. Cõi ấy có Phật hiệu A Di Ðà, nay hiện đang
thuyết pháp”. Kinh còn dạy: “Cõi ấy vì sao tên là Cực Lạc? Chúng sanh cõi
ấy không có các điều khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên gọi là Cực
Lạc”. Không có các điều khổ, chỉ hưởng những điều vui là do được trang
nghiêm bởi phước đức, trí huệ, thần thông đạo lực của A Di Ðà Phật.
Thế giới chúng ta đang sống có đủ cả ba khổ, tám khổ, vô biên các nỗi
khổ, hoàn toàn chẳng vui. Vì thế gọi là Sa Bà. Tiếng Phạn Sa Bà, Hán dịch
là Kham Nhẫn, ý nói: chúng sanh trong thế giới này có thể kham chịu được
các thứ khổ. Trong thế giới này chẳng phải là không có điều vui, nhưng
những điều được coi là vui ấy lại đều là khổ. Chúng sanh mê muội lại coi
đấy là vui, như mê rượu đắm sắc, săn bắn, bẫy rập, có gì là vui? Một lũ ngu
phu đắm đuối chẳng bỏ được, thích đến quên mệt, thật đáng xót thương!
Những điều dù thật sự là vui cũng khó lâu bền. Chẳng hạn như cha mẹ
cùng còn sống, anh em không xảy ra chuyện gì; chuyện như vậy làm sao
thường hằng được mãi? Vì thế cảnh vui vừa thoáng qua, tâm buồn liền tiếp
theo ngay, nên bảo là “trọn chẳng có gì vui”, chẳng cần phải bàn nữa! Sự
khổ trong thế giới chẳng thể nói hết, nhưng có thể dùng tam khổ, bát khổ để
bao quát không sót.
Ba khổ là:
- Khổ Khổ.
- Vui (lạc) là Hoại Khổ.
- Chẳng khổ chẳng vui là Hành Khổ.
1) Khổ Khổ là nói thân tâm ngũ ấm này thể tánh bức bách nên gọi là
Khổ. Lại còn phải luôn chịu đựng các nỗi khổ: sanh, già, bệnh, chết v.v...
nên gọi là Khổ Khổ.
2) Hoại Khổ là bất cứ sự gì trong thế gian cũng chẳng được bền lâu. Mặt
trời giữa Ngọ phải chếch về Tây. Trăng đầy rồi khuyết, đạo trời còn phải
như thế, huống là việc người? Cảnh vui vừa chớm, cảnh khổ đã đến ngay.
Nỗi khổ ấy chẳng diễn tả được nổi! Vì thế gọi Lạc là Hoại Khổ.
3) Hành Khổ là tuy chẳng khổ, chẳng vui, tựa hồ phải chăng, nhưng tánh
nó dời đổi, có gì là thường trụ? Vì thế gọi là Hành Khổ.
Nêu lên ba thứ khổ ấy (Khổ Khổ, Hoại Khổ, Hành Khổ) thì không có nỗi
khổ nào chẳng gộp trong ấy. Ý nghĩa tám khổ trong các sách đã thuật rõ.
Nếu biết cõi này là là khổ thì tâm chán nhàm Sa Bà sẽ bừng bừng phát sanh.
Nếu biết cõi kia là vui thì ý niệm ưa thích, mong cầu Cực Lạc sẽ hừng hực
phát khởi. Do vậy, chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều lành để bồi đắp
nền tảng. Lại dùng tâm chí thành, khẩn thiết trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây
Phương thì thoát được cõi Sa Bà này, sanh về cõi Cực Lạc kia, làm con đích
thực của đấng Di Ðà, làm bạn hiền trong Hải Hội vậy!

* Xem cõi Sa Bà này nhơ xấu còn hơn nhà xí. Tin cõi Cực Lạc kia chính
là quê nhà mình vốn sẵn có. Chẳng cầu phước lạc cõi trời, cõi người trong
đời này hay đời sau, chỉ nguyện khi báo chung mạng tận, được Phật tiếp dẫn
vãng sanh. Sáng tối như thế, niệm đâu chú trọng đấy, niệm cực công thuần,
cảm ứng đạo giao, lúc lâm chung, ắt được thỏa nguyện. Ðã sanh về Tịnh Ðộ
sẽ đốn ngộ Vô Sanh, nhìn lại phú quý thế gian khác nào ánh dương diệm12 ,
hoa đốm trên không, thật đúng là nhà ngục, biển độc mà thôi!

---o0o---

2. Khuyên trừ nghi sanh tín

* Pháp môn Tịnh Ðộ nếu tin cho tới, còn gì tốt lành hơn! Nếu trí mình
chưa quyết thì phải nên tin tưởng lời chân thành của chư Phật, chư Tổ, trọn
chẳng được một niệm nghi tâm. Nghi sẽ chẳng tương ứng chư Phật, lâm
chung nhất định khó thể cảm thông. Cổ nhân bảo: “Pháp môn Tịnh Ðộ chỉ
có Phật với Phật mới có thể hiểu trọn vẹn. Hàng Ðăng Ðịa Bồ Tát13 chẳng
biết được ít phần”. Hàng Ðăng Ðịa Ðại Sĩ còn chẳng thể biết hết, huống hồ
là hạng phàm phu lè tè sát đất lại vọng sanh ức đoán ư?

* Nếu tâm sanh tử thật sự thiết tha, tin tới nơi, tâm chẳng sanh một niệm
ngờ vực thì dù chưa ra khỏi Sa Bà, đã chẳng còn là khách trọ lâu ngày trong
chốn Sa Bà; chưa sanh Cực Lạc, nhưng đã là khách quý cõi Cực Lạc. Thấy
người hiền mong mình được bằng, gặp điều nhân đừng để lỡ. Há có nên do
dự, lười nhác, sao nhãng, để đến nỗi một phen lầm lỡ khiến mình bị lỡ làng
mãi mãi ư? Là trang nam nhi có huyết tánh, dứt khoát chẳng chịu sống làm
thây đi, thịt chạy, chết mục nát như cỏ cây. Hãy gắng lên, cố lên!

* Trong các pháp môn khác, tiểu pháp thì đại căn chẳng cần tu, đại pháp
thì tiểu căn chẳng tu nổi. Chỉ có một pháp Tịnh Ðộ này thích ứng khắp ba
căn, gồm thâu lợi độn. Trên thì Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền,
không vị nào vượt ra ngoài pháp này; dưới thì ngũ nghịch, thập ác, chủng
tánh A Tỳ cũng được dự vào. Nếu Như Lai chẳng mở ra pháp này thì chúng
sanh đời mạt muốn liễu sanh thoát tử ngay trong đời này tuyệt chẳng có chút
hy vọng gì!
Tuy pháp môn này rộng lớn như thế, nhưng cách tu lại cực giản dị. Bởi
lẽ đó, chẳng phải là người kiếp trước có thiện căn Tịnh Ðộ sẽ khó thể tin
chắc chẳng nghi. Chẳng riêng phàm phu không tin, phần nhiều hàng Nhị
Thừa cũng nghi. Chẳng những Nhị Thừa chẳng tin, quyền vị Bồ Tát vẫn có
người còn nghi. Chỉ có các vị Bồ Tát Ðại Thừa địa vị cao sâu mới có thể
triệt để tin tưởng không nghi.
Người sanh lòng tin sâu xa nơi pháp này, dù là phàm phu đầy dẫy triền
phược nhưng chủng tánh đã vượt qua Nhị Thừa, khác nào Thái Tử ngã
xuống đất vẫn quý hơn quần thần. Tuy tài đức chưa lập, nhưng cậy vào thế
lực của cha, cảm được báo như thế. Người tu Tịnh Ðộ cũng giống như vậy.
Do dùng tín nguyện trì danh hiệu Phật nên có thể đem tâm phàm phu gieo
vào biển giác của Phật. Bởi thế, ngầm được Phật trí, ám hợp đạo mầu.
Muốn bàn về pháp tu trong Tịnh Ðộ mà chẳng nói lược qua sự khó khăn
của các pháp cậy vào tự lực để liễu thoát và sự dễ dàng của pháp cậy vào
Phật lực này thì [người nghe] nếu chẳng nghi pháp cũng sẽ nghi chính mình.
Nếu tâm có chút mảy may nào nghi ngờ, sẽ do nghi thành chướng; đừng nói
là không tu, dù tu cũng chẳng được lợi ích thật sự. Do vậy phải nói rằng Tín
là một pháp chẳng thể không gấp gáp giảng giải để mong gây dựng sâu xa
đến cùng cực vậy!

* Pháp môn Tịnh Ðộ do Phật Thích Ca và Di Ðà kiến lập, do Văn Thù,


Phổ Hiền chỉ quy, do Mã Minh, Long Thọ hoằng dương, do các vị Khuông
Lư (Huệ Viễn), Thiên Thai (Trí Khải), Thanh Lương, Vĩnh Minh, Liên Trì,
Ngẫu Ích phát huy, xướng suất để khuyên khắp dù phàm hay thánh, dù ngu
hay trí. Các vị Bồ Tát đại sĩ ấy trăm ngàn năm trước, sớm đã vì ta nghiên
cứu khắp các giáo pháp trong Ðại Tạng, đặc biệt chọn ra pháp chẳng cần
đoạn Hoặc mà được dự ngôi Bổ Xứ này, ngay trong một đời này quyết định
xổ lồng, chí viên, chí đốn, cực kỳ giản dị, thống nhiếp Thiền - Giáo - Luật,
lại vượt xa Thiền Giáo Luật cho dù căn cơ cạn hay sâu, dù Quyền hay Thật.
Thật là một diệu pháp thật đặc biệt, siêu việt lẽ thường.
Chúng ta chẳng tin tưởng Phật, Tổ là những bực thầy từ xưa bằng những
vị tri thức cận thời hay sao? Kinh Hoa Nghiêm là vua trong Tam Tạng, cuối
kinh quy kết chú trọng nguyện vương. Hoa Tạng hải chúng đều đã chứng
Pháp Thân, đều cầu vãng sanh hòng viên mãn Phật Quả. Bọn ta là hạng gì
mà lại dám chẳng bắt chước theo? Hãy bỏ tâm cuồng ấy, tận lực thực hành
đạo này. Công đức lợi ích sẽ tự chứng biết. Nào đợi phải tham học khắp cả
rồi mới thành hạng biết pháp ư?

* Luận bàn xác thực thì pháp môn Ðại Thừa, pháp nào cũng viên diệu.
Nhưng căn cơ có sống, chín, duyên có cạn, sâu. Bởi thế, xét về mặt lợi ích
thì có “khó được” và “dễ được”. Tổ Thiện Ðạo, hóa thân của Phật Di Ðà, đã
dạy chuyên tu. Ngài chỉ e hành nhân tâm chí bất định, bị các thầy trong
những pháp môn khác lung lạc, nên bảo: Cho dù thánh nhân Sơ Quả, Nhị
Quả, Tam Quả, Tứ Quả, và Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Ðẳng
Giác Bồ Tát cho đến thập phương chư Phật tận hư không, trọn pháp giới
hiện thân, phóng quang, khuyên ta bỏ pháp Tịnh Ðộ, giảng cho pháp thù
thắng nhiệm mầu nào khác, ta cũng chẳng chịu nhận. Thưa là do lúc ban đầu
đã phát tâm chuyên tu Tịnh Ðộ, chẳng dám trái nghịch nguyện ấy.
Hòa Thượng Thiện Ðạo đã sớm thấy người đời sau đứng núi này trông
núi nọ, chẳng có kiến giải nhất định. Vì thế Ngài nói như vậy để kiệt lực
xoay chuyển cái tâm ngấm nghé cuồng vọng, ưa ham cầu. Ai đã biết ngài
Thiện Ðạo là thầy mà lại chẳng tuân theo? Thế mà người tuân theo lời Ngài
thật chẳng được mấy! Có phải là do túc thế ác nghiệp sai khiến đến nỗi
ngoảnh mặt bỏ lỡ pháp khế lý, khế cơ bậc nhất này, không Thiền, không
Tịnh Ðộ, nghiệp thức mang mang, làm kẻ không cội rễ trong nẻo luân hồi đó
chăng? Áo não thay!

* Tu hành Tịnh Ðộ có cái lẽ quyết định chẳng nghi. Chẳng cần phải hỏi
han người khác hiệu nghiệm hay không! Dù khắp cả người đời không ai
được hiệu nghiệm, cũng chẳng sanh nhất niệm nghi tâm, cứ lấy lời lẽ chân
thành của Phật, Tổ làm căn cứ. Nếu hỏi người khác về sự hiệu nghiệm,
chính là tin Phật chưa đến mức cùng cực, tâm vẫn còn so đo, chưa thể trọn
vẹn mọi sự. Nam nhi anh liệt quyết chẳng đến nỗi bỏ lời Phật để tin lời
người, trong tâm không chủ ý, chỉ muốn cậy vào lời người khác khoe hiệu
nghiệm để hướng dẫn tiền đồ của chính mình. Thật chẳng đáng buồn ư?

* Do tập khí, mỗi chúng sanh có điểm riêng thiên trọng. Kẻ ngu thiên về
cái tầm thường, hèn kém. Người trí thiên về điều cao thượng. Nếu kẻ ngu
cam phận ngu, chẳng tạp dụng tâm, chuyên tu Tịnh nghiệp sẽ ngay trong đời
này quyết định được vãng sanh. Như vậy dù ngu nhưng chẳng ai bằng được.
Nếu là người trí, nhưng chẳng tự đắc, vẫn từ Sự hướng đến pháp môn cậy
vào Phật từ lực, cầu sanh Tịnh Ðộ thì có thể nói là bậc đại trí. Còn như cậy
vào kiến giải của mình, miệt thị Tịnh Ðộ; sẽ thấy kẻ đó từ kiếp này đến kiếp
khác, trầm luân ác đạo, muốn học đòi theo kiểu ngu phu ngày hôm nay cũng
trọn chẳng thể được!
Những người thông hiểu Tánh Tướng Tông Giáo, tôi thực sự ái mộ,
nhưng chẳng dám học theo. Vì sao? Là vì dây ngắn chẳng kéo được nước
sâu, túi nhỏ chẳng thể chứa vật lớn. Tôi chẳng bảo là hết thảy mọi người đều
nên phỏng theo việc tôi làm. Nhưng nếu cũng hèn kém như tôi mà lại toan
học theo hành vi của bậc đại thông gia, toan thẳng vào diệu ngộ tự tâm, vẫy
vùng biển giáo, tôi chỉ e chẳng thành bậc đại thông gia, trái lại còn bị hàng
ngu phu, ngu phụ già giặn, chắc thật niệm vãng sanh Tây Phương thương
xót! Há có phải là biến khéo thành vụng to, toan bay lên không nhưng lại bị
rớt xuống vực sâu thăm thẳm đó chăng? Một lời đủ để bao quát hết: Hãy tự
xét kỹ căn cơ của chính mình mà thôi!

* Ông La Ðài Sơn chẳng được vãng sanh, lại bị đọa vào nơi phước báo
là do tập khí văn chương quá nặng. Tập khí ấy đã nặng, dù nói là niệm Phật,
nhưng thực ra niệm niệm đặt nơi công phu sáng tác văn chương. Công phu
niệm Phật chỉ là chống đỡ mặt ngoài đó thôi. Ðấy là bệnh chung của văn
nhân, chẳng phải chỉ riêng Ðài Sơn thôi đâu! Phật bảo thế trí biện thông là
một trong tám nạn, chính là vì lẽ này.

* Người sống trong cõi đời, nhất nhất phải theo đúng bổn phận của
mình, chẳng thể vọng tưởng tính toán ra ngoài bổn phận. Tức là như thường
nói: “Quân tử chẳng vượt ngoài phận vị của mình”. Cũng như nói: “Quân
tử chỉ làm đúng theo phận vị của mình”. Tuy đối với pháp môn Tịnh Ðộ đã
sanh tín tâm, nhưng ý niệm ưa cao, chuộng trội vẫn còn chưa buông xuống
được, chưa chịu đặt mình vào hàng ngu phu, ngu phụ. Phải biết rằng ngu
phu, ngu phụ dễ liễu thoát sanh tử bởi tâm họ chẳng có dị kiến.
Nếu hiểu Tông, thông Giáo, toàn thân có thể buông xuống hết, thực hành
công phu của hạng ngu phu, ngu phụ thì cũng dễ [liễu thoát sanh tử]. Nếu
không thì bậc cao nhân thông Tông, thông Giáo lại chẳng bằng ngu phu, ngu
phụ đới nghiệp vãng sanh! Pháp môn Tịnh Ðộ lấy vãng sanh làm chủ, tùy
duyên tùy phận chuyên tinh chí mình, Phật quyết chẳng dối người. Nếu
không, mong bay lên hóa ra lại rớt xuống; đấy là tự mình lầm lẫn, nào phải
lỗi của Phật đâu!

* Một pháp Tịnh Ðộ chính là pháp môn tối huyền, tối diệu, chí viên, chí
đốn trong giáo pháp của cả một đời Ðức Phật (một pháp có đủ hết thảy pháp
là Viên, ngay trong đời này tu sẽ chứng đắc ngay trong đời này nên bảo là
Ðốn). Hạng phàm phu lè tè sát đất cũng vào được pháp này, bậc Ðẳng Giác
Bồ Tát cũng chẳng ra khỏi pháp này. Thực là một con đường tắt để thượng
thánh hạ phàm chóng thành Phật đạo, là một chiếc thuyền từ phổ độ chúng
sanh của chư Phật, chư Tổ.
Chẳng sanh tín tâm nơi pháp này, hoặc tin chẳng chân thành, thiết tha,
chính là do nghiệp chướng sâu nặng, chẳng kham liễu sanh thoát tử, siêu
phàm nhập thánh, đời đời kiếp kiếp vĩnh viễn thường luân hồi lục đạo trong
thế giới này, chẳng có kỳ ra. Dẫu được làm thân trời, người, thời gian ấy rất
ít, như khách chỉ ở trọ. Một phen đọa trong tam đồ, thời gian ấy dài lâu như
ở yên nơi quê nhà. Mỗi lần nghĩ đến tâm kinh sợ, dựng đứng lông tóc, chẳng
nề rát miệng khẩn cáo đồng nhân.

* Xem kỹ thơ ngài gởi đến, bàn luận nhiều điều, nhưng có thể nói gọn
một lời là “chỉ dùng tri kiến phàm phu để suy lường xằng bậy Phật trí mà
thôi”! Vả như chúng ta từ sống đến chết, trong là thân tâm, ngoài là cảnh
giới, có một ai biết rõ được nguyên do mọi sự chăng? Từ khi mình có hiểu
biết đến nay, thấy tiền nhân làm sao mình cũng bắt chước làm đúng như thế
thì thân thể mới được thành lập, mọi sự mới thuận tiện, thích đáng, thân tâm
an lạc, từ sống đến chết hưởng thọ tự tại. Ðối với những lời khuyên dụ của
đức Như Lai, các hạ cho rằng vì chẳng biết ngọn ngành Phật trí và ngọn
ngành Tịnh Ðộ như thế nào, nên dù Phật, Tổ nói lời thành thực, cũng chẳng
thể nhân đó sanh lòng tin.
Xin lấy chuyện này để xét: Các hạ suốt ngày ăn cơm, suốt ngày mặc áo,
thì có biết hay là không biết nguồn gốc của việc chống đói, ngăn lạnh
chăng? Nếu nói là biết thì ai là người biết, xin chỉ đích xác ra. Nếu chỉ
không được, vẫn là theo quy củ của tiền nhân đã lập mà ăn cơm, mặc áo!
Sao lại đối với diệu pháp liễu sanh thoát tử bậc nhất, cứ đòi phải biết trước
cội nguồn rồi mới sanh lòng tin, trọn chẳng chịu do lời thành thực của chư
Phật, chư Tổ mà sanh lòng tin vậy?
Hơn nữa, nếu các hạ có bệnh cần phải uống thuốc thì trước hết sẽ mở
sách Bản Thảo, Mạch Quyết ra xem để biết dược tánh, nguồn gốc căn bệnh
rồi căn cứ trên bệnh chứng mà kê toa, sau đấy mới uống thuốc; hay là lập
tức mời thầy lang chẩn mạch, lập tức uống thuốc? Nếu lập tức uống thuốc
thì việc trị bệnh và học Phật mâu thuẫn nhau quá!
Dù cho có mở sách Bản Thảo, Mạch Quyết ra xem để biết dược tánh,
gốc bệnh, cũng vẫn mâu thuẫn với việc học Phật. Vì sao vậy? Bản Thảo,
Mạch Quyết đều là lời để đời của tiền nhân. Ông chưa thể tận mắt thấy, làm
sao tin được? Nếu bảo những câu trong Bản Thảo, Mạch Quyết chẳng thể
không tin thì lời của Phật, Tổ, thiện tri thức sao lại đều chẳng tin, cứ phải
chính mình thấy mới tin?
Với tri kiến của ông, nếu cứ thực tình mà luận thì trước hết phải thấy
thuốc ấy chạy vào kinh lạc nào, trị được bệnh nào, rồi mới kê toa, uống
thuốc; quyết chẳng chịu dựa theo những điều nói trong Bản Thảo, Mạch
Quyết để lập toa, uống thuốc. Vì sao vậy? Vì chưa từng thấy.
Nay nguồn gốc của việc chống đói, ngăn lạnh, trị bệnh chưa từng thấy
nhưng vẫn cứ ăn cơm, mặc áo, uống thuốc; thế thì ngọn nguồn của Phật và
Tịnh Ðộ chưa từng thấy, dù có lời thành thực của Phật, của Tổ cũng chẳng
tin là vì lẽ gì? Với điều này thì coi là chuyện liên quan đến tánh mạng, tuy
không biết vẫn chẳng dám không làm đúng như thế. Còn với chuyện kia lại
cậy mình cao minh, đòi phải thấy tột cùng mới chịu tu trì pháp ấy. Xưa nay
được mấy kẻ hào kiệt phi thường như thế? Do tri kiến đó, rốt cục chẳng
hưởng lợi ích thật sự của Phật pháp.
Những kẻ bị coi là ngu phu, ngu phụ kia, thoạt đầu cũng chẳng biết gì,
nhưng y theo quy củ của tiền nhân, cắm đầu niệm Phật. Bởi đó, ngầm thông
Phật trí, thầm hợp đạo mầu, liền được đới nghiệp vãng sanh, cùng kẻ đoạn
Hoặc vãng sanh đều chứng Phật Quả, có hơn kẻ chỉ biết xuông rồi thôi
chăng? Loại người tự dán nhãn mình là hạng xuất cách, do nghi sanh báng,
sẽ từ kiếp này sang kiếp khác, đọa mãi trong ác đạo, dù hàng ngu phu, ngu
phụ niệm Phật vãng sanh thương xót muốn cứu vớt giùm cũng chẳng biết
làm sao! Vì sao? Vì hạng này bị ác nghiệp bất tín đời trước chướng ngại.
Trí của các hạ như [bảo kiếm] Can Tương, Mạc Gia, chặt ngọc như
chém bùn. Do chẳng khéo dùng trí ấy, khác nào dùng thanh Can Tương,
Mạc Gia để chém bùn, bùn không việc gì, uổng phí kiếm sắc, chẳng đáng
buồn sao?

* Phật pháp là tâm pháp. Hết thảy pháp thế gian chẳng sánh ví được. Có
sánh ví chẳng qua là để khiến người ta lãnh hội được ý nghĩa. Chẳng được
chấp chết vào sự để bàn ngang. Dùng cái quạt để ví cho mặt trăng, rung cây
dạy gió. Nếu cứ do cái quạt tìm lấy quang minh, từ nơi cây tìm ra sự phất
phơ thì có còn gọi được là trí hay chăng? Tuy mộng cảnh là giả, nhân quả là
chân, cũng chẳng ngại dùng mộng cảnh để ví dụ nhân quả, cốt sao chúng
phù hợp nhau.
Là sao? Vọng tâm là Nhân, mộng cảnh là Quả. Nếu không vọng tâm
chắc chắn chẳng có mộng cảnh. Ðiều này nhất định chẳng dễ luận. Tâm
thiện ác và việc tu trì là Nhân, được quả báo thiện ác và quả báo tu trì là
Quả. Các hạ phải tin; nếu không, do vọng tâm là nhân của mộng sẽ được
mộng cảnh. Tâm niệm Phật là nhân thành Phật, gần là được vãng sanh Tây
Phương, xa là rốt ráo viên thành Phật đạo. Ðấy chính là điều ngài đang nghi,
ngăn trở ngài phát khởi lòng tin vậy!

* Hãy để chuyện Phật rốt ráo là có hay không lại đó. Các hạ cứ muốn cật
vấn Phật là có hay là không thì hãy tự hỏi chính các hạ rốt ráo là có hay là
không? Nếu bảo là không thì mối ràng buộc này đây, ai là người thuật nói?
Nếu bảo là có, xin hãy chỉ đích xác! Lời lẽ của người nói chỉ là do yết hầu
và thức tâm hợp lại mà có. Văn tự cũng do thức tâm, tay, bút vận động mà
hiện. Mỗi mỗi đều chẳng ngoài Ngũ Uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, đều
chẳng phải là các hạ! Rời ngoài năm pháp này có chỉ được ai là các hạ để
hỏi Phật rốt ráo là có hay không, mà cho đó là câu hỏi đại trí huệ?
Nếu chẳng chỉ ra được chính mình là có hay không, nhưng lại muốn biết
Phật là có hay không trước đã thì đấy chỉ là câu hỏi cuồng vọng, không đáng
luận tới, chẳng phải câu hỏi thấu đạt lý đến cùng tận! Phật rốt ráo là có. Vì
phàm tình của ông chưa sạch, nên Phật chẳng thể hiện. Chính các hạ cũng là
có. Do Ngũ Uẩn của ông chưa là không nên cũng chẳng thể chỉ ra ngoài Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành, Thức được!

* Kinh Kim Cang dạy hàng Bồ Tát phát tâm Bồ Ðề, phát tâm độ hết thảy
chúng sanh khiến họ đều chứng Vô Dư Niết Bàn, nhưng chẳng thấy có một
chúng sanh được diệt độ. Chẳng trụ vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp
để hành bố thí. Bố thí đứng đầu trong lục độ vạn hạnh. Nêu lên bố thí thì trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, cho đến vạn hạnh cũng đều
chẳng trụ vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp để tu. Văn kinh này giản
lược, chỉ nêu bố thí để nói chung tất cả các pháp kia.
Hãy nên không trụ vào đâu để sanh tâm. Không có các tướng ngã, nhân,
chúng sanh, thọ giả mà tu hết thảy thiện pháp. Nói như vậy thì bảo là hữu
tướng hay vô tướng?
Tướng quang minh rộng lớn như thế chật kín thái hư mà bảo là không thì
khác gì mù lòa từ lúc mới sanh? Nói “không có một chúng sanh được độ” là
chẳng trụ vào tướng, vô tướng. “Vô sở trụ” là muốn cho con người chẳng
vướng mắc trong phàm tình, thánh kiến, rồi chấp trước tướng.
Nói “độ tận chúng sanh, hành bố thí, sanh tâm, tu thiện pháp” là muốn
cho con người xứng tánh tu tập pháp tự lợi, lợi tha, ngõ hầu mình lẫn người
cùng được viên mãn Bồ Ðề mới thôi, đừng vướng vào đó, vọng chấp vô
tướng là rốt ráo, chia xẻ cùng một tri kiến với kẻ nhai bã hèm, có đáng gọi là
người có trí huệ chăng? Tín có gì là khó khởi, nghi có gì là khó trừ? Ông
quyết định chẳng chịu khởi, quyết định chẳng chịu trừ. Dù Phật có đích thân
thuyết pháp cho ông, cũng chẳng làm sao được! Huống hồ tôi đây chỉ là kẻ
phàm phu đầy dẫy triền phược?

* Muốn biết Phật là thật hay giả, sao chẳng đối với những lý được bàn
trong Tịnh Ðộ Văn, Tây Quy Trực Chỉ và những chuyện được chép trong ấy
mà phát khởi lòng tin, dứt lòng nghi, lại cho những ngôn luận, sự tích ấy chỉ
là chuyện bịa đặt, lời đồn, chẳng đáng để vào mắt vậy? Nếu nghĩ như vậy thì
nhất định linh hồn chẳng đọa trong năm đường nào khác, chỉ ở ngay trong
địa ngục A Tỳ đến hết đời vị lai. Cứ mãi mãi hưởng thọ vạc sôi, lò than,
rừng gươm, núi đao do tâm hiển hiện, cứ coi chúng như các thứ lạc cảnh tự
tại thọ dụng. Coi đó là vui thì chẳng thể khuyên dụ được nữa!
Ông cứ muốn biết Phật là thật hay giả, dù Tịnh Ðộ Văn, Tây Quy Trực
Chỉ nói gì đi nữa đều coi là chẳng thật; chỉ khi tự mình thấy, đích thân
chứng, mới nhận là thật; nay tôi lấy một sự tướng để hỏi, ông nên thẳng thắn
đáp lời, chẳng được hàm hồ, thoái thác.
Bắc Thông Châu Vương là Tiền San, thời nhà Thanh từng giữ chức
Phiên Ðài ở Quảng Tây. Khi ấy, Quảng Tây thổ phỉ rất nhiều. Lúc ông Tiền
coi việc binh bị bèn bày kế diệt hết phỉ đảng, bắt giết rất nhiều. Bốn năm
trước đây, ông mắc bệnh rất nặng. Cứ chợp mắt liền thấy mình ở trong căn
nhà tối. Nhà đó rất lớn, lại rất tối, bọn quỷ vô số đều đến bức bách ông, sợ
quá tỉnh dậy. Một lát sau, chợp mắt lại thấy y như cảnh cũ, lại hoảng sợ tỉnh
dậy. Suốt ba ngày đêm chẳng dám chợp mắt. Ông ta chỉ còn thở thoi thóp,
vợ bèn khuyên dụ: “Ông cứ như thế chẳng tốt đâu! Ông niệm nam mô A Di
Ðà Phật đi, niệm Phật sẽ ổn ngay!” Tiền San nghe vậy liền gắng niệm. Ðược
một chốc liền ngủ, ngủ đẫy một giấc không mộng mị gì, mà bệnh cũng dần
dần thuyên giảm. Nhân đó, ông trường trai niệm Phật. Năm ngoái, Tiền San
và Trần Tích Chu lên núi, có trò chuyện cùng Quang.
Nếu các hạ lâm vào cảnh ấy, thì cứ phải biết trước là Phật là thật hay giả
rồi sau mới niệm chăng? Hay là nghe xong liền niệm? Nếu lúc ấy chẳng
nhọc công xét thật, giả, cứ niệm ngay, thì hiện tại sao lại cùng người đời này
bàn bạc ngôn luận, sự tích người đời trước là thật hay hư? Cứ nhất loạt cho
là vọng, chỉ cầu lấy chỗ đúng; cứ vin vào đó khiến tâm cảnh mơ màng, mờ
mịt, còn toan nhỏ lệ khóc cầu nữa ư? Ðã có thể coi phú quý như chiếc dép
rách, sao không thể coi chấp trước giống như chiếc dép rách để bỏ sạch cả
đi? Ông tính dùng tri kiến ấy để làm cửa nhập đạo đấy ư? Chẳng biết nó
chính là đường để đạt địa ngục A Tỳ đấy!
Lấy mộng để ví cho Phật thì vọng tâm là Nhân, mộng cảnh là Quả. Ví
như niệm Phật là Nhân, vãng sanh gặp Phật là Quả. Vì sao có thể lấy sáu thí
dụ trong kinh Kim Cang làm chứng? Ngôn ngữ, văn tự thế gian, một chữ,
một sự, chẳng ngại gì diễn tả cả sang lẫn hèn, giảng giải cả tốt lẫn xấu.
Chẳng hạn như chữ “Tử”, dùng để chỉ mình đức Phu Tử cũng được, mà chỉ
người bình thường cũng được, dùng để gọi con cái cũng tốt. Ðều phải dựa
vào văn mạch để xác định ý nghĩa, quyết chẳng thể đối với chữ Tử có nghĩa
là Phu Tử, lại giảng là “nhi tử” (con cái) được. Cõi Phật là mộng cảnh, đâu
cần chờ các hạ thành Phật rồi mới nói sau. Nói như vậy chỉ tự tổn hại, vô ích
mà thôi!

* Sự, Lý, Tánh, Tướng, Không, Hữu, Nhân, Quả lẫn lộn chẳng phân, chi
bằng học theo ngu phu, ngu phụ, cắm cúi niệm Phật, cứ chí cung, chí kính,
một mực thành khẩn. Lâu ngày chầy tháng, nghiệp tiêu, trí rạng, chướng tận,
phước dày, mối nghi tâm ấy triệt để rơi rụng hết, thì những chuyện Phật có
hay là không, chính mình là có hay là không, đường nẻo “vào cửa Phật, lên
bờ kia” đã có xác cứ, nào phải đợi hỏi ai nữa!
Nếu chẳng chuyên tâm, dốc chí niệm Phật, cứ cùng người khác bàn
xuông những hiểu biết chỉ mới được một phần thì cũng giống như xem kinh
Kim Cang nhưng chẳng biết Thật Tướng. Xem Tịnh Ðộ Văn, Tây Quy Trực
Chỉ nhưng chẳng sanh tín tâm là do nghiệp ngăn chướng tâm, chẳng thể lãnh
hội. Như kẻ mù nhìn mặt trời, mặt trời ở ngay trên không, mắt nhìn ngay vào
mặt trời nhưng chẳng thấy được tướng sáng, nào khác lúc chẳng thấy. Nếu
mắt được sáng lại, vừa nhìn liền thấy ngay tướng sáng.
Một pháp Niệm Phật chính là một pháp tối thiết yếu để mắt được sáng
lại. Muốn thấy tướng trạng Thật Tướng, hãy nên dốc trọn lòng thành nơi
pháp này, ắt mau có ngày được thỏa nguyện lắm. Muốn tự thấy Chân Ngã,
nếu chẳng phải là bậc đại triệt đại ngộ sẽ chẳng thể làm được. Muốn chứng
ngộ mà chẳng đoạn Hoặc chứng chân sẽ không thể được. Muốn viên chứng,
nếu ba Hoặc chưa đoạn sạch, hai tử (phần đoạn sanh tử và biến dịch sanh
tử) chưa vĩnh viễn mất, sẽ chẳng thể được!
Luận trên thực tại, các hạ luân hồi bao kiếp dài lâu và nay đang cật vấn
những điều trái với giáo lý đều là do sức tác dụng của Chân Ngã. Do các hạ
quay lưng với giác, xuôi theo trần lao, nên chẳng thể thọ dụng chân thật.
Khác nào cái đầu của gã Diễn Nhã14 , hạt châu trong áo, từ đầu đến cuối
chưa hề mất, lầm sanh sợ hãi, lầm chịu khốn cùng vậy!

* Tất cả thế gian dù là căn thân hay là thế giới đều là do đồng nghiệp,
biệt nghiệp trong tâm của chúng sanh cảm thành, đều có thành hoại, đều
chẳng trường cửu. Thân có sanh, già, bệnh, chết; thế giới có thành, trụ, hoại
không. Câu nói: “Vật cực tắc phản, cực lạc sanh bi” (mọi sự đến chỗ cùng
cực sẽ chuyển biến theo chiều ngược lại, vui quá hóa buồn) là nói về ý này.
Do Nhân đã là sanh diệt, Quả cũng chẳng thể không sanh diệt.
Thế giới Cực Lạc là thế giới do Phật A Di Ðà đã chứng ngộ triệt để Phật
tánh sẵn có trong tự tâm, tùy tâm biến hiện, xứng tánh trang nghiêm. Vì thế,
sự vui trong cõi ấy chẳng có lúc cùng tận. Ví như hư không rộng rãi to lớn,
bao hàm hết thảy sâm la vạn tượng. Dù thế giới nhiều lần thành, nhiều lần
hoại, hư không rốt ráo chẳng bị tăng giảm.
Ông đem sự vui thế gian để nạn sự vui Cực Lạc, nhưng sự vui Cực Lạc
ông chưa thể thấy. Dẫu ông chưa thể thấy toàn bộ hư không, nhưng với
khoảng hư không trong vòng trời đất đây, ông có bao giờ thấy nó bị biến cải
hay chưa?
Phải biết rằng hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh. Vì thế Ðức Phật
dạy con người niệm Phật cầu sanh Tây Phương để nhờ vào nguyện lực đại từ
bi của Phật Di Ðà sẽ cũng được thọ dụng niềm vui bất sanh bất diệt ấy. Do
căn thân là liên hoa hóa sanh nên không có nỗi khổ sanh, già, bệnh, chết.
Thế giới là do công đức xứng tánh hóa hiện nên không có biến chuyển
Thành, Trụ, Hoại, Diệt. Dù là thánh nhân vẫn có những điều không biết, há
nên vì những pháp sanh diệt trong thế gian mà khởi nghi ư?

* Pháp môn Tịnh Ðộ là bi tâm triệt để của đức Như Lai, là pháp môn phổ
độ chúng sanh khiến cho những kẻ phàm phu đầy dẫy triền phược, không có
sức đoạn Hoặc, nhờ tín nguyện trì danh sẽ được liễu thoát ngay trong đời
này, cùng làm bè bạn với Quán Âm, Thế Chí. Trên đến bậc Ðẳng Giác Bồ
Tát, địa vị gần kề Phật Quả vẫn còn phải vãng sanh mới thành Chánh Giác.
Chí viên, chí đốn, thông trên, suốt dưới, vượt trội hết thảy các pháp môn đã
được giảng trong cả một đời giáo hóa. Vì thế, trong khi Ðức Phật giảng kinh
A Di Ðà, sáu phương chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài đồng thanh tán thán,
khen là kinh Công Ðức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Ðược Hết Thảy Chư Phật Hộ
Niệm.
Phật lại nói: Ta là Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn làm được chuyện rất khó,
hiếm có. Ðức Thế Tôn ta tự phô bày túc nhân, bảo: “Ta trong đời ác ngũ
trược, làm được chuyện khó làm sau đây: chứng đắc Bồ Ðề, vì hết thảy thế
gian nói pháp khó tin này. Thật là rất khó” khiến cho người nghe tin nhận,
phụng hành, chỉ nhằm bày trọn bổn hoài xuất thế mà thôi.
Nhưng pháp môn này rất sâu, khó lường, tuy đã được Bổn Sư và chư
Phật Thế Tôn cùng khuyên nên tin tưởng, nhưng đời vẫn còn rất nhiều kẻ
nghi. Chẳng những hạng thế trí phàm tình chẳng tin, ngay cả hạng tri thức
thông hiểu Tông, Giáo sâu xa cũng còn ngờ vực. Chẳng những hạng tri thức
chẳng tin, mà bậc Thanh Văn, Duyên Giác đã chứng Chân Ðế, nghiệp tận
tình không hãy còn nghi ngờ. Chẳng những bậc tiểu thánh chẳng tin, ngay cả
Quyền Vị Bồ Tát cũng hãy còn ngờ. Ngay đến bậc Pháp Thân Ðại Sĩ dù đã
tin chắc, nhưng vẫn chẳng thể thấu hiểu tận cùng nguồn cội.
Ấy là vì pháp môn này lấy Quả Giác làm Nhân Tâm, toàn thể là cảnh
giới Phật, chỉ mình Phật với Phật mới có thể hiểu trọn, chẳng phải trí con
người thấu hiểu được nổi! Bọn phàm phu ta ngửa tin lời Phật, y giáo phụng
hành sẽ tự được lợi ích thật sự. Nếu được nghe pháp môn chẳng thể nghĩ bàn
này thì phải là trong nhiều kiếp đã gieo sâu căn lành, huống hồ là tin nhận,
phụng hành ư?

* Kinh Hoa Nghiêm vua của Tam Tạng, là do đức Như Lai lúc tối sơ
thành Chánh Giác, vì các bậc Pháp Thân Ðại Sĩ thuộc bốn mươi địa vị đã
vượt ngoài cửu giới, giảng ra pháp một đời thành Phật. Chỗ quy tông kết
đảnh của Thật Nghĩa rốt ráo là “dùng mười đại nguyện vương, hồi hướng
vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới để mong viên mãn Phật Quả”.
Cảnh sở chứng của Thiện Tài đã bằng với Phổ Hiền, bằng với chư Phật,
được gọi là bậc Ðẳng Giác Bồ Tát. Ðẳng Giác chỉ kém Phật một chút vẫn
còn phải hồi hướng vãng sanh. Toàn bộ các Bồ Tát trong Hoa Tạng thế giới
hải đều bẩm thọ giáo pháp này, cùng tu pháp này. Huống nay kẻ thông
Tông, thông Giáo, mức căn tánh thông lợi, mức chứng nhập sâu xa có hơn
nổi các vị Ðẳng Giác Bồ Tát kia chăng? Ngàn kinh, vạn luận, đâu đâu cũng
dạy quy hướng. Vãng thánh tiền hiền ai nấy đều hướng về, những kinh luận
ấy há chẳng đáng để tuân thủ, hành theo ư? Các vị thánh hiền ấy đều là hạng
ngu phu, ngu phụ ư?
Nói gọn một lời: Nghiệp sâu chướng nặng, chưa được giải thoát nên đến
nỗi đối với việc hằng ngày còn chẳng biết, cứ quen thói chẳng suy xét đó
thôi.

* Nếu bảo: “A Di Ðà Phật an cư Cực Lạc. Mười phương thế giới vô


lượng, vô biên. Trong một thế giới, chúng sanh niệm Phật đã nhiều vô
lượng, vô biên, A Di Ðà Phật một thân làm sao tiếp dẫn khắp hết thảy những
chúng sanh niệm Phật trong mười phương vô lượng vô biên thế giới được?”
Ðáp: Sao ông lại dùng tri kiến phàm phu để suy lường Phật cảnh? Tôi
mượn thí dụ nói rõ cho ông khỏi lầm. Một vầng trăng sáng rực trên không,
hiện bóng trong vạn con sông, trăng có tâm chăng? Trên trời chỉ có một
vầng trăng, nhưng biển cả, sông ngòi, sông to, suối nhỏ, đều hiện trọn vẹn
khuôn trăng. Dù nhỏ như một chước15 , một giọt nước, không nơi nào chẳng
hiện toàn thể bóng trăng.
Vả nữa, vầng trăng hiện nơi sông, rạch, một người nhìn thì có một vầng
trăng ở ngay trước người ấy. Trăm ngàn vạn ức người trong trăm ngàn vạn
ức chỗ cùng nhìn, không một ai là chẳng có một vầng trăng ở ngay trước
mặt. Nếu trăm ngàn vạn ức người ai nấy đi qua Ðông, Tây, Nam, Bắc; mỗi
người đi đến đâu, luôn thấy trăng cũng đi theo đấy, chẳng hề gần xa! Nếu
trăm ngàn vạn ức người đứng yên chẳng động, trăng cũng đứng yên chẳng
động, thường ở bên người. Chỉ là nước trong lặng, trăng sẽ hiện; nước đục
chao động, trăng ẩn mất. Trăng vốn chẳng lấy bỏ, trăng chẳng hiện là do
nước đục ngầu, lay động, chẳng phản chiếu được bóng trăng.
Tâm chúng sanh như nước, A Di Ðà Phật như trăng. Chúng sanh đầy đủ
tín nguyện hạnh, chí thành cảm Phật thì Phật sẽ ứng như nước trong trăng
hiện. Nếu tâm chẳng thanh tịnh, chẳng chí thành, ứng với tham, sân, si, trái
nghịch Phật như nước vừa đục vừa xao động dù trăng vẫn chiếu xuống
nhưng chẳng thể hiện bóng rõ ràng.
Trăng là sắc pháp thế gian, còn diệu dụng như thế, huống hồ Phật A Di
Ðà đã hết sạch phiền hoặc, phước huệ đầy đủ, tâm trùm thái hư, lượng trọn
pháp giới ư? Vì thế kinh Hoa Nghiêm bảo: “Phật thân đầy khắp pháp giới,
hiện trước khắp hết thảy chúng sanh. Tùy duyên cảm ứng không đâu là
chẳng trọn khắp, nhưng luôn ngồi nơi tòa Bồ Ðề này”.
Do đó, biết rằng Phật cảm khắp pháp giới, Phật ứng khắp pháp giới. Phật
thật sự chưa từng khởi tâm động niệm, có ý tưởng đến đi, nhưng có thể
khiến cho chúng sanh duyên đã thành thục thấy Ngài đến đây tiếp dẫn vãng
sanh Tây Phương. Cho nên Phật chẳng phải là một, chẳng phải là hai. Chỉ
nêu đại ý để sanh chánh tín mà thôi.
* Phải biết rằng pháp môn Tịnh Ðộ chính là để nhiếp phục người thượng
thượng căn. Vì thế, Thiện Tài đã chứng Ðẳng Giác, Phổ Hiền Bồ Tát vẫn
dạy dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh ngõ hầu viên mãn
Phật Quả; nhân đó, khuyên khắp Hoa Tạng hải chúng. Do vậy, ta biết rằng
một pháp hồi hướng vãng sanh Tịnh Ðộ chính là pháp tối hậu để viên mãn
Phật Quả.
Ðời có kẻ cuồng chẳng hiểu kỹ giáo lý, thấy ngu phu, ngu phụ đều tu
được pháp này bèn khinh rẻ, cho là pháp Tiểu Thừa, chẳng biết rằng đây
chính là pháp môn đệ nhất một đời thành Phật, thành thỉ, thành chung của
Hoa Nghiêm.
Cũng có kẻ ngu tri kiến hẹp kém, nghĩ mình công phu cạn mỏng, nghiệp
lực sâu dày, làm sao sanh ngay được; chẳng biết rằng tâm tánh chúng sanh
và tâm tánh của Phật chẳng hai. Ngũ nghịch, thập ác sắp đọa địa ngục, gặp
thiện tri thức dạy cho niệm Phật đủ cả mười tiếng hoặc chỉ mấy tiếng rồi liền
chết đi, còn được vãng sanh. Lời Quán kinh dạy cớ sao chẳng tin?
Bọn họ còn vãng sanh, huống hồ chúng ta dù còn tội nghiệp, dù ít công
phu, sánh với kẻ thập ác ngũ nghịch kia [chỉ niệm] mười tiếng hay là mấy
tiếng, còn vượt trội hơn rất nhiều, lẽ nào tự vội vàng bỏ qua đến nỗi đánh
mất lợi ích vô thượng này?
Như Lai gọi pháp môn Tịnh Ðộ này là pháp khó tin là vì hạ thủ dễ lại
thành công cao, dùng công ít được hiệu quả nhanh. Chí viên, chí đốn, thẳng
tắt, rộng lớn, giản dị, vượt trội hết thảy giáo lý thông thường. Chẳng phải
xưa vốn đã có thiện căn, quyết sẽ khó tin nhận, phụng hành. Tôi thường nói:
“Cửu giới chúng sanh lìa khỏi pháp môn này thì trên chẳng thể viên thành
Phật đạo. Mười phương chư Phật bỏ pháp môn này thì dưới chẳng thể lợi
khắp quần manh” là chuyện thực vậy.

* Pháp môn Tịnh Ðộ độ khắp ba căn, chính là để tiếp độ căn khí thượng
thượng, kiêm tiếp dẫn hạng trung hạ căn. Kẻ ngu thường hay chê là pháp
thiển cận, Tiểu Thừa; nói chung là vì chẳng xem kinh luận Ðại Thừa, chưa
phải là người thông suốt có đủ con mắt. Chỉ dùng cái tâm điên đảo, chấp
trước của mình để suy lường đạo nguyên thủy trọng yếu, chung cục của Như
Lai. Như kẻ mù ngó mặt trời, như người điếc nghe sấm, đương nhiên chẳng
thấy, chẳng nghe, chỉ đành suy luận vọng tưởng!
Phải biết một pháp tín nguyện niệm Phật là do Như Lai vì bi tâm triệt để
phổ độ chúng sanh mà tuyên thuyết. Chỉ có các vị Bồ Tát như Quán Âm,
Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền mới có thể rốt ráo đảm đương. Bọn họ thấy ngu
phu, ngu phụ đều niệm Phật được bèn coi là pháp Tiểu Thừa thiển cận, khác
nào ngôi sao bé chỉ chiếm lãnh được khoảng trời nhỏ, con trùng bé chỉ bò
được khoảng đất hẹp!
Nếu tin tưởng được pháp này thì là nhiều kiếp đã trồng sâu thiện căn.
Nếu có thể dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật, nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối thì cái tâm phàm phu đó biến thành Như Lai Tạng, như người
nhiễm hương, thân có mùi thơm. Hiện tại đã tiếp xúc với khí phận của Phật
thì lúc lâm chung lại chẳng cảm ứng đạo giao, được Phật tiếp dẫn hay sao?

---o0o---

3. Khuyên đầy đủ tín nguyện

* Dù kính cẩn tu trì Ngũ Giới, Thập Thiện, được thân trời người, nhưng
phước lạc nhân gian lại chính là cội rễ đọa lạc. Dù trên trời phiền hoặc chẳng
mãnh liệt như trong nhân gian, nhưng một khi phước trời đã tận, nhất định
sẽ đọa xuống. Do túc phước chưa tận, nên được hưởng phước. Do hưởng
phước nên tạo nghiệp. Ðã tạo nghiệp rồi thì đọa lạc ác đạo chỉ trong khoảng
nháy mắt, một hơi thở thôi! Huống hồ có kẻ khi mạng trời đã hết, vì sức ác
nghiệp đời trước đã chín, liền đọa ngay vào ác đạo!
Vì thế, cổ đức bảo người tu hành nhưng không có chánh niệm tu trì Tịnh
nghiệp, chỉ được phước báo trời người thì gọi là oán thù đời thứ ba. Kinh
Pháp Hoa nói: “Tam giới không yên, giống như nhà lửa. Thật đáng sợ
hãi”. Người biết tốt xấu phải gấp cầu xuất ly để được yên ổn mới là kế sách
bậc thượng vậy.

* Một pháp Niệm Phật là cậy vào Phật lực để thoát tam giới, sanh về
Tịnh Ðộ. Nay đã chẳng phát nguyện thì có tín chăng? (Người tin thật sự ắt sẽ
phát nguyện tha thiết). Tín nguyện đều không, chỉ niệm Phật danh thì thuộc
về Tự Lực. Vì không tín nguyện nên chẳng thể cảm ứng đạo giao cùng
hoằng thệ của đức Di Ðà. Nếu đã hết Kiến Tư Hoặc, có lẽ được vãng sanh.
Còn nếu hoàn toàn chưa đoạn hay chưa đoạn hết sạch thì nghiệp căn vẫn
còn, làm sao thoát ngay khỏi luân hồi cho được? Ngũ Tổ Giới Diễn, Thảo
Ðường Thanh v.v... chính là những chứng cớ xác thực.
Phải biết rằng không có tín nguyện mà niệm Phật sẽ chẳng khác gì tham
cứu bên Tông, bên Giáo. Dù có được vãng sanh nhưng nhân quả chẳng phù
hợp với nhau! Ngài Ngẫu Ích nói: “Ðược vãng sanh hay không toàn là do có
tín nguyện hay không. Phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay
cạn”. Ðấy chính là phán định chắc như sắt vậy.

* Bình sinh tuyệt chẳng có tín nguyện thì khi lâm chung nhất định khó
cậy vào Phật lực. Ðã bảo là “thiện ác đồng thời cùng hiện ngay” thì chẳng
luận là bốn chữ A Di Ðà Phật chẳng hiện nên chẳng được vãng sanh, mà dù
có hiện cũng chẳng được vãng sanh! Vì sao vậy? Do chẳng nguyện vãng
sanh, do chẳng cầu Phật, nên chẳng được Phật tiếp dẫn. Kinh Hoa Nghiêm
nói: “Giả sử ác nghiệp có thể tướng thì mười phương hư không chẳng thể
chứa đựng nổi”. Cổ đức nói: “Như người mắc nợ, chủ nợ nào mạnh sẽ kéo
đi trước”. Tâm tình đa đoan, đặt nặng nơi nào sẽ rơi về đó. Nay thiện ác đều
hiện, do không có tín nguyện, chẳng thể làm gì ác nghiệp được! Phải biết
rằng: Cậy vào tự lực thì nếu còn một mảy ác nghiệp sẽ chẳng thể xuất ly
sanh tử, huống là nhiều ác nghiệp?
Lại nếu không tín nguyện, dù niệm đến Nhất Tâm thì trong vô lượng vô
biên người như thế, may ra có một hai người được vãng sanh. Quyết chẳng
thể lấy đó làm gương để cắt đứt thiện căn của hết thảy người vãng sanh Tịnh
Ðộ trong đời sau.
Vì cớ sao? Người có thể cậy vào tự lực, niệm đến mức nghiệp tận tình
không, chứng Vô Sanh Nhẫn, trong cả cõi đời ít có được một, hai. Nếu ai
nấy tu hành theo cách đó, bỏ Tín Nguyện chẳng theo, thì những chúng sanh
bình thường sẽ ở mãi trong biển khổ, không cách nào xuất ly, đều là do bị
một lời này chèn ép cả. Thế mà kẻ ấy vẫn dương dương đắc ý, cho mình là
thật cao, chẳng biết mình bị đoạn Phật huệ mạng, là chúng sanh ngu si nói
cuồng. Buồn thay!
Với pháp Tịnh Ðộ, phải tránh nhìn bằng một mắt, chẳng được đem
những giáo nghĩa thông thường để so bì. Nếu Như Lai chẳng mở ra pháp này
thì sự liễu sanh thoát tử của chúng sanh đời mạt sẽ chẳng thể thấy được.

* Hãy thường nên phát tâm quyết định, lâm chung quyết định muốn
được sanh về Tây Phương. Ðừng nói là chẳng muốn thọ lại thân người tầm
thường, ngay cả thân vua trong cõi trời người và xuất gia làm Tăng, nghe
một ngộ cả ngàn, đắc đại tổng trì, hoằng hóa đại pháp, làm thân cao tăng lợi
khắp chúng sanh cũng coi như chỗ chất chứa tội lỗi, độc hại, tâm quyết định
chẳng sanh một niệm muốn thọ. Quyết định như thế thì tín nguyện hạnh của
mình mới cảm được thệ nguyện của Phật, mới được Phật nhiếp thọ. Cảm
ứng đạo giao, được Phật tiếp dẫn, thẳng lên cửu phẩm, vĩnh viễn thoát khỏi
luân hồi.

* Phải biết rằng: Tây phương Cực Lạc thế giới, đừng nói là phàm phu
chẳng đến được, ngay cả thánh nhân Tiểu Thừa cũng chẳng đến được vì nơi
ấy thuộc về cảnh giới Ðại Thừa chẳng thể nghĩ bàn. Tiểu thánh hồi tâm
hướng đại thì liền đến được. Phàm phu nếu không có tín nguyện để cảm
Phật, dù tu hết thảy các hạnh thù thắng khác lẫn hạnh trì danh thù thắng cũng
chẳng thể vãng sanh. Vì thế, Tín - Nguyện là tối khẩn yếu. Ngài Ngẫu Ích
nói: “Ðược vãng sanh hay chăng toàn là do có tín nguyện hay không, phẩm
vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế
cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ tin cho tới,
dám chắc Tây Phương ông phải có phần.

* Nếu luận về pháp môn Niệm Phật thì chỉ có ba pháp Tín - Nguyện -
Hạnh là tông yếu. Ðầy đủ ba pháp, quyết định vãng sanh. Nếu không có tín
thật, nguyện thiết, dù có chân hạnh cũng chẳng thể vãng sanh, huống là kẻ tu
hành hời hợt, qua loa ư? Ngài Ngẫu Ích từng bảo: “Ðược vãng sanh hay
chăng toàn là do có tín nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do
trì danh sâu hay cạn”. Bởi lẽ, pháp này cả ba đời chẳng dễ thường bàn, là
đạo mầu độ khắp ba căn. Hãy nên dốc trọn toàn thân nương về tu tập, mới
hòng chứng được lợi ích thật sự.
Ba thứ Tín - Nguyện - Hạnh sách Thập Yếu đã giảng rõ từng thứ. Nhưng
trọng yếu nhất là trong phần giảng về Ngũ Trùng Huyền Nghĩa của sách Yếu
Giải, phần thứ ba là Minh Tông (minh định tông thú của kinh) đã phát huy
ba pháp này tinh tường bậc nhất. Tiếp đó, trong mỗi một đoạn văn, Tổ đều
giảng giải về Tín - Nguyện - Hạnh. Hãy nên đọc thật kỹ cuốn sách chẳng thể
thiếu này.

* Muốn sanh Tây Phương, trước hết phải có tín thật, nguyện thiết. Nếu
không có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dù cho tu hành vẫn chẳng thể
cảm ứng đạo giao cùng Phật, chỉ được phước báo nhân thiên và tạo thành cái
nhân đắc độ trong đời vị lai mà thôi. Nếu đầy đủ Tín - Nguyện thì [được
vãng sanh] vạn người chẳng sót một ai. Tổ Vĩnh Minh bảo: “Vạn người tu,
vạn người đến” là nói về Tín Nguyện Hạnh đấy!

* Phàm lễ bái, đọc tụng kinh điển Ðại Thừa và làm hết những việc lợi
ích người đời thảy đều đem hồi hướng Tây Phương, chẳng cứ gì niệm Phật
mới hồi hướng Tây Phương được. Nếu đem các công đức khác hồi hướng về
phước báo thế gian thì niệm chẳng quy một mối, càng khó vãng sanh. Phải
biết rằng nếu thật sự niệm Phật sẽ chẳng cầu phước báo thế gian, nhưng tự
được hưởng phước báo thế gian. Nếu cầu phước báo thế gian, chẳng chịu hồi
hướng vãng sanh thì phước báo thế gian đạt được đó sẽ trở thành tệ kém.
Tâm chẳng chuyên nhất nên càng khó quyết định vãng sanh!

* Người niệm Phật chỉ nên chân thành, thiết tha niệm Phật, tự có thể
nương vào Phật tự lực tránh khỏi nạn đao binh, lửa, nước. Chỉ khi nào vì túc
nghiệp lôi kéo hoặc do trọng báo địa ngục chuyển thành báo nhẹ trong hiện
đời thì mới mắc phải những nạn ấy. Nhưng do thường ngày lòng tin chân
thành, nguyện thiết tha, nên ngay khi ấy được Phật tiếp dẫn. Dù hiện tại
chưa chứng tam muội nhưng đã dự vào dòng thánh. Tự thân như hình bóng,
đao binh thủy hỏa chẳng trở ngại chi. Dù hiện tại gặp phải tai ương, thật
chẳng bị khổ. Cả thế giới mênh mông, mấy ai được như vậy chăng?

* Nguyện lìa Sa Bà như tù nhân mong thoát lao ngục. Nguyện sanh Cực
Lạc như cùng tử mong về lại cố hương. Nếu trước khi chưa sanh về Tịnh Ðộ
mà phải nhận lấy ngôi vua trong cõi trời người thì cũng phải coi đó là nhân
duyên đọa lạc, trọn không có một niệm mong cầu, hâm mộ. Dẫu đời sau
chuyển nữ thành nam, xuất gia từ thơ ấu, nghe một ngộ cả ngàn, đắc đại tổng
trì, cũng phải coi đó là đường quanh nẻo rẽ, trọn không có tâm niệm nào
mong mỏi cả. Chỉ mong lúc lâm chung, được Phật tiếp dẫn, vãng sanh Tây
Phương.
Ðã được vãng sanh sẽ liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, ở vào
địa vị Bổ Xứ, chứng Vô Sanh Nhẫn, nhìn lại những sự như làm vua trong
cõi trời người, xuất gia làm Tăng v.v... nào bằng Tịnh Ðộ. Tu các pháp môn
khác trải bao kiếp khó nhọc, chuyên cần, nào được giải thoát! Như lửa đóm
sánh với vầng mặt trời rạng rỡ, như gò mối sánh cùng Thái Sơn, khó ngăn
buồn thương, khó kìm run rẩy! Bởi vậy, người tu Tịnh Ðộ trọn chẳng thể
cầu những sự như hưởng phước lạc nhân thiên trong đời sau và đời sau xuất
gia làm Tăng!
Nếu có chút mảy may mong cầu đời sau thì là chẳng có lòng tin chân
thành, nguyện thiết tha, đối với thệ nguyện của đức Di Ðà sẽ bị cách trở,
chẳng thể cảm ứng đạo giao, được Phật tiếp dẫn! Như vậy là đã dùng diệu
hạnh thù thắng chẳng thể nghĩ bàn tạo thành phước nhân hữu lậu trong cõi
nhân thiên.
Vả nữa, lúc hưởng phước ắt sẽ tạo nghiệp. Ðã tạo ác nghiệp ắt khó tránh
ác báo. Như bỏ chất độc vào đề hồ khiến người uống vào phải chết. Kẻ
chẳng khéo dụng tâm, mắc họa như thế. Phải nên triệt để cắt đứt ý niệm ấy
mới hòng được lợi ích hoàn toàn nơi Tịnh Ðộ, toàn thân thọ dụng vậy!

* Dù thọ cả trăm năm, chỉ trong khoảng khảy ngón tay, thở hắt ra một
hơi là chẳng còn nữa! Hãy tìm đường thoát; chớ để đến lúc lâm chung, hối
cũng chẳng kịp! Thường nhớ kinh dạy: “Thân người khó được, trung quốc
khó sanh, Phật pháp khó nghe, tín tâm khó khởi”. Nay may đủ cả bốn điều,
càng phải nên nỗ lực như đã lên được núi báu, phải tìm cho được ngọc Ma
Ni.
Chúng sanh vì còn trong địa vị phàm phu, chưa đoạn Hoặc Nghiệp, sanh
tử giải quyết chưa xong, khó tránh đọa lạc; cho nên, đức Như Lai cực lực
khuyên chúng sanh phát tâm chân tín và nguyện tâm thiết tha, trì danh hiệu
Phật cầu sanh Tịnh Ðộ. Ðem hết thảy công đức đã tạo: cúng dường Tam
Bảo, giữ giới cả đời... chẳng cầu phước báo đời sau trong cõi nhân thiên,
chẳng cầu đời này trường thọ, khỏe mạnh, yên vui, chỉ cầu lâm chung vãng
sanh Tịnh Ðộ thì phù hợp với thệ nguyện của Phật, cảm ứng đạo giao, chắc
chắn được mãn nguyện. Như người rớt xuống biển, có thuyền đến cứu, nếu
chịu lên thuyền sẽ lên được bờ kia.
Cầu phước nhân thiên, chẳng cầu vãng sanh như chẳng lên thuyền, khó
khỏi chết chìm. Phật muốn ông siêu phàm nhập thánh, ông lại chỉ nguyện
được phước hữu lậu. Một khi phước báo đã hết, vĩnh viễn đọa trong đồ.
Khác nào dùng ngọc Ma Ni để ném chim sẻ, được thì ít, mất quá nhiều.
Chẳng tiếc lắm ư? Hãy nên tự cảnh tỉnh!

* Nếu muốn trong đời này được hưởng lợi ích chân thật, hãy nên nương
vào pháp môn Tịnh Ðộ, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì
quyết định được liễu sanh thoát tử. Nếu chẳng y vào pháp môn Niệm Phật,
đừng kể chi kẻ chưa được chân truyền Phật giáo, ngay cả kẻ đã được chân
truyền cũng chẳng thể liễu sanh thoát tử. Vì sao thế? Dù được chân truyền,
đại triệt, đại ngộ, nhưng vẫn chưa thật chứng. Có chứng mới liễu sanh thoát
tử được, chứ chỉ ngộ thì chẳng thể liễu!
Tu các pháp môn khác đều phải đoạn Hoặc chứng chân mới có thể liễu
sanh thoát tử. Tu pháp môn Tịnh Ðộ chỉ cần đủ tín thật, nguyện thiết, trì
danh hiệu Phật, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, Chánh -Trợ
cùng hành, chẳng những được vãng sanh mà phẩm vị còn ưu thắng nữa.
Chẳng riêng kẻ tin tưởng thuần thành, siêng tu được vãng sanh, mà hạng ngũ
nghịch thập ác sanh lòng hổ thẹn lớn lao, chí tâm niệm Phật mấy tiếng thì
ngay lúc mạng chung nhất định được vãng sanh. Do lòng từ rộng lớn của
Phật, chuyên vì sự nghiệp độ sanh, nhất niệm hồi quang liền được nhiếp thọ.
Như thế gọi là “nương Phật từ lực, đới nghiệp vãng sanh”.
Chúng sanh đời mạt chẳng nương theo Tịnh Ðộ, tu các pháp môn khác
chỉ được phước báo nhân thiên và tạo nhân duyên đắc độ cho đời vị lai mà
thôi. Do không sức đoạn Hoặc, gốc sanh tử vẫn còn, dễ hồ chẳng nảy mầm
mộng sanh tử nữa ư?

* Pháp Niệm Phật trọng tại tín - nguyện. Tín nguyện chân thiết, dù trong
tâm chưa thanh tịnh cũng được vãng sanh. Vì sao vậy? Do chí tâm niệm
Phật là năng cảm, nên A Di Ðà Phật liền năng ứng. Như nước trong sông,
biển, chưa thể dứt sạch tướng động; nhưng nếu không gió cuồng, sóng to thì
vầng trăng rạng ngời trên không sẽ hiện bóng lồ lộ. Cảm ứng đạo giao như
mẹ con nhớ nhau. Pháp khác chuyên trọng tự lực, chẳng nhờ vào Phật lực.
Cứ do đấy mà hiểu được nghĩa này vậy.
* Ước theo những cách giảng dạy thông thường thì còn trong địa vị
phàm phu muốn liễu sanh thoát tử thật chẳng phải chuyện dễ. Nếu ước theo
pháp môn đặc biệt tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ thì ngay trong
hiện đời ắt được liễu thoát. Nếu như đầy đủ tín thật, nguyện thiết thì trong
vạn người nhất định chẳng sót một ai. Chúng sanh đời mạt chỉ có mỗi một
pháp này đáng để nương cậy. Bởi thế, khi vận mạng đạo pháp ngày càng suy
giảm thì pháp này càng thích đáng căn cơ, thiện tri thức càng đề xướng thiết
tha. Chân thật tu trì liền được vãng sanh, là điều chứng nghiệm từng thấy.

* Pháp môn Tịnh Ðộ lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông. Có tín
nguyện thì chẳng luận tu hành nhiều - ít, cạn - sâu đều được vãng sanh.
Không tín nguyện dẫu đạt đến địa vị cả Năng lẫn Sở cùng mất, hồi thoát căn
trần thì cũng khó được vãng sanh.
Nếu như thật sự đạt được Thật Lý Năng lẫn Sở cùng mất, hồi thoát căn
trần, có thể cậy vào tự lực để liễu sanh thoát tử thì chẳng phải bàn đến nữa.
Nhưng nếu công phu chưa thấy được lý này, vẫn còn chưa thật chứng, nếu
không có tín nguyện, cũng khó vãng sanh.
Thiền gia giảng Tịnh Ðộ quy về Thiền tông, bỏ qua tín nguyện. Nếu thật
sự y theo đó mà tu, họa may được khai ngộ, nhưng chưa đoạn Hoặc nghiệp,
muốn liễu sanh tử thì có mơ cũng mơ chẳng được. Bởi phàm phu vãng sanh
là do tín nguyện cảm Phật, nên có thể nương vào Phật từ lực đới nghiệp
vãng sanh. Nay đã chẳng sanh tín nguyện, lại toan đem Phật lẫn cõi nước
quy hết vào tự tâm, làm sao cảm Phật được? Cảm ứng chẳng phù hợp thì
chúng sanh là chúng sanh, Phật là Phật, biến pháp Hoành Siêu (siêu việt tam
giới theo chiều ngang) thành pháp Thụ Xuất (thoát tam giới theo chiều dọc),
được lợi thì ít nhưng lại bị tổn hại rất sâu! Chẳng thể không biết điều này!
Ðược lợi là do tuân theo thuyết ấy, họa chăng được khai ngộ. Còn bị tổn
hại là do bỏ đi tín nguyện sẽ không cách chi nhờ vào Phật từ lực được. Bởi
vậy, tôi bảo: “Người thực sự tu Tịnh Ðộ chẳng được dùng đến lời khai thị
của nhà Thiền, vì tông chỉ của pháp môn bất đồng vậy”.

ẤN QUANG ÐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC, HẾT PHẦN I


(dịch xong ngày 13 tháng 12 năm 2003)

---o0o---

PHẦN 2

III. CHỈ DẠY PHƯƠNG PHÁP TU TRÌ


1. Giảng về phương pháp Niệm Phật

* Ðã có lòng tin chân thành, nguyện thiết tha thì hãy nên tu chánh hạnh
Niệm Phật. Lấy Tín - Nguyện để dẫn đường, lấy niệm Phật làm chánh hạnh.
Ba thứ Tín - Nguyện - Hạnh chính là tông yếu của pháp môn Niệm Phật. Có
Hạnh nhưng không có Tín - Nguyện sẽ chẳng thể vãng sanh. Có Tín -
Nguyện nhưng thiếu Hạnh cũng chẳng thể vãng sanh. Ba thứ Tín - Nguyện -
Hạnh đầy đủ không thiếu sẽ quyết định được vãng sanh. Ðược vãng sanh
hay không toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn
là do công trì danh sâu hay cạn.
Về chánh hạnh niệm Phật nên tùy sức mỗi người mà lập, chẳng thể chấp
chặt một bề. Nếu thân mình không bận việc, cố nhiên nên từ sáng đến tối, từ
đêm đến sáng, đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, im lặng, động, tịnh, ăn cơm,
mặc áo, đại tiện, tiểu tiện, trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, giữ sao cho một
câu hồng danh thánh hiệu chẳng rời tâm, miệng! Nếu rửa ráy, súc miệng
thanh tịnh, áo mũ chỉnh tề và nơi chốn thanh tịnh thì niệm Phật ra tiếng hoặc
niệm thầm đều được cả.
Còn lúc ngủ nghỉ, lúc thân hình hở hang, tắm gội, đại tiểu tiện, cũng như
khi đến chỗ dơ bẩn chẳng sạch, chỉ nên thầm niệm, đừng niệm ra tiếng.
Thầm niệm cũng có cùng một công đức [với niệm ra tiếng]. Niệm ra tiếng
chẳng cung kính. Chớ bảo ở những chỗ ấy chẳng thể niệm Phật. Phải biết là
ở những nơi ấy, chẳng được niệm ra tiếng mà thôi. Hơn nữa, lúc nằm ngủ
nếu niệm ra tiếng chẳng những không cung kính lại còn bị tổn khí. Chẳng
thể không biết điều này!

* Dù là niệm Phật lâu ngày chẳng hề gián đoạn, nhưng mỗi sáng chiều
nên hướng về Phật lễ bái. Lễ xong, trước hết, niệm một biến kinh A Di Ðà,
ba biến chú Vãng Sanh; đoạn niệm tám câu kệ tán Phật: “A Di Ðà Phật thân
kim sắc...” Niệm kệ xong, niệm“nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại
từ đại bi A Di Ðà Phật”. Tiếp đó, niệm sáu chữ “nam mô A Di Ðà
Phật” một ngàn lần hoặc năm trăm lần, nên vừa nhiễu Phật vừa niệm. Nếu
chẳng tiện nhiễu Phật thì quỳ, hoặc ngồi, hoặc đứng niệm đều được cả.
Lúc niệm gần xong, bèn trở về chỗ, quỳ niệm Quán Âm, Thế Chí, Thanh
Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát, mỗi danh hiệu ba lượt. Sau đấy mới niệm Tịnh
Ðộ Văn phát nguyện hồi hướng vãng sanh. Khi niệm Tịnh Ðộ Văn phải
nương theo văn nghĩa mà phát tâm. Nếu tâm chẳng nương theo văn sẽ thành
ra uổng công đọc xuông, chẳng được lợi ích thật sự! Ðọc Tịnh Ðộ Văn xong
niệm Tam Quy Y, lễ bái lui ra. Ðây là công khóa sáng, buổi tối cũng như
vậy.
Nếu muốn lễ bái nhiều hơn thì khi trở về chỗ, sẽ lễ Phật bao nhiêu lạy
đó, xưng danh Bồ Tát chín lượt, lễ chín lạy. Lễ xong, phát nguyện hồi
hướng. Hoặc lễ bái lúc niệm xong công khóa, miễn sao tiện cho mình là
được. Nhưng phải khẩn thiết, chí thành, đừng làm lếu láo, qua loa. Bồ đoàn
chẳng được cao quá, cao là chẳng cung kính!
Nếu như công việc bộn bề, không lúc rảnh rỗi, thì sáng tối sau khi rửa
ráy, súc miệng xong, nếu có tượng Phật thì nên lễ Phật ba lạy, đứng ngay,
niệm nam mô A Di Ðà Phật. Hết một hơi là một niệm. Niệm đến mười hơi
liền niệm Tiểu Tịnh Ðộ Văn, hoặc chỉ niệm bốn câu kệ “nguyện sanh Tây
Phương Tịnh Ðộ trung...”. Niệm xong, lễ Phật ba lạy, lui ra.
Nếu không có tượng Phật thì hướng về Tây xá lạy, chiếu theo cách trên
mà niệm. Ðây là phép Thập Niệm do ngài Từ Vân Sám Chủ đời Tống vì
hàng vương giả, đại thần quá bận rộn việc triều chánh, không rảnh để tu trì
mà lập ra. Vì sao dạy niệm hết một hơi? Là vì chúng sanh tâm tán loạn, lại
không rảnh để chuyên niệm. Lúc niệm như vậy, họ sẽ mượn khí để nhiếp
tâm, tự tâm chẳng tán. Phải tùy theo hơi dài hay ngắn, chẳng được cưỡng
niệm cho nhiều đến nỗi tổn khí.
Lại chỉ nên niệm mười hơi, chẳng được niệm hai mươi, ba mươi hơi.
Niệm nhiều hơi cũng tổn khí. Vì tán tâm niệm Phật khó được vãng sanh nên
pháp này khiến cho tâm quy một chỗ, nhất tâm niệm Phật, quyết định vãng
sanh. Số câu niệm tuy ít, công đức rất sâu. Người cực nhàn, kẻ cực bận đều
có pháp tắc. Còn kẻ nửa nhàn, nửa bận hãy tự nên châm chước để lập thành
pháp tắc tu trì.

* Một pháp Niệm Phật chính là diệu pháp bậc nhất để bỏ trần lao, quay
về giác, phản bổn quy nguyên. Ðối với người tại gia, pháp này lại càng thân
thiết. Vì người tại gia, thân trong lưới trần, công việc đa đoan, đối với những
việc như nhiếp tâm tham thiền, tụng kinh trong tịnh thất... do hoàn cảnh sẽ
chẳng làm được nổi hoặc chẳng đủ sức. Chỉ có mình pháp Niệm Phật là
thuận tiện nhất.
Sáng tối đối trước Phật, tùy phận, tùy sức lễ bái, trì niệm, hồi hướng,
phát nguyện. Ngoài ra thì đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, im lặng, động, tịnh,
mặc áo, ăn cơm, hết thảy thời, hết thảy chỗ đều niệm được cả. Nhưng ở nơi
sạch sẽ, lúc cung kính thì niệm ra tiếng hay niệm thầm đều được. Còn như ở
những nơi chẳng sạch sẽ (như vào nhà tiêu chẳng hạn) hoặc nhằm lúc chẳng
cung kính (chẳng hạn như đang nằm ngủ, tắm gội...) chỉ nên niệm thầm,
chẳng nên niệm ra tiếng, chứ chẳng phải là ở những chỗ ấy, nhằm lúc ấy,
không được niệm!
Nằm ngủ niệm ra tiếng thì chẳng những không cung kính, lại còn bị tổn
khí, lâu ngày thành bệnh. Công đức niệm thầm giống hệt công đức niệm
bình thường. Ấy là: “Niệm ở đâu sẽ ở đó. Ngay thẳng cũng do đấy, mà điên
đảo cũng bởi đấy”.

* Ðối với những điều như: Muốn tâm chẳng tham sự vật bên ngoài,
chuyên niệm Phật nhưng chẳng thể chuyên, cứ toan chuyên chuyện khác;
chẳng thể niệm, cứ muốn niệm những sự khác; chẳng thể nhất tâm, cứ muốn
nhất tâm nơi chuyện khác v.v... thì chẳng có pháp tắc kỳ đặc, áo diệu nào
khác cả; cứ lấy một chữ Tử dán ngay trên trán, rủ xuống tận lông mày, tâm
luôn nghĩ:
“Ta là người nào mà từ vô thỉ mãi cho đến đời này đã tạo ác nghiệp vô
lượng, vô biên. Giả sử ác nghiệp có thể tướng thì tận mười phương hư không
chẳng thể chứa đựng nổi. Ðời trước do may mắn nào, nay được thân người,
lại được nghe Phật pháp. Nếu chẳng nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây
Phương, khi một hơi thở ra chẳng trở lại, quyết sẽ phải thọ khổ trong vạc sôi,
lò than, rừng gươm, núi đao nơi địa ngục, chẳng biết phải trải qua mấy kiếp.
Dù thoát địa ngục, lại đọa vào ngạ quỷ, bụng to như biển cả, họng bé
như chiếc kim, đói khát bao kiếp dài lâu. Trong họng lửa cháy, chẳng được
nghe đến tên chất tương hay nước, khó được no lòng chốc lát. Từ ngạ quỷ
ra, lại làm súc sanh: bị người cưỡi cổ, hoặc gieo thân vào bếp núc nhà người.
Dù được làm người, cũng ngu si, vô trí, coi tạo nghiệp là đức năng, coi tu
thiện là gông cùm. Chẳng qua mấy mươi năm lại bị đọa lạc; trải qua kiếp số
nhiều như cát bụi luân hồi lục đạo. Dù có muốn xuất ly, cũng chẳng biết làm
sao!”.
Nghĩ được như thế thì những việc mong muốn nói trên sẽ thành tựu
được ngay. Bởi thế, ông Trương Thiện Hòa, Trương Chung Quỳ, lâm chung
tướng địa ngục hiện, niệm Phật mấy tiếng liền tận mắt thấy Phật đến tiếp dẫn
vãng sanh. Lợi ích như thế, trăm ngàn vạn ức pháp môn khác trong cả một
đời giáo hóa của Ðức Phật đều không có. Tôi thường nói: “Cửu giới chúng
ta rời pháp này thì trên là chẳng thể viên thành Phật đạo. Mười phương chư
Phật bỏ pháp này thì dưới là chẳng thể lợi khắp quần sanh” chính là vì lẽ
này.

* Nếu niệm Phật tâm khó quy nhất thì nên nhiếp tâm niệm khẩn thiết,

tâm sẽ tự có thể quy nhất. Tâm chẳng chí thành, muốn nhiếp tâm cũng

chẳng được. Nếu đã chí thành, nhưng vẫn chưa thuần nhất thì hãy nên

lắng tai nghe kỹ; chẳng luận là niệm ra tiếng hay niệm thầm, mỗi niệm
đều phải từ tâm khởi, tiếng từ miệng thoát ra, âm thanh lọt vào tai (khi

niệm thầm, miệng chẳng động, nhưng trong ấy vẫn có thanh tướng). Tâm

và miệng niệm được rõ ràng, tách bạch; tai nghe cho rõ ràng, phân minh.

Nhiếp tâm như thế vọng niệm sẽ tự dứt.

Nếu sóng vọng tưởng vẫn còn trào dâng thì dùng ngay pháp Thập Niệm
Ký Số, dốc toàn bộ sức lực của tự tâm đặt vào mỗi câu Phật hiệu thì vọng
muốn khởi cũng chẳng đủ sức. Diệu pháp nhiếp tâm niệm Phật rốt ráo này
các vị hoằng dương Tịnh Ðộ trước kia chưa nhắc đến vì căn tánh người thời
ấy còn lanh lợi, chẳng cần phải làm vậy vẫn có thể quy nhất. Ấn Quang vì
tâm khó chế phục, mới biết cách này mầu nhiệm, càng thực hành càng thấy
hiệu nghiệm, chứ chẳng phải là tự tiện nói mò. Xin chia sẻ cùng những
người độn căn trong khắp thiên hạ đời sau ngõ hầu vạn người tu, vạn người
về.
Pháp Thập Niệm Ký Số vừa nhắc đến đó như sau: Trong khi niệm Phật,
từ một câu đến mười câu phải niệm cho phân minh, nhớ số phân minh. Niệm
hết mười câu lại niệm từ một câu đến mười câu, chẳng được niệm hai mươi,
ba mươi câu. Niệm câu nào nhớ câu nấy, chẳng được lần chuỗi, chỉ dựa vào
tâm để nhớ. Nếu thấy khó nhớ cả mười câu thì chia ra làm hai hơi: từ câu
thứ nhất đến câu thứ năm và từ câu thứ sáu đến câu thứ mười. Nếu vẫn chưa
được, hãy niệm thành ba hơi: từ câu thứ nhất đến câu thứ ba, từ câu thứ tư
đến câu thứ sáu, và từ câu thứ bảy đến câu thứ mười. Niệm cho rõ ràng, nhớ
cho phân minh, nghe cho rành rẽ, vọng niệm không chỗ chen chân, lâu ngày
sẽ tự được Nhất Tâm Bất Loạn.
Phải biết là pháp Thập Niệm này nhiếp vọng giống như pháp Thập Niệm
sáng chiều, chỉ có cách dụng công là khác nhau. Pháp Thập Niệm Sáng
Chiều coi hết một hơi là một niệm, chẳng luận là số câu niệm Phật nhiều hay
ít; còn cách này cứ một câu là một niệm. Cách kia chỉ có thể niệm mười hơi
vào mỗi sáng, chiều; nếu niệm đến hai mươi, ba mươi hơi sẽ bị tổn khí thành
bệnh. Cách này niệm một câu Phật hiệu, tâm biết là một câu; niệm mười câu
Phật hiệu, tâm biết là mười câu. Từ một đến mười, rồi lại từ một đến mười.
Suốt ngày niệm mấy vạn câu đều giống như thế. Chẳng những trừ được
vọng, lại còn dưỡng thần rất hay. Dù niệm chậm hay nhanh, trọn chẳng trệ
ngại. Từ sáng đến tối, không lúc nào chẳng thích hợp.
So với cách lần chuỗi để nhớ số, lợi ích cách xa một trời một vực. Cách
nhớ số bằng chuỗi khiến thân mệt, tinh thần động. Cách Thập Niệm Ký Số
này khiến thân thong thả, tâm an nhàn. Chỉ những lúc làm việc khó nhớ nổi
số thì cứ khẩn thiết niệm. Làm việc xong, lại nhiếp tâm nhớ số thì những ý
tưởng lông bông qua lại sẽ theo nhau gom về chuyên chú nơi một cảnh Phật
hiệu. Ðức Ðại Thế Chí nói: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc
tam-ma-địa, ấy là bậc nhất”. Kẻ lợi căn chẳng cần bàn đến, còn như bọn
độn căn ta bỏ cách Thập Niệm Ký Số này lại mong “nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối” thật khó khăn lắm thay!
Lại phải nên biết rằng cách nhiếp tâm niệm Phật này chính là pháp

vừa cạn vừa sâu, vừa Tiểu vừa Ðại, chẳng thể nghĩ bàn! Chỉ nên ngửa tin

lời Phật, chớ vì mình chưa hiểu đến nơi đến chốn bèn sanh ngờ vực, đến

nỗi thiện căn nhiều kiếp do đây phải mất, chẳng thể tự rốt ráo đạt được

lợi ích, thật là đáng buồn!

Chỉ nên lần chuỗi niệm Phật trong hai lúc: đi hoặc đứng. Nếu tịnh tọa
dưỡng thần, do tay động tinh thần chẳng thể an, lâu ngày thành bệnh. Pháp
Thập Niệm Ký Số này, đi, đứng, nằm, ngồi đều thực hành được cả, nhưng
lúc nằm chỉ nên niệm thầm, chẳng được niệm ra tiếng. Nếu niệm ra tiếng thì
một là chẳng cung kính, hai là bị tổn khí. Hãy nhớ kỹ, nhớ chắc!

* Ðã có lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, phải nên chí tâm chấp trì
sáu chữ thánh hiệu “nam mô A Di Ðà Phật”. Bất luận đi, đứng, nằm, ngồi,
nói năng, im lặng, mặc áo, ăn cơm, và đại tiểu tiện v.v... đều chẳng lìa sáu
chữ hồng danh (hoặc trì bốn chữ cũng được). Cần phải niệm sao cho toàn
tâm là Phật, toàn Phật là tâm, tâm Phật chẳng hai, tâm Phật nhất như. Nếu có
thể niệm tại đâu chú tâm tại đó, niệm đến cùng cực, tình mất sạch, tâm
không, Phật hiện, sẽ chứng được tam muội ngay trong đời này. Ðến lúc lâm
chung, sanh trong Thượng Thượng Phẩm, có thể nói là đã hoàn tất sự tu trì
đến cùng cực vậy.

* Lúc niệm Phật nên tùy nghi. Nay trong Niệm Phật đường của các tùng
lâm đều niệm kinh A Di Ðà xong thì niệm chú Vãng Sanh ba biến hoặc một
biến, rồi mới xướng kệ niệm Phật. Tán kệ xong, niệm tiếp “nam mô Tây
Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Ðà Phật” rồi nhiễu niệm. Phải đi
nhiễu từ Ðông sang Nam, từ Tây sang Bắc. Ðấy là thuận tùng, là tùy hỷ.
Thuận tùng mới có công đức. Tây Vực trọng nhất là đi nhiễu. Ở phương này,
cùng thực hành cả hai cách lễ bái và đi nhiễu. Nếu đi từ Ðông sang Bắc, từ
Tây sang Nam thì là “phản nhiễu” (đi nhiễu ngược chiều) sẽ mắc tội, chẳng
thể không biết điều này! Nhiễu niệm một khắc rưỡi rồi ngồi thầm niệm. Ước
chừng một khắc lại niệm Phật ra tiếng.
Niệm xong, quỳ niệm Phật mười lần. Quan Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh
Ðại Hải Chúng, mỗi danh hiệu niệm ba lượt. Sau đấy mới niệm Phát Nguyện
Văn. Người tại gia ngại thất nhỏ khó nhiễu niệm thì đứng, quỳ hay ngồi
niệm đều được. Chỉ nên án theo tinh thần mình mà định, bất tất phải nhờ
người khác lập pháp tắc cho mình.

* Niệm Phật tuy quý ở tâm niệm, nhưng chẳng thể bỏ miệng tụng. Vì

ba thứ thân - khẩu - ý hỗ trợ nhau. Nếu tâm ức niệm, nhưng thân chẳng lễ

kính, miệng chẳng trì tụng thì cũng khó được lợi ích. Thế gian nhấc vật

nặng còn phải dùng tiếng [hò reo] để trợ lực, huống là muốn nhiếp tâm để

chứng tam muội ư?

Vì thế, kinh Ðại Tập nói: “Niệm lớn thấy Phật lớn. Niệm nhỏ thấy Phật
nhỏ”. Cổ đức bảo: “Niệm lớn tiếng sẽ hiện thân Phật lớn. Niệm nhỏ tiếng sẽ
hiện thân Phật nhỏ”. Hàng phàm phu đầy dẫy triền phược, tâm nhiều hôn
trầm, nếu chẳng nhờ vào sức thân khẩu lễ niệm mà mong được nhất tâm thật
chẳng thể được!

* Hòa Thượng Thiện Ðạo là hóa thân của đức Di Ðà, có đại thần thông,
có đại trí huệ, nhưng khi hoằng khai, xiển dương Tịnh Ðộ, Ngài chẳng luận
đến chỗ huyền diệu, chỉ chú trọng vào những điểm chân thật, thiết thực, bình
thường để dạy người tu trì. Thuyết Chuyên Tạp Nhị Tu (hai đường lối
chuyên tu và tạp tu) của Ngài dạy lợi ích vô cùng.
Chuyên Tu nghĩa là thân nghiệp chuyên lễ (đi nhiễu và trong hết thảy
chỗ đều chẳng phóng dật thì là thân nghiệp chuyên lễ), khẩu nghiệp chuyên
xưng (hễ trì tụng kinh chú đều chí tâm hồi hướng, cũng có thể gọi là chuyên
xưng), ý nghiệp chuyên niệm. Như thế thì vãng sanh Tây Phương vạn người
chẳng sót một.
Tạp Tu là kiêm tu các thứ pháp môn, hồi hướng vãng sanh. Do tâm
chẳng thuần nhất nên khó được lợi ích; trong trăm người họa may được một
hai, trong ngàn người may ra được ba bốn người vãng sanh! Ðấy là lời chân
thành phát xuất từ miệng vàng, là lời phán định chắc như sắt ngàn đời chẳng
đổi được.
* Phát Nguyện Văn, văn tuy rộng lớn, nhưng phải chân thật phát nguyện
từ nơi tâm mới gọi là Nguyện. Nếu không, tâm - miệng trái nhau, gọi là
Nguyện sao được? Muốn nguyện [được phước báo] trong hiện đời cũng
chẳng ngại gì. Muốn được phước huệ, đông con lắm cháu thì cứ cầu bằng
cách chất chứa thật nhiều âm đức, rộng hành các phương tiện.

* Niệm Phật chẳng thể bỏ qua hồi hướng. Hồi hướng chính là dùng
miệng để phát khởi tín nguyện. Nhưng chỉ nên hồi hướng sau khi hoàn tất
khóa tụng sáng tối và sau khi niệm Phật, tụng kinh giữa ngày xong. Niệm
Phật thì nên niệm từ sáng đến tối chẳng gián đoạn, chỉ cần trong tâm có ý
niệm nguyện được vãng sanh là đã luôn hồi hướng. Nếu cứ theo nghi thức
tụng văn hồi hướng sẽ chẳng luôn luôn được như vậy. Các kinh Ðại Thừa,
kinh nào cũng đều dạy chúng sanh thẳng đến Phật đạo; chỉ hận người tụng
chẳng thành tâm niệm tụng, đến nỗi chẳng được lợi ích hoàn toàn.

* Trong sinh hoạt hằng ngày, với tất cả những việc thiện nhỏ nhoi và các
thiện căn tụng kinh, lễ bái đều đem những công đức ấy hồi hướng vãng sanh.
Như thế thì hết thảy hạnh môn đều là Trợ Hạnh của Tịnh Ðộ. Giống như các
hạt bụi tụ thành đất, các dòng chảy dồn lại thành biển rộng lớn sâu thẳm, ai
có thể cùng tận được nổi!
Nhưng phải phát Bồ Ðề tâm, thệ nguyện độ sanh, tất cả công đức tu trì
hồi hướng cho khắp bốn ân, ba cõi pháp giới chúng sanh, như lửa thêm dầu,
như mạ gặp mưa. Ðã kết sâu pháp duyên cùng hết thảy chúng sanh thì sẽ
mau thành tựu hạnh Ðại Thừa thù thắng của chính mình. Nếu chẳng biết
nghĩa này thì chỉ là sự hiểu biết của phàm phu, Nhị Thừa, dù tu diệu hạnh
chỉ cảm được quả báo thấp kém!

* Nên phát nguyện vào lúc niệm Phật sáng chiều xong (với pháp Thập
Niệm sáng chiều cũng phải niệm Phật trước rồi mới phát nguyện). Hoặc là
dùng bài Tiểu Tịnh Ðộ Văn [để phát nguyện]. Nếu thân tâm rảnh rỗi thì nên
đọc bài Tịnh Ðộ Văn do Liên Trì đại sư soạn. Bài này văn từ, nghĩa lý châu
đáo, hay nhất xưa nay. Phải biết rằng phát nguyện đọc văn là nương theo văn
để phát nguyện, chứ chẳng phải chỉ đọc qua một lượt là đã phát nguyện đâu!

* Với công khóa mỗi ngày, công khóa nào cũng đều nên hồi hướng cho
pháp giới chúng sanh. Nếu đem công khóa này hồi hướng cho việc này,
công khóa kia hồi hướng cho việc kia thì chẳng phải là không được, nhưng
phải có lời phổ đồng hồi hướng thì mới tương hợp với ba thứ hồi hướng.
Ba thứ hồi hướng là:
- Một là hồi hướng về Chân Như Thật Tế, tâm tâm khế hợp.
- Hai là hồi hướng Phật Quả Bồ Ðề, niệm niệm viên mãn.
- Ba là hết thảy pháp giới chúng sanh cùng sanh Tịnh Ðộ.
Ai nấy có chí riêng, người người có nghiệp riêng (nghiệp ở đây là thức
nghiệp), nhưng tùy duyên tùy phận đều được vãng sanh cả, bất tất mọi người
phải giống hệt nhau.

---o0o---

2. Ðối trị tập khí

* Niệm Phật muốn được nhất tâm thì trước hết phải phát tâm chân thật,
thật sự vì liễu sanh tử, chẳng phải vì mong người đời gọi mình là người tu
hành chân thật. Lúc niệm, từng câu, từng chữ phải từ tâm phát khởi, từ
miệng thốt ra, lọt vào tai. Mỗi câu đều như thế, trăm ngàn vạn câu cũng đều
như thế. Làm được như thế thì vọng niệm không do đâu khởi được, tâm và
Phật tự có thể khế hợp nhau. Lại phải khéo dụng tâm, đừng đến nỗi quá chấp
trước để rồi thân tâm bất an, đến nỗi ma sự có thể phát khởi. Nhiếp trọn sáu
căn, tịnh niệm tiếp nối, hành đúng theo đây, nhất định sẽ chẳng lầm lạc.

* Lúc niệm Phật chẳng thể khẩn thiết là vì chưa biết Sa Bà là khổ, Cực
Lạc là vui! Nếu nghĩ rằng thân người khó được, trung quốc khó sanh, Phật
pháp khó nghe, pháp môn Tịnh Ðộ lại càng khó gặp. Nếu chẳng nhất tâm
niệm Phật, một hơi thở ra chẳng trở lại, chắc chắn sẽ tùy theo nghiệp nặng
nhất trong đời trước hay đời này đọa trong tam đồ ác đạo, chịu khổ bao kiếp
dài lâu trọn chẳng có kỳ ra.
Như thế là “do nghĩ khổ địa ngục, phát Bồ Ðề tâm”. Bồ Ðề tâm chính là
tâm tự lợi, lợi tha. Tâm này vừa phát sẽ như bình được sét đánh xuống, như
thuốc thêm lưu huỳnh, sức nó rất lớn lại rất nhanh chóng. [Do phát tâm Bồ
Ðề] tiêu được nghiệp chướng, tăng phước huệ, chẳng thể lấy những thiện
căn, phước đức bình thường sánh ví nổi.

* Niệm Phật nên thường tưởng như mình sắp chết, sắp đọa địa ngục, thì
chẳng khẩn thiết cũng sẽ tự khẩn thiết, chẳng tương ứng cũng tự tương ứng.
Dùng tâm sợ khổ niệm Phật chính là diệu pháp thoát khổ bậc nhất, cũng là
diệu pháp tùy duyên tiêu nghiệp bậc nhất.

* Trị tập khí trong tâm thì chỉ có siêng năng, chỉ có thiết tha, nhưng vẫn
chưa đạt, chưa thấy được tập khí tiêu trừ là vì cớ gì? Ấy là tâm sanh tử chưa
thiết tha, chỉ đem pháp siêu phàm nhập thánh, tiêu trừ Hoặc nghiệp, thành
tựu tịnh niệm này bàn suông nơi cửa miệng nên chẳng đạt hiệu quả thật sự.
Nếu như biết thân người khó được, Phật pháp khó nghe, pháp môn Tịnh
Ðộ lại càng khó gặp. Nay mình may được thân đại trượng phu, lại được nghe
pháp môn Tịnh Ðộ khó tin nhất, dám đâu để quang âm hữu hạn bị tiêu hao
hết sạch bởi sắc, thanh, của cải, lợi lộc, để rồi vẫn sống thừa, chết uổng như
cũ, vẫn lại trầm luân lục đạo, không ngày thoát ra ư?
Hãy đem ngay một chữ Tử dán vào trán. Hễ những cảnh chẳng nên tham
luyến hiện ra liền biết đấy chính là vạc sôi, lò than của chính mình, quyết sẽ
chẳng đến nỗi như con thiêu thân đâm đầu vào lửa, cam chịu đốt mình! Với
những sự mình phải nên làm sẽ biết đấy là thuyền từ để thoát khổ, quyết sẽ
chẳng đến nỗi gặp việc nhân bèn thoái thác, thấy việc nghĩa chẳng làm! Như
thế thì trần cảnh sẽ là duyên để nhập đạo, há cần phải dứt sạch trần duyên
mới kham tu đạo chăng? Bởi đã làm chủ được tâm, chẳng bị cảnh chuyển thì
trần lao chính là giải thoát.
Vì thế, kinh Kim Cang mấy lượt dạy người tâm chẳng trụ tướng, phát
tâm độ tận hết thảy chúng sanh, nhưng chẳng thấy ta là người độ, chúng
sanh là người được độ và tướng thọ giả của vô dư Niết Bàn để đắc thì mới là
thật sự hành Bồ Tát đạo. Nếu thấy có ta là người độ, chúng sanh được độ và
vô dư Niết Bàn là pháp để độ thì tuy là độ sanh, nhưng chưa thể khế hợp đạo
Nhất Thừa Thật Tướng. Vì chẳng thấu rõ bản thể của chúng sanh là Phật,
Phật tánh bình đẳng, vọng khởi phàm tình, thánh giải đến nỗi lợi ích vô vi
biến thành công đức hữu vi. Huống hồ là tham luyến, dính chặt vào thanh,
sắc, của cải, lợi lộc ư?

* Niệm Phật chẳng thể thuần nhất thì phải chế tâm, chẳng để nó chạy
theo bên ngoài. Lâu ngày sẽ tự được thuần nhất. Nói “thành phiến” (tâm
biến thành một phiến, một khối) nghĩa là thuần nhất, không tạp vậy.

* Sơ tâm niệm Phật, lúc còn chưa tự chứng tam muội, ai lại chẳng có
vọng niệm? Cốt sao tâm thường giác chiếu, chẳng chuyển theo vọng. Ví như
quân hai bên đối đầu nơi chiến lũy, ắt phải giữ vững thành quách bên mình
chẳng để quân giặc xâm phạm chút nào, chờ lúc giặc vừa phát tác, mình liền
nghênh địch, đánh trả, ắt phải dùng quân Chánh Giác bao vây bốn mặt khiến
địch không lối lên trời, không nẻo chui xuống đất. Chúng nó sợ bị tận diệt
bèn khuất phục, quy hàng.
Ðiều tối yếu là chủ soái chẳng hôn trầm, chẳng lười nhác, luôn luôn tỉnh
táo mà thôi. Nếu một phen hôn trầm, lười nhác thì chẳng những không diệt
được giặc, trái lại còn bị giặc diệt. Vì thế người niệm Phật chẳng biết nhiếp
tâm thì càng niệm, càng sanh vọng tưởng. Nếu nhiếp được tâm thì vọng
niệm sẽ dần dần mỏng nhẹ, cho đến hết sạch. Vì thế bảo:
Học đạo do như thủ cấm thành,
Trú phòng lục tặc, dạ tỉnh tỉnh,
Tướng quân chủ soái năng hành lịnh,
Bất động can qua định thái bình
(Tạm dịch:
Học đạo hệt như giữ cấm thành,
Ngày phòng sáu giặc, đêm luôn tỉnh,
Tướng quân chủ soái luôn đôn đốc,
Chẳng dấy binh đao, vững thái bình)

* Niệm Phật tâm chẳng quy nhất là do tâm sanh tử chẳng thiết tha. Nếu
luôn nghĩ như đang bị nước dâng, lửa đốt, không được cứu viện, luôn tưởng
sắp bị chết, sắp đọa địa ngục, tự tâm sẽ quy nhất, chẳng cần phải tìm diệu
pháp nào khác. Vì thế trong kinh thường nói: “Nghĩ khổ địa ngục, phát Bồ
Ðề tâm”. Ðấy chính là lời khai thị tối thiết yếu của đấng Ðại Giác Thế Tôn,
tiếc người đời chẳng chịu chân thật suy tưởng.
Nỗi khổ địa ngục so với thảm trạng nước, lửa sâu đậm hơn vô lượng, vô
biên lần. Nghĩ đến nước cuốn, lửa cháy liền run rẩy, tưởng đến địa ngục lại
hờ hững thì:
- Một là vì tâm lực nhỏ chẳng thể hiểu rõ sự khổ đó.
- Hai là khi chính mắt thấy sẽ bất giác hoảng sợ, lông tóc dựng cả lên.

* Niệm Phật cũng là cách để dưỡng khí, điều thần, mà cũng là pháp để
tham cứu bổn lai diện mục. Vì sao nói thế? Tâm chúng ta thường luôn rối
loạn, nếu chí thành niệm Phật thì sẽ thấy hết thảy tạp niệm, vọng tưởng dần
dần bị tiêu diệt nên tâm quy nhất. Quy nhất thì tự nhiên thần khí sung mãn,
thông suốt.
Ông chẳng biết niệm Phật diệt được vọng ư? Hãy thử niệm, sẽ thấy các
thứ vọng niệm trong tâm đều hiện. Nếu niệm lâu ngày sẽ tự thấy không có
các thứ vọng niệm đó nữa. Lúc đầu biết có vọng niệm là nhờ niệm Phật mới
thấy được các vọng niệm trong tâm mình. Chẳng niệm Phật sẽ chẳng thấy.
Ví như trong nhà, sạch sẽ không bụi, một ánh nắng lọt qua khe cửa sẽ
thấy không biết bao nhiêu là bụi. Bụi trong nhà do ánh mặt trời hiện rõ, vọng
niệm trong tâm do niệm Phật hiện rõ. Nếu thường niệm Phật, tự tâm sẽ
thanh tịnh. Khổng Tử hâm mộ đạo của Nghiêu, Thuấn, Châu Công, niệm
niệm chẳng quên, nên thấy Nghiêu trong canh, thấy Thuấn nơi tường, thấy
Châu Công trong mộng. Ðấy là do luôn luôn nghĩ nhớ.
Niệm Phật có khác chi? Do vì Hoặc nghiệp, tâm và miệng của chúng
sanh biến thành nhiễm ô, nên Phật dạy dùng tâm và miệng xưng niệm hồng
danh thánh hiệu A Di Ðà Phật, như người nhiễm hương, thân có mùi thơm.
Niệm lâu ngày, nghiệp tiêu, trí rạng, chướng tận, phước cao, Phật tánh sẵn
có nơi tự tâm sẽ tự hiển hiện.

* Nếu như vọng niệm đầy dạ, qua lại loang loáng, quẩn quanh nơi ý, đó
là do chưa thật sự đề khởi chánh niệm. Nếu chánh niệm chân thật, thiết tha
thì sẽ khăng khăng chuyên chú vào một cảnh chánh niệm. Như thường
nói: “Chế ngự, thuần phục đúng pháp thì giặc cướp cũng như con đỏ. Chế
ngự, thuần phục thất cách thì kẻ tay chân cũng thành oan gia”.
Còn thuộc địa vị phàm phu, ai là không phiền não? Phải luôn luôn đề
phòng sẵn thì tự nhiên khi gặp cảnh, đụng duyên, chẳng đến nỗi phiền não
bạo phát. Ví dù phiền não có phát, vẫn có thể nhanh chóng đề khởi giác
chiếu khiến phiền não tiêu diệt. Những cảnh làm phiền não khởi nào phải chỉ
có một, chỉ nêu những cảnh dễ khởi phiền não nhất thì chẳng ngoài tài, sắc
và những chuyện ngang trái mà thôi.
Nếu biết tiền tài vô nghĩa, hại hơn rắn độc thì thấy tiền tài sẽ chẳng khởi
phiền não, chỉ phương tiện cùng người [sử dụng tiền tài], chứ rốt ráo luôn
quay về tiền trình [giải thoát] của chính mình, sẽ không có phiền não “hoạn
nạn cùng quẫn, cấp bách cầu cứu, tham tiếc tiền tài chẳng bỏ được”!
Về sắc thì đối trước dung mạo như hoa, như ngọc, tâm luôn nghĩ như
chị, như em. Dù gặp gái ăn sương, vẫn nghĩ như thế, sanh lòng thương xót,
sanh tâm độ thoát, sẽ không có phiền não “thấy sắc động lòng”. Vợ chồng
kính trọng nhau như khách, coi thê thiếp như ân nhân giúp mình nối dõi tổ
tông, chẳng dám xem nhẹ họ như vật để hành lạc thỏa dục thì sẽ không có
phiền não “đắm dục diệt thân, vợ chẳng thể sanh nở, con chẳng thành
người”.
Giáo huấn con cái từ nhỏ sẽ không có phiền não “con cái ngỗ nghịch với
cha mẹ, bại hoại môn phong”. Ngay cả khi gặp cảnh trái ngang, phải sanh
lòng thương xót, thương kẻ đó vô tri, chẳng nên so đo. Lại nghĩ do mình đời
trước từng não hại kẻ đó; do vậy phải đền nợ cũ, sanh lòng hoan hỷ, sẽ
không có phiền não “trả thù kẻ trái nghịch”.
Những điều vừa nói trên chỉ dành cho người sơ cơ. Còn nếu là bậc đại sĩ
tu lâu do đã thấu rõ Ngã Không nên vô tận phiền não đều hóa thành đại
quang minh tạng, giống như đao đã mài bén, vàng đã luyện thuần. Sen nhờ
bùn vun bón mới được thanh tịnh, tươi sạch.

* Cái học của người quân tử là vì mình, niệm niệm nhắc nhở mình tự
tỉnh. Giác và mộng hệt như nhau, chỉ có công phu đến nơi mới hiểu được.
Chỉ là hễ giác liền tu trì ngay, lâu ngày, ngay trong mộng cũng chẳng làm gì
lầm lỡ!
* Người học đạo nặng đạo niệm một phần, sẽ nhẹ phàm tình một

phần, đó là lẽ tất nhiên! Người chưa đoạn Hoặc phải thường nỗ lực. Nếu

một phen phóng túng, bệnh cũ nhất định sẽ tái phát. Người đã đoạn sạch

Kiến Tư Hoặc mới nên tùy ý hành động, chẳng cần phải kiềm chế, gìn

giữ!

* Tâm tham - sân - si ai nấy đều có. Nếu biết đó là bệnh, thế lực của

chúng sẽ khó lừng lẫy được. Ví như giặc vào nhà người, nếu chủ nhân

nhà ấy tưởng là người trong nhà thì đồ trân báu của cả nhà sẽ bị nó lén

trộm mất sạch. Nếu biết nó là giặc, sẽ chẳng cho nó ở lại nhà mình dù chỉ

một khắc, ắt phải đuổi nó đi thật xa khuất mắt, mới hòng tài bảo chẳng bị

mất, chủ nhân yên vui.

Cổ đức bảo: “Bất phạ niệm khởi, đản phạ giác trì” (Chẳng sợ niệm
khởi, chỉ e biết chậm). Tham - sân - si vừa khởi lập tức biết ngay, nó sẽ lập
tức tiêu diệt. Nếu coi tham - sân - si là ông chủ chánh trong nhà mình sẽ
giống như nhận giặc làm con, của báu trong nhà ắt phải tiêu tán hết!

* Bị cảnh chuyển là sức “tháo trì” còn nông cạn. Vui - giận dấy động
bên trong hiện thành vẻ tốt - xấu ngoài mặt. “Tháo trì” có nghĩa là hàm
dưỡng. Nếu coi trọng chánh niệm thì mọi thứ khác đều xem nhẹ. Vì thế,
người thật sự tu hành phải mài luyện trong trần lao, khiến cho phiền não, tập
khí dần dần bị tiêu diệt thì mới là công phu thực sự.

* Hãy để chuyện đối trị tập khí, phiền não trong tự tâm lại đó khoan bàn
tới. Chỉ hành trì ngoài mặt, công phu bên trong trống rỗng; trái lại còn sanh
ngã mạn, coi công - lợi là đức thì càng bị tổn hại nhiều! Ví như ăn cơm phải
có rau dưa phụ trợ, lại cũng như thân thể phải dùng áo mão để trang hoàng.
Nơi con đường đạo tu hành dài lâu để liễu sanh tử, sao lại muốn thâm nhập
một môn, phế sạch các môn khác? Phế sạch các môn khác, chỉ lo đả thất16
thì còn được. Còn trong lúc thường nhật, nếu chẳng phải là bậc Bồ Tát tái lai
17
, chắc chắn chưa có một ai lại không trở thành hạng biếng nhác, ngạo mạn.
Bởi lẽ tâm phàm phu thường hay sanh chán.

Trời sanh ra vật, ắt phải mưa nắng điều hòa, nóng lạnh đắp đổi mới có thể

khiến cho mọi vật sanh thành, tạo hóa. Giả sử mưa hoài, nắng mãi, luôn

lạnh, luôn nóng thì dưới khắp gầm trời sẽ trọn chẳng có một vật gì! Huống

hồ bọn ta tâm như khỉ vượn, chẳng dùng các biện pháp đối trị, lại muốn nó

an trụ một nơi, chẳng vọng rong ruổi thì thật là khó lắm, khó lắm! Ai nấy

nên tự gắng sức, chớ nên thiên chấp một pháp, cũng đừng lan man không

đầu mối gì hết!

* Cứ hướng ngoại rong ruổi, tìm cầu, chẳng biết phản chiếu hồi quang,
học Phật như thế, thật khó được lợi ích thật sự! Mạnh Tử nói: “Ðạo học vấn
không có gì khác cả, cầu sao buông được cái tâm mà thôi”. Ông học Phật
chẳng biết lắng lòng niệm Phật thì đối với Nho giáo còn chưa thật tuân hành,
huống hồ là đối với pháp chân thật lắng tâm của Phật giáo ư?
Quán Thế Âm Bồ Tát phản văn tự tánh (xoay trở lại nghe nơi tự
tánh). Ðại Thế Chí Bồ Tát nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối. Kinh Kim
Cang không trụ vào đâu mà sanh tâm, chẳng trụ Sắc, Thanh, Hương, Vị,
Xúc, Pháp mà hành bố thí, cho đến vạn hạnh. Tâm Kinh soi thấy Ngũ Uẩn
đều không. Những pháp này đều là diệu pháp dạy người đối cảnh hiểu biết
được tâm. Nếu cứ nhất quyết muốn học rộng hết cả thì chẳng phải là không
lợi ích, nhưng vì nghiệp chướng chưa tiêu nên chưa được lợi ích, lại bị mắc
bệnh trước!

* Khi làm việc chưa thể niệm tại đâu, tâm tại đó là do chưa đạt đến cảnh
giới Nhất Tâm Bất Loạn, tâm vô nhị dụng, nên khó tránh khỏi gián đoạn.
Chỉ cần luôn giữ được tâm giác chiếu thì cũng chẳng ngại gì.

* Một sự sắc dục là bệnh chung của toàn bộ người đời. Chẳng những kẻ
trung hạ bị sắc mê hoặc; ngay cả người thượng căn, nếu chẳng tự gìn giữ,
run sợ, luôn nghĩ kiêng dè thì cũng khó tránh khỏi bị nó mê hoặc. Hãy thử
nhìn xem: từ xưa đến nay, không ít bậc hào kiệt phi thường đáng coi là bậc
thánh bậc hiền, chỉ do chẳng vượt được cái ải này lại thành ra kẻ hạ ngu, bất
tiếu, còn vĩnh viễn đọa lạc trong ác đạo.
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu lục đạo chúng sanh trong các thế giới tâm
chẳng dâm sẽ chẳng sanh tử tiếp nối. Các ông tu tam muội vốn là để thoát
trần lao, nhưng chưa trừ dâm tâm, chưa thoát khỏi trần. Người học đạo vốn
là để xuất ly sanh tử, nếu chẳng thể đau đáu trừ khử bệnh này nhất định sẽ
khó thoát lìa sanh tử”.
Như vậy, pháp môn Niệm Phật tuy đới nghiệp vãng sanh, nhưng nếu thói
quen dâm dục cố kết sẽ xa cách Phật, khó thể cảm ứng đạo giao. Ðối với họa
sắc dục này thì không gì bằng đối với hết thảy nữ nhân luôn khởi lên thân
tưởng, oán tưởng, bất tịnh tưởng.
Thân tưởng là thấy người già coi như mẹ, thấy người lớn hơn coi như
chị, coi người nhỏ hơn như em, với trẻ nhỏ coi như con gái. Dù dục tâm
mạnh mẽ, quyết chẳng thể khởi ý niệm bất chánh đối với mẹ, chị, em, con.
Thấy hết thảy nữ nhân đều là mẹ, chị, em gái, con gái mình thì đương nhiên
chế ngự được dục, dục không do đâu phát khởi được.
Oán tưởng là phàm thấy mỹ nữ, bèn khởi tâm yêu mến. Do tâm yêu mến
đó sẽ đọa ác đạo, bao kiếp dài lâu thọ khổ, chẳng thể xuất ly. Như thế thì cái
gọi là mỹ lệ, kiều mỵ còn kịch hại hơn giặc cướp, cọp, sói, rắn độc, rết dữ, tỳ
sương, trầm độc (3) gấp trăm ngàn lần. Với kẻ oán gia cực lớn ấy, vẫn còn
quyến luyến, mơ tưởng, chẳng phải là kẻ mê muội quá sức hay sao?
Bất tịnh tưởng là vẻ xinh đẹp rung động lòng người chỉ là một lớp da
mỏng bên ngoài. Nếu bóc lớp da ấy đi, sẽ chẳng can đảm nhìn nữa. Xương,
thịt, máu, mủ, phân, tiểu đầm đìa, lông, tóc loạn xị, trọn chẳng có vật nào
đáng để người khác yêu thích được cả. Chỉ vì một lớp da mỏng che phủ bèn
lầm sanh luyến ái. Bình đẹp đựng phân, không ai ưa mến. Nay lớp da mỏng
của mỹ nhân khác gì bình đẹp, những thứ được gói trong da khác gì phẩn uế,
sao lại yêu mến lớp da, quên đi các thứ vật dơ chứa trong lớp da đó, khởi lên
vọng tưởng miên man?
Nếu chẳng run rẩy, kinh sợ, quyết liệt trừ khử thói quen này, sẽ chỉ thấy
người nữ kia tư chất mỹ lệ, đến nỗi mũi tên ái dục đâm thấu xương mà
chẳng chịu nhổ ra. Nếu cứ luôn như vậy mà lại muốn sau khi mất chẳng vào
trong bụng người nữ, quyết chẳng thể được! Vào bụng người nữ còn khá,
vào bụng súc sanh cái thì chẳng biết làm sao! Thử nghĩ đến đấy, tâm thần
kinh hãi.
Nhưng muốn đối với những cảnh trông thấy chẳng khởi nhiễm tâm thì
lúc chưa thấy cảnh phải thường tập ba thứ tưởng nói trên, khi thấy cảnh sẽ tự
có thể chẳng bị cảnh chuyển. Nếu không dù chẳng thấy cảnh nhưng tâm ý
vẫn cứ triền miên, rốt cục vẫn bị tập khí dâm dục trói buộc. Bởi thế, phải
nhận chân, gột trừ ác nghiệp tập khí thì tự do mới được có phần.

* Bàn đến những ai bị việc đời trói buộc, không cách nào thoát được;
nếu trong lúc bị buộc ràng mà có thể chẳng bị chúng xoay chuyển sẽ thoát
ngay được những buộc ràng ấy. Như gương chiếu vật, vật đến chẳng cự
tuyệt, vật đi chẳng giữ lại. Nếu chẳng hiểu nghĩa này, dù có bỏ sạch việc đời
không còn một việc gì thì tâm vẫn cứ tán vọng, ràng buộc kiên cố, chẳng thể
gột sạch.
Người học đạo phải làm đúng với bổn phận của mình, tận hết bổn phận.
Như vậy, dù suốt ngày việc đời bận bịu, vẫn suốt ngày tiêu dao ngoại vật.
Câu nói “nhất tâm vô trụ, vạn cảnh câu khai, lục trần bất ố, hoàn đồng
Chánh Giác” (nhất tâm vô trụ, vạn cảnh đều khai, chẳng ghét sáu trần, đều
coi chúng là Chánh Giác) là nói về điều này vậy.

* Muốn cho Chân Trí hiển hiện thì hãy nên thường khởi giác chiếu đối
với mọi ngôn từ, cử chỉ hằng ngày, chẳng để hết thảy những tình cảm, ý
tưởng trái lẽ tạm thời nảy mầm trong tâm. Thường giữ cho tâm này hư minh
đỗng triệt (trống không, sáng suốt, thấu suốt)như gương đặt trên đài, gặp
cảnh nào hiện bóng cảnh nấy, chỉ chiếu cảnh trước mắt, chẳng bị chuyển
theo cảnh, tốt xấu kệ nó, can chi đến mình? Ðến chẳng mong chờ, đi chẳng
lưu luyến.
Những tình tưởng trái lẽ nếu vừa mới manh động liền phải nghiêm khắc
đối trị, trừ khử cho sạch. Như cùng quân giặc đối địch, chẳng những không
cho nó xâm phạm lãnh thổ của mình, mà còn phải chém tướng, đoạt cờ, diệt
sạch dư đảng. Phải nghiêm khắc dùng cách chế ngự quân địch như vậy để tự
trị mình, đừng lười nhác, đừng sao nhãng. Khắc kỷ, giữ lễ, chú trọng kính,
giữ lòng thành. Những khí giới [để tự đối trị mình] thì nên dùng bốn điều
không của Nhan Tử, ba điều cảnh tỉnh của Mạnh Tử, cách hạn chế lỗi lầm,
tự biết mình sai của ông Cừ Bá Ngọc.
Lại phải nên nhiệt thành kinh sợ [những tình tưởng trái lẽ] như té xuống
vực sâu, như đi trên băng mỏng. Ðối địch cùng chúng thì quân oai vang dậy
khiến tặc đảng tấm lòng nguội lạnh, hoảng hốt, sợ vướng phải cơn tàn sát
diệt chủng nặng nề, chỉ mong hưởng hồng ân vỗ về. Từ đấy, chúng sẽ khuất
phục, đầu hàng, quy thuận sự giáo hóa, đổi sạch tâm trước, chăm tu đức sau.
Tướng chẳng ra khỏi cửa, quân chẳng đổ máu. Toàn bộ giặc cướp, oán cừu
đều thành con đỏ, bọn phản loạn cùng hóa thành dân lành. Trên cai trị, dưới
tuân phục, cả nước phẳng lặng, chẳng dấy can qua, ngồi hưởng thái bình.
Những điều vừa nói trên đây là do cách vật nên trí tri, do trí tri nên tự
khắc sẽ làm sáng tỏ đức sang18 . Chân thành và minh đức nhất trí thì phàm sẽ
thành thánh. Nếu là kẻ căn khí hèn kém, chưa thể tự thâu liễm mình, hãy nên
bắt chước ông Triệu Duyệt Ðạo: ngày làm điều gì, đêm đốt hương bẩm bạch
cùng Thượng Ðế. Ðiều gì mình chẳng dám bẩm bạch thì chẳng dám làm.
Ông Viên Liễu Phàm chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều lành,
mạng do chính mình lập, phước do chính mình cầu, chứ tạo vật 19 chẳng thể
tự tiện chiếm quyền. Ông vâng giữ phép Công Quá Cách: hễ khởi tâm động
niệm, nói năng, làm gì dù việc thiện hay ác nhỏ nhặt đều ghi lại, ngõ hầu
điều thiện ngày càng, điều ác mỗi ngày mỗi diệt.
Lúc đầu, thiện ác xen tạp, lâu dần chỉ còn thiện không còn ác. Vì thế có
thể chuyển vô phước thành hữu phước, chuyển yểu thọ thành trường thọ,
chuyển không con cháu thành lắm con cháu. Ngay trong đời này đã dự vào
bậc thánh hiền, báo hết sẽ cao đăng cõi Cực Lạc. Việc làm trở thành khuôn
mẫu cho đời, lời nói trở thành pháp thức cho đời. Họ là trượng phu, ta cũng
như thế, sao lại tự khinh đến nỗi đành chịu thua kém vậy?

* Nếu như căn cơ hèn kém, chưa thể chứng nhập, nếu ước trên Sanh Diệt
Môn để luận về nguyên do, hậu quả thì là do mê tâm đuổi theo cảnh, hướng
ngoại rong ruổi tìm cầu, khiến toàn thể trí huệ, đức tướng biến thành vọng
tưởng, chấp trước. Vì thế, phải nên chú trọng chỗ tinh yếu, chú trọng chuyên
nhất, chấp trì thánh hiệu Di Ðà, tin thật, nguyện thiết, mong cầu vãng sanh
Tây Phương.
Hành trì lâu ngày, tâm và Phật như một, chẳng lìa ý niệm hiện tại, triệt
chứng Ngũ Uẩn là Không. Vọng tưởng, chấp trước đã diệt; trí huệ, đức
tướng cũng không còn. Do tâm tịnh, cõi nước sẽ tịnh; chẳng lìa ngay nơi
này, thầm nhập cõi Tịch Quang. Chỉ có mỗi cách này là cách để chúng ta rốt
ráo an thân lập mạng mà thôi!

* Người sống trong thế gian huyễn trụ mấy mươi năm. Kể từ khi có hiểu
biết đến nay, ngày đêm tính toán bộn bề, ngổn ngang, không điều gì chẳng
phải là để nuôi thân mình cùng người nhà, giữ thể diện, sao cho con cháu
quý hiển mà thôi! Xét cội nguồn căn bệnh ấy, chỉ là do chấp trước có Ngã,
chẳng chịu buông xuống. Nỗi lo nghĩ ấy dính chắc, dù Ðức Phật có vì mình
thuyết pháp cũng chẳng hiểu nổi. Trái lại, còn chẳng thèm bận tâm đến diện
mạo vị chủ nhân sẵn có của chính mình, mặc tình lưu chuyển theo nghiệp,
trầm luân muôn kiếp, chẳng đáng buồn ư?

* Tu hành trọng yếu là đối trị tập khí phiền não. Tập khí giảm một phần,
công phu tiến một phần. Có kẻ càng ra sức tu hành, tập khí càng phát động;
ấy là do chỉ biết tu trì theo sự tướng, chẳng biết phản chiếu hồi quang, khắc
trừ vọng tình trong tâm chính mình nên mới đến nỗi thế. Hãy nên thường
sắp sẵn cách đề phòng thì gặp cảnh đụng duyên, tập khí sẽ chẳng phát.
Nếu bình thời biết được thân tâm mình đây toàn là huyễn vọng, trọn
chẳng thể cầu được thật thể, thật tánh của cái Ngã. Ðã không có Ngã sao còn
có chuyện vì cảnh, vì người nảy sanh phiền não? Ðấy chính là phương pháp
giải quyết tối thượng thiết yếu vậy.
Nếu như chẳng thể hiểu chắc thật Ngã là Không thì hãy dùng pháp Ngũ
Ðình Tâm Quán đức Như Lai đã dạy để đối trị (Ngũ Ðình Tâm Quán là dùng
năm pháp để điều hòa, ngưng lắng cái tâm khiến tâm an trụ, chẳng bị cảnh
chuyển). Tức là: Chúng sanh lắm tham dùng Bất Tịnh Quán, chúng sanh
nhiều sân dùng Từ Bi Quán, chúng sanh hay tán loạn dùng Sổ Tức Quán,
chúng sanh ngu si dùng Nhân Duyên Quán, chúng sanh nhiều chướng dùng
Niệm Phật Quán.

* Tham nghĩa là thấy cảnh bèn sanh lòng yêu thích. Chúng sanh trong
Dục Giới đều do dâm dục mà sanh. Dâm dục do Ái mà sanh. Nếu có thể đối
với thân mình, thân người, từ trong ra ngoài, quán sát kỹ mỗi thứ sẽ chỉ thấy
cáu ghét, mồ hôi, đờm, rãi, tóc, lông, răng, móng, xương, thịt, máu, mủ, đại
tiện, tiểu tiện, thối như xác chết, bẩn như nhà cầu! Ai còn sanh tâm tham ái
đối với vật ấy? Tham ái đã dứt thì tâm địa thanh tịnh. Dùng tâm thanh tịnh
niệm danh hiệu Phật, như chất ngọt hòa lẫn, như lụa trắng ăn màu, dùng
Nhân Ðịa Tâm khế hợp Quả Ðịa Giác, sự ít công nhiều, lợi ích khó nghĩ
được.

* Sân là thấy cảnh tâm khởi giận dữ, chán ghét. Người phú quý thường
hay nóng giận là do với các chuyện muốn được như ý thì cần phải có người
làm, có chút việc gì trái ý liền sanh sân nộ. Nhẹ thì dùng lời ác chửi mắng,
nặng thì roi, gậy đập thẳng cánh, chỉ cốt khoái ý mình, chẳng đoái hoài
người khác đau lòng.
Lại khi sân tâm khởi lên, chẳng những vô ích cho người khác, chính
mình cũng bị tổn. Nhẹ thì tâm ý nóng nảy, bực bội; nặng thì gan lẫn mắt bị
tổn hại. Vì thế, thường giữ được một khối nguyên khí thuần hòa trong tâm
thì tật bệnh tiêu diệt, phước thọ tăng truởng.
Xưa kia, vua A Xà Thế cả đời thờ Phật, giữ vững năm giới, lúc lâm
chung vì người hầu cầm quạt đuổi ruồi đứng hầu lâu đâm ra mê mệt, để quạt
rớt trúng mặt vua. Vua sanh tâm sân hận, ngay khi ấy mạng chung. Do một
niệm ấy, liền thọ thân mãng xà. Do sức túc phước còn biết được nhân, bèn
cầu sa-môn giảng cho Tam Quy Ngũ Giới, liền thoát thân mãng xà, sanh lên
trời. Do đấy biết rằng thói quen sân hận tai hại rất lớn. Kinh Hoa Nghiêm
dạy: “Một niệm sân tâm khởi, trăm vạn cửa chướng mở”. Cổ đức bảo:
Sân thị tâm trung hỏa,
Năng thiêu công đức lâm.
Dục học Bồ Tát đạo,
Nhẫn nhục hộ sân tâm.
(Sân là lửa trong tâm,
Ðốt sạch rừng công đức,
Muốn học đạo Bồ Tát.
Nhẫn nhục ngừa tâm sân)
Ðức Như Lai dạy chúng sanh nhiều sân tu Từ Bi Quán như sau: coi hết
thảy chúng sanh đều là cha mẹ trong quá khứ, đều là chư Phật trong vị lai.
Ðã là cha mẹ trong quá khứ thì hãy nghĩ đến ân đức nuôi nấng trong những
đời trước, thẹn chưa báo đáp được, lẽ đâu với chuyện chẳng vừa ý nhỏ nhặt
lại ôm lòng phẫn nộ? Họ đã là chư Phật trong vị lai, ắt sẽ rộng độ chúng
sanh. Mình còn chưa giải quyết sanh tử trọn vẹn, phải mong họ đến độ thoát
cho.
Chẳng những với chuyện chẳng vừa ý nhỏ nhặt không sanh sân nộ; dù là
chuyện táng thân mất mạng cũng chỉ sanh hoan hỷ, chẳng sanh sân hận. Vì
thế, lúc Bồ Tát bỏ đầu, mắt, tủy, não đều tưởng [người cầu xin những thứ
ấy] là thiện tri thức, tưởng là ân nhân, tưởng là người thành tựu Vô Thượng
Bồ Ðề Ðạo cho mình. Cứ xem phẩm Thập Hồi Hướng của kinh Hoa Nghiêm
sẽ tự biết.
Hơn nữa, một niệm tâm tánh của chúng ta cùng với một niệm tâm tánh
của Phật không hai. Chỉ vì mê trái bổn tâm, chấp chặt Ngã Kiến, nên hết
thảy các duyên đều thành đối đãi. Như cái bia để bắn đã lập thì các mũi tên
sẽ đều ghim vào đó. Nếu biết được tâm ta chính là tâm Phật, tâm Phật trống
không, vô sở hữu, hệt như hư không, sâm la vạn tượng không gì chẳng bao
quát trong ấy.
Lại cũng như biển cả, trăm sông, các dòng, không dòng nước nào biển
chẳng hứng nhận, như trời che khắp, như đất bình đẳng nâng đỡ, để tự lập
đức. Nếu ta vì sự trái ý nhỏ nhặt bèn sanh nóng giận, chẳng phải là đã thu
hẹp cái lượng, tự chôn vùi cái đức hay chăng? Dù có đủ Phật tâm lý thể,
nhưng khởi tâm động niệm toàn dùng sự phàm tình, nhận vọng là chân, lấy
tớ làm chủ. Nghĩ như thế thật đáng hổ thẹn.
Nếu bình thời luôn nghĩ như thế thì tâm lượng rộng lớn, không gì chẳng
dung được, thấy người cũng hệt như mình, chẳng thấy đây kia, gặp nghịch
cảnh còn nhận xuôi theo được, huống hồ là chuyện bất như ý nhỏ nhặt lại
sanh nóng giận hay sao?

* Gọi là kẻ ngu si chẳng phải là nói về kẻ hoàn toàn vô tri thức, mà


chính là nói đến những người trong đời đối với cảnh duyên thiện ác, chẳng
biết đấy đều là do túc nghiệp chuốc lấy nên hiện tại cảm thọ, bảo lầm là
không có nhân quả báo ứng và hết thảy chúng sanh đời trước, đời sau v.v...,
chẳng có con mắt trí huệ. Chẳng phải là hạng chấp Ðoạn, cũng là phường
chấp Thường.
Họ bảo con người bẩm thọ khí huyết cha mẹ mà sanh ra. Trước lúc sanh
ra, vốn chẳng có vật gì; cũng như chết đi, thân hình đã mục nát thì hồn cũng
phiêu tán; làm sao có đời trước và đời sau được? Bọn nho sĩ câu nệ, hủ bại
phương này (tức Trung Hoa) đa phần nói như vậy.
Chấp Thường là nói người luôn là người, vật luôn là vật, chẳng biết
nghiệp do tâm tạo, hình tùy tâm chuyển. Thời cổ có kẻ cực độc đang còn
sống biến ra thân rắn, người cực tàn bạo đang khi còn sống biến thành thân
hổ. Ðang khi còn sống, nghiệp lực mãnh liệt còn biến đổi được thân; huống
hồ chết đi, trước khi tái sanh, thức bị chuyển biến theo sự lôi kéo của nghiệp
ư? Bởi vậy, Phật nói mười hai nhân duyên chính thức là luận về ba đời.
Nhân trước ắt cảm quả sau, quả sau ắt phải có nhân trước. Thiện áo báo ứng,
họa phước xảy đến đều do mình làm, mình chịu, chẳng phải trời giáng. Bất
quá trời chỉ là người đứng ra thừa hành thôi. Sanh tử tuần hoàn chẳng có
cùng cực. Muốn khôi phục bổn tâm để liễu sanh tử mà bỏ “tín nguyện niệm
Phật cầu sanh Tây Phương” sẽ chẳng thể được!
Ba thứ tham - sân - si là cội gốc sanh tử. Ba thứ Tín - Nguyện - Hạnh là
diệu pháp liễu sanh tử. Muốn bỏ ba pháp kia (tham - sân - si) để tu ba pháp
này (tín - nguyện - hạnh) thì ba pháp này đắc lực, ba pháp kia tự diệt. Một
pháp quán Sổ Tức bất tất phải dùng. Hãy nên trong lúc niệm Phật, lắng tai
nghe kỹ, cách nhiếp tâm này tương tự phép Sổ Tức, nhưng lực dụng hơn
phép Sổ Tức một trời, một vực. Phép quán Niệm Phật nên đọc trong Ấn
Quang Văn Sao và các trước thuật Tịnh Ðộ sẽ biết.

* Hỏi: Nếu như nói dù táng thân mất mạng cũng chỉ sanh hoan hỷ, chẳng
sanh sân hận thì giả sử có kẻ ác muốn đến hại mình, mình chẳng lo toan gì,
cứ mặc cho nó sát hại mình ư?
Ðáp: Phàm người tu hành, có kẻ là phàm phu, có người là bậc Bồ Tát đã
chứng Pháp Thân. Lại có người lấy việc duy trì thế đạo làm chánh, có người
chỉ lấy việc liễu giải tự tâm làm trọng. Nếu là hạng chỉ lo liễu giải tự tâm và
hàng Bồ Tát đã chứng Pháp Thân thì sẽ hành động như đã nói. Bởi lẽ, họ
thấy mình và vật hệt như nhau, sanh tử như một.
Nếu là hạng phàm phu, muốn duy trì thế đạo thì cứ an lòng học theo Bồ
Tát thâm từ đại bi, không gì là chẳng dung. Xử sự vẫn thuận theo lẽ thường
thế gian: hoặc là dùng cách khuất phục, chế ngự để nhiếp phục, hoặc dùng
nhân từ để cảm hóa... nhiều cách khác nhau; nhưng trong tâm trọn chẳng
được hung tợn, nóng giận, cố kết oán hận.
Những điều nói trong đoạn trước là nêu tình huống giả tưởng để [người
tu nhờ đó] tiêu diệt tập khí nóng giận. Nếu phép quán này thành thục, tập khí
sân hận tự diệt, dù gặp phải cảnh thật sự hại đến thân cũng vẫn giữ được tâm
thản nhiên, thực hiện đại bố thí. Nhờ công đức ấy liền sanh Tịnh Ðộ. So với
việc giết chóc lẫn nhau, bao kiếp dài lâu đền trả, chẳng phải là khác biệt một
trời, một vực đấy ư?

* Sân tâm chính là thói quen từ đời trước. Nay cứ nghĩ mình đã chết,
mặc cho dao chặt hay hương bôi cũng chẳng can dự gì đến mình. Với tất cả
những cảnh chẳng thuận tâm, do nghĩ mình đã chết, sân làm sao còn khởi
được nữa?

* Nói đến sân tâm là nói đến thói quen từ đời trước. Nay đã biết sân là
có hại, vô ích, đối với hết thảy các sự hiện hữu hãy nên dùng lượng biển
rộng trời cao để dung nạp. Như vậy thì tập tánh rộng rãi trong đời này sẽ
chuyển biến được tập tánh hẹp hòi trong những đời trước. Nếu chẳng gia
công đối trị, tập khí sân hận càng tăng, tai hại chẳng nhẹ.
Còn khi niệm Phật thì phải căn cứ trên tinh thần, khí lực của mình để
làm chuẩn mà niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng, niệm thầm và kim cang niệm
(tức là niệm có tiếng se sẽ, người khác chẳng nghe thấy. Những người trì
chú gọi cách này là kim cang niệm). Chẳng được quá mãnh liệt đến nỗi mắc
bệnh. Cái tâm quá mãnh liệt ấy cũng là cái bệnh “dục tốc” (mong cho mau
đạt kết quả).
Nếu nay đã chẳng thể niệm ra tiếng, há trong tâm chẳng niệm thầm được
hay sao? Sao lại chỉ hạn chế trong mười niệm? Huống hồ lúc bệnh nằm trên
giường, há nên để tâm trống rỗng như bị rửa sạch, trọn chẳng niệm gì hoặc
niệm chuyện khác? Sao bằng càng niệm nhiều danh hiệu Phật?
Lúc ấy phải nên giao gấp mọi việc cho người nhà làm thay, luôn nghĩ
mình sắp chết, tưởng sắp đọa địa ngục, trong tâm không còn dính mắc sự gì.
Dùng tâm thanh tịnh ấy nhớ tưởng Phật tượng và thầm niệm Phật danh cũng
như tượng Quán Thế Âm Bồ Tát và danh hiệu ngài. Nếu thật sự làm được
như thế thì nghiệp chướng quyết định tiêu trừ, thiện căn tăng trưởng, bệnh
tật thuyên giảm, thân tâm khang kiện.
Bệnh của các hạ thuộc về túc nghiệp, niệm Phật quá mạnh mẽ tạo duyên
cho bệnh phát hiện, chẳng phải hoàn toàn do niệm Phật quá mãnh liệt nên
mắc bệnh. Nếu ông chẳng niệm Phật thì cũng do nhân duyên khác mà bị
bệnh. Trên đời, kẻ không niệm Phật rất nhiều, há không có một ai cũng mắc
phải căn bệnh đó, cứ khoẻ mạnh mãi ư? Hiểu được điều này sẽ chẳng tự lầm
lẫn mà bảo là niệm Phật đến bệnh, chỉ tổn hại, không ích lợi gì!
* Bệnh và ma đều do túc nghiệp mà thành. Ông chỉ nên chí thành, khẩn
thiết niệm Phật thì bệnh tự thuyên giảm, ma tự rời xa. Còn như tâm ông
chẳng chí thành, hoặc khởi các ý niệm bất chánh như tà dâm v.v... thì toàn
thể cái tâm đọa trong hắc ám, khiến ma quấy nhiễu. Lúc niệm Phật xong, hồi
hướng, ông nên hồi hướng cho hết thảy oán gia trong đời quá khứ, khiến họ
đều thấm đẫm lợi ích niệm Phật của ông, siêu sanh thiện đạo.
Ngoài ra chẳng quản đến gì hết. Ma có phát ra tiếng thì cũng chẳng quan
tâm đến rồi sợ hãi. Nó im hơi lặng tiếng, cũng chẳng quan tâm đến mà sanh
hoan hỷ. Chỉ chí thành, khẩn thiết niệm, tự nhiên nghiệp chướng tiêu, mà
phước huệ thảy đều tăng trưởng. Khi xem kinh điển, chẳng được làm như kẻ
đời nay đọc sách, trọn chẳng có chút nào cung kính, phải [trân trọng] dường
như Phật, Tổ, thánh hiền giáng lâm mới được lợi ích thật sự. Nếu ông làm
được như vậy thì tâm địa chánh đại quang minh, bọn tà quỷ, tà thần kia
không còn đất dung thân nữa!
Nếu tâm ông tà trước thì tà chiêu cảm tà, làm sao có thể khiến cho chúng
xa lìa, không quấy nhiễu được? Quỷ thần dù có Tha Tâm Thông, nhưng thần
thông của chúng nhỏ và gần. Nếu nghiệp tận, tình không sẽ hệt như gương
báu đặt trên đài, có hình liền hiện bóng. Ông chẳng chí tâm niệm Phật, lại
toan nghiên cứu chân tướng này, chẳng biết tâm này liền thành “ma
chủng” (dòng giống ma).
Ví như gương báu chẳng có mảy may trần cấu sẽ tự chiếu trời soi đất.
Cái tâm ông bị trần cấu phủ kín dày chặt, lại muốn được [chiếu sáng] như
vậy, khác nào tấm gương bị bụi phủ dày kín trọn chẳng thể tỏa ánh sáng.
Nếu có phát sáng cũng chỉ là ánh sáng yêu quái, chẳng phải ánh sáng của
gương! Hãy bỏ việc đó ra ngoài tâm tưởng, hãy nên như lâm nạn lửa, nước,
như cứu đầu cháy mà niệm Phật thì không nghiệp hay ma nào chẳng tiêu cả.

* Người học đạo phàm gặp các thứ chẳng như ý chỉ nên dùng đạo để
hiểu. Cảnh nghịch xảy đến bèn vui lòng chịu, dù có gặp phải những sự nguy
hiểm gì, lúc ấy cũng chẳng đến nỗi kinh hoàng, thất chí, làm điều thất thố.
Chuyện đã qua hãy để cho nó qua như giấc mộng đêm trước, sao còn ủ mãi
trong lòng đến nỗi thành bệnh hoảng hốt? Ông đã muốn tu hành, phải biết
hết thảy cảnh duyên đều do túc nghiệp cảm vời.
Lại phải nên biết: Chí thành niệm Phật sẽ chuyển được nghiệp. Chúng ta
chẳng làm chuyện thương thiên tổn đức thì sợ cái gì chứ? Người niệm Phật
thiện thần hộ hựu (bảo vệ, giáng phước), ác quỷ tránh xa, sợ cái gì cơ chứ?
Nếu ông cứ sợ mãi sẽ bị vướng ma sợ, rồi oán gia trong vô lượng kiếp thừa
dịp tâm ông hoảng sợ đến dọa nạt ông, khiến ông mất trí hóa cuồng để báo
oán xưa.
Chớ có nói: “Nếu tôi còn niệm Phật, chỉ sợ thình lình sẽ bị như thế”.
Chẳng biết rằng toàn thể chánh niệm của ông đã quy vào nỗi sợ, nên khí
phần xa cách Phật, tương thông với ma, chẳng phải Phật không thiêng! Do
tâm ông đã mất chánh niệm nên đến nỗi niệm Phật chẳng được lợi ích toàn
phần vậy!
Chỉ mong ông thấy chữ viết của Quang, bèn quyết liệt gột bỏ tâm trước.
Ông chỉ một chồng, một vợ còn lo nỗi gì? Dẫu cho nghiệp chướng hiện tiền,
sợ gì chẳng tiêu diệt được nó? Chỉ vì chẳng sợ nên giữ được chánh niệm,
thành ra làm việc gì cũng đích đáng, chân thần ổn định nên tà chẳng thể
xâm.
Nếu không, do tà chiêu tà, túc oán đổ tới, gặp sự không làm chủ được,
hành động hoàn toàn thất thố, chẳng đáng buồn ư? Tôi nay vì ông tính kế:
Hãy nên buông bỏ hoài bão, chẳng nên toan tính hết thảy mọi việc, chẳng
nên đảm đương, lo lắng mọi việc, chỉ sợ hành vi có tỳ vết, chẳng sợ họa
hoạn, quỷ thần.

* Nếu bệnh khổ đến hồi kịch liệt chẳng chịu đựng nổi thì ngoài việc sáng
chiều niệm Phật, hồi hướng ra, hãy chuyên tâm dốc chí niệm nam mô Quán
Thế Âm Bồ Tát. Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân trong sát-na, tầm thanh cứu
khổ. Người gặp cơn nguy cấp nếu có thể trì tụng, lễ bái Ngài thì không ai là
chẳng được cảm ứng, rủ lòng từ gia hựu khiến thoát khổ não, hưởng yên vui
vậy.

* Thầy thuốc dù giỏi cũng chỉ trị được bệnh, không trị được nghiệp. Như
Tử Trọng ruột bị loét nặng, thầy thuốc bảo không giải phẫu không xong. Bà
thím Tư của ông chẳng đành lòng nên chẳng chữa, cùng Ðức Chương liều
mạng niệm Phật, niệm kinh Kim Cang. Năm ngày khỏi bệnh. Bệnh này đáng
kể là cực nặng, cực nguy hiểm, nhưng chẳng chữa, sau năm ngày liền lành.
Bệnh điên của Tử Tường thuộc về túc nghiệp, bà thím Tư của ông do chí
thành lễ tụng, nửa năm liền khỏi.
Cha ông đã quy y Phật pháp, lẽ ra nên tin lời Phật, chẳng nên tin theo
thầy thuốc Tây, phải đến bệnh viện của họ để chữa. Nếu như hết thảy bệnh
đều phải được thầy thuốc trị mới lành, không thầy thuốc chẳng xong thì từ
thời cổ, hoàng đế và những kẻ phú quý lẽ ra vĩnh viễn không bệnh tật, cũng
vĩnh viễn chẳng bị tử vong. Thế nhưng kẻ bần tiện vừa ít bệnh vừa sống lâu,
người phú quý lắm bệnh lại thường đoản thọ. Ðó là vì cớ gì? Một là do mình
tự tạo thành bệnh, hai là thầy thuốc gây ra bệnh. Do hai công năng tạo tác
này, muốn thoát bệnh khổ có được hay chăng?
Mong ông thưa cho cha hiểu, bất tất phải lên Thượng Hải tìm thầy thuốc
Tây, cứ ở nhà cầu nơi đại y vương A Di Ðà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ tự
có thể chẳng cần đến thuốc mà lành bệnh. Cầu thầy thuốc Tây chỉ hy vọng
chừng một nửa, cầu đại y vương may ra thân thể sẽ được mạnh, mà dù thân
thể chưa khoẻ lại, thần thức chắc chắn thấy thư thái. Nếu sai lầm muốn được
mạnh liền, bỏ hết những giới đã trì khi trước, thật chẳng khác nào rạch thịt
để tự bị thương, chỉ tổn hại không ích gì. Khi Tây Y chưa truyền vào Trung
Quốc, Trung Quốc có bệnh gì cũng chẳng trị được ư? Bởi vậy nên buông
vọng tưởng xuống, đề khởi chánh niệm sẽ cảm ứng đạo giao, tự có thể lành
bệnh hoàn toàn.

* Nghiệp chướng nặng, tham sân mạnh mẽ, thân yếu đuối, tâm khiếp
nhược thì chỉ nên nhất tâm niệm Phật, lâu ngày các bệnh sẽ tự lành. Phẩm
Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sanh nhiều dâm dục, nóng giận, ngu si,
thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ xa lìa được [những sự
ấy]”. Niệm Phật cũng thế, chỉ nên tận tâm kiệt lực, chẳng hề ngờ vực thì
không cầu cũng được.

* Mỗi ngày ngoại trừ lúc phải làm mọi việc thuộc bổn phận mình ra, hãy
chuyên tâm niệm danh hiệu Phật. Sáng tối đối trước Phật, kiệt thành tận
kính, khẩn thiết sám hối túc nghiệp từ vô thỉ. Lâu ngày như thế sẽ có lợi ích
chẳng thể nghĩ bàn mà chẳng hay, chẳng biết. Kinh Pháp Hoa dạy: “Nếu có
chúng sanh nhiều lòng dâm dục, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ
Tát liền được ly dục”. Với sân hận, ngu si cũng thế. Như vậy thì chí thành
niệm thánh hiệu A Di Ðà, Quán Âm, ba thứ Hoặc: tham, sân, si sẽ tự tiêu
diệt.
Hơn nữa, nay đang lúc cõi đời hoạn nạn, ngoài việc niệm Phật ra, nên
niệm thêm thánh hiệu Quán Âm, trong âm thầm sẽ có sự chuyển biến chẳng
thể nghĩ bàn, kẻo đến lúc túc nghiệp bất chợt hiện đến, không cách chi tránh
thoát.

* Quán Thế Âm Bồ Tát trong kiếp quá khứ đã thành Phật từ lâu, hiệu là
Chánh Pháp Minh, chỉ vì lòng từ bi thiết tha, dù an trụ trong cõi Thường
Tịch Quang, vẫn hiện thân trong ba cõi Thật Báo, Phương Tiện, Ðồng Cư.
Tuy là thường hiện thân Phật, Ngài cũng còn hiện đủ các thân Bồ Tát, Thanh
Văn, Duyên Giác và thân trời - người, sáu nẻo. Tuy Ngài thường hầu Di Ðà
nhưng hiện thân khắp trong mười phương vô tận pháp giới. Ðó là: Hễ chỉ có
lợi ích thì không điều gì ngài chẳng vận dụng. Nên dùng thân nào để độ
được, Ngài liền hiện thân đó để thuyết pháp cho người đáng độ.
Phổ Ðà Sơn là chỗ Bồ Tát ứng tích. Muốn cho chúng sanh có nơi để gieo
tấm lòng thành nên Bồ Tát thị hiện ứng tích nơi núi đó; nào phải Bồ Tát chỉ
ngự trong núi Phổ Ðà, chẳng ở nơi khác đâu? Một vầng trăng vằng vặc giữa
trời, vạn con sông in bóng. Dù nhỏ như một chước, một giọt nước, nơi nơi
đều hiện toàn bộ khuôn trăng. Nếu nước vừa đục vừa xao động, trăng chẳng
thể hiện phân minh.
Tâm chúng sanh như nước, nếu nhất tâm chuyên niệm Bồ Tát, Bồ Tát
liền ngay trong niệm ấy, sẽ ngầm hoặc hiển nhiên [gia hộ] khiến [người
niệm] được lợi ích. Nếu tâm chẳng chí thành, chẳng chuyên nhất thì cũng
khó cứu hộ. Nghĩa này rất sâu, hãy nên đọc bài Thạch Ấn Phổ Ðà Sơn Chí
Tự (bài tựa cho bản in thạch (lithography) cuốn Phổ Ðà Sơn Chí) trong Ấn
Quang Văn Sao sẽ biết.
Ngài có tên là Quán Thế Âm vì khi tu nhân, Ngài do quán và nghe nơi
tánh mà chứng viên thông và lúc đã đắc quả, Ngài xem xét âm thanh xưng
danh hiệu Ngài để ban cho sự cứu giúp. Vì thế Ngài tên là Quán Thế Âm.
Phổ Môn là đạo Bồ Tát rộng lớn không ngằn mé, tùy thuận khắp căn
tánh của hết thảy chúng sanh, khiến cho họ biết đường về nhà, chẳng lập
riêng một môn nào. Chẳng hạn, như trong đời có ngàn căn bệnh thì cũng
phải có vạn loại thuốc, chẳng thể chấp chặt vào một pháp nào. Tùy theo họ
mê nơi đâu và chỗ nào họ dễ ngộ mà Bồ Tát chỉ điểm cho. Như sáu căn, sáu
trần, bảy đại, pháp nào cũng có thể dùng để chứng viên thông. Vì thế bất cứ
pháp nào cũng là cửa để ra khỏi sanh tử, thành Chánh Giác. Vì thế gọi là
Phổ Môn. Nếu Bồ Tát chỉ ở Nam Hải thì chẳng đáng gọi là Phổ được!

---o0o---

3. Luận về việc gìn lòng lập phẩm

* Nếu cảnh ngộ chẳng tốt lành thì hãy nên nghĩ đến việc lùi một bước.
Hãy thử nghĩ, trong đời, người hơn ta cố nhiên là nhiều, người thua ta cũng
chẳng phải là ít. Chỉ mong chẳng đói chẳng lạnh, mong chi đại phú, đại quý?
Vui theo thiên mệnh, an vui với hoàn cảnh. Như vậy còn có thể chuyển
phiền não thành Bồ Ðề, huống hồ là chẳng chuyển nổi ưu khổ thành an lạc
sao?
Nếu tật bệnh triền miên thì nên đau đáu nghĩ thân là gốc khổ, sanh cực
chán lìa, tận lực tu Tịnh nghiệp, thề cầu vãng sanh. Chư Phật lấy khổ làm
thầy đạt thành Phật đạo. Chúng ta nên lấy bệnh làm thuốc, mau cầu xuất ly.
Phải biết rằng phàm phu đầy dẫy triền phược nếu không có các nỗi khổ: bần
cùng, tật bệnh v.v... sẽ suốt ngày rong ruổi trong trường thanh sắc danh lợi
chẳng hề thỏa. Trong lúc hiển hách, đắc ý, ai chịu quay đầu tưởng đến lúc
chìm đắm mai sau?
Mạnh Tử nói: “Trời muốn giao trách nhiệm lớn cho ai thì trước đó sẽ
khiến kẻ đó tâm chí khổ sở, gân xương mỏi mệt, thân thể đói khát, thân thể
trống trải, nhiễu loạn hành vi của họ ngõ hầu tâm họ khởi tánh Nhẫn, tăng
trưởng [khả năng làm được] những điều mình chưa thể làm được”. Do đó,
ta biết rằng những người được trời thành tựu phần nhiều gặp nghịch cảnh,
con người chỉ nên thuận theo mạng trời nhận lãnh [nghịch cảnh].
Cái “trách nhiệm lớn” Mạnh Tử đã nói đó chỉ là tước vị trong thế gian
mà còn phải lo buồn, vất vả như thế mới khỏi phụ lòng trời. Huống chi bọn
ta là phàm phu sát đất muốn trên thì tiếp nối đạo giác của đấng Pháp Vương,
dưới thì giáo hóa pháp giới hữu tình, nếu chẳng bị nghèo đói thử thách đôi
chút thì Phàm Hoặc ngày thêm lừng lẫy, Tịnh nghiệp khó thành, mê muội
bổn tâm, vĩnh viễn chìm đắm trong ác đạo đến tận đời vị lai, không thời gian
nào mong thoát khỏi được! Cổ đức nói:
Bất kinh nhất phiên hàn triệt cốt,
Tranh đắc mai hoa phác tỵ hương,
(Chẳng trải một phen lạnh thấu xương,
Dễ đâu hoa mai thơm ngát mũi!)
Chính là nói về ý này vậy.
Chỉ nên chí tâm niệm Phật để tiêu nghiệp cũ, trọn chẳng nên khởi tâm
phiền bực, oán trời trách người, bảo là nhân quả hư huyễn, Phật pháp chẳng
thiêng!

* Ông Cừ Bá Ngọc đến tuổi năm mươi biết bốn mươi chín năm trước là
sai trái. Khổng Tử tuổi chừng bảy mươi, còn mong trời cho sống thêm vài
năm nữa để học Dịch hầu khỏi mắc lỗi lớn. Thánh hiền học hỏi không vị nào
là chẳng mong muốn hiểu đến chỗ rốt ráo. Các nho gia cận đại chỉ học từ
chương, chẳng bận tâm đến chánh tâm thành ý. Tuy suốt ngày đọc sách, trọn
chẳng biết ý lưu lại sách vở để răn đời của thánh hiền. Nếu lời nói, hành vi
của mình đem đọ với lời nói, hành vi của thánh hiền mà sáng - tối chẳng hợp
nhau, tròn - vuông chẳng khớp nhau, chẳng nên gấp suy xét tới từng điểm
sai biệt ẩn kín, nhỏ nhặt ư?
Kinh Phật dạy người ta thường hành sám hối ngõ hầu đoạn sạch vô
minh, viên thành Phật đạo. Dù địa vị đến bậc Ðẳng Giác như Di Lặc Bồ Tát
vẫn trong mười hai thời lễ thập phương chư Phật để mong hết sạch vô minh,
viên chứng Pháp Thân, huống những kẻ kém hơn Ngài [chẳng học theo vậy]
ư? Kẻ phàm phu sát đất khắp thân là nghiệp lực, chẳng sanh hổ thẹn, chẳng
tu sám hối, dù nhất niệm tâm tánh bình đẳng với Phật, nhưng do phiền não
ác nghiệp ngăn lấp nguồn tâm chẳng thể hiển hiện được.

* Ðối với việc dứt ác làm lành, dựa trên thực tế mà suy xét thì không gì
hay bằng Công Quá Cách. Nhưng nếu tâm chẳng thành kính, dù suốt ngày
ghi công, chép lỗi, cũng chỉ là hư văn!
Ở nơi đây chưa có sách Công Quá Cách, nhưng theo tôi thấy, chỉ nên
chú trọng lòng thành, giữ lòng kính, trong suốt mười hai thời, chẳng có một
niệm hời hợt, một tướng lười nhác, xao nhãng. Ðối xử với thế nhân chỉ giữ
lòng trung thứ (trung hậu và khoan dung)thì tự nhiên trong hết thảy lúc, hết
thảy chỗ, ác niệm chẳng thể khởi từ đâu được. Giả như do túc tập sai khiến,
ngẫu nhiên ác niệm phát sanh, vì luôn ôm ấp lòng thành kính, trung thứ, sẽ
tự có thể hễ niệm khởi liền nhận biết ngay. Hễ đã giác thì ác niệm liền
không, quyết chẳng đến nỗi để nó tăng trưởng khiến cả ba nghiệp phải xuôi
theo.
Sở dĩ kẻ tiểu nhân dối làm lành chứ thật sự là làm ác, là do nghĩ rằng
người khác chẳng biết tới. Họ chẳng hiểu rằng người chẳng biết họ chỉ là
những phàm phu trong thế gian mà thôi! Nếu là bậc thánh nhân đắc đạo, cố
nhiên sẽ biết họ tường tận. Thiên địa, quỷ thần dù chưa đắc đạo, nhưng do
được báo Tha Tâm Thông nên cũng sẽ biết họ tường tận. Huống hồ là Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật! Tha Tâm Ðạo Nhãn của các vị ấy thấy
trọn tam thế như nhìn vật đang đặt trong lòng bàn tay. Muốn không ai biết
thì chỉ có mình không biết mới được mà thôi!
Nếu chính mình đã biết thì tất nhiên thiên địa, quỷ thần, Phật, Bồ Tát
v.v... không vị nào là chẳng biết, chẳng thấy cả! Nếu biết nghĩa này, dù ở
trong phòng tối, nhà kín cũng chẳng dám biếng trễ, xao nhãng; dù ở nơi
người khác không biết đến vẫn chẳng dám manh nha làm ác bởi thiên địa,
quỷ thần, chư Phật, Bồ Tát đều biết. Nếu chẳng biết hổ thẹn nhưng hiểu
được nghĩa này rồi thì cũng sẽ hổ thẹn không cùng vậy; huống hồ là người
chân thật tu hành ư?
Vì thế muốn ít phạm lỗi thì phải bắt đầu từ chỗ sợ thánh phàm cùng biết,
cùng thấy. Xem gương tiên triết ăn canh, nhìn tường, dù ở một mình hành vi
chẳng cẩu thả, chẳng thẹn với bóng áo20 , vẫn còn là những cách nói thiển
cận ước theo sự thấy biết của thế gian đó thôi! Thật ra, bản thể tâm ta cùng
bản thể mười phương pháp giới tương hợp khít khao. Do ta mê nên sự thấy
biết bị hạn cuộc trong một thân. Mười phương pháp giới thánh nhân triệt
chứng pháp giới tạng tâm sẵn có trong tự tâm nên hết thảy hữu tình trong
pháp giới khởi tâm động niệm, các ngài đều hay biết cả. Vì sao thế? Do cùng
bẩm thọ Chân Như, tự - tha chẳng hai vậy. Nếu biết nghĩa này thì sẽ tự sợ
hãi, kiêng dè, giữ lòng thành kính, thoạt đầu phải gắng sức dứt vọng, lâu
ngày vọng sẽ chẳng khởi được nữa.

* Việc giảm thiểu lầm lỗi thật sự là công phu thiết yếu của cả Nho lẫn
Phật. Ông Cừ Bá Ngọc đến năm năm mươi tuổi, thấy cả bốn mươi chín năm
trước mình đều sai trái. Nếu ai nói muốn bớt lỗi nhưng chưa làm được, [thì
nên biết là] phải thật sự dụng công nơi ý, chứ chẳng phải hễ thân khẩu vừa
phát động liền có lỗi đâu! Tại gia cư sĩ hằng ngày cùng người cư xử phải
luôn đề phòng trong mỗi khắc. Nếu không, chẳng những ý nghiệp không
tịnh mà thân khẩu cũng thành ra ô uế, bất tịnh. Muốn cả mình lẫn người
cùng được lợi thì không gì bằng lấy những hành vi của vị danh nhân đã nói
ở trên (tức Cừ Bá Ngọc) làm khuôn phép, gương mẫu vậy.

* Muốn học theo Phật, Tổ liễu sanh tử thì phải bắt đầu từ việc hổ thẹn,
sám hối, dứt ác, tu thiện, ăn chay, tự răn nhắc, ý thật chân thành, thiết tha.
Phải thực sự tu tập, tận lực thực hành. Nếu không chỉ trở thành vọng ngữ
trong các thứ hư dối. Biết chẳng khó, làm được mới khó. Mấy kẻ thông minh
trong thế gian đều chỉ nói được, nhưng không làm được. Trọn một đời này,
uổng công vào núi báu, trở về tay không. Ðáng xót, đáng tiếc thay! Ðáng
xót, đáng tiếc thay!

* Phàm phu còn mê, tín tâm bất định; vì thế có tật lắm phen tin rồi lại
ngờ, lắm phen đã tu rồi lại tạo nghiệp, cũng là do người dạy ban đầu không
hiểu đạo đến nơi đến chốn. Nếu lúc ban đầu, chỉ từ nhân quả thiển cận mà
khởi sự sẽ chẳng đến nỗi bị điên đảo, mê hoặc như thế. Ðối với những tội cũ,
dù rất sâu nặng, hãy nên chí tâm sám hối, sửa đổi thói xưa, tu tập từ nay,
dùng chánh tri kiến tu tập Tịnh nghiệp, dốc chí tự lợi, lợi tha thì tội chướng
như sương tiêu tan, bầu trời chân tánh sáng rạng. Vì thế, kinh nói: “Thế gian
có hai hạng người mạnh mẽ: một là người chẳng tạo tội; hai là đã tạo tội rồi
lại có thể sám hối”.
Một chữ Hối phải từ tâm khởi. Tâm chẳng thật sám hối, có nói gì cũng
vô ích. Ví như chỉ đọc toa thuốc, chứ chẳng uống thuốc, nhất định chẳng hy
vọng gì lành bệnh được. Còn nếu theo toa uống thuốc, sẽ tự được lành bệnh,
thân an. Ðiều đáng ngại là lập chí chẳng vững, một nóng mười lạnh thì chỉ
uổng mang hư danh, không mảy may lợi ích thật sự.

* Cảnh không tự tánh, tổn hại hay lợi ích toàn do người. Ba nghiệp, bốn
oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi) thường giữ như “tứ vật” (bốn điều đừng) của
Nhan Uyên. Ngũ giới, thập thiện khác gì “tam tỉnh” (ba điều tự cảnh
tỉnh) của Tăng tử. Trong nhà tối tuy không ai thấy nhưng thiên địa, quỷ thần
đều biết. Niệm mới manh nha nhưng tội phước ẩn nhiệm đã rạch ròi như trời
với vực. Nếu thường tu tỉnh được như thế thì tất cả hành động đều là thiện,
ác chẳng sanh từ đâu được. Ðây chính là quy mô sâu rộng của chánh tâm
thành ý, chớ nói là nhà Phật phiền toái, chẳng giản dị, nhanh tắt như Nho
gia!
* Người niệm Phật đối với sự sự phải trung thứ, tâm tâm luôn đề phòng
tội khiên. Biết lỗi liền sửa, thấy điều nghĩa mạnh mẽ làm ngay thì mới hợp
với Phật. Người như thế quyết định vãng sanh. Nếu chẳng như thế là trái
nghịch với Phật, quyết khó cảm thông!

* Kinh Pháp Hoa nói: “Tam giới không yên, hệt như nhà cháy. Các khổ
đầy dẫy, thật đáng kinh sợ”. Vì thế, để thành tựu con người, trời phải có
khổ, có vui, có nghịch, có thuận, có phước, có họa, vốn chẳng nhất định.
Nhưng người trong hoàn cảnh ấy nếu có cái nhìn thấu suốt sẽ thấy không
khổ, không vui, không nghịch, không thuận, không họa, không phước. Vì
thế, quân tử vui biết mệnh trời, trên chẳng oán trời, dưới chẳng trách người,
an vui theo hoàn cảnh, không lúc nào là chẳng tự tại tiêu dao!
Vì thế họ chẳng phú quý mà hành như đang hưởng phú quý (chữ Hành ở
đây hàm ý ung dung, tự tại. Phú là cứu giúp khắp mọi người bần cùng. Quý
là tận tụy với vua, giúp đỡ dân), chẳng bần tiện mà hành như bần tiện (nếu
trong nhà không tiền của, thân chưa ra làm quan thì thanh bần giữ khí tiết,
chẳng dám làm bậy), chẳng phải mọi rợ mà hành xử như mọi rợ (ý nói: Nếu
vì lòng tận trung bị sàm tấu, bị vua biếm truất ra miền xa như các tỉnh Vân
Nam, Quý Châu, Lưỡng Quảng (Quảng Ðông - Quảng Tây), Hắc Long
Giang v.v... thì tâm bình, khí hòa, trên chẳng oán vua, dưới chẳng hận người
sàm tấu, tự coi mình giống như người dân đang sống tại những vùng
ấy), chẳng hoạn nạn mà hành như đang hoạn nạn (nếu như chẳng những bị
đày, còn bị trừng phạt. Nhẹ thì bị đánh đập, giam cầm, nặng thì bị chém đầu,
phanh thây, hoặc đến nỗi diệt tộc. Nhưng vẫn cứ chẳng oán vua, chẳng hận
gian đảng. Nếu tự mình làm được như thế, khi gặp người gieo vạ còn giữ
được như thế, huống hồ khi trời gieo vạ, há có nên oán hận chăng? Người
như vậy người yêu mến, trời bảo vệ, ngay trong đời này hoặc trong đời sau,
hoặc con cháu người đó nhất định sẽ hưởng phước báo vô cùng xứng với
đức ấy).

* Phàm là người bỏ lỗi theo lành và tu Tịnh nghiệp, chỉ quý ở chỗ chân
thành, tối kỵ giả dối. Chẳng được ngoài mặt phô trương cái danh làm lành tu
hành, trong lòng bất trung, bất thứ. Ông Cừ Bá Ngọc năm năm mươi tuổi
thấy bốn mươi chín năm trước mình toàn làm quấy. Có vậy mới mong thành
thánh, thành hiền, học Phật, học Tổ, là bậc danh giáo công thần, là con đích
thực của đức Như Lai. Vì thế, tôi chẳng quan tâm đến kẻ Tăng, người tục ấy
là thành đạt hay cùng quẫn chi cả!

* Niệm Phật cầu sanh Tây Phương, phải biết nhân hiểu quả. Hành vi nơi
thân, ý niệm nơi tâm phải hợp với Phật. Nếu trái nghịch Phật, dù có niệm
Phật cũng khó vãng sanh vì chẳng cảm ứng đạo giao vậy! Nếu có thể sanh
lòng hổ thẹn lớn lao, sửa lỗi như trừ ghẻ độc, lập chí như giữ bạch ngọc thì
vạn người chẳng sót một ai đều được vãng sanh cả!

* Nói về những quy luật phải giữ ngoài việc ăn chay trường niệm Phật là
nói đến việc chăm chắm bền lòng hiếu thuận, thành kính giữ trọn vẹn luân
thường, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành. Tâm nghĩ, niệm khởi
chẳng hề tà vạy, khuất khúc và hư ngụy. Làm việc cho người phải tận hết
trách nhiệm. Gặp người hữu duyên, khuyên họ nhập đạo. Các hành tướng
như vậy chẳng cần phải thuật đủ. Chỉ siêng xem Ấn Quang Văn Sao và An
Sĩ Toàn Thư sẽ tự biết.
Phải biết rằng: là đệ tử Phật, phàm làm gì phải vượt trội hơn hành vi thế
tục thì chính mình mới đạt được lợi ích chân thật, khiến cho người khác
trông thấy làm lành theo. Nếu miệng nói tu hành, trong tâm chẳng lành, đối
với cha mẹ, anh em và hết thảy người đời chẳng trọn hết bổn phận thì người
như thế gọi là “ngụy thiện nhân”! Nhân địa đã giả dối, làm sao đạt lợi ích
thật sự? Cái học của thánh hiền đều bắt đầu từ “cách vật trí tri, thành ý chánh
tâm”; huống muốn liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh [lại chẳng như
thế] ư? Về [ý nghĩa của] “cách vật trí tri” nên xem lời tựa bản in lại sách chú
giải Tứ Thư của ngài Ngẫu Ích và lời tựa cuốn Liễu Phàm Tứ Huấn.

* Các việc ác và các điều thiện đều là dựa trên tâm địa mà luận, chứ
chẳng phải chỉ nói về sự tướng mà thôi. Trong tâm đã chẳng khởi ác thì toàn
thể là thiện, niệm ấy là Phật, công đức hơn hẳn người thường trăm ngàn vạn
lần. Muốn cho cõi lòng chỉ thiện không ác thì trong hết thảy lúc, hết thảy
nơi, hãy nên giữ lòng thành kính như đối trước trời Phật mới hòng đạt được.
Nếu tâm vừa mới phóng túng thì các ý niệm chẳng đúng pháp sẽ theo đó mà
khởi!

* Niệm Phật phải khéo phát tâm. Tâm làm chủ việc tu trì. Tâm nếu phù
hợp với bốn hoằng thệ nguyện thì niệm Phật một câu, làm một điều lành,
công đức vô lượng vô biên; huống hồ là ba nghiệp thân - khẩu - ý luôn đặt
nơi niệm Phật lợi sanh?
Nếu tâm chỉ cầu tự lợi, chẳng mong lợi người, dù làm nhiều việc vẫn đạt
được công đức rất ít. Huống hồ lại còn có ý khuynh đảo người, hại người, và
tâm tự khoe khoang, hợm hĩnh thì việc mình niệm Phật đó, việc mình làm đó
dù chẳng phải hoàn toàn không công đức, nhưng trong trăm ngàn vạn ức
phần, mình chỉ thật sự đạt được một phần rưỡi thôi! Thế nhưng tội lỗi của ác
niệm cũng lại chẳng ít. Bởi vậy, người tu hành ai nấy phải khéo phát tâm,
chứ chẳng riêng gì người niệm Phật!
* Phải biết rằng Phật pháp vốn chẳng lìa thế gian. Tất cả những bạn
trong liên xã ai nấy đều phải trọn vẹn bổn phận của mình. Như cha hiền con
hiếu, anh rộng lượng, em cung kính, chồng xướng vợ theo, chủ nhân từ, tớ
trung thành v.v... Lại phải đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành,
kiêng giết, phóng sanh, chẳng ăn mặn, uống rượu, ngăn điều tà, giữ lòng
thành, khắc kỷ, giữ lễ, tự lợi, lợi tha; [lấy những việc như vậy] làm trách
nhiệm của mình. Như thế thì nền tảng vững vàng, ngay ngắn, đáng thọ pháp
nhuận. Nếu có đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, ắt sẽ vãng sanh
thượng phẩm.
Kẻ ngu trong đời phần nhiều thường không tu hành thật sự, chỉ mong
được cái hư danh là tu hành chân thật. Vì thế, bày ra đủ mọi cách tô son trát
phấn thành ra những trò trông giống như thật nhưng chỉ là giả, chỉ mong
người khác khen ngợi mình. Tâm hạnh họ đã dơ bẩn quá đỗi, dù có tu trì
cũng bị tâm ấy làm bẩn, quyết khó được lợi ích chân thật. Ðấy gọi là “háo
danh ố thật” (thích danh ghét thật), là điều đại kỵ bậc nhất cho việc tu hành.
Nếu ai thực hiện những điều nên làm đã nói ở phần trước, không có
những điều nên tránh như đã nói ở phần sau, người ấy là người hiền trong
thế gian, là bậc Khai Sĩ trong Phật pháp. Dùng thân mình làm gương cho
mọi người, từ trong nhà ra đến làng xóm, từ làng xóm đến thành ấp, cho đến
toàn quốc và tứ thiên hạ thì lễ nghĩa hưng thịnh, can qua vĩnh viễn ngưng
dứt, từ thiện nẩy nở, tai hại chẳng sanh, mới hòng thiên hạ thái bình, nhân
dân an lạc!

* Ðã niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì phải phát tâm từ bi, hành
phương tiện sự, dứt tham - sân - si, tránh giết - trộm - dâm, tự lợi, lợi người
mới hợp ý Phật. Nếu không, tâm trái với Phật, cảm ứng đạo giao bị gián
cách, chỉ gieo nhân đời sau, khó được quả hiện đời. Nếu chí thành niệm
Phật, hạnh hợp tâm Phật, tâm khẩu tương ứng thì người như thế đến lúc lâm
chung, A Di Ðà Phật và các thánh chúng tất nhiên hiện đến tiếp dẫn vãng
sanh Tây Phương.
Một phen sanh về Tây Phương liền siêu phàm nhập thánh, liễu sanh
thoát tử, vĩnh viễn lìa khỏi các khổ, chỉ hưởng các vui. Ðấy là toàn cậy vào
Phật lực, chẳng bàn đến công đức là cạn hay sâu, có Hoặc hay không Hoặc!
Chỉ đầy đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, quyết định vạn người
chẳng sót một.

* Người học đạo an tâm lập hạnh ắt phải chất trực, trung chánh, chẳng
được có mảy may thiên lệch, tư vị, cong vẹo nào. Nếu có chút thiên lệch, tư
vị, cong vẹo nào sẽ giống như cái cân có mấu cân chẳng chuẩn, cân các vật
nặng nhẹ đều sai! Như tấm gương thể chất chẳng sạch, chiếu các vật đẹp xấu
chẳng đúng. Sai chỉ hào ly, mất cả ngàn dặm. Sai lầm lan truyền, không sao
dứt được.
Vì thế, kinh Lăng Nghiêm nói: “Thập phương Như Lai đồng một đạo
nên xuất ly sanh tử đều dùng trực tâm”. Do tâm lẫn lời nói đều ngay thẳng
như thế cho đến địa vị Chung Thỉ, trong khoảng thời gian ấy vĩnh viễn
không có các tướng ủy khúc. Kinh Thư nói: “‘Nhân tâm nguy ách, đạo tâm
tế nhị, ròng chuyên một mối, đừng chấp hai bên”.

* Quán kinh dùng hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm
chẳng giết, tu thập thiện nghiệp và thọ trì Tam Quy, các giới: Cụ Túc...
chẳng phạm oai nghi, phát Bồ Ðề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng [kinh điển]
Ðại Thừa để khuyến tấn hành giả dùng đó làm chánh nhân cho Tịnh nghiệp.
Với mười một điều này, chỉ có một điều “dùng tín nguyện sâu xa, hồi hướng
vãng sanh” thì đều được như nguyện.

---o0o---

4. Luận định các pháp tu trì

* Trộm nghĩ pháp môn tu trì có hai thứ khác nhau. Nếu cậy vào sức
mình để tu Giới - Ðịnh - Huệ hòng đoạn Hoặc chứng chân, liễu sanh thoát tử
thì gọi là những pháp môn thông thường. Nếu đầy đủ lòng tin chân thành,
nguyện thiết tha, trì danh hiệu Phật, mong nhờ vào Phật lực vãng sanh Tây
Phương thì gọi là pháp môn đặc biệt.
Pháp môn thông thường toàn cậy vào tự lực, pháp môn đặc biệt gồm cả
tự lực và Phật lực. Dù có công tu Ðịnh Huệ, đoạn Hoặc sâu, nhưng không có
lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, niệm Phật cầu vãng sanh thì vẫn thuộc
về Tự Lực. Nay dùng ví dụ để chỉ rõ. Ðường lối tu thông thường giống như
vẽ tranh sơn thủy, phải vẽ từng nét bút mới từ từ thành hình. Còn pháp môn
đặc biệt như chụp cảnh sơn thủy, dù núi non, cây cỏ um tùm cách mấy, chụp
một cái là đủ hết cả.
Ðường lối tu thông thường lại như ra đi bằng đường bộ, người mạnh
nhất mỗi ngày đi chẳng quá một trăm mười dặm. Pháp môn đặc biệt như
ngồi trên luân bảo của Chuyển Luân Thánh Vương, một ngày bay đi khắp
bốn đại bộ châu. Chúng ta đã chẳng có khả năng thành Phật ngay lập tức, lại
chẳng thực sự chứng “đoạn Kiến Hoặc, tùy ý chẳng tạo nghiệp”; nếu chẳng
chuyên tu Tịnh Nghiệp để nhờ vào Phật lực đới nghiệp vãng sanh, chỉ e đến
tận đời vị lai, vẫn ở trong tam đồ, lục đạo, thọ sanh, thọ tử, không cách nào
xuất ly, chẳng đáng buồn ư? Nguyện những đồng nhân của tôi gấp sanh
chánh tín.

* Một pháp Niệm Phật ước có bốn loại, nghĩa là: Trì Danh, Quán Tượng,
Quán Tưởng, Thật Tướng. Chỉ mỗi mình pháp Trì Danh thâu nhiếp căn cơ
rất rộng, hạ thủ dễ dàng nhất, chẳng đến nỗi bị ma sự!
Nếu muốn tu Quán, phải đọc kỹ Quán Kinh, hiểu sâu xa “tâm này làm
Phật, tâm này là Phật” và “tâm tịnh Phật hiện, cảnh chẳng phải đến từ bên
ngoài”, chỉ do tâm hiện, đừng sanh chấp trước. Ðã không chấp trước thì
cảnh càng thêm thâm diệu, tâm càng thêm tinh nhất. Làm được như vậy thì
quán tưởng được lợi ích chẳng nhỏ.
Nếu cảnh quán chẳng thuần thục, chẳng hiểu rõ Lý, dùng tâm gấp rút
vọng động muốn cảnh hiện gấp thì toàn thể đều là vọng, chẳng tương ứng
với cả Phật lẫn tâm, đọa vào ma thai. Nhân đó, vọng động muốn thấy cảnh
thì tâm càng thêm vọng động, ắt đến nỗi phát động oan gia trong nhiều đời
hiện ra những cảnh giới. Cái nhân ban đầu đã chẳng chân, làm sao biết được
cảnh ấy là do ma nghiệp hiện? Liền sanh đại hoan hỷ, tình thức chẳng tự yên
nên ma sẽ dựa thân, mất trí thành cuồng. Dù cho Phật sống hiện thân cứu độ,
cũng chẳng làm gì được! Nên tự lượng căn tánh, chớ toan tính chuyện cao
xa để đến nỗi mong được lợi hóa ra thành tổn hại!
Hòa Thượng Thiện Ðạo dạy: “Mạt Pháp chúng sanh thần thức chao
đảo, tâm thô cảnh tế, quán khó thành tựu. Cho nên đức Ðại Thánh thương
xót riêng khuyên nên trì danh vì xưng danh dễ, trì danh liên tục liền được
sanh”. Ðúng là Ngài sợ có kẻ chẳng khéo dụng tâm đến nỗi lạc vào cảnh
ma. Hãy tự xét kỹ! Hơn nữa, Trì Danh chí thành khẩn thiết cũng là một diệu
pháp để tiêu trừ ma cảnh vọng động. Hãy nên dốc kiệt tâm lực thực hành
mới nên!

* Chớ nói: Duyên tưởng một Ðức Phật công đức chẳng lớn bằng duyên
tưởng nhiều Ðức Phật. Phải biết rằng A Di Ðà Phật là Pháp Giới Tạng Thân,
công đức của tất cả mười phương pháp giới chư Phật, mình đức Phật A Di
Ðà đã hoàn toàn trọn đủ. Như các hạt châu nơi lưới của Thiên Ðế, ngàn hạt
châu in bóng trong một hạt châu, một hạt châu chiếu khắp ngàn hạt châu.
Nêu một gồm thâu toàn bộ, chẳng thiếu, chẳng dư!
Nếu là bậc Ðại Sĩ tu lâu, duyên cảnh rộng lớn chẳng ngại gì! Cảnh càng
rộng, tâm càng chuyên nhất. Nếu là kẻ sơ tâm mạt học, nếu duyên cảnh rộng
tâm thức sẽ phân tán, nhưng chướng sâu huệ cạn, rất có thể khởi các ma sự.
Cho nên đức Phật Thế Tôn ta và lịch đại chư Tổ đều dạy nhất tâm chuyên
niệm A Di Ðà Phật là vì lẽ ấy. Ðợi đến khi niệm Phật chứng được tam muội
thì trăm ngàn pháp môn, vô lượng diệu nghĩa thảy đều đầy đủ. Cổ nhân bảo:
Dĩ mộc đại hải giả,
Tất dụng bách xuyên thủy,
Thân đáo Hàm Nguyên điện,
Bất tu vấn Trường An?
(Ðã tắm trong biển cả,
Ắt dùng nước trăm sông.
Thân đến điện Hàm Nguyên,
Hỏi Trường An chi nữa?)
Có thể nói là rất khéo hình dung vậy!

* Chớ có nói một pháp Trì Danh là thiển cận, rồi bỏ pháp này, tu các
pháp Quán Tượng, Quán Tưởng, Thật Tướng! Trong bốn pháp niệm Phật,
chỉ có mỗi Trì Danh là khế cơ bậc nhất. Trì đến nhất tâm bất loạn thì diệu lý
Thật Tướng sẽ hiển lộ toàn thể, diệu cảnh Tây Phương triệt để phô bày trọn
vẹn. Tức là trì danh mà chứng được Thật Tướng, chẳng quán tưởng mà thấy
cùng tột cảnh Tây Phương.
Một pháp Trì Danh chính là huyền môn để nhập đạo, là đường tắt để
thành Phật. Nay những người dạy lý quán pháp đều chẳng hiểu rõ. Nếu tu
Quán Tưởng, Thật Tướng lỡ bị ma dựa, há có phải là biến khéo thành vụng,
cầu thăng hóa đọa. Hãy nên tu hạnh dễ hành, sẽ tự cảm được diệu quả.

* Như Lai thuyết pháp vốn là để thích ứng căn cơ. Vì thế mới có việc vì
Thật bày Quyền, hiển Quyền khai Thật, năm thời giáo hóa. Lại vì cậy vào tự
lực để liễu thoát thì khó, cậy Phật lực để liễu thoát thì dễ. Lại vì chúng sanh
đời Mạt căn cơ hèn kém nên Phật đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh Ðộ để ba
căn thượng, trung, hạ đều hưởng lợi ích, cùng chứng Bất Thoái.
Ðời có kẻ ham cao chuộng trội, chẳng xét thời cơ, cứ đem những pháp
phần đông chẳng khế ngộ nổi để dạy người tu tập. Ý họ tuy rất lành, nhưng
ước về giáo pháp thì chẳng thích hợp với căn cơ, cho nên dụng sức rất nhiều
mà kẻ được lợi ích lại ít!

* Trước khi chưa đắc Nhất Tâm, trọn chẳng thể móng khởi ý niệm thấy
Phật. Ðạt được Nhất Tâm thì tâm hợp với đạo, tâm hợp với Phật, muốn thấy
liền thấy ngay, chẳng thấy cũng không ngại gì. Nếu muốn gấp thấy Phật, tâm
niệm rối bời, ý niệm muốn được thấy Phật kết chặt trong dạ, trở thành đại
bệnh cho việc tu hành. Lâu ngày, kẻ oán gia trong nhiều đời thừa dịp tình
tưởng vọng động, dối hiện thân Phật để đòi oán cũ. Tự mình tâm không
chánh kiến, toàn thể thuộc về khí phận ma, vừa thấy liền sanh hoan hỷ. Do
đấy, ma nhập tim gan, bị ma dựa phát cuồng. Dù có Phật sống cũng chẳng
làm gì được!
Chỉ nên gắng đạt Nhất Tâm, quản chi thấy Phật hay không? Nhất Tâm
rồi sẽ tự biết rõ. Nếu chẳng thấy Phật thì do công phu vượt tiến liền thấy, lại
càng thêm một dạ chuyên tu, trọn chẳng mắc lỗi hiểu lầm, chỉ được lợi ích
vượt trội.
Trong đời, kẻ chẳng hiểu lý mới tu trì chút ít đã mong mỏi quá phận
mình. Ví như mài gương, nếu bụi dơ đã hết, chắc chắn quang minh sẽ hiện
ra chiếu trời, soi đất. Nếu chẳng tận lực mài, cứ mong gương tỏa sáng, do
toàn thể là nhơ bẩn nên nếu có phát quang thì ánh sáng ấy cũng là ánh sáng
ma quái, chứ nào phải ánh sáng của gương!
Quang tôi chỉ sợ ông chẳng khéo dụng tâm, lỡ ra bị mất lợi lành, khiến
tín tâm người khác bị lui sụt, nên mới viết thư bày tỏ. Tổ Vĩnh Minh
nói: “Chỉ được thấy Di Ðà, lo chi không khai ngộ”. Nay tôi bắt chước Ngài
nói: “Chỉ mong đạt Nhất Tâm, lo gì thấy, chẳng thấy!” Biết vậy rồi thì hãy
nên dốc sức để tâm hợp với đạo của Phật vậy!

* Ðóng cửa Phương Tiện, cự tuyệt sự vụ chẳng cấp bách, thật là hữu ích.

* Khi bế quan dụng công, nên lấy “chuyên tinh bất nhị” làm chánh. Nếu
tâm được chuyên nhất sẽ tự được cảm thông chẳng thể nghĩ bàn. Lúc chưa
được Nhất Tâm, tâm chớ vọng động cầu cảm thông. Sau khi Nhất Tâm, nhất
định có cảm thông. Cảm thông thì tâm càng tinh nhất. Có thể nói là như
gương sáng đặt trên đài, hình đến liền hiện bóng, hình tự lăng xăng, can gì
đến ta? Tâm chưa chuyên nhất, đừng cầu cảm thông; bởi cái tâm cầu cảm
thông đó chính là một chướng ngại lớn bậc nhất cho việc tu đạo. Huống hồ
do vọng động mong cầu thái quá, rất có thể các ma sự khởi, phá hoại tịnh
tâm!

* Việc cắt máu chép kinh có thể hoãn lại đó, trước hết nên lấy nhất tâm
niệm Phật làm trọng. E rằng vì máu hao tinh thần suy nhược, lại hóa thành
chướng ngại. Thân có an thì đạo mới vượng. Còn thuộc địa vị phàm phu
đừng bắt chước khổ hạnh của bậc Pháp Thân Ðại Sĩ. Chỉ cần được nhất tâm
thì pháp nào cũng trọn vẹn hết!

* Ðối với pháp Quán Tưởng, nếu chẳng minh bạch về mặt Lý, quán cảnh
chưa thành thục thì chẳng được có tâm vọng động mong chóng đạt. Người
có chí trấn định chẳng dời tu pháp này thì tổn nhiều, ích ít. Còn Thật Tướng
Niệm Phật chính là diệu hạnh thuộc về đường lối chung trong hết thảy pháp
môn thuộc toàn bộ giáo pháp của đức Phật. Như Chỉ Quán bên Thiên Thai
Tông, tham cứu hướng thượng của nhà Thiền v.v... đều thuộc đường lối này
cả. Những pháp nói đó đều là niệm Ðức Phật tự tánh thiên chân....
Niệm đức Phật Thật Tướng như vậy nói có vẻ dễ, nhưng tu chứng khó
nhất. Chẳng phải bậc Ðại Sĩ tái lai, có ai chứng được ngay trong đời này? Do
khó khăn ấy, lẽ đương nhiên cách Trì Danh niệm Phật đáng nên khen ngợi,
khuyên tu. Hiểu điều này rồi mà còn muốn cậy vào Tự Lực để đoạn Hoặc
chứng chân, khôi phục tâm tánh vốn sẵn có, chẳng chịu sanh lòng tin, phát
nguyện, chấp trì danh hiệu cầu sanh Tây Phương, quyết chẳng có lẽ ấy!
Do Thật Tướng hiện hữu trong hết thảy pháp, một pháp Trì Danh chính
là một đại pháp môn vừa là Sự vừa là Lý, vừa cạn, vừa sâu, vừa là tu, vừa là
tánh, là phàm tâm nhưng lại là Phật tâm. Với Trì Danh mà hiểu được thể của
nó chính là Thật Tướng thì [đạt] lợi ích sâu rộng. Bỏ Trì Danh để chuyên tu
Thật Tướng thì vạn người tu, cũng khó được một hai kẻ thật chứng! Cứ xem
quả báo của những vị Tô Ðông Pha, Tăng Lỗ Công, Trần Trung Tú, Vương
Thập Bằng v.v... sẽ thấy được lẽ trên. Với một việc liễu sanh thoát tử há cứ
dùng chí to, lời lẽ to lớn mà thành tựu được nổi sao?

* Niềm vui niệm Phật chỉ người chân thật niệm Phật mới biết được nổi.
Nhưng phải chí thành khẩn thiết, nhiếp tâm mà niệm, chẳng được chấp vào
tướng ngoại cảnh. Nếu không cõi lòng chẳng thông, quán đạo chẳng thuần
thục, ma cảnh hiện tiền cũng chẳng biết rõ thì nguy lắm! Phải nhớ kỹ, nhớ
kỹ! Nay những người thật sự hoằng dương Tịnh Ðộ khó được mấy ai! Ðem
ý niệm tham học với khắp các bậc tri thức đổi thành nhất tâm niệm Phật thì
lợi ích to lớn. Nếu không, chỉ thành ra uổng công nhọc nhằn bôn ba mà thôi!

* Niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm chính là niệm đến lúc tương ứng,
dù thường niệm Phật, nhưng trọn không có tướng khởi tâm động niệm (lúc
chưa tương ứng, chẳng khởi tâm động niệm thì chẳng niệm). Tuy chẳng khởi
tâm động niệm, nhưng thường luôn xưng niệm hoặc ức niệm một câu Phật
hiệu; nên nói “niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm”. Ðừng hiểu vô niệm là
không niệm. Vô niệm nghĩa là không có tướng khởi tâm động niệm để niệm,
nhưng niệm niệm chẳng gián đoạn. Cảnh giới này chẳng dễ đạt được, chớ có
hiểu lầm!

* Một pháp Quán Tưởng tuy hay, nhưng phải hiểu rõ tượng Phật mình
thấy đó thuộc về duy tâm sở hiện. Nếu tưởng đó là cảnh ngoài tâm, rất có thể
bị ma dựa phát cuồng. Chẳng thể không biết! Duy tâm sở hiện là cảnh tượng
ấy tuy rành rẽ phân minh, nhưng thật chẳng có vật gì. Nếu tưởng là ngoại
cảnh, cho là đành rành thật có thì liền thành ma cảnh. [Khi tu Quán] nhắm
mắt, mở mắt cốt sao thích hợp là được.
* Người khác dạy người chú trọng vào chỗ huyền diệu. Quang tôi dạy
người đa phần chỉ dẫn những điều họ có thể tận sức làm được. Nếu chẳng
thể tận sức mình, dù có luận tới tột nguồn, tận đáy của mỗi một pháp trong
Thiền hay Giáo cũng chỉ thành “tam thế chư Phật oan” mà thôi, huống gì
chưa phải là chuyện tột nguồn, tận đáy ư?

* Không tín - nguyện niệm Phật so với tham thiền, khán thoại đầu tuy
công đức lớn hơn, nhưng mình chưa đoạn được Hoặc, sẽ chẳng thể liễu thoát
bằng tự lực! Thêm nữa, không có tín - nguyện chẳng thể được Phật tiếp dẫn
liễu thoát, vẫn là pháp môn thông thường cậy vào tự lực để chứng đạo, thật
chẳng thể dễ dàng. Chớ bảo “tín nguyện cầu sanh” là hèn kém! Hoa Nghiêm
hải hội cùng lấy mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh là chỗ quy kết
cuối cùng cho kinh Hoa Nghiêm. Huống hồ những pháp ngữ, những lời dạy
của các Bồ Tát, Tổ Sư trong Tịnh Ðộ đều chỉ dạy tín nguyện cầu sanh.

* Tuy có mười sáu phép Quán, nhưng hành giả nên bắt đầu từ phép quán
dễ, hoặc là quán tướng bạch hào của Như Lai, hoặc phép quán thứ mười ba
là tạp tưởng quán. Còn như quán về chín phẩm chẳng qua là để hành nhân
biết được tiền nhân, hậu quả của việc vãng sanh mà thôi, chỉ cần hiểu rõ là
được; bất tất phải đặt riêng làm phép quán.
Chẳng thể chẳng biết lý của Quán, về mặt sự của tu quán thì phải hành
từ từ. Nếu như chẳng hiểu rõ mặt lý, quán cảnh chẳng phân minh, dùng tâm
tháo động thô phù để tu, có thể tạo thành ma sự. Tức là khi quán cảnh hiện
tiền, nếu tâm chợt vọng sanh ý niệm vui mừng, sẽ do vui thành chướng, có
thể bị thoái thất cái tâm ban đầu.
Vì thế, kinh Lăng Nghiêm dạy: “Tâm chẳng cho là cảnh thánh, gọi là
cảnh giới lành. Nếu cho là thánh giải liền vướng quần tà”. Chỉ mỗi cách
Nhất Tâm Trì Danh là hạnh ngàn phần ổn thỏa, vạn bề thích đáng, đợi đến
khi tâm quy nhất, tịnh cảnh sẽ tự hiện tiền.

* Phải biết lý “ Pháp Thân vào trong tâm tưởng” [nói trong Quán Kinh]
rất sâu. Tâm là Phật, tâm làm Phật sự vốn bình thường. Bình thường phi
thường, rất sâu chẳng sâu. Phải viên ngộ mới gọi là “đạt nhân” (người thấu
hiểu). Còn phép quán thứ mười ba là riêng vì chúng sanh căn cơ kém cỏi mở
cửa phương tiện, dạy họ quán thân Phật trượng sáu hoặc tám thước.
Trong phép quán thứ mười sáu, lại dạy những kẻ ác nghiệp nặng nề
xưng danh hiệu. Do xưng danh liền được vãng sanh. Do đấy biết rằng:
Tướng có lớn nhỏ, Phật vốn là một. Chẳng thể quán tưởng, [chỉ cần] xưng
danh liền được lợi ích. Suy nghĩ kỹ điều này sẽ biết một pháp Trì Danh thật
là bậc nhất. Hành nhân đời mạt muốn được quyết định vãng sanh ngay trong
đời này có nên bỏ phí của báu một hạnh Trì Danh này chăng?

* Người đời này hơn quá nửa chuộng thể diện, xây lầu gác trên không.
Có được một phần hay nửa phần, bèn nói là có đến trăm ngàn vạn phần. Như
trong sách Ngữ Lục của vị cư sĩ nọ, những cảnh giới ông ta thuật đều là
chuyện do ngòi bút vẽ vời, chứ chẳng phải cảnh do tâm tạo. Cố nhiên ông
chẳng nói dối, nhưng tôi thật sự e rằng không chừng ông vướng phải tập khí
này, họa ấy chẳng nhỏ.
Phật xếp vọng ngữ vào năm giới căn bản, chính là để phòng tệ này. Nếu
thấy nói chẳng thấy, chẳng thấy nói thấy là thuộc về tội vọng ngữ. Nếu xây
lầu gác trên không, bịa đặt cảnh giới thù thắng là phạm đại vọng ngữ giới.
Nếu chưa đắc bảo là đắc, chưa chứng bảo là chứng, tội đó nặng hơn giết -
trộm - dâm trăm ngàn vạn ức lần. Người ấy nếu chẳng tận lực sám hối, khi
một hơi thở ra không trở vào nữa sẽ đọa ngay vào địa ngục A Tỳ vì hoại
loạn Phật pháp, khiến chúng sanh lầm ngờ vậy.
Ông phải rất thận trọng, cảnh mình thấy chỉ một phân chẳng được nói
một phân mốt, cũng chẳng thể nói là chín ly chín. Nói quá thì mắc tội, nói
giảm cũng không được. Vì sao vậy? Bởi tri thức chưa đắc Tha Tâm Ðạo
Nhãn, chỉ có thể dựa vào lời đã nói để phán đoán mà thôi. Thuật cùng tri
thức cảnh giới ấy để nhờ họ chứng minh là tà hay chánh, là đúng hay sai thì
không sao. Nếu chẳng vì chứng minh, chỉ muốn khoe khoang cũng có lỗi!
Nếu nói với hết thảy mọi người, cũng có lỗi. Ngoại trừ việc cầu tri thức
chứng minh, đều chẳng được nói ra. Hễ nói ra, sau này sẽ vĩnh viễn chẳng
đạt được cảnh giới thù thắng ấy nữa. Ðây chính là ải thứ nhất cho người tu
hành, trong Thiên Thai Tông đã nhiều lần nói đến.
Sở dĩ những người tu hành gần đây nhiều kẻ bị ma dựa đều là do tâm
vọng động, gấp rút mong được cảnh giới thù thắng. Ðừng kể cảnh ấy là ma
cảnh, dù cảnh ấy đích thị là cảnh thù thắng, nhưng nếu cả một đời tâm cứ
hoan hỷ, tham trước v.v... sẽ vẫn bị tổn, chớ chẳng được ích, huống hồ cảnh
ấy chưa đích xác là cảnh thù thắng ư?
Nếu người ấy có hàm dưỡng, tâm chẳng vọng động, gấp rút, không tâm
tham đắm, thấy các cảnh giới cũng như chẳng thấy, chẳng sanh tâm hoan hỷ,
đắm trước, cũng lại chẳng sanh tâm hoảng hốt, kinh nghi thì đừng nói là
cảnh thù thắng hiện bèn được lợi, dù cảnh ma hiện cũng vẫn hưởng lợi ích!
Vì sao vậy? Vì chẳng bị ma chuyển, nên có thể thăng tiến. Tôi chẳng thường
nói lời này với người khác, vì ông có những sự ấy nên chẳng thể không nói.
Tượng Ðại Sĩ ông được thấy lúc mới lễ Phật là không đích xác. Nếu đích
thực là tượng Ngài thì sẽ chẳng vì ông nghĩ tượng đó chẳng khớp với Quán
kinh mà ẩn. Nhưng vì điều đó tín tâm của ông càng khẩn thiết thì cũng là
một nhân duyên tốt, nhưng chẳng nên mong thường thấy tượng. Chỉ nên chí
thành lễ bái mà thôi, mong ông đừng nghĩ gì khác. Lúc ngủ thấy ánh sáng
trước mắt và khi lễ Phật thấy tượng Phật đứng trên hư không tuy là thiện
cảnh, nhưng đừng tham đắm. Từ đây về sau đừng lấy đó làm điều mong
mỏi, các tướng ấy sẽ chẳng hiện nữa.
Xem căn tánh của ông có lẽ đời trước từng tu tập Thiền Ðịnh nên mới
nhiều lần thấy những tướng ấy. Ðời Minh, ông Ngu Thuần Hy ở tại núi
Thiên Mục, bế quan tĩnh tu trên đỉnh núi cao. Lâu ngày bèn có tiên tri, dự
đoán được trời sẽ âm u hay quang đãng, họa phước của người. Ông ta quy y
với Liên Trì đại sư. Ðại sư nghe chuyện gởi thư cực lực quở trách, bảo ông
ta lọt vào lưới rập của ma. Sau ông không biết nữa.
Phải biết rằng: Người học đạo phải biết điều gì là quan trọng; nếu không,
được lợi ích nhỏ nhặt, bị tổn hại lớn lao. Ðừng kể đến những cảnh giới ấy,
dù có thật sự đắc Ngũ Thông cũng còn phải không đếm xỉa gì tới, mới hòng
chứng được Lậu Tận Thông. Nếu một phen tham đắm sẽ khó thể tiến lên,
thậm chí còn thoái đọa. Chẳng thể chẳng biết!

* Người tu Tịnh nghiệp chẳng đặt nặng các thứ cảnh giới nên không
cảnh giới nào phát sanh. Nếu trong tâm cứ chuyên muốn thấy cảnh giới thì
cảnh giới rất nhiều. Nếu chẳng khéo dụng tâm, có thể bị tổn hại, chẳng thể
chẳng biết.

* Ðàm Bích Vân cứ mong gấp chứng. Chẳng phải riêng mình ông ta mắc
phải căn bệnh này, hết thảy người học Phật đa số đều phạm phải căn bệnh
này. Ðã có bệnh ấy, chẳng những chiêu cảm ma sự, mà còn chưa chứng nói
là đã chứng. Phải biết rằng: Tâm vốn là Phật, do phiền não chưa trừ, phải
oan uổng làm chúng sanh. Chỉ khi tiêu diệt được phiền não thì Phật tánh sẵn
có sẽ tự nhiên hiển hiện.
Giống như mài gương chỉ mong sạch chất dơ, chẳng mong phát quang.
Như thầy thuốc chữa mắt, hễ màng mộng mất đi, mắt sẽ tự sáng lại. Còn lúc
chất dơ chưa sạch, màng mộng chưa khử, dù có muốn phóng đại quang
minh, há có thể được chăng? Nếu phát quang, đấy chính là yêu ma biến hiện,
chứ chẳng phải là quang minh chân chánh của gương hay mắt. Ðối với
những người sơ phát tâm, hãy nên đem ý này bảo cho họ biết.

* Người niệm Phật hãy nên tâm niệm được vãng sanh ngay trong đời
này. Nếu chưa đến lúc báo thân đã mãn, chỉ nên tùy duyên. Nếu muốn định
thời hạn, mong được vãng sanh (tức là mong được vãng sanh vào một thời
điểm nhất định nào đó), nếu như công phu đã thành thục, lẽ cố nhiên chẳng
trở ngại gì. Bằng không, một cái tâm mong cầu ấy sẽ trở thành ma căn. Nếu
như vọng niệm ấy kết thành một khối chẳng gỡ bỏ được thì nguy hiểm
chẳng thể nói nổi. Dốc hết lòng thành đến hết báo thân này chính là điều
chúng ta nên tuân hành. Chứ còn chấm dứt tuổi thọ để cầu chứng chính là
điều bị Giới kinh (Luật tạng) quở trách nặng nề (Cuối kinh Phạm Võng có
bài kệ:
Kế ngã trước tưởng giả,
Bất năng sanh thị pháp,
Diệt thọ thủ chứng giả,
Diệc phi hạ chủng xứ.
Tạm dịch:
Chấp ngã, dính mắc tưởng,
Chẳng sanh nổi pháp này.
Diệt thân cầu được chứng,
Chẳng phải điều nên làm)
Chỉ nên dốc trọn thành kính, cầu mau được vãng sanh. Chẳng nên định
kỳ hạn mong nhất định được vãng sanh. Người học đạo tâm chẳng được
thiên chấp. Thiên chấp thì rất có thể đến nỗi mất trí thành điên, chẳng những
vô ích, còn có hại nữa. Nếu Tịnh nghiệp thuần thục, vãng sanh ngay ngày
hôm nay là tốt. Nếu chưa thuần thục lại muốn được vãng sanh ngay thì khác
nào kéo mạ cho nó mau lớn.
Thật ngại một phen ma sự khởi, chẳng những tự mình chẳng thể vãng
sanh, mà còn khiến kẻ vô tri lui giảm tín tâm, cho là: “Niệm Phật chỉ tổn hại,
không ích lợi gì, cứ coi gương tầy đình của ông X. thì cái hại ấy chẳng cạn
cợt vậy!” Xin hãy đem cái tâm “quyết định lập kỳ hạn” ấy đổi thành cái tâm
“chỉ nguyện mau được vãng sanh”. Dù chẳng mau được vãng sanh cũng
chẳng phàn nàn, chỉ càng chí thành, chí kính, chỉ mong báo tận liền được
vãng sanh là được. Không gấp rút, vọng động, khăng khăng bám chắc đến
nỗi chiêu cảm ma sự!

---o0o---

5. Khuyên hành nhân nỗ lực

* Người sống trong thế gian, có đủ tám nỗi khổ. Dù sanh trên trời khó
tránh ngũ suy21 . Chỉ Tây Phương Cực Lạc thế giới không có các nỗi khổ,
chỉ hưởng các sự vui. Kinh dạy: “Tam giới vô an, do như hỏa trạch, chúng
khổ sung mãn, thậm khả bố úy” (Ba cõi không yên giống như nhà lửa, các
khổ dẫy đầy rất đáng kinh sợ). Mạng người vô thường, lẹ như ánh chớp. Ðại
hạn xảy đến, ai nấy chẳng thể chiếu cố cho nhau. Hết thảy pháp hữu vi như
mộng, huyễn, bọt, bóng.
Ðối với những điều ấy chẳng tỉnh ngộ, tận lực tu Tịnh nghiệp thì cùng
sanh trưởng như gỗ, đá vô tình trong vòng trời đất vậy. Là trang nam nhi có
huyết tánh, há chịu làm thây đi thịt chạy, chết mục nát với cỏ cây! Ðề cao
cảnh thánh nhưng tự ở chốn phàm phu, gặp lời răn nhắc lớn lao mà chẳng
phát phẫn, nghe đạo của thánh hiền, Phật, Tổ vẫn chẳng chịu tin thì là trời
phụ người hay người phụ trời đây?

* Tâm gặp ác mộng là điềm ác nghiệp đời trước hiển hiện. Dù cảnh hiện
ra có thiện hay ác, nhưng chuyển biến được cảnh chính tại nơi mình! Ác
nghiệp hiện nhưng chuyên tâm niệm Phật thì nhân duyên ác thành nhân
duyên lành, ác nghiệp đời trước biến thành đạo sư đời này. Tiếc là người đời
phần nhiều bị nghiệp trói buộc, chẳng thể chuyển biến, đến nỗi lâm vào cảnh
đã té giếng còn bị ném đá, khổ càng thêm khổ!

* Thời này là thời nào? Nam Bắc đánh nhau, trong ngoài đối địch. Ba
bốn năm gần đây, người chết bốn năm ngàn vạn. Tự thuở có con người đến
nay, chưa từng nghe thấy sự thê thảm như vậy. Lại còn gió lốc, nước dâng,
địa chấn, ôn dịch nhan nhãn các nơi. Lại còn thêm lụt lội, hạn hán, không
năm nào chẳng kèm thêm các tai nạn ấy. Giá cả các thứ mắc gấp mấy lần
năm trước.
Trong lúc này, may còn được sống, dám đâu chẳng kiệt lực chuyên tu
Tịnh nghiệp để cầu vãng sanh Tịnh Ðộ ư? Dám đâu do may mắn còn được
cái thân lại buông lung ý chí, chẳng chuyên chú nhất định vào một pháp, lơ
mơ dốc sức vào một pháp môn chẳng khế hợp thời cơ ư? Giả sử một hơi thở
ra chẳng hít trở vào được, muốn lại được nghe pháp môn thẳng tắt như thế
này, chỉ e chẳng có dịp may mắn như thế nữa đâu?

* Thân là gốc để chiêu khổ, chán nhàm bèn được cái nền tảng để hưởng
vui. Do túc nhân sâu dày, hiện tại thiện hảo càng nồng hậu, nên báo nặng từ
nhiều kiếp chuyển thành vạ nhẹ trong hiện tại. Càng hoạn nạn, đớn đau càng
mạnh mẽ tu trì thì những thống khổ trong cõi Sa Bà sẽ là thầy hướng dẫn
mình về Cực Lạc. Hãy nghĩ mình đang đền nợ cũ thì những ý tưởng áo não,
phiền muộn sẽ tự tiêu. Nếu vẫn còn ôm lòng oán trách thì tội chướng tiếp tục
khởi. Cam chịu nghịch cảnh xảy đến mới là kẻ biết vui theo mệnh trời. Chán
đây, ưa kia mới là người tu Tịnh nghiệp.

* Một câu Phật hiệu bao quát hết cả toàn bộ giáo nghĩa Ðại Tạng không
còn sót gì. Người thông Tông, thông Giáo mới có thể làm người chân thật
niệm Phật, nhưng người cái gì cũng không biết, cái gì cũng chẳng làm được,
miệng chỉ biết thưa thốt, cũng vẫn có thể làm người chân thật niệm Phật. Hai
hạng người này có chân thật hay không toàn là do tự mình nỗ lực hay không,
có hành theo đúng giáo pháp hay không?

* Nếu đối với pháp môn Tịnh Ðộ, kính tin lời Phật quyết định chẳng
ngờ, lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, tu hành thật sự nhất định sẽ vãng
sanh làm người trong thế giới Cực Lạc. Há nên trong lúc kiếp vận này, toan
nhằm thời buổi nguy hiểm, tinh thần hữu hạn, lại thực hiện những pháp vụ
chẳng cấp bách hòng được tiếng tăm là bậc đại thông gia để thỏa thể diện,
khiến cho một việc chuyên tu của chính mình rốt cục thành hư luống sao?

* Mười nguyện Phổ Hiền, một hạnh Văn Thù, nếu có thể chuyên ròng
tu, dù hết thảy kinh luật đều chẳng thông suốt cũng có thể nhanh chóng tháo
cũi xổ lồng, cao dự hải hội. Nếu đối với một pháp cậy vào Phật lực này tin
chẳng chân thật, không quyết định nương dựa vào pháp này, dù có thông
Tông thông Giáo sâu xa cũng chỉ là tam muội nơi cửa miệng. Toan dùng tam
muội kiểu môi miếng ấy để liễu sanh thoát tử thật giống như dùng bánh vẽ
để đỡ đói, ắt đến bước cùng đường hối hận sâu xa cũng chẳng mảy may có
lợi ích gì! Hiện tại đời lẫn đạo chẳng biết tình trạng tương lai ra sao, vẫn còn
toan dùng quang âm sắp hết để lo những chuyện chẳng cấp bách ư?

* Cổ nhân nói: “Thiểu thật thắng đa hư. Ðại xảo bất như chuyết. Thuyết
đắc nhất trượng, bất như hành thủ nhất thốn” (Ít thật hơn hư nhiều. Khéo
quá chẳng bằng vụng. Nói cả trượng không bằng làm được một tấc). Chân
tâm là ở chính mình, hãy suy nghĩ thấu đáo!

* Một pháp Tịnh Ðộ lấy ba điều Tín - Hạnh - Nguyện làm tông. Chỉ có
đầy đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha mới dốc chí hành trì được. Gặp
cảnh họa hại mới bèn chân thành, khẩn thiết; gặp lúc nhàn nhã, thong dong
bèn lơi là, hoãn đãi. Ðấy là bệnh chung của phàm phu. Vào lúc này, thời
cuộc lẫn tình hình đạo pháp như nằm yên trên đống củi, phía dưới lửa đã bốc
cháy, nhưng chưa cháy đến thân. Chớp mắt là toàn thể bừng cháy, khắp cõi
không chỗ nào trốn tránh được cả! Sao còn lơi là, xao nhãng qua ngày,
chẳng chuyên chí cầu nơi một câu Phật hiệu? Cái tri kiến ấy thiển cận quá
đỗi!

* Ðời trước vun bồi huệ căn này cố nhiên chẳng dễ dàng gì. Nếu đối với
pháp này chẳng chuyên tinh, dốc cạn sức để mong được tự chứng, có khác gì
chén, bình chưa nung, gặp mưa liền rã. Quang âm ngắn ngủi, mạng người
mấy chốc? Một hơi thở ra chẳng trở lại đã qua đời sau. Người chưa chứng
đạo từ ngộ vào mê, vạn người có cả mười ngàn; từ ngộ thêm ngộ, ức kẻ
chẳng được một hai! Nỡ để vô thượng pháp khí gặp phải cơn mưa tái sanh
liền trở thành bụi đất ư?

* Chúng ta đã là Phật tử, phải hành Phật hạnh. Dù chẳng phá sạch được
vô minh, nhanh chóng khôi phục bổn tánh, tiến thẳng vào Diệu Giác quả hải,
chẳng lẽ không thể viên chứng ba tâm (thâm tâm, trực tâm, hồi hướng phát
nguyện tâm), dốc lòng tu Tịnh nghiệp để mong đoạn Hoặc ngay nơi thân
này, gởi tâm thức nơi Liên bang, làm đệ tử Phật Di Ðà, làm bạn lành của các
Ðại Sĩ, an trụ tịch diệt, dạo các cõi Phật, trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ
chúng sanh hay sao?
Nếu chẳng tự gắng sức, chỉ đề cao thánh cảnh, vẫn cam làm phàm ngu, e
rằng cả nửa đời tu trì siêng nhọc phải đành cay đắng vĩnh viễn trầm luân!
Mê muội nên châu buộc nơi vạt áo mà đành bỏ phí của báu, lên núi báu trở
về tay không. Dùng tánh Chân Như mầu nhiệm có đủ vô lượng công đức, trí
huệ, thần thông, tướng hảo để hứng chịu oan uổng vô lượng sanh tử luân
hồi, phiền não nghiệp quả, huyễn vọng cực khổ. Chẳng phải là mất trí sanh
cuồng, ghét thăng thích đọa, sống làm thịt chạy, thây đi, chết mục nát cùng
cỏ cây ư? Tam thế chư Phật gọi là hạng người đáng thương xót. Những vị
đồng luân với tôi hãy nên nỗ lực.

* Trong lúc đường đời nguy hiểm này, hãy nên mở toang tấm lòng, tầm
mắt, nỗ lực tu trì Tịnh nghiệp. Tất cả cát - hung họa - phước đều chẳng lo
tới, tùy duyên ứng biến. Dù cho đại họa trút xuống đầu vẫn nên nghĩ: Những
người cùng mắc phải họa này chẳng biết là mấy ngàn vạn ức người? Trong
tình thế chẳng làm gì khác được, vẫn còn có A Di Ðà Phật và Quán Thế Âm
Bồ Tát để nương cậy được, há còn lo chi? Lấy việc niệm Phật, niệm Quán
Thế Âm Bồ Tát để làm chỗ cậy nhờ vô úy. Mở rộng tâm lượng, đừng thấp
thỏm thì bệnh tự nhiên lành, thân yên vui.
Chẳng biết nghĩa này, dù chưa gặp phải cảnh tai ách đã tự hãm mình
trước vào trong tai ách; dù là Phật, Bồ Tát cũng chẳng thể cứu nổi. Bởi thế,
quân tử không hoạn nạn hành xử như đang bị hoạn nạn, cho nên không điều
gì xảy đến mà chẳng tự chủ được!

---o0o---

Phần 3

IV. LUẬN VỀ VIỆC LỚN SANH TỬ


1. Cảnh tỉnh mạng người vô thường

* Quang âm vùn vụt, thời thế đổi dời trong mỗi sát-na, một niệm chẳng
trụ. Ðấy chính là tạo vật vì hết thảy bọn chúng sanh ta hiện tướng lưỡi rộng
dài giảng vô thượng diệu pháp: Mạng người vô thường, vinh hoa chẳng bền,
gấp tìm nẻo về để khỏi phải chịu cái khổ trầm luân vậy.

* Việc lớn sanh tử phải dự bị trước. Nếu đợi đến lúc sắp ra đi mới tu, chỉ
e sẽ bị nghiệp lực đoạt mất.

* Sanh tử là việc lớn. Vô thường nhanh chóng. Nghe đến kinh sợ, nhưng
còn lâu mới bằng khi thân trải qua nỗi đớn đau kịch liệt.

* Cổ nhân nói: “Thông minh bất năng địch nghiệp. Phú quý khởi miễn
luân hồi” (Thông minh chẳng cự nổi nghiệp. Phú quý chẳng tránh khỏi luân
hồi). Sanh tử xảy đến, không có gì để nương dựa cả, chỉ có mỗi A Di Ðà
Phật là nương nhờ được thôi! Tiếc người đời quá ít ai biết. Kẻ biết đến, tin
chân thật và thật sự niệm Phật lại càng ít hơn nữa!

* Ngày ba mươi tháng Chạp là ngày chấm dứt một năm. Nếu chẳng thu
xếp trước cho khéo thì chủ nợ, oán gia sẽ xúm lại lôi kéo, chẳng dung cho
lỗi lầm của mình. Lúc lâm chung chính là ngày ba mươi tháng Chạp của cả
một đời. Nếu tư lương Tín - Nguyện - Hạnh chưa đủ, vẫn còn tham - sân - si,
tập khí ác thì oán gia, chủ nợ từ vô lượng kiếp đến nay sẽ kéo đến bức bách,
đòi nợ, chẳng dung cho mình.
Ðừng nói những kẻ chẳng biết đến pháp môn Tịnh Ðộ đành không biết
làm cách nào, phải theo nghiệp thọ sanh; dù là đã biết nhưng chẳng chăm
chú tu hành thật sự thì cũng giống hệt như vậy: bị ác nghiệp lôi kéo vào
trong tam đồ, lục đạo, vĩnh viễn luân hồi! Muốn cầu con đường thoát khổ,
chỉ có cách niệm niệm lo nghĩ đến lúc chết, sợ rằng chết đi sẽ đọa lạc trong
tam đồ ác đạo thì Phật niệm sẽ tự thuần, Tịnh nghiệp sẽ tự thành; hết thảy
trần cảnh sẽ chẳng thể đoạt được chánh niệm nữa!

* Cầu sanh Tây Phương đừng nên sợ chết. Nếu chết ngay ngày hôm nay
thì liền sanh về Tây Phương. Ðấy là như lời [người xưa] đã nói: “Triêu văn
đạo, tịch tử khả hỹ!” (Sáng nghe đạo, chiều chết cũng được!) Lẽ đâu, ngày
hôm nay phải chết lại chẳng chịu chết, cứ tham luyến trần cảnh chẳng thể
buông xuống, khiến cho do tham thành chướng, cảnh Tịnh Ðộ chẳng hiện,
khiến cho cảnh tùy nghiệp thọ sanh trong đường thiện ác liền hiện.
Cảnh hiện, liền theo nghiệp thọ sanh trong đường thiện ác; vãng sanh
Tây Phương hóa thành bánh vẽ! Vì thế, đối với người tu Tây Phương, chết
hôm nay cũng tốt; sống thêm một trăm hai mươi năm rồi chết cũng hay. Hết
thảy phó mặc nghiệp trước, chẳng lầm sanh ý tưởng tính toán, so đo. Nếu
như tín nguyện chân thành, thiết tha, báo hết mạng tận, thần thức bèn siêu
Tịnh vực, nghiệp trả lại trần lao, sen vàng chín phẩm nở hoa, Phật thọ ký
một đời thành Phật!

---o0o---

2. Khuyên chuyên cậy vào Phật lực

* Ấn Quang từ Tây qua Ðông, từ Bắc xuống Nam, qua lại hơn vạn dặm,
gặp gỡ nhiều người. Trong số đó, lắm kẻ bình nhật tự vỗ ngực là bậc thông
Tông, thông Giáo, coi Tịnh Ðộ như uế vật, chỉ sợ nó làm bẩn lây đến mình.
Lúc lâm chung, đa số chân loạn tay cuống, kêu cha gào mẹ. Trong số ấy, có
những người trì giới niệm Phật già giặn, chắc thật, dù Tín Nguyện chưa đến
mức cùng cực, tướng lành chẳng hiện, nhưng đều an nhiên mạng chung.
Vì sao như vậy? Là vì tâm thủy trong lặng, do phân biệt nên xao động,
đục ngầu, sóng thức trào dâng. Do Phật hiệu nên tâm thủy ngưng lặng. Bởi
thế, kẻ thượng trí chẳng bằng kẻ hạ ngu, biến quá khéo thành vụng về lớn
vậy!

* Phật nói hết thảy pháp môn Ðại, Tiểu, Quyền, Thật đều phải cậy vào
công sức của chính mình để đoạn Hoặc chứng Chân mới thoát khỏi sanh tử.
Nếu còn chút mảy may Hoặc nghiệp, sẽ quyết định khó thoát khỏi sanh tử.
Vì thế, từ đời này sang đời khác, từ kiếp này sang kiếp khác, lần lượt tu trì,
nếu ai có đầy đủ sức lực sẽ tiến thẳng lên Bất Thoái, liền được liễu thoát.
Ða phần là từ giác chợt mê, thoạt tiến liền lùi, trải qua bao kiếp nhiều
như bụi trần chẳng thể xuất ly. Sở dĩ, ngài và tôi hôm nay vẫn còn là phàm
phu, toàn là vì chẳng biết đến pháp môn Tịnh Ðộ độ khắp ba căn, chí cực
viên đốn của đức Như Lai.

* Người chẳng hiểu Tịnh Ðộ đọc đến kinh Lăng Nghiêm sẽ cho kinh này
là nhân tố chính để đả phá Tịnh Ðộ. Người hiểu Tịnh Ðộ đọc đến, liền biết
kinh này khéo hướng dẫn hoằng dương Tịnh Ðộ. Vì sao nói thế?
Vì tự lực ngộ đạo thì khó, Tịnh Ðộ vãng sanh là dễ. Nhân quả mười
pháp giới mỗi mỗi phân minh. Nếu chẳng cậy vào Phật lực, dù phá được một
hai Ấm, vẫn bị ma dựa phát cuồng, thành chủng tử địa ngục. Vả nữa, trong
hai mươi bốn công phu Viên Thông, người đời nay có ai là kẻ tu tập được?
Chỉ có mỗi phép Niệm Phật như con nhớ mẹ, hễ ai hữu tâm đều có thể
phụng hành được! Cốt sao tịnh niệm tiếp nối, sẽ tự chứng được tam-ma-địa.
Kẻ biết phân biệt tốt xấu đọc đến, lẽ nào chỉ ưng chịu chủ trương tự lực,
chẳng cậy vào Phật lực hay sao? Kẻ chẳng biết hay dở mới nghĩ như vậy,
bởi họ chỉ mong làm bậc thông gia, không có lòng liễu sanh thoát tử!

* Tu hành dụng công vốn là để liễu sanh thoát tử. Nếu dụng công nhưng
chẳng thể liễu sanh tử là do chẳng chịu y vào pháp có thể liễu được sanh tử
mà hành. Khác nào gánh gai bỏ vàng, tự chuốc lấy lỗi hay sao? Dù tham
thiền đại triệt đại ngộ như Ngũ Tổ Giới, Thảo Ðường Thanh, Chân Như
Triết, Ðoạn Nham Nghĩa còn chưa liễu nổi sanh tử, phải thọ thân đời sau,
đến nỗi mê lầm. So ra, ta còn thua xa họ, [họ còn chẳng thể liễu sanh tử nổi],
huống hồ là bọn ta ư?

* Pháp môn Tịnh Ðộ là pháp môn phổ độ chúng sanh, viên đốn, thẳng
tắt, rộng lớn, giản dị nhất của đức Như Lai. Vì sao nói thế? Do hết thảy các
pháp môn đều phải đoạn hai Hoặc: Kiến và Tư mới hòng liễu sanh tử.
Nhưng đoạn Kiến Hoặc còn như cắt đứt dòng chảy rộng bốn mươi dặm,
huống hồ là Tư Hoặc? Ðoạn Kiến Hoặc là chứng Sơ Quả. Nếu ước theo
Viên Giáo thì là Sơ Tín. Ðoạn sạch Tư Hoặc liền chứng Tứ Quả; trong Viên
Giáo là địa vị Thất Tín. Sơ Quả, Sơ Tín còn có sanh tử. Tứ Quả, Thất Tín
mới hết sanh tử.
Nhưng Thiên Thai Trí Giả đại sư chỉ thị hiện chứng được địa vị ngũ
phẩm, tuy sở ngộ đã bằng với chư Phật, đã hàng phục trọn vẹn ngũ trụ phiền
não, nhưng vẫn chưa từng đoạn Kiến Hoặc. Thế nhưng, bổn địa22 của Ðại
Sư thực chẳng thể suy lường được. Lúc mạng chung, Ngài chỉ nói là chứng
ngũ phẩm, vì lo xa hậu thế chẳng dốc sức đoạn Hoặc chứng Chân, chỉ lấy
minh tâm kiến tánh làm rốt ráo.
Minh tâm kiến tánh là đại triệt đại ngộ. Nếu là bậc tối thượng thượng
căn, hễ ngộ liền chứng, thì liễu được sanh tử. Nếu không, dù có biết trước
được vị lai như sư Viên Trạch vẫn chẳng tránh khỏi phải thọ sanh lần nữa.
Ðến như Ngũ Tổ Giới lại sanh làm Tô Ðông Pha, Thảo Ðường Thanh lại
làm thân Lỗ Công. Ðấy hãy còn là tạm được. Ngài Hải Ấn Tín thành con gái
của quan Phòng Ngự họ Châu, đã đáng buồn lòng. Nhưng ông Tăng ở núi
Nhạn Ðãng trở thành Tần Cối thì thật là đáng thương xót quá. Tự lực đoạn
Hoặc chứng Chân để liễu sanh thoát tử thật khó khăn thay!
Các giáo lý tu chứng thông thường trong cả một đời đức Như Lai đã nói
tuy có nhiều pháp khác nhau, nhưng không có một pháp nào khiến cho kẻ
còn đầy dẫy Hoặc nghiệp có thể liễu sanh thoát tử cả! Chỉ mình pháp Tịnh
Ðộ, chỉ cần lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, dùng tâm chí thành trì
danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương. Chẳng luận là Hoặc nghiệp dày hay
mỏng, công phu cạn hay sâu, khi lâm chung đều cậy vào Phật từ lực, đới
nghiệp vãng sanh. Ðã vãng sanh liền siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát
tử. Từ đấy, lần lượt tấn tu, liền chứng được Vô Sanh, thậm chí viên mãn
Phật Quả! Ðây chính là pháp môn đặc biệt thương xót chúng sanh căn cơ
hèn kém, muốn cho họ mau thoát khỏi luân hồi của đức Như Lai.

* Những người nghiên cứu về Giáo dựa trên giáo lý thông thường để
luận đoán sự chứng đắc, chẳng tin có việc đới nghiệp vãng sanh, khoe mình
là hạng thường ở trong sanh tử để độ chúng sanh, chẳng muốn mau thoát
khỏi sanh tử. Chẳng biết chén, bình chưa nung, gặp mưa liền rã; phiền hoặc
chưa đoạn, chuyển sanh liền mê. Tự lợi còn khó, huống là lợi người! Bọn họ
đều là hạng chẳng lượng đức mình, là hạng phàm phu sát đất, có chút huệ
tánh bèn vội bắt chước phong cách của bậc Pháp Thân Ðại Sĩ, đến nỗi lầm lỡ
một phen, lỡ lầm vĩnh viễn!
Kẻ tham Thiền thì chuyên chú tham cứu, mong minh tâm kiến tánh,
chẳng biết căn cơ mình khá hèn kém, chẳng thể minh tâm kiến tánh rất
nhiều. Dù cho đã được minh tâm kiến tánh, nhưng nếu Hoặc nghiệp chưa
đoạn, vẫn luân hồi sanh tử y như cũ, chẳng thể xuất ly cũng lại nhiều lắm.
Ngũ Tổ Giới, Thảo Ðường Thanh, Hải Ấn Tín, Chân Như Triết v.v... là
những chứng cứ xác thực.
Ôi! Sanh tử lớn thế, sao lại chuyên cậy vào tự lực, chẳng cậy vào Phật
lực? Ý chừng tự lực hơn hẳn Phật lực ư? Phàm người sống trong đời, việc
lớn như sáng lập sự nghiệp lưu truyền nhiều đời, việc nhỏ như một manh áo,
một bữa ăn, không gì là chẳng phải nhờ vào sức của nhiều người để hoàn
thành việc mình. Ðến như việc lớn liễu sanh tử, dù sẵn có Phật lực vẫn
chẳng chịu nương nhờ, cứ muốn tỏ ra phong cách phi thường, chỉ e lại rớt
vào thói thường của kẻ phàm ngu. Chí của họ đáng bảo là lớn, nhưng tiếc là
chẳng biết khả năng của họ có đáng gọi là lớn hay chăng?

* Muốn liễu sanh tử thì phải thật chứng. Nếu phiền hoặc vẫn còn, ắt phải
thật nỗ lực mới có thể tranh cạnh với nghiệp, trải qua những duyên giồi mài
thì trong tâm thường giác chiếu, thầm hợp với Thánh Trí. Phàm tình nhân
ngã thị phi không do đâu khởi được. Nếu chẳng tăng thêm giác chiếu, phàm
tình vẫn lừng lẫy như cũ, thì công hạnh càng cao, tình kiến càng nặng, từ
ngộ vào mê là chuyện khó tránh khỏi. Như người ngủ chẳng tỉnh, càng ngủ
mê mệt thêm.
Cổ nhân bảo: “Ðại sự dĩ minh như táng khảo tỷ” (Ðại sự đã hiểu như
chôn cha mẹ). Chính là vì phiền hoặc chưa đoạn, chỉ e lại mê. Phải biết rằng
người đã đoạn Hoặc chẳng có phàm tình. Ðã không có phàm tình, lấy đâu
sanh tử? Người đại ngộ dù ngộ bằng với Phật, nhưng chưa đoạn trừ Hoặc thì
phải niệm niệm giác chiếu, mới hòng tránh khỏi tác dụng của phàm tình.

* Pháp môn này toàn cậy vào Phật lực. Ví như người thọt một ngày

chỉ đi được mấy dặm; nếu ngồi trên luân báu của Chuyển Luân Thánh

Vương liền trong khoảnh khắc đến khắp bốn đại châu. Ðấy là sức của

Luân Vương, chẳng phải do sức mình. Người đời tu hành cố nhiên giống

vậy. Dù là kẻ ngũ nghịch thập ác tội lỗi cực nặng, lúc lâm chung, tướng

địa ngục hiện, nếu có thể chí tâm niệm Phật, liền được Phật tiếp dẫn. Ấy

là vì Phật xem chúng sanh khác nào con một. Ðứa nào thiện thuận, dĩ

nhiên từ ái dưỡng dục. Ðứa nào ác nghịch, càng thêm xót thương. Nếu

con hồi tâm hướng về mẹ, ắt mẹ sẽ rủ lòng từ tiếp nhận.

* Cậy tự lực tu hành, đoạn Hoặc chứng Chân thật chẳng dễ dàng! Ðoạn
Kiến Hoặc như cắt ngang dòng nước rộng bốn mươi dặm, huống hồ là Tư
Hoặc! Kiến Hoặc đoạn được liền chứng Sơ Quả, dự vào dòng thánh, vẫn còn
phải bảy lần sanh lên trời, bảy lần sanh xuống nhân gian mới đoạn sạch được
Tư Hoặc để chứng Tứ Quả.
Tuy nói là mười bốn lần sanh tử, nhưng trên trời tuổi thọ dài lâu, cố
nhiên chẳng thể dùng năm tháng để luận. Thánh nhân Sơ Quả muốn liễu
sanh tử còn khó khăn như thế, huống hồ là phàm phu đầy dẫy Hoặc nghiệp
ư? Nếu chứng Tứ Quả sẽ vĩnh viễn đoạn được căn bản sanh tử, siêu xuất lục
đạo luân hồi. Nếu phát tâm Ðại Bi, nhập thế độ sanh, nương theo nguyện thị
hiện hạ sanh, sẽ chẳng giống như kẻ đầy dẫy Hoặc nghiệp bị nghiệp thiện ác
lôi kéo thăng trầm trong lục đạo, tự mình chẳng mảy may làm chủ được! Tự
lực liễu sanh tử nếu chẳng phải là hạng túc căn thâm hậu sẽ chẳng thể làm
được; chúng sanh đời mạt mong bằng được sao?
Bởi thế, Như Lai đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh Ðộ để hết thảy dù thánh
hay phàm, thượng trung hạ căn cùng được liễu sanh thoát tử ngay trong đời
này. Lòng từ bi cứu hộ ấy tột bậc không chi hơn được! Ðể tu trì pháp này
cũng phải nghiêm trì tịnh giới, tận lực tu Ðịnh - Huệ, kiêm thêm sanh lòng
tin, phát nguyện, trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương. Lòng tin chân
thành, nguyện thiết tha, niệm lực tinh thuần, ngay trong hiện đời cũng có thể
chứng thánh, lâm chung lên ngay thượng phẩm, dự vào địa vị Bồ Tát, chứng
địa vị Bất Thoái.
Nếu như căn cơ hèn kém, chưa làm được như thế, cứ chí thành niệm
Phật thì tâm và Phật khế hợp nhau, cảm ứng đạo giao. Lúc lâm chung ắt
được Phật rủ lòng từ tiếp dẫn, đới nghiệp vãng sanh. Thậm chí kẻ ngũ
nghịch, thập ác, lúc lâm chung tướng địa ngục hiện, nếu tâm thức chẳng mê,
có thiện tri thức dạy cho niệm Phật, người ấy sanh lòng sợ hãi lớn lao, sanh
lòng hổ thẹn lớn sám hối, dù niệm mấy tiếng rồi liền mạng chung, cũng vẫn
được Phật từ lực tiếp dẫn vãng sanh.
Một phen được vãng sanh liền vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, cao dự hải
hội, lần lượt tấn tu, ắt chứng Phật Quả. Cậy vào tự lực để liễu sanh tử khó
như thế ấy, cậy vào Phật lực để liễu sanh tử dễ như thế đó. Phàm ai có tâm
đều có thể niệm Phật, đều có thể vãng sanh. Là trang nam nhi có huyết tánh,
nhất định chẳng chịu để Chân Như Phật Tánh sẵn có trái nghịch tịnh duyên,
theo duyên mê nhiễm, luân hồi trong lục đạo bao kiếp dài lâu không thể
thoát khỏi!

* Chúng ta luân hồi trong sanh tử, trải kiếp số đã lâu, đã tạo ác nghiệp vô
lượng vô biên. Nếu cậy vào sức tu trì của mình, muốn diệt sạch phiền não
Hoặc nghiệp để liễu sanh tử, còn khó hơn lên trời! Nếu tin được pháp môn
Tịnh Ðộ do Ðức Phật đã giảng, dùng lòng tin chân thành, nguyện thiết tha,
niệm danh hiệu A Di Ðà Phật, cầu sanh Tây Phương, chẳng luận là nghiệp
lực lớn hay nghiệp lực nhỏ, đều có thể nhờ vào Phật lực vãng sanh Tây
Phương.
Ví như một hạt cát gieo xuống nước liền chìm. Dù đem hòn đá nặng cả
mấy ngàn vạn cân đặt lên chiếc đại hỏa luân thuyền sẽ chẳng bị chìm, còn
chở được sang chỗ khác để tùy ý sử dụng. Ðá ví như nghiệp lực sâu nặng
của chúng sanh. Ðại hỏa luân thuyền ví như từ lực rộng lớn của Phật Di Ðà.
Nếu chẳng niệm Phật, cậy vào sức tu trì của chính mình hòng liễu sanh
thoát tử, cần phải đạt đến chỗ nghiệp tận tình không mới làm được. Nếu
không, dù cho phiền não Hoặc nghiệp chỉ còn chút mảy may chưa đoạn cũng
chẳng liễu nổi. Ví như một hạt cát bé tí cũng bị chìm trong nước, quyết
chẳng thể tự nó thoát ra ngoài nước được!
Các hạ chỉ nên sanh tín tâm, niệm Phật cầu sanh Tây Phương, chẳng nên
khởi lên những ý niệm nào khác. Nếu thật sự làm được như vậy, nếu tuổi thọ
chưa hết sẽ mau được lành bệnh. Do công đức chuyên nhất chí thành niệm
Phật liền diệt trừ được ác nghiệp đời trước, khác nào mặt trời rạng rỡ đã
mọc, sương tuyết liền tiêu. Tuổi thọ đã hết sẽ liền được vãng sanh vì tâm
không có niệm nào khác nên cảm ứng đạo giao với Phật. Vì thế, được Phật
tiếp dẫn vãng sanh. Nếu các hạ tin được lời này thì sống cũng được đại lợi
ích, mà chết cũng được đại lợi ích!

* Tình thế hiện tại chính là tình thế hoạn nạn. Nếu chẳng lấy Phật A Di
Ðà và Quán Thế Âm Bồ Tát làm chỗ nương cậy để thường niệm, lỡ ra họa
hoạn xảy tới, hoặc thình lình gặp phải chuyện bất trắc, kêu gào xuông cũng
chẳng được! Nếu đã niệm sẵn từ trước sẽ có sự chuyển biến âm thầm.
Huống hồ cơn sanh tử xảy tới, ai cũng phải có ngày ấy!
Vì thế, phải thường nghĩ đến lúc lâm chung, tự chẳng dốc sức rong ruổi
theo đuổi hết thảy vọng tưởng trái phận và các pháp môn chẳng giúp ích gì
cho việc liễu sanh thoát tử, đến nỗi bỏ phế, chẳng tu pháp môn phải quyết
định dựa vào để liễu sanh thoát tử này. Mong vợ chồng, cha con ông đều
chẳng cho lời Quang là hủ bại, vớ vẩn thì thật là may mắn lắm!

* Người niệm Phật có bệnh nên nhất tâm chờ chết. Nếu tuổi đời chưa tận
sẽ chóng lành bệnh. Ðem toàn thân buông xuống để niệm Phật, tiêu nghiệp
rất hay! Nghiệp tiêu thì bệnh lành. Nếu chẳng buông xuống được, cứ mong
được khoẻ lại; nếu chẳng được khỏe lại chắc chắn không cách chi được vãng
sanh vì chẳng nguyện sanh! Chẳng hiểu rõ đạo lý này, còn mong cậy vào
Phật từ lực nữa ư?
Với căn bệnh của mẹ ông, hãy nên khuyên bà khẩn thiết buông xuống,
cầu vãng sanh. Nếu tuổi thọ chưa hết mà cầu vãng sanh sẽ hóa ra chóng
được lành bệnh. Ấy là vì tâm chí thành nên được Phật từ gia bị. Mong ông
hãy nhỏ nhẹ, khéo léo khuyên mẹ, đừng bắt chước kẻ si nói những lời si dại
nữa!

---o0o---

3. Dạy những điều thiết yếu về lâm chung

* Một cửa ải lâm chung thật là khẩn yếu. Ðời có kẻ ngu, lúc cha mẹ,
quyến thuộc lâm chung bèn khóc lóc vật vã, tắm rửa, thay áo, chỉ mong đẹp
mắt người đời, chẳng nề di hại cho người chết. Người không niệm Phật hãy
khoan bàn đến, người chí thiết vãng sanh lúc lâm chung gặp phải quyến
thuộc như vậy, đa phần bị phá hoại chánh niệm, vẫn bị ở lại trong thế giới
này.
Lâm chung trợ niệm ví như kẻ yếu đuối trèo núi, sức mình chẳng đủ,
may nhờ có sức người đằng trước kéo, đằng sau đẩy, tả hữu xốc nách, nên
có thể lên được đỉnh núi cao nhất.
Lâm chung chánh niệm rỡ ràng, bị ma quyến, ái tình lay động, phá
hoại... giống như dũng sĩ trèo núi, tự lực sung túc, nhưng bạn bè, người quen
ai nấy đem vật dụng của mình bảo phải gồng gánh. Gồng gánh quá nhiều,
sức kiệt, thân nhọc, dõi nhìn vách núi liền lùi bước.
Lẽ được mất này dù do người khác gây ra, thật sự là do những nghiệp
lực thiện hay ác của chính mình trong những kiếp trước đã thành tựu hay
phá hoại người mà ra. Phàm là người tu Tịnh nghiệp, phải nên có chánh
niệm thành toàn cho người, và phải chỉ dạy sẵn cho quyến thuộc về lẽ lợi
hại, ngõ hầu ai nấy hiểu điều quan trọng là chỗ đạt đến của thần thức người
chết, chứ chẳng phải tại phương diện tình cảm thế tục, mới hòng khỏi lầm
lạc vậy!

* Trong tuần thất và trong hết thảy lúc, hết thảy sự, phải lấy niệm Phật
làm chánh, chứ chẳng phải chỉ lúc đang lo ma chay! Hiện thời, đa số Tăng
lười nhác. Tụng kinh [Phật tử] phần nhiều không biết. Ðã thế còn tụng
nhanh như nước chảy, [Phật tử] dù biết nhưng chẳng thuộc cũng chẳng thể
đọc theo. Dù có đến mấy mươi người, không có mấy người tụng kinh được!
Chỉ có mỗi niệm Phật, trừ phi chẳng phát tâm, quyết chẳng có cái nạn không
ai niệm theo được. Lại dù chẳng chịu niệm, một câu Phật hiệu lọt qua tai
thấu vào tâm cũng tự lợi ích chẳng ít. Ðấy là lý do Quang tôi tuyệt đối chẳng
đề xướng lập bất cứ đạo tràng nào khác.

* Ðối với người sắp mạng chung, chỉ có đồng thanh niệm Phật là có ích.
Nếu tâm thức chưa rời khỏi thân thì tắm rửa, thay y phục v.v... [cho người
chết] gây trở ngại rất lớn. Vì thế, người tu Tịnh nghiệp hằng ngày phải nên
nói cho quyến thuộc hiểu rõ duyên do ấy, ngõ hầu chẳng đến nỗi dùng lầm
tình thân ái, gây trở ngại việc vãng sanh! Nếu là bậc đại nhân tột bậc, bậc
cao sĩ xuất cách, bất tất e sợ sẽ mắc phải những chướng ngại ấy!

* Phật pháp rộng sâu, chỉ khi nào thành Phật mới ngừng tay được. Muốn
chắc chắn được vãng sanh, thường hành truy tiến23 thật chẳng trở ngại gì
đến việc khẩn thiết niệm Phật, tức là như kinh Phật đã dạy: “Dù biết tội tánh
vốn là không, nhưng luôn sám hối tội trước, chẳng nói là mình đã được
thanh tịnh”. Ngài Liên Trì nói: “Trong năm, thường phải truy tiến người đã
mất, chẳng được nói họ đã được giải thoát nên chẳng cử hành”.
Phải biết rằng: tụng kinh, niệm Phật tuy bảo là để truy tiến người thân,
thật sự là để quyến thuộc hiện tiền, người quen mở mang cõi lòng, trồng
thiện căn, và đem hết thảy công đức truy tiến người thân hồi hướng cho hết
thảy pháp giới chúng sanh để mở rộng tâm lượng của mình lẫn người, của kẻ
sống lẫn người mất, hòng tiêu diệt những chấp trước, chướng ngại của mình
lẫn người, của kẻ còn lẫn người mất. Nếu như chẳng đặt nặng lòng thành,
chỉ cốt xa hoa, khoa trương, khoe mẽ cùng người, có thể nói là: “Dùng đám
tang người thân để bày trò náo nhiệt”, chẳng phải là điều con cái nên làm.

* Ngay lúc thân mắc bệnh nặng, lúc chưa thể chắc chắn sẽ sống hay
chết, hãy dạy cho mọi người ai nấy vì mẹ chí thành khẩn thiết niệm “nam
mô A Di Ðà Phật”, ngõ hầu tuổi thọ chưa tận sẽ chóng lành bệnh, tuổi thọ đã
hết sẽ chóng được vãng sanh Tây Phương. Các con ông hiếu tâm tinh thuần,
chuyên dốc, ắt sẽ đều thường trì niệm như cứu đầu mình bị cháy. Như thế,
nào phải chỉ hữu ích cho phu nhân, mà thật sự còn có ích lợi sâu xa cho các
cậu con ông nữa kia.
Người phàm mắc bệnh thì dùng thuốc để trị, nhưng cũng không nhất
quyết phải dùng đến thuốc. Bệnh chẳng thể dùng thuốc trị, dù có tiên đan
cũng vô dụng, huống hồ là thuốc của thế gian? Chẳng cần biết là bệnh trị
được hay không, đều nên dùng thuốc A Già Ðà. Thứ thuốc này tuyệt đối
chẳng hại người. Uống vào, dù thân hay tâm đều kiến hiệu liền.
Người sống trong thế gian, chẳng luận lâu hay mau, rốt cuộc cũng một
lần chết. Cái chết ấy chẳng đáng tiếc, nhưng chỗ sẽ trở về sau khi chết chẳng
đáng để sắp đặt sẵn hay sao? Người có lực lượng tự mình sắp đặt thỏa đáng,
yên ổn, lẽ cố nhiên khi lâm chung chẳng cần đến người khác giúp đỡ. Nhưng
nếu được hỗ trợ lại càng thêm đắc lực. Người không lực lượng phải nên bảo
gia quyến thay mình niệm Phật, ắt sẽ đề khởi được chánh niệm, chẳng đến
nỗi bị ân ái buộc ràng, vẫn y như cũ bị ái tình trói buộc vào cõi này chẳng
thể ra khỏi !

* Với việc đảo bệnh, tiến vong, người đời nay hay dùng những cách như
tụng kinh, lễ sám, làm đàn Thủy Lục v.v... Riêng Quang đối với những
người quen biết mình đều dạy niệm Phật. Vì lợi ích của việc niệm Phật còn
hơn tụng kinh, lễ sám, lập đàn Thủy Lục v.v... rất nhiều. Vì sao vậy?
Tụng kinh thì người không biết chữ không tụng được. Dù biết chữ
nhưng tụng nhanh như nước chảy, người miệng lưỡi hơi chậm chạp cũng
không tụng theo nổi. Người lười biếng tuy tụng được, cũng chẳng chịu tụng.
Hóa ra chỉ hữu danh vô thực. Lễ sám, lập đàn Thủy Lục cứ theo đó mà suy.
Niệm Phật thì không một ai là chẳng niệm được. Dù có kẻ lười nhác
chẳng chịu niệm, nhưng mọi người cùng hòa tiếng niệm, kẻ ấy chẳng bịt tai
nên một câu Phật hiệu tất nhiên sẽ phân minh rành rọt rót vào tâm. Dù chẳng
niệm có khác gì là niệm! Như người nhiễm hương, thân có mùi thơm; nào
phải họ muốn thơm, chẳng mong như vậy mà lại được vậy! Vì thân quyến
cầu an, tiến vong, chẳng thể không biết điều này!
* Làm Phật sự bất tất phải niệm kinh, lễ sám, làm đàn Thủy Lục v.v... vì
những việc ấy đều thuộc về mặt đàn tràng. Hãy nên chuyên nhất niệm Phật,
ngõ hầu các cậu con ông từ đầu đến cuối đều niệm theo được. Nữ quyến ai
nấy tự niệm trong phòng mình, chẳng nên ngồi sau lưng các Tăng. Như thế
thì chẳng những phu nhân và lệnh quyến được lợi ích thật sự, mà vị Tăng
niệm Phật và hết thảy người thấy nghe không ai chẳng được lợi ích.
Phàm làm Phật sự, nếu chủ nhân chịu tham dự đàn tràng thì vị Tăng sẽ
tự phát tâm chân thật. Còn nếu chủ nhân coi đó là chuyện hình thức thì ông
Tăng cũng sẽ coi pháp sự ấy là chuyện hình thức, như một kỳ Phật sự đã
xong, ban đêm xả đàn Diệm Khẩu rồi thôi!

* Cho dù [người mất] thật sự được vãng sanh, vẫn phải nên chân thành
niệm Phật để cầu phẩm sen của người ấy được cao hơn, chóng chứng Vô
Sanh, đấy mới là tận hiếu. Ðiều này tuy để người chết được lợi, nhưng thật
ra con cái, dâu rể đều cùng gieo thiện căn. Cháu nào niệm được cũng nên
bảo nó niệm theo.

* Lúc cha mẹ lâm chung, toàn gia không khóc lóc mà niệm Phật là có lợi
ích nhất. Nhưng [chỉ niệm] trong lúc ấy vẫn còn ngắn ngủi lắm, hãy nên
niệm Phật cả ba tiếng không ngừng, chẳng cất tiếng khóc cũng như di động,
chuyển dịch là tốt nhất. Xin hãy nhớ kỹ lấy!

* Ðối với việc làm Phật sự, Quang đã từng nói rõ rồi. Mong đừng bắt
chước thói tục, làm chuyện sáo rỗng xuông. Nếu niệm Phật trong suốt bốn
mươi chín ngày so ra còn lợi hơn tụng kinh rất nhiều.

* Người trước khi mất nếu tự có thể tắm gội, thay áo thì rất hay. Nếu
người ấy chẳng thể tự làm, quyết chẳng nên tắm gội, thay áo sẵn, khiến
người ấy bị đau đớn khó chịu đựng nổi, mất chánh niệm. Sao cuối cùng ông
vẫn buộc người đã khuất mặc pháp y, khoanh chân ngồi kết già để rồi tiếc
hận? Chẳng biết rằng trong lúc ấy tốt nhất là đồng thanh niệm Phật, vạn vạn
phần chẳng được phô trương, bày vẽ (như tắm gội, thay áo, bắt người sắp
chết ngồi xếp bằng v.v...). Nếu phô trương, bày vẽ sẽ thành như đã bị té
xuống giếng còn bị ném đá thêm. Hãy nhớ kỹ, nhớ chắc!

* Lâm chung teo quắt lại và bị bệnh khổ chính là do nghiệp chướng từ
nhiều kiếp. Vì người ấy dốc lòng tu Tịnh nghiệp nên chuyển trọng báo, hậu
báo thành báo nhẹ trong hiện đời. Ông bảo do tu trì tinh tấn nên thân ngày
càng yếu. Lời này chẳng xác đáng, còn vướng lỗi là khiến cho kẻ tín tâm
nông cạn nhân đó bèn lui sụt. Phải biết rằng: người niệm Phật quyết định
tiêu trừ được nghiệp chướng; những nghiệp chướng hiện tiền chỉ là những ác
báo phải đọa trong tam đồ của đời tương lai chuyển thành bệnh khổ trong
đời hiện tại để giải quyết cho xong đó thôi!
Kinh Kim Cang dạy: “Trì kinh Kim Cang có điều nhục nhỏ như bị người
khác khinh miệt chính là diệt được cái khổ tam đồ ác đạo trong nhiều
kiếp”. Ðấy chính là phước dày, sẽ được vãng sanh Tây Phương. Chịu cái
khổ nhỏ lúc này để giải quyết cho xong ác báo từ vô lượng kiếp đến nay,
thật là may mắn lớn. Chớ học theo kẻ chẳng biết sự việc chi bảo: “Vì tu trì
đến nỗi mắc bệnh hay bị chết!”

* Vì lẽ nào mẹ ông bệnh chẳng lành? Ðấy là do túc nghiệp tạo thành như
thế, nhằm chuyển trọng báo, hậu báo thành báo nhẹ trong đời này để giải
quyết cho xong ngay trong lúc này.
Pháp sư Huyền Trang khi lâm chung còn có chút bệnh khổ, lòng ngờ
những kinh mình dịch có chỗ nào sai lầm chăng? Liền có một vị Bồ Tát an
ủi rằng: “Tội báo trong những kiếp trước của Sư sẽ do nỗi khổ nhỏ này mà
tiêu. Ðừng hoài nghi nữa!” Hãy dùng ý này để an ủi mẹ ông, khuyên bà sanh
tâm hoan hỷ, đừng sanh tâm oán hận, sẽ quyết định được Phật gia bị. Tuổi
thọ chưa hết sẽ mau được lành bệnh. Tuổi thọ hết sẽ vãng sanh. Phàm nhân
đang lúc bệnh khổ cứ hay nghĩ đến chuyện lùi một bước sẽ an lạc vô lượng!
Gần đây, binh lửa liên miên, chúng ta may chưa mắc phải nạn ấy. Dù có
bệnh khổ, vẫn còn được cảnh tỉnh, nhắc nhở mong thoát khổ, thì chỉ nên
cảm kích, chuyên tu, tự được lợi ích. Nếu không, cứ oán trời trách người,
chẳng những túc nghiệp chẳng thể tiêu, mà còn tăng thêm cái nghiệp oán
trời trách người. Hãy bảo mẹ ông như thế. Nếu thật chẳng oán trời trách
người, tịnh tâm niệm Phật sẽ tiêu được nghiệp như nước sôi tan tuyết.

* Về việc tang tế nên dùng toàn đồ chay, chớ thuận theo thói tục. Dù bị
kẻ chẳng thạo việc đời trách là không đúng, cũng cứ mặc họ chê cười mà
thôi. Việc chôn cất đừng quá phô trương, bày vẽ. Làm Phật sự chỉ nên niệm
Phật, đừng làm Phật sự nào khác. Nên bảo cả nhà cùng khẩn thiết niệm Phật
thì mẹ ông, người nhà ông, quyến thuộc của ông và thân thích, bằng hữu đều
cùng thật sự hưởng lợi ích.
Có tài lực thì hãy làm nhiều công đức. Nếu tiền của dùng cho việc tang
ma chẳng dư, chỉ lo tang ma không thôi cũng được. Chớ có vung tay quá
trán đến nỗi thiếu hụt, sau này phải chịu cảnh quẫn bách.

* Mọi việc trong đời người đều có thể vờ vĩnh được, chỉ mỗi mình lúc
lâm chung là chẳng thể dối trá được. Huống hồ những chuyện như không
tình luyến ái, vẻ mặt vui sướng, ngồi yên qua đời, nếu chẳng phải là Tịnh
nghiệp thành thục, đoan chắc không thể đạt được như thế!
Chỉ mong con cháu và quyến thuộc cả nhà ông hiểu đúng sự việc: Vì mẹ
niệm Phật thì chẳng những mẹ ông được lợi, mà thật ra công đức niệm Phật
của chính mình càng lớn. Bởi thế, Phật dạy người mỗi khi tụng kinh, trì chú,
niệm Phật, làm các công đức đều hồi hướng cho pháp giới chúng sanh. Bình
thời, còn vì pháp giới chúng sanh [là những kẻ] chẳng can hệ gì đến mình
hồi hướng, huống hồ mẹ mất mà chẳng chí tâm vì mẹ niệm Phật ư?
Có thể vì hết thảy chúng sanh hồi hướng là đã hợp với thệ nguyện Bồ Ðề
của Phật, như một giọt nước gieo vào biển cả liền được rộng sâu như biển
cả. Nếu như chưa đến được biển, đừng nói là một giọt nước; cho dù là
trường giang, sông cái tất nhiên vẫn khác với biển cả một trời, một vực! Như
vậy, làm điều gì cho người thân và cho hết thảy mọi người đều là để tự bồi
đắp phước đức của chính mình đó thôi!
Biết được nghĩa này, người có tâm hiếu thì tâm hiếu lại càng thêm tăng
trưởng. Kẻ không hiếu tâm cũng sẽ phát khởi tâm hiếu, thỉnh Tăng niệm
Phật suốt bốn mươi chín ngày, càng hay! Lúc niệm, anh em ông phải có
người tham dự cùng niệm. Phụ nữ bất tất phải tới ngồi sau chúng Tăng; bởi
lẽ niệm Phật nhiều ngày sẽ trở nên quen biết nhau, có thể khiến người khác
nẩy sanh hiềm nghi. Nên xếp riêng một nơi niệm Phật cho phụ nữ, hoặc để
họ ngồi sau màn, ra vào theo cửa riêng, hai bên chẳng trông thấy nhau.
Làm như vậy để làm gương cho làng xóm, mở bày khuôn phép tốt lành.
Nếu để lung tung không giới hạn, lỡ người khác bắt chước theo, lâu ngày ắt
nảy sanh mối tệ. Người xưa lập pháp tuy là thượng thượng nhân vẫn tuân
theo khuôn phép của hạ hạ nhân nên tệ hại mới không nảy sanh!

* Những thuyết “đảnh thánh, nhãn sanh thiên”24 thật sự có chứng cứ,
nhưng Quang sợ kẻ vô tri cứ chăm chút thăm dò hơi nóng lạnh. Ý tôi muốn
nói là: Nếu có tín nguyện, lâm chung chánh niệm phân minh, ắt được vãng
sanh, chẳng cần cứ phải thăm dò hơi nóng lạnh để làm chứng cứ! Cho nên
nói: Cũng chẳng phải chỉ có một cách. Chỉ e thăm dò nhiều lượt đến nỗi gây
lầm lỡ [cho người đã mất]. Chẳng thể chẳng biết!

* Hãy nên đem hết thảy việc nhà và ngay cả cái sắc thân của chính mình
đây thảy đều buông toàn bộ xuống hết. Từ trong cái tâm chẳng nhiễm mảy
trần trì thánh hiệu vạn đức hồng danh, nghĩ mình sắp chết, ngoại trừ việc
niệm Phật cầu tiếp dẫn chẳng khởi một tạp niệm nào. Làm được như vậy,
nếu tuổi thọ đã tận sẽ quyết định vãng sanh Tây Phương, siêu phàm nhập
thánh. Nếu tuổi thọ chưa tận, sẽ quyết định tiêu nghiệp, lành bệnh, huệ rạng,
phước cao. Nếu chẳng nghĩ như thế, cứ si ngốc chỉ cầu chóng lành bệnh thì
chẳng những bệnh chẳng thể chóng lành, trái lại còn nặng thêm. Giả sử như
tuổi thọ đã hết, ắt sẽ theo nghiệp chìm nổi vĩnh viễn không có dịp thoát khỏi
nỗi khổ ở Sa Bà này!

* Người lâm chung được trợ niệm ắt sẽ được vãng sanh. Ðã không được
trợ niệm, lại còn khóc lóc, xáo động, khiến ái tình, sân hận khởi lên làm cho
người chết khó khỏi bị đọa lạc. Cực hiểm, cực hiểm! Ông thành tựu được
việc vãng sanh cho mẹ cũng là chánh nhân tịnh nghiệp của tam thế chư Phật.
Ấy là: Ngay trong trần lao mà hành Phật sự, công đức ấy thù thắng hơn
những công đức tầm thường cả vạn phần.

* Lâm Chung Châu Tiếp (mái chèo lâm chung)

Phật chế Tăng khi mất phải hỏa thiêu vốn là để họ rời lìa được cái thân
phần đoạn giả dối, chứng được Pháp Thân chân thường. Vì thế, từ khi Phật
chế lập điều ấy đến nay, Tăng chúng kính dùng cấm chế ấy làm thường quy.
Tiếc là đạo pháp ngày càng suy đồi, lâu ngày tệ nạn phát sanh. Như nay
Thích tử vội vàng lo hỏa thiêu cho xong việc, chẳng tuân cấm chế. Mỗi khi
người bệnh vừa thở hắt ra, liền vội thay áo, dời động để kịp nhập khám một
hai ngày, rồi liền hỏa thiêu. Có thể nói là rất trái nghịch chế định của Phật!
Phật nói con người có tám thức, tức là tri thức. Năm thức đầu là Nhãn,
Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân. Thức thứ sáu là Ý. Thức thứ bảy là Mạt Na, còn gọi là
Truyền Tống Thức. Thức thứ tám là A Lại Da, còn gọi là Hàm Tàng Thức.
Khi con người sanh ra, chỉ có thức thứ tám này đến trước nhất, các thức kia
đến sau. Ðến lúc chết, thức thứ tám này cũng ra đi sau cùng; các thức khác
lần lượt đi trước.
Thức thứ tám chính là linh thức của con người, thế tục thường gọi là
“linh hồn”. Thức thứ tám này thông linh nên khi con người mới nhập thai
mẹ, nó liền đến trước. Vì thế, con trong bụng mẹ liền biết hoạt động. Ðến
khi chết, sau khi dứt hơi, nó chẳng đi ngay, phải đợi đến khi toàn thân lạnh
giá, không còn một điểm nào còn ấm nữa, thức ấy mới chịu đi. Khi thức đã
đi, thân này sẽ không còn mảy may tri giác nào.
Nếu chỗ nào còn ấm là thức ấy còn chưa rời đi. Ðộng chạm đến vẫn biết
đau khổ. Lúc ấy, kỵ nhất là các sự mặc áo, xếp chân, dời động v.v... Nếu hơi
động đến sẽ đau khổ khó chịu đựng nổi; bất quá miệng không nói được, thân
chẳng động được đó thôi! Xét theo kinh dạy, ba thứ hơi nóng, thọ mạng và
thức thường chẳng rời nhau. Như người sống có hơi ấm thì thức còn hiện
hữu. Thức còn hiện hữu thì tuổi thọ chưa hết. Xưa nay có kẻ chết đi dăm ba
bữa rồi sống lại, chép rõ ràng trong sách vở có thể tra cứu được.
Nho Giáo cũng có cái lễ để ba ngày rồi mới đại liệm, do quyến thuộc
yêu mến, vẫn hy vọng người chết vạn nhất sống lại chăng? Còn Tăng sĩ ta,
tuy chẳng mong sống lại, nhưng cũng chẳng thể chẳng quản gì đến nỗi thống
khổ [của vong giả], cứ tự tiện dời động để kịp di quan, thiêu hóa. Lòng từ bi
để đâu? Cổ nhân nói: “Thố tử hồ bi, vật thương kỳ loại” (thỏ chết, cáo buồn;
loài vật thương xót nhau). Loài vật còn như thế, huống hồ cùng là loài người
ư? Huống hồ lại còn cùng là Phật tử nữa ư?
Vả nữa, thói đời khi đau đớn tột bậc sẽ dễ nổi sân tâm. Do sân tâm rất dễ
bị đọa lạc. Như kinh nói vua A Kỳ Ðạt lập chùa tháp Phật, công đức vòi vọi.
Lúc lâm chung, người hầu cầm quạt lỡ để rớt trúng mặt vua. Vua bị đau, nổi
sân, chết đọa làm thân rắn. Nhờ có công đức, sau gặp được sa-môn vì rắn
thuyết pháp. Do nghe pháp nên bèn thoát thân rắn, được sanh lên trời. Xem
đó, biết rằng: Khi thần thức của người chết chưa đi hẳn thì mặc áo, dời động
và lập tức thiêu hóa ngay sẽ khiến người ấy đau đớn nổi sân, càng thêm đọa
lạc, há chẳng phải là nhẫn tâm hại lý cố bày trò thảm độc ư?
Hãy thử nghĩ người chết có oán cừu chi với mình; chỉ vì hảo tâm thành
ra ác duyên! Nếu bảo sự còn mờ mịt, biết cậy vào đâu để suy xét, thì những
điều chép trong kinh điển chẳng đáng tin chăng? Ðến giờ đây, các thói tệ lưu
hành nói chung là do người sống chẳng biết thương cho nỗi khổ của người
chết, chỉ tính xong việc cho nhanh nên chẳng nhọc công xem kỹ ấm lạnh. Do
đấy, trở thành thói quen, dù có ai nhắc đến lại cười là vu vơ, đến nỗi người
chết phải chịu khổ nạn! Ô hô! Ðiều khổ nhất trên đời không gì bằng sanh tử.
Sanh như rùa còn sống bị bóc mai, tử như cua bị nhúng nước sôi. Tám khổ
cùng nấu, đau đớn chẳng nói nổi!
Xin những ai chăm sóc bệnh nhân hãy lưu tâm cẩn thận, chớ cùng bệnh
nhân tán nhảm chuyện gẫu khiến tâm họ tán loạn, cũng đừng buồn bã, khóc
kể om sòm. Hãy nên khuyên bệnh nhân buông hết thân tâm, một dạ niệm
Phật để cầu vãng sanh. Lại nên trợ niệm khiến cho bệnh nhân nương theo
tiếng niệm Phật của mình để nhớ kỹ trong tâm. Nếu có tiền tài hãy thỉnh
Tăng chúng chia ban niệm Phật, khiến cho tiếng niệm Phật ngày đêm không
ngớt, hòng tai người bệnh luôn nghe Phật hiệu, có thể quyết định nhờ vào
Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Còn như không có tiền của thì cả nhà
phát tâm trợ niệm để kết duyên cuối cùng.
Về việc sắp đặt hậu sự, chớ bàn bạc ngay trước mặt bệnh nhân. Chỉ nên
gõ dẫn khánh, cao tiếng niệm Phật, khiến cho từng câu lọt vào tai bệnh nhân
ngõ hầu trong tâm người bệnh thường chẳng lìa Phật. Tiếng mõ vốn đục, trợ
niệm lâm chung trọn chẳng nên dùng. Bệnh nhân nằm hay ngồi nên để tùy ý,
chớ nên di động, cả nhà cứ chuyên tâm niệm Phật. Ðợi đến lúc toàn thân đã
lạnh hết, tức là thần thức đã đi hết rồi, đợi thêm hai tiếng nữa mới được tắm
rửa, thay áo. Nếu như thân đã lạnh hóa cứng thì nên dùng nước nóng xoa
nắn, dùng vải thấm nước nóng áp vào khủy tay, đầu gối, cổ chân, đợi giây
lát, những chỗ đó sẽ mềm mại trở lại. Lúc ấy mới xếp chân cho người chết
nhập quan. Cho đến lúc mọi việc xong xuôi hết cả, vẫn phải thường niệm
Phật.
Tất cả những việc như lễ sám, tụng kinh đều chẳng có lợi ích rộng lớn
bằng niệm Phật. Phàm hết thảy các quyến thuộc dù là tại gia hay xuất gia
đều phải tuân hành cách này thì kẻ còn, người mất đều được lợi ích lớn lao.
Hơn nữa, Ðức Phật ta khi Niết Bàn, vốn nằm trên hông phải, cứ để như vậy
nhập quan trà-tỳ. Người đời nay cứ thuận theo tự nhiên. Nếu ngồi mất thì đặt
vào khám. Nếu nằm mất thì đặt vào quan tài, cốt sao thỏa đáng. Nhưng
người đời nay phong tục đã thành thói, sợ họ chẳng cho như vậy là đúng,
cũng nên lắng nghe, suy nghĩ để quyết định sao cho tiện.
Còn như người chết rồi có các cảnh tượng thiện ác, vốn là có chứng cứ
thật sự. Người sanh vào thiện đạo hơi nóng từ dưới bốc lên trên; người sanh
vào ác đạo, hơi nóng từ trên tỏa xuống dưới. Nếu như cả thân lạnh hết, khí
nóng tụ lại trên đầu bèn là sanh trong thánh đạo. Hơi nóng ở mắt sanh trong
thiên đạo, ở ngực sanh trong nhân đạo, ở bụng sanh ngạ quỷ đạo, ở gối sanh
trong súc sanh đạo, ở bàn chân sanh trong địa ngục đạo. Vì thế có bài kệ:
Ðảnh thánh, nhãn sanh thiên,
Nhân tâm, ngạ quỷ phúc,
Súc sanh tất cái ly,
Ðịa ngục cước bản xuất.
(Ðảnh: thánh; mắt: sanh thiên,
Ngực: người, bụng: ngạ quỷ;
Từ gối ra: súc sanh,
Ðịa ngục: bàn chân nóng)
Ôi! Ðại sự sanh tử chẳng ai tránh được, chỉ có một điều phải thật thận
trọng: người săn sóc bệnh nhân phải dùng đồng thể bi tâm để giúp hoàn
thành đại sự vãng sanh. Cổ nhân nói:
Ngã kiến tha nhân tử,
Ngã tâm nhiệt như hỏa,
Bất thị thục tha nhân,
Khán khán luân ngã đáo.
(Ta thấy người khác chết,
Ruột ta nóng như lửa,
Nào phải mình ai kia,
Rồi ta cũng đến lượt!)
Nhân duyên, quả báo cảm ứng chẳng sai! Muốn cầu tự lợi trước phải lợi
người! Soạn thiên này để bảo khắp đồng bào, khẩn khoản mong mọi người
chú ý!
---o0o---

4. Khuyên nên giữ lòng thành kính

* Nhập đạo nhiều môn, chỉ do chí hướng mỗi người mà thâm nhập một
môn, trọn chẳng có một pháp nhất định. Nhưng nhất định phải: 1. Thành. 2.
Cung kính. Hai điều này dù cho tất cả chư Phật tận đời vị lai đều xuất thế cả
vẫn chẳng thể khác được. Chúng ta đã là phàm phu sát đất muốn mau tiêu
nghiệp lụy, mau chứng Vô Sanh, chẳng dốc sức vào hai việc này thì ví như
cây không rễ lại mong tươi tốt, chim không cánh lại mong bay lên, có được
hay chăng?

* Thế tục đọc sách tuyệt không kính nể. Sáng dậy, chẳng buồn rửa ráy,
súc miệng. Ði tiêu xong chẳng thèm gột rửa. Hoặc còn bỏ sách nơi giường,
ghế, hoặc làm gối lót đầu để đêm ngủ đọc luôn, bỏ chung với đồ lót, áo
quần. Sách nào đặt trên bàn để đọc thì bỏ lẫn lộn với các vật khác, xem lời
hiền thánh như mớ giấy cũ nát. Hoàn toàn không có ý chăm chút, không
mảy may kính trọng.
Thậm chí những sách coi chơi của phụ nữ những nhà thư hương đều là
kinh truyện, tôi tớ những nhà giàu có lau chùi đồ đạc đều dùng [những tờ
giấy có in chép] văn chương. Bao thứ khinh nhờn khó lòng thuật tỉ mỉ. Thói
tệ tích tập đã lâu, quen mắt chẳng quan tâm đến. Nếu chẳng chỉ rõ họa
phước, chắc chắn khó tránh lỗi khinh nhờn. Chưa được ích gì, đã mắc lỗi lớn
trước! Thương những kẻ vô tri ấy nên phải chỉ dạy trước.

* Một pháp niệm Phật thật rất giản dị, rất rộng, rất lớn, nhưng phải khẩn
thiết chí thành đến cùng cực mới hòng cảm ứng đạo giao, được lợi ích thật
sự ngay trong đời này! Nếu lười nhác, biếng trễ, không mảy may kính nể, dù
gieo được viễn nhân, vẫn mắc tội khinh nhờn chẳng thể tưởng tượng nổi.
May ra được sanh vào cõi trời, cõi người, quyết khó lòng cao dự hải hội.
Ðối với tượng Phật nên tưởng như đức Phật thật, chẳng được coi

giống như gỗ, đất, đồng, sắt v.v... Kinh điển chính là thầy của tam thế

chư Phật, là Pháp Thân xá-lợi của Như Lai, cũng nên xem như Ðức Phật

thật sự, chẳng được coi như giấy mực. Lúc đối trước kinh tượng, hãy nên

như trung thần thờ thánh chúa, như con hiếu đọc di chúc. Làm được như
thế, không nghiệp chướng nào chẳng tiêu, không phước huệ nào chẳng

đủ!

Hiện tại, hàng sĩ đại phu học Phật rất nhiều, nhưng đa số chỉ đọc kinh
văn, hiểu ý nghĩa, dùng đó để phô phang ngoài miệng hòng được tiếng là
bậc thông gia mà thôi. Còn như cung kính, chí thành, y giáo tu trì, thật khó
có được một ai!
Tôi thường nói: “Muốn hưởng lợi ích thật sự từ Phật pháp, phải cầu nơi
cung kính. Có một phần cung kính sẽ tiêu được một phần tội nghiệp, tăng
một phần phước huệ. Có mười phần cung kính sẽ tiêu được mười phần tội
nghiệp, tăng mười phần phước huệ. Nếu chẳng cung kính đến nỗi khinh mạn
thì tội nghiệp càng tăng, phước huệ càng giảm. Buồn thay!”

* Lễ, tụng, trì, niệm, các thứ tu trì đều phải lấy thành kính làm chủ. Nếu
thành kính đến cùng cực thì công đức như trong kinh nói: Còn ở địa vị phàm
phu chưa thể viên đắc, nhưng sở đắc cũng đã khó nghĩ khó bàn! Nếu không
thành kính, có khác chi hát tuồng, những trò khổ, sướng, buồn, vui đều là giả
trang, chẳng phát xuất từ bên trong. Dù có công đức, cũng chẳng thể vượt
quá cái phước si ám của cõi nhân thiên đó thôi. Nhưng do cái si phước ấy ắt
sẽ tạo ác nghiệp, cái khổ tương lai có lúc nào xong?

* Nói đến thành, nói đến cung kính, lời lẽ ấy cả thế gian đều biết, nhưng
đạo lý này cả thế gian đều mê muội. Ông X. nọ do tội nghiệp sâu nặng,
mong tội nghiệp tiêu trừ để báo ân Phật, thường tìm cầu những khuôn mẫu
tu trì tốt đẹp của cổ đức. Nhờ đó, ông biết rằng Thành và Cung Kính thật là
bí quyết cực diệu để siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Vì thế, ông
thường cùng kẻ hữu duyên nhắc đi, nhắc lại điều này.

* Ðối với việc xem kinh, nếu muốn làm pháp sư để tuyên dương cho đại
chúng thì hãy đọc kinh văn trước, tiếp đó xem các chú sớ. Nếu tinh thần
chẳng sung túc, kiến giải chẳng hơn người, chớ có mất công nhọc nhằn tâm
lực, uổng phí năm tháng.
Nếu muốn tùy phận được lợi ích thật sự, phải chí thành khẩn thiết thanh
tịnh tam nghiệp. Hoặc trước hết phải đoan tọa chốc lát, lắng định thân tâm,
rồi mới lễ Phật, đọc ra tiếng; hoặc chỉ im lặng xem. Hoặc lễ Phật xong, đoan
tọa chốc lát, sau đó mới mở kinh [ra xem]. Cũng phải thân đoan nghiêm,
ngồi ngay ngắn như đối trước thánh dung, đích thân lắng nghe viên âm,
chẳng dám manh nha một niệm biếng nhác, chẳng dám khởi một niệm phân
biệt. Ðọc một loạt từ đầu đến cuối, dù là văn hay nghĩa đều nhất loạt chẳng
dùng lý lẽ để hiểu.
Ðọc kinh như thế, người lợi căn đối với mỗi mỗi Không lý sẽ lãnh ngộ
được, chứng pháp Thật Tướng; còn kẻ căn cơ độn kém cũng tiêu trừ được
nghiệp chướng, tăng trưởng phước huệ. Lục Tổ nói: “Ðãn khán Kim Cang
kinh, tức năng minh tâm kiến tánh”(chỉ xem kinh Kim Cang liền có thể
minh tâm kiến tánh) là nói về cách xem kinh như trên đây, cho nên bảo là
“đãn” (chỉ). Kinh Ðại Thừa đều có công năng minh tâm kiến tánh, chứ nào
phải mình kinh Kim Cang?
Nếu cứ một mực phân biệt câu này nghĩa như thế nào, đoạn này nghĩa là
gì thì toàn là thuộc về phàm tình, vọng tưởng, xét đoán, suy lường, làm sao
ngầm phù hợp với ý Phật, lãnh ngộ trọn vẹn ý kinh; nhân đó, nghiệp chướng
tiêu diệt, phước huệ tăng cao cho được? Nếu biết cung kính thì còn gieo
được chút thiện căn. Nếu cứ làm giống hệt như cách đọc sách Nho của kẻ
học rộng sẽ thành hạng người vướng phải tội khinh nhờn sừng sững như
non, thăm thẳm như vực, dùng nhân lành chiêu lấy quả ác vậy.
Cổ nhân chuyên trọng nghe kinh vì tâm chẳng thể khởi phân biệt. Như
có người đọc kinh ra tiếng, một người khác ở cạnh nhiếp tâm lắng nghe mỗi
chữ, mỗi câu cho thật phân minh. Tâm kẻ ấy chuyên chú, chẳng dám duyên
theo hết thảy thanh sắc bên ngoài. Nếu chỉ hơi phóng túng liền bị đoạn tuyệt
ngay, chẳng quán thông nổi văn nghĩa!
Người tụng có kinh văn để nương theo, chẳng phải dốc trọn tâm, nhưng
cũng phải tụng cho rõ ràng vì người nghe chỉ nhờ vào tiếng tụng. Nếu người
tụng phóng túng một chút liền thành đứt đoạn. Nếu nghe được như thế, công
đức bằng với công đức của người chí thành, cung kính tụng. Nếu người tụng
chỉ thiếu cung kính đôi chút thì công đức khó bằng nổi kẻ nghe.
Người đời nay xem kinh Phật như giấy cũ. Trên án kinh để lẫn các tạp
vật. Cầm lấy kinh chẳng rửa tay, miệng chẳng súc sạch, lắc lư thân mình, giở
chân, rung đùi, thậm chí phóng thí25 , gãi chân, buông lung hết thảy chẳng
kiêng sợ gì, còn hòng xem kinh để được phước, tiêu tội! Chỉ có hạng ma
vương muốn diệt Phật pháp là tán thán, cho là hoạt bát viên dung, là phù hợp
sâu xa với diệu đạo không chấp trước của Ðại Thừa! Hàng Phật tử chân thật
tu hành trông thấy cảnh ấy chỉ còn biết đau xót thầm, nước mắt đầm đìa,
than thở ma quyến hoành hành, chẳng biết làm sao!
Ngài Trí Giả tụng kinh hoát nhiên đại ngộ, lặng lẽ nhập định, nào phải
do tâm phân biệt mà được đâu! Một vị cổ đức chép kinh Pháp Hoa, nhất tâm
chuyên chú liền đạt “niệm cực tình vong”, cho đến lúc trời tối mịt vẫn chép
kinh như thường. Thị giả vào hỏi trời đã tối mịt sao vẫn còn chép, Ngài liền
xòe tay ra, chẳng trông thấy lòng bàn tay. Xem kinh như thế là cũng chuyên
tâm dốc chí giống như tham thiền khán thoại đầu, trì chú, niệm Phật. Do
dụng lực lâu ngày, sẽ có một ngày được hoát nhiên quán thông.
Minh Tuyết Kiệu Tín thiền sư, người ở Phủ Thành, Ninh Ba không biết
chữ, trung niên xuất gia, tận lực khổ công tham cứu, nhẫn được những việc
người khác chẳng thể nhẫn, làm được việc người khác chẳng thể làm. Khổ
hạnh của ngài người khác khó đạt được. Lâu ngày, đại triệt, đại ngộ, miệng
nói ra điều gì đều khéo léo khế hợp cùng Thiền cơ. Tuy chẳng biết chữ,
chẳng viết được, nhưng lâu ngày Ngài liền biết chữ! Lâu sau, Ngài còn tung
hoành ngọn bút, nghiễm nhiên trở thành một bậc đại thư pháp.
Những sự lợi ích này đều là từ chẳng phân biệt, chuyên tinh tham cứu
mà có. Người xem kinh cũng nên lấy đó làm gương!

* Lúc xem kinh tuyệt đối chẳng được khởi tâm phân biệt thì tự nhiên
vọng tưởng phải tiềm phục, thiên chân phát hiện. Nếu muốn nghiên cứu
nghĩa lý hoặc giở xem các chú sớ hãy dành một thời gian khác để chuyên
nghiên cứu. Trong lúc nghiên cứu, tuy chẳng nghiêm túc như lúc xem kinh,
cũng chẳng được hoàn toàn không cung kính. Bất quá, so với lúc xem kinh,
thư thái hơn một chút.
Nghiệp chưa thể tiêu, trí chưa thể rạng thì phải lấy việc xem kinh làm
chính, việc nghiên cứu chỉ đại lược kèm theo. Nếu không, suốt ngày quanh
năm chỉ lo nghiên cứu, dù nghiên cứu đến mức như vẹt mây thấy mặt trăng,
mở cửa thấy núi, cũng chỉ là bàn suông ngoài miệng, chẳng hề can hệ mảy
may đến thân tâm, tánh mạng, sanh tử chi cả! Ngày ba mươi tháng Chạp xảy
đến chẳng dùng được mảy may!
Nếu có thể xem kinh [theo cách] như trên vừa nói, ắt sẽ nghiệp tiêu, trí
rạng, ba thứ tình kiến sẽ trở về “chốn quê hương chẳng hề tồn tại” (ý nói: sẽ
biến mất không tăm tích). Nếu chẳng xem kinh được như thế, chẳng những
ba thứ tình kiến chưa chắc chẳng sanh, còn e do sức túc nghiệp, tà kiến sẽ
phát khởi, bác không nhân quả, và các thứ phiền não: giết, trộm, dâm, dối sẽ
nối tiếp nhau nổi dậy như lửa cháy hừng hực, nhưng vẫn cứ cho mình là
người hành Ðại Thừa, hết thảy vô ngại! Lại còn vin vào câu nói “Tâm bình
hà lao trì giới?” (tâm bình nào phải nhọc công giữ giới?) của Lục Tổ để cho
rằng phá hết các giới mà chẳng phá mới thật sự là trì giới. Thật là tu hành
khó đạt chân pháp vậy!
Sở dĩ chư Phật, chư Tổ chủ trương Tịnh Ðộ là để nhờ vào Phật từ lực
chế phục nghiệp lực, chẳng cho chúng phát hiện. Vì thế nên lấy niệm Phật
làm chánh, xem kinh làm trợ hạnh!

* Ðức Như Lai đã diệt độ, những cái còn lại chỉ là kinh và tượng. Nếu
coi tượng bằng đất, gỗ, vàng, tượng vẽ v.v... là đức Phật thật sẽ diệt được
nghiệp chướng, phá được phiền hoặc, chứng tam muội, thoát sanh tử. Nếu
coi đó chỉ là đất, gỗ, vàng, tranh vẽ thì tượng cũng chỉ là đất, gỗ, vàng, tranh
vẽ mà thôi! Nếu khinh nhờn đất, gỗ, vàng, tranh vẽ chẳng có lỗi gì, nhưng
nếu khinh nhờn tượng Phật bằng đất, gỗ, vàng, tranh vẽ thì tội tầy trời. Ðọc
tụng kinh Phật, lời Tổ, phải coi như Phật tổ đang hiện diện nói cho ta nghe,
chẳng dám móng khởi chút biếng nhác nào!
Làm được như vậy, tôi bảo người ấy ắt sẽ cao đăng chín phẩm ngay
trong đời này. Nếu không, chỉ là dạo chơi trong pháp môn, bất quá được lợi
ích là biết nhiều, thấy nhiều, nói được rành rẽ, chứ chẳng mảy may thọ dụng
được lợi ích chân thật chi, vẫn chỉ là chuyện nghe bên đường, nói bên lề mà
thôi! Cổ nhân đối với Tam Bảo đều giữ lòng tôn kính thật sự, chứ chẳng chỉ
bàn bạc ơ hờ rồi thôi. Người đời nay miệng còn chẳng buồn bàn đến một
chữ, huống là thực hành ư?

* Ấn Quang thấy những người trích máu chép kinh gần đây chỉ là tạo
nghiệp vì trọn chẳng cung kính. Mỗi lần trích máu, liền trích rất nhiều. Vào
tiết Xuân Thu, qua hai ba ngày máu liền hư thối. Mùa Hạ, để nửa ngày máu
liền tanh hôi, vẫn cứ dùng để chép. Có người còn đem máu phơi khô, mỗi
lần chép liền dùng nước hòa máu khô nghiền ra để chép. Lại còn chép luộm
thuộm, chẳng cung kính mảy may.
Ðúng là trò trẻ con đùa giỡn, chẳng phải là dùng máu để biểu lộ lòng chí
thành, mà chỉ là trích máu chép kinh để đoạt cái danh mình là người chân
thật tu hành thôi!

* Chép kinh chẳng giống như viết tự bình26 , chủ yếu là dốc tinh thần
vào, chứ chẳng cần xinh khéo. Chép kinh nên như tiến sĩ chép sách. Mỗi một
nét bút chẳng được cẩu thả, viết tắt. Dạng chữ dùng phải là dạng chánh thức.
Nếu tọa hạ27 viết theo thể loại viết trát là không được. Xưa nay, người ta
hay dùng các thể loại hành thư hay thảo thư để chép kinh, Quang tôi tuyệt
đối chẳng tán thành!

* Người đời nay chép kinh mặc sức ngoáy bút, thật chẳng phải là chép
kinh, chỉ là mượn dịp để luyện chữ đồng thời lưu lại bút tích cho hậu thế đó
thôi! Chép kinh như thế không phải là hoàn toàn vô ích, nhưng chẳng qua
chỉ tạo thành cái nhân đắc độ trong đời tương lai, mà cái tội khinh nhờn
cũng chẳng nhỏ nhặt gì!

* ... (lược bỏ đoạn này không dịch vì Tổ luận về thể loại chữ nên dùng
để chép kinh. Ngài trách một vị cư sĩ khi chép kinh đã nệ cổ, tự tiện sửa đổi
những chữ trong kinh theo lối viết cổ. Thiển nghĩ, đoạn này vô ích đối với
những độc giả không biết chữ Hán, nên không dịch ra)

* Nếu đối với pháp môn Tịnh Ðộ chẳng thể dốc hết một lòng quyết chí
tu trì; đối với việc tuân giữ lòng thành kính, khắc kỷ, giữ lễ cứ muốn cho là
chẳng muốn chấp trước, hòng khéo che đậy những thứ sơ sài, tán loạn,
phóng dật, thì những lợi ích ngài đạt được chẳng giống với cái hiểu biết từ
chỗ thấy hiểu kém cỏi của Quang tôi. Những điều khác trong bộ Văn Sao tạp
nhạp của Quang đã nói đủ cả, nên chẳng dông dài nữa.
Ðối với việc xem kinh, chỉ có cung kính mới được lợi ích thật sự. Nếu
chẳng cung kính, dù có được lợi ích thì lợi ích ấy chẳng qua là nương theo
kinh văn hiểu ý nghĩa, chứ nghiệp tiêu, trí rạng, thầm ngộ tự tâm trọn chẳng
thể cầu may như thế được! Huống hồ còn đeo cái lỗi khinh nhờn chẳng thể
nói hết nổi được! Ðây chính là bệnh chung của cả thế gian, thật là buồn đau,
khóc hận, thở dài sườn sượt vậy!

* Chẳng thể lập riêng nghi thức lễ Phật cho người cực bận. Chỉ chí
thành, khẩn thiết, miệng xưng Phật hiệu, thân lễ chân Phật, cứ thành kính
như Phật đang hiện diện là được!

* Chẳng thể lễ bái xá lợi, chẳng thể thân cận tùng lâm, cũng chẳng sai
sót gì! Cốt sao trông thấy tượng Phật liền tưởng như đức Phật thật; thấy kinh
Phật, lời Tổ, tưởng Phật, tưởng Tổ đang đích thân giảng dạy cho mình. Chí
cung chí kính, chẳng lười nhác, chẳng xao nhãng chính là suốt ngày thấy
Phật, suốt ngày thân cận chư Phật, Bồ Tát, Tổ Sư, thiện tri thức, xá lợi, tùng
lâm.

* Tri thức gởi vải trắng cho biết đến năm Nhâm Ngọ sẽ in. Ðiều này tội
lỗi đến mức cùng cực, bởi lẽ đã sử dụng danh hiệu Bồ Tát một cách điếm
nhục, khinh nhờn đến mức cùng tột. Huống hồ có nơi còn khinh miệt ngồi
lên nữa. Năm Quang Tự thứ 20, tôi từng thấy một lần ở Phổ Ðà, năm 21 ở
chùa A Dục Vương lại thấy. Tôi lấy làm lạ, than cùng điện chủ điện Xá Lợi.
Ông bảo: “Ðấy là phong tục của vùng Ninh Ba”. Tôi tự thẹn mình không có
sức để ngăn ngừa thói tục xấu ác này. Nếu như Quang tôi là chủ nhân một
phương ắt sẽ đến nơi thanh minh lỗi hại của việc này, ngõ hầu những người
có tín tâm chỉ được lợi ích, chẳng mắc điều tổn hại ấy!

* Hết thảy tôn kinh Ðại Thừa Hiển Mật đức Ðại Giác Thế Tôn đã nói
đều dạy lý vốn duy tâm, đạo hợp Thật Tướng, khắp ba đời chẳng đổi, cả
mười cõi cùng tuân trở về nguồn, quay lại cội, là đạo sư của chư Phật, dẹp
khổ, ban vui, là cha lành của chúng sanh. Nếu có thể dốc cạn lòng thành
kính lễ tụng, thọ trì thì mình lẫn người đều được lợi ích thù thắng, u - hiển
cùng gội ân quang, như Như Ý châu, như vô tận tạng, lấy chẳng hết, dùng
chẳng tận, tùy tâm hiện lượng, sở nguyện đều mãn.
Kinh Lăng Nghiêm nói: Cầu vợ được vợ, cầu con được con, cầu tam
muội được tam muội, cầu trường thọ được trường thọ. Như thế cho đến cầu
Niết Bàn được đại Niết Bàn. Ðại Niết Bàn là cứu cánh quả đức. Nếu luận về
Như Lai bổn tâm thì thật sự toàn bộ Khế Kinh chỉ là để giảng điều này.
Nhưng chúng sanh chí nguyện hẹp kém, chưa chí thành đến mức cùng cực
nên chẳng thể khế nhập ngay được.
Vì thế, phải thuận theo tâm hạnh của họ để thỏa mãn sở nguyện của mỗi
người. Nếu là bậc túc căn sâu dày sẽ liền đốn minh tự tánh, triệt chứng duy
tâm, phá phiền hoặc, tiến ngay vào Bồ Ðề, viên mãn phước huệ, mau thành
Giác Ðạo để đạt được toàn bộ lợi ích của Khế Kinh, phô trọn bản hoài của
Như Lai.
Ví như một trận mưa thấm khắp, cỏ cây đều tươi tốt. Cây lớn sẽ chọc
mây, che lấp ánh mặt trời; cây nhỏ sẽ dài phân, tăng tấc. Ðạo vốn duy nhất
Chân Như, nhưng tùy tâm mà lợi ích có thù thắng, có kém hèn. Nhưng nếu
đã trồng thiện căn, rốt rồi cũng thành Phật quả. Dù chẳng thể đạt được ngay
lợi ích lớn lao, cũng tạo thành nhân độ thoát. Nghe tiếng cái trống bôi thuốc
độc, xa gần đều chết. Ăn chút kim cang, quyết định chẳng tiêu. Trước phải
dùng dục để lôi kéo, sau mới hòng chứng nhập Phật trí, là nói về lẽ này đấy!

* Kinh dạy thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Nếu chẳng phải
xưa đã có nhân duyên, tựa đề các bộ kinh Phật còn chẳng được nghe, huống
là được thọ trì, đọc tụng hòng tu nhân chứng quả? Nhưng những điều Như
Lai đã dạy chỉ dựa trên lý vốn sẵn có trong tâm của chúng sanh. Ngoài tâm
tánh ra, trọn không có một pháp nào để được!
Nhưng chúng sanh còn mê, chẳng thể liễu tri, huyễn sanh vọng tưởng
chấp trước đối với Chân Như Thật Tướng. Do vậy khởi tham - sân - si, tạo
giết - trộm - dâm, mê trí huệ trở thành phiền não, khiến thường trụ trở thành
sanh diệt, trải bao kiếp số nhiều như bụi trần, chẳng thể trở lại. May gặp các
kinh điển Ðại Thừa hiển mật do đức Như Lai nói, mới biết hạt châu vẫn còn
nguyên nơi vạt áo, Phật tánh vẫn thường còn, kẻ hèn hạ làm khách đó vốn là
con ông trưởng giả. Trời người sáu nẻo nào phải chỗ mình ở, Thật Báo, Tịch
Quang chính là quê nhà sẵn có.
Nghĩ lại từ vô thỉ đến nay, chưa được nghe Phật nói, tuy sẵn đủ tâm tánh
này, vô cớ phải chịu luân hồi oan uổng! Thật đúng là đau đớn ứa lệ, tiếng
[gào khóc] vang động cõi đại thiên! Lòng tan từng mảnh, ruột đứt từng tấc.
Ân ấy, đức ấy hơn hẳn thiên địa, cha mẹ cả trăm ngàn vạn lần. Thân nghiền,
xương nát chẳng báo đáp nổi!

* Tăng, tục ngày nay giở xem kinh Phật chẳng mảy may cung kính, bao
thứ khinh nhờn khó thể thuật tỉ mỉ từng thứ. Thói quen lưu hành đã lâu, coi
đó là thuận mắt, những điều khinh nhờn khó bề kể hết. Coi pháp ngôn của
Như Lai như giấy cũ rách nát.
Ðừng nói chi kẻ chẳng biết chỉ thú của kinh, trọn không lợi ích; ngay cả
những người hiểu sâu xa nghĩa kinh cũng chỉ là tam muội nơi cửa miệng, tỏa
sáng ngoài mặt. Như kẻ đói kể chuyện ăn, như người nghèo đếm của báu,
tuy có công nghiên cứu, tuyệt không được ích lợi thực chứng! Huống hồ cái
tội khinh nhờn đã ngập cả trời, nên thời hạn thọ khổ phải đâu chỉ hết kiếp!
Tuy là nhân lành, chiêu cảm ngược thành ác quả. Dù có thành cái nhân đắc
độ cho tương lai, khó tránh nhiều kiếp chịu đủ các khổ.
Ðem tấm lòng ôm ấp nỗi thảm thương này dám bày tỏ những điều rơm
rác để mong ai nấy vâng làm theo lời Phật, ngõ hầu chỉ được lợi ích, chẳng
bị tổn hại.

* Kinh Kim Cang nói: “Như chỗ nào có kinh điển thì chỗ đó có Phật, là
đệ tử phải tôn trọng”. Lại nói: “Nơi nơi chốn chốn nếu có kinh này thì hết
thảy thế gian, trời, người, a-tu-la đều phải nên cúng dường. Phải biết chỗ ấy
chính là tháp [Phật], đều phải nên cung kính, làm lễ, nhiễu quanh, dùng các
thứ hoa hương để rải lên trên ấy. Vì sao phải như vậy? Là vì hết thảy chư
Phật và pháp Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác của chư Phật đều xuất
phát từ kinh này”.
Trong các kinh Ðại Thừa, kinh nào cũng dạy người phải cung kính kinh
điển, chứ chẳng phải một kinh. Ấy là vì các kinh Ðại Thừa là mẹ của chư
Phật, là thầy của Bồ Tát, là Pháp Thân xá-lợi của tam thế Như Lai, là thuyền
từ thoát khổ của cửu giới chúng sanh. Dù cao đăng Phật Quả, vẫn còn phải
kính pháp hòng báo đền nguồn gốc, chẳng quên đại ân. Vì thế, kinh Niết
Bàn nói: “Pháp là mẹ Phật, Phật từ Pháp sanh”.
Tam thế Như Lai đều cúng dường Pháp; huống hồ phàm phu sát đất
khắp thân toàn là nghiệp lực, như tội nặng bị tù, giam cầm trong ngục lâu
ngày, không do đâu được thoát ra! May sao nhờ thiện căn túc thế được thấy
kinh Phật, như tù được lệnh phóng thích, mừng rỡ vô ngần, bèn dùng ngay
pháp ấy để mãi mãi từ biệt tam giới, vĩnh viễn xuất ly lao ngục sanh tử, tự
chứng tam thân, về thẳng quê nhà Niết Bàn. Nhờ nghe kinh mà được vô biên
lợi ích, há nên do tri kiến cuồng vọng bèn chẳng kiêng nể, khác nào tục nho
đọc sách, tự tiện khinh nhờn ư?
* Ðạo của Thánh Hiền chỉ là Thành và Minh. Thánh, Cuồng phân biệt
chỉ trong một niệm. Chẳng niệm Thánh ắt biến thành Cuồng, khắc chế cuồng
niệm bèn trở thành Thánh. Lẽ nắm - buông, được - mất ví như thuyền chèo
ngược nước, chẳng tiến phải lùi, chẳng thể chẳng gắng sức chống chọi mà
lơi lỏng chút nào.
Phải biết rằng một chữ Thành, thánh lẫn phàm cùng có một Chân Tâm
hệt như nhau chẳng khác. Một chữ Minh phải luôn giữ gìn, xem xét, là cách
để đạt đạo từ phàm chí thánh. Nhưng trong địa vị phàm phu, trong những
sinh hoạt hằng ngày, muôn cảnh chen nhau, chẳng nhận biết, soi xét một
cảnh sẽ khó tránh trong chớp mắt liền nẩy sanh những tình tưởng trái lẽ.
Tình tưởng ấy đã sanh, chân tâm liền bị vướng mối tệ, nên hành vi nào cũng
đều chẳng trung chánh. Nếu chẳng vận dụng một phen công phu thiết thực
trừ khử cho sạch thì ngày càng tệ hơn, chẳng biết đã tuột xuống tận đáy.
Uổng cho cái tâm làm thánh sẵn có vĩnh viễn bị chìm đắm trong loài phàm
ngu, chẳng đáng buồn sao?
Nhưng làm thánh chẳng khó, chỉ là tự làm sáng cái đức sáng của chính
mình. Muốn làm sáng cái đức sáng thì phải từ “trí tri cách vật” mà hạ thủ.
Nếu chẳng thể cực lực hiểu rõ, trừ khử những mối nhân dục (tham muốn của
con người) thì Chân Tri sẵn có quyết khó thể hiển hiện triệt để được!

* Dù là trai chủ thỉnh pháp hay các Sư tác pháp, ai nấy đều kiệt thành tận
kính thì lợi ích chẳng thể nói được nổi. Như Xuân về, khắp cõi đất thảo mộc
đều nảy nở xanh tươi; trăng sáng vằng vặc giữa trời, sông ngòi thảy đều hiện
bóng. Do đó, người đương sống sẽ nghiệp tiêu, trí rạng, chướng tận, phước
tăng, tiên vong đều sanh Tịnh Ðộ, sở cầu không gì chẳng được toại ý, lại
khiến cho oán thân bao kiếp, pháp giới hàm thức cùng gội Tam Bảo ân
quang, cùng kết duyên chủng Bồ Ðề.
Nếu trai chủ chẳng thành kính thì công đức xuất tiền chỉ hữu hạn, nhưng
tội lỗi khinh mạn thì vô cùng. Tăng chúng chẳng thành kính, chính là thổi
ống bễ thành kinh, gõ chày cối thành lễ28 , lúc Tam Bảo, long thiên giáng
lâm cứ xử sự lỗ mãng, luộm thuộm, tắc trách, mà không đến nỗi núi tội ngất
ngưởng, biển phước cạn khô, sống mắc tai vạ, chết bị đày phạt há có được
chăng?
---o0o---

Phần 4

VI. KHUYÊN CHÚ TRỌNG NHÂN QUẢ


1. Luận về lý nhân quả

* Một pháp nhân quả là bước đầu nhập môn của Phật giáo, mà cũng là
kế sách trọng yếu để thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ.

* Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian và xuất thế
gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh. Nếu nay chẳng lấy nhân quả làm
nhiệm vụ cấp bách để cứu quốc, cứu dân, dù ông có trí xảo, đạo đức cao siêu
đến mấy cũng chỉ uổng công, vì chẳng giảng đạo lý cũng như không có
vương pháp vậy!

* Thánh hiền đời xưa không ai là chẳng dè dặt, kinh sợ để tự rèn luyện,
gìn giữ mình, nên tâm họ chẳng bị cảnh phú quý, cùng - thông xoay chuyển.
Cùng thì riêng thân mình thiện, đạt thì khiến cả thiên hạ cùng thiện. Người
đời nay, trong những hành vi, lời lẽ thường ngày, trong vòng cha con, anh
em, chồng vợ, mỗi mỗi đều chẳng thể như pháp.
Người có chút tri kiến bèn lầm mong làm bậc cao nhân lỗi lạc: chưa có
quyền bèn mặc tình cuồng vọng luận nghị mù quáng để mê hoặc người đời;
đã có quyền vị rồi, bèn tỏ rõ cái ác niệm bạo ngược tàn nước hại dân. Gốc
bệnh là do lúc ban đầu, cha mẹ, thầy bạn chưa từng dùng đạo nhân quả báo
ứng để chỉ bảo cho kẻ ấy. Nếu biết nhân quả báo ứng đôi chút thì khởi tâm
động niệm ắt đều kiêng dè, chẳng dám phóng túng. Dù chẳng mong thành
thánh, thành hiền, muốn chẳng kinh sợ, dè dặt như vào vực sâu, như đi trên
băng mỏng cũng không thể được!
Vì thế, những người thiên tư cao phải bắt đầu từ những điều thiển cận,
chớ cho là điều lành nhỏ nên không làm, chớ cho là điều ác nhỏ rồi cứ làm.
Cứ vun bồi từng ít một sẽ thành tánh. Ví như cây nhỏ đã mọc thẳng, đến lớn
muốn uốn cong chẳng thể được!

* Y gia trị bệnh, gấp thì trị ngọn, thong thả bèn trị gốc. Ví như có người
yết hầu ủng thũng, ăn uống khó nuốt xuống, thở ra khó khăn; trước hết phải
tiêu trừ chứng thũng, sau đấy mới căn cứ trên gốc bệnh, điều hòa tạng phủ.
Nếu chẳng trừ trước chứng thũng ấy, người đó lăn đùng ra chết, dù có lương
phương, diệu dược trị được gốc bệnh cũng chẳng làm gì được!
Nhân quả chính là diệu pháp để tiêu trừ chứng bệnh thũng ngày nay;
nhưng một pháp Nhân Quả trị được bệnh cả gốc lẫn ngọn. Kẻ sơ cơ nương
vào đó sẽ cải ác tu thiện. Người thông hiểu nương theo đó có thể đoạn Hoặc
chứng Chân, thông trên, suốt dưới. Dù là hàng phàm phu sát đất cho đến bậc
viên mãn Phật Quả đều chẳng thể lìa pháp này, chứ nhân quả nào phải chỉ trị
được mỗi bệnh ngọn ư!

* Một pháp nhân quả chính là lò luyện lớn để nung phàm, luyện thánh
của thánh nhân thế gian, xuất thế gian. Nếu lúc ban đầu chẳng hiểu rõ nhân
quả thì sau khi đã thông Tông, thông Giáo, sẽ rất có thể bị lầm lẫn nhân quả.
Ðã lầm nhân quả, đọa lạc ắt sẽ có phần, không cách gì siêu thăng. Ðừng bảo
lý này thiển cận rồi coi thường! Đức Như Lai đã thành Chánh Giác, chúng
sanh đọa lạc tam đồ đều chẳng ra ngoài nhân quả.
Nhưng tâm lượng của phàm phu hẹp nhỏ, có lẽ không lãnh hội được
những lẽ nhân quả lớn lao đã nói trong kinh. Hãy dùng những điều thiển cận
trong thế gian để làm phương tiện lãnh hội những điều thù thắng ấy. Chẳng
hạn như đối với bài Âm Chất Văn của Văn Xương Ðế Quân, sách Thái
Thượng Cảm Ứng v.v... xin hãy đọc kỹ, suy xét tường tận, làm theo, thì ai
nấy đều là lương dân, người người đều có thể liễu sanh thoát tử.
Năm trước, Quang từng khắc An Sĩ Toàn Thư, bản khắc để tại Dương
Châu, các nơi phát hành kinh đều có. Cuốn sách này thật là một tác phẩm
trọng yếu để làm cõi đời hiền dịu, dân chúng hiền lành vậy!

* Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: “Thế nào là đại ý Phật
pháp?” Ngài Ô Sào đáp: “Ðừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành”. Họ
Bạch bảo: “Hai câu nói ấy, đứa bé lên ba cũng nói được”. Ngài Ô Sào bảo:
“Tuy đứa bé lên ba nói được, ông già tám mươi làm chẳng xong”. Phải biết
lời nói này chính là lời nói thiết yếu quan trọng nhất đối với hết thảy người
học Phật.

* Hai câu “Ðừng làm các điều ác...” chính là đại ý của hết thảy kinh giới
của tam thế chư Phật, chớ nên coi thường. Ngay trong mỗi ý niệm vừa phát
khởi của chính mình hãy nên suy xét kỹ, nếu có thể suy xét đến cùng cực thì
còn có thể thành được Phật đạo, huống hồ là các quả vị phước huệ khác nữa!

* Dạy giới thiện (ngũ giới, thập thiện) để mở ra con đường trời - người
phẳng phiu. Hiển nhân quả để bày phương cách xu tỵ (xu là hướng tới, tỵ là
tránh né) tốt lành. Nói đến giới thiện thì:
a. Ngũ Giới:
Chẳng sát là Nhân; chẳng trộm là Nghĩa; chẳng tà dâm là Lễ; chẳng nói
dối là Tín; chẳng uống rượu thì tâm thường trong trẻo, chí ngưng lặng, thần
chẳng hôn mê nên lý hiện, tức là Trí. Trì trọn Ngũ Giới chẳng đọa tam đồ,
luôn sanh trong nhân đạo. Năm điều này nói chung tương đồng với Ngũ
Thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) của đạo Nho, nhưng Nho giáo chỉ dạy tận
nghĩa, nhà Phật còn giảng thêm về quả báo.
b. Thập Thiện:
Chẳng giết, chẳng trộm, chẳng tà dâm, gọi là ba nghiệp nơi thân. Chẳng
nói dối, chẳng nói thêu dệt, chẳng nói lưỡi đôi chiều, chẳng ác khẩu, gọi là
bốn nghiệp nơi miệng. Chẳng tham, chẳng sân, chẳng si, gọi là ba nghiệp
nơi ý. Những điều này xét về đại thể, giống như Ngũ Giới, nhưng ngũ giới
đa phần nói về thân, Thập Thiện đa phần nói về Tâm. Ðầy đủ Thập Thiện
quyết định sanh vào thiên giới.
Còn như các điều dạy về luân lý như hiếu với cha, từ với con, kính

anh, nhường em... đều là muốn cho ai nấy đều tận bổn phận không khiếm

khuyết, thuận theo tướng thế gian để tu pháp xuất thế. Nếu nói rộng về

nhân quả báo ứng thì hào ly chẳng sai. Ðọa địa ngục hay sanh thiên chỉ

do tự mình chiêu cảm lấy. Ðức Như Lai tâm bi chí cực, muốn cho chúng

sanh vĩnh viễn lìa khổ, chỉ hưởng các điều vui; vì thế, Ngài chẳng tiếc

hiện tướng lưỡi rộng dài, vì các chúng sanh tận tình tuyên diễn.

Kinh dạy: “Bồ Tát úy nhân, chúng sanh úy quả” (Bồ Tát sợ nhân, chúng
sanh sợ quả). Nếu chẳng muốn nhận quả khổ, phải đoạn trừ nhân ác trước
đã! Nếu luôn tu thiện nhân, ắt quyết định thường hưởng quả vui! Ðây chính
là điều kinh Thư bảo: “Tác thiện giáng tường, tác bất thiện giáng
ương”(Làm thiện thì điều tốt lành giáng xuống. Làm điều bất thiện, tai ương
giáng xuống), kinh Dịch nói: “Tích thiện tất hữu dư khánh, tích bất thiện tất
hữu dư ương” (Tích thiện sự vui có thừa, chất chứa điều chẳng lành tai ương
ắt có thừa!)
Nhưng nhà Nho chỉ xét trên đời hiện tại và con cháu mà nói, còn Phật

xét trên cả ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai để luận. Phàm tình chẳng hiểu

thấu, bèn cho là chuyện mông lung, chẳng chịu tin nhận. Như kẻ mù cãi

lời người dẫn đường, tự đi vào đường hiểm, muốn chẳng rớt hầm, sụp hố

có được hay chăng?


* Ðề xướng nhân quả báo ứng là kính vâng theo tâm của thiên địa và
thánh nhân để thành tựu tánh đức nhân nghĩa, đạo đức của người đời. Nếu
coi nhân quả báo ứng là chuyện mờ mịt, không cách nào khảo sát thì chẳng
những trái nghịch với tâm của thiên địa, thánh nhân, mà thần thức của mình
còn vĩnh viễn đọa trong ác thú.
Nếu bậc trí giả chẳng phấn phát ý chí ưu thời mẫn thế để tu đức mình, kẻ
hạ ngu không kiêng sợ gì, dám làm điều ác thì quyền dưỡng dục của thiên
địa, thánh nhân bị chèn ép chẳng được phô bày, cái lý sẵn có trong tâm tánh
của chúng ta ẩn mất chẳng hiện. Họa hại ấy chẳng thể nói được!
Nhưng lời lẽ của thánh nhân thế gian giản lược, lại chỉ bàn về đời này và
con cháu, còn những việc trước khi sanh ra, sau khi chết đi, từ vô thỉ đến nay
theo nhân duyên tội phước luân hồi lục đạo... đều chưa luận rõ. Vì thế,
những kẻ thấy biết nông cạn tuy hằng ngày đọc những lời dạy về nhân quả
báo ứng của thánh hiền vẫn chẳng tin nhân quả báo ứng.
Ðại giáo của đức Như Lai hiển dương cái huyền diệu nơi tâm tánh của
chúng ta, sự tinh vi của nhân quả ba đời. Tất cả những thuyết “cách trí” (trí
tri cách vật), thành, chánh (chánh danh), “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ”, và pháp “đoạn hoặc chứng chân, liễu sanh thoát tử”, không pháp nào
chẳng giảng đủ. Vì thế, những điều Phật dạy về cha hiền, con hiếu, anh
nhường, em kính, chồng xướng vợ theo, chủ nhân từ, tớ trung thành, ai nấy
tận hết bổn phận có khác gì những điều thánh nhân thế gian đã dạy đâu!
Thế nhưng, với mỗi một điều, Phật lại khai thị nhân trước quả sau; đấy
chính là điều thánh nhân thế gian chẳng thể làm nổi! Lời dạy “tận nghĩa, dốc
trọn bổn phận” chỉ để dạy hàng thượng trí, chẳng thể chế ngự kẻ hạ ngu.
Nếu biết nhân quả báo ứng thì thiện - ác, họa - phước rành rành như nhìn
vào lửa; ai lại không tìm tốt, tránh xấu, tránh họa đạt phước cơ chứ?

* Kinh Hoa Nghiêm nói: “Hết thảy chúng sanh đều có đủ trí huệ, đức

tướng của Như Lai. Nhưng vì vọng tưởng, chấp trước, nên chẳng thể

chứng đắc”. Do vậy, biết rằng: trí huệ, đức tướng chúng sanh và Phật đều

đồng, tức là Tánh Ðức. Do có vọng tưởng chấp trước và lìa vọng tưởng

chấp trước nên chúng sanh và Phật khác nhau. Ðấy chính là Tu Ðức.
Tu Ðức có thuận, có nghịch. Thuận tánh mà tu thì càng tu càng gần.

Tu đến cùng cực thì triệt chứng, chứng được rằng hoàn toàn không có gì

để đắc cả. Còn nghịch tánh mà tu thì càng tu càng xa. Tu đến cùng cực sẽ

vĩnh viễn đọa trong ác đạo, đọa nhưng không có gì mất cả. Hiểu được

điều này thì ngu cũng là hiền, hiền cũng là ngu, thọ cũng là yểu, yểu cũng

là thọ, [những mong ước] phú quý, cháu con đầy đàn đều diệt sạch. Mỗi

mỗi đều làm chủ được thì có cái để nương dựa cũng coi như không,

không có cái để nhờ cậy cũng coi như có. Như núi cao chẳng thể trèo lên

được, người ta không có cách nào, thì chẳng ngại gì đục núi, xếp bậc, sẽ

cũng có thể lên đến chót núi.

Con người xưa nay chẳng biết nghĩa lý “do tâm tạo nghiệp, do tâm

chuyển nghiệp”, không ít kẻ đại thông minh, học vấn rộng, giở trò bỏ

sạch công lao người trước khiến di hại bao kiếp. Nếu chẳng tu đức, dù

thân đạt tới mức giàu trùm thiên hạ, quý như thiên tử, địa vị đứng đầu các

quan, thanh thế hiển hách như hàng tể phụ, há chẳng có kẻ bị tru lục, diệt

môn ngay trong đời này đó ư? Những điều mình đạt được đó đều chẳng

thể nương dựa được!

Ông Viên Liễu Phàm hiểu rõ điều này nên đối với những thứ được

hưởng thọ đều bảo chẳng phải do “tiền nhân” (nhân đời trước) định sẵn.

“Tiền nhân”, tục gọi là “thiên” (trời). “Thiên định thắng nhân” tức là tiền
nhân khó chuyển. Nhân định cũng thắng thiên, tức là tu trì để chuyển

nghiệp thì tiền nhân chẳng đủ để ỷ lại. Vì thế, lấy nhân hiện tại làm nhân

để tiêu trừ tiền nhân. Nếu buông lung làm xằng, kết quả sẽ ngược lại.

Hiểu rõ điều này thì muốn ngu lại thành hiền, muốn tầm thường lại trở

thành siêu quần, bạt tụy, đều là do giữ lòng tu đức, tùy thời khéo dạy mà

thôi!

* Mạng là gì? Chính là quả báo của những điều đã làm trong đời trước.
Lại nữa, điều đạt được do làm đúng theo đạo nghĩa mới gọi là Mạng. Những
điều đạt được do làm chẳng đúng theo đạo nghĩa thì chẳng được gọi là
Mạng. Vì sau khi đạt được như vậy, cái khổ đời sau chẳng cam nghe thấy!
Như trộm cướp tiền tài của người, tạm thời dường như giàu sướng, một khi
quan phủ biết ra, ắt sẽ đầu một nơi, thân một nẻo! Lẽ nào với cái tạm thời
được vui, lại cho là Mạng?
Lực là gì? Chính là nói đến những cái mình làm ngay trong đời này. Có
hai thứ làm: Một là tài trí chuyên dùng mưu mẹo biến trá. Hai là chuyên
dùng sự khắc kỷ, giữ lễ để tu trì.
Cái Mạng do Liệt Tử nói đó hỗn độn, chẳng phân; cái Lực của ông ta nói
đó đa phần chú trọng về mưu mẹo, biến trá. Bởi thế, đến nỗi Lực bị Mạng đè
ép, không cách gì đáp được [câu chất vấn sau]: “Khổng Tử bị khốn đốn nơi
biên giới nước Trần, nước Sái; Ðiền Hằng lấy nước Tề làm tánh mạng, còn
có thể nói là biết Mạng ư?”
Khổng Tử chẳng gặp vua hiền, chẳng thể khiến thiên hạ trị an, chính là
do nghiệp lực của muôn dân tạo ra như vậy, can dự chi đến Khổng Tử! Nhan
Uyên yểu thọ, nghĩa lý cũng giống như thế.
Ðiền Hằng có được nước Tề là do soán đoạt mà có, sao gọi là Mạng
được? Tuy hiện thời còn là vua Tề, nhưng khi hơi thở không hít vào được,
liền thành tù nhân trong A Tỳ địa ngục. Ðấy mới là Mạng, vì ông ta dạy
người chẳng tu đạo nghĩa, mặc tình cướp đoạt!
Bởi thế, tôi mới nói: “Liệt Tử chẳng biết Mạng. Chẳng thấy Mạnh Tử
luận về Mạng đó ư? Ắt phải cùng lý tận tánh đến mức như thế mới gọi là
Chân Mạng. Còn những điều chẳng do đạo nghĩa mà được, chẳng do đạo
nghĩa mà mất, đều chẳng được gọi là Mạng. Liệt Tử luận về Lực đa phần
thuộc về tài trí mưu mẹo, biến trá, [là những điều] hiền thánh chẳng thèm
nói tới. Những điều hiền thánh nói đến đều là khắc kỷ, giữ lễ để tu trì”.
“Thánh mất niệm thành cuồng, cuồng khắc chế niệm thành thánh. Nhà
tích thiện ắt sự vui có thừa, nhà tích điều chẳng lành, ắt tai ương có thừa.
Làm lành trăm điều tốt lành giáng. Làm điều chẳng lành trăm tai ương trút
xuống. Gỗ phải theo dây mực mới ngay, vua phải nghe lời can gián mới
thành thánh. Làm điều nhân ái sẽ dẫn tới phước lành; dù gặp phải cảnh hung
hiểm trái nghịch cũng chỉ nhẹ nhàng. Năm năm mươi tuổi, biết bốn mươi
chín năm trước là sai trái; muốn giảm bớt lỗi nhưng vẫn chưa thể. Muốn
mình được sống thêm năm mười năm nữa để học Dịch hầu không mắc lỗi
lớn. Ai cũng có thể là Nghiêu, Thuấn, kiêng giữ những điều chẳng nên nhìn,
kinh sợ những điều chẳng nên nghe, đều là Lực”. Đấy là những lời của Nho
gia.
Còn nhà Phật bảo hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ thành
Phật để họ sám hối nghiệp cũ, cải ác tu thiện, mong họ đừng làm các điều
ác, vâng làm các việc lành. Dùng Giới giữ thân, chẳng làm điều phi lễ. Dùng
Định nhiếp tâm, chẳng khởi vọng niệm. Dùng Huệ đoạn Hoặc, thấy rõ bổn
tánh. Đấy đều là những Lực để khắc kỷ, giữ lễ tu trì. Hành theo đó, còn
thành được Phật đạo, huống hồ là những quả vị thấp hơn ư! Vì thế, kinh
Lăng Nghiêm nói: Cầu vợ được vợ, cầu con được con, cầu trường thọ được
trường thọ, cầu tam muội được tam muội. Như thế cho đến cầu Đại Niết Bàn
đắc Đại Niết Bàn. Đại Niết Bàn là Phật Quả rốt ráo. [Những điều ấy] đều là
do tu trì theo đúng giáo pháp mà được, Lực ấy rất lớn, chẳng thể hạn lượng.
Ông Viên Liễu Phàm gặp Khổng tiên sinh bói các việc trước sau, việc
nào cũng đều ứng nghiệm cả, bèn cho là nhất định phải có Mạng (số mạng).
Sau ông được Vân Cốc thiền sư khai thị, tận lực tu trì. Những điều ông
Khổng đã đoán, chẳng trúng một mảy. Ông Viên Liễu Phàm là bậc hiền giả,
dù có nhầm lẫn làm điều gì chẳng đúng, lời đoán của họ Khổng cũng chẳng
linh. Do đấy, ta biết rằng hiền thánh dạy đời chỉ trọng tu trì. Đức Như Lai
dạy người cũng giống như thế. Vì thế, tất cả những pháp môn Đại, Tiểu,
Quyền, Thật Phật đã nói, không pháp nào chẳng khiến chúng sanh trừ khử
Hoặc nghiệp huyễn vọng, triệt chứng Phật Tánh sẵn có. Vì thế, đời có kẻ cực
ngu, cực độn, tu trì lâu ngày liền đạt được đại trí huệ, đại biện tài.
Liệt Tử quy hết thảy mọi sự về Mạng (số mạng), gây trở ngại chí mong
thành thánh, thành hiền của con người, cổ vũ cái tâm gian ác, soán đoạt của
người. Dưới là phải chịu họa hại vô cùng, trên là làm nhụt khí lực quyết chí,
ưu thời mẫn thế đến nỗi chung thân chẳng dự vào bậc Thánh Hiền, cứ làm
một người hèn hạ, thấp kém. Thiên sách ấy hoàn toàn vô ích cho đời, nào có
giá trị gì đáng để nghiên cứu đâu!
* Tôi thường nói: “Người trong cõi đời, trong mười phần, chết trực tiếp
bởi sắc dục có đến bốn phần, chết gián tiếp vì sắc dục cũng đến bốn phần”.
Do sắc dục mà hao tổn, phải chịu đựng các thứ cảm xúc khác mà chết. Đối
với những cái chết ấy, không ai là chẳng đổ cho số mạng, biết đâu rằng: Do
tham sắc mà chết đều chẳng phải là số mạng!
Mạng vốn nằm trong tay những ai giữ lòng thanh tịnh, trinh khiết, chẳng
tham dục sự. Tham sắc là tự giết hại mình, bảo là số mạng sao được? Còn
những người do mạng mà sanh, mạng tận bèn chết, bất quá chỉ một hai phần
thôi. Do vậy, biết rằng quá nửa thiên hạ là hạng uổng tử. Cái họa này rất dữ
dội, có một không hai trong đời. Chẳng đáng buồn ư? Chẳng đáng sợ ư?
Nhưng chẳng tốn một đồng, chẳng nhọc tí ti sức lực gì, lại có thể trở
thành bậc đức hạnh chí cao, hưởng an lạc chí đại, con cháu quý hiển, phước
ấm vô cùng, đời sau được quyến thuộc trinh lương, chỉ có mỗi việc giới dâm
mà thôi! Đối với việc hành dâm chánh đáng giữa vợ chồng, ở phần trước tôi
đã thuật qua về lẽ lợi hại, ở đây chẳng nhắc lại nữa. Còn đối với việc tà dâm,
vô liêm, vô sỉ, cực uế, cực ác, chính là dùng cái thân người để làm chuyện
súc sanh.
Vì thế, nếu gái đẹp đến cợt nhả, đàn bà yêu kiều đến xin chung chạ, quân
tử coi đó là mối họa ương không gì lớn bằng, bèn cự tuyệt, thì phước chiếu
rạng ngời, hoàng thiên ban ân. Kẻ tiểu nhân coi đó là hạnh phúc không chi
lớn bằng bèn thâu nạp, ắt đến nỗi bị tai tinh xung chiếu, quỷ thần tru lục.
Quân tử do họa được phước, tiểu nhân do họa càng thêm họa. Vì thế, mới
nói: “Họa phước vô môn, duy nhân tự chiêu” (họa phước không cửa, do
người tự chuốc lấy). Nếu đối với cái ải nữ sắc, người đời chẳng thể triệt để
thấu hiểu thì [những sự như] đức hạnh chí cao, an lạc chí đại, con cháu quý
hiển, phước ấm vô cùng, đời sau quyến thuộc trinh thục sẽ bị mất hết trong
giây phút hoan lạc mà thôi! Xót thay!

* Hai chữ Nhân Quả gồm trọn hết thảy các pháp thế gian, xuất thế gian
không sót chút gì. Những thánh nhân thế gian không ai chẳng dạy nhân quả,
nhưng do chuyên chú nơi đạo xử thế, muốn cho nó được kế tục, được lưu
truyền, nên chỉ hạn cuộc trong đời này và thế hệ trước, thế hệ sau, chẳng nói
những chuyện trước lúc sanh ra, sau khi chết đi và những điều kể từ vô thỉ
trước đến tận đời vị lai sau.
Kẻ hậu học chẳng thể hiểu rõ ý của thánh hiền bèn cho rằng người, vật
có sự sống là do khí thiên địa ngẫu nhiên thấm vào hình hài mà thôi. Còn
đến lúc chết, hình hài mục nát, hồn cũng phiêu tán, không nhân, không quả,
trở thành Đoạn Diệt Kiến. Đã cô phụ thánh giáo, còn mê muội tánh linh của
mình đến cùng cực vậy! Khổng Tử khen ngợi sách Chu Dịch, ngay câu đầu
tiên, Ngài nói:“Nhà tích thiện ắt sự vui có thừa, nhà tích bất thiện ắt tai
ương có thừa”...
Điều thứ hai là nếu chẳng dùng quá khứ, hiện tại, vị lai để luận thì những
điều trời giáng xuống phần nhiều mâu thuẫn với những ngôn luận của thánh
nhân, chánh lệnh của bậc minh quân (chẳng hạn như gian đảng vinh hoa,
trung thần bị tru lục; Nhan Uyên chết yểu, Đạo Chích trường thọ...) Nếu biết
tiền nhân, hậu quả thì [sẽ hiểu] những sự cùng, thông, được, mất đều do tự
mình chuốc lấy. Dù có gặp nghịch cảnh cũng chẳng oán, chẳng hận, chỉ thẹn
đức mình kém cỏi, chẳng thấy lỗi lầm của trời - người, vui biết mạng trời,
không lúc nào là chẳng tự tại tiêu dao!

* Hết thảy những kẻ chẳng hiểu thấu tột cùng lý sâu và những kẻ vô tri,
vô thức, nếu nghe nói đến lý tánh, phần nhiều đề cao thánh cảnh, nhưng vẫn
tự làm phàm phu, chẳng chịu mạnh mẽ gắng sức khởi đầu từ Sự. Nếu bảo
cho họ biết nhân quả ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai dù thiện hay ác đều có
quả báo, ắt sẽ sợ ác quả mà đoạn ác nhân, tu thiện nhân hòng được thiện
quả.
Thiện - ác chẳng ngoài ba nơi thân - khẩu - ý. Đã biết nhân quả sẽ tự
phòng giữ thân - miệng, rửa lòng gột ý. Dù ở trong nhà tối, phòng kín, vẫn
luôn như đang ở trước Thiên Đế, chẳng dám móng khởi chút bỉ ổi nào, kẻo
vướng phải tội vạ! Đấy chính là đại pháp “trí tri, thành ý, chánh tâm, tu
thân” để dạy khắp hết thảy chúng sanh thượng, trung, hạ căn của đức Đại
Giác Thế Tôn vậy. Tuy thế, kẻ cuồng sợ bị câu thúc, bảo đó là chấp tướng;
kẻ ngu nhằm tránh khỏi bị xấu mặt, bèn bảo đó là chuyện vu vơ. Trừ hai
hạng người này ra, có ai lại chẳng tin nhận?
Vì thế, ngài Mộng Đông nói: “Người khéo luận về tâm tánh sẽ chẳng thể
bỏ được nhân quả. Người tin sâu nhân quả cuối cùng ắt sẽ thấy cực rõ tâm
tánh ấy”. Lý này lẽ tất nhiên phải như thế. Phải biết rằng: Từ địa vị phàm
phu cho đến khi viên chứng Phật Quả, đều chẳng ra ngoài nhân quả. Kẻ nào
chẳng tin nhân quả đều là hạng tự đánh mất thiện nhân, thiện quả, luôn tạo
ác nhân, luôn chịu ác quả, trải kiếp số như bụi trần, luân chuyển trong ác
đạo, chưa thể xuất ly vậy. Buồn thay!

* Phật pháp lưu thông lợi ích vô lượng. Người căn tánh sâu sẽ lãnh hội
sâu xa, liền minh tâm kiến tánh, đoạn Hoặc chứng chân. Người căn cơ cạn
lãnh hội nông cạn, cũng vẫn có thể cải ác tu thiện, cầu thành Thánh, thành
Hiền. Ấy là do đức Như Lai lập giáo, dù chánh yếu là vì xuất thế, nhưng
Phật tùy thuận cơ nghi, khuyến dụ lần lần, nên đối với đạo xử thế, Ngài cũng
phát huy trọn khắp, không bỏ sót mảy may điều thiện nào! Gặp cha nói về
từ, gặp con nói về hiếu, anh nhường em kính, chồng xướng vợ theo, phàm
hết thảy những đạo luân thường hằng ngày Phật dạy trọn chẳng khác gì với
những điều Nho Giáo đã nói.
Chỗ khác biệt là: đối với mỗi điều ấy, Phật đều chỉ rõ nhân quả ba đời,
thiện ác báo ứng, khiến cho người nghe đem lòng kính sợ, chẳng dám vượt
phạm. Dù ở trong nhà tối, phòng kín, thường như đang ở trước Phật, trời.
Đến cả hạng tham tàn bạo ác, trọn chẳng có tín tâm, nghe mãi chuyện nhân
quả báo ứng, tâm cũng thầm bị chế phục, cũng chẳng đến nỗi mười phần
khốc liệt. Cứ xem thời Liệt Quốc, có tục giết người tuẫn tang29 , giết càng
nhiều càng vinh hiển; đến khi Phật giáo truyền sang Đông mới chấm dứt
được thói tục ấy. Điều ấy đủ để chứng minh vậy.

* Đời này đã cách thời Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ cả ba bốn
ngàn năm, tình đời, lòng người so với thời cổ khác xa lắm. Nhưng do biết
lục đạo luân hồi theo nghiệp thăng trầm, sanh lên trời, đọa xuống địa ngục,
người biến ra thú, thú sanh làm người, nên dù là hạng cùng hung cực ác
ương ngạnh khó giáo hóa, trọn không có tín tâm cũng bị pháp này (nhân
quả) chiết phục.
Dù coi rẻ mạng người, trong tâm vẫn tiềm ẩn một chút sợ hãi ảnh hưởng
của nhân quả, nên chưa đến nỗi thập phần bạo ác. Như các chư hầu thời Liệt
Quốc đem bầy tôi, ái thiếp và bá tánh bắt giết tuẫn táng theo cả mấy chục,
mấy trăm người, chẳng coi đó là sai; trái lại, còn cho là vẻ vang nữa. Chẳng
phải là do pháp nhân quả mà thời này hiền hơn đời trước ư? Châu Văn
Vương ân trạch thấm đến cả xương khô, thế mà chỉ mấy trăm năm, phong
tục giết người tuẫn táng đã lan khắp thiên hạ. Dù Lão, Trang, Khổng, Mạnh
cùng ra đời, đều chẳng thể vãn hồi được phong tục suy đồi ấy.
Từ sau khi Phật pháp truyền sang phương Đông, lý sanh tử, luân hồi,
nhân quả báo ứng sáng rực trong đời. Chẳng kể chư hầu, ngay cả kẻ hướng
mặt về Nam xưng “trẫm”30 cũng chẳng dám làm. Dù có kẻ dám làm, cũng
chẳng dám coi giết nhiều người là vinh. Nếu không có pháp này, chỉ có cái
thuyết “chánh tâm, thành ý” để đề cao lòng trung thứ, dốc lòng đùm bọc
nhau hòng dứt trừ tục tuẫn táng trong toàn dân, tôi e rằng càng nhọc nhằn
khuyên lơn, thói tệ ấy càng thêm thịnh hành!
Huống nữa, Nho gia chỉ biết trị đạo, chẳng rõ tự tâm, muốn bài xích Phật
pháp, cưỡng lập môn đình, đều nói là chết rồi là vĩnh viễn diệt, không còn
đời sau nữa. Nếu không có lẽ sanh tử, luân hồi, nhân quả báo ứng của đức
Như Lai thấm nhuần khắp tâm người thì những người đời sau được chánh
mạng, chết tốt lành càng hiếm hơn nữa.
Đấy chỉ là pháp thiển cận nhất trong Phật pháp, còn có thể trừ khử được
thói tàn sát, huống hồ là đại pháp viên đốn chí cực sâu xa. Thế trí phàm tình
há thể suy lường được một phần trong vạn phần lợi ích của Phật pháp ư?
* Phật pháp rộng lớn, không gì chẳng bao gồm, không điều nhỏ nhặt nào
lại chẳng nêu lên. Chẳng những thế, nương theo đó còn có thể đoạn Hoặc
chứng chân, liễu sanh thoát tử. Đấy chính là đạo “cách vật trí tri, tu thân, tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ, minh minh đức, chỉ ư chí thiện”31.
Nếu thấu hiểu Phật pháp thì sự chỉ một nửa, nhưng công gấp bội. Bởi lẽ,
những điều thánh nhân thế gian nói chỉ nhằm dạy con người tận hết bổn
phận; chỉ bậc thượng trí mới có thể tuân hành triệt để. Nếu là hạng căn tánh
trung, hạ, sẽ chểnh mảng, coi thường. Phật pháp dạy rõ các sự lý: nhân quả
báo ứng, sanh tử, luân hồi, và hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều có
thể thành Phật... Nếu là bậc thượng trí ắt sẽ chứng được Phật tánh sẵn có; kẻ
hạ ngu sẽ chẳng dám phóng túng, càn rỡ vì sợ cái khổ đời vị lai; tất nhiên sẽ
cải ác hướng thiện, mong thành thánh, thành hiền. Dù ở trong nhà tối, phòng
kín, vẫn thường như đang đối trước Phật, trời.
Đức Như Lai dùng Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện để nhiếp khắp
chúng nam nữ tại gia. Tu Ngũ Giới, Thập Thiện sẽ thắng được thói tàn sát,
bỏ thói kiêu bạc, trở thành thuần hòa, vĩnh viễn thoát khỏi ác báo tam đồ,
thường hưởng sự khoái lạc cõi nhân thiên. Pháp nông cạn nhất còn như thế,
huống hồ là pháp sâu nhất.
Vì thế biết rằng: Như Lai là đại sư ba cõi, là cha lành của bốn loài, là
thánh nhân của các thánh, là trời của các trời. Bởi thế, vua thánh tôi hiền,
bậc thông đạt, không ai chẳng tuân lời Phật dạy tu tập, hộ trì, lưu thông.
Trong hết thảy pháp lấy tâm làm gốc, chỉ có mỗi Phật pháp là phát minh đến
chỗ rốt ráo!

---o0o---

2. Giảng nhân quả về mặt Sự

* Kinh dạy: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”. Bồ Tát sợ gặp phải
ác quả, nên đã đoạn sẵn ác nhân từ trước. Do vậy, tội chướng tiêu diệt, công
đức viên mãn thẳng đến khi thành Phật mới thôi. Chúng sanh thường tạo ác
nhân, muốn tránh ác quả, như ở trước mặt trời lại muốn không có bóng, cứ
nhọc nhằn rảo chạy.
Thường thấy kẻ ngu vô tri vừa làm chút điều lành liền mong đại phước.
Vừa gặp phải nghịch cảnh bèn bảo làm lành mắc họa, chẳng có nhân quả. Từ
đó, cái tâm ban đầu lùi sụt, đâm ra báng bổ Phật pháp. Họ nào biết đến ý chỉ
huyền áo “báo thông ba đời, chuyển biến do tâm”.
Hiện đời làm thiện, làm ác; hiện đời được phước, mắc họa thì gọi là
“hiện báo”. Đời này làm thiện, làm ác, đời sau được phước, mắc họa, gọi là
“sanh báo”. Đời này làm thiện, làm ác, đến đời thứ ba, hoặc đời thứ tư, hoặc
mười, trăm, vạn đời sau, hoặc đến vô lượng vô biên kiếp sau mới hưởng
phước, mắc họa, thì gọi là “hậu báo”. Hậu báo sớm, chậm bất định. Phàm
những nghiệp đã tạo, tuyệt đối không có nghiệp nào lại chẳng có báo.
“Chuyển biến do tâm” là ví như có người đã tạo ác nghiệp, sẽ phải đọa
mãi trong địa ngục, chịu khổ cả bao kiếp dài lâu. Về sau, kẻ ấy sanh lòng hổ
thẹn lớn lao, phát đại Bồ Đề tâm, cải ác tu thiện, tụng kinh, niệm Phật, tự
hành, dạy người hành, cầu sanh Tây Phương. Do đó, trong đời này, người ấy
bị người khinh miệt hoặc mắc chút bệnh khổ, hoặc phải tạm chịu bần cùng,
và gặp hết thảy chuyện chẳng như ý. Nghiệp vĩnh viễn đọa địa ngục chịu
khổ bao kiếp dài lâu mình đã tạo trước đây liền bị tiêu diệt, lại còn có thể
liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh. Đấy là điều Kim Cang đã
nói: “Nếu có người thọ trì kinh này bị người khác khinh rẻ, người ấy do tội
nghiệp đời trước đáng đọa ác đạo, nhưng vì đời này bị người đời khinh rẻ
nên tội nghiệp đời trước liền bị tiêu diệt, sẽ đắc A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề”. Đây chính là ý nghĩa “chuyển biến do tâm”.

* Thế nhân gặp chút tai ương nếu chẳng oán trời, cũng sẽ trách người,
tuyệt chẳng có ý tưởng trả nợ, sanh tâm sám hối tội lỗi. Phải biết rằng: trồng
dưa được dưa, gieo đậu được đậu, trồng cỏ dại chẳng thể được thóc tốt, gieo
gai góc chớ mong lúa nếp.
Kẻ làm ác được phước [thì phước đó] là do đời trước đã vun trồng sâu
dày. Nếu chẳng làm ác thì phước càng thêm lớn. Ví như con em nhà giàu, ăn
xài phung phí, xem vàng như đất, chẳng bị đói lạnh ngay là do vàng nhiều.
Nhưng nếu ngày ngày cứ như thế, dù giàu đến trăm vạn, chẳng được mấy
năm cũng nhà tan, người chết, mất sạch sành sanh cả!
Làm lành mắc họa là do tội nghiệp đời trước sâu nặng. Nếu chẳng làm
lành thì tai ương càng lớn. Ví như người phạm trọng tội, chưa bị hành hình,
lập được công nhỏ; do công nhỏ nên chẳng thể xá tội hoàn toàn, nhưng đã
đổi nặng thành nhẹ. Nếu có thể ngày ngày lập công, do công càng nhiều,
càng lớn nên tội hết, được xá miễn; lại được phong hầu bái tướng, tước vị
thế tập dài lâu cùng vận nước.

* Phải biết rằng: điều trái nghịch xảy đến cứ thuận theo, mới gọi là “lạc
thiên” (vui theo mệnh trời). Tu thân, gieo đức mới gọi là “tận tánh”. Đời có
kẻ ngu chẳng biết thiện ác đời trước, chỉ thấy việc tốt xấu trước mắt, thấy
làm thiện mắc họa bèn bảo “thiện chẳng đáng làm”; thấy làm ác được phước
bèn bảo “ác chẳng đáng kiêng”.
Chẳng biết thiện báo, ác báo chẳng phải là chuyện một sớm, một chiều,
phải xảy ra dần dần. Ví như ba thước băng, nào có phải là trời lạnh một buổi
đã kết thành được đâu! Trăm sông đầy ắp nước nào có phải là trời nóng một
ngày mà tan được băng đâu! Chớ nên oán trời, trách người, cũng đừng do
dự, hối hận, lui sụt; hãy nên học theo cách tu thân của ông Du Tịnh Ý, cách
lập mạng của ông Viên Liễu Phàm!

* Như Lai giảng kinh: báo thông tam thế. Phàm người sanh con, đại lược
có bốn nhân.
Thứ nhất là hiện báo, nghĩa là đời này làm thiện, làm ác, đời này hưởng
phước, mắc họa. Như sĩ tử rèn luyện văn chương khoa cử, thân đời này được
công danh. Điều này mắt phàm thấy được.
Thứ hai là sanh báo, nghĩa là đời này làm thiện, làm ác, đời sau hưởng
phước, mắc tội. Như tổ phụ có trọng học vấn thì con cháu mới hiển đạt. Điều
này mắt phàm chẳng thấy được, nhưng thiên nhãn còn thấy được (đời này,
đời sau đều là ước theo người đó mà nói. Đối với việc cách đời, dùng thí dụ
để giảng cho dễ hiểu, nên tạm dùng tổ phụ và con cháu. Đừng chấp vào văn
mà đánh mất ý nghĩa. Mong lắm thay!)
Thứ ba là hậu báo, tức là đời này làm thiện, làm ác, đến đời thứ ba, hoặc
bốn, năm, sáu, bảy đời, hoặc mười, trăm, ngàn, vạn đời, hoặc một, mười,
trăm, ngàn, vạn kiếp, hoặc là đến vô lượng vô biên hằng hà sa kiếp mới
hưởng báo thiện hay ác. Như vương nghiệp nhà Thương, nhà Châu xưa kia,
thật sự bắt nguồn từ việc ông Tắc giúp vua Thuấn, ông Khiết phò vua Vũ.
Nếu là chuyện trong ba bốn đời, thiên nhãn còn thấy được. Như trong
trăm ngàn vạn kiếp, thiên nhãn chẳng thấy được, nhưng đạo nhãn của Thanh
Văn còn thấy được. Nếu là vô lượng vô biên hằng hà sa kiếp, chỉ ngũ nhãn
viên minh của đức Như Lai mới thấy được nổi. Đấy còn chưa phải là cảnh
giới thuộc đạo nhãn của Thanh Văn, huống hồ là thiên nhãn, nhục nhãn ư!
Hiểu ý nghĩa của ba thứ báo này thì chuyện làm thiện được phước, làm
ác tai họa giáng xuống, thánh ngôn vốn chẳng sai lầm. Phú quý, bần tiện,
thọ, yểu, cùng, thông, mạng trời chưa từng thiên vị. Cảnh duyên xảy đến như
hình ảnh hiện trong gương. Kẻ trí chỉ quan tâm đến vẻ mặt ở ngoài gương,
người ngu uổng công ghét hình ảnh hiện trong gương. Chuyện trái nghịch
xảy đến, vui chịu mới gọi là “lạc thiên”. Chẳng oán, chẳng trách mới gọi là
“lập mạng”.
Con có bốn nhân là: một là báo ân, hai là báo oán, ba là trả nợ, bốn là đòi
nợ.
- Báo ân nghĩa là trong đời trước cha mẹ có ân với con, nên nó sanh vào
làm con để hầu hạ, phụng dưỡng, sống thờ, chết chôn. Cho nên [cha mẹ còn]
sống ắt chăm sóc, chết thì cúng giỗ. Thậm chí tận tụy với vua, lợi dân, tên
lưu sử xanh, khiến thiên hạ hậu thế kính người ấy bèn kính luôn cả cha mẹ,
như các ông: Tăng Lỗ Công, Trần Trung Tú, Vương Quy Linh, Sử Đại
Thành (Ba ông Tăng, Trần, Vương đều là bậc danh thần đời Tống. Ông Sử
là trạng nguyên đầu đời Thanh. Bốn ông cùng tin Phật, nhưng chỉ mình
Trung Tú ngộ nhập rất sâu. Do ông đời trước là cao tăng nên tuy hưởng phú
quý vẫn không quên mất bổn nhân). Con hiếu, cháu hiền trong đời này đều
thuộc về loại này.
- Báo oán là đời trước cha mẹ từng phụ ân con, nên sanh vào làm con để
báo oán. Lúc nhỏ ngỗ nghịch khiến cha mẹ buồn lòng, lớn lên gây họa khiến
cha mẹ mắc vạ lây. Lúc sống, ngọt bùi chẳng đoái, chết đi phải mang nhục
dưới chín suối. Lại còn những trường hợp quá đáng, con có quyền vị trọng
yếu, mưu chuyện phi pháp, diệt môn tàn tộc, quật mồ cuốc mả, khiến cho
thiên hạ hậu thế thóa mạ kẻ ấy, chửi lây cả cha mẹ. Như Vương Mãng, Tào
Tháo, Đổng Trác, Tần Cối v.v... chính là loại này.
- Đền nợ là đời trước mắc nợ cha mẹ tiền tài. Nay để đền trả bèn sanh
làm con. Nếu nợ nhiều sẽ làm con suốt đời. Nếu nợ ít, chẳng thể tránh khỏi
giữa chừng chết trước cha mẹ, như: học sắp thành tài bèn mất mạng, buôn
bán vừa có lời bèn chôn thân.
- Đòi nợ là đời trước cha mẹ nợ tiền tài của con, nó bèn sanh vào làm
con để đòi nợ. Nợ nhỏ sẽ uổng công biếu xén mời thầy, dạm vàng hỏi vợ,
dạy răn các thứ, những mong con được thành người, nhưng đại hạn chợt xảy
đến, hốt nhiên chết mất. Nợ lớn thì chẳng chỉ có thế, ắt còn phải mất nghiệp
phá sản, nhà bại, người mất mới thôi!

* Chuyện trong thiên hạ đều có nhân duyên. Sự được thành hay chăng
đều do nhân duyên xui khiến. Dù có người làm cho việc thành hay hoại,
nhưng quyền lực thật sự là do nhân trước của ta, chứ chẳng do duyên hiện
tại. Hiểu điều này sẽ vui biết mạng trời, chẳng oán, chẳng trách, làm đúng
theo địa vị, chẳng chứng nhập mà tự đạt được vậy.

* Với chuyện vun bồi đức hãy nên thường xem các sách [Thái Thượng]
Cảm Ứng, Âm Chất Văn. Với điều thiện sẽ tùy phận, tùy lực mà hành. Với
điều ác bỏ đi như oán, như thù. Ông Viên Liễu Phàm hành pháp Công Quá
Cách, nhận chân được bản thể, chẳng mảy may buông lung. Vì thế, mạng
vốn chẳng thọ bèn được thọ, không có đại công danh bèn được đại công
danh, không con bèn có con.

* Phàm những người hiển đạt nhờ khoa cử, tổ phụ họ đều có đại âm đức.
Nếu không âm đức, cậy sức người để hiển đạt, sau này ắt gặp đại họa; chẳng
thà không hiển đạt còn hơn. Xem khắp cuộc đời của các bậc đại thánh, đại
hiền xưa nay, đều là do tổ phụ họ tích đức mà nên. Đại phú, đại quý cũng
thế. Con cháu họ sanh ra phú quý, chỉ biết hưởng phước tạo nghiệp, quên
mất công tổ phụ một phen vun bồi. Do đấy, chôn vùi tổ đức, phá sạch tổ
nghiệp, cam chịu bần tiện. Đấy chính là bệnh chung của kẻ phú quý trong cả
cõi đời.
Đời đời giữ cho đức tổ tiên vĩnh cửu chẳng bị chìm lấp chỉ có mỗi nhà
họ Phạm ở Tô Châu là bậc nhất từ xưa đến nay. Từ Văn Chánh Công (Phạm
Trọng Yêm) đời Tống đến nay, đến mãi cuối đời Thanh, hơn tám trăm năm,
gia phong chẳng suy sụp, con cháu nối tiếp nhau đỗ đạt, đáng gọi là nhà thư
hương đời đời. Nhà họ Bành ở Trường Châu từ đầu đời Thanh đến nay, khoa
bảng đứng đầu thiên hạ. Nhà ấy có bốn năm người đỗ trạng nguyên, có lúc
cả mấy anh em cùng làm quan cực phẩm. Nhưng họ đời đời sùng phụng
Phật pháp, dù là trạng nguyên, tể tướng vẫn hằng ngày đọc Cảm Ứng, Âm
Chất Văn để noi gương thành ý, chánh tâm, tận tụy thờ vua, giúp dân.
Gã cuồng sanh kia bảo những sách ấy là để hạng ông già, bà cả quê mùa
tin theo, chẳng những chẳng biết vì sao thánh hiền là thánh hiền, mà còn
chẳng biết vì sao người là người nữa kia! Sống làm thây đi, thịt chạy, chết
mục nát cùng cỏ cây. Lại còn ác nghiệp khó tiêu, vĩnh viễn trầm luân trong
ác đạo. Gã ấy cứ vênh váo tự coi mình là hạng học rộng thông suốt, đến nỗi
đời sau, những danh từ “thiên, địa, phụ mẫu” còn chẳng được nghe đến, còn
đáng gọi là hay ư?

* Đừng có nói nhà mình nghèo hèn, chẳng thể rộng chứa âm đức, hành
phương tiện lớn. Phải biết rằng ba nghiệp thân - khẩu - ý đều ác thì không có
gì ác bằng, còn nếu ba nghiệp thân - khẩu - ý đều thiện thì không có chi
thiện bằng!
Như có người ngu chẳng tin nhân quả, chẳng tin tội phước báo ứng
ngông nghênh, ngạo ngược, dựa theo những điều đã nói trong An Sĩ Toàn
Thư mà giảng cho kẻ ấy, khiến hắn bắt đầu tin nhân quả dần dần, kế đó thâm
tín Phật pháp, cuối cùng là vãng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử. [Độ]
một người như thế, công đức vô lượng vô biên, huống hồ là nhiều người.
Nhưng mình phải nghiêm túc không tỳ vết mới cảm ứng được người
chung quanh. Vợ con mình tin nhận, vâng làm, người khác trông thấy mới
ham thích, nào phải đâu là tiền của nhiều [mới tích chứa âm đức được]!

* Người sanh trong thế gian có được cái vốn để thành đức, thành tài,
dựng công lập nghiệp, và có được một tài, một nghề để nuôi thân cùng gia
đình, đều là do sức chủ trì của văn tự mà được thành tựu. Chữ nghĩa là của
cải quý báu nhất trong thế gian, có thể khiến kẻ phàm thành thánh, biến kẻ
ngu thành trí, kẻ nghèo hèn thành phú quý, kẻ tật bệnh trở thành khỏe mạnh.
Đạo mạch thánh hiền được lưu truyền thiên cổ; kinh doanh nuôi sống mình
và gia đình, để của cải lại cho con cháu, không việc gì chẳng nhờ vào sức
lực chữ nghĩa. Nếu trên đời không có chữ nghĩa, hết thảy sự lý sẽ đều chẳng
thành lập được, con người cũng chẳng khác gì cầm thú!
Chữ nghĩa đã có công sức như thế, tất nhiên phải nên trân trọng, yêu
tiếc. Trộm thấy người đời nay mặc tình khinh thường, làm nhơ chữ nghĩa,
đúng là xem của cải chí bảo khác gì phân, đất! Đời này chẳng bị giảm
phước, tổn thọ; đời sau cũng bị vô tri, vô thức đấy thôi! Chẳng những chớ
xem thường, làm ô uế, vứt bỏ những văn tự hữu hình; đối với những văn tự
vô hình cũng chẳng được khinh thường, ô uế, vứt bỏ! Nếu chẳng ra sức thực
hành “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ” là đã mất cả tám chữ. Tám chữ
ấy đã mất thì sống là loài cầm thú mặc áo, đội mũ; chết sẽ đọa tam đồ, ác
đạo!

---o0o---

3. Giải thích về nguyên do của kiếp vận

* Sự khổ trong Sa Bà chẳng thể nói hết nổi. Dù trong thời thanh bình,
hằng ngày vẫn gặp cảnh khổ não. Vì chúng sanh quá quen với những cảnh
khổ ấy đã lâu nên chẳng biết đó thôi! Gần đây, Trung Quốc trải mấy phen
binh lửa, đã là khổ chẳng thể nói. Ngoài thế giới, các nước đại chiến đã ba
năm, người chết gần cả ngàn vạn, khai mào nạn binh kiếp bậc nhất. Tình
hình chiến tranh vẫn còn mạnh mẽ, chẳng biết mức độ khốc liệt sẽ đến đâu,
lặng im suy nghĩ, thật đáng kinh sợ vậy.
Nguyên nhân là do nước nọ tận lực muốn chiếm đoạt, tàn diệt nước kia,
nhưng cũng do ác nghiệp xưa kia của chúng sanh chiêu cảm ác báo nên mới
đến nỗi cực kỳ tàn khốc như thế. Nay nghe lời này, phải nên mạnh mẽ phát
khởi đại tâm cầu mau được vãng sanh. Sau đấy sẽ trở vào Sa Bà phổ độ hết
thảy.
Kinh dạy: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”. Bồ Tát sợ chiêu lấy ác
quả nên đoạn ác nhân. Ác nhân đoạn rồi, ác quả không sanh từ đâu được.
Chúng sanh đua nhau tạo nhân ác, ắt phải lãnh quả ác. Đến lúc lãnh quả ác,
chẳng biết tự sám hối nghiệp trước, lại còn tạo thêm ác pháp để chống chọi
lại. Thế nên oan oan tương báo trải bao kiếp không ngừng. Chẳng đáng buồn
sao? Chẳng đáng sợ sao? Biết vậy rồi, chẳng lẽ nào lại chẳng cầu sanh Tây
Phương!

* Cõi đời đang lúc Kiếp Trược, cướp bóc, giết hại lẫn nhau. Chẳng có lá
bùa hộ thân, sẽ khó tránh khỏi họa hại được mãi! Lá bùa hộ thân vừa nói đó
cũng chỉ là chí thành lễ niệm A Di Đà Phật mà thôi! Quán Âm Đại Sĩ thệ
nguyện rộng sâu, nghe tiếng cứu khổ, có cảm ắt ứng. Ngoài việc sáng chiều
lễ Phật ra, hãy nên lễ niệm thêm Đại Sĩ sẽ ngầm được gia hộ, tự có thể
chuyển họa thành phước, biến tai nạn thành điều tốt lành mà mình chẳng
biết.

* Thiên hạ loạn lạc, kẻ thất phu phải có trách nhiệm. Người người ai nấy
dốc tấm lòng thành, ai nấy tận lực hiếu đễ, ai nấy làm điều từ thiện: giúp đỡ
kẻ cô quả, cứu kẻ hoạn nạn, thương xót kẻ nghèo, kiêng giết, phóng sanh, ăn
chay, niệm Phật. Người có thiện cảm, trời ắt ứng phước, tự nhiên mưa thuận,
gió hòa, dân yên, vật mạnh, quyết chẳng đến nỗi trời thường giáng các tai
nạn: lụt, hạn, ôn dịch, châu chấu, gió lốc, động đất... Thời tiết điều hòa, được
mùa, nhân dân lạc nghiệp.
Lại thêm từ hòa, nhân nhượng tập quen thành thói. Dù có một hai kẻ ngu
độn cũng sẽ biến thành hiền lành. Nếu thương xót kẻ quân tử trên xà nhà32 ,
hắn sẽ dứt tuyệt vĩnh viễn thói trộm cắp; chu cấp cho đứa rình rập nhà kín,
từ đấy về sau nó sẽ trở thành người lành. Cổ nhân dùng nhân từ để cai trị,
chân thành yêu dân, nên còn cảm hóa được cả dị loại. Các điềm lành như: hổ
chẳng vào nơi trấn nhậm, cá sấu bỏ đi nơi khác... chép trong sử sách, nào
phải chỉ có một chuyện! Nếu ai nấy thật sự có thể dùng lòng từ thiện cảm
động nhau, quyết chẳng đến nỗi thường có các tai họa: thổ phỉ, đao binh,
giầy xéo, cướp bóc!

* Nên biết rằng: Phật pháp lấy nhân quả báo ứng làm đạo nguyên thủy
trọng yếu để hạ học thượng đạt. Nay kẻ trên không giữ đạo, kẻ dưới chẳng
tuân phép tắc, tàn hại lẫn nhau, lấy giết chóc làm vui, chỉ cốt sao thỏa thích ý
mình, chẳng đoái quốc gia còn mất, dân tình thống khổ. Đấy đều là do chẳng
biết nhân quả báo ứng mà nên nỗi. Tôi thường nói: “Nhân quả là phương
tiện lớn lao để thánh nhân thế gian và xuất thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát
chúng sanh”. Trong lúc này chẳng đề xướng sự lý nhân quả báo ứng, sanh
tử, luân hồi, mà muốn thiên hạ thái bình, nhân dân an lạc, dù Phật, Tổ, thánh
hiền cùng ra đời cũng chẳng biết làm sao được!

* Thế đạo suy sụp, lòng người bạc bẽo là do Nho Gia chẳng biết đạo là ở
chỗ cung kính thực hành, cứ một bề đuổi theo cái ngọn. Phàm đối với những
nghĩa lý như khắc kỷ, giữ lễ, ngăn lòng tà, giữ lòng thành, họ chẳng cần biết
đến, cứ lo thuộc lòng từ chương hòng làm cái vốn để tấn thủ trong đời, khiến
cho cái đạo khen ngợi, giáo hóa, dưỡng dục của thánh nhân trở thành ngón
nghề để thâu đoạt danh lợi. Đấy thật là báng nhục thánh hiền, trái nghịch
thiên địa đến cùng cực!
Do vậy, người đọc sách tâm chẳng hiểu nghĩa sách, thân chẳng hành
theo đạo lý dạy trong sách. Người làm văn cứ phô diễn đạo lý hiếu đễ, trung
tín, lễ nghĩa, liêm sỉ chẳng sót mảy may, nhưng xét đến ý nghĩ, việc làm,
tuyệt chẳng có chút mảy may nào liên quan đến những điều ấy cả. Khác nào
con hát diễn tuồng, khổ, sướng, vui, buồn, cố làm giống như thật, chứ thật sự
ra những tâm trạng ấy chẳng mảy may liên quan gì đến chính mình cả! Thói
tệ ấy đã nẩy, dần dà biến thành quá mức.
Người có thiên tư quen thói cuồng vọng, thẹn phải theo vết Nghiêu,
Thuấn, Châu, Khổng, bèn muốn tiến lên, rốt cuộc phế bỏ kinh điển thánh
hiền, sùng thượng Âu hóa. Một người đề xướng, trăm kẻ hùa theo, trở thành
phong trào đến nỗi những kẻ tiểu nhân hèn kém tầm thường muốn thỏa ý
niệm mặc sức phóng túng không kiêng kỵ của mình bèn vội vã đề xướng dẹp
bỏ cương thường đạo lý gây trở ngại cho họ, muốn gấp rút thực hành chủ
trương tệ hại gây hại lớn lao cho quần chúng, khiến dân không có pháp gì để
an, đến nỗi thiên tai, nhân họa liên tục giáng xuống. Vận nước nguy ngập,
dân không lẽ sống. Ví như đi đêm bỏ đuốc, vượt biển bỏ thuyền, lại mong
chẳng bị té ngã, chìm đắm, há có được chăng?

* Gần đây thế đạo nhân tâm suy sụp, chìm đắm đến cùng cực. Thiên tai,
nhân họa liên tục giáng xuống. Người biết lo cho đời, biết các nghiệp quả ấy
đều do sát hại khởi lên. Nếu đã biết vật còn chẳng nên giết, quyết chẳng lẽ
nào giết người. Do vậy, ai nấy ôm lòng từ thiện, nâng đỡ lẫn nhau, tự thay
đổi được phong tục, chiêu cảm được thiên hòa vậy.

* Phải biết rằng phóng sanh chính là để ngăn ngừa giết chóc. Muốn tránh
giết chóc thì phải bắt đầu bằng ăn chay. Nếu như ai nấy đều kiêng giết, ai
nấy đều ăn chay thì nhà nhà tu tập từ thiện, người người tuân hành đề cao lễ
nghĩa, phong tục thuần mỹ, khí hậu điều hòa, mùa màng sung túc, có đâu
đến nỗi kiếp đao binh khởi, kẻ này người kia tàn hại lẫn nhau! Đấy chính là
nhiệm vụ căn bản trọng yếu, thanh tịnh đúng đắn để vãn hồi thiên tai, nhân
họa. Phàm những ai muốn cửa nhà yên vui, thân tâm khang ninh, thiên hạ
thái bình, nhân dân an lạc, xin hãy cầu nơi việc phóng sanh kiêng giết, ăn
chay, niệm Phật thì cầu gì lại chẳng được!

* Gần đây thiên tai nhân họa liên tiếp xảy ra quá đỗi, số người tử vong
quá nhiều càng thảm. Há nào phải đạo trời bất nhân đâu, thật ra là do ác
nghiệp trong bao kiếp và trong đời này chiêu cảm đó thôi. Tuyệt đối chẳng
có chuyện không nhân lại được quả, cũng tuyệt đối chẳng có chuyện tạo
thiện nghiệp lại bị quả ác! Chỉ vì tri kiến phàm phu chẳng thể biết rõ nhân
duyên túc thế, nên tựa hồ có trường hợp lẽ ra chẳng đáng được nhưng lại
được. Nếu có thể xem trọn nhiều kiếp, nhiều đời, sẽ thấy mỗi một quả báo
thiện hay ác ta phải nhận đều như tiếng vọng đi theo âm thanh, như bóng
theo hình, trọn chẳng sai khác!

* Nay thế đạo nhân tâm suy sụp, khuyết hãm đã đến cực điểm. Nếu
chẳng dùng nhân quả, báo ứng, sanh tử, luân hồi và “hết thảy chúng sanh
đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật” để dạy dỗ, quyết khó lòng đạt được
hiệu quả! Do một niệm tâm tánh của chúng ta bất biến tùy duyên, tùy duyên
bất biến, hễ gặp tịnh duyên bèn chứng Tam Thừa và Phật pháp giới; gặp
duyên mê nhiễm sẽ thành nhân thiên và tứ ác thú pháp giới. Dù mười pháp
giới thăng trầm, khổ vui khác xa nhau như trời với đất, nhưng tâm tánh vốn
sẵn có ấy tại phàm chẳng giảm, tại tánh chẳng tăng.
Nếu hiểu kỹ nghĩa này, dù có táng thân mất mạng, quyết chẳng chịu bỏ
đi tịnh duyên đã ngộ để theo đuổi nhiễm duyên đến nỗi luân hồi mãi mãi,
chẳng thể thoát nổi! Vì thế, biết rằng các pháp: nhân quả, báo ứng, sanh tử,
luân hồi v.v... chính là đại đạo trị cả gốc lẫn ngọn, là nguyên do của cả phàm
lẫn thánh, là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian, xuất thế gian bình
trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh. Trong lúc này, nếu bỏ đi pháp này, dù
Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vũ, Châu, Khổng cùng ra đời, cũng chẳng
làm gì được!

* Ba cõi chẳng yên hệt như nhà lửa, các khổ đầy dẫy thật đáng kinh sợ!
Chúng sanh ngu si dù chịu khổ lớn chẳng cầu xuất ly. Dù sẵn có Phật tánh,
nhưng vì mê muội, trái nghịch, lại khởi Hoặc tạo nghiệp đến nỗi trải kiếp số
như trần sa không cách nào giải thoát. Chẳng đáng buồn ư? Huống nay thế
đạo, lòng người nguy hãm, chìm đắm đến cùng cực, sát kiếp thê thảm từ xưa
chưa từng nghe.
Lại thêm trào lưu tân học bác không nhân quả, chê những lời nghị luận
đạo đức của thánh hiền là hủ bại, vu vơ, mặc tình đề xướng những ý kiến
mình ức đoán. Kẻ quáng dẫn lũ mù, lôi nhau vào lửa, đến nỗi thiên tai, nhân
họa liên tục giáng xuống. Lũ dân ngây ngô thật đáng thương xót. Bởi thế,
những người có tâm lo cho đời bèn mạnh mẽ phát đại chí muốn cứu giúp
dân. Những nghiệp quả ấy đều do chỉ biết tự tư, tự lợi, chẳng biết nhân quả
ba đời, thiện ác báo ứng, tưởng là người chết đi, thần thức liền diệt, chẳng có
linh hồn tùy theo nhân duyên tội phước thọ sanh trong trời người hay đọa
vào tam đồ, ác đạo!
Nếu thiện hay ác cũng đều bị diệt mất như nhau, lẽ nào chẳng tùy ý làm
bất cứ chuyện gì cốt sao thân tâm khoái lạc ư? Do vậy, đối với những việc
nghịch thiên trái lý, tổn người lợi mình, cùng với giết hại sanh mạng cốt sao
thỏa thích miệng bụng, bèn đua nhau tưng bừng làm, chẳng e dè chi!
Nếu như biết đến nhân quả ba đời sẽ liền sợ phải thọ báo, chẳng dám
móng khởi chút ý niệm, huống hồ là thực hành những việc ấy ư? Vì vậy, biết
rằng: sự lý nhân quả ba đời, sanh tử, luân hồi do đức Phật ta giảng chính là
huệ nhật trong đêm dài vô minh. Niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới chính là thuyền từ trong biển khổ sanh tử. Muốn vãn hồi kiếp vận,
bỏ qua pháp này, không còn cách chi!

---o0o---

4. Giảng những điểm trọng yếu về việc giới sát

* Đại đức của trời đất là Sanh, đại đạo của Như Lai là Từ. Người, vật tuy
khác, tâm tánh là đồng. Như Lai xem khắp cả tam thừa lục phàm đều như
con một. Vì sao vậy? Do họ đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật. Tam
thừa hãy để đó. Lục phàm là trời, người, a-tu-la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục.
Tuy có cao thấp khác nhau, khổ vui khác nhau, nhưng đều chưa đoạn được
Hoặc nghiệp, chưa ra khỏi sanh tử. Phước trời nếu hết liền phải đọa xuống.
Tội trong địa ngục nếu tiêu bèn lại sanh lên. Hệt như bánh xe, hết lên cao lại
xuống thấp.
Ta nay may được thân người, lẽ ra phải khéo léo bày cách để cứu giúp,
thương tiếc sanh mạng loài vật, thể hiện đức hiếu sanh của trời đất, thể hiện
lòng nhân trắc ẩn trong tâm ta. Ấy là vì các loài vật và ta cùng sống trong
vòng trời đất, cùng hưởng sự sanh trưởng, dưỡng dục của trời đất. Lại cùng
biết tham sống, cùng biết sợ chết. Người có lòng nhân đối với xương khô
còn nhặt lấy đem chôn, đối với cỏ cây còn để mọc dài chẳng chặt, nào chịu
vì sướng bụng miệng mà khiến cho các loài vật trên cạn, dưới nước phải
chịu nỗi khổ cắt, xẻ, nung nấu ư?
Phải biết rằng các loài vật từ vô thỉ đến nay cũng từng ở địa vị cao sang,
tôn quý, oai quyền hiển hách, chẳng biết mượn oai quyền để ban bố ân đức;
trái lại cậy quyền tạo nghiệp, khiến cho ác nghiệp chất chứa như rừng, đọa
trong dị loại. Miệng chẳng nói được, tâm không suy nghĩ, thân không tài
khéo nên mắc phải nạn này. Tuy thịt mềm bị cưỡng ăn là chuyện đã đành,
nhưng oán hận đã kết, há chẳng đời đời kiếp kiếp lo báo thù cái oán niệm
này chăng?
Ví dù con người chẳng nghĩ đến nỗi khổ của những con vật bị giết, lẽ
nào chẳng sợ oán nghiệp kết sâu, thường bị chúng giết lại hay sao? Lại
chẳng sợ tàn hại loài vật của trời, trời sẽ đoạt mất phước thọ của mình hay
sao? Người nào mong cho quyến thuộc đoàn tụ, thọ mạng dài lâu, thân tâm
yên vui, các duyên như ý, rất nên phát tâm đại bi, thực hành phóng sanh,
khiến cho thiên địa quỷ thần thảy đều thương xót tấm lòng thành thương loài
vật của ta sẽ khiến cho những điều mình mong mỏi được thành tựu.
Nếu cậy mình có tiền tài, mình có trí lực, bày ra đủ cách bắt lấy các con
vật hòng thỏa mãn bụng miệng mình, chẳng kể đến nỗi thống khổ của
chúng, há còn đáng gọi là con người đứng cùng với trời đất thành tam tài
chăng? Nhưng ta với chúng cùng trong sanh tử từ vô thỉ đến nay, cố nhiên
chúng đều là cha, mẹ, anh, em, thê thiếp, con cái của mình, mình cũng là cha
mẹ, anh em, thê thiếp, con cái của chúng. Mỗi con vật ấy trong khi làm
người hoặc lúc trong dị loại, từng bị ta giết; ta cũng trong lúc làm người,
hoặc trong lúc làm dị loại, từng bị chúng giết. Làm kẻ oán, người thân, sanh
ra nhau, giết hại nhau.
Lặng im suy nghĩ, thẹn chẳng muốn sống nữa! Hãy gấp rút sửa đổi, hối
hận, vẫn còn là chậm, huống hồ cứ quen thói cũ, vẫn chấp mê tình, cho rằng
trời sanh ra dị loại vốn là để làm thức ăn cho con người ư? Ta vẫn còn đầy
đủ Hoặc nghiệp nên không cách nào thoát ra ngoài luân hồi được. Vạn nhất,
chúng nó tội đã diệt, lại sanh làm người, thiện căn phát sanh, nghe pháp tu
hành, đoạn Hoặc chứng Chân, đạt thành Phật đạo. Nếu ta đọa lạc, còn mong
chúng sẽ rủ lòng từ cứu viện ngõ hầu lìa khổ được vui, chứng được Phật
tánh. Há nên cậy vào sức mạnh một thời để đạt [cái khổ] bao kiếp dài lâu
không được cứu vớt chăng?

* Phải biết: Người cùng loài vật cùng mang cái thân huyết nhục này,
cùng có tánh linh tri, cùng sanh trong vòng trời đất. Chỉ do đây kia tội phước
bất đồng, đến nỗi đời này hình chất thông linh hay ngu xuẩn sai khác. Cậy ta
mạnh hiếp loài yếu, dùng thịt chúng nó no đẫy bụng mình, khoái lòng thích
chí, cho đó là phước báo. Chẳng biết rằng một khi phước lực đã tận, nghiệp
báo hiện tiền, lúc bị người giết chóc, thân chẳng kháng cự lại được, miệng
chẳng nói nổi, trong lòng buồn sợ, đau đớn, khổ sở, mới biết chuyện ăn thịt
là một tội vạ lớn vậy.
Người ăn thịt đúng là La Sát, dù chẳng giết người để ăn thịt cũng không
được. Vì thế, kinh Lăng Nghiêm nói: “Do người ăn dê, dê chết thành người,
người chết thành dê. Như thế cho đến mười loại sanh vật. Chết chết, sống
sống, ăn nuốt lẫn nhau, ác nghiệp cùng sanh đến cùng tột đời vị lai”.
Lại còn nhiều kiếp đến nay sanh ra lẫn nhau. Đã không có đạo lực để
cứu tế, nỡ nào để chúng nó bị dao xả cực khổ, hòng miệng lưỡi mình hưởng
vị ngon chăng? Trong kinh Nhập Lăng Già, đức Thế Tôn bao lần quở trách
chuyện ăn thịt. Có đoạn chép: “Hết thảy chúng sanh từ vô thỉ đến nay ở
trong sanh tử luân hồi chẳng ngơi. Không ai chẳng từng làm cha mẹ, anh
em, quyến thuộc nam nữ cho đến bằng hữu thân ái, kẻ hầu. Qua đời khác,
phải thọ các thân chim, thú... sao lại dùng chúng nó để ăn?” Phàm những ai
sát sanh ăn thịt, nếu nghĩ đến điều này, ắt sẽ giật mình kinh sợ, tỉnh ngộ, thà
tự giết mình, chẳng thể giết hết thảy loài vật nữa!

* Ta cùng hết thảy chúng sanh đều trong luân hồi; từ vô thỉ đến nay thay
phiên sanh ra nhau, lần lượt giết nhau. Cố nhiên ai nấy đều từng là cha mẹ,
anh em, chị em, con cái của chúng ta, ta cũng từng là cha mẹ, anh em, chị
em, con cái của mỗi kẻ đó. Cố nhiên, bọn họ do sức ác nghiệp trùng trùng ở
trong loài người hoặc trong dị loại bị ta giết hại, ta cũng do sức ác nghiệp
trùng trùng ở trong loài người hoặc trong dị loại bị chúng giết hại. Trải kiếp
dài lâu, sanh ra nhau, giết lẫn nhau, trọn chẳng ngừng nghỉ. Phàm phu chẳng
biết, Như Lai thấy thấu triệt. Chẳng nghĩ thì thôi, hễ nghĩ đến, hổ thẹn, đau
xót khôn ngăn!
Ta nay may nhờ phước thiện đời trước sanh trong loài người, tất nhiên
nên giải trừ oán hận, tháo mối trói buộc, kiêng giết, phóng sanh, khiến cho
hết thảy những loài có sanh mạng ấy đều được yên ổn. Lại còn vì chúng nó
niệm Phật hồi hướng Tịnh Độ khiến chúng được độ thoát. Nếu như chúng nó
nghiệp nặng chẳng được sanh ngay, nương vào công đức từ thiện này, chắc
chắn khi lâm chung sẽ vãng sanh Tây Phương. Đã vãng sanh rồi, liền được
siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, dần
dần chứng được Phật Quả.
Vả nữa, thương yêu loài vật, phóng sanh, cổ thánh tiên hiền đều làm
chuyện ấy. Vì thế, kinh Thư chép chim, thú, cá, ba ba đều cảm mến Văn
Vương. Văn Vương thương xót cả xương khô, huống hồ gì loài vật có tri
giác! Còn như Giản Tử thả chim bồ câu, Tử Sản nuôi cá, Tùy Hầu cứu rắn,
Dương Bảo thả chim sẻ. Đấy là do tấm lòng nhân bình đẳng của Thánh
Hiền, chứ họ nào biết đến nghĩa lý: mỗi loài hàm linh xuẩn động đều có Phật
tánh, lần lượt thăng trầm, làm kẻ oán, người thân lẫn nhau, tương lai quyết
định thành Phật.
Mãi đến khi đại giáo truyền sang Đông, lý nhân quả ba đời, chúng sanh -
Phật - tâm bình đẳng vô nhị mới được sáng rực trong đời. Phàm là bậc đại
thánh, đại hiền, không ai là chẳng kiêng giết, phóng sanh, hòng vãn hồi sát
kiếp, hòng bồi đắp phước quả, dứt đao binh hầu làm nền tảng cho ngày
tháng an vui. Cổ nhân nói: “Dục tri thế thượng đao binh kiếp; tu thính đồ
môn bán dạ thanh”(Muốn biết binh đao trên cõi thế, lò mổ nên nghe tiếng
giữa đêm). Lại nói: “Dục đắc thế gian vô binh kiếp, trừ phi chúng sanh bất
thực nhục”(muốn cho thế giới thái bình, trừ phi nhân loại đồng tình ăn
chay). Do vậy, biết rằng kiêng giết, phóng sanh chính là kế sách tốt lành nhổ
sạch rễ, lấp tận nguồn để cứu đời vậy.
* Nếu nói: “Kẻ quan, quả, cô, độc33 , bần cùng hoạn nạn đâu đâu cũng
có, sao chẳng chu cấp cho họ, cứ khăng khăng lo cho bọn dị loại chẳng quan
hệ chi với mình? Chẳng phải là đảo lộn chuyện hoãn - gấp, nặng - nhẹ ư?”
Đáp rằng: Ông chưa biết nguyên do đức Như Lai dạy người kiêng giết,
phóng sanh. Người và vật tuy khác, Phật tánh vốn đồng. Chúng do ác nghiệp
đắm chìm trong dị loại, ta do thiện nghiệp may được làm thân người; chẳng
tăng thêm lòng lân tuất, lại còn mặc sức ăn nuốt. Một mai phước ta đã hết,
tội chúng nó đã tận, khó tránh bị nắm đầu đền nợ, no thỏa bụng miệng
chúng.
Phải biết rằng: đao binh đại kiếp đều do sát nghiệp đời trước cảm thành.
Nếu không có sát nghiệp, dù thân gặp phải giặc cướp, chúng sẽ khởi tâm
lành, chẳng chém giết mình. Huống hồ là đối với những tai nạn ngang trái:
ôn dịch, nước lửa... người kiêng giết, phóng sanh, tuyệt ít gặp phải. Vì thế,
biết rằng: bảo vệ loài vật vốn là để bảo vệ mình, kiêng giết mới hòng khỏi bị
trời giết, quỷ thần giết, đạo tặc giết, vị lai oan oan tương báo giết.
Đối với kẻ quan, quả, cô độc, bần cùng, hoạn nạn, cũng nên tùy phần tùy
sức chu cấp, chứ nào phải người kiêng giết phóng sanh tuyệt chẳng thực
hiện công đức ấy! Nhưng những kẻ quan, quả... dù thật đáng thương xót, vẫn
chưa đến nỗi lâm vào tử địa. Loài vật nếu chẳng được cứu chuộc ngay, sẽ
lập tức phải lên chảo, thớt để thỏa miệng bụng con người.
Lại còn có kẻ nói: Loài vật vô tận, phóng sanh được mấy? Đáp: Phải biết
rằng, một việc phóng sanh chính là để khiến đồng nhân phát khởi thiện tâm
tối thắng cứu giúp khắp sanh mạng loài vật, mong họ thể nhận được cái ý
gấp thả, trong tâm động lòng xót thương, chẳng nỡ ăn nuốt. Đã chẳng ăn
nuốt sẽ thôi săn bắt. Vậy thì hết thảy loài vật bay trên không, bơi dưới nước
sẽ tự tại bay, chạy, bơi lội trong nơi sanh sống của chúng, tức là chẳng
phóng sanh mà phóng sanh khắp cả, đấy chẳng phải là cả thiên hạ trở thành
một cảnh hay sao?
Dù không phải ai cũng làm được như vậy, nhưng một người chẳng nỡ ăn
thịt đã có vô lượng sanh mạng loài vật trên cạn, dưới nước khỏi bị tàn sát;
huống hồ nào phải chỉ có một người [không nỡ ăn thịt] thôi ư? Lại vì hết
thảy đồng nhân trong hiện tại, vị lai, dứt trừ cái nhân quan - quả - cô - độc,
bần cùng, hoạn nạn, tạo cái duyên trường thọ, không bệnh, phú quý, yên vui,
cha con xum họp, vợ chồng giai lão.
Đấy chính là thực hiện sự chu cấp, giúp đỡ sẵn, để đời đời, kiếp kiếp
trong vị lai vĩnh viễn chẳng có những nỗi khổ quan quả... hưởng thọ dài lâu
những sự vui: trường thọ v.v... há chẳng đáng gọi là khiến cho khắp hết thảy
đều được hưởng phước ư? Há nên thờ ơ bỏ qua? Ông nghĩ kỹ đi: kiêng giết
phóng sanh, rốt ráo chính là khăng khắng vì con người, nào phải cứ cắm đầu
lo cho loài vật, đảo lộn chuyện hoãn - gấp, nặng - nhẹ đâu!
* Một niệm tâm tánh của hết thảy chúng sanh và một niệm tâm tánh của
tam thế chư Phật trọn chẳng phải hai. Nhưng do mê chưa ngộ nên bao kiếp
dài lâu luân hồi trong lục đạo, mãi không ngừng nghỉ. Tuy đường lành trời
người so với tam đồ ác đạo khổ vui khác xa nhau, nhưng đều là thuận theo
nghiệp lực thiện ác cứ luân hồi mãi! Thiện đạo chẳng đáng tin cậy, ác đạo
thật đáng sợ. Há chẳng nên vun bồi nhân lành, cứ tạo càn ác nghiệp, cứ cậy
mình mạnh, hiếp đáp kẻ yếu, bắt lấy hết thảy chúng sanh trên cạn, dưới nước
giết ăn chăng?
Trước kia, khi Phật giáo chưa truyền sang, thánh nhân Nho giáo đều
dùng luân thường thế gian để giảng dạy. Đối với Phật tánh sẵn có của chúng
ta và sự chuyển biến, thăng trầm, luân hồi lục đạo, cũng như chuyện đoạn
Hoặc, chứng Chân, siêu phàm, nhập thánh, dù là Lý hay Sự đều chưa giảng
ra. Vì thế chẳng cấm giết, nhưng cái tâm bất nhẫn đã nêu tỏ lắm rồi trong
các lời dạy để lại cho đời.
Chẳng hạn như, kinh Thư nói chim, thú, cá, ba ba đều quyến luyến, sách
Luận Ngữ nói thả câu nhưng chẳng vãi chài, chẳng bắn ban đêm. Mạnh Tử
thấy sống, không nỡ thấy chết; nghe tiếng chẳng nỡ ăn thịt. Kinh Lễ chép:
Chư hầu chẳng vô cớ mổ trâu; đại phu chẳng vô cớ giết dê, kẻ sĩ chẳng vô
cớ giết chó, lợn; thứ dân chẳng vô cớ ăn món ngon. “Món ngon” chính là
thịt vậy.
Đủ thấy rằng: đối với việc sát sanh, Nho Giáo cũng chẳng phải không
hạn chế vậy, chỉ là quyền biến để dạy dỗ, chứ chưa thể vĩnh viễn cấm hẳn
được. Có duyên cớ mới giết, cố nhiên kẻ giết cũng ít. Vô cớ chẳng ăn thịt thì
trong một năm ăn thịt được mấy ngày? Hậu thế, sự giáo hóa suy đồi, quen
thói tàn nhẫn, bèn coi chuyện ăn thịt như chuyện cơm bữa trong nhà, chỉ cốt
sao khoái khẩu, chẳng biết đến nỗi khổ của loài vật.
Đến khi Phật giáo truyền sang Đông thì chân lý, sự thật thường trụ vĩnh
viễn “hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh” và “mê thì luân hồi sanh tử,
trọn không lúc nào xong”, “ngộ thì triệt chứng Niết Bàn” mới được xiển
minh rốt ráo. Mới biết rằng các dị loại này nọ đều là cha mẹ trong quá khứ,
là chư Phật trong vị lai. Chẳng những chẳng dám giết ăn, lại còn mong cho
chúng nó đều được sống yên ổn. Do vậy, vua thánh, tôi hiền, bậc triết sĩ, bậc
hồng nho, đa phần đều kính tuân lời Phật giáo huấn, tài bồi lòng nhân của
chính mình. Hoặc là ăn chay, bỏ hẳn ăn mặn, hoặc là kiêng giết, phóng sanh.
Những lời lẽ tốt lành, hành vi hay đẹp ấy được chép trong các sử sách cũng
chỉ là để mong người đời sau cùng tu tâm từ, thương xót loài vật, cùng thấy
Phật tánh.
Do ác nghiệp nhân duyên, đọa trong đường súc sanh. Ta nay may được
sanh trong loài người, nếu chẳng tăng thêm lòng lân tuất, cứ mặc tình sát
hại, khó tránh đời sau oan oan tương báo. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Giết
thân mạng chúng, hoặc ăn thịt chúng, trải vi trần kiếp ăn lẫn nhau, giết lẫn
nhau giống như bánh xe lăn, hết lên cao lại xuống thấp, chẳng có lúc ngừng.
Trừ xa-ma-tha và lúc Phật xuất thế, chẳng thể ngưng nghỉ được”.
Nhưng đạo xa-ma-tha thật chẳng dễ đắc, Như Lai xuất thế cũng khó gặp
gỡ, dám đâu chẳng học theo gương tiên hiền, chẳng tuân lời Phật dạy. Suy
cái tâm sợ chết của mình mà cứu vớt loài đợi bị nấu nướng kia để mong tiêu
trừ túc nghiệp, vun bồi căn lành, dứt vĩnh viễn cái nhân sát hại, cùng chứng
quả trường thọ vậy!

* Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều là cha mẹ quá khứ, là chư
Phật vị lai. Lập cách cứu giúp còn e chưa kịp, há nên để thỏa miệng bụng
mình, bèn giết hại thân xác chúng nó ư? Phải biết rằng các loài vật bay trên
không, lặn dưới nước đều có cái tâm linh minh giác tri, nhưng vì túc nghiệp
sâu nặng đến nỗi hình thể khác xa, miệng chẳng nói được. Xem tình cảnh
chúng đi tìm cái ăn, tránh né cái chết, sẽ nhận ra chúng có khác gì con người
đâu!
Chúng ta nhờ sức túc phước, may được làm người, tâm có trí lự, phải
nên luôn nghĩ đến dân chúng và loài vật cùng [sanh từ] một bọc cha trời, mẹ
đất, mới chẳng phụ bạc cái lẽ con người đứng cùng trời đất thành tam tài
vậy! Do cùng được trời đất sanh thành, nuôi nấng, phải mong cho mọi người
cùng loài vật đều được sống yên ổn, cùng được trời che, đất chở, cùng vui
ngày tháng mới phải. Nếu như chẳng hiểu thấu cái đức hiếu sanh của trời
đất, buông lung ý niệm tham ăn tục uống của chính mình, cậy mình khỏe,
hiếp kẻ yếu, ăn thịt nó để no đẫy bụng mình, ắt đến ngày nào đó, túc phước
đã hết, sát nghiệp hiện tiền, muốn chẳng thay đầu, đổi mặt, bị chúng nó ăn,
giết trở lại, há có được chăng?
Vả nữa, ăn thịt có chất độc, do lúc chúng bị giết tâm oán hận kết lại. Bởi
thế, khi ôn dịch lưu hành, người ăn chay rất ít người bị nhiễm phải. Hơn
nữa, thịt là vật uế trược. Ăn vào máu sẽ bẩn, tinh thần tối tăm, thấy mạnh mẽ
ngay đó, nhưng hiệu quả tan đi rất nhanh, rất dễ tạo thành đầu mối cho bệnh
tật. Rau cỏ là vật thanh khiết, ăn vào khí thanh, trí rạng, khỏe mạnh lâu, già
chậm, có nhiều chất bổ. Tuy đây là lời bàn thông thường về phép vệ sinh,
nhưng thật sự là lời luận cùng tột về tánh. Do thói quen kéo dài đến nỗi mê
man chẳng tỉnh.
Phải biết rằng: người nhân ắt thương yêu loài vật. Người giết loài vật
quyết khó thể là người có lòng nhân, do tánh quen khiến thành như thế. Vì
vậy, thánh vương trị thế, chim thú cá, rùa đều sung sướng. Đạo sáng dạy dân
thì gậy nhựa dính, ná bắn đạn đều bỏ sạch. Thử nghĩ: Từ xưa đến nay, phàm
là kẻ tàn nhẫn tham ăn tục uống, phần nhiều dòng dõi bị tuyệt diệt. Người
nhân ái tử tế, con cháu ắt hưng thạnh. Kẻ khởi đầu thói ác, Khổng Tử đoán
nó vô hậu; kẻ mặc sức ăn thịt, Như Lai dự ký ắt phải đền trả. Xin chớ nói
suông xa lánh bếp núc34 , đấy chỉ là cách nói quyền biến thuận theo thế tục,
phải vĩnh viễn dứt hẳn đồ hôi tanh thì mới là xứng lý thật nghĩa.

* Tâm tánh chúng sanh giống hệt như Phật. Do nghiệp thiện - ác, báo
phân ra người, thú. Người có trí huệ, thú không tài khéo. Cậy mạnh hiếp
yếu, giết để ăn thịt. Làm con trong nhà người ta chẳng ngoài [lý do đã] thiếu
nợ nặng. Huống hồ giết thân mạng chúng chỉ cốt sướng miệng, oán hận cố
kết, trải bao kiếp đòi nợ lẫn nhau. Thử nghĩ đến điều ấy, trong tâm đau
thương.

* Nguyên hết thảy chúng sanh trên cạn, dưới nước, không một loài nào
chẳng biết đớn đau, khổ, vui, không một loài nào chẳng biết tham sống sợ
chết, nhưng không con vật nào chẳng phải là cha mẹ, anh em, chị em, vợ
con, bạn bè, thân quyến trong vô lượng kiếp của ta. Lại không có một loài
nào chẳng thể trong đời vị lai, gieo sâu thiện căn, tu trì Tịnh nghiệp, đoạn
Hoặc chứng Chân, viên thành Phật đạo. Chỉ vì túc thế ác nghiệp, phải đọa
trong dị loại.
Vì thế phải nên sanh lòng thương xót sâu xa, hộ trì chúng, khiến mỗi con
vật đều được sống yên vui, há nên cậy mạnh hiếp yếu, hoặc dùng trí đoạt
lấy, hoặc dùng tiền của đoạt lấy, khiến hết thảy bọn chúng bị dồn vào miệng
bụng mình? Tuy chúng nó sức chẳng chống chọi được, tâm đã kết mối hận
dằng dặc; cho nên đời đời, kiếp kiếp xoay vần giết nhau. Sướng miệng bụng
một lúc, giết thân mạng nhiều kiếp. Sánh với chuyện tự giết mình còn khốc
liệt gấp bội! Sao lại khổ sở làm chuyện chuốc lấy ương họa này, há có phải
là ngu mê đến cùng cực chăng?
Xưa nước Lỗ có hai gã dũng sĩ, chỉ nghe tên nhau chứ chưa gặp mặt.
Một bữa gặp nhau, mua rượu cùng uống. Một gã bảo: “Không có thịt chẳng
vui, hãy đi mua thịt!” Gã kia bảo: “Thịt của tôi với anh đây, còn tìm đâu
nữa!” Gã thứ nhất bảo ý kiến ấy rất hay, bèn trễ áo xẻo thịt mình, hai bên
cùng ăn. Kẻ kia lại cắt thịt mình, đưa cho bạn ăn. Dương dương tự đắc, bảo
là tình bạn chúng ta tình ý chân thật tột bậc. Vừa cắt vừa ăn mãi cho đến
chết. Những người trông thấy đều than: “Hai gã ngu!”
Do vì ăn thịt, người đời tạo các sát nghiệp đến nỗi bao kiếp xoay vần
giết hại lẫn nhau. So với hai gã dũng sĩ kia càng khốc liệt hơn! Do không
mắt huệ, chẳng biết hậu báo, lại coi là chuyện đắc ý để khoe khoang, kiêu
hãnh, chê kẻ ăn chay là mê tín cùng là bạc phước. Thế tục tán thành, nào biết
là sai!
Vì thế, trong các kinh Đại Thừa Phạm Võng, Lăng Nghiêm, Lăng Già
v.v... đức Như Lai đã cực lực phơi bày cái họa sát sanh ăn thịt, có thể nói là
lòng chân từ đại bi nhổ rễ lấp nguồn vậy. Gần đây, sát kiếp thảm khốc, thiên
cổ chưa từng nghe, lại còn các tai vạ: nước, lửa, tật dịch, gió lốc, động đất,
hạn hán, lụt lội... thình lình xảy ra. Nói chung đều là do sát nghiệp duyên
khởi đến nỗi thế đạo, nhân tâm càng ngày càng thấp. Do vậy, thiên tai, nhân
họa liên tiếp xảy ra, như đứng trước tấm gương, chẳng thể tránh khỏi bị soi
bóng.

* Thế tục mê hoặc, coi ác là thiện, coi tạo nghiệp là tu phước, [kẻ như
vậy] rất nhiều. Điều mắt nhìn thấy thảm, lòng thấy xót xa nhất không gì
bằng chuyện cúng tế quỷ thần. Phú quý đại gia luôn giết con vật lớn để tế:
một mặt để cầu được nhiều phước, một mặt để phô phang mình giàu có. Còn
những nhà nghèo khó cũng phải giết gà, giết vịt để cầu thần thường bảo hộ,
khiến cho phước thọ tăng thêm, lâu dài hơn, mọi việc đều như ý.
Chẳng biết thiên địa lấy hiếu sanh làm đức, quỷ thần lấy thiên địa làm
chủ tể các sự, há chẳng phải là tâm ấy trái thiên nghịch địa ư? Vì hưởng một
kỳ tế lễ của ta khiến cho vô số sanh mạng cùng chịu nỗi khổ cắt xẻ, ông thần
ấy còn đáng gọi là một vị chánh thần thông minh, chánh trực, thưởng thiện,
phạt ác nữa chăng? Nguyên do là bọn ngu phu tham ăn, chỉ mượn danh quỷ
thần, giết thú lớn, vật nhỏ, cốt sao thỏa thích bụng miệng, quen dần thành
thói, chẳng biết là đã tạo đại ác nghiệp!
Bảo là cúng quỷ thần, thần có ăn đâu? Huống hồ đã gọi là thần, ắt phải
vâng giữ đức thông minh, chánh trực, ắt phải chuẩn theo việc thiện hay ác
mà giáng phước hay gieo vạ. Há phải đâu ai sát sanh cúng bái mình, dù nó
làm ác vẫn cứ giáng phước; kẻ nào chẳng sát sanh cúng tế mình, dù có làm
thiện cũng cứ gieo vạ ư? Nếu vậy, tâm hạnh của ông thần ấy có khác gì tâm
hạnh của bọn tiểu nhân vô lại nơi chợ búa đâu? Làm sao xưng là ông thần
thông minh, chánh trực được nữa? Đã là một vị thần thông minh, chánh trực,
chắc chắn chẳng vì thói yêu tà, quỷ quái này mà chẳng tuân thủ đạo đức,
nhân nghĩa!

* Người đời chỉ biết ăn thịt là ngon, bèn vì ý niệm tham cầu thứ hôi thối,
tanh tưởi ấy, cho rằng thần thánh cũng giống như vậy. Từ đấy kẻ nọ người
kia bắt chước nhau, chẳng biết là trái. Ví như giòi tửa ăn phân, nghĩ thiên
tiên cũng phải tham ưa vị ngon này, bèn thường muốn dâng lên để cầu được
ban thưởng phước khánh!
Những con vật bị giết kia phần nhiều đều là những kẻ trong đời trước sát
sanh cúng tế quỷ thần ngõ hầu chính mình có dịp ăn thịt, nay phải đền trả
quả báo sát sanh khi ấy. Thế nhưng hết thảy kẻ ngu nghe nói đến chuyện sát
sanh tế thần bèn vui mừng, hớn hở, coi đấy là chuyện làm phước, chẳng biết
tương lai sẽ phải biến thành những giống vật ấy. Lúc bị người giết, có miệng
chẳng nói được, không cách nào thoát khỏi.
Huống những ai đã thâm nhập Phật pháp, đã thọ đại giới nhà Phật, là bậc
cao nhân lỗi lạc suốt đời ăn chay, do ham muốn ăn thịt bèn vô cớ bịa
chuyện, giết vô số sanh mạng để cúng tế. Cái tội nghịch trời, trái lý, dối
thánh, khinh hiền ấy khiến cho đời đời kiếp kiếp sẽ mãi mãi làm các loài vật
bị giết chóc ấy, há chẳng đáng buồn bã lắm sao?

* Người đời mắc bệnh cùng bị những tai nạn nguy hiểm, chẳng biết
niệm Phật tu thiện, lại lầm lạc cầu đảo quỷ thần, đến nỗi sát hại sanh mạng.
Nghiệp tăng thêm nghiệp, thật đáng thương xót! Người sống trong đời có
những cảnh duyên gì, đa phần là do túc nghiệp.
Đã mắc bệnh khổ, nên niệm Phật tu thiện, sám hối túc nghiệp, nghiệp
tiêu bệnh sẽ lành. Hạng quỷ thần kia chính họ còn đang trong biển nghiệp,
sao có thể tiêu nghiệp cho người khác được? Dù là vị chánh thần có đại oai
lực đi nữa thì oai lực của vị ấy so với oai lực của Phật, Bồ Tát khác chi lửa
đom đóm sánh với ánh sáng mặt trời! Đệ tử Phật chẳng hướng về Phật, Bồ
Tát cầu đảo, lại hướng về quỷ thần cầu đảo, chính là tà kiến, chính là trái
nghịch lời Phật dạy. Không thể không biết điều này!
Thêm nữa, hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ quá khứ, là chư Phật vị lai,
lẽ ra nên kiêng giết, phóng sanh, yêu tiếc mạng sống loài vật, chớ nên theo
tri kiến thế tục, cho rằng dâng thức ngon lành lên cha mẹ mới là hiếu. Kẻ
chưa nghe Phật pháp chẳng biết sự lý luân hồi lục đạo, lầm tưởng đấy là
hiếu, còn tha thứ được. Chứ nếu là người đã nghe Phật pháp, giết phụ mẫu,
thân thuộc quá khứ để phụng dưỡng cha mẹ hiện tại và dùng trong tang tế
v.v... chẳng những chẳng phải là hiếu đạo, mà còn thành ngỗ nghịch nữa!
Bởi vậy, do nghe nghĩa đế chân thật của Phật pháp những người thông
đạt đều chẳng chịu làm theo những pháp quyền tạm của thế tục. Bởi những
pháp tạm bợ ấy chỉ thuận theo mê tình thế tục mà lập, chẳng phải là đạo thấy
thấu suốt nhân quả ba đời của đức Như Lai vậy!

* Trong các ác nghiệp, chỉ có sát nghiệp là nặng nhất. Khắp dưới gầm
trời, không một ai chẳng tạo sát nghiệp. Dù cả đời chẳng sát sanh, nhưng
hằng ngày ăn thịt tức là hằng ngày sát sanh! Bởi chẳng giết, chắc chắn chẳng
có thịt! Kẻ mổ thịt, kẻ săn bắt, kẻ đánh cá đều là để cung cấp cho nhu cầu
của người ăn thịt, họ giết hại thay cho mình.
Nhưng một ải ăn thịt - ăn chay thật sự là nguyên nhân chẳng nhỏ khiến
chúng ta thăng hay trầm, thiên hạ bình trị hay loạn lạc vậy. Những ai yêu
thân mình và yêu thương khắp cả mọi người trên cõi đời, muốn được trường
thọ, an lạc, chẳng mắc phải tai họa ngoài ý muốn, phải lấy việc kiêng giết,
ăn chay làm diệu pháp bậc nhất để vãn hồi thiên tai, nhân họa.
Một niệm tâm tánh của hết thảy chúng sanh chẳng khác với chư Phật,
cũng chẳng khác với một niệm tâm tánh của chúng ta. Chỉ vì túc thế ác
nghiệp đọa vào dị loại; vì thế, phải sanh lòng thương xót lớn lao, lẽ đâu mặc
sức giết chóc? Người đời vô tri bị tập tục trói chặt, thường coi sát sanh ăn
thịt là vui, chẳng nghĩ đến các con vật bị giết ôm nỗi thống khổ, oán hận như
thế nào!
Cậy mạnh hiếp yếu, coi là chuyện đương nhiên; một khi đao binh khởi
lên, tình cảnh khác gì những con vật bị giết. Đốt cháy nhà cửa ngươi, hãm
hiếp vợ con ngươi, cướp tiền tài của ngươi, giết thân mạng ngươi, ngươi vẫn
chẳng dám dùng lời ác chửi nó vì sức chẳng chống chọi lại được. Loài vật bị
giết cũng vì chẳng có sức chống cự lại được; nếu nó kháng cự được, tất
nhiên nó sẽ cắn xé kẻ toan giết nó đến cùng. Sao không đối với cảnh khổ ấy,
hãy thử nghĩ lại xem!
Loài vật cùng ta đều tham sống sợ chết. Ta đã có trọn vẹn cái thể chất
đội trời đạp đất này, lẽ ra phải nên hỗ trợ đất trời sanh thành, dưỡng dục,
khiến cho các loài chim, thú, cá, rùa kia đều sống yên vui. Nỡ nào giết thân
mạng chúng để vui sướng bụng miệng mình ư? Do sát nghiệp cố kết đến nỗi
phát sanh cái họa đao binh do người gây ra và các thiên tai: nước, lửa, hạn,
lụt, đói kém, tật dịch, gió lốc, địa chấn, biển trào, sông ngập v.v... nối tiếp
nhau giáng xuống.
Giống như biếu quà cuối năm, ta biếu quà đi, người biếu quà lại, quyết
chẳng bao giờ biếu đi chẳng được biếu lại, hoặc chỉ nhận quà chứ không
biếu trả. Nếu có trường hợp như vậy, tất nhiên phải có nhân duyên nào khác
ngăn trở, chứ thật ra đều chẳng ngoài chuyện qua lại, đáp tạ cả. Trời thưởng
phạt cũng giống như thế, huống hồ là chuyện báo đền giữa con người? Vì
thế, kinh Thư viết:“Làm lành giáng xuống trăm điều tốt lành; làm việc
chẳng lành, giáng xuống trăm điều họa ương”. Kinh Dịch chép: “Nhà tích
thiện ắt sự vui có thừa, nhà chứa điều bất thiện, ắt tai ương có thừa”. Đạo
trời ưa xoay vần, không có gì qua mà chẳng lại! Muốn tránh khỏi ác quả,
phải đoạn ác nhân trước đã. Muốn được thiện quả, phải trồng thiện nhân
trước đã! Đấy là lẽ rốt ráo của lý trời, tình người vậy!

---o0o---

Phần 5

VII. PHÂN ĐỊNH GIỚI HẠN GIỮA THIỀN VÀ TỊNH


* Thiền và Tịnh lý vốn không hai. Nếu luận về Sự Tu thì tướng trạng
[của hai pháp này] khác xa nhau. Thiền nếu chẳng triệt ngộ, triệt chứng sẽ
chẳng thể siêu xuất sanh tử. Vì thế, tổ Quy Sơn nói: “Do chánh nhân đốn
ngộ sẽ dần dần thoát trần. Nếu đời đời bất thoái sẽ quyết định có lúc thành
Phật”. Ngài còn nói: “Sơ tâm do duyên đốn ngộ tự tánh, nhưng vẫn chưa
thể diệt sạch ngay tức khắc tập khí trong bao kiếp từ vô thỉ. Vì thế phải dạy
họ trừ sạch nghiệp thức hiện đang lưu chuyển”.
Ngài Hoằng Biện nói: “Đốn ngộ tự tánh thì [sở ngộ] giống hệt chư
Phật, nhưng chưa thể trừ sạch ngay được vô thỉ tập khí, nên phải tốn công
đối trị mới hòng thuận tánh khởi dụng. Như người ăn cơm, chẳng thể ăn một
miếng liền no ngay được!” Ngài Trường Sa Sầm nói: “Thiện tri thức trong
thiên hạ chưa chứng được quả Niết Bàn là vì công đức chẳng bằng chư
thánh vậy!”Vì thế, Ngũ Tổ Giới sanh làm Tô Đông Pha, Thảo Đường Thanh
thân sau làm Lỗ Công. Cổ kim tông sư triệt ngộ nhưng chưa triệt chứng
phần nhiều đều như vậy. Ấy là do chỉ cậy vào tự lực, chẳng cầu Phật gia bị,
hễ Hoặc nghiệp còn mảy may chưa tận sẽ nhất định chẳng thể thoát khỏi
sanh tử được!
Về phần Tịnh Độ, hễ đầy đủ ba thứ Tín - Hạnh - Nguyện liền có thể đới
nghiệp vãng sanh. Một khi đã vãng sanh sẽ vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử. Bậc
ngộ chứng sẽ mau đạt tới bậc Bổ Xứ, người chưa ngộ cũng sẽ chứng địa vị
A Bệ Bạt Trí. Bởi thế, Hoa Tạng hải chúng đều nguyện vãng sanh; những
bậc tri thức trong Tông, trong Giáo cùng sanh Tịnh Độ. Rõ ràng là do cậy
vào Phật lực kiêm thêm cái tâm khẩn thiết nên được cảm ứng đạo giao; do
vậy, chóng thành Chánh Giác.
Xét tình thế hiện tại, đừng quan tâm tới các Thiền lục nữa, cứ chuyên tu
Tịnh nghiệp, dùng cái tâm chẳng nhiễm mảy trần để chuyên trì thánh hiệu
vạn đức hồng danh. Niệm ra tiếng hoặc niệm thầm, chẳng tạp, chẳng gián
đoạn sao cho niệm khởi từ tâm, tiếng thấu vào tai, từng chữ phân minh, từng
câu chẳng loạn. Lâu ngày chầy tháng, tự thành một phiến, tự chứng Niệm
Phật tam muội, tự biết Tây phương tông phong. Đấy là dùng công phu “phản
văn tự tánh” (xoay trở lại nghe nơi tự tánh) của Quán Âm để tu tịnh nghiệp
“nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” của Thế Chí, tuy là Tịnh nhưng
chính là Thiền, còn gì hay khéo hơn!

* Người tu Thiền Định (chỉ tứ thiền, bát định) và người tham Thiền chỉ
cậy vào tự lực, chẳng cầu Phật gia bị. Vì thế lúc công phu đắc lực, chân
vọng chống cự nhau, thường có các thứ cảnh giới huyễn hoặc xuất hiện,
huyễn hoặc biến mất! Ví như lúc trời mưa dầm sắp tạnh, mây dầy bị xé toạc,
chợt thấy ánh mặt trời chỉ trong khoảng khắc, biến hóa bất trắc. Nếu chẳng
phải là người thật sự có đạo nhãn sẽ chẳng thể phân biệt biết rõ tất cả những
cảnh giới ấy. Nếu tưởng lầm đó chính là dấu hiệu [chứng tỏ mình chứng
đắc] sẽ bị ma dựa phát cuồng, không sao chữa được!
Người niệm Phật dùng lòng tín nguyện chân thành, thiết tha, trì vạn đức
hồng danh ví như mặt trời rực rỡ giữa hư không, đi trên đường lớn của vua,
chẳng những quỷ mị vọng lượng biến mất tăm tích, ngay cả những ý niệm
ngoắt ngoéo, sai trái cũng chẳng sanh từ đâu được. Suy đến cùng cực, chẳng
qua là: Niệm đến mức công thuần, lực tận thì toàn tâm là Phật, toàn Phật là
tâm, tâm - Phật bất nhị, tâm - Phật như một mà thôi! Chỉ sợ con người chẳng
biết đến hạnh ấy, lý ấy, nên chẳng thể xứng hợp ý nguyện phổ độ chúng
sanh của Phật; chứ phải đâu là bí mật chẳng truyền, chỉ truyền riêng cho
mình ông ư? Nếu có những “diệu quyết” khẩu truyền kín đáo thì đấy chính
là tà ma ngoại đạo, chứ nào phải là Phật pháp!

* Hòa Thượng Pháp Tràng sẵn đủ linh căn từ trước, thoạt đầu là bậc
chân nho, sau thành bậc chân tăng; có thể nói là chẳng uổng công đọc sách
học đạo vậy! Đời có bậc chân nho thì mới có bậc chân tăng. Những hạng vô
lại xuất gia thảy đều là ma vương ngoại đạo phá hoại Phật pháp vậy! Ngữ
lục của Ngài (Pháp Tràng) thật là thống khoái, thẳng chóng, mở toang tự tâm
con người, rất nên khắc in lưu thông để làm pháp bảo nhà Thiền. Thế nhưng,
Ngài chỉ phát huy đạo lý “chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”; chúng
ta chuyên tu Tịnh nghiệp, đừng nên so đo, đoán mò lời Ngài đến nỗi đánh
mất lợi ích cả hai bên vậy. Chẳng thể chẳng biết điều này.
Tông gia (Thiền tông) chỉ đề xướng bổn phận, những thứ khác đều
chẳng thèm xiển dương. Việc tu nhân đạt quả, đoạn Hoặc chứng chân của
nhà Thiền đều là ngầm tự tu trì. Những kẻ đứng ngoài thấy nhà Thiền chẳng
đề xướng những đạo lý tu chứng ấy, bèn cho rằng Tông gia hoàn toàn chẳng
dùng đến những pháp đó. Đấy là báng Tông, lẫn báng Phật, báng Pháp vậy!

* Nên biết rằng: trong hết thảy pháp môn đức Phật đã nói, đều phải đoạn
Hoặc chứng Chân thì mới có thể liễu sanh thoát tử, tuyệt đối chẳng có
chuyện chưa đoạn sạch Hoặc mà liễu thoát được! Với pháp môn Niệm Phật,
nếu người vãng sanh đã đoạn Hoặc nghiệp thì sẽ mau chứng Pháp Thân,
người tuy còn đủ Hoặc nghiệp mà vãng sanh thì cũng đã vượt lên địa vị
thánh nhân. Một đằng hoàn toàn cậy vào tự lực, một đằng hoàn toàn nhờ vào
Phật lực kiêm thêm tự lực.
Điều thứ hai, [sự tu trì] khó dễ thật là một trời một vực. Thường có kẻ
thông minh, đọc sách Thiền qua quít, hiểu chút vị Thiền, bèn toan lấy Thiền
làm mạng, học đòi làm bậc cao nhân thông suốt, nhưng toàn là hạng chẳng
biết Thiền lẫn Tịnh đến nơi đến chốn, cứ lầm tưởng mình là hạng tôn quý,
đại căn. Tuyệt đối chớ nên bắt chước theo thứ tri kiến như thế. Bắt chước
theo đó, chỉ e trải kiếp số như vi trần vẫn chẳng mong gì được liễu sanh
thoát tử cả!

* “Quyền” nghĩa là Như Lai tùy thuận theo căn cơ của chúng sanh mà
đặt bày phương tiện. “Thật” nghĩa là nói đến những nghĩa lý do chính tự tâm
đức Phật chứng được. “Đốn” là chẳng cần đến thứ tự, nhanh thẳng, mau lẹ,
nhất siêu trực nhập. “Tiệm” nghĩa là tấn tu dần dần theo thứ tự, chứng nhập
dần dần, phải trải nhiều kiếp, nhiều đời mới đích thân chứng được Thật
Tướng.
Người tham Thiền cho rằng pháp Tham Thiền là pháp “chỉ thẳng tâm
người, thấy tánh thành Phật”. Cố nhiên, pháp này thật sự là pháp Ðốn,
nhưng họ chẳng biết rằng: Tham Thiền dù đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh thì cũng mới chỉ thấy được đức Phật lý tánh sẵn có ở ngay trong tâm
này! Nếu là căn tánh đại Bồ Tát thì vừa ngộ liền chứng, tự có thể mãi mãi
thoát khỏi luân hồi, vượt xa tam giới. Từ đấy, dùng thượng cầu hạ hóa làm
nền tảng để trang nghiêm phước và trí.
Xét ra, trong trăm ngàn người đại triệt đại ngộ chỉ được một hai vị thuộc
vào căn tánh này. Còn như những kẻ căn khí hơi kém hơn, dù có thể diệu
ngộ nhưng chưa thể đoạn trừ Kiến Tư Hoặc thì vẫn phải thuộc trong tam
giới, thọ sanh thọ tử. Đã phải thọ sanh tử thì từ ngộ thành mê là nhiều, từ
ngộ trở thành ngộ lại ít. Như vậy, tuy pháp này thực sự là viên đốn, nhưng
nếu chẳng phải đúng người thì cũng chẳng thật sự được lợi ích thật nhanh
chóng, nên nó cũng trở thành pháp Quyền Tiệm mà thôi. Vì sao vậy? Do cậy
vào Tự Lực; nếu Tự Lực mười phần đầy đủ thì họa may sẽ được như thế;
còn như chỉ hơi thiếu chút phần, sẽ chỉ ngộ được lý tánh nơi cửa miệng,
chẳng thể đích thân chứng được lý tánh. Hiện thời, bậc đại triệt đại ngộ còn
khó có được mấy người, huống là người chứng được điều mình đã ngộ!
Một pháp Niệm Phật thông trên suốt dưới, vừa là Quyền vừa là Thật,
vừa Tiệm vừa Đốn, chẳng thể dùng giáo lý tầm thường phán định được.
Trên đến bậc Đẳng Giác Bồ Tát, dưới đến chủng tánh A Tỳ đều cùng nên tu
tập (do đấy nói là “thông trên suốt dưới”). Như Lai vì chúng sanh thuyết
pháp chỉ nhằm làm cho chúng sanh liễu sanh thoát tử. Trong các pháp môn
khác, bậc thượng căn có thể liễu sanh thoát tử ngay trong đời này, còn hạ
căn bao kiếp khó lòng liễu được! Chỉ mỗi mình pháp này, chẳng cần biết là
chủng tánh, căn cơ nào, cũng đều có thể vãng sanh Tây Phương ngay trong
đời này, hễ vãng sanh liền liễu sanh thoát tử. Pháp thẳng chóng như thế há
có thể gọi là Tiệm ư?
Chỉ do căn cơ [được hóa độ bởi pháp này] chẳng giống với căn cơ của
các pháp viên đốn thông thường nên pháp này tựa hồ là Tiệm, nhưng oai lực
của pháp môn này phát xuất từ thệ nguyện muốn cho những căn cơ hạ liệt ấy
đều mau chóng hưởng được lợi ích lớn của đức Như Lai. Lợi ích ấy nằm ở
chỗ cậy vào Phật từ lực. Phàm những người giảng Thiền nếu chưa nghiên
cứu kỹ Tịnh tông, chưa có ai không coi pháp này là thiển cận rồi khinh
thường. Nếu nghiên cứu kỹ Tịnh tông ắt sẽ cạn kiệt lòng thành, tận hết sức
lực hoằng dương, há nào chấp mãi vào những lý luận Quyền - Thật, Tiệm -
Đốn để tự mình lầm, làm người khác lầm nữa ư?

* Nói đến Thủ - Xả (lấy - bỏ) là ước trên Thật Nghĩa rốt ráo mà
nạn (“nạn” tức là cật vấn, bắt bẻ), chẳng biết rằng: không Thủ không Xả rốt
ráo chỉ là chuyện sau khi đã thành Phật! Nếu chưa thành Phật, còn đang
trong giai đoạn “đoạn Hoặc chứng Chân” thì đều thuộc về Thủ - Xả cả! Đã
chấp nhận chuyện thủ - xả “đoạn Hoặc chứng Chân”, sao lại chẳng chấp
nhận chuyện thủ - xả “bỏ Đông lấy Tây, lìa cấu giữ tịnh”?
Đối với pháp Tham Thiền thì thủ - xả đều là sai, nhưng đối với một pháp
Niệm Phật, thủ - xả lại là đúng. Một đằng chuyên suy xét tự tâm, một đằng
kiêm nhờ vào Phật lực. Kẻ kia chẳng xét đến duyên do của từng của pháp
môn, lầm đem pháp Tham Thiền phá pháp Niệm Phật; vậy là hiểu lầm ý mất
rồi!
Vô thủ - xả vốn là đề hồ, nhưng niệm Phật mà cũng muốn không thủ - xả
thì không thủ - xả bèn thành thuốc độc! Mùa Hạ dùng Cát Căn35 , mùa Đông
khoác áo Cừu, khát uống, đói ăn, chẳng sai trái gì, cũng chẳng thể cố chấp
được! Chỉ cốt sao chọn lấy điều thích nghi thì được lợi ích chẳng bị trở ngại
gì!

* Coi “bỏ Đông lấy Tây” là sanh diệt tức là chẳng biết rằng “chấp Đông
phế Tây” chính là đoạn diệt! Chưa chứng Diệu Giác, có ai là không lấy - bỏ?
Tam kỳ36 luyện hạnh, trăm kiếp tu nhân, thượng cầu, hạ hóa, đoạn Hoặc
chứng Chân, không sự nào chẳng phải là lấy - bỏ đó sao? Phải biết rằng: đức
Như Lai muốn cho hết thảy chúng sanh mau chứng Pháp Thân và Tịch
Quang cho nên Ngài mới đặc biệt khuyên trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây
Phương.

* Một chuyện Tham Thiền nói dễ dàng sao! Cổ nhân như ngài Triệu
Châu Thẩm thiền sư, xuất gia từ nhỏ, đến hơn tám mươi tuổi vẫn hành cước,
nên mới có bài tụng rằng:
Triệu Châu bát thập do hành cước,
Chỉ vị tâm đầu vị tiễu nhiên.
(Triệu Châu tám chục còn hành cước,
Do bởi cõi lòng chửa lặng không!)
Ngài Trường Khánh ngồi rách bảy cái bồ đoàn rồi mới khai ngộ. Ngài
Dũng Tuyền phải nhọc nhằn hết bốn mươi năm. Ngài Tuyết Phong ba lượt
lên gặp ngài Đầu Tử, chín lần lên Động Sơn. Họ là bậc đại Tổ Sư đại triệt,
đại ngộ mà còn phải gian nan đến thế. Lũ ma con kia mới nghe qua ma
thuyết đều được khai ngộ ngay, vậy thì những vị Tổ Sư vừa nói trên đây có
xách giày cho chúng cũng không đáng sao?

* Những lời “chẳng chấp trước”... về Lý thì đúng, nhưng về Sự thì chẳng
phải là điều hạng phàm phu sát đất có thể làm nổi! Suốt ngày mặc áo, ăn
cơm, rồi vênh váo mình bất chấp đói lạnh, bảo kẻ suốt ngày bụng rỗng
tuếch, chẳng được chén nước, hạt cơm, đói lả gần chết rằng: “Tôi coi gan
rồng tủy phượng hệt như uế vật, nghĩ đến là muốn ói, huống hồ là nuốt
xuống!” Toàn là nói suông như nhau thôi!
Nay kẻ tham Thiền nếu chẳng hiểu giáo lý thì cái Không giải thoát đó
phần nhiều trở thành bệnh cho họ. Còn như không cảnh hiện tiền khi tịnh
tọa, lắng ý, thì bất quá là do [ý niệm] lặng trong, chế ngự được vọng nên
ngẫu nhiên huyễn cảnh phát hiện đó thôi! Nếu tưởng lầm đấy chính là dấu
hiệu chứng tỏ mình chứng đắc, bèn sanh lòng mừng rỡ lớn lao thì sẽ mất trí
thành cuồng, Phật cũng khó cứu được!
Nếu may mắn suy xét kỹ, chẳng chấp trước, buông bỏ huyễn vọng, chợt
quán thông các pháp môn thì đấy mới là: đi trong chốn gai góc đã lâu, chợt
đến chỗ khoảng khoát. Người đời mạt căn cơ hèn kém, tri thức hiếm hoi, nếu
chẳng nhờ vào Phật từ lực chuyên tu Tịnh nghiệp, chỉ cậy vào tự lực tham
cứu Thiền tông thì minh tâm kiến tánh, đoạn Hoặc chứng chân thành công
hiếm có mấy ai, còn hạng tưởng huyễn là chân, lấy mê làm ngộ, ma dựa phát
cuồng thật nhiều lắm! Vì thế, các vị Vĩnh Minh, Liên Trì v.v... quán sát căn
cơ đương thời, cực lực chủ trương pháp môn Tịnh Độ.

* Thiền tức là Chân Như Phật Tánh trong bổn tâm chúng ta, Tông môn
gọi là “bổn lai diện mục trước lúc cha mẹ sanh ra”. Tông môn chẳng nói
toạc ra, cốt sao người tham cứu tự hiểu lấy, nên mới nói như vậy. Chứ thật
ra nó là cái tâm thể thuần chân, không Năng, không Sở, vừa Tịch vừa Chiếu,
ly niệm linh tri (“ly niệm linh tri” là không có ý niệm suy nghĩ gì, nhưng
mọi cảnh hiện hữu đều hiểu rõ cả).
Tịnh Độ là Tín Nguyện Trì Danh cầu sanh Tây Phương, chứ chẳng

phải chỉ riêng “duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà!” “Có Thiền” là cực lực

tham cứu đến mức niệm lặng, tình mất, thấy thấu tột “bổn lai diện mục
trước khi cha mẹ sanh ra”, minh tâm kiến tánh. “Có Tịnh Độ” là chân

thật phát Bồ Đề tâm, sanh tín, phát nguyện, trì danh hiệu Phật cầu sanh

Tây Phương. [Nói] Thiền và Tịnh Độ chỉ là ước về Giáo, ước theo Lý

[mà nói].

“Có Thiền, có Tịnh Độ” là ước về căn cơ, ước theo mặt tu hành. Giáo Lý
luôn luôn như thế, Phật chẳng thể tăng, phàm chẳng thể giảm. Ước theo căn
cơ để tu hành thì phải y giáo khởi tu, tu hành đến cùng cực để chứng lý, chứ
thật sự chẳng có gì khác cả!
Thứ hai là văn tuy tương tự, nhưng thật ra khác biệt rất lớn. Hãy nên
hiểu kỹ càng, đừng bộp chộp. Nếu tham thiền chưa ngộ, hoặc ngộ chưa triệt
để, đều chẳng thể gọi là “có Thiền”. Nếu niệm Phật nhưng thiên chấp duy
tâm, lại không tín nguyện, hoặc có tín nguyện nhưng chẳng chân thật, thiết
tha, mà chỉ hời hợt, hờ hững, thực hành qua quít, hoặc hạnh tuy tinh tấn
nhưng tâm luyến cảnh ma, hoặc cầu đời sau sanh vào nhà phú quý hưởng thú
vui ngũ dục, hoặc cầu sanh lên trời hưởng phước lạc trời, hoặc cầu đời sau
xuất gia làm tăng nghe một hiểu được cả ngàn, đắc đại tổng trì, hoằng dương
đạo pháp phổ lợi chúng sanh, đều chẳng được gọi là “có Tịnh Độ”!

* “Có Thiền, có Tịnh Độ; khác nào cọp mọc sừng, hiện đời làm thầy
người, đời sau làm Phật, Tổ” là người triệt ngộ Thiền Tông, minh tâm kiến
tánh, lại còn thâm nhập Kinh tạng, biết hết các pháp môn Quyền, Thật của
Như Lai, nhưng trong các pháp môn lại chỉ chọn lấy một pháp Tín Nguyện
Niệm Phật để tự lợi, lợi người làm chánh hạnh tu tập. Bậc thượng phẩm
thượng sanh đọc tụng kinh Đại Thừa, hiểu Đệ Nhất Nghĩa đã nói trong Quán
kinh chính là hạng người này.
Người ấy có đại trí huệ, có đại biện tài, ma tà ngoại đạo nghe tên vỡ mật,
như hổ đội sừng oai mãnh khôn sánh! Có ai đến cầu học bèn tùy cơ thuyết
pháp: nên dùng Thiền Tịnh song tu để tiếp độ bèn dùng Thiền Tịnh song tu
để tiếp độ; nên dùng chuyên tu Tịnh Độ để tiếp độ bèn dùng chuyên tu Tịnh
Độ để tiếp độ. Bất luận là thượng, trung, hạ căn, không ai chẳng được lợi
ích; há chẳng phải là đạo sư của trời người ư?
Đến lúc lâm chung được Phật tiếp dẫn, vãng sanh thượng phẩm, trong
khoảng khảy ngón tay chứng Vô Sanh Nhẫn, tệ nhất cũng chứng được Sơ
Trụ. Cũng có người đốn siêu các địa vị, đạt đến Đẳng Giác. Bậc Sơ Trụ
trong Viên Giáo còn có thể hiện thân làm Phật trong trăm cõi, huống là
những địa vị sau đó, càng cao càng thù thắng, cho đến địa vị thứ bốn mươi
mốt là Đẳng Giác! Vì thế nói là: “Đời sau làm Phật, Tổ!”

* “Không Thiền, có Tịnh Độ; vạn người tu vạn về; nếu được thấy Di Đà,
lo gì chẳng khai ngộ” là có người tuy chưa minh tâm kiến tánh, nhưng quyết
chí cầu sanh Tây Phương. Do trong kiếp xưa, Phật từng phát đại thệ nguyện
nhiếp thọ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu chúng sanh thật sự có thể như
con nhớ mẹ, chí thành niệm Phật sẽ cảm ứng đạo giao, liền được nhiếp thọ.
Người tận lực tu Định Huệ cố nhiên được vãng sanh, nhưng kẻ ngũ nghịch
thập ác, lâm chung bị sự khổ bức bách, phát lòng hổ thẹn lớn lao, xưng niệm
danh hiệu Phật hoặc tới mười tiếng, hoặc chỉ một tiếng rồi liền lâm chung,
cũng đều được Phật hóa thân tiếp dẫn vãng sanh. Chẳng phải là “vạn người
tu, vạn người về” hay sao?
Kẻ ấy tuy niệm Phật chẳng bao nhiêu, nhưng do cực kỳ mãnh liệt nên
đạt được lợi ích lớn lao như thế, chớ nên so sánh nhiều ít với những kẻ niệm
Phật hời hợt, qua loa! Đã sanh về Tây Phương, thấy Phật nghe pháp, dù có
nhanh chậm bất đồng, nhưng đều đã cao dự dòng thánh, vĩnh viễn chẳng
thoái chuyển, tùy theo căn tánh cạn hay sâu, là Tiệm hay Đốn mà chứng các
quả vị. Đã được chứng quả, cần chi phải nói đến khai ngộ nữa! Vì thế
nói: “Nếu được thấy Di Đà, lo gì chẳng khai ngộ!”

* “Có Thiền không Tịnh Độ, mười người chín chần chừ, ấm cảnh nếu
hiện tiền, chớp mắt đi theo nó”: Người tuy triệt ngộ Thiền tông, minh tâm
kiến tánh, nhưng Kiến Tư phiền hoặc chẳng dễ đoạn trừ, phải qua nhiều
duyên rèn luyện để trừ sạch không còn sót gì mới có thể thoát khỏi phần
đoạn sanh tử. Với kẻ chẳng đoạn được chút gì thì chẳng cần bàn đến nữa!
Dù cho đoạn đến mức còn một mảy phiền não chưa trừ sạch thì vẫn hệt như
cũ: khó tránh nổi luân hồi lục đạo! Biển sanh tử sâu thăm thẳm, nẻo Bồ Đề
xa vời vợi, còn chưa về được nhà đã mạng chung. Trong mười người đại
triệt đại ngộ, chín người đã như thế; cho nên nói “mười người chín chần
chừ” (thập nhân cửu ta lộ).
Ta là “ta đà”, thông thường nói là “đảm các” (chần chừ). “Ấm cảnh” là
“trung ấm thân cảnh”, tức là các cảnh hiện ra bởi các nghiệp lực thiện ác
trong đời này và bao kiếp. Khi cảnh này hiện, trong khoảng chớp mắt sẽ theo
nghiệp lực thiện hay ác nào mạnh mẽ nhất đi thọ sanh trong đường thiện hay
ác, chẳng mảy may tự chủ được; như người mắc nợ, chủ nợ nào mạnh sẽ lôi
đi. Tâm tình lắm mối, đặt nặng nơi nào sẽ nghiêng về đó. Ngũ Tổ Giới tái
sanh làm Tô Đông Pha, Thảo Đường Thanh lại sanh làm Lỗ Công, họ còn là
căn cơ bậc thượng đấy nhé! Vì thế nói: “Ấm cảnh nếu hiện tiền, chớp mắt đi
theo nó!”
Chữ Ấm có nghĩa là ngăn che, ý nói: do nghiệp lực này ngăn che

khiến chân tánh chẳng thể hiển hiện được. Có kẻ cho rằng “ta đà” nghĩa

là lầm lạc, “ấm cảnh” là cảnh [hiển hiện bởi] ngũ ấm ma, toàn là do

chẳng hiểu chữ Thiền và chữ Có nên mới nói hồ đồ như thế. Lẽ nào bậc

đại triệt đại ngộ mười người hết chín kẻ lạc lối, chạy theo cảnh ngũ ấm

ma bị ma dựa phát cuồng ư? Phàm những kẻ bị ma dựa phát cuồng toàn

là hạng tăng thượng mạn chẳng biết giáo lý, chẳng rõ tự tâm, tu mù luyện

quáng đó thôi, sao lại gán cho bậc đại triệt đại ngộ là chẳng biết tốt xấu

vậy? Điều này quan hệ rất lớn, chẳng thể không biện định rõ!

* “Không Thiền, không Tịnh Độ; giường sắt và cột đồng, vạn kiếp cùng
ngàn đời, không một ai nương dựa”. Có kẻ cho rằng câu “không Thiền,
không Tịnh Độ” chỉ kẻ vùi đầu tạo nghiệp, chẳng tu thiện pháp, thật lầm lẫn
quá!
Pháp môn vô lượng, nhưng chỉ có Thiền và Tịnh Độ phù hợp với các

căn cơ nhất. Kẻ nào chưa triệt ngộ, lại chẳng cầu vãng sanh, hời hợt, qua

quít tu các thiện pháp khác. Đã chẳng thể cân bằng Định Huệ, đoạn Hoặc

chứng Chân, lại chẳng cậy vào Phật lực để đới nghiệp vãng sanh; do đã

tạo ác nghiệp, khó trốn khỏi ác báo. Một khi hơi thở ra chẳng trở vào,

liền đọa địa ngục, rõ ràng là trải kiếp dài lâu nằm ngồi, ôm ấp giường sắt,

trụ đồng để đền trả các thứ ác nghiệp: tham lam thanh sắc, sát sanh hại

mạng v.v... Chư Phật, Bồ Tát tuy rủ lòng thương xót, nhưng họ bị ác

nghiệp chướng ngăn che nên chẳng thể được lợi ích.
Người xưa nói: “Người tu hành nếu không chánh tín, cầu vãng sanh Tây
Phương, tu lung tung các điều thiện khác thì gọi là oan gia đời thứ
ba” chính là nói đến tình cảnh này. Bởi lẽ, do đời này tu hành, đời sau
hưởng phước. Cậy phước làm ác ắt bị đọa lạc. Tạm vui trong đời này, khổ
mãi trong cả kiếp dài lâu. Ví như nghiệp địa ngục tiêu hết, lại chuyển sanh
làm súc sanh, muốn lại được thân người, khó vô cùng khó!
Vì thế, đức Phật dùng tay nhón lấy chút đất, hỏi A Nan: “Đất trong tay ta
nhiều hay đất trong đại địa nhiều?” A Nan bạch Phật: “Đất trong đại địa
nhiều!” Phật dạy: “Được thân người như đất trong tay ta, mất thân người
như đất trong đại địa”. Nói “muôn kiếp và ngàn đời, không một ai nương
dựa” là do bị ràng buộc bởi vần điệu của bài kệ nên chỉ nói thiển cận như
thế.
Hết thảy pháp môn chuyên cậy vào tự lực, pháp môn Tịnh Độ chuyên
cậy vào Phật lực. Hết thảy các pháp môn phải hết sạch Hoặc nghiệp mới có
thể liễu sanh tử. Pháp môn Tịnh Độ đới nghiệp vãng sanh liền dự vào dòng
Thánh. Đại sư Vĩnh Minh sợ thế gian chẳng biết nên soạn riêng bài Liệu
Giản này để chỉ dạy cho đời sau, có thể nói là “chiếc bè báu nơi bến mê, là
người dẫn lối nơi đường hiểm!” Tiếc là mọi người trong thế gian đọc lướt
qua, chẳng chịu nghiên cứu đến cùng tột, chẳng phải là đồng phận ác nghiệp
xui khiến đến nỗi thành như thế chăng?

* Đạt Ma từ Tây qua, truyền Phật tâm ấn, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh
thành Phật. Nhưng cái để thấy, để thành ấy chính là thiên chân Phật tánh có
sẵn ngay nơi tâm chúng ta, [Ngài dạy như thế] để con người trước hết biết
được cái gốc rồi tự dựa vào đó mà tấn tu hết thảy các pháp tu chứng cho đến
khi nào tu được cái không thể tu, chứng được cái không thể chứng mới thôi!
Chứ chẳng có nghĩa là vừa ngộ liền đầy đủ cả phước lẫn huệ, viên mãn rốt
ráo Phật đạo Bồ Đề! Giống như vẽ rồng điểm nhãn để [người nghe] tự mình
được thọ dụng.
Do vậy, Thiền tông phát triển rực rỡ, chói ngời nơi Chấn Đán (Trung
Hoa), đạo “tâm này chính là Phật”, pháp “phi tâm phi Phật” lan khắp hoàn
vũ. Người thiên cơ sâu đối với mỗi cơ, mỗi cảnh liền biết đầu mối, liền phun
châu nhả ngọc, chẳng vướng lối sáo mòn, vào sống ra chết trọn chẳng ngăn
ngại, sợ hãi, được đại giải thoát, đắc đại tự tại. Nếu căn cơ hơi kém hơn, dù
đại triệt, đại ngộ, nhưng phiền não tập khí chưa thể trừ sạch thì vẫn là người
trong sanh tử y như cũ. Xuất thai cách ấm37 đa phần bị mê. Bậc đại ngộ còn
như thế, huống kẻ chưa ngộ ư? Vì thế phải chuyên tâm dốc chí vào pháp
môn Tịnh Độ cậy vào Phật từ lực mới là kế sách ngàn phần ổn thỏa, vạn
phần thích đáng vậy!
* Trong Luật, Giáo, Thiền Tông, trước hết phải hiểu sâu giáo lý rồi mới
y giáo tu hành. Tu hành công sâu, đoạn Hoặc chứng Chân mới thoát khỏi
sanh tử. Nếu chẳng hiểu giáo lý, bèn là tu mù luyện quáng. Nếu không, được
chút ít đã cho là đủ bèn bị ma dựa phát cuồng. Dù cho hiểu giáo lý, công tu
hành sâu xa, vẫn phải đoạn Hoặc, nếu còn chút mảy may nào chưa đoạn sạch
sẽ vẫn y như cũ, chẳng thể thoát khỏi cảnh khổ được! Mãi đến khi Hoặc
nghiệp hết sạch mới có thể thoát ly sanh tử, nhưng vẫn còn cách địa vị Phật
rất xa, phải trải bao kiếp tấn tu mới viên mãn được Phật quả.
Ví như dân hèn sanh ra đã thông minh, đọc sách, học văn nhiều năm khó
nhọc, học vấn đã thành, thi đậu làm quan. Do có tài năng lớn, từ chức quan
nhỏ được thăng cấp dần đến khi làm Tể Tướng, quan vị cực phẩm nhưng
không thể nào lên cao hơn được nữa! Địa vị bậc nhất trong đám quần thần,
nhưng so với thái tử, sang hèn khác nhau một trời, một vực, huống hồ so với
hoàng đế? Suốt đời làm bầy tôi, tuân hành lệnh vua, cúc cung tận tụy giúp
vua cai trị quốc gia. Nhưng cái địa vị tể tướng ấy thật chẳng dễ dàng gì! Cả
nửa đời siêng năng, vất vả, ra sức nhẫn nại. Cho đến cuối cùng cũng chẳng
hơn được thế. Còn kẻ học vấn, tài năng sút kém đôi chút chẳng đạt được như
thế thì có đến trăm, ngàn, vạn, ức người! Đấy là tự lực.
Học vấn tài năng ví như hiểu sâu giáo lý, y giáo tu hành. Địa vị đến bậc
tể tướng ví như công tu hành sâu, đoạn Hoặc chứng Chân. “Chỉ có thể xưng
là Thần (bầy tôi), chẳng dám xưng là vua” ví như tuy ra khỏi sanh tử, vẫn
chưa thành Phật. “Những kẻ học vấn chẳng đủ, chẳng thể đạt được như thế
rất nhiều” ví như rất nhiều kẻ chưa đoạn hết Hoặc, chẳng thể thoát khỏi biển
khổ sanh tử.

* Trong pháp môn Niệm Phật dù chẳng hiểu giáo lý, chưa đoạn Hoặc
nghiệp, chỉ cần tín nguyện trì danh cầu sanh Tịnh Độ, lúc lâm chung, quyết
định được Phật đích thân tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Đã sanh về Tây
Phương, gặp Phật nghe pháp, ngộ Vô Sanh Nhẫn, liền ngay trong một đời
ấy, quyết định bổ vào địa vị Phật. Đấy là Phật lực lại kiêm tự lực, nghĩa là:
tín nguyện trì danh là tự lực, tự lực ấy có thể cảm được đức Phật. Do thệ
nguyện nhiếp thọ, Phật rủ lòng từ tiếp dẫn, đấy là Phật lực có thể ứng đến ta.
Do cảm ứng đạo giao bèn được như thế.
Nếu như hiểu sâu giáo lý, đoạn Hoặc chứng Chân thì phẩm vị vãng sanh
càng cao, viên thành Phật đạo càng nhanh. Bởi thế, Văn Thù, Phổ Hiền, Hoa
Nghiêm hải chúng, Mã Minh, Long Thọ, tổ sư các tông đều nguyện vãng
sanh. Ví như thác sanh vào hoàng cung, vừa ra khỏi thai mẹ đã quý hiển át
cả quần thần. Đấy là do thế lực của vua. Chờ đến khi khôn lớn, học vấn tài
năng mỗi mỗi đều đầy đủ cả sẽ có thể tiếp nối ngôi báu, bình trị thiên hạ.
Hết thảy quần thần phải nghe theo chiếu dụ. Đấy chính là vương lực, tự lực
cùng có.
Pháp môn Niệm Phật cũng giống như thế: chưa đoạn Hoặc nghiệp,
nương Phật từ lực vãng sanh Tây Phương liền thoát sanh tử, giống như thái
tử mới sanh đã quý hiển át cả quần thần. Khi đã vãng sanh, Hoặc nghiệp tự
đoạn, quyết định bổ vào địa vị Phật, giống như thái tử khôn lớn kế thừa ngôi
báu, bình trị thiên hạ.
Thêm nữa, bậc đã đoạn Hoặc nghiệp như Mã Minh, Long Thọ, tổ sư các
tông, bậc đã chứng địa vị Bổ Xứ như Văn Thù, Phổ Hiền, Hoa Nghiêm hải
chúng đều nguyện vãng sanh, giống như trước kia trấn giữ chốn biên thùy
hẻo lánh, chẳng thể nối ngôi, nay sống trong Đông Cung, chẳng bao lâu sẽ
lên ngôi báu.

* Tâm tánh chúng ta hệt như chư Phật, chỉ vì mê trái nên luân hồi chẳng
ngơi. Như Lai xót thương tùy cơ thuyết pháp khiến cho hết thảy hàm thức
đều biết đường về nhà. Pháp môn tuy nhiều, trọng yếu chỉ có hai môn Thiền
và Tịnh là dễ liễu thoát nhất. Thiền chỉ có tự lực, Tịnh kiêm Phật lực.
So sánh hai môn, Tịnh khế cơ nhất, như người vượt biển phải nhờ sức
thuyền mới mau đến được bến, thân tâm thản nhiên. Chúng sanh đời mạt chỉ
có thể hành nổi pháp này. Nếu không là trái với căn cơ, nhọc nhằn nhưng
khó thành. Phát đại Bồ Đề, sanh tín nguyện chân thành, thiết tha, suốt đời
kiên trì, chỉ niệm đức Phật. Niệm đến cùng cực, tình kiến mất sạch chính là
niệm nhưng vô niệm, diệu nghĩa Thiền - Giáo triệt để hiển hiện; đến khi lâm
chung được Phật tiếp dẫn lên ngay thượng phẩm, chứng Vô Sanh Nhẫn. Có
một bí quyết, tha thiết bảo ban: “Dốc lòng thành, tận lòng kính” mầu nhiệm,
huyền diệu làm sao!

---o0o---

VIII. GIẢI QUYẾT NHỮNG ĐIỀU NGHI HOẶC THƯỜNG GẶP

1. Luận về sự - lý

* Lý thế gian hay xuất thế gian chẳng ra khỏi hai chữ “tâm tánh”. Sự thế
gian và xuất thế gian chẳng ra khỏi hai chữ “nhân quả”. Chúng sanh trầm
luân cửu giới, Như Lai chứng Nhất Thừa, nhưng tâm tánh chẳng tăng hay
giảm mảy may nào! Sở dĩ thăng - trầm khác xa nhau, khổ vui cách biệt vời
vợi là do tu đức nơi nhân địa chẳng giống hệt nhau nên thọ dụng quả địa
khác biệt.
Xiển dương Phật pháp thật chẳng phải là chuyện dễ! Chỉ luận về lý tánh
thì trung căn, hạ căn chẳng hưởng lợi ích; chuyên nói nhân quả thì người căn
cơ bậc thượng thường hay chán nghe. Nhưng nhân quả và tâm tánh nếu tách
rời ra, cả hai đều tổn; hợp lại, cả hai cùng tốt đẹp. Vì thế, ngài Mộng Đông
nói: “Người khéo luận tâm tánh ắt chẳng bỏ lìa nhân quả. Người tin sâu
nhân quả ắt rốt cuộc hiểu rõ ràng tâm tánh”. Lý này lẽ tất nhiên là như thế.
Nhưng chúng sanh thời Mạt Pháp căn cơ hèn kém, các pháp Thiền -
Giáo chỉ cậy vào tự lực, khế ngộ còn khó, huống hồ liễu thoát! Chỉ có pháp
môn Tịnh Độ cậy vào Phật lực, chỉ cần đầy đủ lòng tin chân thành, nguyện
thiết tha, dù là ngũ nghịch thập ác cũng có thể vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi,
cao dự hải hội. Đối với pháp tối thượng thừa chẳng thể nghĩ bàn này, hãy
nên giảng về cả Lý lẫn Sự, thành thật khuyên [ai nấy] hãy nên thí [pháp này]
đều khắp.

* Nên biết rằng pháp môn Tịnh Độ có đủ cả tất cả sự tướng của bốn
pháp giới, đều là pháp giới sự sự vô ngại. Đọc đến rồi tu, chớ nên chấp Lý
bỏ Sự. Nếu chấp vào một bên, cả Lý lẫn Sự cùng mất. Như người biết ý căn
nhạy bén nhất bèn bỏ cả ngũ căn thì ý căn cũng chẳng thể do đâu tồn tại
được. Chỉ nên dùng Sự để hiển Lý, dùng Lý dung hội Sự mới chẳng sai lầm.
Vì vậy, mới nói yếu chỉ của Tịnh Độ là “toàn Sự tức Lý”. Lý - Sự viên dung
bèn khế hợp bổn thể. Tôi biết sư đã ăn no cơm vua từ lâu38 , nhưng vẫn cứ
miệt mài hiến lời hèn mọn, chẳng qua để giãi bày tấc lòng thành của đứa con
túng quẫn mong được trở về nhà, cũng như mong rửa sạch cái tội báng pháp
trước đây đó thôi!39

* Người thông minh đời nay tuy học Phật pháp, nhưng chưa thân cận
khắp các thiện tri thức, đa phần chuyên trọng lý tánh, bài bác, vứt bỏ nhân
quả và những chuyện tu hành về mặt Sự. Đã bác Sự Tu, nhân quả thì lý tánh
cũng mất. Bởi thế, thường có hạng tài cao, ngôn từ kinh động cả quỷ thần,
nhưng xét đến hành vi lại chẳng khác gì bọn vô tri vô thức đầu đường xó
chợ. Gốc bệnh đều là do bác Sự Tu và nhân quả gây ra cả, khiến cho bậc
thượng trí uổng công nảy lòng thương xót, kẻ hạ ngu bắt chước làm càn
theo. Ấy là dùng thân mình báng pháp, tội lỗi vô lượng.

* Biết chẳng khó, làm được mới khó. Đời có hạng người rỗng tuếch,
nghe được lý “tâm, Phật, chúng sanh cả ba không sai biệt”, hoặc do duyệt
kinh sách bên Giáo, tham thiền, ngộ được lý này, liền cho rằng mình giống
như Phật, cần gì phải tu phải chứng, bèn phóng túng tâm ý, đối với hết thảy
cảnh duyên lầm lạc bảo: “Sáu trần chính là Giác, tham - sân - si chính là
Giới - Định - Huệ, cần gì phải chế tâm nhiếp thân, không dây mà tự trói
mình?” Thứ kiến giải này hèn kém nhất; nghĩa là chấp Lý phế Sự, bác không
nhân quả có khác gì dùng bánh vẽ để khỏi đói, cất nhà trên không, tự mình
lầm, khiến người lầm, há chẳng phải là tội lỗi cực điểm hay sao? Dùng thiện
nhân chuốc lấy quả ác, tam thế chư Phật gọi kẻ ấy là kẻ đáng thương xót
vậy!

* Người đời nay phần nhiều ưa bàn xuông, chẳng chuộng thực sự tu tập.
Khuyên tu Tịnh nghiệp, hiển nhiên là nên tu cả Sự lẫn Lý, nhưng phải đặt
nặng việc tu về mặt Sự làm phương cách tu trì. Vì sao vậy? Do đối với
người hiểu rõ Lý thì toàn Sự tức Lý, suốt ngày Sự Trì chính là suốt ngày Lý
Trì. Nếu chưa thể hiểu thật rõ về Sự và Lý, vừa nghe nói đến Lý Trì liền biết
nghĩa ấy thâm diệu, rất hợp với cái tính lười nhác, biếng trễ, sợ phải trì niệm
nhọc nhằn của mình, bèn chấp Lý phế Sự. Sự đã phế thì Lý cũng chỉ thành
bàn xuông mà thôi!

* Sự Trì là tin có đức A Di Đà Phật ở Tây phương, chưa thấu hiểu “tâm
này làm Phật, tâm này là Phật”, nhưng cứ quyết chí nguyện cầu vãng sanh
như con nhớ mẹ, chẳng lúc nào tạm quên. Đấy là chưa đạt lý tánh nhưng cứ
y theo Sự mà tu trì.
Lý Trì là tin đức A Di Đà Phật ở Tây phương tâm ta sẵn có, do tâm ta

tạo. “Tâm sẵn có” nghĩa là tâm vốn có đủ lý này. “Tâm tạo” là nương

theo cái lý sẵn có ấy để khởi tu thì lý ấy mới có thể hiển hiện được; vì thế

gọi là “tạo”. “Tâm sẵn có” chính là lý thể, “tâm tạo” là sự tu. “Tâm sẵn

có” chính là “tâm này là Phật”. “Tâm tạo” chính là “tâm này làm Phật”.

“Tâm này làm Phật” chính là xứng tánh khởi tu. “Tâm này là Phật”
chính là toàn tu tại tánh. Tu đức hữu công tánh đức mới hiển, dù ngộ Lý
nhưng vẫn chẳng phế Sự thì mới là “chân tu”. Nếu không sẽ đọa vào tri kiến
cuồng vọng chấp Lý phế Sự. Bởi thế, phần dưới mới viết: “Liền dùng hồng
danh tự tâm sẵn có, hồng danh do tâm tạo thành để làm cảnh buộc tâm
chẳng để tạm quên”.
Thứ giải pháp này ngàn đời chưa từng có, thật là khế lý khế cơ, lý sự
viên dung, chẳng phải bậc Pháp Thân Đại Sĩ dễ gì đạt tới được! Sự Trì dù
chưa ngộ Lý, há nào phải ra ngoài Lý đâu, bất quá là hành nhân chưa thể
viên ngộ tự tâm! Đã ngộ thì Sự chính là Lý, nào có phải cái lý được ngộ nằm
ngoài Sự đâu! Lý chẳng lìa Sự, Sự chẳng lìa Lý, Lý - Sự không hai; như thân
và tâm con người đồng thời vận dụng cả hai, trọn chẳng hề có chuyện thân
và tâm tranh nhau hơn kém! Người thấu đạt dù có muốn chẳng dung hợp
cũng chẳng thể được. Tri kiến cuồng vọng, chấp Lý phế Sự thì chẳng thể
dung hợp.

* Tâm này trọn khắp, thường hằng như hư không. Chúng ta do mê


nhiễm nên khởi các chấp trước, ví như hư không do bị các vật ngăn chướng
nên chẳng thể trọn khắp, chẳng thường hằng. Nhưng chẳng trọn khắp, chẳng
thường hằng chỉ là vọng kiến chấp trước, chứ nào phải hư không thật sự bị
các vật ngăn chướng nên chẳng trọn khắp, chẳng thường hằng ư? Vì thế, cái
tâm phàm phu cùng với cái tâm bất sanh bất diệt mà đức Như Lai đã chứng
trọn chẳng khác gì.
Điều khác biệt là do phàm phu mê nhiễm nên mới đến nỗi như thế, chứ
chẳng phải là tâm thể vốn có cải biến! Di Đà Tịnh Độ hoàn toàn nằm trong
một niệm tâm tánh của chúng ta, tâm ta vốn sẵn có Phật A Di Đà. Tâm ta
sẵn có nên đương nhiên phải thường niệm. Đã thường niệm ắt sẽ cảm ứng
đạo giao, tu đức có công tánh đức mới hiển, Sự - Lý viên dung, chúng sanh
và Phật chẳng khác! Vì thế nói: “Dùng tâm sẵn có Phật của mình để niệm
đức Phật sẵn có trong tâm ta, lẽ nào đức Phật sẵn có trong tâm ta chẳng
ứng với cái tâm sẵn có Phật ư?”

* Những điều Tông môn dạy chuyên chỉ về lý tánh, chẳng luận về Sự
Tu. Vì sao vậy? Muốn cho con người trước hết biết đến cái lý “nhân quả, tu
chứng, phàm thánh, chúng sanh - Phật chẳng phân biệt”, để rồi y theo cái lý
ấy mà bắt đầu tu nhân chứng quả, siêu phàm nhập thánh, đấy chính là sự
“chúng sanh thành tựu Phật đạo” vậy!

* Luận rạch ròi thì Phật pháp chẳng ngoài Chân Đế và Tục Đế. Trong
Chân Đế, một pháp chẳng lập, như thường nói: “Thật Tế lý địa chẳng dính
mảy trần”. Trong Tục Đế, không pháp nào chẳng đủ, như thường
nói: “Trong cửa Phật sự, chẳng bỏ một pháp”. Trong Giáo, xiển dương cả
Tục lẫn Chân, nhưng đa phần nói về Tục Đế. Bên Tông thì chính ngay nơi
Tục nói về Chân, nhưng quét sạch tướng Tục.
Phải biết rằng: Chân và Tục đồng thể, hoàn toàn chẳng phải là hai vật.
Ví như tấm gương báu tròn lớn, rỗng sáng chiếu soi cùng tột, trọn chẳng có
một vật. Tuy trọn chẳng có một vật, nhưng nếu người Hồ đến, gương hiện
bóng người Hồ, người Hán đến, hiện bóng người Hán, sâm la vạn tượng
cùng đến đều cùng hiện. Dù bao tướng cùng hiện, vẫn trọn chẳng có một vật.
Tuy trọn chẳng có một vật, chẳng trở ngại các tướng cùng hiện. Nơi “các
tướng cùng hiện” đó, nhà Thiền chuyên nói “trọn chẳng có một vật”. Nơi
“trọn chẳng có một vật” ấy, Giáo dạy rõ “các tướng cùng hiện”. Như vậy,
nơi Sự Tu nhà Thiền hiển rõ lý tánh, chẳng bỏ Sự Tu. Nơi lý tánh, Giáo
giảng Sự Tu quy về lý tánh. Đấy gọi là “xứng tánh khởi tu, toàn tu tại tánh,
bất biến tùy duyên, tùy duyên bất biến, Sự - Lý cùng đạt, Tông - Giáo bất
nhị” vậy!

* Cái gọi là Niệm Phật Tam Muội nói tưởng dễ dàng, nhưng chứng đạt
thật khó. Hãy nên nhiếp tâm niệm thiết tha, lâu ngày sẽ tự đạt. Dù chẳng thể
tự đạt, nhưng do công đức tin chân thành, nguyện thiết tha, nhiếp tâm tịnh
niệm ắt sẽ ngầm được Phật tiếp dẫn, đới nghiệp vãng sanh. Sự Nhất Tâm
theo cách phán định của đại sư Ngẫu Ích người tu hành đời nay còn chưa
thực hiện nổi, huống chi Lý Nhất Tâm? Phải đoạn được Kiến Tư Hoặc mới
gọi là Sự Nhất Tâm. Phá vô minh, chứng pháp tánh gọi là Lý Nhất Tâm.
Nếu là bậc “trong ngầm hạnh Bồ Tát, ngoài hiện làm phàm phu” thì đối
với hai loại Nhất Tâm này chẳng khó khăn gì. Nếu thật sự là phàm phu đầy
dẫy triền phược thì Sự Nhất Tâm còn chưa dễ được, huống hồ là Lý Nhất
Tâm ư? Hãy xem kỹ lá thư trao đổi rất dài giữa Quang tôi và vị cư sĩ nọ ở
Vĩnh Gia ắt sẽ biết rõ. Đến chừng nào ngộ Vô Sanh rồi, gìn giữ chắc chắn,
tiêu sạch các tập khí dư thừa, sẽ tự hiểu rõ điều ấy, cần gì phải hỏi trước?
Như người uống nước, nóng lạnh tự biết. Nếu không dù người uống có nói
đích xác mười phần, người chưa uống rốt cuộc vẫn chẳng biết được mùi vị
ra sao!
Có lẽ cư sĩ thấy ngộ được Vô Sanh Nhẫn là chuyện dễ dàng, e tự mình
ngộ rồi nhưng chưa biết cách gìn giữ chắc chắn [cái ngộ ấy] ắt sẽ bị các tập
khí thừa sót khiến cho sở ngộ lại bị mất đi nên mới hỏi như vậy chăng? Chân
Vô Sanh Nhẫn thật chẳng phải là chuyện nhỏ đâu, đấy chính là “phá vô
minh - chứng pháp tánh”; tối thiểu phải là bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo, bậc
Sơ Địa trong Biệt Giáo [mới chứng được], nói sao dễ dàng thế?
Mong ông hãy hành theo những điều Quang đã nói trong Văn Sao, ắt sẽ
hiểu duyên do của pháp môn Tịnh Độ, ắt tín - nguyện - hạnh sẽ chẳng bị
những dị thuyết của hết thảy thiện tri thức đoạt mất. Sau đấy, nếu còn sức thì
chẳng ngại nghiên cứu thêm các kinh luận Đại Thừa để mở mang trí thức,
hòng làm căn cứ hoằng truyền Tịnh Độ. Như vậy, dù là phàm phu vẫn có thể
tùy cơ lợi sanh, hành Bồ Tát đạo, đừng lầm mong cao xa, chỉ e Sự - Lý
chẳng rành, khó tránh khỏi bị ma dựa. Lá thư dài gởi vị cư sĩ nọ ở Vĩnh Gia
chuyên trị chứng bịnh này. Bịnh cư sĩ ấy với bịnh của ông tên gọi khác nhau,
nhưng tánh chất giống hệt, nên Quang chẳng muốn nói nhiều.
Chỉ mong ông nhờ lá thư ấy mà lãnh hội. Phải biết người sau khi đã ngộ
dù tu trì giống hệt như người chưa ngộ, nhưng tâm niệm khác biệt. Người
chưa ngộ Vô Sanh, cảnh chưa xảy đến đã mong sẵn, cảnh hiện tiền bèn nắm
níu, cảnh đã qua rồi vẫn nghĩ nhớ. Người ngộ Vô Sanh thì cảnh tuy sanh
diệt, tâm chẳng sanh diệt, hệt như gương sáng, đến không dính, đi không
tăm tích. Tâm ứng theo cảnh như gương hiện bóng, trọn chẳng có mảy may
ý niệm nào chấp trước, quyến luyến. Dù đối cảnh vô tâm, vẫn sóng trào biển
hạnh, mây bủa cửa từ. Đối với luân lý, cương thường thế gian và việc
thượng hoằng hạ hóa đều mỗi mỗi nhận hiểu đúng, thật sự thực hành, dù
táng thân mất mạng chẳng chịu vượt phạm.
Đừng tưởng là đối cảnh vô tâm rồi phế hết các sự tu trì tự lợi lợi tha,
thượng hoằng hạ hóa. Nếu hiểu như vậy sẽ vướng sâu vào Không Ma, đọa
vào Ngoan Không. Do đấy, bác không nhân quả, buông lung làm càn trở
thành đem phàm lạm thánh, hoại loạn Phật pháp, lầm lạc chúng sanh, tạo
thành chủng tử A Tỳ địa ngục. Điều này quan hệ hết sức sâu xa, bất đắc dĩ
Quang tôi phải vì ông trình bày sơ lược lợi hại.

* Nếu ước trên Thật Tế lý thể để luận thì phàm - thánh, chúng sanh -
Phật, nhân - quả, tu - chứng đều chẳng thể được. Nếu luận trên phương diện
pháp môn tu trì thì trên từ Như Lai đã thành Phật đạo, dưới đến chúng sanh
trong A Tỳ đều chẳng ra ngoài nhân quả. Hiểu rõ lý tánh nhưng chẳng phế
Sự Tu bèn là Chánh Tri, chấp lý tánh phế Sự Tu bèn thành tà kiến. Sai chỉ
hào ly, lập thành địa ngục và Phật quả khác biệt.

---o0o---

2. Luận về tâm tánh

* Tâm vừa Tịch, vừa Chiếu, bất sanh bất diệt, rộng lớn, thấu triệt, linh
thông, viên dung hoạt bát, là gốc của hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian. Từ hạng phàm phu đầy dẫy triền phược, hôn mê, điên đảo lầm lạc cho
đến tam thế chư Phật, tâm ấy vẫn hệt như nhau, trọn không có gì khác. Vì
thế nói: “Tâm, Phật, chúng sanh cả ba không sai biệt”.
Chỉ vì chư Phật chứng đắc rốt ráo nên công đức, lực dụng phô bày triệt
để; phàm phu toàn thể mê trái, lại còn áp dụng sức công đức lực dụng ấy vào
sáu trần cảnh, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm, do Hoặc tạo nghiệp,
do nghiệp cảm khổ. Ba thứ Hoặc - nghiệp - khổ phát khởi lẫn nhau, nhân
nhân quả quả liên tiếp chẳng dứt, trải trần sa kiếp chịu mãi luân hồi, dù
muốn xuất ly cũng chẳng có cách nào! Ví như trong nhà tối mò phải của
báu, chẳng những không thọ dụng được, lại còn bị của báu ấy làm tổn
thương. Tâm mê chạy theo cảnh, quay lưng với Giác, xuôi theo trần lao cũng
giống như thế.
Như Lai thương xót, dạy cho họ bỏ vọng về với chân, khôi phục tâm
tánh mình. Thoạt đầu dạy “hết vọng là chân”, kế đó dạy “toàn thể vọng
chính là chân”, như gió lặng sóng yên, nắng ấm băng tan; sóng, băng trở
thành nước. Sóng, băng cùng với nước nào phải là hai vật; nhưng lúc sóng
chưa yên, băng chưa tan, so với lúc sóng đã lặng, băng đã tan, dù thể tánh
trọn chẳng phải hai, tướng và dụng khác xa vời vợi. Bởi thế mới nói: “Tu
đức hữu công, tánh đức mới hiển”. Nếu chỉ cậy vào tánh đức, chẳng chú
trọng tu đức thì đến tận đời vị lai cứ mãi mãi là chúng sanh, luống uổng Phật
tánh sẵn có, không chỗ dựa nương! Vì thế, Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Lúc
Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa Bát Nhã Ba La Mật, soi thấy năm uẩn
đều không, vượt hết thảy khổ ách”.
Toàn thể Ngũ Uẩn là Chân Như diệu tâm, nhưng do một bề mê muội,
trái nghịch bèn thành tướng huyễn vọng. Vọng tướng đã thành, bèn lầm mất
Nhất Tâm. Đã mê muội nơi Nhất Tâm, các khổ đều nhóm lại. Như gió thổi,
toàn thể nước trở thành sóng; trời lạnh, nước mềm thành cứng. Dùng Bát
Nhã thậm thâm để chiếu soi liền hiểu rõ: mê chân thành vọng, toàn vọng
chính là chân; như gió lặng, trời ấm, nước lại trở về bản thể.
Vì thế biết rằng: Hết thảy các pháp đều do vọng tình biến hiện, nếu lìa
vọng tình thì bản thể của các pháp ấy hoàn toàn là Không. Bởi vậy, tứ đại
đều mất bản tánh, lục căn dùng lẫn cho nhau. Thế nên, Bồ Tát chẳng khởi
Diệt Định, hiện các oai nghi, dùng nhãn căn làm Phật sự của nhĩ căn, dùng
nhĩ căn làm Phật sự của nhãn căn, vào trong đất như vào nước, đi trong nước
như đi trên đất, nước lửa chẳng thể đốt cháy hay nhận chìm được, tùy ý đi,
ngồi trên hư không, cảnh không tự tánh, đều theo tâm chuyển.
Bởi vậy, kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu có kẻ nào nhận chân, quy nguyên
thì mười phương hư không thảy đều tan mất”. Đấy chính là hiệu quả thật sự
của việc “soi thấy năm uẩn đều không” vậy. “Quy” nghĩa là quay về, trở về,
tức là phản chiếu hồi quang, khôi phục tâm tánh vốn có. Nhưng muốn phản
chiếu hồi quang khôi phục tâm tánh, nếu trước hết tâm chẳng quy hướng
Tam Bảo sẽ chẳng thể y giáo phụng hành. Tâm đã quy hướng Tam Bảo sẽ tự
có thể khôi phục nguồn tâm, triệt chứng Phật tánh. Đã khôi phục được
nguồn tâm vốn sẵn có, triệt chứng Phật tánh, mới biết tự tâm quý báu nhất,
trong mê chẳng giảm, lúc ngộ chẳng tăng. Chỉ vì thuận theo pháp tánh nên
thọ dụng được, trái lại sẽ bị tổn thương. Thế nhưng, tổn hại hay lợi ích cách
biệt nhau một trời, một vực!

* Chúng sanh là Phật chưa ngộ, Phật là chúng sanh đã ngộ. Tâm tánh
bổn thể của chúng sanh và Phật bình đẳng, giống hệt như nhau, không hai,
không khác; nhưng khổ - vui, thọ dụng khác biệt nhau như trời với đất là do
xứng tánh thuận tu hay trái tánh nghịch tu mà thành ra như thế. Lý này rất
sâu, chẳng dễ tuyên nói. Để khỏi phí lời [giãi bày], xin mượn ví dụ để minh
thị:
Chư Phật tu đức đến cùng cực, chứng ngộ triệt để tánh đức, giống như
tấm gương báu tròn lớn. Thể chất của gương là đồng40 . Biết gương có tánh
chất tỏa sáng nên hằng ngày lau, mài, ra sức chẳng ngơi. Bụi hết, gương tỏa
sáng, dựng trên đài cao, vật nào soi đến liền hiện bóng. Lớn như trời đất,
nhỏ như hạt bụi, mảy lông, sâm la vạn tượng đều hiện rành rành. Ngay trong
lúc muôn vàn hình tượng cùng hiện ấy, gương vẫn rỗng rang, trống trải, trọn
chẳng có một vật nào.
Tâm chư Phật cũng giống như vậy: đoạn sạch phiền não, Hoặc nghiệp,
hiển hiện trọn vẹn trí huệ, đức tướng, an trụ trong Tịch Quang đến cùng tận
đời vị lai thường hưởng pháp lạc, độ chín giới xuất ly sanh tử, cùng chứng
Niết Bàn. Chúng sanh hoàn toàn mê nơi tánh đức, trọn chẳng tu đức mảy
may, ví như gương báu bụi phủ, chẳng có mảy may quang minh nào, ngay
cả chất đồng cũng bị teng đóng nên quang minh chẳng hiện được. Tâm
chúng sanh cũng giống như thế.
Nếu như biết tấm gương bị bỏ phế chẳng hiện chất đồng này vốn có
quang minh soi trời chiếu đất, do đấy chẳng chịu bỏ phế, ngày ngày lau chùi,
mài bóng, lúc đầu hơi lộ chất đồng, dần dà tỏa ánh quang minh, vẫn cực lực
mài cho sạch, một ngày kia, teng lẫn bụi hết sạch, tự nhiên hình tượng nào
soi vào liền hiện bóng, soi trời chiếu đất. Quang minh ấy gương vốn tự có,
chẳng phải từ bên ngoài vào, chẳng phải do mài mà có; nhưng nếu chẳng
mài cũng không cách nào có được!
Chúng sanh bỏ trần xuôi theo tánh giác, bỏ vọng theo chân cũng giống
như thế. Phiền hoặc đoạn dần dần, trí huệ sẽ tăng dần dần. Đến khi công
hạnh viên mãn, đoạn được cái không thể đoạn, chứng được cái không thể
chứng, viên mãn Bồ Đề, trở về cái chẳng thể đạt được, thần thông, trí huệ,
công đức, tướng hảo trọn chẳng khác gì với mười phương ba đời chư Phật.
Dù là như vậy, cũng chỉ là khôi phục cái mình sẵn có, phải đâu là mới có.
Nếu chỉ chấp nhận tánh đức, chẳng khởi tu đức, ắt đến tận đời vị lai thường
phải chịu cái khổ luân hồi sanh tử, vĩnh viễn chẳng có ngày khôi phục cái
gốc, trở về cội nguồn được!

* Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng tâm hạnh thọ dụng của
Phật và chúng sanh tuyệt đối chẳng tương đồng. Vì sao vậy? Vì Phật bỏ trần
theo giác, chúng sanh lại bỏ giác theo trần; Phật tánh dẫu đồng, mê - ngộ rất
khác! Vì thế, sướng - vui, thăng - trầm khác nhau một trời, một vực! Nếu
quan sát kỹ nghĩa lý ba nhân Phật tánh, ắt không mối nghi nào là chẳng phá
được, không ai là chẳng muốn tu tập! Ba nhân là chánh nhân, liễu nhân và
duyên nhân.
Chánh nhân Phật tánh chính là diệu tánh vốn sẵn có trong tâm ta, là Pháp
Thân chân thường chư Phật đã chứng. Diệu tánh này tại phàm chẳng giảm,
nơi thánh chẳng tăng, trong sanh tử chẳng nhiễm, ở Niết Bàn chẳng tịnh.
Chúng sanh triệt để mê trái tánh này, chư Phật viên chứng rốt ráo. Mê -
chứng dù khác, tánh thường bình đẳng.
Thứ hai là liễu nhân Phật tánh, tức là chánh trí để phát sanh chánh nhân
Phật tánh. Do tri thức hoặc là do kinh giáo, nghe biết diệu nghĩa chánh nhân
Phật tánh bèn liễu ngộ, biết do một niệm vô minh chướng lấp nguồn tâm,
chẳng biết bản thể của cảnh giới sáu trần vốn là không, nhận lầm thật có, đến
nỗi khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm, do Hoặc tạo nghiệp, do nghiệp
chịu khổ, khiến cho Chánh Nhân Phật Tánh trở thành cái gốc để khởi Hoặc
tạo nghiệp chịu khổ. Từ đấy liễu ngộ, bèn muốn bỏ vọng về với chân, hòng
mong khôi phục bổn tánh.
Ba là duyên nhân Phật tánh, tức là trợ duyên. Đã liễu ngộ, phải tu tập các
thứ thiện pháp ngõ hầu tiêu trừ Hoặc nghiệp, tăng trưởng phước huệ, cốt sao
tự chứng được rốt ráo cái lý sẵn có mà ta đã ngộ đó mới thôi!
Xin dùng thí dụ để chỉ rõ: Chánh Nhân Phật Tánh như vàng trong quặng,
như lửa trong gỗ, như ánh sáng nơi gương, như mầm trong hạt, dù là sẵn có,
nhưng nếu chẳng biết đến, chẳng được các duyên: nung luyện, khoét, dùi,
mài giũa, gieo trồng, mưa đẫm... thì vàng, lửa, ánh sáng, mầm mộng vĩnh
viễn chẳng khi nào phát sanh được! Như vậy dù có chánh nhân nhưng nếu
không duyên, trọn chẳng thể thọ dụng được.
Bởi thế, Phật dạy hết thảy chúng sanh đều là Phật, muốn độ thoát họ;
nhưng chúng sanh trọn chẳng liễu ngộ, chẳng chịu tu tập thiện pháp, đến nỗi
bao kiếp dài lâu luân hồi sanh tử, không thể thoát được. Do đó, Như Lai
rộng bày các phương tiện, tùy cơ chỉ bày, dẫn dắt, mong chúng sanh bỏ vọng
theo chân, bỏ trần theo giác.

* Cổ nhân nói: “Sanh tử cũng lớn, há chẳng đau đớn ư?” Trộm bàn: Đã
chẳng biết nguyên do, dù có đau lòng cũng chẳng ích gì! Nên biết rằng: Hết
thảy chúng sanh theo nghiệp lưu chuyển, thọ sanh trong sáu đường, sanh
chẳng biết từ đâu đến, chết chẳng biết đi về đâu! Do nhân duyên tội hay
phước sẽ thăng hay giáng, xoay vần luân hồi, chẳng lúc nào xong. Như Lai
thương xót, dạy nhân duyên “do Hoặc khởi nghiệp, do nghiệp cảm khổ” và
bản thể “thường, lạc, ngã, tịnh, tịch chiếu viên dung” khiến chúng sanh hiểu
rõ: Do vô minh nên mới có thân này. Vì thế, thân này hoàn toàn thuộc về
huyễn vọng, chẳng những không có tứ đại, ngay cả ngũ uẩn cũng đều không.
Đã biết ngũ uẩn là không thì Chân Như pháp tánh, Thật Tướng diệu lý sẽ
triệt để phô bày trọn vẹn.
* Do tùy duyên nên có tứ thánh, lục phàm, khổ - sướng, thăng - trầm
khác xa nhau; nhưng duyên có tịnh - nhiễm, nên phải tùy thuộc vào một
[trong hai duyên ấy]. Tùy thuộc nhiễm duyên sẽ khởi Hoặc, tạo nghiệp, luân
hồi sáu đường. Tùy thuộc tịnh duyên sẽ đoạn Hoặc chứng Chân, thường trụ
Niết Bàn. Do Hoặc nghiệp có nặng và nhẹ nên có đường lành người - trời,
đường thiện ác chen lẫn là A-tu-la, và ba ác đạo: súc sanh, địa ngục, ngạ
quỷ.
Do Hoặc khởi Hoặc, do nghiệp tạo nghiệp hoặc thiện hoặc ác, trọn
chẳng có tướng nhất định, cho nên chỗ phải sanh về sẽ lần lượt thay đổi như
bánh xe xoay tít chẳng có đầu mối, chợt lên, chợt xuống. Đã có đủ phiền
hoặc, sẽ đều bị nghiệp buộc ràng, theo nghiệp thọ sanh, chẳng thể tự làm chủ
được!
Do đoạn chứng (đoạn Hoặc chứng chân) có sâu hay cạn nên người đoạn
Kiến Tư Hoặc sẽ chứng quả Thanh Văn, người trừ tập khí sẽ chứng quả
Duyên Giác, bậc phá vô minh sẽ chứng quả Bồ Tát. Nếu trừ sạch vô minh,
phước huệ viên mãn, công tu đức đến cùng cực, tánh đức phô bày trọn vẹn
sẽ chứng Phật Quả. Chứng Phật Quả bất quá chỉ là chứng rốt ráo triệt để
những công đức, lực dụng sẵn có trong tâm tánh ngay khi còn thuộc địa vị
phàm phu, nay thọ dụng toàn thể những công đức, lực dụng ấy mà thôi, chứ
chẳng thêm mảy may gì vào cái tâm tánh ban đầu ấy cả!
Như Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, tuy sở chứng cao thấp bất đồng,
nhưng đều chưa thể thọ dụng trọn vẹn những công đức sẵn có nơi tánh. Thế
nhưng hết thảy phàm phu lại hướng sức lực chẳng thể nghĩ bàn của tâm tánh
ấy vào sáu trần cảnh, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm, đến nỗi đọa
vào ba ác đạo, trầm luân bao kiếp, so ra ai nấy đều như thế, chẳng đáng buồn
ư?

* Trước không khởi đầu, sau không kết thúc, dù chứa đựng cả thái hư
vẫn chẳng thể lọt ra ngoài, dù nằm lọt trong vi trần cũng chẳng thể lọt vào
trong, thanh tịnh sáng sạch, trạm tịch thường hằng, chẳng sanh, chẳng diệt,
lìa tướng, lìa danh, là có nhưng chẳng phải có, là không nhưng chẳng phải
không. Đấy là Chân Tánh.
Xét ra cái thân địa - thủy - hỏa - phong chỉ là gân, xương, máu, thịt chứa
nhóm, mới sanh liền diệt, vừa tươi tốt đã tàn úa. Các xương, đốt chống đỡ
như kết gỗ làm nhà, một tấm da phủ ra ngoài như tô bùn trát vách. Bên trong
toàn là phân tiểu, máu mủ, mặt ngoài cáu ghét, mồ hôi, lông, tóc; giòi tửa lúc
nhúc, chấy rận như sao trời, giả gọi là Người, nào tồn tại cái Ngã! Lại dùng
những thứ mình sẵn có là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý để bươn bả trong rừng
gai góc sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Do đó, khởi vô minh tham - sân -
si, diệt mất chánh trí Giới - Định - Huệ.
Ngũ Uẩn vốn không, nào ai chịu một phen quán chiếu. Sáu trần vô tánh,
người người cho là thật, đến nỗi vạn khổ cùng tụ tập, cứ lầm mãi tánh linh
với vọng tâm và huyễn thân. Đúng như kinh Viên Giác nói: “Hết thảy chúng
sanh bao thứ điên đảo, nhận lầm tứ đại là thân tướng của mình, nhận lầm
duyên ảnh của sáu trần là tâm tướng của mình”.

---o0o---

3. Luận về ngộ chứng

* Từ xưa, cao tăng hoặc cổ Phật tái sanh, hoặc Bồ Tát thị hiện đều
thường hiện thân làm phàm phu, trọn chẳng hề nói ta là Phật, ta là Bồ Tát.
Vì thế, kinh Lăng Nghiêm nói: “Sau khi ta diệt độ, ta truyền các Bồ Tát và
các A La Hán, ứng thân sanh trong thời mạt pháp, hiện các thứ thân để độ
những kẻ đang luân chuyển, nhưng trọn chẳng tự bảo mình thật sự là Bồ Tát
hay A La Hán, tiết lộ nhân duyên bí mật của Phật, chỉ thường nhún nhường
nói mình là kẻ mạt học”. Chỉ trừ lúc lâm chung, bèn ngầm để lại lời phó
chúc.
Trí Giả Đại Sư thật sự là hóa thân của Phật Thích Ca, đến lúc lâm chung,
có người hỏi ngài đã chứng đến địa vị nào. Ngài đáp:“Nếu tôi chẳng lãnh
chúng ắt sẽ tịnh được sáu căn, vì tổn mình lợi người nên chỉ đạt được Ngũ
Phẩm. Do vậy, vẫn còn thuộc địa vị phàm phu!” Ngũ Phẩm tức là địa vị
Quán Hạnh trong Viên Giáo, sở ngộ bằng với chư Phật, đã chế phục hoàn
toàn ngũ trụ phiền não, nhưng vẫn chưa đoạn được Kiến Hoặc. Ngài Trí Giả
lúc lâm chung còn chẳng hé lộ sở chứng thật sự là vì để khích lệ kẻ hậu học
gắng chí tinh tu, chẳng đến nỗi được chút ít đã cho là đủ, hoặc còn là phàm
phu mà đã lạm xưng là thánh!
Nay bè lũ ma khoe xằng mình đắc đạo, hoại loạn Phật pháp, lầm lạc
chúng sanh, là kẻ đại vọng ngữ. Cái tội đại vọng ngữ đó nặng hơn tội ngũ
nghịch, thập ác trăm ngàn vạn ức lần. Thầy trò chúng nó sẽ đọa mãi trong
địa ngục A Tỳ trải qua Phật sát vi trần số kiếp41 , luôn chịu sự khổ cùng cực,
không cách nào thoát khỏi. Sao đành vì hư danh, lợi lạc phù phiếm một thời
để phải chịu hình phạt thảm khốc dài cả kiếp? Danh lợi làm con người lầm
lạc đến nỗi như thế đấy!

* Niệm Phật, xem kinh, ngộ lý Nhị Không, chứng pháp Thật Tướng là
ước trên phương diện tự tỉnh ngộ tu trì để dạy về nhân hiện tại, quả mai sau.
Chớ nên càn rỡ tự đắc, bảo là ngay trong đời này mình sẽ đạt được như thế.
Chứng Thật Tướng ngay trong đời này chẳng phải là không có người làm
được, chỉ e hiền khiết42 không có căn lành ấy! Nếu chẳng trình bày rõ
nguyên do, e rằng ông sẽ lầm mong chứng thánh, chí cao nhưng hạnh chẳng
xứng, lâu ngày ắt sẽ mất trí đâm cuồng, chưa đắc bảo đã đắc, chưa chứng
bảo đã chứng, cầu thăng hóa đọa, biến khéo thành vụng. Xét đến kết quả,
khó tránh chìm đắm mãi mãi trong nẻo ác; chẳng những mai một tánh linh
của chính mình, lại còn cô phụ Phật ân nữa!
Đối với hai thứ Không Lý, nếu chỉ luận về ngộ thì hàng phàm phu lợi

căn cũng ngộ được. Như những người thuộc vào địa vị Danh Tự của Viên

Giáo, tuy chẳng chế phục được mảy may ngũ trụ phiền não nào, nhưng

sở ngộ của họ và sở ngộ của chư Phật không hai, không khác (Ngũ trụ:

Kiến Hoặc là một trụ, Tư Hoặc gồm ba trụ. Trần Sa Hoặc và Vô Minh

Hoặc gộp thành một trụ). Nếu nói theo nhà Thiền, những kẻ ấy gọi là bậc

đại triệt đại ngộ, bên Giáo gọi là “đại khai viên giải”.

[“Đại triệt đại ngộ”] chẳng phải là chỉ hiểu loáng thoáng mơ hồ đâu nhé!
Như Bàng cư sĩ (Bàng Long Uẩn) nghe Mã Tổ bảo:“Đợi khi nào ông một
hơi uống cạn nước Tây Giang, ta sẽ nói cho ông hay” liền đốn vong huyền
giải. Ngài Đại Huệ Cảo nghe ngài Viên Ngộ bảo: “Gió nồm từ Nam thổi,
điện gác mát mẻ sao!” cũng ngộ như thế. Tổ Trí Giả tụng kinh Pháp Hoa
đến câu “gọi là chân tinh tấn, là chân pháp để cúng dường Như Lai” của
phẩm Dược Vương Bổn Sự liền hoát nhiên đại ngộ, lặng lẽ nhập định, tận
mắt thấy một hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan. Ngộ như thế mới gọi là
“đại triệt đại ngộ, đại khai viên giải!”
Nếu bàn về chuyện chứng được pháp Thật Tướng thì hàng phàm phu sát
đất chẳng thể làm được. Nam Nhạc Tư đại thiền sư là “đắc pháp sư”43 của
ngài Trí Giả, có đại trí huệ, có đại thần thông, lúc lâm chung, có người hỏi
đến sở chứng, ngài bảo: “Tôi lúc đầu mong đạt được Đồng Luân, nhưng do
lãnh chúng quá sớm nên chỉ đạt được Thiết Luân mà thôi!” (Đồng Luân tức
là Thập Trụ, phá một phần vô minh, vừa mới dự vào Thật Báo Tịnh Độ,
chứng được một phần Tịch Quang Tịnh Độ. Bậc Sơ Trụ có thể hiện thân làm
Phật giáo hóa chúng sanh trong một trăm tam thiên đại thiên thế giới. Nhị
Trụ giáo hóa được một ngàn, Tam Trụ giáo hóa bốn ngàn. Mỗi địa vị cứ gấp
mười lần hơn. Thiết Luân tức là địa vị thứ mười trong Thập Tín. Sơ Tín
đoạn Kiến Hoặc, Thất Tín đoạn Tư Hoặc, Bát, Cửu, Thập Tín phá được Trần
Sa, chế phục vô minh. Ngài Nam Nhạc Huệ Tư thị hiện chỉ chứng được ngôi
thứ 10 trong Thập Tín, tức là vẫn chưa chứng được pháp Thật Tướng. Phá
một phẩm vô minh liền chứng Sơ Trụ, mới được gọi là chứng pháp Thật
Tướng).
Trí Giả đại sư là hóa thân của Phật Thích Ca. Lâm chung có người hỏi
ngài chứng được địa vị nào, ngài đáp: “Nếu ta chẳng lãnh chúng, ắt sẽ tịnh
được sáu căn (tức là nếu ngài không thâu nạp, giáo hóa đồ chúng, ngài sẽ
chứng được Thập Tín, sáu căn thanh tịnh như trong phẩm Pháp Sư Công
Đức kinh Pháp Hoa đã nói). Do tổn mình lợi người, nên chỉ chứng được Ngũ
Phẩm” (Ngũ Phẩm tức là địa vị Quán Hạnh, chế phục trọn vẹn Ngũ Trụ
Hoặc, nhưng vẫn chưa đoạn được Kiến Hoặc). Ngẫu Ích đại sư lâm chung có
bài kệ như sau:
Danh tự vị trung chân Phật nhãn,
Vị tri tất cánh phó hà nhân
(Phật nhãn hãy còn nơi danh tự,
Giao ai rốt cuộc biết đâu là!)

(Người thuộc về địa vị danh tự đã viên ngộ Tạng Tánh giống như chư
Phật, nhưng chưa thể chế phục được Kiến Hoặc, huống hồ là đoạn nổi! Thân
phận những bậc đại triệt đại ngộ trong đời mạt đa phần giống như vậy. Tạng
Tánh chính là Như Lai Tạng Diệu Chân Như tánh, là tên gọi khác của pháp
Thật Tướng).
Ngẫu Ích đại sư thị hiện chỉ chứng địa vị Danh Tự, ngài Trí Giả thị hiện
chỉ chứng được Ngũ Phẩm, ngài Nam Nhạc thị hiện chỉ chứng được Thập
Tín. Tuy bổn địa của ba vị đại sư đều chẳng thể suy lường được, nhưng các
ngài thị hiện chỉ chứng ba địa vị Danh Tự, Quán Hạnh, Tương Tự, đủ thấy
Thật Tướng chẳng dễ chứng. Vì kẻ hậu tấn khó thể vượt hơn các ngài được,
chỉ e chúng nó chưa chứng đã bảo là chứng nên các ngài lấy thân mình
thuyết pháp ngõ hầu người đời sau tự biết hổ thẹn, chẳng dám làm xằng đó
thôi! Cái ân thị hiện địa vị sở chứng vào lúc sau cùng của ba vị đại sư thật là
nghiền xương, nát thân khó báo đáp nổi! Ông hãy tự suy gẫm coi mình thật
sự có vượt trỗi ba vị đại sư ấy chăng?
Còn như cho rằng: “Niệm Phật, xem kinh, vun bồi căn lành, sau khi
vãng sanh Tây Phương, thường hầu Phật Di Đà, cao dự hải hội, tùy theo
công hạnh cạn hay sâu ắt chứng được Thật Tướng sớm hay trễ” thì đấy là lời
quyết định vô ngại, là điều hết thảy những người vãng sanh cùng chứng
cùng đắc vậy!

* Ngộ là phân minh rành rành như mở cửa thấy núi, vẹt mây thấy trăng.
Lại như người mắt sáng đích thân thấy đường về nhà, cũng như kẻ nghèo đã
lâu chợt mở toang kho báu. Chứng là như theo đường về nhà, dừng chân
ngồi yên, cũng như giữ lấy kho báu ấy, tùy ý hưởng dùng. Phàm phu đại tâm
cũng có thể liễu ngộ giống như chư Phật, nhưng về mặt Chứng thì Sơ Địa
còn chẳng thể biết nổi chỗ giở chân, đặt chân của bậc Nhị Địa. Hiểu được ý
nghĩa Chứng và Ngộ rồi, tự nhiên sẽ chẳng khởi lòng tăng thượng mạn,
chẳng nảy ý lui sụt, mà cái tâm cầu sanh Tịnh Độ dù vạn con trâu cũng
chẳng kéo lui lại được!

* Trí Giả đại sư được người đời xưng tụng là hóa thân của Phật Thích
Ca. Chẳng ai biết được sở chứng của Ngài, nhưng Phật hiện thân tạo pháp
tắc cho chúng sanh. Vì thế, đại sư thị hiện vẫn thuộc địa vị phàm phu,
bảo: “Nếu ta chẳng lãnh chúng, ắt sẽ tịnh được sáu căn”. Ngài dùng chính
thân mình để răn người, hiện thân thuyết pháp. Thoạt đầu, đại sư mong đoạn
Hoặc chứng Chân, đạt thẳng lên Thập Địa hay Đẳng Giác. Do phải hoằng
pháp lợi sanh, bỏ lỡ công phu thiền định của chính mình nên chỉ chứng được
địa vị Ngũ Phẩm Quán Hạnh trong Viên Giáo mà thôi! Vì thế ngài nói: “Do
tổn mình lợi người nên chỉ đạt được Ngũ Phẩm”.
Ngũ Phẩm là năm thứ: tùy hỷ, đọc tụng, giảng nói, kiêm hành Lục Độ

và chánh hành Lục Độ. Địa vị Ngũ Phẩm trong Viên Giáo viên ngộ Tạng

Tánh (Tạng tánh là Thật Tướng diệu lý, khi còn triền phược (“tại triền”)

gọi là Như Lai Tạng Tánh. Lúc thoát được triền phược gọi là Tịnh Pháp

Thân. Nói chung là vì vô minh chưa đoạn nên gọi là Triền) giống hệt sở

ngộ của Phật, trọn chẳng khác gì. Đã chế phục trọn vẹn Kiến, Tư, Trần

Sa, Vô Minh, Phiền Não nhưng chưa đoạn được Kiến Hoặc. Nếu đoạn

được Kiến Hoặc liền chứng Sơ Tín. Đến địa vị Thất Tín mới đoạn sạch

Tư Hoặc, thật sự chứng được “lục căn tùy ý chẳng nhiễm sáu trần”. Vì

thế gọi là địa vị “lục căn thanh tịnh”.

Đã thế, trong mỗi một căn lại có đủ công đức của sáu căn, làm Phật sự
của sáu căn. Do vậy, còn gọi là “lục căn hỗ dụng” (sáu căn dùng lẫn nhau)
như trong phẩm Pháp Sư Công Đức của kinh Pháp Hoa đã nói. Ngài Nam
Nhạc thị hiện chứng địa vị này. Người thuộc vào địa vị này chẳng những có
đại trí huệ, lại còn có đại thần thông, thần thông của Tiểu Thừa A La Hán
chẳng thể sánh bằng. Vì thế ngài Nam Nhạc lúc sanh tiền cũng như sau khi
tịch luôn có những sự chẳng thể nghĩ bàn khiến kẻ thấy hoặc nghe phát khởi
tín tâm.
Nam Nhạc, Trí Giả đều là bậc Pháp Thân Đại Sĩ, địa vị thực chứng của
các Ngài nào ai dò được mức cao thâm. Chẳng qua các ngài muốn cổ vũ hậu
thế chuyên tinh học đạo nên mới chịu khuất lấp như thế, nào phải đâu các
ngài thật sự chỉ chứng địa vị Thập Tín Tương Tự hay Ngũ Phẩm Quán
Hạnh! Lũ phàm phu sát đất chúng ta há kham học đòi các ngài được ư? Hãy
nên ưa thô trì trọng giới44 , nhất tâm niệm Phật, kiêm tu các điều lành thế
gian để làm trợ hạnh, noi theo pháp hạnh các vị Vĩnh Minh, Liên Trì thì
không ai là chẳng được lợi cả!

* Các tông tu trì Phật pháp phải đến mức “hạnh khởi, giải tuyệt” mới
được lợi ích thật sự, chỉ riêng Tịnh Tông chẳng tu quán như thế. Nhà Thiền
đem một câu thoại đầu hoàn toàn vô nghĩa đặt vào trong tâm, coi như bổn
mạng nguyên thần, chẳng kể năm tháng, suốt ngày tham cứu cho đến khi
nào cả thân tâm lẫn thế giới đều chẳng biết đến nữa, mới hòng đại triệt đại
ngộ; chẳng phải là hạnh khởi giải tuyệt hay sao? Lục Tổ nói: “Chỉ xem kinh
Kim Cang liền có thể minh tâm kiến tánh”, đấy chẳng phải là hạnh khởi giải
tuyệt ư?
Theo ngu ý, chữ Khởi nên hiểu là Cực, tức là tận lực đến cùng cực, mới
hòng đạt đến cả Năng lẫn Sở cùng mất, nhất tâm phô bày triệt để. Nếu hạnh
chưa đến mức cùng cực, dù có quán niệm vẫn còn có Năng, có Sở, vẫn hoàn
toàn là tác dụng của phàm tình, hoàn toàn là tri kiến phân biệt, hoàn toàn là
tri giải, sao đạt lợi ích chân thật được? Phải tận sức đến cùng cực thì Năng,
Sở, tình kiến mới tiêu diệt, chân tâm vốn có mới phát hiện. Bởi thế, thuở xưa
có người đầu như cây chết sau chứng đạo phong, rạng rỡ cổ kim. [Muốn tu
hành được] lợi ích [phải] hoàn toàn [chú trọng] nơi một chữ Cực vậy!

* Người khéo đạt lợi ích thì không gì là chẳng hữu ích, người cam chịu
tổn mình sẽ chẳng bị tổn hại gì cả. Người đời nay hay dùng thế trí biện
thông để làm vốn nghiên cứu Phật học; vừa biết được chút nghĩa lý đã bảo
mình chứng đắc. Từ đấy, tự nghĩ mình cao quý, miệt thị cổ kim. Đừng nói là
người hiện đại chẳng đáng để vào mắt, ngay cả những bậc cao tăng từ một
ngàn mấy trăm năm trước (đa phần là cổ Phật tái lai, hoặc Pháp Thân Bồ Tát
thị hiện) đều bị họ coi tuốt là hạng tầm thường, chẳng đáng noi theo! Chưa
đắc bảo đã đắc, chưa chứng khoe đã chứng. Nghe lời họ nói cao chót vót
chín tầng trời, xét tâm họ thấp trệt dưới chín tầng đất! Tập nhiễm như thế
hãy nên quyết liệt trừ khử. Nếu không, khác nào Đề Hồ đựng trong chén
độc, giết người chết tươi!
Nếu có thể niệm niệm quay lại xem xét tự tâm thì chẳng những sẽ được
lợi ích nơi các pháp Như Lai đã giảng, ngay cả phiến đá, hòn sỏi tầm
thường, chiếc đèn lồng, cây cột ngoài đường, tất cả những hình sắc, thanh
âm trong đại địa, không thứ gì chẳng phải là diệu lý Thật Tướng Đệ Nhất
Nghĩa Đế! Bởi thế mới nói: “Xưa nay chưa có ai, sao từng mộng thấy
được?” Xin hãy tin chắc, gắng sức thực hành.

* Những điều lệnh thân45 được thấy thật là hy hữu, lạ lùng, có thể nói là
có thiện căn từ xưa, nhưng phải ra sức gắng công tu trì thì giấc mộng ấy mới
chẳng bị uổng phí. Nếu như vì tri kiến phàm phu, lầm tưởng mình đã được
Tam Bảo gia bị, đã dự vào dòng thánh, rồi sanh đại ngã mạn, chưa đắc bảo
đã đắc, chưa chứng bảo đã chứng, sẽ thành ra do nhân lành chuốc lấy quả ác.
Người đời mạt tâm trí hèn kém thường mắc phải căn bệnh ấy. Câu kinh
Lăng Nghiêm: “Chẳng nghĩ là thánh tâm thì gọi là cảnh giới lành, nếu cho
là thánh giải sẽ vướng quần tà” chính là nói về tình trạng này. Xin hãy lấy
việc tận lực tu trì pháp môn Tịnh Độ để tự khích lệ mình, ngõ hầu tương lai
quyết định được hưởng đại lợi ích!

* Niệm Phật chú trọng vãng sanh, niệm đến cùng cực cũng có thể minh
tâm kiến tánh, phải đâu niệm Phật hoàn toàn chẳng ích lợi gì cho đời hiện
tại! Xưa kia, ngài Minh Giáo Tung Thiền Sư, nhật khóa niệm mười vạn lần
thánh hiệu Quán Thế Âm, sau này mọi kinh sách thế gian ngài không đọc
nhưng đều biết. Cứ xem Tịnh Độ Thập Yếu, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục ắt sẽ
biết niệm Phật mầu nhiệm, Quang tôi đã nhắc đến nhiều lần trong cuốn Văn
Sao hủ lậu của mình. Cư sĩ bảo “niệm Phật vô ích đối với đời này” thì chẳng
những chưa thâm hiểu các kinh luận Tịnh Độ, mà ngay cả với cuốn Văn Sao
của Quang cũng chỉ cưỡi ngựa xem hoa, chưa đọc hiểu thật kỹ vậy!

* Tuy Tịch Quang Tịnh Độ là “đương xứ tức thị” (có thể tạm hiểu là
“ngay nơi đây chính là cõi Thường Tịch Quang”, hoặc “hiện hữu ngay tại
nơi đây”, hoặc “có thể ngộ nhập ngay nơi đây chẳng cần tìm nơi
khác”), nhưng nếu chẳng là bậc trí đoạn rốt ráo, viên chứng Pháp Thân Tỳ
Lô Giá Na sẽ chẳng thể triệt để chứng ngộ, đích thân thọ dụng được! Bốn
mươi mốt địa vị: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng
Giác trong Viên Giáo vẫn còn là “phần chứng” (chứng nhập được ít phần).
Nếu ông đã viên chứng được Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na, nói “đương xứ tức
thị Tịch Quang” cũng chẳng ngại gì. Nếu không thì chỉ là kể tên món ăn,
đếm của báu, chẳng khỏi bị đói rét đến chết mà thôi!
---o0o---

4. Luận về Tông, Giáo

* Những giảng sư đời mạt thường thích giảng Thiền, đến nỗi thính
chúng đa phần chấp vào những câu công án. Trộm nghĩ: Những câu cơ
phong chuyển ngữ (thoại đầu, công án) trong nhà Thiền tuyệt đối chẳng có ý
nghĩa gì, chỉ nhằm đáp ứng căn cơ người đến hỏi hòng chỉ nẻo hướng
thượng. [Những câu chuyển ngữ] ấy chỉ nên để tham cứu, sao lại giảng nói?
Giảng kinh như vậy chỉ những bậc đại sĩ siêu phàm mới hưởng lợi ích, còn
những hạng trung - hạ khác đều mắc bệnh hết. Đối với Tông, chẳng biết tận
lực tham cứu những câu cơ phong chuyển ngữ, chỉ lo phỏng đoán ý nghĩa.
Với Giáo, do thật lý, thật sự nào phải là cảnh giới của mình, bèn lầm tưởng
[Phật, Tổ] nói thí dụ để giảng pháp. Đem Tông phá Giáo, dùng Giáo phá
Tông, cái tệ nạn lưu hành này không còn gì tệ hơn được nữa!

* Từ ngài Tào Khê (Lục Tổ Huệ Năng) về sau, đạo Thiền lưu truyền
rộng rãi; mối văn tự “chẳng lập văn tự” phổ biến khắp hoàn vũ. Đường giải
thuyết ngày càng mở rộng, cửa chứng ngộ ngày càng bế tắc! Vì thế, các tổ
Nam Nhạc, Thanh Nguyên đều dùng cơ phong chuyển ngữ để độ người,
khiến cho Phật, Tổ trở thành ngôn ngữ suông, không cách nào đáp được lời
các ngài hỏi. Nếu chẳng phải thật sự là căn cơ tương xứng sẽ chẳng thể hiểu
được lời ấy. Dùng cách ấy để xét nghiệm khiến vàng - thau rạch ròi, ngọc -
đá rành rành, không còn cách nào giả trá, ngăn trở đạo pháp. Đấy chính là
duyên do của cơ phong chuyển ngữ.
Từ đấy về sau, pháp này ngày càng thịnh hành, được các tri thức đề cao,
chỉ e lạc vào lối mòn của người khác, trở thành khuôn sáo cũ kỹ, khiến
người học nghi ngờ, lầm lạc, hoại loạn Tông phong, nên cơ phong chuyển
ngữ ngày càng cao tột, vô phương chuyển biến, để người khác (người căn cơ
không phù hợp) chẳng biết đâu mà mò. Bởi thế mới có những câu nói trách
Phật, quở Tổ, bài xích kinh giáo, bác bỏ Tịnh Độ! Những lời lẽ ấy nhằm
cưỡng đoạt tình kiến, bít chặt sự biện giải của người nghe. Người căn thuần
sẽ nhờ ngay đó biết đường trở về, triệt ngộ hướng thượng; người căn cơ
chưa thuần sẽ chân thành, tận lực tham cứu, quyết đạt đến đại triệt, đại ngộ
mới thôi. Ấy là vì tri thức còn nhiều, căn tánh con người vẫn còn thông lợi,
hiểu rành rẽ giáo lý, tâm sanh tử khẩn thiết, dù chưa thể liễu ngộ ngay cũng
chẳng nảy lòng hèn kém, cho đó là pháp bảo vậy!
* Hiện tại, lắm kẻ mới đọc vài cuốn sách Nho, chẳng hiểu đạo lý thế
gian, chưa hiểu cùng tột giáo thừa, chẳng hiểu Phật pháp, vừa mới phát tâm
bèn gia nhập Tông môn. Hàng tri thức chỉ vì duy trì môn đình, cũng học đòi
cổ nhân xiển dương, chẳng quản đạo pháp lợi hại thế nào. Người theo học
chẳng phát khởi mối nghi tình chân thật, đối với bất cứ điều nào cũng tưởng
là chân pháp cả!
Đối với những câu khai thị của người hiện tại hoặc những câu chép trong
sách của cổ nhân, có kẻ bèn tự ý suy diễn nêu ra nghĩa lý, dù trọn chẳng ra
khỏi việc giải thích ý nghĩa theo mặt văn tự, nhưng cứ tự hào là triệt ngộ
hướng thượng, việc tham học đã hoàn tất rồi, liền dự ngay vào địa vị tri thức
để dạy dỗ đàn hậu học, lập riêng một môn đình. Cứ sợ người khác chê mình
chẳng phải là bậc thông gia bèn ra sức giảng Thiền, muốn được xưng tụng là
“tông thuyết kiêm thông”.
Giảng về Tông thì khi giảng những lời chỉ quy hướng thượng của cổ đức
rốt cuộc chỉ giảng nghĩa câu văn theo mặt văn tự. Khi giảng Giáo, cái đạo tu
nhân chứng quả của Như Lai bị họ biến thành những thuyết “mượn ví dụ để
biểu thị pháp”. Dùng Giáo phá Tông, đem Tông phá Giáo, kẻ đui dẫn lũ mù,
kéo nhau vào lửa, đến nỗi bọn hậu bối chẳng được nghe gương sáng của tiền
bối, láo nháo bắt chước thầy khinh Phật, lờn Tổ, bài nhân, bác quả mà thôi!

* Giáo độ khắp ba căn, thâu trọn lợi độn, ví như chiếu chỉ sáng suốt của
vua thánh, vạn quốc tôn sùng, trí - ngu, hiền - tệ đều cùng hiểu rõ, đều phải
tuân hành. Nếu kẻ nào chẳng tuân sẽ bị xử cực hình. Nếu kẻ nào chẳng tuân
lời Phật dạy ắt sẽ đọa trong ác đạo. Tông chỉ độ được thượng căn, chẳng
nhiếp trung căn, hạ căn; giống như tướng quân nhận mật lệnh, người [thân
cận] trong doanh mới biết, kẻ ngoài doanh dù có trí huệ cũng chẳng hiểu
được. Vì thế mới có thể dùng toàn quân diệt giặc, thiên hạ thái bình. Quân
lệnh bị tiết lộ, ba quân sẽ tan vỡ; Tổ ấn bị tiết lộ, năm tông46 chết tiêu. Kẻ
chưa ngộ chỉ được phép tham cứu thoại đầu, chẳng được xem đọc sách
Thiền, thật ra chỉ là vì sợ kẻ ấy hiểu lầm ý Tổ, chấp mê là ngộ, lấy giả rối
chân. Đấy gọi là [Tổ ấn] bị tiết lộ, tai hại cực lớn.

* Về nguồn không hai, phương tiện nhiều cửa. Phương tiện của nhà
Thiền vượt ngoài khuôn khổ, tựa hồ quét sạch hết thảy ngôn ngữ. Kẻ không
lãnh hội được ý ấy, chẳng hiểu ý chỉ rời lìa ngôn ngữ, chuyên nhai bã hèm,
nên đối với Tông chỉ lo suy diễn [ý Tổ] chẳng chịu tận lực tham cứu, đối với
Giáo bèn lầm lạc học đòi viên dung, phá hoại sự tướng! Chỉ có bậc đại đạt là
được lợi ích cả nơi Tông lẫn nơi Giáo; nếu không, đề-hồ, cam lộ bị chứa
trong bình độc bèn thành tỳ sương, trầm độc!
* Dù trung căn, hạ căn vẫn có thể được lợi ích nơi Giáo, nhưng nếu
chẳng phải là bậc thượng thượng căn sẽ chẳng thể thông suốt Giáo để vận
dụng. Dẫu kẻ trung, hạ căn khó thể chuyên chí nơi Tông, nhưng bậc thượng
căn lại có thể đại triệt đại ngộ để hòng chứng nhập.
Trong Giáo, phải thông đạt hết thế pháp, Phật pháp, Sự, Lý, tánh, tướng,
lại còn phải đại khai viên giải (nhà Thiền gọi là đại triệt đại ngộ) thì mới có
thể làm đạo sư cho cả trời lẫn người.
Trong Tông, tham vỡ được một câu thoại đầu, thấy được bổn lai, bèn có
thể xiển dương tông phong “trực chỉ”. Nếu nhằm lúc Phật giáo đại hưng
khởi và là bậc thông đạt rộng rãi Phật pháp thì hãy nên tham cứu theo nhà
Thiền, giống như Tăng Diêu vẽ rồng, hễ điểm nhãn, rồng liền bay lên ngay
lập tức. Còn nhằm khi Phật pháp suy vi, kẻ túc căn kém cỏi hãy nên tu trì
theo Giáo. Ví như thợ vụng chế đồ mà bỏ hết dây mực thì rốt cuộc chẳng
làm gì được cả!

* Nay muốn báo ơn Phật, lợi lạc hữu tình thì nhà Thiền dù chuyên xiển
dương tông phong, vẫn phải dùng Giáo để ấn chứng; bên Giáo thì tận lực tu
trì quán hạnh, chẳng lạm bàn thiền ngữ. Ấy là vì tâm thông diệu đế, hễ gặp
duyên liền thành Tông. “Cây bách, que phân khô, quạ kêu, sẻ hót, nước
chảy, hoa trôi, ho khạc, phẩy tay, cười khẩy, giận chửi”, pháp nào pháp nấy
đều là Tông cả. Lẽ nào diệu pháp viên đốn do chính kim khẩu đức Như Lai
nói ra chẳng đáng kể là Tông ư? Cần gì phải mượn cái thanh chống cửa nhà
người để chống đỡ cửa nẻo nhà mình! Trong nhà vốn sẵn gỗ Tiên, gỗ Nam,
cớ sao vứt bỏ chẳng dùng? Hãy nên biết rằng: pháp không cao, hèn, chỉ là
nhất đạo thường nhiên, do căn cơ có sống hay chín nên nơi mỗi pháp được
lợi ích khác biệt!

---o0o---

5. Luận về Trì Chú

* Một pháp Trì Chú chỉ nên dùng làm Trợ Hạnh, chẳng nên lấy Trì Chú
làm Chánh Hạnh, coi Niệm Phật là pháp tu phụ! Dù pháp môn Trì Chú cũng
chẳng thể nghĩ bàn, nhưng phàm phu được vãng sanh hoàn toàn nhờ vào
lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, cũng như do đại thệ nguyện của A Di
Đà Phật cảm ứng đạo giao mà được Ngài tiếp dẫn. Nếu chẳng hiểu lẽ này,
dù pháp nào cũng đều chẳng thể nghĩ bàn, tu bất cứ pháp nào mà chẳng
được, nhưng vẫn trở thành “không Thiền, không Tịnh Độ, giường sắt và cột
đồng, vạn kiếp với muôn đời, không có ai nương dựa!”
Nếu tự biết mình là phàm phu đầy dẫy triền phược, toàn thân là

nghiệp lực, nếu chẳng cậy vào nguyện lực hoằng thệ của Như Lai, quyết

khó thể chắc chắn thoát khỏi luân hồi ngay trong đời này, ắt sẽ biết lực

dụng của những giáo pháp đức Phật đã dạy ra trong cả một đời đều chẳng

bằng được nổi một pháp Tịnh Độ này.

Nếu trì chú, tụng kinh để gieo trồng phước huệ, tiêu tội nghiệp thì được;
nhưng nếu vọng động mong cầu thần thông thì đúng là bỏ gốc theo ngọn,
chẳng khéo dụng tâm. Nếu như tâm này cố kết, lại chẳng hiểu rõ lý, giới lực
chẳng vững, Bồ Đề tâm chẳng sanh, tâm nhân - ngã càng thạnh, ắt chẳng
mấy chốc sẽ bị ma dựa phát cuồng! Phàm muốn được thần thông, phải đắc
đạo trước đã! Hễ đắc đạo liền tự có thần thông. Nếu chẳng dốc sức vào đạo,
chỉ mong cầu thần thông, đừng nói là chưa đắc thần thông, dù có đắc cũng
trở thành chướng đạo! Vì thế, chư Phật, chư Tổ thảy đều nghiêm cấm, chẳng
muốn người đời tu tập thần thông! Do trong đời thường có những người có
kiến giải như thế nên tôi mới nhiều lần giãi bày như vậy!

* Chỉ nên trì chú để trợ tu Tịnh nghiệp, đừng bộp chộp tác pháp, khinh
nhờn Phật, thánh. Nếu đường đột tác pháp nhưng thân tâm chẳng cung kính,
chẳng chí thành, rất có thể ma sự sẽ khởi. Chỉ có một việc là nên tác pháp,
nhưng đấy lại chẳng phải là phận sự của các ông. Đó là: nếu ai phát tâm xuất
gia, nhưng [thầy thế độ] chưa chứng đạo, chẳng thể quán xét căn cơ, bèn cầu
xin Phật từ ngầm dạy cho biết người ấy xuất gia được hay không, hòng tránh
khỏi tệ nạn hạng đầu trộm đuôi cướp lộn sòng Tăng chúng.
Nhưng ngày nay Tăng chúng thâu nạp đồ đệ, cứ sợ chẳng thâu được
nhiều, dù biết rõ kẻ đó là phường hạ lưu, vẫn cứ vội vã thâu nạp, chỉ sợ nó
bỏ đi mất, mấy ai chịu quyết trạch như thế nữa! Tham danh lợi, ưa quyến
thuộc đến nỗi Phật pháp ngập chìm sát đất, không cách nào hưng khởi được
nữa!

* Người niệm Phật chẳng phải là không được trì chú, nhưng phải phân
định rõ đâu là Chánh, đâu là Trợ thì Trợ cũng quy về Chánh. Nếu cứ lằng
nhằng chẳng thể phân biệt, đến ngày nào đó nhìn lại, Chánh cũng chẳng phải
là Chánh nữa! Chú Chuẩn Đề, chú Đại Bi, chẳng có chú nào hơn kém cả!
Nếu tâm chí thành, pháp nào cũng linh. Tâm chẳng chí thành, pháp nào cũng
chẳng linh!
* Học chú Vãng Sanh bằng [chánh âm] tiếng Phạn47 cũng là rất tốt,
nhưng chẳng được sanh tâm phân biệt, cho chú văn lược dịch là sai. Hễ khởi
tâm niệm ấy sẽ sanh tâm ngờ vực đối với hết thảy các chú chép trong Đại
Tạng, cho là những chú ấy chẳng hợp Phật ý. Phải biết rằng những vị dịch
kinh đều chẳng phải tầm thường, sao lại vì những bản dịch của họ không
giống nhau bèn sanh lòng miệt thị? Hơn một ngàn năm, những người trì chú
này được lợi ích chẳng kể nổi số; chẳng lẽ mọi người trì chú trong hơn một
ngàn năm ấy đều chẳng biết tiếng Phạn hay sao? Học thì đương nhiên phải
học, tuyệt đối đừng khởi ý niệm ưu liệt, hơn kém thì lợi ích sẽ chẳng thể
nghĩ bàn.
Hơn nữa, một pháp trì chú rất giống như pháp khán thoại đầu. Pháp khán
thoại đầu dùng một câu vô nghĩa để dứt trừ phân biệt phàm tình hòng chứng
Chân Trí sẵn có. Pháp trì chú chẳng cần hiểu nghĩa lý câu chú, cứ chí thành
khẩn thiết mà trì, dốc lòng thành đến cùng cực, tự sẽ được nghiệp tiêu trí
rạng, chướng tận phước cao, lợi ích chẳng thể nghĩ bàn được!

---o0o---

6. Luận về xuất gia

* Phật pháp chính là pháp chung cho cả chín pháp giới, không một ai là
chẳng nên tu theo, cũng như không một ai chẳng thể tu nổi! Người trì trai,
niệm Phật thì nhiều, nhưng tính đến những người có thể làm cho đạo pháp
hưng long, phong tục thuần thiện chỉ sợ chẳng được mấy, [những người làm
được như vậy] càng nhiều càng tốt. Xuất gia làm Tăng chính là để gìn giữ
cũng như lập bày phương cách lưu truyền đạo pháp của Như Lai.
Có những người lập chí hướng thượng, phát Bồ Đề tâm, triệt ngộ tự
tánh, tam học (Văn - Tư - Tu) sâu rộng, nhưng lại đặc biệt tán dương Tịnh
Độ ngõ hầu mau chóng thoát khỏi vòng khổ ải ngay trong một đời này, chỉ e
số người này cũng chẳng được mấy ai, càng được nhiều người như vậy càng
tốt. Còn như những kẻ có chút tín tâm, chẳng có đại chí hướng, muốn mượn
danh nghĩa tăng sĩ, ăn không ngồi rồi, ăn bám nhà Phật, mang danh con
Phật, nhưng thật ra chỉ là gã cạo đầu, dẫu chẳng tạo ác nghiệp, cũng đã là hạt
giống hư, là phế nhân đối với đất nước. Nếu lại còn phá giới, tạo nghiệp,
điếm nhục Phật pháp, dù lúc sống trốn được quốc pháp, chết đi chắc chắn
đọa vào địa ngục. Đối với pháp, đối với mình đều chẳng lợi ích. Một gã như
thế còn chẳng nên có, huống chi là nhiều!
Cổ nhân bảo: “Xuất gia là việc của bậc đại trượng phu, chẳng phải
hạng loàng xoàng làm được”, đấy chính là lời chân thật, chẳng phải là lời hạ
thấp hạng loàng xoàng để đề cao Tăng-già đâu! Ấy là vì đối với việc gánh
vác gia nghiệp của Phật, tiếp nối huệ mạng của Phật, nếu chẳng phải là
người phá vô minh khôi phục bổn tánh, hoằng dương pháp đạo lợi lạc chúng
sanh thì sẽ chẳng thể làm được. Nay những kẻ làm Tăng phần nhiều là hạng
thô bỉ, bại hoại, vô lại, mong được sống an nhàn, thảnh thơi; kẻ chịu trì trai
niệm Phật còn chẳng có mấy, huống hồ là người có thể gánh vác gia nghiệp,
tiếp nối huệ mạng ư? Hiện tại Phật pháp sa sút đến tận đất đen là vì Thanh
Thế Tổ (Thuận Trị) chẳng xét thời cơ, chẳng tuân Phật chế, thay đổi cách
khảo thí tăng sĩ của triều đại trước (nhà Minh), bỏ luôn độ điệp48 , cho phép
ai nấy tùy ý xuất gia, gây thành mối tệ vậy!

* Cho tùy ý xuất gia, đối với bậc thượng sĩ thật là có lợi ích lớn, nhưng
đối với kẻ hạ căn lại là sự tổn hại rất lớn. Nếu như toàn thể thế gian đều là
bậc thượng sĩ, cố nhiên pháp tắc này rất hữu ích đối với đạo pháp; thế nhưng
bậc thượng sĩ hệt như vảy lân, kẻ hạ căn nhiều như lông bò. Chỉ tạm hữu ích
ngay trong lúc ấy (từ đầu nhà Thanh cho đến thời Càn Long, thiện tri thức
nhiều như rừng, nên bảo là “hữu ích”),họa lan sâu hậu thế; cho đến hiện tại,
mối tệ ô tạp, lạm dụng đã đến mức cùng cực. Dù có thiện tri thức muốn
chỉnh đốn một phen cũng chẳng thể làm gì được, chẳng đáng buồn ư?
Từ rày về sau, người xuất gia điều thứ nhất là phải thật sự phát khởi

đại Bồ Đề tâm tự lợi lợi tha, thứ hai là phải có thiên tư hơn người mới

cho xuống tóc, không vậy không được. Còn người nữ có tín tâm hãy bảo

họ tu hành tại gia, vạn vạn phần chẳng nên để họ xuất gia, chỉ sợ gặp phải

kẻ phóng túng khiến Phật môn bị ô uế, bại hoại chẳng nhỏ. Nếu người

nam tu hành thật sự, xuất gia càng dễ, bởi họ tham phỏng tri thức, y chỉ

tùng lâm [nào cũng được]. Người nữ dù là bậc chân tu xuất gia cũng khó,

bởi lẽ làm gì cũng dễ bị miệng đời gièm xiểm, việc gì cũng khó thể tùy ý

được. Chọn lựa để thế độ người, chẳng độ ni chúng như thế chính là

nghĩa lý trọng yếu bậc nhất để hộ trì Phật pháp, chỉnh lý pháp môn trong

đời mạt vậy!


* Người đời nay hay coi xuất gia như một phương cách sống trốn tránh,
lười nhác, an nhàn. Tệ nhất là kẻ không còn sanh lộ nào khác, lấy xuất gia
làm kế sống trộm qua ngày. Bởi thế người xuất gia hiện tại đa phần là hạng
vô lại, đạo pháp bị quét sạch sành sanh đều là vì hạng xuất gia bại hoại như
thế gây nên nỗi cả!

* Tăng nhân đời nay khó thể khiến người khác tin tưởng nổi. Nay đã
truy điệu tăng nhân, lẽ nào lại phỉ báng tăng nhân. Nếu nêu lên những điều
tốt lành của họ để răn nhắc những kẻ bất thiện thì chẳng mắc lỗi gì. Nhưng
nếu mình đã thuộc vào hàng học trò thì việc răn nhắc cũng nên châm chước;
việc răn nhắc ấy chỉ hàng đức cao trọng vọng mới thực hiện được, chẳng
phải là việc nên làm của loài chim non miệng vàng vậy!

* Hàng xuất gia nếu chẳng phải chân tu, tập khí đầu đường xó chợ còn tệ
hơn kẻ tục. Nếu muốn xa lìa tập khí ấy thì trước hết phải hiểu rõ hết thảy các
pháp thế gian đều là khổ, là không, là vô thường, là vô ngã, là bất tịnh, thì ba
độc tham - sân - si không cách nào khởi lên được. Nếu vẫn chưa chế ngự
chúng được, hãy dùng trung - thứ - nhẫn nhục để đối trị ắt chúng sẽ tự dứt.
Nếu vẫn chưa dứt thì phải tưởng mình như đã chết, tự nhiên vô biên phiền
não sẽ hóa thành thanh lương.

* Chỉ hạng Thích Tử chúng ta mới lấy việc thành đạo lợi sanh làm cách
báo ân tối thượng, chẳng những báo đền cha mẹ nhiều đời, mà còn báo đáp
hết thảy cha mẹ trong tứ sanh lục đạo từ vô lượng kiếp. Chẳng những chỉ
hiếu kính khi cha mẹ còn sống mà còn phải độ thoát linh thức của cha mẹ
khiến họ được vĩnh viễn thoát khỏi khổ luân, thường trụ Chánh Giác. Bởi
thế mới nói: đạo hiếu của nhà Phật ẩn mật khó sáng tỏ ra vậy.
Tuy nhiên, đạo hiếu của Nho gia lấy việc phụng dưỡng cha mẹ làm đầu.
Như đạo Thích từ biệt cha mẹ đi xuất gia, có phải là chẳng đoái hoài đến
việc phụng dưỡng cha mẹ chăng? Phật chế định: Xuất gia phải thưa cùng
cha mẹ. Nếu có anh em, con cháu để gởi gắm cha mẹ mới được bẩm thỉnh
với cha mẹ. Cha mẹ có đồng ý mới được xuất gia. Nếu không, chẳng chấp
thuận cho kẻ ấy được xuống tóc.
Sau khi xuất gia xong, nếu như anh em gặp biến cố, cha mẹ không

chỗ nương nhờ, người xuất gia cũng được phép chia sớt y bát để phụng

dưỡng song thân. Vì thế, mới có gương thơm hiếu dưỡng với mẹ của ngài
Trường Lô (Ngài Trường Lô Trách thiền sư đời Tống, người xứ Tương

Dương. Lúc nhỏ mồ côi cha, mẹ họ Trần, được bảo bọc nơi nhà cậu. Đến

lúc lớn, sư thông suốt sách vở thế gian. Năm 29 tuổi xuất gia, hiểu sâu xa

yếu chỉ nhà Thiền, sau trụ trì chùa Trường Lô, đón mẹ về ở phòng phía

Đông phương trượng, khuyên mẹ niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ suốt bảy

năm trời. Bà mẹ niệm Phật qua đời. Xem sự tích này trong Tịnh Độ

Thánh Hiền Lục), chuyện lạ chôn cha của ngài Đạo Phi (Đạo Phi thuộc

hoàng tộc nhà Đường, người Trường An, mới vừa đầy năm, cha bỏ mình

vì việc nước. Bảy tuổi xuất gia, đời loạn lạc, gạo thóc đắt đỏ, sư bèn cõng

mẹ vào Hoa Sơn, tự nhịn ăn, khất thực nuôi mẹ. Năm sau, sư đến chiến

trường Hoắc Sơn, thu nhặt xương trắng, chí thành tụng niệm kinh chú,

cầu tìm được xương cha. Mấy ngày sau, xương cha trồi lên giữa đống

xương, hiện ngay trước mặt ngài Đạo Phi. Ngài bèn bọc lấy xương tàn,

ôm về chôn cất. Xem trong Tống Cao Tăng Truyện).

Bởi thế kinh dạy: “Công đức cúng dường cha mẹ bằng với công đức
cúng dường Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát”. Cha mẹ còn sống, phải khéo léo
khuyên dụ trì trai, niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Cha mẹ mất rồi, dùng
công đức đọc tụng, tu trì của chính mình, luôn chí thành hồi hướng cho cha
mẹ ngõ hầu cha mẹ vĩnh viễn thoát khỏi ngũ trược, mãi mãi giã biệt sáu
đường, chứng Vô Sanh Nhẫn, đạt đến địa vị Bất Thoái, độ thoát chúng sanh
đến tận cùng đời vị lai, khiến mình lẫn người đều thành đạo Chánh Giác. Có
vậy mới chẳng giống với sự đại hiếu thông thường của thế gian.

* Xuất gia làm Tăng phải vì chuyên chí Phật thừa, lập bày cách duy trì
đạo pháp, chứ chẳng phải là chỉ có thành Tăng thì mới có thể tu trì Phật
pháp.
---o0o---

7. Luận về báng Phật

* Hễ ai đời trước quả thật có gieo căn lành, chẳng cần biết là vì học hỏi
hay vì cầu đạo, thì đều có thể tạo thành mầm mống đại sự xuất thế. Tham,
sân, si, hoặc nghiệp phiền não, các thứ ác báo như tật bệnh liên miên đều là
nhân duyên xuất ly sanh tử nhập Phật pháp, miễn sao người ấy tự có thể
phản tỉnh hay không.
Nếu chẳng thể tự phản tỉnh, đừng kể chi hạng người tầm thường thấp

thỏi bị thế giáo buộc ràng, ngay cả những người như Hối Am, Dương

Minh, Tĩnh Tiết, Phóng Ông v.v... dù học vấn, trình độ, mức tu dưỡng

đều kỳ đặc, trác tuyệt, rốt cục vẫn chẳng thể triệt ngộ tự tâm, liễu thoát

sanh tử. Cái học vấn, tu dưỡng, sự hiểu biết của họ có thể làm cơ sở cho

vô thượng diệu đạo, nhưng vì chẳng thể tự phản tỉnh nên rốt cuộc lại

thành chướng đạo. Đủ thấy nhập đạo thật khó, khó còn hơn lên trời nữa!

* Phật thấy chúng sanh đều là Phật. Chúng sanh thấy Phật đều là chúng
sanh. Do Phật thấy chúng sanh đều là Phật nên tùy thuận cơ nghi mà thuyết
pháp, mong họ tiêu trừ được vọng nghiệp, tự chứng được cái mình vốn sẵn
có. Dù hết thảy chúng sanh đều chứng được Niết Bàn rốt ráo, Phật trọn
chẳng thấy mình là người cứu độ, chúng sanh là người được độ bởi họ vốn
dĩ là Phật.
Do chúng sanh thấy Phật là chúng sanh nên chín mươi lăm phái ngoại
đạo ở Tây Thiên (Ấn Độ) cùng bọn nho sĩ câu nệ, rỗng tuếch xứ này không
ai là chẳng dốc sạch tâm lực hủy báng đủ cách mong sao Phật pháp diệt sạch
hoàn toàn chẳng còn tung tích gì thì lòng mới khoái. Nhưng mặt trời chói lọi
giữa hư không, toan dùng hai tay che kín, càng khiến quang minh của Phật
pháp càng thêm tỏ rõ, càng bộc lộ cái nông cạn, hèn kém của chính mình mà
thôi!
Người có túc căn do nhân duyên báng Phật, bài Phật bèn lại được quy y
Phật pháp, làm đệ tử Phật, thay Phật hoằng dương, giáo hóa. Người không
túc căn sẽ vì nghiệp lực ấy vĩnh viễn đọa trong A Tỳ địa ngục. Đợi đến lúc
nghiệp báo hết rồi, thiện căn được nghe danh hiệu Phật trong kiếp xưa sẽ
phát hiện, nhờ đó mới được nhập Phật pháp, sẽ tạm gieo thiện căn. Đến khi
nghiệp tận tình không, khôi phục lại cái mình vốn sẵn có mới thôi.
Phật ân thật là rộng lớn sâu xa cùng cực, chẳng thể hình dung nổi!

Một câu gieo vào tâm, mãi mãi là hạt giống đạo. Ví như nghe tiếng cái

trống có bôi thuốc độc, xa gần đều chết tươi; ăn chút kim cang, quyết

định chẳng tiêu được. Tin được như vậy mới gọi là chánh tín.

* Phật pháp không điều nào lớn lao chẳng bao gồm, không điều nhỏ nhặt
nào chẳng nêu. Ví như một cơn mưa thấm ướt khắp cả, cây cỏ cùng được
tươi tốt, cái đạo “tu thân, tề gia, trị quốc” không gì là chẳng đủ. Xưa nay,
văn chương chỉ thịnh một thời, nhưng công nghiệp đồn lan vũ trụ. Phàm
những ai chí hiếu, nhân từ, ngàn đời cùng ngưỡng mộ. Con người mới chỉ
biết dõi theo vết tích, chưa biết tìm đến gốc.
Nếu khảo sát kỹ đến cội nguồn, sẽ thấy tinh thần, chí khí, tiết tháo của
những vị ấy đều được vun bồi bởi việc học Phật. Chẳng cần phải nhắc tới
những chuyện khác, ngay như tâm pháp do hàng thánh nhân Tống Nho đề
xướng ra cũng vẫn phải mượn Phật pháp làm khuôn mẫu, huống hồ là những
chuyện khác! Bọn Tống Nho khí lượng hẹp hòi, muốn hậu thế nghĩ chính họ
đã phát minh ra tâm pháp ấy, bèn thốt lên những lời báng Phật, hòng khỏa
lấp cái tội mượn trộm Phật pháp. Từ Tống sang Nguyên, tới Minh, không
đời nào chẳng vậy.
Cứ thử tận tâm khảo sát, không ai là chẳng được lợi ích nơi Phật pháp.
Họ giảng về tịnh tọa, giảng về tham cứu cho thấy họ có dụng công; lâm
chung biết trước lúc đi, cười nói rồi qua đời chính là những điểm biểu lộ
cuối cùng của họ. Những mẫu chuyện, những sự tích như vậy chép đầy trong
các truyện ký Lý học, nào phải chỉ có một chuyện. Học Phật có phải là mối
lo cho xã hội hay chăng?

* Bản thể của Nho và Phật đương nhiên chẳng hai. Về mặt công phu của
Nho và Phật, nếu chỉ bàn hời hợt sẽ thấy rất tương đồng, nếu bàn sâu sẽ thấy
khác nhau như trời với đất. Vì sao như vậy? Nho lấy Thành (chân thành) làm
gốc, Phật lấy Giác làm tông.
Thành chính là “minh đức” (cái đức sáng tỏ), do Thành khởi Minh, do
Minh nên có Thành. Hễ Thành và Minh hợp nhất sẽ “minh minh đức” (làm
sáng tỏ cái đức sáng ngời). Giác có Bổn Giác và Thỉ Giác. Do Bổn Giác mà
Thỉ Giác phát khởi, dùng Thỉ Giác để chứng Bổn Giác. Thỉ và Bổn hợp nhất
tức là thành Phật. Bổn Giác tức là Thành, Thỉ Giác là Minh. Nếu thuyết pháp
như thế thì Nho và Phật trọn chẳng khác gì nhau.
Các hạ bảo mình “học Phật, học Khổng, thấy Lý chẳng ngoài một

chương sách Đại Học là điều quyết định chẳng còn ngờ vực gì nữa”; đấy

chỉ là bàn luận một cách nông cạn. Nếu luận về mặt thứ lớp sâu cạn của

công phu tu chứng thì đại để tương đồng, nhưng sở chứng, sở đạt bất

đồng rất lớn. Nho chỉ có thể “minh minh đức”, há có thể đoạn trọn Tam

Hoặc, đầy đủ cả phước lẫn huệ như Phật chăng? Há có thể như Bồ Tát

chứng Pháp Thân, phá một phần vô minh, thấy một phần Phật Tánh hay

chăng? Há có thể như Thanh Văn, Duyên Giác đoạn sạch Kiến Hoặc lẫn

Tư Hoặc hay chăng?

Điều thứ ba, dù Thanh Văn chỉ đoạn được Kiến Tư Hoặc là hạng thấp
kém nhất, nhưng các ngài đã đắc lục thông tự tại. Bởi thế, ngài Tử Bách
nói: “Nếu buông vọng tình xuống được thì dù là vách núi vẫn có thể đi
xuyên qua được”. Sơ Quả còn phải bảy lượt sanh lên trời, bảy lần sanh
xuống nhân gian, nhưng đạo lực của các ngài đã đạt tới mức tùy ý chẳng
phạm sát giới. Vì thế, các ngài đi đến đâu, loài trùng giạt ra cả. Do đó, mới
nói: “Sơ Quả cày đất, trùng tránh xa bốn tấc”, huống hồ là Nhị, Tam, Tứ
Quả ư!
Hãy khoan nói tới những người học theo Nho Giáo cái đã, hãy bàn về

thánh nhân thôi. Cố nhiên, đa phần thánh nhân là bậc đại quyền thị hiện.

Không nói tới bổn địa của các ngài, nếu chỉ căn cứ trên mặt Tích, e rằng

các ngài còn chưa thể đoạn sạch được Kiến Hoặc, Tư Hoặc như thế được,

huống hồ là sánh với các vị Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn mươi địa vị phá
vô minh, chứng pháp tánh ư? Cho dù bảo “minh minh đức” tạm ngang

ngửa với “phá vô minh” đi nữa, phải nhớ rằng phá vô minh có bốn mươi

mốt địa vị, “minh minh đức” có ngang bằng được với địa vị đầu tiên là

Sơ Trụ hay chăng? Có ngang bằng được với địa vị cuối cùng là Đẳng

Giác hay chăng? Dù “minh minh đức” có ngang ngửa với địa vị Đẳng

Giác đi nữa, đối với minh đức vẫn chưa thể minh đến cùng cực được!

Phải đến khi phá được một phần vô minh mới đáng gọi là “Thành - Minh

hợp nhất, Thỉ - Bổn vô nhị” vậy!

Do lẽ đó, tôi nói: “Xét về Thể thì đồng, nhưng phát huy công phu chứng
đạt chẳng đồng!” Người đời vừa nghe nói “đồng” bèn tưởng Nho Giáo bao
gồm trọn Phật giáo, nghe nói “khác” bèn tưởng Phật giáo hoàn toàn khác với
Nho giáo. Họ chẳng biết đến nguyên ủy “đồng nhưng bất đồng, bất đồng
nhưng đồng”; bởi thế, cứ tranh luận tưng bừng, ai nấy lo bảo vệ môn đình
của mình, ai nấy đều đánh mất tấm lòng trị thế độ nhân của Phật, Bồ Tát cả!

* Kể từ khi đại pháp truyền vào Trung Quốc, đế vương các đời không ai
chẳng sùng phụng Phật giáo; chỉ có Tam Võ hủy diệt Phật giáo, nhưng
người kế vị lại hưng thạnh Phật giáo. Ví như tiết Đông, đông cứng lại chắc
nịch để thành tựu vẻ tươi tốt, sum suê cho tiết Xuân, tiết Hạ. Mặt trời chói
lọi giữa hư không, toan dùng hai tay che lấp; ngửa mặt khạc nhổ trời, chính
mình bị giây bẩn.
Tam Võ là Ngụy Thái Võ, Châu Võ Đế, Đường Võ Tông. Thoạt đầu họ
đều thâm tín Phật pháp, dốc ý tu tập. Ngụy Thái Võ tin lời sàm hoặc của
Hoắc Hạo, Châu Võ Đế tin lời sàm tấu của Vệ Nguyên Tung, Đường Võ
Tông tin lời vu báng của Lý Đức Dụ và đạo sĩ Triệu Quy Chân.
Hủy diệt Phật pháp chưa lâu la gì, cả người chủ xướng lẫn kẻ tán trợ đều
mắc phải ương họa cùng cực. Ngụy Võ Đế phế Phật rồi, chưa đầy năm sáu
năm, Hoắc Hạo bị diệt tộc, bản thân Ngụy Võ Đế cũng bị ám sát. Con lên
nối ngôi lại ra sức phục hưng Phật giáo.
Sau khi Châu Võ Đế phế Phật, Nguyên Tung bị biếm truất và xử tội
chết, khoảng năm sáu năm sau, vua thân mắc ác tật, khắp mình lở loét, chết
chưa đầy ba năm, Tùy Văn Đế lên ngôi lại phục hưng Phật giáo.
Đường Võ Đế phế Phật rồi, chưa đầy một năm sau, Quy Chân bị tru lục,
Đức Dụ chết trên đường bỏ trốn, Võ Tông uống kim đan của đạo sĩ dâng,
lưng nổi nhọt loét mà chết. Tuyên Tông lại phục hưng Phật giáo.
Tống Huy Tông lúc đầu cũng thâm tín Phật pháp, sau nghe lời yêu vọng
của đạo sĩ Lâm Linh Tố, bắt đổi tượng Phật thành hình tượng Đạo giáo,
xưng Phật là Đại Giác Kim Tiên, gọi Tăng là “đức sĩ”, bắt Tăng mặc áo đạo
sĩ, mỗi khi làm lễ Tăng phải ngồi phía sau đạo sĩ. Hạ chiếu chưa lâu, kinh
thành bị lụt lớn khác gì hồ, biển. Vua tôi hoảng sợ, sai Linh Tố trị thủy, càng
phù phép nước càng dâng tràn. Chợt có bậc đại thánh Tăng Già xuất hiện
trong cung cấm, vua đốt hương van nài, Tăng Già chống tích trượng lên mặt
thành, nước liền rút sạch. Vua liền hạ chiếu phục hồi quy chế Phật giáo như
cũ. Chưa đầy sáu bảy năm sau, cha con cùng bị giặc Kim bắt đi. Người Kim
phong Huy Tông làm Hôn Đức Hầu, Khâm Tông làm Trọng Hôn Hầu, cha
con cùng chết tại thành Ngũ Quốc.
Phật là đại sư ba cõi, cha lành cả bốn loài, bậc thánh của các thánh, là
trời trong trời, dạy người bỏ vọng về chân, nghịch trần hợp giác, dứt trừ
hoặc nghiệp huyễn vọng, khôi phục tâm tánh vốn sẵn có. Cảm ân, báo đức,
hộ trì lưu thông Phật pháp còn chưa đủ, huống hồ là cậy vào thế lực nhất
thời, đoạn diệt huệ nhãn của chúng sanh, cắt đứt con đường bằng phẳng của
trời người, đào hố sâu địa ngục, ắt chuốc quả báo nhãn tiền, luân hồi muôn
kiếp, để tiếng xấu cho đời, thật đúng là tấm gương đành rành vậy!

* Cái rộng, dày, cao, sáng nhất trong thế gian không gì bằng trời, đất,
nhật, nguyệt; nhưng mặt trời chính ngọ rồi phải xế bóng, trăng tròn rồi phải
khuyết, bờ cao sụp thành hang, hang sâu đùn thành gò, biển xanh biến thành
ruộng dâu, ruộng dâu biến thành biển xanh.
Xưa nay, bậc đạo cao đức trọng không ai bằng Khổng Tử, vẫn bị tuyệt
lương ở đất Trần, bị hãm nơi đất Khuông, chu du các nước, chẳng gặp được
vua hiền; chỉ có một đứa con, tuổi vừa năm mươi đã chết mất, may còn một
cháu để duy trì dòng dõi. Từ đấy tính xuống, Nhan Uyên đoản mạng, Nhiễm
Bá Ngưu cũng đoản mạng, Tử Hạ bị mù, Tả Khâu Minh cũng bị mù, Khuất
Nguyên trầm mình dưới sông (Khuất Nguyên tận trung bị gian thần sàm tấu.
Về sau vì Sở Hoài Vương bị vua Tần bắt giữ, ông khôn ngăn phẫn uất,
nhưng chẳng làm gì được bèn tự trầm nơi sông Mịch La vào ngày mồng
Năm tháng Năm), Tử Lộ bị bằm nát như tương (Tử Lộ làm quan ở nước Vệ.
Vệ Khoái Công hồ đồ bị con giành ngôi, Tử Lộ tử nạn, bị địch quân bằm nát
nhừ).
Trời, đất, nhật, nguyệt còn chẳng thể thường hằng bất biến; đại thánh,

đại hiền cũng chẳng thể chỉ gặp toàn thuận lợi chẳng có nghịch cảnh; chỉ
những ai biết vui theo mạng trời, dù gặp cảnh ngộ nào cũng đều an vui

cả; thế nhưng mấy trăm ngàn năm sau, từ thiên tử cho đến thứ dân không

ai là chẳng kính ngưỡng những vị ấy. Nếu cứ dựa trên tình cảnh khi ấy

mà luận, tựa hồ họ chẳng có phước báo gì; nhưng nếu dựa trên đạo hạnh

lưu truyền hậu thế để luận, ai có phước hơn nổi những vị ấy chăng?

Người sanh trong cõi đời ngàn tính vạn toán làm đủ mọi chuyện xét đến
cùng cực chẳng qua chỉ để thân mình no ấm, con cháu quý hiển mà thôi! Thế
nhưng, vải thô cũng che được thân, cần gì phải lượt, là, the, vóc; miệng dùng
rau dưa cho qua bữa, cần gì phải cá, thịt, hải sản? Con cháu thì hoặc đọc
sách, hoặc cấy cày, hoặc buôn bán để tự nuôi thân, cần gì phải giàu đến trăm
vạn?
Vả những kẻ mưu tính sao cho con cháu được giàu sang đến vạn đời,
chắc không ai hơn được Tần Thủy Hoàng! Vua Tần thôn tính sáu nước, đốt
sách, chôn Nho sĩ, thâu binh khí trong thiên hạ đúc thành chuông lớn, không
điều nào chẳng nhằm mục đích khiến dân ngu yếu chẳng thể làm loạn được.
Nào ngờ Trần Thiệp vừa đứng lên, quần hùng đua nhau nổi dậy. Họ Tần
nhất thống sơn hà chưa quá mười hai, mười ba năm, thân đã diệt, nước đã
mất, con cháu bị tru lục hết sạch; khác nào cắt cỏ nhổ tận rễ, không còn chút
gì nữa! Muốn cho con cháu được an lạc, hóa ra lại khiến chúng mau bị chết
sạch hết cả.
Tào Tháo làm Thừa Tướng thời Hán Hiến Đế, chuyên quyền, bất cứ điều
gì hắn làm không ngoài mục đích giảm thế lực của vua, tăng oai quyền cho
mình, mong sau khi mình chết đi, con mình sẽ xưng đế. Vừa chết đi, Tào Phi
liền soán ngôi, thây cha chưa liệm, Phi đã chuyển hết các phi tần của cha
sang cung mình. Tào Tháo chết đi, đọa mãi trong ác đạo hơn một ngàn bốn
trăm năm. Đến đời vua Càn Long nhà Thanh, ở Tô Châu có kẻ mổ heo, thấy
trên gan phổi heo có hai chữ Tào Tháo. Có kẻ láng giềng trông thấy, sanh
lòng hoảng sợ lớn, liền xuất gia, pháp danh là Phật An, nhất tâm niệm Phật
liền được vãng sanh Tây Phương. Việc này có ghi trong Tịnh Độ Thánh
Hiền Lục. Tào Tháo phí sạch tâm cơ mưu tính cho con cháu. Tuy con hắn
được làm hoàng đế, nhưng chỉ ở ngôi được bốn mươi lăm năm liền bị diệt
quốc. Hằng ngày lại còn phải đánh nhau với Đông Ngô và Tây Thục, có bao
giờ được hưởng một ngày an vui đâu?
Tiếp đó, hai nhà Tấn (Tây Tấn và Đông Tấn), Tống, Tề, Lương, Trần,
Tùy và các nhà Lương, Đường, Tấn, Hán, Châu thời Ngũ Đại đều chẳng
trường cửu, tựu trung nhà Đông Tấn tồn tại lâu dài nhất, nhưng chỉ được một
trăm lẻ ba năm. Các triều khác thì hoặc là hai, ba năm, hoặc tám chín năm,
mười năm, hai mươi năm, bốn mươi năm, năm mươi năm rồi liền diệt vong.
Đây mới chỉ kể những triều đại chánh thống, còn như những kẻ chiếm càn
lãnh thổ, ngụy xưng vương triều, số ấy nhiều lắm, tồn tại còn ngắn ngủi hơn
nữa.
Xét cái tâm thuở đầu của họ, không ai là chẳng muốn cho con cháu được
an lạc, phú quý, tôn vinh; xét đến kết quả thực sự: lại khiến cho con cháu
càng mau gặp phải kiếp nạn, bị tru lục, diệt môn tuyệt tộc. Dù quý như thiên
tử giàu có như bốn biển, vẫn chẳng thể giữ cho con cháu đời đời hưởng
phước, huống chi kẻ phàm phu trơ trụi? Từ vô lượng kiếp đến nay, những ác
nghiệp đã tạo còn dày hơn đại địa, sâu hơn biển cả, có đảm bảo gia đạo
thường hưng thạnh, chỉ có phước không tai ương chăng?
Phải biết rằng: muôn pháp trong thế gian thảy đều hư giả, trọn chẳng
chân thật, như mộng, như huyễn, như bọt nước, như bóng dáng, như sương
móc, như ánh chớp, như bóng trăng in trong nước, như hoa đốm trên không,
như ánh nước dợn lúc trời nóng, như thành Càn Thát Bà (Càn Thát Bà là
tiếng Phạn, Hán dịch là Tầm Hương, là nhạc thần của Thiên Đế. Thành trì
của họ huyễn hiện chẳng thật, như ta thường nói “thẩn lâu hải thị” 49 vậy!).
Chỉ có mỗi một niệm tâm tánh của chính mình hằng cổ hằng kim

(xưa nay luôn thường hằng), chẳng biến, chẳng hoại, tuy chẳng biến hoại

nhưng thường tùy duyên. Do ngộ tịnh duyên liền thành Thanh Văn, thành

Duyên Giác, thành Bồ Tát, thành Phật. Do công đức sâu hay cạn mà quả

vị cao hay thấp. Do mê nhiễm duyên thì sanh lên trời, sanh trong nhân

gian, đọa vào Tu La, đọa súc sanh, đọa ngạ quỷ, đọa địa ngục. Do tội

phước nặng hay nhẹ mà có khổ hay vui, [thời gian thọ quả] có dài hay

ngắn. Nếu là kẻ chẳng biết Phật pháp, chẳng biết làm cách nào được!

Ông đã sùng tín Phật pháp, sao chẳng do nghịch cảnh ấy nhìn thấu tướng
trạng thế gian, bỏ mê nhiễm duyên, theo ngộ tịnh duyên, nhất tâm niệm Phật
cầu sanh Tây Phương. Nhờ đó, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi lục đạo, cao
đăng quả vị Tứ Thánh, há chẳng phải là nhờ cái họa nhỏ này mà thường
hưởng phước lớn ư?
* Phật ân thật là rộng lớn, trọn khắp, chẳng có cùng tận. Vì sao nói thế?
Do hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật, nhưng vì
mê chẳng ngộ, đến nỗi lại đem sức công đức Phật tánh ấy dùng lầm vào sáu
trần cảnh, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm, do Hoặc tạo nghiệp, do
nghiệp thọ báo, trải kiếp dài lâu luân hồi lục đạo, trọn chẳng có ngày ra.
Trong những kiếp xưa, Phật đã biết rõ điều này, bèn phát đại nguyện muốn
cho hết thảy chúng sanh trong khắp các pháp giới tận cõi hư không cùng ngộ
được Phật tánh sẵn có, cùng thoát luân hồi sanh tử, cùng thành đạo Vô
Thượng Chánh Giác, cùng nhập Vô Dư Niết Bàn.
Từ đấy, vì chúng sanh trong khắp pháp giới Ngài trải kiếp dài lâu hành
đạo Bồ Tát, không việc gì có lợi ích mà Phật chẳng đề cao, tu trọn lục độ,
chẳng chấp trước một pháp nào, hành hạnh khó làm, nhẫn được chuyện khó
nhẫn. Phật bố thí quốc thành, vợ, con, đầu, mắt, tủy, não... không tiếc nuối
gì. Vì thế, kinh Pháp Hoa nói: “Ta thấy đức Thích Ca Như Lai trong vô
lượng kiếp, hành hạnh khó, hạnh khổ, tích công chứa đức cầu Bồ Tát đạo
chưa từng dừng nghỉ. Xem khắp tam thiên đại thiên thế giới, thậm chí chẳng
có chỗ nào nhỏ bằng hạt cải mà chẳng phải là chỗ Bồ Tát xả thân mạng vì
chúng sanh cả! Sau đấy mới được thành Bồ Đề đạo”.
Chỉ một hạnh bố thí dù thọ cả kiếp còn chẳng thể nói hết, huống hồ là
các hạnh khác như Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Trí Huệ và
Tứ Nhiếp, vạn hạnh ư? Mãi cho đến khi Hoặc nghiệp hết sạch, phước huệ
viên mãn, triệt chứng tự tâm, thành đạo Vô Thượng, Phật bèn vì khắp các
chúng sanh giảng pháp mình đã chứng, chỉ vì để ai nấy đều chứng được
pháp Ngài đã chứng. Thế nhưng thượng căn ít ỏi, trung căn, hạ căn lại nhiều;
cho nên Phật lại tùy cơ lập giáo, khiến ai nấy tùy phận được lợi.
Đến khi việc một đời đã xong, Phật bèn nhập Niết Bàn, nhưng vẫn

chẳng bỏ tấm lòng đại bi, lại thị hiện thành Chánh Giác trong thế giới

khác để tiếp tục tế độ. Phật thị hiện sanh trong cõi này hay cõi khác như

thế, chẳng thể dùng toán số, thí dụ để tính được nổi. Ví như vầng mặt trời

chói lọi vì chiếu thế gian nên mọc lặn chẳng ngừng, cũng như người đưa

thuyền vì đưa người qua sông nên qua lại chẳng ngừng!
* Phật nghĩ thương xót chúng sanh từ vô thỉ trước đến tận vị lai sau, trên
đến bậc Đẳng Giác Bồ Tát, dưới đến lục đạo phàm phu, không một ai chẳng
thuộc trong vòng đại bi thệ nguyện của Ngài. Ví như hư không bao trùm hết
thảy, từ sâm la vạn tượng cho đến trời đất đều bị hư không bao trùm cả.
Cũng lại như ánh sáng mặt trời chiếu khắp muôn phương, dù kẻ sanh manh
trọn đời chẳng thấy được ánh sáng vẫn được ánh mặt trời soi tới, được sống
đúng nghĩa con người. Nếu như không có ánh mặt trời chiếu thấu, sẽ chẳng
có duyên sanh sống được; [như vậy thì] nào có phải là cứ phải đích thân thấy
được ánh sáng thì mới được thọ ân ư?
Kẻ thế trí biện thông đem cái hiểu biết câu nệ, rỗng tuếch của mình để
chê bai, phản bác Phật pháp, bảo là: “Phật pháp làm hại thánh đạo, dối đời
lừa người”, trọn chẳng khác gì kẻ sanh manh chửi mặt trời, bảo mặt trời
chẳng có quang minh! Hết thảy ngoại đạo đều lấy trộm nghĩa lý trong kinh
Phật rồi làm như chính đạo mình có giáo nghĩa ấy; có kẻ còn trộm danh Phật
pháp để hành tà pháp. Do đó ta biết rằng Phật pháp chính đạo gốc của mọi
pháp thế gian, xuất thế gian. Ví như biển cả chảy ngầm dưới mặt đất, những
chỗ đầy ắp nước, chảy thành dòng thì là vạn con sông, nhưng không con
sông nào lại chẳng đổ vào biển cả.
Những kẻ báng Phật kia phải đâu là báng Phật, mà là báng chính mình
đó. Bởi vì một niệm tâm tánh của họ toàn thể là Phật. Từ đầu Phật đã dùng
bao cách thuyết pháp, giáo hóa như thế những mong họ bỏ mê về chân, tự
chứng Phật tánh chính mình sẵn có mới thôi. Do Phật tánh đáng tôn trọng
nhất, đáng yêu tiếc nhất, nên Phật chẳng hề tiếc công như vậy, dù họ chẳng
tin nhận, Phật cũng chẳng nỡ buông bỏ. Nếu như chúng sanh chẳng sẵn có
Phật tánh, chẳng kham làm Phật, nhưng Phật cứ uổng công bày cách như thế
thì Phật chính là kẻ si dại bậc nhất trong thế gian, mà cũng là kẻ đại vọng
ngữ bậc nhất trong thế gian, lẽ nào tám bộ trời rồng, tam thừa thánh hiền lại
cùng chịu hộ vệ, y chỉ Phật ư?

* Phật xem hết thảy chúng sanh giống như con một, yêu thương không
thiên vị ai, luôn muốn cho chúng sanh được độ thoát, vì hết thảy chúng sanh
đều có Phật tánh, đều kham làm Phật. Bởi thế, dù là hạng Nhất Xiển Đề
tuyệt chẳng có tín tâm, Phật không hề có một niệm buông bỏ. Nếu đúng cơ
duyên, họ sẽ tự sanh lòng tin, quy y, y giáo tu trì ngõ hầu đoạn Hoặc chứng
Chân, liễu sanh thoát tử.
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Mười phương Như Lai thương xót chúng sanh
như mẹ nhớ con. Nếu con bỏ trốn, mẹ dù nhớ cũng chẳng làm gì được! Nếu
con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, từ đời này sang đời khác mẹ con chẳng hề xa
nhau. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật thì trong hiện tại hoặc trong
tương lai nhất định thấy Phật, cách Phật chẳng xa như người nhiễm hương,
thân có mùi thơm”.
Kinh Pháp Hoa dạy: “Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh
chịu các khổ não, nghe đến Bồ Tát Quán Thế Âm này, nhất tâm xưng danh
thì Quán Thế Âm Bồ Tát liền lập tức xem xét âm thanh ấy, khiến họ đều
được giải thoát”.
Kinh còn chép: “Vị Quán Thế Âm Bồ Tát này hay ban cho sự không sợ
hãi cho những chỗ hoảng sợ, nạn gấp nên thế giới Sa Bà này đặt tên cho
Ngài là Thí Vô Úy”.
Ấy là vì xét về thể thì tâm của chúng sanh và tâm của Phật, Bồ Tát
chẳng khác gì nhau, chỉ vì chúng sanh mê muội, trái giác theo trần, đến nỗi
đây kia ngăn cách, chẳng được chở che. Nếu như trái trần xuôi giác, một dạ
xưng danh, sẽ tự nhiên cảm ứng đạo giao, Phật, Bồ Tát rủ lòng từ gia bị, dù
gặp hiểm nạn cũng thành yên vui!

* Điều trọng yếu trong việc học đạo là đối trị tập khí. Thường có kẻ học
vấn càng sâu, tập khí càng thạnh. Ấy là vì coi học đạo giống như học nghề,
cho nên càng học nhiều, càng nghịch đạo. Đó chính là cội nguồn khiến cho
cả Nho lẫn Thích trong nước ta cùng suy cả!

---o0o---

8. Luận về đạo thầy trò

* Những mối quan hệ lớn (ngũ luân) trong đời người tính ra chỉ có năm,
tức là vua - tôi, cha - con, anh - em, vợ - chồng, bạn bè. Cha sanh, thầy dạy,
vua nuôi, ba mối quan hệ này tương đương nhau, sao trong Ngũ Luân chẳng
kể đến thầy; chẳng biết rằng thầy có đức tánh giáo huấn ta thành người nên
thầy cũng như cha. Kế đến, có công khuyên dụ, khen thưởng, khuyến khích
để ta được thành tài nên thầy cũng như anh. Vì thế, Mạnh Tử nói: “Thầy là
cha anh”. Tiếp đó, thầy khiến ta mở mang, đôi bên cùng được lợi ích như
hai vầng trăng chiếu lẫn nhau, hai tay vịn vào nhau nên thầy cũng như
bạn (Trong chữ Bằng Hữu, Bằng gồm hai chữ Nguyệt ghép lại; chữ Hữu
giống như hai tay vịn vào nhau). Bởi thế nhà Phật hay nói: “Tầm sư phỏng
hữu” (tìm thầy kiếm bạn).

---o0o---

9. Luận về Giới Luật


* Pháp môn dù nhiều, nhưng tất cả gồm trọn chẳng sót trong ba môn
Giới - Định - Huệ. Vì thế kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhiếp tâm là Giới, do
Giới sanh Định, do Định phát Huệ. Do vậy gọi là Tam Vô Lậu Học”. Nhưng
trong ba môn này, chỉ có Giới là trọng yếu nhất. Bởi lẽ, trì giới chính là
chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện. Hạnh ấy gần với Phật, tâm
ấy chẳng đến nỗi trái nghịch với Phật.
Vì thế, trong kinh Phạm Võng, đức Như Lai vì chúng sanh nói lời bảo
chứng rằng: “Ta là Phật đã thành, các ông là Phật chưa thành. Nếu tin được
như vậy thì giới phẩm đã đầy đủ”. Ngài còn nói: “Chúng sanh nhận lãnh
giới của Phật là nhập vào địa vị Phật; địa vị đã giống như Đại Giác rồi, thật
sự là các con của Phật”. Vì vậy, một pháp Trì Giới chính là đạo trọng yếu
đệ nhất để siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử vậy.

* Chữ Luật chẳng chỉ riêng những hành vi thô phù mà thôi; nếu chẳng
chú trọng lòng kính, giữ gìn lòng thành thì vẫn là phạm luật. Nhân quả là cốt
tủy của Luật. Ai chẳng biết nhân quả và khinh mạn nhân quả đều là phạm
luật. Người niệm Phật khởi tâm động niệm thường phù hợp với Phật thì
Luật, Giáo, Thiền, Tịnh đều cùng thực hành cả.

---o0o---

10. Luận về kinh điển

* Nếu ai thiên tư thông minh, mẫn tiệp thì nghiên cứu tánh tướng các
tông chẳng trở ngại gì, nhưng phải lấy pháp môn Tịnh Độ làm chỗ nương
tựa, quay về, mới khỏi đến nỗi có nhân không quả, khỏi lâm vào cảnh biến
diệu pháp liễu sanh thoát tử thành lời lẽ bàn suông cửa miệng, không cách gì
được lợi ích thật sự! Phải nên chú trọng lòng kính, gìn giữ lòng thành, xem
kinh tượng như đức Phật sống, chẳng dám khinh nhờn chút nào, mới hòng
do lòng thành của chính mình lớn nhỏ thế nào mà sẽ đạt được các lợi ích sâu
hay cạn.
Những người căn cơ chậm lụt, chỉ nên chuyên nghiên cứu pháp môn
Tịnh Độ, nếu thật sự tin đến nơi, giữ thật vững, sẽ quyết định liễu sanh thoát
tử ngay trong đời này, siêu phàm nhập thánh, so với những kẻ thông hiểu
kinh luận sâu xa nhưng chẳng thực hành pháp môn Tịnh Độ kia, sự lợi hại
khác xa hệt như trời với đất vậy!
Đối với những kẻ vừa nói trên, chẳng cần biết tư cách như thế nào, trước
hết cứ cho dùng liều thuốc một vị này thì bất luận là tà chấp, kiến giải lầm
lạc, ngã mạn, phóng túng đến đâu, đề cao thánh cảnh nhưng tự mình đành ở
địa vị kém cỏi... đều do thuốc A Già Đà một vị trị chung vạn bệnh này,
không một ai là chẳng dứt khoát lành bệnh cả!

* Phật pháp uyên thâm, kẻ đại thông minh dù tận hết tâm lực bình sanh
vẫn còn có chỗ chưa thể nghiên cứu tường tận được. Nhưng Phật pháp tùy
cơ lập giáo; nếu muốn hưởng lợi ích thật sự thì hãy nghiên cứu, tu trì pháp
môn đặc biệt, siêu việt, lạ lùng là Tịnh Độ; đây thật sự là con đường trọng
yếu tốn ít tâm lực vậy.

* Việc giảo đính kinh điển chẳng phải là chuyện dễ dàng, chỉ sợ thầy
chẳng rảnh rỗi đến thế. Nếu ủy nhiệm người khác làm, kẻ đó phải là người
kiến thức lỗi lạc, thập phần tỉ mỉ, xét suy kỹ càng đôi ba lượt, tra cứu kỹ
lưỡng mới có thể đính chánh những chỗ chép lầm, trừ sạch những điểm dở
tệ khiến thiên chân được tỏ bày triệt để. Nếu không, sao chẳng cứ theo đúng
dạng vẽ hồ lô50 may ra chẳng đánh mất sự chân xác sẵn có!

* Một bộ kinh Hoa Nghiêm là vua của Tam Tạng, phẩm cuối cùng quy
kết, đặt nặng nguyện vương. Nên tôn trọng kinh Hoa Nghiêm, nhưng chớ
xem thường các kinh khác vì các kinh Đại Thừa đều lấy Thật Tướng làm
bản thể.
Hoa Nghiêm vĩ đại vì là đại pháp xứng tánh cực đàm vượt ngoài các
giới, chẳng thâu nhiếp các pháp Nhị Thừa. Điểm huyền diệu của kinh Pháp
Hoa là “hội tam quy nhất” (gộp ba thừa về một thừa), “khai Quyền hiển
Thật, khai Tích hiển Bổn”. Tông Thiên Thai cho rằng: “Pháp Hoa thuần viên
độc diệu51 , Hoa Nghiêm vẫn còn nói kèm Quyền pháp” (chữ Quyền pháp
chỉ các địa vị Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng
Giác).
Nhưng trong hội Pháp Hoa, Phật khen ngợi Pháp Hoa là vua của các

kinh, trong hội Hoa Nghiêm Phật cũng khen như thế. Lẽ nào kẻ hoằng

kinh đời sau cứ nhất định phải căn cứ vào năm bộ lớn52 để phân định

kinh này cao, kinh kia thấp, chẳng chấp nhận kinh nào cũng có những

điểm riêng đáng khen ngợi hay sao? Kẻ tu Thiền ca tụng Thiền, người tu

Tịnh Độ tán dương Tịnh Độ; nếu không sẽ chẳng thể khiến người khác

sanh chánh tín, khiến người khác kính ngưỡng.


Chỉ nên khéo hiểu ý nghĩa mỗi kinh, đừng vướng vào từ ngữ mà lạc mất
ý nghĩa. Mạnh Tử xưng tụng Khổng Tử là bậc thánh chưa từng có trong loài
người. Khổng Tử thấy vua Nghiêu trong canh, thấy vua Thuấn nơi tường,
thấy Châu Công trong mộng. Lòng mong mỏi, hâm mộ ba vị thánh của Ngài
sao mà chí thành đến mức cùng cực như thế ấy!

* Tổ Thiện Đạo dạy người nhất tâm trì danh, đừng tu tạp nghiệp là vì sợ
kẻ trung căn, hạ căn do tạp nghiệp tâm sẽ khó quy nhất, cho nên Ngài dạy
chuyên tu. Tổ Vĩnh Minh dạy người “muôn điều thiện cùng tu” và “hồi
hướng Tịnh Độ” là vì sợ hành nhân thượng căn thiên chấp, đến nỗi phước
huệ chẳng thể xứng tánh viên mãn, cho nên ngài dạy “viên tu” (tu trọn
khắp).

* Kinh rách nát chẳng thể tu bổ được nữa nếu đốt đi cũng không có lỗi
gì. Nhưng nếu thấy còn có thể tu bổ được thì đừng nên đốt đi. Nếu chẳng
biết lẽ biến thông, cứ một mực chẳng dám thiêu, thì kinh ấy rốt cuộc chẳng
thể xem được, cũng chẳng thể cất giữ như kinh còn tốt, lại trở thành khinh
nhờn. Cái lỗi khinh nhờn ấy gây hại cho người lắm, há chẳng nên biết đến lẽ
quyền biến hay sao?

* Trong các thứ thuốc đối chứng trị bệnh cho người hiện tại, nhân

quả là vị thuốc bậc nhất, pháp Tịnh Độ là pháp nên tu bậc nhất. Bất luận

căn tánh nào, chẳng thể không trước tiên tìm tòi học hỏi pháp nhân quả,

pháp Tịnh Độ.

Còn về giáo tướng, phải chọn lựa người mà giảng giải, bởi những

người học ai nấy đều có những điều phải học riêng, Phật học chỉ là học

kèm theo mà thôi. Nếu là kẻ căn cơ nông cạn, ắt sẽ chuyên chú vào Giáo

tướng, quăng Tịnh Độ ra sau ót, đến nỗi rốt cuộc thành hữu nhân vô quả,

cho nên chớ giảng dạy chẳng xứng với căn cơ.
Nay trong số những người tôn sùng Tướng tông cũng có tệ nạn ấy.

Người đề xướng [học Tướng tông] chẳng thật sự vì liễu sanh thoát tử, mà

chỉ nhằm thông hiểu pháp tướng để có thể giảng nói mà thôi. Nếu như

những kẻ đó hiểu “dùng tự lực để liễu sanh tử’ là chuyện khó, ắt sẽ chẳng

chuyên chú vào việc đó (tức là chỉ lo học cho hiểu Tướng tông) rồi bỏ

qua pháp Tịnh Độ không thèm hỏi tới, hoặc còn chê bai là pháp nông cạn

nữa. Những kẻ ấy đều thuộc loại ham cao chuộng trội, nhưng chẳng biết

thế nào là cao trội cả. Nếu thật sự biết, dù có bị giết cũng chẳng chịu bỏ

qua pháp môn Tịnh Độ, cứ cực lực tu hành. Học đạo thật là khó lắm vậy!

* Chúng sanh căn khí bất nhất; Như Lai từ bi vô lượng. Nếu ai thật sự

chân thật, chí thành, cung kính niệm Phật thì đến lúc lâm chung, tự sẽ có

những chuyện chẳng mong mỏi mà tự nhiên đạt được. Những lời lẽ của

ngài Tử Bách, ngài Hám Sơn rất là thân thiết, nhưng hai vị đều là bậc tri

thức trong Tông môn, nếu [đem những lời đó] nói với những người thật

sự có lòng tin chân thành, nguyện thiết tha thì sẽ có ích. Nhưng nếu nói

với người chỉ có chút thiện căn, chưa thể chuyên tu thì họ sẽ nghĩ chuyện

sanh Tây vượt quá khả năng của họ; từ đó họ sẽ đánh trống lùi. Thuyết

pháp chẳng phù hợp căn cơ sẽ thành lời nói suông, đúng là như vậy đó.
* Pháp môn Niệm Phật lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông,

lấy Bồ Đề tâm làm căn bản, lấy “tâm này làm Phật, tâm này là Phật” làm

thật nghĩa “nhân thấu biển quả, quả tột nguồn nhân”, lấy “nhiếp trọn sáu

căn, tịnh niệm tiếp nối” làm công phu tối thiết yếu để hạ thủ. Lấy đó mà

hành, và nếu tứ hoằng thệ nguyện lại chẳng lìa tâm, thì tâm sẽ hợp với

Phật, tâm hợp với đạo, ngay trong đời này dự vào dòng thánh, lâm chung

lên ngay thượng phẩm, chẳng uổng cái đời này vậy!

---o0o---

11. Luận về Trung Ấm


* Trung Ấm tức là thần thức, chẳng phải là thần thức biến thành

Trung Ấm, thế tục gọi là “linh hồn”. Những thuyết “Trung Ấm cứ bảy

ngày lại một lần sống chết, bốn mươi chín ngày ắt sẽ đầu thai”... chẳng

nên chấp nê. Trung Ấm có sống chết là do vô minh trong tâm biến hiện

tướng sanh diệt, đừng ngây ngô tưởng Trung Ấm [thật sự] có sống chết

như người trong thế gian. Trung Ấm thọ sanh, nhanh thì như trong

khoảng khảy ngón tay liền vào tam đồ, lục đạo; chậm thì đến bốn mươi

chín ngày hoặc lâu hơn bốn mươi chín ngày v.v...

Người mới chết mà có thể khiến người quen biết trông thấy vào ban

ngày hay ban đêm, tiếp xúc với hoặc trò chuyện với người đó thì chẳng

riêng gì Trung Ấm mới làm được như vậy, ngay cả những người đã thọ

sanh trong đường thiện hay ác vẫn có thể vì người quen thuộc, thân thích
khi trước mà hiện hình một phen. Đây tuy là do ý niệm của người đó biến

hiện, nhưng chủ yếu là do những thần thánh trong thế gian hỗ trợ nhằm

bóng gió chỉ bày: con người chết đi, thần minh (thần thức) chẳng diệt và

quả báo thiện ác chẳng phải là hư huyễn vậy!

Nếu không, người dương gian chẳng biết đến việc cõi âm, mù quáng

cho rằng người chết đi thân xác đã mục nát thì thần thức cũng phải phiêu

tán, rồi bao người phụ họa theo khiến cho người trong khắp thế gian cùng

bị hãm trong hầm sâu tà kiến “chẳng có nhân quả, chẳng có đời sau, hậu

thế”, sẽ thấy người lành cũng chẳng tự nỗ lực tu đức, kẻ ác càng muốn

cùng hung cực ác tạo nghiệp. Dù có lời Phật dạy mà vẫn không có cách

nào để chứng minh thì ai chịu tin nhận đây?

Những chuyện hiện hình hiện bóng ấy đủ chứng tỏ lời Phật chẳng

dối, quả báo phân minh, chẳng những người lành càng hướng tới điều

lành, ngay cả kẻ ác cũng bị những tình lý ấy khuất phục, chẳng đến nỗi

mười phần quyết liệt. Thiên địa, quỷ thần muốn cho con người hiểu rõ

việc ấy nên mới có những chuyện người đã chết hiện thân trong cõi đời,

người dương gian xử án cõi âm v.v... Đấy đều là vì muốn hỗ trợ Phật

pháp, giúp sức phô diễn trị đạo. Lý này rất vi tế, nhưng quan hệ rất lớn.

Những chuyện như vậy xưa nay chép trong sách vở rất nhiều, nhưng
chưa hề nói rõ nguồn gốc của sự biến hiện đó cũng như những lợi ích liên

quan.

* Trung Ấm tuy lìa thân xác, nhưng vẫn có tình kiến về thân xác

giống như khi chưa chết. Đã có tình kiến về thân xác, đương nhiên [nảy

sanh ý niệm] phải có cơm áo để sử dụng. Do phàm phu nghiệp chướng

quá nặng, chẳng biết Ngũ Uẩn vốn là không, nên [người trong trạng thái

Trung Ấm] chẳng khác gì với người sống. Nếu là bậc đủ đại trí huệ sẽ

nhằm ngay lúc trút bỏ xác thân không còn phải nương tựa nữa, liền biết

Ngũ Uẩn là không nên các khổ tiêu diệt, nhất chân hiển hiện, vạn đức

phô bày trọn vẹn.

Tuy cảnh giới [người sống và kẻ chết] bất tất phải nhất định giống hệt

nhau, nhưng nào trở ngại gì đến việc tùy tình kiến mỗi người mà có các

thứ cần dùng. Ví như khi đốt quần áo giấy, người còn sống chỉ giữ ý

tưởng gởi áo cho người chết, còn quần áo lớn, nhỏ, ngắn, dài làm sao vừa

vặn thích hợp cho được. Nhưng do tình kiến của người sống lẫn tình kiến

của người chết, quần áo sẽ vừa vặn cả. Điều này giúp ta thấy được nghĩa

lý lớn lao “hết thảy các pháp tùy tâm chuyển biến”...

---o0o---

12. Luận về bốn cõi Tịnh Độ


* Hai cõi Phàm Thánh Đồng Cư và Phương Tiện Hữu Dư là ước theo

phàm phu đới nghiệp vãng sanh và tiểu thánh Nhị Thừa đã đoạn Kiến Tư
Hoặc mà lập, chứ chẳng thể ước theo Phật mà luận. Nếu ước theo Phật

mà nói thì chẳng những toàn thể bốn cõi Tịnh Độ đều là Tịch Quang, mà

ngay cả đời ác ngũ trược, tam đồ ác đạo, không sự gì Phật chẳng thấy là

Tịch Quang. Vì thế nói: “Tỳ Lô Giá Na ở khắp mọi nơi. Chỗ đức Phật ở

gọi là Thường Tịch Quang”.

“Khắp mọi nơi là Thường Tịch Quang” thì chỉ bậc đã chứng ngộ viên

mãn Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na quang minh chiếu khắp mới thọ dụng

được thôi, còn mọi người khác đều mới chỉ chứng được vài phần. Từ

Thập Tín trở xuống cho đến phàm phu, về Lý thì có Thường Tịch Quang

Tịnh Độ, nhưng về Sự thì chẳng có. Nếu muốn hiểu rõ hãy nghiên cứu

phần luận về bốn cõi Tịnh Độ trong sách Di Đà Yếu Giải; sách Phạm

Võng Huyền Nghĩa cũng giảng đầy nghĩa này (Tỳ Lô Giá Na, Hán dịch

là Quang Minh Biến Chiếu, hoặc Biến Nhất Thiết Xứ, chính là cực quả

rốt ráo của chư Phật, là hiệu chung của những vị đã chứng viên mãn pháp

thân thanh tịnh. Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na cũng thế. Như Thích Ca,

Di Đà, Dược Sư, A Súc Bệ v.v... chỉ là những danh hiệu riêng của các

hóa thân Phật mà thôi. Chữ Lô Xá Na, Hán dịch là Tịnh Mãn, do hết sạch

Hoặc nghiệp, viên mãn trọn vẹn phước huệ nên ước theo quả báo do Trí

Đức và Đoạn Đức cảm thành mà gọi như vậy).


Lại phải biết rằng Thật Báo, Tịch Quang vốn là một cõi. Ước theo

quả cảm bởi xứng tánh thì gọi là Thật Báo, ước theo lý được chứng rốt

ráo thì gọi là Tịch Quang. Sơ Trụ mới dự vào Thật Báo, chứng được một

phần Tịch Quang. Diệu Giác mới là thượng thượng Thật Báo, rốt ráo

Tịch Quang. Như vậy từ Sơ Trụ cho đến Đẳng Giác đều chỉ chứng được

vài phần hai cõi này, đối với cực quả Diệu Giác thì hai cõi ấy đều là rốt

ráo.

Nói đến Thật Báo là chỉ ước về phần chứng, nói đến Tịch Quang là

chỉ ước về cứu cánh. Tịch Quang vô tướng, Thật Báo có đủ cả vi trần số

chẳng thể nghĩ bàn Hoa Tạng thế giới hải vi diệu trang nghiêm. Ví như

hư không vốn chẳng phải là các tướng, nhưng hết thảy các tướng đều do

hư không mà phát hiện. Lại như gương báu rỗng sáng, trong suốt, trọn

chẳng có một vật gì, nhưng hễ Hồ đến Hồ liền hiện bóng, Hán đến Hán

liền hiện bóng. Thật Báo và Tịch Quang tuy một mà hai, tuy hai mà một.

Vì muốn cho người dễ hiểu nên nói là hai cõi.

* Trong bốn cõi Tịnh Độ: người đới nghiệp vãng sanh sống trong

Đồng Cư, người đoạn Kiến Hoặc sống trong Phương Tiện, người phá vô

minh sống trong Thật Báo, người hết sạch Vô Minh trụ trong cõi Tịch

Quang.
Thêm nữa, Thật Báo là ước theo quả báo cảm thành mà nói, Tịch

Quang là ước theo lý tánh được chứng mà nói; chúng vốn thuộc một cõi,

nhưng giảng như vậy cho người ta dễ hiểu. Vì thế, người phần chứng

thuộc vào Thật Báo, người mãn chứng thuộc về Tịch Quang. Chứ thật sự

trong cả hai cõi đều có đủ cả phần chứng lẫn mãn chứng. Trong Văn Sao,

tôi đã từng trình bày tường tận.

Cõi Đồng Cư tuy có đủ ba cõi kia nhưng người chưa đoạn Hoặc chỉ

thọ dụng được cảnh Đồng Cư. Dù là cảnh của người đới nghiệp vãng

sanh nhưng chẳng thể gọi cõi đó là cõi phàm phu vì họ đều đạt được ba

thứ Bất Thoái.

---o0o---

13. Luận về xá-lợi

* Xá-lợi là tiếng Phạn, Hán dịch là “thân cốt” (xương nơi thân), hoặc

dịch là “linh cốt” (xương thiêng), do sức Giới - Định - Huệ của người tu

hành tạo thành, chứ chẳng phải do luyện Tinh - Khí - Thần mà được. Đấy

chính là biểu tượng tâm hợp với đạo, tâm hợp với Phật vậy, chẳng phải

chỉ chết đi đem thiêu mới có, mà [ngay khi còn sống] xương, thịt, tóc nơi

thân đều có thể biến thành xá-lợi cả.

Xưa có vị cao tăng nhân tắm gội mà được xá-lợi. Ngài Tuyết Nham

Khâm thiền sư cạo đầu, tóc biến thành xá-lợi. Lại có người chí tâm niệm
Phật, trong miệng có xá-lợi. Lại có người khắc in sách Long Thư Tịnh

Độ, tìm được xá-lợi trong bản khắc. Lại có người thêu hình Phật, thêu

kinh, nơi mũi kim đâm xuống liền được xá-lợi. Lại có người chết đi, đem

thiêu, xá-lợi vô số, môn nhân ai nấy đều được; có một người đi xa chưa

về kịp, đến lúc trở về cúng quải trước tượng, cảm khái đau buồn, liền

nhặt được xá-lợi trước tượng. Ngày thiêu hóa Trường Khánh Nhàn thiền

sư, trời nổi trận gió lớn, khói tỏa xa ba, bốn mươi dặm. Khói bay đến

đâu, chỗ đó đều có xá-lợi, nhặt gom lại được hơn bốn thạch. Nên biết

rằng xá-lợi do đạo lực cảm thành, kẻ luyện đan chẳng biết nguyên do cứ

ức đoán lầm lạc là do Tinh - Khí - Thần cảm thành.

---o0o---

14. Luận về tý hương

* “Tý hương” là đốt hương trên cánh tay. Linh Phong lão nhân (tổ Trí

Húc Ngẫu Ích) hằng ngày trì hai kinh Lăng Nghiêm, Phạm Võng, nên

ngài thường đốt hương. Chỉ vì hết thảy chúng sanh không ai chẳng tiếc

thân mạng, bảo trọng thân mình; đối với những loài khác thì giết thân

chúng, ăn thịt chúng, tâm càng vui vẻ, còn mình bị muỗi đốt, gai đâm sẽ

khó chịu đựng được. Trong các kinh Đại Thừa như Pháp Hoa, Lăng

Nghiêm, Phạm Võng v.v.., đức Như Lai khen ngợi khổ hạnh, dạy đốt

thân, cánh tay, ngón tay để cúng dường chư Phật hòng đối trị tâm tham
và tâm yêu tiếc, bảo trọng tự thân. Trong lục độ, pháp này thuộc về Bố

Thí Độ.

Bố thí có nội, ngoại bất đồng. Ngoại bố thí là quốc thành, vợ con, nội

bố thí là đầu, mắt, tủy, não. Đốt hương, đốt thân đều gọi là Xả, phải chí

tâm khẩn thiết, ngưỡng mong Tam Bảo gia hộ, chỉ mong mình lẫn người

nghiệp tiêu, huệ sáng, tội diệt, phước tăng(nói là mình - người, nhưng

thật ra là vì mình. Lại đem công đức ấy hồi hướng cho pháp giới chúng

sanh, nên gọi là mình - người); trọn chẳng được mảy may khởi tâm cầu

tiếng tăm, cầu phước lạc nhân thiên thế gian, chỉ vì trên cầu Phật đạo,

dưới hóa độ chúng sanh mà làm thì công đức sẽ vô lượng, vô biên, chẳng

thể nghĩ bàn. Đấy gọi là tam luân thể không53 , bao gồm trọn vẹn tứ

hoằng thệ, do tâm nguyện nên công đức rộng lớn, do tâm nguyện nên

chóng đạt được quả báo.

Nếu như tâm chuộng hư danh, đem cái tâm chấp trước mà bắt chước

hành hạnh trừ khử chấp trước thì đừng nói là đốt hương trên cánh tay, dù

đốt cả toàn thân vẫn chỉ là khổ hạnh vô ích. Ấy là vì do tâm chấp trước,

vì mong được danh dự, chẳng hiểu nghĩa lý tam luân thể không, mà cũng

chẳng gồm trọn bốn hoằng thệ nguyện; khiến pháp phá trừ thân kiến của

Như Lai trở thành pháp khiến thân kiến càng thêm kiên cố. Tội phước do

tâm mà chia, quả báo do tâm mà khác. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm nói: “Bò
uống nước thành sữa. Rắn uống nước thành nọc độc. Kẻ trí học thì

chứng Niết Bàn, người ngu học đến càng tăng thêm sanh tử!”

* Tâm Bồ Tát hệt như thái hư, không gì là chẳng bao quát, vì muốn

lợi lạc chúng sanh nên bày mọi phương tiện, trước là dùng dục để lôi kéo,

sau mới khiến nhập Phật trí. Chớ dùng tri kiến phàm phu để suy lường

lầm lạc. Vì các ngài đã chứng Pháp Nhẫn, trọn không còn có nhân - ngã,

chỉ muốn nhiếp thọ hết thảy chúng sanh vào biển pháp đại giác của Như

Lai. Nếu so đo, tính toán sẽ thuộc về tình kiến, chẳng thể ngầm khế hợp

với đạo vô nhân ngã.

Nói “bố thí đầu, mắt, tủy, não” là sự thật, còn nói [bố thí cả] kỹ nữ,

thể nữ... chẳng qua là để diễn tả tâm bố thí rộng lớn của Bồ Tát, chớ vì từ

hại ý, chấp chết lời nói. [Nếu chấp câu nguyện] “nguyện kỹ nữ đầy dẫy

trong a tăng kỳ thế giới” [là sự thật] thì biết an bài họ vào đâu đây? Câu

nói ấy hiển thị Bồ Tát bỏ cả trong lẫn ngoài, trọn chẳng tham tiếc, trong

thì bỏ cả đầu, mắt, tủy, não, ngoài thì bỏ quốc thành, vợ con, chẳng sanh

tham chấp với bất cứ một pháp nào. Vì thế, ở trong sanh tử chỉ mình Bồ

Tát được giải thoát.

Những kẻ nhận bố thí kia do được nguyện lực của Bồ Tát nhiếp trì

nên sẽ ngay trong lúc này hoặc trong đời sau không kẻ nào chẳng đích

thân được hưởng lợi ích, liễu sanh thoát tử; như vua Ca Lợi cắt chặt thân
thể [Nhẫn Nhục tiên nhân], sau này trở thành người được [Phật] độ đầu

tiên là ngài Kiều Trần Như. Phàm phu tiểu tri tiểu kiến há có thể suy

lường được tâm đại Bồ Đề lượng như thái hư ư?

Phải biết rằng: phàm phu chưa đắc Pháp Nhẫn, trong tâm ngưỡng mộ

đạo Bồ Tát, nhưng hành sự phải thuận theo lý thường của phàm phu, nếu

không sẽ có thể gây trở ngại cho việc gìn giữ, duy trì đạo pháp. Nếu chưa

chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, dù chẳng duy trì pháp đạo, cũng chẳng nên

học theo Bồ Tát bỏ đầu, mắt, tủy, não v.v... bởi tự lực chẳng đủ, chẳng

kham nhẫn thọ, cả mình lẫn người đều chẳng được lợi ích gì cả. Phàm

phu cứ căn cứ theo những điều phàm phu có thể làm được mà làm thì

mới nên.

---o0o---

15. Luận về cảnh giới

* Người niệm Phật lâm chung được Phật tiếp dẫn; đấy là chúng sanh

và Phật cảm ứng đạo giao, dù chẳng lìa khỏi tâm nghĩ tưởng nhưng chẳng

thể nói là [cảnh giới ấy] chỉ do mỗi mình tâm tưởng hiện, tuyệt đối chẳng

có chuyện Phật, Thánh nào đến nghênh tiếp cả! Tâm tạo địa ngục thì lâm

chung tướng địa ngục hiện. Tâm tạo Phật quốc thì lâm chung tướng Phật

quốc hiện.
Nói “tướng tùy tâm hiện” thì được, nhưng nói “chỉ có tâm không có

cảnh” thì chẳng được. Nếu bậc đại giác Thế Tôn nói “chỉ có tâm không

có cảnh” thì chẳng có lỗi gì, chứ nếu các hạ nói như vậy ắt sẽ rớt vào tri

kiến đoạn diệt, ắt thành tà thuyết phá hoại pháp môn tu chứng của đức

Như Lai; chẳng thể không dè dặt được. Nếu nói tỉ mỉ mỗi điều, ắt phí bút

mực. Biết một ắt sẽ suy được cả ba, không còn sót nghĩa nào.

* Phải biết rằng hiện tại không có pháp nhất định. Do cái thấy của

mỗi người khác nhau nên hãy tạm gác những cảnh giới của Phật, Bồ Tát

lại đó, chỉ dùng những cảnh phàm tiểu để giảng rõ. Ông Tử Tấn là con

vua Châu Linh Vương, học đạo tiên bảy ngày, khi xuất hiện ở Hầu Sơn

thì đã qua đời Tấn. Vì thế mới có thơ rằng:

Vương tử khứ cầu tiên,

Đan thành nhập cửu thiên,

Động trung phương thất nhật,

Thế thượng kỳ thiên niên.

(Vương tử học đạo tiên,

Thành đạo dạo cửu thiên,

Trong động chỉ bảy bữa,

Trần gian gần nghìn niên)


(Chữ “kỷ” phải đọc giọng bằng, có nghĩa là “gần”. Từ đời Châu Linh

Vương đến nhà Tấn, thời gian dài gần một ngàn năm)

Lại như ông Lã Thuần Dương gặp Chung Ly Quyền trong quán trọ ở

Hàm Đan, ông Chung khuyên họ Lã học đạo Tiên, họ Lã muốn được phú

quý rồi mới học. Chung trao cho Lã một cái gối bảo hãy ngủ một giấc.

Họ Lã mộng thấy mình làm quan từ chức nhỏ đến chức lớn, rồi làm đến

Tể Tướng. Năm mươi năm phú quý vinh hoa, thật ít có trong đời. Con

cháu đầy nhà, thường sung sướng không tai ương gì. Sau vì một chuyện

chẳng hợp ý bề trên bèn tự thoái quan. Lúc tỉnh giấc ra, chủ quán trọ còn

đang nấu nồi cháo kê vàng!

Trong mộng thấy ra vào làm tể tướng, bao nhiêu là chuyện lớn, thời

gian lâu cả năm mươi năm, tỉnh giấc, nồi cháo kê vàng vẫn chưa nhừ.

Đấy chẳng qua là cảnh do tiên nhân biến hiện, mà còn có thể trong một

niệm biến hiện những sự nghiệp, cảnh giới của cả năm mươi năm; huống

hồ là cảnh giới của Phật là vị trời trong trời, là thánh của các thánh, của

các vị đại Bồ Tát đã chứng Pháp Thân? Vì thế, ngài Thiện Tài vào trong

lầu gác của đức Di Lặc, vào trong một lỗ chân lông của đức Phổ Hiền,

đều ở trong mười phương thế giới hành lục độ vạn hạnh trải Phật sát vi

trần số kiếp. Xem đoạn văn ấy, ông còn có thể suy lường được chăng?
Phải biết rằng ba đời không thật thể, còn là phận phàm phu thì chỉ

thấy được cảnh giới của phàm phu, chẳng được vin vào cảnh giới phàm

phu thấy được đó mà bảo cảnh giới của Phật, Bồ Tát cũng giống như thế,

chẳng có gì khác! Nay tôi dùng ví dụ để giảng rõ: Như gương soi tỏ mấy

mươi tầng núi sông, lầu gác, thật chẳng có gần xa, nhưng gần xa rành

rành! Sắc pháp thế gian còn như thế, huống là bậc đã chứng tâm pháp

duy tâm tự tánh ư? Bởi thế mới nói: “Ư nhất hào đoan, hiện bảo vương

sát, tọa vi trần lý, chuyển đại pháp luân” (trên đầu sợi lông, hiện cõi bảo

vương, ngồi trong vi trần chuyển đại pháp luân).

Mười đời xưa nay, trước sau chẳng lìa đương niệm, vô biên cõi nước

chẳng xa cách [một khoảng nhỏ bằng] đầu sợi lông! Phàm những gì

thuộc về cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn thì hãy nên ngửa tin lời Phật, đừng

suy lường xằng. Nếu như khẩn thiết đến cùng cực, sẽ tự hiểu rõ hết, cũng

chẳng cần phải hỏi ai khác cả. Nếu chẳng khẩn thiết, chí thành, dù ra sức

lễ bái, trì tụng, nhưng cứ suốt ngày đem những cảnh giới mà phàm phu

chẳng thể suy lường được để cuồng vọng suy lường thì có khác gì đi theo

vết xe đổ của huyễn nhân pháp sư, dù có muốn chẳng vướng lấy tội báo

báng Phật, báng Pháp, báng Tăng cũng chẳng thể được!
* Biết lệnh nghiêm54 có rất nhiều điều linh cảm, tôi khôn ngăn bội

phục. Như ước về lúc thọ pháp, nếu Đại Sĩ cùng thiên long bát bộ cùng

hiện thì Mật Tông vẫn có cấm giới chẳng cho tuyên truyền diệu cảnh.

Đấy phải chăng là vì lòng sùng phụng trong sạch, bền chắc mà ngài thuận

lòng thị hiện chăng? Nếu hiểu như vậy, nhất định [người được thấy diệu

cảnh đó] phải có sở chứng. Nếu [người ấy] không có sở chứng, nhất định

thánh chẳng tùy tiện ứng hiện xuông!

Còn như việc “thấy ứng thân” như luận Khởi Tín đã nói thì đó là tình

cảnh người niệm Phật lúc lâm chung, vì chưa phá được vô minh nên ứng

thân, báo thân, pháp thân [người ấy] được thấy đó đều chẳng phải là do

thiện căn của người ấy mà được thấy. Bồ Tát ứng hiện ở Phạm Âm động

tại Phổ Đà cũng là phương tiện quyền biến để tăng trưởng tín tâm cho

chúng sanh, tuy người người được thấy nhưng chẳng thể lấy đó làm

chứng cứ. Nếu cứ vin vào đó, ắt sẽ khiến hết thảy mọi người đều dựa

dẫm vào đó mà đồn thổi. Người xưa được thấy Bồ Tát Văn Thù ở Ngũ

Đài rất nhiều, nhưng đều là những vị có đại nhân duyên hoặc là công phu

tu tập sâu dày, hễ ai gặp Ngài đều có điểm chứng ngộ giải nhập.

Năm Quang Tự thứ mười hai, Quang tôi triều bái Ngũ Đài, trước hết

ngụ tại xưởng chế tạo lưu ly ở Bắc Kinh, tìm tác phẩm Thanh Lương Sơn

Chí khắp nơi nhưng chỉ tìm được một bộ, thường xem hằng ngày. Do trời
lạnh, đến tháng Ba mới đến được núi. Ở trên núi hơn bốn mươi ngày,

thấy những người lên núi triều bái, đa số nói được thấy Bồ Tát Văn Thù,

nhưng người thật sự hành trì rất ít. Thế mới biết là những người lên núi

triều bái nói được thấy Bồ Tát đều chỉ nói dựa theo những tích chuyện

của cổ nhân để khoe khoang đó thôi. Nếu ai thật sự được thấy ắt sẽ giấu

kín. Vàng thau khác biệt! Nếu không, ngài Văn Thù chẳng tự trọng,

khinh thị hiện thân, còn ra thế nào nữa?

“Lý tức Phật” hết thảy chúng sanh đều có, chứ chẳng phải chỉ riêng

người nghịch trần hiệp giác. Nếu là hạng nghịch trần hiệp giác thì đã

thuộc về “danh tự tức Phật”. Ông X. nọ [khoe] khi nhập định giống hệt

như Tỳ Lô Giá Na, khi xuất định lại vẫn là phàm phu, nhưng chẳng biết

hổ thẹn, còn lớn tiếng khinh người. Nếu thật sự giống hệt như Tỳ Lô Giá

Na, quyết chẳng đến nỗi vẫn là phàm phu! Ông ta toan dùng Mật tông để

lòe người, chẳng biết rằng Quang tôi dù chẳng biết Mật tông đi nữa, lẽ

nào chẳng biết đúng sai, dễ hồ lung lạc được ư?

---o0o---

16. Luận về thần thông

* Đạo Tế thiền sư là bậc thánh nhân đại thần thông. Ngài muốn khiến

cho hết thảy mọi người sanh tín tâm nên thường hiển hiện những sự

chẳng thể nghĩ bàn. Ngài ăn thịt uống rượu để giấu kín cái đức của bậc
thánh nhân, là vì muốn cho những kẻ ngu tưởng ngài là kẻ điên rồ, không

pháp tắc; nhân đó, chẳng tin tưởng ngài. Nếu không làm thế, ngài sẽ

chẳng thể trụ trong thế gian.

Phật, Bồ Tát hiện thân, nếu thị hiện giống như phàm phu thì các ngài

chỉ dùng đạo đức để giáo hóa người, tuyệt đối chẳng hiển hiện thần

thông. Nếu hiển hiện thần thông sẽ chẳng trụ trong thế gian được; còn

nếu hiện làm kẻ điên rồ, dù có hiển thị thần thông cũng chẳng trở ngại gì.

Chớ bảo người tu hành ai nấy đều nên uống rượu, ăn thịt! Người lành thế

gian còn chẳng uống rượu, ăn thịt, huống hồ là đệ tử Phật! Muốn giáo

hóa chúng sanh mà chính mình chẳng y giáo phụng hành thì chẳng những

làm cho người khác chẳng tin, mà còn khiến họ thoái thất tín tâm nữa. Vì

thế chẳng được học đòi uống rượu, ăn thịt.

Ngài (Đạo Tế) ăn những con vật chết, ói ra những con vật sống. Ông

ăn con vật chết vào, còn chưa ói ra thịt còn nguyên hình dạng được nổi,

làm sao học đòi ngài ăn thịt cho được? Ngài uống rượu vào bèn nhả ra

vàng để thếp tượng Phật, khiến cho vô số cây gỗ lớn từ trong giếng trồi

lên. Ông uống rượu vào, muốn cho nước từ dưới giếng trào lên còn

không được, làm sao học đòi ngài [uống rượu] cho được?

Truyện về Tế Công có đến mấy loại, nhưng chuyện Túy Bồ Đề hay

nhất. Gần đây có đến tám bản khác nhau lưu thông, đa phần là những bản
do người đời sau thêm thắt vào. Chuyện Túy Bồ Đề cả văn lẫn nghĩa đều

hay, những chuyện được kể trong ấy đều là những sự thực khi ấy. Thế

nhân chẳng biết nguyên do, không bắt chước bừa theo thì cũng hủy báng

xằng bậy. Học bừa theo đó sẽ quyết định phải đọa địa ngục. Hủy báng

xằng bậy tức là dùng tri kiến phàm phu để suy lường thần thông của

thánh nhân, cũng mắc lỗi, nhưng so với kẻ học bừa theo, tội còn nhẹ

nhiều hơn lắm. Thấy những điều chẳng thể nghĩ bàn của ngài phải nên

sanh lòng kính tin, thấy ngài uống rượu, ăn thịt, chẳng chịu bắt chước

làm theo thì sẽ được lợi ích, chẳng bị tổn hại vậy.

* Người có thể hoằng đạo, chứ đạo chẳng thể hoằng người. Thế gian

loạn lạc là do ác nghiệp của đồng phận chúng sanh cảm thành, các thuyết

tà vạy cũng thế (cũng do cùng nguyên do ấy). Phong tục thế gian biến

đổi, lúc thoạt đầu đều là do một hai kẻ phát khởi. Yên bình, loạn lạc, tà,

chánh không gì đều chẳng như thế cả; sao chẳng xét đến sức người để

chuyển biến, lại cứ quy vào sức thần thông của Phật, Bồ Tát để hòng

chuyển biến vậy? Chẳng phải là Phật, Bồ Tát chẳng thể hiển thị thần

thông biến hiện, khổ nỗi chúng sanh nghiệp nặng, nên [dù có biến hiện]

cũng vẫn như không.

Ví như mây dầy, sương đậm, mờ mịt chẳng thấy được mặt trời giữa

ban ngày, bèn bảo là chẳng có mặt trời ư? Con người cùng trời, đất gọi là
Tam Tài; Tăng và Phật, Pháp gọi là Tam Bảo. Gọi như vậy là do căn cứ

vào ý nghĩa hỗ trợ, tán dương công sanh trưởng [của trời đất], hoằng

dương đạo pháp mà đặt tên. Ông cứ muốn bỏ nhân lực, bám vào sức của

Phật, Bồ Tát, trời đất, có còn đáng bảo là biết đạo chăng?

Đời đại loạn, đại bi Bồ Tát thị hiện cứu hộ cũng chỉ cứu được kẻ hữu

duyên; vì loạn lạc chính là đồng nghiệp, còn túc nhân, hiện duyên (duyên

hiện tại) là biệt nghiệp. Có biệt nghiệp cảm được Bồ Tát thì sẽ được Bồ

Tát gia bị, cứu hộ, há nên ngông nghênh bàn bạc ư? Những việc phương

tiện thuận nghịch cứu hộ chúng sanh của Bồ Tát chẳng phải là chuyện kẻ

hiểu biết lầm lạc, hẹp hòi có thể thấu hiểu được đâu!

Nay tôi vì ông nói một thí dụ để từ đó mà suy rồi đừng nói Bồ Tát

thật là oan gia, cũng như để tạo thành nền tảng tốt đẹp hòng nhập đạo

thành Phật. Chư Phật lấy tám khổ làm thầy để thành đạo Vô Thượng.

Như vậy, Khổ là cái gốc để thành Phật. Thêm nữa, Phật dạy đệ tử lúc ban

đầu phải tu Bất Tịnh Quán. Quán lâu ngày ắt có thể đoạn Hoặc, chứng

Chân, thành A La Hán. Như vậy Bất Tịnh lại là cội gốc của Thanh Tịnh.

Người ở Bắc Câu Lô Châu hoàn toàn chẳng khổ, nên chẳng thể nhập

đạo. Châu Nam Diêm Phù Đề sự khổ rất nhiều nên người nhập Phật đạo

để liễu sanh tử không thể tính nổi số. Giả sử thế gian tuyệt chẳng có các

khổ: sanh, lão, bệnh, tử, đao binh, thủy, hỏa v.v... thì ai nấy đều sống say
chết ngủ trong lạc thú phóng dật, có ai chịu phát tâm xuất thế để liễu sanh

tử đâu? Ngay cả kẻ thống lãnh quân mạnh, giữ địa vị cao, gây bao việc

khổ não chúng sanh biết đâu là bậc đại bi thị hiện đó chăng? Nghĩa này

chỉ có thể nói cùng người thông suốt, đừng nói với kẻ vô tri, vô thức. Nếu

là người thông suốt, dù thật sự là ác ma, cũng có thể được lợi ích; còn

người vô tri vô thức nếu biết đến nghĩa này ắt sẽ chẳng biết phát tâm tu

hành, trái lại còn hủy báng Phật pháp.

Ví như dùng thuốc, trẻ nhỏ chẳng thể uống thuốc, bèn bôi thuốc lên

vú thì nó dù không uống cũng thành uống. Ông toan làm bậc thông suốt,

nhưng triển khai rộng lớn nghĩa này thì hại người rất nhiều, lợi người rất

ít. Xin hãy thầm tâm niệm, đừng bàn nói ẩu. Cảnh giới của Phật, Bồ Tát,

phàm phu chẳng thể suy lường được đâu!

---o0o---

17. Luận về bí truyền

* Nay các ngoại đạo, không đạo nào chẳng dùng cách bí truyền để

dẫn dụ, khêu gợi kẻ vô tri theo đạo họ. Lúc nguyện gia nhập, ắt phải phát

thệ: Từ rày về sau, nếu phản lại đạo ắt sẽ mắc ác báo như thế này, như thế

nọ. Thật sự ra, đa phần là những pháp dối người. Do trót phát thệ, dù có

biết những sai trái trong đạo cũng chẳng dám trái nghịch hoặc phơi bày
ra. Cách phát thệ bí truyền của ngoại đạo ràng buộc, làm con người lầm

lạc quá đáng vậy.

Đức Phật ta chẳng có pháp bí truyền; đối với một người Ngài cũng

nói thế, với vạn người Phật cũng dạy như thế. Cửa đóng, then cài, bên

ngoài đặt người tuần hành canh gác, chỉ cho một người vào, thì thầm

chẳng cho người ngoài nghe được, những đạo như thế chẳng có chuyện

quang minh, chánh đại gì đâu! Mong các vị hiểu được tệ nạn ấy nên tôi

mới lược thuật vậy!

* Nếu có bí quyết mầu nhiệm chỉ khẩu truyền ở chỗ kín đáo thì chính

là tà ma ngoại đạo, chẳng phải là Phật pháp.

---o0o---

18. Luận về cầu cơ

* Những lời giáng cơ trong đàn cầu cơ đa phần là do những linh hồn

dựa dẫm vào tri thức của người xoay cơ mà nói ra. Nếu nói về đạo lý thế

gian còn đúng được nhiều, chứ nói đến Phật pháp thì do chính mình

chẳng biết, bèn bịa ra các lời nhảm nhí.

* Cầu cơ đa phần là các linh hồn giả mạo Phật, tiên, thần, thánh.

Những hồn kém cỏi chẳng có sức thần thông, những hồn khá hơn sẽ biết

được tâm người nên dựa dẫm vào sự thông minh và tri thức của người

[phò cơ] để nói này nói nọ.


Ông Kỷ Văn Đạt nói: “Cầu cơ đa phần là linh hồn giả danh giáng

cơ. Tôi cùng người anh tên là Thản Nhiên cùng phò cơ. Tôi biết làm thơ,

nhưng chữ viết không ra gì. Tôi phò cơ thì thi từ mẫn tiệp, nhưng chữ viết

nguệch ngoạc, xiên xẹo. Thản Nhiên phò cơ thì thi từ tầm thường, chữ

viết sắc sảo. Với những hồn giả mạo cổ nhân, nếu chú tâm hỏi vào những

điểm bí nhiệm, quan yếu, bèn nại cớ năm tháng cách xa, chẳng còn nhớ

gì nữa, nên biết hồn ấy chẳng phải thật”.

Như vậy, cái linh ứng của những hồn ấy chỉ là chúng có thể dựa vào

những điều đã biết trong tâm của người hiện tại để mượn dùng. Với

những điều tuy có trong thức điền, nhưng trong cái thấy biết hiện tại của

đương nhân không có, hoặc người ấy chẳng biết đến nghĩa đó thì hồn

chẳng thể dạy gì về điều ấy được. Sánh với tha tâm thông của bậc nghiệp

tận tình không khác nhau một trời, một vực, nhưng xét về khí phần thì có

vẻ tương tự mà thôi. Tôi lại chỉ sợ quý vị bị mê hoặc bởi những lời giáng

cơ, nên chẳng thể không dẫn chứng để phân trần vậy.

* Gần đây, các đàn cơ ở Thượng Hải rất thịnh hành. Những lời khai

thị sửa lỗi, hướng thiện, tiểu luân hồi, tiểu nhân quả [của các đàn cơ ấy]

đều rất có ích đối với thế đạo nhân tâm, nhưng những lời giảng về cõi

trời, về Phật pháp toàn là những lời lẽ quàng xiên. Chúng ta là đệ tử Phật

chẳng thể bài xích pháp ấy vì sẽ mắc lỗi ngăn trở người khác hướng
thiện, nhưng cũng chẳng thể phụ họa, tán dương pháp ấy bởi những lời

giáng cơ về Phật pháp toàn là ức đoán, chỉ e gây thành cái họa hoại loạn

Phật pháp, lầm lạc chúng sanh.

---o0o---

19. Luận về luyện đan

* Phật pháp chỉ dạy người dứt ác tu thiện, minh tâm kiến tánh, đoạn

Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử. Toàn bộ Đại Tạng kinh trọn chẳng

có lấy một chữ dạy người vận khí luyện đan, cầu thành tiên bay lên trời,

trường sanh bất lão chi cả.

Thời kỳ đầu Dân Quốc, gã dân ma Liễu Hoa Dương soạn Huệ Mạng

kinh, tận dụng kinh Phật, lời Tổ để chứng minh cho pháp luyện đan, xoay

chánh thành tà, dùng pháp báng pháp. Người chưa mở mắt thấy tà thuyết

đó ngỡ là chân thật, đánh mất chánh kiến mãi mãi. Lời lẽ, sự tu hành của

họ đều là phá hoại Phật pháp, nhưng vẫn hiu hiu tự đắc, cho mình may

mắn gặp được chân thừa, được nghe chánh pháp, đúng là nhận giặc làm

con, nấu cát thành cơm, một gã lòa dẫn lũ mù kéo nhau sa hầm lửa,

chẳng đáng buồn ư!

Phàm một pháp luyện đan chẳng phải là không lợi ích, nhưng chỉ có

thể kéo dài tuổi thọ, cao nhất là thành tiên bay lên trời, pháp ấy còn chưa

phải là chân truyền của Lão Tử, huống hồ là chánh đạo của Phật pháp ư?
Khổng Tử nói: “Triêu văn đạo, tịch tử khả hỹ!” (sáng nghe đạo, tối chết

cũng đành)”. Lão Tử nói: “Ngô hữu đại hoạn vi ngô hữu thân” (ta có

mối lo lớn là ta có thân). Nếu lãnh hội được những lời ấy sẽ chẳng bị bọn

luyện đan kia mê hoặc. Hãy đọc kỹ các sách An Sĩ Toàn Thư, Cư Sĩ

Truyện, Bình Tâm Luận, Kê Cổ Lược.... thì gương sáng đặt trên đài, tốt

xấu tự phân, lò nung thử vàng, thật giả rạch ròi.

* Trộm nghĩ nguồn gốc của Thích và Đạo chẳng hai, nhưng nhánh

nhóc, chi phái khác xa nhau một trời một vực. Phật giáo dạy người trước

hết tu Tứ Niệm Xứ Quán: quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm

vô thường, quán pháp vô ngã. Đã biết thân, thọ, tâm, pháp đều thuộc

huyễn vọng, khổ, không, vô thường, vô ngã, bất tịnh thì Chân Như diệu

tánh sẽ tự hiển hiện.

Nếu ước theo nguyên sơ chánh truyền thì Đạo giáo cũng chẳng lấy

việc vận khí luyện đan chỉ cầu trường sanh làm trọng; đời sau tu hành

theo Đạo Giáo, không một ai là chẳng coi pháp ấy là chánh tông! Phật

giáo không điều lớn lao nào chẳng bao gồm, không điều nhỏ nhặt nào

chẳng đề cập đến, chẳng những phát huy đạo lý thân tâm tánh mạng đến

hết sạch không còn sót, mà ngay cả những điều nhỏ nhặt như hiếu, đễ,

trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ... của Thế Đế, mảy may điều thiện nào cũng

chẳng bỏ sót. Chỉ riêng đối với việc luyện đan vận khí không có lấy một
chữ nhắc đến, nhưng [đệ tử Phật] phải kiêng dè sâu xa [đừng luyện đan],

bởi một đằng dạy người biết thân tâm là huyễn vọng, một đằng lại dạy

người chấp chặt thân tâm là chân thật.

Cái tâm vừa nói đó chỉ là tâm tùy duyên sanh diệt, chẳng phải là chân

tâm sẵn có. Một pháp luyện đan chẳng phải là không có lợi ích, nhưng

chỉ kéo dài được tuổi thọ, cao nhất là thành tiên bay lên trời, nếu bảo là

pháp để liễu sanh thoát tử thì chỉ là lời nói mớ mà thôi!

---o0o---

20. Luận về tu hành, xử sự phải phù hợp, thích nghi

* Đối với pháp niệm Phật phải tùy theo sức lực của mỗi người; tùy

tiện niệm ra tiếng, niệm thầm, niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng, không

cách nào là chẳng được, lẽ nào cứ một mực niệm lớn tiếng đến nỗi tổn

hơi thành bệnh vậy? Căn bệnh nặng của ông do khí bị thương tổn mà ra

nhưng thật sự là do nghiệp lực từ vô lượng kiếp biến hiện.

Do ông tinh tấn niệm Phật nên chuyển hậu báo thành hiện báo,

chuyển báo nặng thành báo nhẹ. Chẳng biết là do căn bệnh này sẽ tiêu

được tội tam đồ ác đạo trong bao nhiêu kiếp số. Phật lực khó nghĩ lường,

Phật ân khó báo, hãy nên sanh lòng vui mừng, nghĩ mình may mắn lớn

lao, sanh lòng tin trong sạch lớn lao, dùng một pháp Tịnh Độ tự hành,

dạy người, mong sao quyến thuộc trong nhà cùng hết thảy những ai hữu
duyên cùng sanh Tây Phương thì mới chẳng phụ căn bệnh này, mới khỏi

phụ ân Phật vì mình hiện thân vậy!

* Học Phật phải chuyên lấy việc tự liễu ngộ làm chánh, nhưng cũng

phải tùy phần, tùy sức làm các công đức. Phải là người có sức lớn lao

mới hòng triệt để buông xuống, triệt để đề khởi được. Người căn cơ trung

hạ nếu không làm gì hết sẽ liền thành biếng nhác, trây lười, đã chẳng hiểu

đúng tự lợi mà đối với việc lợi người cũng gác bỏ hết, trở thành cái tệ

như Dương Tử “dù nhổ một cái lông làm lợi cho người khác cũng chẳng

chịu làm”55. Vì thế phải hành cả hai pháp hỗ trợ cho nhau, nhưng chú

trọng vào mặt tự lợi.

Cũng đừng hiểu lầm lời cư sĩ Nhị Lâm (Bành Tế Thanh). Hiểu lầm

thì đắc tội với ông Nhị Lâm chẳng nhỏ. Ý của Bành Nhị Lâm là chuyên

chú tự lợi, chứ chẳng phải là phế sạch việc tùy phần, tùy sức dạy người tu

theo pháp môn Tịnh Độ đâu! Việc lợi người chỉ có hàng Bồ Tát mới gánh

vác nổi; ngoài ra, ai dám nói những lời lẽ lớn lao ấy! Người căn cơ trung

hạ tùy phần, tùy sức làm việc lợi người mới phù hợp với đạo lý tu hành

tự lợi, bởi lẽ pháp môn tu hành có lục độ vạn hạnh. Tự mình chưa độ

thoát thì việc lợi người vẫn thuộc về tự lợi, nhưng chẳng thể chuyên chú

vào hình thức bề ngoài mà làm.


* Người tu hành thật sự thì dính vào chuyện khác làm chi? Chỉ vì do

chưa thể buông cả toàn thân xuống, cắt đứt vạn duyên được thì chẳng

ngại gì đeo đẳng trong lòng để vớt vát lấy một nửa mà thôi.

* Niệm Phật tuy trọng chí thành, thanh khiết, nhưng nếu bệnh nhân

không đủ sức thì cứ giữ lòng chí thành thầm niệm, hoặc niệm ra tiếng,

công đức vẫn giống hệt như vậy. Bởi lẽ, Phật từ rộng lớn, như cha mẹ lúc

thấy con cái bệnh khổ, ắt chẳng nệ vào những nghi thức lúc bình thường

để trách móc gì, lại còn đến vỗ về, xoa nắn thân thể con, rửa sạch những

dơ bẩn. Nếu con bệnh đã lành mà vẫn đối xử với cha mẹ hệt như lúc còn

đang bệnh thì sẽ bị sét đánh vậy!

* Lập thân, xử thế, gìn lòng thì dù là ngu hay hiền đều phải cung

kính, chẳng sanh lòng ngạo mạn. Hành sự thì thân hiền, xa ngu, giữ ưu,

bỏ kém. Như thế sẽ tránh khỏi cái tệ lây phải tính xấu, cũng như giữ cho

mình khỏi bị lầm lạc. Chuyện thiên hạ có cái lý nhất định, nhưng không

có pháp nhất định. Nếu chẳng dựa vào sự tình để định đoạt, như chấp

chết vào toa thuốc để trị biến chứng thì người sống sẽ ít, kẻ chết lại

nhiều. Phải tình hợp với lý, pháp phù hợp sự thì mới nên!

* Thiên hạ vạn sự có cái lý nhất định, nhưng khi gặp chuyện phải vận

dụng cái lý nhất định để hành xử sao cho thích nghi, lý phù hợp cùng

quyền, pháp tương ứng với đạo thì mới nên!


* Phật pháp phải tùy theo căn tánh mỗi người mà thực hiện, chẳng thể

chấp chặt vào quy cách truyền bá thông thường. Nếu trái nghịch căn cơ

sẽ khiến người ấy bị mất lợi ích liễu sanh thoát tử thù thắng; cốt sao

người ấy phải tự lượng được căn tánh để tu trì [sao cho thích hợp].

* Vào thời Phật pháp hưng thạnh dưới các triều Đường, Tống, người

tại gia phần nhiều dùng cách hỏa táng; nhưng [nay] nên thuận theo thói

tục chôn cất, vì sợ kẻ câu nệ luận bàn quàng xiên, chứ thật ra thiêu thì

gọn gàng hơn. Qua bốn mươi chín ngày hãy thiêu là ổn thỏa. Còn chôn

thì qua nhiều năm, rất có thể hài cốt bị phơi bày. Cái lệ ba năm tang chế

chẳng dùng đến lễ nhạc cố nhiên phải tuân thủ.

Trước đời Thanh, quan văn có thể xin nghỉ cư tang, quan võ chẳng

được phép nghỉ cư tang bởi việc quân chẳng thể xao nhãng được nên

chẳng để tang. Bây giờ thạnh hành quan niệm “bỏ thói thường là bất

hiếu”, dù giữ đúng thời gian tang chế vẫn còn bị chê trách nữa là. Chúng

ta nên theo đúng cổ lễ, nhưng phải châm chước mà làm theo, tuy chẳng

thể biến cải ngay, nhưng đừng có quá câu nệ là được!

* Liên xã mới mở phải có quy chế nhất định, nữ nhân tuyệt đối chẳng

được tham dự liên xã, đừng bắt chước nơi khác buông tuồng chẳng thúc

liễm đến nỗi một pháp chẳng lập, trăm mối tệ chen chúc nảy sanh. Rất

quan trọng, rất quan yếu đấy!


* Trộm nghĩ thế đạo nhân tâm hiện thời suy sụp đến cùng cực. Lại

còn phung phí quốc khố, so với trước kia thuế má nặng hơn gấp mấy lần,

mọi thứ đắt đỏ, dân không lẽ sống. Tai trời vạ người giáng xuống liên

tiếp. Gặp phải thời buổi này, muốn hoằng dương đạo pháp chỉ còn cách

khuyên những người tìm đến học hãy học lấy yếu nghĩa nhà Phật.

Với cha nói Từ, với con nói Hiếu, anh nhường em kính, chồng xướng

vợ theo, ai nấy trọn hết bổn phận để làm nền tảng [cho việc học đạo].

Ngoài ra, còn phải giữ lòng thành, chuyên chú lòng kính, khắc kỷ, giữ lễ,

hiểu nhân rõ quả, mong thoát khỏi luân hồi, đừng làm các điều ác, vâng

làm các điều thiện, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Dù thiên

tư cao đến cách mấy cũng phải y theo đây mà hành.

Ngoài ra, những khi có thời gian, có sức thì nghiên cứu hết thảy kinh

luận cũng chẳng trở ngại gì. Cốt sao tùy phận tu trì trong chính gia đình

mình thì chẳng cần gì phải cất dựng phòng ốc cho nhiều, lại phải sắp đặt

nhiều nhân viên, đây kia qua lại càng phí thời gian. Đấy chính là cách

tương kế tựu kế để hoằng pháp bậc nhất trong hiện tại vậy.

* Muốn cầu vãng sanh hãy nên buông bỏ thế gian này cũng như

buông bỏ cái tâm cuồng vọng quá phận mong độ thoát chúng sanh giống

như Bồ Tát. Tu cho chính mình chính là điều Bồ Tát phải làm đầu tiên.

Nếu chính mình còn là phàm phu, lại toan đảm nhiệm việc ấy thì chẳng
những chẳng thể độ người mà còn chẳng thể tự độ nữa! Không ít thiện tri

thức thế gian mắc phải bệnh này, nhưng cứ cho là mình có tâm Bồ Tát.

Phải biết rằng: [nếu có] tâm ấy, phải cầu vãng sanh trước đã thì mới có

lợi ích. Nếu mình là Bồ Tát thì chẳng cầu vãng sanh còn được, chứ nếu

không thì tai hại chẳng nhẹ. Tâm cuồng vọng quá phận chính là chướng

ngại lớn nhất đối với việc tu hành. Chẳng thể chẳng biết điều này.

* Trong lúc kiếp trược thời loạn này, lẽ tất nhiên phải đề xướng nhân

quả báo ứng và pháp môn Tịnh Độ mới hòng có lợi ích thật sự. Những kẻ

ham cao chuộng trội kia chỉ sợ những pháp ấy mà được đề xướng thì

tiếng tăm, giá trị của họ sẽ bị hủy hoại, nên thà để người khác chẳng hiểu,

chứ chẳng chịu xuôi theo môn phong của chúng ta.

Hãy thử hỏi họ: Đối với những vật bên ngoài dùng để điều dưỡng

sanh mạng, có thể nào cứ cố chấp vào một pháp chẳng chịu biến đổi cho

thông suốt hay chăng? Mùa Hạ dùng sắn dây, mùa Đông khoác áo cừu,

đói thì ăn, khát thì uống. Mỗi ngày còn phải chọn lấy những điều thích

nghi; thế mà đối với việc hoằng dương đạo pháp thì lại bất trí chẳng hợp

lẽ như việc dưỡng sanh, vẫn còn bảo là thật sự muốn làm cho người khác

được lợi lạc nữa ư?

* Sáng lập liên xã ắt phải thanh tịnh, thơm sạch, chủ nhân ắt phải

cung kính chí thành, chẳng thể là hạng người ngạo mạn, mà cũng chẳng
thể là người thiếu khí tượng, đức độ. Đối với mọi người đến tham dự đều

phải đối đãi ôn hòa, cung kính, khiêm tốn. Lúc chưa niệm Phật cũng như

lúc niệm Phật xong, đều chẳng được bàn chuyện nhà, có những yếu nghĩa

nào đáng bàn luận, trình bày thì hãy bàn. Nếu không ai nấy trở về chỗ

mình. Những ai quá nhỏ tuổi hãy nên tự niệm ở nhà. Nếu thường đến liên

xã, ở gần thì còn tạm được, chứ nếu đường xa, chỉ e nảy ý ham vui bên

ngoài, chẳng thể không cẩn thận. Lập liên xã bất quá chỉ là đề xướng

trong địa phương mà thôi, phải lấy việc niệm Phật tại gia là chính.

* Người học Phật trước hết phải biết nhân quả, dè dặt, cẩn trọng mà

xử sự. Nếu đã có thể dè dặt, cẩn trọng thì tà niệm sẽ tự tiêu, chẳng đến

nỗi làm điều chẳng đúng pháp. Nếu trót làm, phải cực lực đoạn diệt thì

mới là tu hành chân thật. Nếu không, học một đường làm một nẻo, tri

kiến càng cao, hành vi càng tệ. Đây chính là căn bệnh đã lậm vào xương

tủy của những kẻ học Phật tự xưng là bậc thông gia ngày nay. Nếu có thể

luôn lấy việc tránh lỗi lầm làm điều mong mỏi thì cứ học một phần sẽ

được một phần lợi ích thật sự.

---o0o---

21. Luận về phú cường

* Trung Quốc nghèo hèn là vì chẳng tuân theo lễ nghĩa nên mới

nghèo hèn đến thế đó. Thử hỏi nguyên nhân gây nên sự nghèo hèn, có
nguyên nhân nào ngoài chuyện tham ăn của đút lót, nhận của hối lộ khiến

ngoại nhân hưởng lợi hay không? Ông chưa thấy rõ gốc bệnh nên mới

bảo là thuốc chẳng hiệu nghiệm, có đáng gọi là trí chăng? Nước ngoài

cường thịnh, nhưng nước họ nhỏ, nếu họ chẳng đồng tâm hiệp lực há có

thể tự lập được ư? Trung Quốc mỗi người mỗi ý. Dù có đồng tâm đi nữa,

nhưng ngoại nhân đem lợi ra nhử liền bị của đút lót xoay chuyển, chẳng

những chẳng đoái hoài gì đến đất nước và nhân dân, ngay cả thân mình

cũng chẳng thèm đếm xỉa đến nữa. Chẳng phải là việc phụng hành lễ

nghĩa đã bị đánh mất đó sao?

Xưa Lâm Văn Trung Công đánh đuổi quân Di đủ chứng thực điều ấy.

Từ đấy, bất cứ việc lớn việc nhỏ gì, không việc nào lại chẳng vì Trung

Quốc chu toàn cho thành tựu chăng? Người Trung Quốc đa phần quên

mất tám chữ (hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ) cho nên nước ngoài

mới hùng mạnh như thế, Trung Quốc mới yếu hèn đến thế. Nếu như ai

nấy đều giữ gìn lễ nghĩa thì các hàng hóa vô ích của ngoại quốc không

cách nào tiêu thụ được, mỗi năm Trung Quốc sẽ tiết kiệm được cả mấy

ngàn vạn vạn lạng vàng vậy. Người Trung Quốc mà bệ rạc thì phải nói

thành thật là bệ rạc đến tột cùng...

Ông tuy đọc sách hiểu đời nhưng chưa lãnh hội cái đạo đọc sách hiểu

đời nên mới hỏi như vậy. Với tình thế hiện tại thì đề xướng nhân quả báo
ứng, sanh tử luân hồi, và cải ác tu thiện, tín nguyện vãng sanh là cách vãn

hồi kiếp vận, cứu quốc, cứu dân bậc nhất; đàm huyền thuyết diệu [so ra]

vẫn kém hơn. Muốn cứu đời nhưng chính mình chẳng tận lực thực hành

thì sẽ chẳng có hiệu quả thật sự. Từ chính mình lan ra cả nhà, từ một nhà

lan đến cả ấp, từ mỗi ấp lan ra cả nước, một khi đã tạo thành nề nếp thì sẽ

có hiệu quả chẳng lường được. Nếu không thì dù có mơ cũng vẫn khó

thấy được!

* Gần đây những người làm chuyện lớn phần nhiều là trẻ tuổi, đa

phần là lập dị, vọng ngoại, coi Nghiêu, Thuấn, Châu, Khổng chẳng ra gì.

Kẻ chưa đắc chí bèn cuồng vọng lung lạc người. Kẻ đã đắc chí liền thành

phường hại nước mọt dân. Vì thế thiên tai nhân họa xảy ra liên tiếp, vận

nước nguy ngập, dân không lẽ sống. Học Phật cốt là để đối trị tập khí, cải

ác hướng thiện. Nếu vô sự bèn miệt mài học Phật, nhưng hữu sự bèn gạt

phăng việc học Phật sang một bên thì chỉ mang cái tiếng xuông, trọn

chẳng có mảy may lợi ích thật sự gì!

---o0o---

22. Luận về cách dự phòng tai họa

* Với tình thế hiện tại, chỉ nên tận tâm, còn chuyện họa phước cát

hung trong tương lai chẳng thể dự đoán được. Nếu có thể chí thành niệm

Phật, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát ắt sẽ có sự chuyển biến âm thầm, chẳng


đến nỗi vướng phải mối nguy hiểm lớn. Nếu chẳng dốc sức vào đây, dù

vận dụng hết cơ mưu cũng vẫn khó đạt hiệu quả tốt đẹp bởi thế cục biến

huyễn, khó thể dự liệu nổi! Những kẻ vinh hoa, phú quý hiển hách kia

trong chốc lát còn bị tiêu tan sạch cả, huống hồ gì bọn ta? Khổng Tử

nói: “Kẻ chẳng biết mạng thì chẳng thể coi là quân tử được” ; nhưng

phải cực lực tu trì thì mới đáng gọi là Mạng được. Nếu biếng nhác trây

lười, tánh tình buông xuôi, dù đạt được hay mất đi cái gì thì cũng chẳng

thể gọi là Mạng được!

* Tình thế hiện nay là tình thế hoạn nạn. Dù bảo là niệm Phật diệt

được túc nghiệp, nhưng phải sanh lòng hổ thẹn lớn lao, chuyển đổi cái

tâm tổn người lợi mình, hành hạnh Bồ Tát lợi khắp chúng sanh thì dù túc

nghiệp hiện ra, cũng sẽ đều nhờ Phật hiệu quang minh trong Bồ Đề tâm

để tiêu diệt hết sạch. Nếu trong đời trước hoặc trong xưa kia đã từng tạo

nghiệp lớn, nay dù không làm ác, nhưng chỉ niệm Phật qua quýt, ơ hờ thì

công chẳng thắng nổi tội, rất có thể mắc phải ác báo.

Chẳng phải là niệm Phật vô ích, nhưng vì chưa phát Bồ Đề tâm, mà

ác nghiệp lại rộng lớn nên công niệm Phật chẳng áp đảo được ác nghiệp.

Nếu có thể phát đại Bồ Đề tâm thì như vầng mặt trời rạng rỡ giữa hư

không, sương móc tiêu lập tức. Người đời phần nhiều nửa đời tạo ác, sau

mới sám hối đôi chút, do bởi chưa thể hoàn toàn không gặp phải ác báo,
bèn nói Phật pháp chẳng thiêng, tu trì vô ích! Cư sĩ chẳng coi Quang tôi

là người ngoài, cố nhiên Quang chẳng thể không cùng cư sĩ trình bày sơ

lược nguyên do ngõ hầu cư sĩ thoát khỏi đường mê, vượt lên bến giác

vậy!

Hết phần 5

---o0o---

Phần 6

IX. Khuyên nhủ các thiện tín tại gia

1. Dạy về luân thường đại giáo

* Phải tận tánh học Phật mới có thể tận hết luân thường học Khổng. Phải

tận hết luân thường học Khổng mới có thể tận tánh học Phật. Thử coi những

bậc đại trung, đại hiếu và những vị phát huy tâm pháp của thánh hiền trong

Nho Giáo xưa nay không vị nào là chẳng nghiên cứu kinh Phật sâu xa, ngầm

tu thầm chứng. Hợp hai đạo Phật và Nho lại thì cả hai cùng tốt đẹp, tách ra

thì cả hai cùng bị tổn thương; bởi lẽ, người trong cõi đời không ai chẳng

thuộc trong vòng luân thường, mà cũng không ai ra khỏi tâm tánh được. Để

trọn vẹn luân thường tâm tánh ấy thì dùng “chẳng làm các điều ác, vâng làm

các điều thiện” của nhà Phật để khắc kỷ, giữ lễ, ngăn lòng tà, giữ lòng thành,

dùng “cha hiền, con hiếu, anh nhường, em kính” để hỗ trợ. Do vậy, cha con,

anh em v.v... dắt dìu nhau cùng trọn vẹn luân thường, tâm tánh, trừ khử
phiền hoặc huyễn vọng để khôi phục Phật tánh sẵn có. Chẳng những về thể

là một, mà về dụng cũng chẳng có hai!

* Phải biết rằng Phật pháp là pháp chung của cả chín pháp giới, không
một ai là chẳng nên tu mà cũng không ai là chẳng thể tu nổi. Những kẻ nói
Phật giáo vứt bỏ nhân luân, làm hại thánh đạo đều là những kẻ mù chẳng
thấy hình sắc cứ luận càn. Vì sao nói như thế? Đức Phật đối với cha dạy
lòng từ, với con dạy lòng hiếu, với vua dạy lòng nhân, với bầy tôi dạy lòng
trung, chồng xướng vợ theo, anh nhường, em kính.
Với những lời lẽ hay đẹp, những hành vi tốt đẹp, không điều nào kinh
Phật lại chẳng thuật rõ túc nhân hậu quả, tiền nhân hậu quả. Những điều
Phật dạy về lòng từ, lòng hiếu... giống với Nho Giáo, nhưng những điều đạo
Phật dạy về nhân quả ba đời thì Nho giáo còn chưa bao giờ được nghe đến,
huống hồ là “đoạn Hoặc chứng chân” và “viên mãn Bồ Đề, quy về pháp vô
sở đắc”! Tiếc là những kẻ ấy chưa được biết đến, chứ nếu đọc kỹ, nghĩ chín,
ắt sẽ khóc lóc, đau đớn, tiếng rền cả đại thiên thế giới, buồn thương vì tội lỗi
báng Phật vậy!

* Muốn học Phật, Tổ, trước hết phải giữ pháp Thánh Hiền. Nếu như
thiếu sót bổn phận, trái nghịch luân thường thì đã là kẻ tội nhân danh giáo,
còn làm đệ tử Phật sao được? Phật giáo tuy vượt ngoài thế pháp, nhưng gặp
vua nói Nhân, gặp bầy tôi nói Trung, gặp cha nói Từ, gặp con nói Hiếu, từ
cạn mà lần đến sâu, hạ học thượng đạt (học từ những điều căn bản, thấp
kém, nhưng đạt được những điều cao quý). Hãy đọc kỹ An Sĩ Toàn Thư, ắt
sẽ biết được đại khái vậy!

* Muốn làm Phật tử chân thật, phải bắt đầu làm chân Nho trước đã. Nếu
đối với những sự như chí tâm thành ý, khắc kỷ, giữ lễ, giữ lòng kính, trọng
lòng thành, hiếu đễ, vui vẻ, cung kính... mà chẳng thể tu tập, đôn đốc thì nền
tảng chẳng kiên cố, học Phật sao được? Chọn lấy tôi trung trong đám con
hiếu; kẻ tánh hạnh trái nghịch Nho phong lẽ nào gánh vác được gia nghiệp
của Như Lai, trên nối tiếp huệ mạng, dưới hóa độ chúng sanh cơ chứ?
Phật pháp không sự gì to lớn chẳng bao hàm, không điều gì nhỏ nhặt
chẳng nêu lên. Dù là pháp thế gian hay xuất thế gian, không một pháp nào
lại chẳng thuộc phạm vi của Phật pháp. Những kẻ câu nệ, hủ bại trong thế
gian thường cứ bảo “xuất gia là trái nghịch luân lý”, họ đều là hạng chưa suy
xét thấu đáo đã vội hủy báng, sợ mắc nghẹn nên bỏ ăn, tự chôn vùi tánh
mạng, thật là đáng thương!
Nếu có mở rộng được tầm mắt thì mới biết Phật pháp lưu truyền rộng rãi
khắp trong ngoài Trung Hoa, đạo pháp thạnh hành cả hai ngàn năm qua,
được rất nhiều vua thánh, tôi hiền, hào kiệt, vĩ nhân hộ trì, truyền bá. Lẽ
đương nhiên đạo ấy phải là chân đạo mà phàm tình chẳng thể suy lường
được nổi! Dù có bị một hai gã nho sĩ câu nệ, hủ bại bài xích, hay những tên
vua bạo ác hủy phá, rốt cuộc hai tay vẫn không che nổi mặt trời, ngửa mặt
nhổ lên trời, chỉ càng tự phô bày cái thấy biết kém cỏi, ít ỏi của mình mà
thôi, tự lầm lạc gây tạo tội lỗi, chứ rốt cuộc Phật pháp có bị tổn hại gì đâu?
Lại có kẻ bề ngoài làm ra vẻ chê bai Phật pháp, chứ bề trong lại thực sự
tu chứng. Từ đời Tống đến nay, những bậc danh nho không có ai là chẳng
như vậy cả! Cho nên Quang tôi nói “thành ý chánh tâm do vậy hãy còn
khiếm khuyết” thật đúng là lời bàn quyết định vậy!

* Đối với việc học Phật, vốn phải trọn vẹn nhân đạo mới hòng hướng

đến được. Nếu chẳng thật sự thực hành hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm,

sỉ, dù có suốt ngày thờ Phật, Phật cũng chẳng gia hộ! Ấy là vì Phật giáo bao

gồm hết thảy các pháp thế gian, xuất thế gian. Vì thế với cha nói Từ, với con

nói Hiếu, khiến ai nấy đều tận hết bổn phận làm người, sau đấy mới tu pháp

xuất thế. Ví như muốn dựng lầu cao vạn trượng, ắt trước hết phải đắp nền

móng kiên cố, khai thông đường nước thì lầu cao vạn trượng mới có thể xây

lên được, mới vĩnh cửu chẳng hư hoại. Nếu như nền móng chẳng vững, ắt

chưa xây xong đã sụp.

Sách Luận Ngữ nói: “Tuyển trung thần ư hiếu tử chi môn” (chọn tôi
trung từ nơi con hiếu); học Phật cũng giống như vậy. Xưa kia, ông Bạch Cư
Dị hỏi Ô Sào Thiền Sư: “Thế nào là đại ý Phật pháp?” Sư dạy: “Đừng làm
các điều ác, vâng làm các điều lành”. Muốn học Phật pháp, phải khắc kỷ, dè
dặt, việc gì cũng đều phải phát xuất từ cái tâm chân thật mà làm. Người như
vậy mới đáng gọi là chân Phật tử. Nếu tấm lòng gian ác, lại toan mượn Phật
pháp để tránh tội nghiệp, có khác gì trước đã uống thuốc độc, sau lại uống
thuốc bổ, muốn cho thân thể khỏe mạnh, nhẹ nhàng, kéo dài tuổi thọ, phỏng
có được chăng?
* Đại trượng phu muốn văn chương thiên hạ, công nghiệp vang dội vũ
trụ, nhưng chẳng thể đoạn Hoặc chứng chân, liễu sanh thoát tử thì chỉ là
chấp vào cái bên ngoài, bỏ sót cái bên trong, chấp cái Có tuy nó chỉ là đằng
ngọn, bỏ đi cái Không dù nó chính là đằng gốc. Người đời ai có thể vẹn toàn
được mọi việc, chúng ta chỉ nên gắng sức giữ vẹn luân thường, tận lực tu
Tịnh nghiệp là được, cần gì phải bận tâm đến điều gì khác nữa!

* Trộm nghĩ Nho lễ coi trọng cúng tế Xuân Thu, Thích giáo đặt nặng
việc quanh năm truy tiến. Nghĩ đến cái ân nguồn nước, cội cây mà thực hành
cẩn thận, chu đáo việc truy tiến thì thế gian, xuất thế gian nào có gián đoạn
chi?

---o0o---

2. Luận về giáo dục gia đình

* Gia đình muốn hưng thạnh, phải bắt đầu từ gia quy nghiêm chỉnh. Gia
đình gần như tan nát là do từ đầu đã bỏ phế gia quy. Muốn con em thành
người, phải bắt đầu từ hành vi, việc làm của mình sao cho đúng phép tắc
hòng làm gương cho con em. Lý nhất định phải như thế! Như nay muốn bắt
đầu [giáo dục con em] ít tốn công sức nhất, trước hết hãy nói về nhân quả
báo ứng khiến chúng tập thành tánh, mới hòng mai sau chúng chẳng đến nỗi
làm càn quá đáng. Đây thật đúng là diệu pháp bậc nhất để tề gia, dạy con,
khiến đời yên, dân hiền vậy.

* Con em có nên người hay chăng chỉ là do giáo dục trong gia đình.
Phàm đối với con cái, ngay từ nhỏ phải dạy chúng hiếu, đễ, trung, tín, cần
kiệm, ôn hòa, cung kính, để khi chúng lớn lên đi học đọc sách mới có nền
tảng để hưởng được lợi ích. Nếu như từ nhỏ đã dung túng thành thói, hãy
khoan kể đến những đứa không thiên tư, không được học hành đàng hoàng;
ngay cả những đứa có thiên tư, có học hành đàng hoàng cũng chỉ thành thợ
gọt giũa chữ nghĩa, thành kẻ bại hoại trong cửa Nho mà thôi!
Đời có kẻ tài ngang Bắc Đẩu, học rộng năm xe, nhưng hành vi, việc làm
toàn là ỷ mình thông minh, độc hại sanh linh, hủy diệt đạo nghĩa. Những
hạng ấy vốn là do từ thuở đầu đã thiếu sự giáo dục trong gia đình mà nên
nỗi. Văn Vương nghiêm khắc kể từ vợ góa cho đến anh em để giữ gìn gia
đình, đất nước; cũng như sách Đại Học nói muốn trị thiên hạ, quốc gia phải
bắt đầu từ “cách vật trí tri, thành ý chánh tâm” đều vì cùng một mục đích.
Đấy chính là bí quyết vô thượng để dạy con người trở thành thánh, thành
Hiền của đạo Nho. Bỏ điều này, cầu lấy điều khác thì đều toàn là tìm tòi nơi
cái ngọn vậy!

* Với tình hình hiện tại, ngay khi con cái biết nói, nhận biết sự vật, trong
nhà hãy dạy con nhận biết mặt chữ trước. Mỗi tờ giấy chỉ viết một chữ, đừng
viết cả hai mặt. Hạn định mỗi ngày mấy chữ, mỗi ngày học thuộc mặt những
chữ đó xong lại bắt con nhận mặt toàn bộ các chữ đã học một hai lượt nữa.
Chưa hơn một năm, con sẽ biết được nhiều chữ. Sau này lúc con đọc sách,
phàm đọc qua chữ nào đều nhận biết được cả, chẳng đến nỗi có cái tệ miệng
chỉ đọc làu làu [nhưng vẫn không biết chữ].
Tùy theo năng lực của con, sai con làm những việc lặt vặt để tập tánh
siêng năng. Đừng cho con ăn uống, mặc quần áo quá sang trọng. Phàm
những khi con phí phạm ngũ cốc và làm hư hỏng vật gì, chẳng cần biết vật
ấy quý giá hay tầm thường thế nào, phải bảo cho con biết những vật ấy chế
tạo chẳng dễ, cũng như nói đến những nghĩa lý bị tổn phước, giảm thọ v.v...
Nếu con vẫn vậy, nhất định phải trách phạt, quyết chẳng bỏ qua. Có như thế,
con sẽ tự kiệm ước, trọn chẳng đến nỗi xa xỉ, phung phí.
Khi con đọc được sách, bảo con hãy đọc kỹ các sách Âm Chất Văn, Cảm
Ứng v.v... thuận theo từng mặt chữ mà giảng giải. Hễ hành vi hằng ngày của
con là tốt lành, bèn chỉ cho con thấy điều thiện trong hai sách ấy để khen
ngợi. Nếu hành vi nào không tốt, bèn lấy những điều bất thiện trong hai sách
ấy để quở trách. Như vàng đổ khuôn, như nước có đê ngăn, lẽ nào chẳng
thành vật dụng, vẫn cứ chảy lung tung như cũ ư? Con người có đúng là
người hay không là do từ nền tảng ấy. Chẳng giảng đến điều ấy, lại muốn trở
thành con người vẹn toàn thì họa chăng thiên tư phải hơn cả Mạnh Tử!
Đến tuổi đi học, đừng cho con vào học ngay những trường hiện thời
đang mở, hãy nên cho con học ở nhà vài năm trước đã. Mời một vị thầy học
vấn, đức hạnh đều tốt đẹp, tin sâu nhân quả để dạy con học Tứ Thư, Ngũ
Kinh. Đợi đến khi con học được mấy phần, văn tự lẫn đạo lý chẳng bị lầm
lạc bởi những tà thuyết, tục luận, mới cho con vào học những trường hiện
thời để mở rộng tầm mắt, biết suy xét việc, chẳng đến nỗi hành động trái
thời, không cách gì tiến lên được!
Làm được như thế, đứa con nào có thiên tư sẽ tự thành đạt, đứa không
thiên tư cũng thành người lương thiện. Thật sự ra, những điều lão tăng hay
nói chẳng ngoài những chuyện “riêng mình thiện, khiến người khác cũng
thiện, tự lợi, lợi người”!

* Dạy con cái phải bắt đầu từ căn bản. Cái căn bản vừa nói đó chính là
hiếu với cha mẹ, giúp đỡ mọi người, nhẫn nhục, chuyên gắng, dùng chính
thân mình dạy dỗ người khác, nêu gương đạo đức. Như vàng hay đồng đã
nung chảy, nghiêng rót vào khuôn, khuôn ngay sẽ ra hình ngay, khuôn méo
thành hình méo. Chưa đổ vào khuôn đã biết trước là sẽ lớn, nhỏ, dày, mỏng,
huống hồ là khi đúc xong.
Gần đây, nhân tình phần nhiều chẳng biết đến điều ấy, thế nên những
con em có thiên tư đa phần ngông cuồng, bồng bột, kẻ không thiên tư lại
ương bướng, hèn kém. Đó là vì lúc nhỏ chẳng uốn vào khuôn phép, như
nước đồng sôi đổ vào khuôn hỏng ắt phải thành đồ hư. Kim loại vốn chỉ
một, nhưng đồ đúc ra sai khác nhau một trời một vực, tiếc thay!
Phật lấy Vô Ngã làm giáo. Hiện tại, những kẻ có chút tri kiến thường
nhìn lên tận trời, cứ tưởng chỉ có nghĩa lý văn tự mới là Phật pháp, chẳng
biết tu thân, tịnh tâm, diệt trừ ngã tướng, tận lực tu Định - Huệ ngõ hầu đoạn
Hoặc chứng Chân là Phật pháp!

* Trộm nghĩ: cha mẹ yêu con không gì chẳng quan tâm đến, chỉ trừ khi
bị bệnh tật, hoạn nạn mới bớt quan tâm. Con trẻ vừa biết nói liền dạy nó
niệm danh hiệu nam mô A Di Đà Phật và nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát,
khiến cho những điều kém xấu đã vun bồi trong đời trước của nó nay nhờ
thiện lực này ắt tai họa sẽ tiêu ngay khi chưa nảy mầm, được phước nhưng
chẳng biết, không còn phải lo gì đến các hiểm nạn tai ương, bệnh tật, khổ sở
v.v...
Khi con vừa hiểu biết đôi chút, liền dạy con trung thứ, nhân từ, kiêng
giết, phóng sanh và những sự tích nhân quả ba đời rành rành ngõ hầu tập
thành tánh, ngay từ lúc còn thơ đã chẳng dám giết hại tàn nhẫn các loài trùng
kiến nhỏ nhoi, lớn lên quyết chẳng đến nỗi làm điều gian ác, khiến cha mẹ,
tổ tiên mang nhục lây!

* Con em có tài năng, nếu được khéo giáo hóa sẽ dễ trở thành người
chánh trực; không khéo giáo hóa đa phần sẽ thành hạng bại hoại. Ngày nay
dân không lẽ sống, nước nhà lắm nỗi gian nan, mấy phen chao đảo đều là do
những kẻ có tài năng nhưng không được khéo dạy khiến mầm họa được ươm
từ từ. Người không có tài, đương nhiên phải dạy họ thành thực; với người có
tài càng phải nên dạy họ thành thực.
Thế nhưng thành thực vẫn có thể là giả vờ. Thoạt đầu, hãy thường nên
dạy dỗ về nhân quả báo ứng và lẽ “con người khởi tâm động niệm gì, mỗi
mỗi điều thiên địa quỷ thần đều biết đều hay cả”, khuyên con phải đọc kỹ
các sách Âm Chất Văn, Thái Thượng Cảm Ứng, đừng cho rằng chúng không
phải là sách Phật rồi xem thường. Ấy là vì phàm phu tâm lượng thiển cận,
nếu dùng những lý xa xôi lớn lao để giảng nói sẽ khó thể lãnh hội được.
Những sách ấy dù già hay trẻ nghe đến đều được lợi ích cả, huống hồ là
những người lấy việc chú trọng điều thiện làm thầy ư?
Với tử thi, phân nhơ, rắn độc mà đức Phật còn dạy người quán để chứng
A La Hán, số đó nhiều hơn hằng hà sa; huống hồ là những lời lẽ thiết thực,
tồn dưỡng, cảnh tỉnh này [há nên xem thường] ư?

* Còn thuộc địa vị phàm phu chẳng thể không bệnh được, nhưng cũng
chẳng nên bỏ mặc chẳng trị. Cách trị bệnh tốn ít sức nhất lại được lợi ích
nhiều nhất là lấy bệnh làm thuốc. Lấy bệnh làm thuốc nghĩa là chẳng để
bệnh lụy mình. Chẳng hạn như cái bệnh yêu mến con cái quyết chẳng thể
đoạn được thì chẳng ngại gì dùng ngay sự yêu mến đó làm cái gốc khiến cho
con cái khi sống làm người chân chánh, chết đi sanh về Tịnh Độ. Yêu con
như vậy là biến phàm tình thế gian thành thánh quả xuất thế gian. Nếu chẳng
khéo sử dụng lòng Ái, mặc lòng nuông chiều con thì còn hơn giết chết con
cả trăm ngàn vạn ức vô lượng vô biên lần! Nước nhà diệt vong, nhân dân đồ
thán đều là do những kẻ cha mẹ chẳng hiểu rõ sự tình un đúc nên, chẳng
đáng buồn ư?

* Muốn cho con cháu chẳng hướng theo nẻo bại hoại, cùng nhau noi
theo chánh đạo thì nên lấy các sách Cảm Ứng Thiên Vựng Biên, Âm Chất
Văn Quảng Nghĩa làm kim chỉ nam. Dù những làn sóng thế tục xấu ác có
bủa ngập trời, mây đen phủ kín mặt nhật, cũng chẳng đến nỗi chẳng biết
hướng về đâu, chìm đắm mất cả.
Nếu không, dù gió lặng, sóng yên, mặt trời soi tỏ cũng khó bảo đảm
không có nước xoáy ngầm, vào đó liền bị đắm chìm, huống hồ trọn chẳng có
chuyện gió yên, sóng lặng, mặt trời soi thấy tỏ thế đạo nhân tâm! Phải biết
nội dung hai chữ Âm Đức rất rộng. Thành tựu con em người ta, khiến chúng
thành thánh thành hiền, cố nhiên thuộc về Âm Đức. Thành tựu con em mình
khiến chúng thành thánh, thành hiền cũng là âm đức. Ngược lại, khiến con
em người ta bị lầm lạc đương nhiên là tổn âm đức; khiến con em mình lầm
lạc cũng tổn âm đức. Nếu vừa đủ khả năng lẫn đủ sức thì may mắn nào hơn!
Nếu không, đối với những hành vi, ngôn ngữ hằng ngày trong gia đình,
phải lấy việc thành thánh, thành hiền làm đầu, đấy chính là dùng Tục để tu
Chân. Nay cư sĩ dùng thân mình thuyết pháp, xin hãy đem ý này thiết tha
bảo cùng bè bạn và hết thảy người quen biết thì cũng là một cách để tự lập,
lập người, tự lợi, lợi tha vậy!

* Nhà Châu mở nước là do ba bà Thái tạo lập nền tảng, Văn Vương
thành thánh là nhờ thai giáo. Do vậy biết rằng: thế gian không có bậc thánh,
bậc hiền là do đời thiếu những người mẹ thánh hiền mà nên nỗi! Nếu như bà
mẹ nào cũng giống như ba bà Thái, dù con họ chẳng thành Vương Quý, Văn
Vương, Châu Công, cũng hiếm đứa làm bậy, gian ngoa. Thế nhưng người
đời chỉ biết yêu thương con cái, mặc tình nuông chiều thành thói, chẳng biết
làm gương cho con. Đây chính là một điều đại bất hạnh của nước ta.
Con người lúc còn nhỏ thường gần bên mẹ, nên chịu ảnh hưởng của mẹ
rất sâu. Con gái ngày hôm nay sẽ là mẹ người khác trong mai sau. Muốn vun
đắp quốc gia, phải lấy việc dạy dỗ con gái làm nhiệm vụ cấp bách. Đừng
bảo: “Con gái là con người ta, cần gì phải mất công lo lắng?” Phải biết rằng:
Vì trời đất mà tài bồi một kẻ lương dân biết giữ phận, không công đức nào
lớn hơn. Huống hồ nếu một cô gái đức hạnh vẹn toàn, con cái cô ta ắt sẽ noi
theo nề nếp tốt đẹp đó, còn gì vẻ vang hơn?
Vả nữa, con dâu, cháu dâu mình chẳng phải là con gái nhà người đó sao?
Muốn cho đất nước quật cường, không có hiền mẫu thì không có cách nào
hỗ trợ được cả. Đời không mẹ hiền thì chẳng những nước không dân lành,
nhà không con ngoan, mà ngay cả những gã thầy chùa bại hoại sống bám
vào Phật trong Phật pháp thảy đều do những bà mẹ bất hảo sanh ra. Nếu mẹ
thật sự hiền, con sẽ trọn chẳng đến nỗi đớn hèn như thế. Tiếc thay!

* Gia quyến của ông rất đông, khi các cô em dâu, em gái, con gái v.v...
của ông đi học về, hãy đem những sự những nhân quả báo ứng và lợi ích của
việc niệm Phật bàn luận cùng họ, ngõ hầu ai nấy đều biết “trong tâm mình
đã tự biết thì tâm sẽ tương thông thiên địa quỷ thần cũng như sẽ tương thông
với từ phụ Di Đà”. Do vậy, họ sẽ đoạn trừ ác niệm, tăng trưởng chánh tín,
ngõ hầu hiện tại đáng làm vợ hiền, tương lai xứng làm hiền mẫu khiến cho
[nết tốt] đó truyền lan trong làng xóm, đấy cũng là pháp luân căn bản để
bình trị thiên hạ quốc gia.
Bồ Tát thuận theo thế tục lợi sanh, chẳng bày vẽ phong cách riêng, đối
bệnh cấp thuốc khiến cho ai nấy đều đúng đường về nhà mới thôi. Hiện tại,
các phụ nữ trong chốn học đường đa phần lầm lạc sanh dị tâm, toan nắm lấy
chánh quyền, chẳng biết tự giữ bổn phận giúp chồng dạy con chính là căn
bản khiến thiên hạ thái bình. Bởi lẽ vương nghiệp nhà Chu bắt nguồn từ ba
bà Thái. Ba bà Thái Khương, Thái Nhậm, Thái Tự là những bậc thánh trong
hàng nữ nhân, họ chỉ chú trọng vào việc dạy con ngay từ lúc còn trong thai
để ngầm giúp chồng. Người đời nay chẳng học theo gương đấy, những điều
họ toan tính đều là những mưu mô tai ác khiến thiên hạ loạn lạc biết là
chừng nào!

* Người sanh trong thế gian phải có thiện ác phụ trợ mới hòng thành tựu
được. Dù là bậc thánh trời sanh, vẫn cần phải có hiền mẫu, hiền thê phụ trợ
đạo đức, huống hồ là những kẻ kém cỏi hơn ư? Do bà Thái Nhậm dạy con từ
thuở trong thai nên Văn Vương sanh ra đã có thánh đức. Vì thế kinh Thi
khen ngợi chuyện ngài nghiêm khắc từ vợ góa cho đến anh em để giữ yên
gia đình, đất nước. Đấy chỉ là nói riêng về Văn Vương, chứ nếu luận về bà
Thái Tự, cố nhiên đức hạnh của bà cũng bổ trợ cho đường lối đạo đức của
Văn Vương, như hai ngọn đèn cùng chiếu càng thấy sáng rỡ, hai tay cùng
rửa mới được sạch sẽ. Cứ xem những lời ông Tư Trai khen ngợi tiếng thơm
của các bà Thái Nhậm, Thái Tự ắt sẽ thấy rõ.
Vì thế mới nói: đời ít người hiền là do đời thiếu mẹ hiền và vợ hiền vậy!
Đó là vì vợ hiền sẽ ngầm giúp chồng, mẹ hiền dạy con cái ngay từ lúc còn
trong thai. Huống hồ mấy năm đầu tiên, luôn ở bên mẹ, được uốn nắn theo
khuôn mẫu tốt đẹp, thường được răn dạy, tánh tình sẽ ngầm chuyển biến,
chẳng mong đợi mà được vậy.
Tôi thường bảo: “Dạy con gái là cái gốc để tề gia trị quốc”, lại cũng
thường nói: “Quyền trị quốc bình thiên hạ, nữ nhân đã nắm giữ quá nửa!”
chính là ý này. Bởi lẽ, kẻ có thiên tư cao được mẹ hiền un đúc, được vợ hiền
giúp đỡ, ắt sẽ trở nên ý thành, tâm chánh, rạng đức sáng, chuyên chí nơi việc
lành, lúc cùng thì riêng mình thiện, lúc đạt thì khiến thiên hạ cùng thiện. Dù
là kẻ thiên tư bình thường cũng vẫn có thể tuân thủ quy củ, một bề giữ phận
lương dân, trọn chẳng đến nỗi vượt lý trái phận, làm điều sai quấy, gian dối,
khiến cha mẹ nhục nhã, gây hại cho đời.
Tiếc cho người đời mơ màng chẳng dạy con gái tận hết luân thường, giữ
bổn phận, hằng ngày chỉ lo trau chuốt, chẳng màng đến chuyện gì khác. Mai
kia làm vợ người ta, làm mẹ người ta, chẳng những chẳng thể giúp chồng
dạy con trở thành thiện sĩ, trái lại còn dạy con hóa thành kẻ ác. Bởi vậy mới
nói: Đối với con gái, phải dạy họ chú tâm đến việc dạy dỗ con cái [mai sau].
Những câu tôi đã nói như “dạy con gái là cái gốc để tề gia trị quốc” và
“quyền trị quốc bình thiên hạ, nữ nhân chiếm quá nửa” chính là lời chân
thật.
Gần đây, học vấn phát triển mạnh mẽ, phụ nữ đi học đa phần bị những
giáo viên chẳng biết dạy từ cội gốc làm cho lầm lạc. Do đó, họ chẳng coi
trọng việc tận hết luân thường, giữ bổn phận, yên cửa yên nhà, giúp chồng
dạy con. Ai nấy đều muốn nắm lấy chánh quyền, làm trưởng quan, toan tính
quá phận, tập thói cuồng vọng, thật đáng than vậy! Nếu như có kẻ làm đầu
cực lực đề xướng việc vun bồi trong gia đình khiến cho việc tu thân, tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ tự nhiên được hữu hiệu thì may mắn thay!

* Phận làm con cố nhiên phải tỏ bày đức hạnh của cha mẹ. Để tỏ bày đức
ấy phải chú trọng đến việc thân mình tự hành, bản thân phải khắc kỷ giữ lễ,
ngăn tà, giữ lòng thành, biết sai liền sửa, thấy điều nghĩa bèn làm, hiểu nhân
rõ quả, kiêng giết, phóng sanh, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều
thiện, sanh Tín, phát nguyện trì danh hiệu Phật, tự hành, dạy người cùng
sanh Tịnh Độ.
Làm được như vậy, dù người ta chẳng biết đến đức hạnh của cha mẹ,
nhưng do ngưỡng mộ đức hạnh của người ấy cũng sẽ ngưỡng mộ lây cả đức
hạnh của cha mẹ, tổ tiên kẻ đó; cho rằng ông bà cha mẹ phải ngầm tu đức
hạnh đã lâu nên mới có được con cháu nối tiếp như thế. Nếu không, dù cha
mẹ, tổ tông có đức tốt ai nấy đều biết, nhưng con cái không ra gì, người ta ắt
sẽ đâm ngờ cha mẹ, tổ tông tuy có đức tốt, biết đâu lại có những điều ác ẩn
giấu. Nếu không, sao từ cửa đức hạnh tốt đẹp lại nẩy sanh hạng con cháu tệ
hại đến thế?
Vì thế, phải biết rằng: lập thân hành đạo chính là biểu dương đức hạnh
của cha mẹ, tổ tông. Làm con phải chú trọng lòng kính, cẩn thận, dè dặt, tận
lực thực hành như thế mới mong khỏi làm nhục lây bậc sanh ra mình!

* Đời có hiền mẫu mới có hiền nhân. Các thánh mẫu đời xưa chú trọng
thai giáo để un đúc bẩm chất con cái ngay từ thuở đầu, những mong tập quen
thành tánh. Thế gian gọi nữ nhân là Thái Thái là vì ba vị thánh nữ Thái
Khương, Thái Nhậm, Thái Tự bà nào cũng giúp chồng dạy con, mở mang
vương nghiệp tám trăm năm. Cho nên mới dùng chữ Thái Thái để gọi nữ
nhân. Quang tôi thường nói: “Quyền bình trị thiên hạ, nữ nhân nắm hơn quá
nửa”. Tôi còn thường nói: “Dạy con gái là cái gốc để tề gia trị quốc” hàm ý:
tận hết đạo làm vợ, giúp chồng dạy con.
Chẳng như nữ lưu ngày nay, đa phần chẳng giữ bổn phận, vọng động
muốn nắm lấy chánh quyền, làm đại sự, chẳng biết vun bồi ngay từ trong gia
đình. Đấy đúng là: gom sắt cả chín châu vạn quốc cũng chẳng thể đúc nổi lỗi
lầm lớn ấy. Bởi vậy, thế đạo nhân tâm ngày càng suy đồi, tai trời vạ người
thấy xảy ra liên miên. Tuy những tai vạ ấy do ác nghiệp đồng phận của
chúng sanh cảm thành, nhưng thật ra cũng là do đánh mất sự giáo dục trong
gia đình mà nên nỗi.
Vì thế, kẻ có thiên tư quen thói cuồng vọng, người không thiên tư thành
ra bướng bỉnh, sàm sỡ. Nếu như ai nấy đều được mẹ hiền uốn nắn thì người
người đều thành thiện sĩ, cùng thì riêng mình thiện, đạt thì khiến người khác
cùng thiện; sao đến nỗi trên không đạo để noi, dưới không pháp để giữ, thói
tệ nảy sanh trăm mối, dân không lẽ sống vậy!

* Chỉ cầu sao chẳng đói, chẳng rét, mơ chi phát tài cự vạn. Để vàng ròng
đầy ắp lại cho con, chẳng bằng dạy con một quyển kinh. Tổ đức bị sứt mẻ
mới đáng chết thẹn, chứ tổ nghiệp bị sứt mẻ nào có thương tổn chi!

* Con em nhà phú quý đa phần chẳng thành người, nguyên do là thương
con nhưng chẳng hiểu đạo: hoặc chỉ chú trọng đến tiền tài, hoặc chỉ lo cho
con ăn mặc sang trọng. Tiền xài mặc sức ắt sẽ đến nỗi ăn bậy thành bệnh.
Nếu cho đứa này giữ tiền để sanh lợi thì những đứa kia chẳng được giữ sẽ
oán hờn cha mẹ, sanh lòng đố kỵ với anh, em, chị em nào được giữ tiền. Đấy
đều chẳng phải là cách để dạy con hiếu đễ. Nếu con gái có tiền, khi xuất giá
ắt sẽ cậy tiền tự kiêu, hoặc khinh thường chồng, hoặc chẳng hiểu rõ sự việc,
đem tiền giúp chồng làm việc quấy.
Muốn cho con cái thành hiền nhân thì hãy nên bồi phước, chớ nên tích
cóp tiền tài. Của cải là gốc họa. Các vị từng thấy không ít người tay trắng
làm nên đều là do không tiền tự mình siêng gắng mà được, nhưng nhà đại
phú gia chẳng mấy chốc gia sản trống rỗng. Vì thế cổ nhân nói: “Để cho con
một rương đầy vàng, chẳng bằng để cho con một quyển sách”. Đọc sách
được thì đọc, không đọc được thì làm nghề nông, hoặc buôn bán, ai có nghề
nấy để làm cái vốn lập thân nuôi gia đình. Con gái nếu có tiền lại hiểu đạo
lý, lẽ cố nhiên tiền sẽ thành cái vốn để trợ đạo. Nếu chẳng hiểu đạo lý, tiền
sẽ hại cô đó, hại luôn chàng rể, hại lây cả đến cháu trai, cháu gái!

* Con người một đời thành bại đều là do sự tài bồi, tập tành dần dần lúc
nhỏ mà ra. Ngươi đã thành thiếu niên phải biết tốt xấu, vạn phần chẳng được
học theo thói đời, hãy nên học hiếu, học đễ, học trung hậu, thành thực. Đang
lúc tuổi trẻ mạnh mẽ, cường tráng, hãy nỗ lực đọc sách. Phàm đọc qua sách
nào, phải nghĩ xem những điều nào sách dạy là trọng yếu đối với con người
thì thực hành theo đó; chứ nếu không chỉ là cố ngốn sách cho nhiều.
Nếu những điều dạy trong các sách nói trên chẳng dễ lãnh hội thì những
điều nói trong các sách như Âm Chất Văn, Cảm Ứng Thiên v.v... đều là nói
trực tiếp, dễ lãnh hội; hãy nên thường đọc, thường nghiền ngẫm, sửa lỗi
hướng thiện. Lúc nhàn hạ, rất nên niệm A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ
Tát để mong tiêu trừ nghiệp chướng, tăng trưởng phước huệ, đừng nghĩ là
khổ sở. Cổ nhân nói: “Thiếu tráng bất nỗ lực, lão nhân đồ thương bi” (Trẻ
mạnh chẳng nỗ lực, già cả luống sầu thương!) Lúc này bỏ phí quang âm, về
sau dù có nỗ lực cũng khó thành tựu! Bởi lẽ, tuổi trẻ đã qua, trí nhớ cùn quá
nửa, học cái gì cũng phải dùng sức nhiều nhưng hiệu quả lại ít.
Thứ nhất là phải làm người tốt, thấy người hiền mong được bằng, thấy
kẻ chẳng hiền trong lòng tự cảnh tỉnh,
Thứ hai là phải biết nhân quả báo ứng, nhất cử nhất động đừng mặc tình
khoái ý, mà phải nghĩ việc này có lợi ích đối với ta, với người thân, người
ngoài hay chăng. Chẳng những làm việc gì cũng như thế mà khi khởi tâm
động niệm cũng phải thường như thế. Khởi tâm lành ắt có công đức, khởi
tâm xấu ắt mắc tội lỗi. Muốn được báo tốt thì phải giữ tâm tốt. Nói lời lành,
làm việc lành, lợi người lẫn vật, chẳng làm hại mình lẫn người thì mới nên.
Nếu chẳng vậy, sao hưởng được báo tốt?
Ví như đem hình xấu đặt trước gương sáng, quyết định chẳng thể hiện
bóng đẹp đẽ được. Ảnh được hiện so với hình xấu, trọn chẳng khác gì. Nếu
ngươi quả thật hiểu sâu nghĩa này, tương lai nhất định thành một bậc chánh
nhân quân tử, khiến hết thảy mọi người đều tôn trọng, yêu kính. Mong hãy
suy nghĩ cẩn thận, nghĩ ngợi chín chắn thì thật là may mắn lắm!

---o0o---

3. Khuyên nên tại gia hoằng pháp

* Như Lai thuyết pháp hằng thuận chúng sanh. Gặp cha nói Từ, gặp con
nói Hiếu, ngoài tận hết luân thường, trong tiêu trừ tình lự. Nếu như khôi
phục được chân tâm vốn có thì gọi là Phật đệ tử, chứ nào có phải vì đầu tóc
mà luận đâu!
Huống nữa, quý hương (làng) tuốt trong núi sâu, người biết pháp ít ỏi.
Kẻ cao minh vì chẳng thông ngôn ngữ nên đều chẳng đến đấy. Hãy cậy vào
lòng thành ấy, kiệt lực học đạo, tu hiếu đễ, ngõ hầu cảm hóa xóm giềng. Trai
giới thành lập, giết trộm dâm liền tiêu.
Nghiên cứu kinh luận Tịnh Độ ắt hiểu yếu đạo xuất thế. Thọ trì An Sĩ
Toàn Thư sẽ hiểu khuôn mẫu tốt lành khiến cuộc đời thuần dịu. Dùng pháp
môn Tịnh Độ khuyên dụ cha mẹ, dùng pháp môn Tịnh Độ dạy con và người
thân bè bạn, chính là vì sanh tử đại sự đau đáu lo cho thân sau.
Chẳng cần phải chọn riêng một nơi mà gia đình liền thành đạo tràng, cha
mẹ, anh em, vợ con, bằng hữu, thân thích, người quen biết đều thành pháp
quyến. Tự hành, dạy người, miệng khuyên, thân siêng gắng khiến cho mọi
người cùng quy hướng Tịnh Độ, đều thoát khổ luân, đáng gọi là bậc cao tăng
còn để tóc, là đệ tử Phật tại gia vậy!

* Hai vị lệnh thân hiện còn sống thì hãy nên dùng những cảm ứng, sự
tích của pháp môn Tịnh Độ để thường giảng nói khiến họ phát tâm hoan hỷ,
tin nhận phụng hành. Nếu chẳng coi đấy là hiếu, dù có tận sức làm hết
những điều thế gian coi là hiếu, rốt cuộc có ích lợi gì cho cha mẹ đâu?
Vua Đại Vũ là đại thánh nhân, vẫn chẳng cứu được hồn [cha là] Cổn hóa
thành Hoàng Nai (chữ Năng đọc thành Nai, có nghĩa là con ba ba có ba
chân) sống trong Vũ Uyên. Thấy vậy chẳng nên kinh sợ, tỉnh ngộ mong dẫn
dắt thần thức cha mẹ cao dự hải hội, thân cận Di Đà hòng chứng được vô
lượng quang thọ vốn có sẵn trong tâm ư?
Cư sĩ Chí Liên dù giỏi khổ hạnh, nhưng chỉ e với tông chỉ Tịnh Độ vẫn
còn có điều chẳng biết, hoặc có tâm cầu chuyển nữ thân hoặc mong sanh vào
chốn an vui trong đường trời người nên chẳng thể buông xuống triệt để
được, đến nỗi vô biên lợi ích bị mất cả vào điều vui thế gian nhỏ nhặt. Phải
nên thường giảng nói khiến cho bà ấy chí hướng quyết định. Khuyên một
chúng sanh vãng sanh Tịnh Độ chính là thành tựu cho một chúng sanh thành
Phật. Thành Phật rồi ắt độ vô lượng chúng sanh, công ấy bắt đầu từ ta, công
đức lợi ích ấy há nghĩ bàn nổi chăng?
Tự mình đã tu Tịnh Độ, lại còn phải đem pháp môn này bảo khắp với
mọi người: anh em, thê thiếp, con cái, bảo họ [các người] lẽ nào chẳng chịu
phát tâm, đành bỏ mất lợi ích lớn lao này ư? Nếu thiên tánh của họ gần với
pháp môn này thì còn gì tốt hơn! Nếu tánh họ hơi xa, giồi mài mãi56 cũng sẽ
nhiễm từ từ, dù xa cũng thành gần. Đấy đáng gọi là lòng yêu mến sâu xa,
đáng gọi là lòng từ rộng lớn. Bỏ tấm lòng từ ái này chỉ đáng gọi là hữu danh
vô thật!

* Thái phu nhân niên kỷ đã tám mươi ba, phải thường khuyến dụ bà tín
nguyện niệm Phật. Nếu bảo bà suốt ngày niệm Phật chỉ e bà làm không nổi.
Trước đây đã toan lập cách trợ niệm ngay khi còn sống, nhưng nghĩ chưa ra.
[Đến khi] Trấn Thủ Sứ Vương Duyệt Sơn đưa mẹ lên thăm núi, [tôi thấy]
quyến thuộc của ông ta rất đông bèn tìm ra một cách trợ niệm rất tuyệt diệu,
đã trình bày sơ lược với ông ta, nay sẽ thưa cùng các hạ. Dù các hạ chẳng
thực hành được cũng chẳng đến nỗi coi thường bỏ qua, đó cũng là đạo tự lợi
lợi tha vậy.
Trong quyến thuộc của các hạ, các ông con trai ai nấy đều có chức
nghiệp, cố nhiên khó thể luôn luôn làm được. Nhưng các bà con dâu thì vô
sự thanh nhàn, những kẻ hầu gái như các bà vú v.v... ắt chẳng có việc gì
quan trọng, ông nên bảo họ căn theo đồng hồ suốt ngày ở quanh thái phu
nhân lớn tiếng niệm Phật chừng nửa giờ. Hết lượt bèn đổi phiên, cả ngày
chẳng dứt tiếng niệm Phật.
Thái phu nhân nếu niệm theo được thì càng tốt; bằng không thì chỉ nhiếp
tâm lắng nghe suốt ngày, thường chẳng lìa Phật. Các người khác cũng chẳng
mất sức, bởi lẽ cả ngày bất quá chỉ phải niệm một lượt hay hai lượt, nhưng
thời gian cách khoảng giữa hai lượt cũng khá dài. Bọn họ không có chuyện
gì quan trọng, bèn nhờ đấy mà dốc tận lòng hiếu, gieo thiện căn; ngay đến
bọn hầu gái cũng nhờ vào nhân này, gieo duyên xuất ly sanh tử.
Từ nay trở đi, lấy cách này làm lệ thường; dù thái phu nhân tuổi thọ quá
cao cũng chẳng được nửa chừng bỏ dở. Pháp này lợi ích chẳng thể nghĩ bàn.
Phàm ai có tín tâm muốn thành tựu đạo nghiệp vãng sanh cho cha mẹ thì hãy
nên khuyên họ làm theo cách này.

* Mẹ ông tuổi cao nhưng với pháp môn Tịnh Độ chưa thể hiểu đúng, tu
trì, hãy thường nói với mẹ về nỗi khổ luân hồi trong sáu đường, sự vui trong
thế giới Cực Lạc. Người sanh trong thế gian siêu thăng cực khó, đọa lạc cực
dễ. Nếu chẳng vãng sanh Tây Phương, đừng nói là nhân đạo chẳng đáng
nương cậy, dù sanh lên trời phước thọ thật lâu, một khi phước lực đã tận vẫn
phải đọa lạc trong nhân gian như cũ và phải thọ khổ trong tam đồ ác đạo.
Nếu chẳng biết Phật pháp thì chẳng biết làm sao được; còn như nay đã
hiểu đại lược Phật pháp, há đành nhường mối đại lợi ích này cho người
khác, tự mình cam tâm luân hồi trong lục đạo, thoạt ra thoạt vào, vĩnh viễn
không có ngày giải thoát ư? Cứ nói như vậy, may ra mẹ sẽ phát khởi được
túc thế thiện căn, tin nhận phụng hành.
Bồ Tát độ sanh tùy thuận cơ nghi, trước hết dùng dục để nhử, sau mới
khiến cho nhập vào Phật trí. Ông cực lực tu hạnh hiếu đễ, lại đem pháp môn
Tịnh Độ khuyên lơn, hướng dẫn quyến thuộc của mình và hết thảy những ai
hữu duyên cùng làm người trong hội Liên Trì thì công đức rất lớn.

* Con hiếu thờ cha mẹ thì phải đặt cái gốc lên trước, đặt cái ngọn ra sau,
nuôi thân cha mẹ, khai đạo tinh thần. Nếu chỉ biết báo bổ công lao, phụng
dưỡng cho cha mẹ an nhàn, lập thân hành đạo để cha mẹ được vẻ vang,
chẳng biết đem đạo thường trụ vô sanh, pháp niệm Phật vãng sanh để
khuyên dụ cha mẹ tu trì, khiến cho cha mẹ lúc sống niệm Phật hiệu, chết đi
sanh về cõi Phật, giã biệt nỗi khổ sanh tử hư huyễn, hưởng thường trụ chân
lạc, phụng sự Di Đà, chen vai cùng hải chúng nghe viên âm, tam Hoặc trừ
sạch, thấy diệu cảnh, viên minh tứ trí, chẳng lìa An Dưỡng, vào khắp mười
phương thượng cầu hạ hóa, rộng làm Phật sự, triệt chứng Phật tánh vốn sẵn
có trong tâm, làm thuyền từ độ khắp mọi người trong biển khổ.
Nếu vậy thì đúng là thấy nhỏ quên lớn, được gần bỏ xa, chính là kiến
giải hạn hẹp của kẻ hèn, chẳng phải là tầm nhìn rộng lớn của bậc thông đạt.
Nếu như ông có thể làm cho mẹ hiền cũng giống như mình, cũng như quyến
thuộc cùng thoát Sa Bà, đồng sanh An Dưỡng, đồng chứng vô lượng quang
thọ, đồng hưởng pháp lạc tịch quang, đồng làm pháp vương tử của Phật A
Di Đà, đồng làm đại đạo sư của trời người thì mới là trọn hết tấm lòng hiếu
tử, mới xứng với công cha mẹ nuôi dạy. Đấy mới đúng là hiếu từ nuôi dạy,
chứ chẳng phải như thế gian nói hiếu từ nuôi dạy đâu!

* Hành đạo hiếu thì không còn gì lớn hơn được nữa, hết thảy các điều
lành không gì chẳng thâu tóm, nhưng đạo hiếu có thế gian, xuất thế gian,
lớn, nhỏ, bổn, tích sai khác.
Đạo hiếu thế gian là chăm nom, phụng dưỡng cho cha mẹ được yên ổn,
đón trước ý khiến cha mẹ vui vẻ, cho đến lập thân hành đạo để dương danh
hậu thế. Dù lớn nhỏ khác nhau nhưng đều là chuyện thuộc về mặt sắc thân;
dẫu cho đại hiếu ngút trời, rốt cuộc chẳng ích lợi gì cho tâm tánh, sanh tử
của cha mẹ cả! Đúng là chỉ uổng công đuổi theo cái ngọn, chẳng xét đến cái
gốc. Huống hồ là sát sanh để dâng lên cha mẹ hay để cúng tế khiến cho cha
mẹ càng bị oán thù kết chặt, mãi mãi phải đền trả chẳng ngơi ư?
Đạo hiếu xuất thế gian, xét về mặt Tích cũng giống như thế gian chăm
nom, phụng dưỡng... cho đến lập thân dương danh, nhưng cái gốc là khiến
cho cha mẹ huân tu đại pháp của Như Lai. Cha mẹ còn sống thì khéo léo
khuyên dụ sao cho cha mẹ ăn chay niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Ăn
chay ắt chẳng tạo sát nghiệp, vừa diệt được túc ương. Niệm Phật thì ngầm
thông Phật trí, thầm hợp diệu đạo. Nếu quả thật tin sâu, nguyện thiết cầu
sanh Tây Phương, ắt đến lúc lâm chung được Phật tiếp dẫn, gởi thân nơi
chín phẩm sen. Từ đấy siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, mãi mãi xa
lìa các khổ trong chốn Sa Bà, thường hưởng các sự vui trong chốn Cực Lạc.
Cha mẹ đã khuất bèn thay cha mẹ dốc sức tu Tịnh nghiệp, chí thành hồi
hướng cho cha mẹ. Nếu tâm thật sự chân thiết, cha mẹ sẽ được lợi ích; nếu
chưa vãng sanh liền được vãng sanh. Nếu đã vãng sanh, phẩm sen sẽ cao
thêm. Đã phát tâm được như thế thì sẽ tương ứng với bốn hoằng thệ nguyện,
khế hợp Bồ Đề giác đạo; há đâu chỉ riêng cha mẹ được lợi ích mà công đức
thiện căn, phẩm vị đài sen của chính mình cũng sẽ cao siêu thù thắng!
Huống lại dùng chính thân mình thuyết pháp khiến cho khắp mọi đồng
luân cùng phát lòng hiếu thuận. Đạo hiếu ấy mới là thật nghĩa rốt ráo, chẳng
phải như thế gian chỉ mong lợi lạc cho sắc thân và đời này, bỏ qua tâm tánh
và đời sau chẳng buồn bàn tới! Vì thế biết rằng đạo Phật lấy hiếu làm gốc.
Do đó, kinh Phạm Võng dạy: “Hiếu thuận với cha mẹ, sư tăng, Tam Bảo.
Hiếu thuận là pháp chí đạo. Hiếu gọi là Giới”’.
Lại như trong các giới Giết - Trộm - Dâm - Dối, kinh đều nói phải sanh
tâm từ bi, tâm hiếu thuận. Trong giới “Chẳng thực hành phóng sanh, cứu
mạng”, kinh Phạm Võng dạy: “Hết thảy người nam là cha ta, hết thảy người
nữ là mẹ ta, đời đời chẳng lúc nào ta chẳng sanh ra từ họ. Vì thế lục đạo
chúng sanh đều là cha mẹ ta, giết chúng sanh để ăn thịt chính là giết cha mẹ
mình”. Bởi thế mới nói đạo Hiếu của Phật giáo gồm khắp tứ sanh lục đạo từ
vô thỉ trước đến tận vị lai sau, chẳng thể đem chuyện chỉ biết một đời một
thân ra so sánh được. Biết vậy rồi mà chẳng kiêng giết phóng sanh, ăn chay
niệm Phật thì làm sao trọn hết được đạo hiếu chí cực không chi hơn được
nữa đây?

* Tự mình đã tu trì Tịnh nghiệp thì cũng phải nên dạy hết mọi người
quen biết cùng tu Tịnh nghiệp. Nên dựa theo phần Phổ Khuyến Môn trong
sách Long Thư Tịnh Độ khiến cho ai nấy tùy phần tùy sức gieo thiện căn
chẳng thể nghĩ bàn này. Đã muốn đem pháp này dạy người thì nên dạy từ
thân đến sơ, nỡ nào để thê thiếp, con cái chẳng được hưởng lợi ích này ư?
Văn Vương nghiêm nhặt với vợ góa cho đến huynh đệ để giữ yên nhà cửa
đất nước. Đạo tự hành, dạy người thế gian, xuất thế gian không pháp nào
chẳng vậy!

* Tự mình cải ác tu thiện, nhất tâm niệm Phật; phàm hết thảy người
thân đều là kẻ hữu duyên, cũng nên dạy họ pháp này. Với những người phản
đối, hãy khởi tâm thương xót, đừng bắt buộc họ phải làm. Cứ đè đầu bò bắt
gặm cỏ thì vạn vạn phần chẳng làm được! Nếu bảo: “Tôi nhất tâm niệm
Phật, các sự chẳng bận tâm đến nữa” thì chẳng những là bị trở ngại nơi pháp
thế gian, mà cũng chẳng hợp với Phật pháp. Làm đúng với địa vị thì mới
nên.
Khuyên người niệm Phật tu hành dĩ nhiên là công đức bậc nhất, nhưng
dưới đến vợ con, trên lên cha mẹ, ông bà đều phải nên khuyên nhủ. Nếu
chẳng thể khéo léo dùng phương tiện khuyên nhủ gia đình, khiến cho quyến
thuộc mình cùng được hưởng lợi ích chẳng thể nghĩ bàn liễu thoát sanh tử
ngay trong đời này thì chính là bỏ gốc theo ngọn, chỉ biết lợi người ngoài mà
chẳng biết làm lợi cho người thân, có nên chăng?

* Với những người trong nhà, vào những khi nhàn hạ vô sự, hãy dùng lời
lẽ khúc chiết, uyển chuyển tỏ bày tận lý khiến tâm người nghe biết được lẽ
phải trái, nên, không nên; vô hình trung ắt sẽ khiến cho tâm thức người nghe
được mài giũa giần, nhiễm dần mà chuyển biến.
Còn như khi cái tánh ngu bướng, ngạo nghễ của người ấy trỗi dậy, nếu
thấy đối trị được thì hãy dùng những danh ngôn chí lý để ôn hòa bình tĩnh
đối trị. Nếu không được thì cứ mặc kệ, đừng động đến kẻ ấy nữa, đợi khi kẻ
ấy hết nóng, lại ôn hòa, bình tĩnh cùng kẻ ấy bàn luận khúc nhôi, lâu dần kẻ
ấy cũng bị cảm hóa. Trọn chẳng nên dùng đến những phương cách bắt buộc,
mạnh mẽ, dữ dội...

* Nay là lúc pháp nhược ma cường, muốn hộ trì Phật pháp thì ở ngoài
đời dễ hơn, làm Tăng sẽ khó. Nếu các hạ nghiêm trì năm giới, chuyên niệm
Di Đà, khắc kỷ, giữ lễ, lời nói tương xứng hành vi, sau đấy lại rộng khuyến
hóa, chỉ dạy nhằm lợi khắp quần sanh, đừng cậy mình làm thầy mà tự cao,
chẳng được nhận tiền tài để hưởng thọ. Ở nhà thì dạy cho cả nhà, ra đại
chúng bèn vì đại chúng trình bày rõ khiến ai nấy đều ngưỡng mộ đức mà tin
theo lời mình. Đấy gọi là thân đã chánh thì chẳng ra lệnh mà người hành
theo, lấy thân mình làm gương, hễ gió thổi qua là cỏ phải rạp xuống.

* Tôi hay viết câu liễn như sau:


Xả Tây Phương tiệp kính, cửu giới chúng sanh thượng hà dĩ viên thành
Phật đạo?
Ly Tịnh Độ pháp môn, thập phương chư Phật bất năng phổ lợi quần
manh.
(Bỏ đường tắt Tây Phương, cửu giới chúng sanh dùng chi viên thành
Phật đạo?
Rời pháp môn Tịnh Độ, mười phương chẳng thể lợi khắp quần manh)
Các hạ hãy khởi phát đại dũng mãnh, phát đại tinh tấn gánh vác pháp
này. Dùng những ngôn luận hoằng dương Tịnh Độ xứng với căn cơ của cổ
nhân để bảo ban làng xóm, sống trong trần lao chẳng nhiễm, tu Chân ngay
trong cõi Tục thì mới hợp với ý nghĩa “viên dung, vượt thoát khỏi danh và
mạng” vậy.

---o0o---

4. Khuyên nên sống trong cõi trần học đạo

* Niệm Phật dĩ nhiên quý tại chuyên nhất; nhưng cư sĩ trên có cha mẹ,
dưới có vợ con, ngoài lo toan tính mong cầu giàu sướng, thật chẳng thích
hợp [để xuất gia]. Đối với những việc bên trong cần nên làm thì hãy gắng
sức làm, bất tất phải bỏ sạch hết thảy mới là tu hành. Nếu bỏ sạch hết thảy
nhưng vẫn nuôi dưỡng cha mẹ, vợ con chẳng thiếu sót thì cũng được. Nếu
không là trái với đạo hiếu, tuy bảo là tu hành nhưng lại trái nghịch với Phật
pháp. Điều này chẳng thể chẳng biết.
Lại phải nên dùng những lợi ích của pháp môn Tịnh Độ để khuyên lơn
cha mẹ, khiến họ niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Nếu họ tin nhận phụng
hành, lúc lâm chung nhất định được vãng sanh. Một phen được vãng sanh
bèn siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, cao dự hải hội, thân cận Di Đà
thẳng cho đến khi thành Phật mới thôi. Đạo hiếu thế gian sao sánh bằng
được!
Nếu lại còn có thể đem điều ấy bảo ban cho khắp mọi người biết khiến
cho cha mẹ người nào cũng đều được vãng sanh thì công đức giáo hóa quy
về mình, khiến cho phẩm vị liên đài của cha mẹ và của mình đều được tăng
cao. Kinh Thi chép: “Hiếu tử bất quỹ, vĩnh tứ nhĩ loại” (con hiếu chẳng
thiếu thốn, [trời] luôn ban thưởng cho các ngươi). Muốn hiếu với cha mẹ,
hãy nên suy nghĩ sâu xa rồi tận lực thực hành.

* Hoàn cảnh của mỗi người vạn phần chẳng giống nhau; xét đến hoàn
cảnh của ông, thật sự là ở tại gia có lợi ích lớn hơn, nếu xuất gia chỉ được lợi
ích nhỏ. Ông nhờ tổ nghiệp tạm sanh sống được, trên còn mẹ già để thờ,
giữa có anh em để nhờ cậy, trong nhà có vợ hiền, dưới gối chưa có con cái
gì. Bác cả nhà ông hơi tin Phật pháp, chú ba, chú tư cũng chẳng chống đối
đạo pháp chi lắm, ông ở nhà dốc sức tu tịnh nghiệp cũng có thể hướng dẫn
bà cụ phát lòng tin niệm Phật, cầu được liễu thoát, lại cũng có thể giúp anh
em ở ngoài lo liệu việc nhà, cũng như xướng xuất vợ con, em dâu v.v... cùng
tu Tịnh nghiệp để làm kế sách cùng thoát luân hồi.
Ngoài ra còn tùy duyên khai thị, hướng dẫn xóm giềng, thân thích. Vậy
thì nhà mình biến thành đạo tràng, mọi người: thân mẫu, anh, em, vợ, con,
cháu, xóm giềng, bằng hữu đều thành pháp quyến; tùy sức tùy phần, thân
làm, miệng khuyên, khiến cho cả miền Vĩnh Gia, những kẻ lạc đường,
những người thuộc tà kiến chủng tánh đều được nạp vào lò luyện pháp môn
Tịnh Độ viên đốn chí cực lớn lao, luyện thành pháp khí, cùng tu tịnh nghiệp,
tương lai cùng ngự Liên Bang, cùng chứng Bồ Đề. [Lợi ích như thế] vẫn
thua việc ông xuất gia làm tăng, bỏ mẹ đi xa, khiến người nhà hờn oán thiếu
người nương dựa, mẹ ôm lòng phiền con hay sao?
Vả nữa, tất cả những kẻ chẳng hiểu đạo lý đến nơi đến chốn ắt sẽ trở mặt
chê Phật pháp trái nghịch thế đạo, lầm lạc hủy báng, khiến cho bọn họ tạo
khẩu nghiệp phải đọa ác đạo, chưa thấy ích gì mà trước đã tạo nên sự tổn hại
lớn lao vậy. Huống chi mẹ ông đã chẳng bằng lòng, há chẳng nên tuân theo
ý mẹ, vẫn cứ ôm ấp tấm lòng đó ư? Nếu mẹ ông chẳng chấp thuận cho ông
tu hành thì xuất gia còn chấp nhận được, nay mẹ ông hoan hỷ cho ông tu
hành, sao lại muốn bỏ mẹ để tu hành?
Trong Phật pháp, lục độ vạn hạnh, các thứ công nghiệp đều vì lợi ích
chúng sanh. Ông không xuất gia ắt sẽ lợi ích rất lớn cho mẹ. Chỉ riêng một lẽ
đó đã rất nên thuận theo lòng mẹ, cứ ở nhà học đạo khiến mẹ quen thấy,
chẳng mong mẹ tin tưởng mà tự nhiên mẹ tin tưởng, không công đức nào
lớn hơn; huống hồ nào phải chỉ lợi ích riêng cho một mình mẹ ông thôi đâu!
Thêm nữa, mẹ không bằng lòng cho xuất gia thì đừng nghĩ tới chuyện ấy
nữa. Bởi lẽ trong giới luật nhà Phật, cha mẹ chẳng cho phép xuất gia, cứ tự ý
mình đi xuất gia, nhà chùa sẽ chẳng cho phép xuống tóc và thọ giới v.v...
Không vậy, cả thầy lẫn trò đều mắc tội!

* Hiện tại mọi ngăn cấm đều rỡ bỏ cả, người tại gia nghiên cứu, tu tập
nhiều như rừng, người được lợi ích sanh Tây Phương cũng thường thấy, cần
gì phải xuất gia bỏ cha mẹ? Chuyện ấy Quang tôi tuyệt đối chẳng tán thành.
Căn cứ trên thực tế mà nói, trong hiện tại tu tại gia tốt hơn. Vì sao vậy? Vì
đối với hết thảy đều vô ngại. So với người tại gia, người xuất gia bị chướng
ngại nhiều hơn; bởi thế, nếu không phải là người phát tâm chân thật, ắt sẽ
thành phường hạ lưu, vô ích đối với Phật pháp, nhục lây đến Phật.
* Nếu muốn xuất thế thì chẳng cần gì phải tách ra ở riêng, chỉ y theo
ngôn giáo của Phật, đối trị phiền não tập khí sao cho hết sạch mới thôi. Tuy
thân trong cảnh tục, chẳng ngại gì đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử
tiến đến Phật Quả. Như cư sĩ Duy Ma bên Tây Thiên và các vị Phó Đại Sĩ,
Lý Trưởng Giả, Bàng Cư Sĩ v.v... trong cõi này. Nếu tự lực chẳng đủ, đã có
pháp cậy nhờ Phật từ lực vãng sanh Tây Phương để nương tựa. Há phải đâu
ai nấy đều phải bỏ tục xuất gia mới đúng là đệ tử Phật ư?

* Cư trần học đạo, tu chân ngay trong cõi tục thì bậc đạt nhân danh sĩ
hay kẻ ngu phu, ngu phụ đều làm được cả. Gắng sức tu trì, với những thứ hệ
lụy của đời tại gia hãy tưởng như bóng gậy, tiếng hét57 phải đương đầu,
hằng sanh tâm nhàm lìa, luôn sanh chí vui thích58 , lấy bệnh làm thuốc, biến
tắc thành thông, trên chẳng khiến cao đường59 buồn bã, dưới là vợ con chẳng
mất nơi nhờ cậy, lại còn khiến cho hết thảy những ai thấy biết nhờ đó sẽ tăng
trưởng lòng tin trong sạch, còn gì vui hơn!

* Người sống trong thế gian chẳng thể không làm gì cả, chỉ nên trọn hết
bổn phận, chẳng dòm dõi chi đến chuyện ngoài bổn phận. Sĩ, nông, công,
thương, ai nấy chăm lo nghề mình làm cái gốc để nuôi thân, nuôi gia đình,
tùy phận, tùy lực, quyết chí cầu sanh Tây Phương. Nếu có sức thì với việc
lành sẽ bỏ của, hoặc giúp lời nói để tán trợ. Nếu không, phát tâm tùy hỷ
cũng thành công đức, dùng đấy để vun bồi ruộng phước làm trợ hạnh vãng
sanh. Như thuận nước căng buồm, lại thêm chèo lái đến được bến bờ, chẳng
sướng lắm ư?

* Nếu là bậc đại thông gia thì Thiền - Tịnh song tu, nhưng phải lấy Tịnh
Độ làm chủ. Nếu là người căn cơ trung bình thì cũng chẳng cần phải xem
khắp kinh sâu luận rộng, chỉ cốt sao chẳng làm các điều ác, vâng làm các
điều thiện, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương là được. Người ấy
chẳng buông bỏ gia nghiệp mà vẫn kiêm tu pháp xuất thế.
Tuy tựa hồ là cách tu tầm thường không gì lạ lùng cả, nhưng lợi ích
chẳng thể nghĩ bàn. Bởi lẽ, ngu phu, ngu phụ cắm cúi niệm Phật là đã ngầm
thông Phật trí, thầm hợp diệu đạo. So ra, lợi ích nhiều hơn hẳn bậc đại thông
gia suy lường, phỏng đoán, cứ suốt ngày vắt óc phân biệt. Bởi thế, ngu phu,
ngu phụ niệm Phật dễ được lợi ích, bậc đại thông gia nếu toàn thân buông
xuống được hết sẽ dễ được lợi ích, chứ nếu cứ suy dò nghĩa lý sẽ chẳng
được lợi ích; trái lại còn thành bệnh, chưa đắc bảo là đắc, có kẻ trở thành
cuồng dại nữa.
Một pháp tham thiền, con người hiện tại chẳng nên học; dù có học cũng
chỉ thành văn tự tri kiến60 , quyết chẳng thể đốn minh tự tâm, tự thấy tự tánh.
Vì sao vậy? Một là thiếu thiện tri thức chỉ dạy, quyết trạch; hai là người học
chẳng hiểu căn cội của Thiền. Mang tiếng tham thiền nhưng thật ra là hiểu
lầm.

* Đối với việc thọ giới, nếu thiện nam tử xuất gia làm tăng thì phải vào
chùa tập tành oai nghi mới biết quy củ chốn tùng lâm. Giữ đúng oai nghi của
Tăng thì du phương hành cước61 trọn chẳng trở ngại gì. Nếu không, mười
phương tùng lâm không trụ nơi nào được cả.
Nếu người nữ tại gia, cửa nhà khá giả, thân có thể tự làm chủ, đến chùa
thọ giới cũng chẳng phải là không được. Còn nếu như gia cảnh cùng quẫn,
cần gì phải làm vậy. Chỉ cần đối trước Phật, khẩn thiết chí thành sám hối tội
nghiệp trong vòng bảy ngày, tự thệ thọ giới. Đến ngày thứ bảy, đối trước
Phật xướng rằng: “Đệ tử con tên là... thề thọ năm giới, làm mãn phần ưu-bà-
di (ưu-bà-di Hán dịch là Cận Sự Nữ, hàm nghĩa đã thọ năm giới, kham
phụng sự Phật. Mãn Phần nghĩa là thọ trì trọn vẹn năm giới). Đến hết cuộc
đời chẳng sát sanh, đến hết cuộc đời chẳng trộm cắp, đến hết cuộc đời chẳng
dâm dục (nếu là gái có chồng thì nói “chẳng tà dâm”), đến hết cuộc đời
chẳng nói dối, đến hết cuộc đời chẳng uống rượu”. Nói như vậy ba lần liền
được đắc giới.
Nếu chí tâm thọ trì thì công đức chẳng hơn kém, đừng bảo tự thệ thọ trì
là chẳng đúng pháp. Đấy là thánh huấn của đức Như Lai đã dạy trong kinh
Phạm Võng.

* Tam Quy - Ngũ Giới là cửa ngõ ban đầu để vào Phật pháp; tu các pháp
môn khác đều nương theo đây mà vào, huống hồ là pháp môn Tịnh Độ liễu
sanh thoát tử giản dị nhất, chí viên, chí đốn chẳng thể nghĩ bàn ư? Chẳng
cảnh tỉnh tam nghiệp, chẳng trì năm giới, còn chẳng có phần lại được thân
người, huống chi là muốn được liên hoa hóa sanh, thân đầy đủ quang minh
tướng hảo ư?

* Vì hàng tại gia đệ tử lược giảng ý nghĩa của Tam Quy, Ngũ Giới,
Thập Thiện:

Thương thay, từ vô thỉ đến nay chúng sanh luân hồi sáu nẻo, không được
cứu, không chỗ về nương, không nơi gởi gắm, như con côi mất cha, dường
kẻ cùng quẫn nhà tan cửa nát, toàn là do phiền não ác nghiệp cảm thành quả
khổ sanh tử ấy, mù lòa không huệ nhật, chẳng thể tự thoát khỏi. Đại Giác
Thế Tôn thương xót, thị hiện sanh trong thế gian, vì chúng sanh thuyết pháp,
dạy họ thọ Tam Quy để làm cái gốc bỏ tà về chánh, dạy họ trì Ngũ Giới
hòng làm cái gốc đoạn ác tu thiện, dạy họ hành Thập Thiện để làm gốc rễ
thanh tịnh ba nghiệp thân - khẩu - ý.
Từ đấy, chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện. Tam nghiệp đã
được tịnh rồi mới hòng tuân tu đạo phẩm, ngõ hầu trái giác hợp trần, chuyển
phàm thành thánh, đoạn gốc tham - sân - si, thành đại đạo Bồ Đề giới - định
- huệ. Bởi thế, đức Phật giảng Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Lục Độ, ba
mươi bảy phẩm trợ đạo v.v... vô lượng pháp môn. Lại muốn cho chúng sanh
mau thoát sanh tử, chóng thành Phật đạo, đức Phật bèn dạy pháp môn Niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ, khiến họ chẳng phí nhiều sức, hoàn tất được ngay
trong đời này. Ôi! Ơn đức Thế Tôn thật là cùng cực, dù là cha mẹ hay trời
đất cũng chẳng thể sánh ví được.
Bất Huệ (Tổ Ấn Quang tự xưng) thọ ân thật sâu, nhưng không cách nào
báo được ân sâu. Nay các vị lầm nghe lời người, chẳng ngại xa xôi ngàn
dặm đến đây, toan bái tôi làm thầy, nhưng tôi tự xét mình vô đức, ba bốn
lượt khước từ, quý vị vẫn chẳng chịu nghe. Nay bất đắc dĩ, đem ý xuất thế
thuyết pháp độ sanh của đức Như Lai bàn đại khái cùng quý vị, cũng như
giải thích sơ lược về ý nghĩa của Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện và pháp
môn Tịnh Độ ngõ hầu tất cả quý vị lãnh hội được, tất cả quý vị tuân thủ
được, còn như từ Tứ Đế cho đến Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo v.v... chẳng
phải là những điều quý vị có thể hiểu thấu nên tôi lược đi không nhắc đến.
Nếu quý vị y giáo phụng hành, chính là thờ Phật làm thầy, sá gì Bất Huệ!
Nếu chẳng y giáo phụng hành là đã phụ ân Bất Huệ, huống chi là Phật ân!

Tam Quy là:


- Một là quy y Phật.
- Hai là quy y Pháp.
- Ba là quy y Tăng.

Quy là quay theo, Y là nương tựa. Như người rớt xuống biển, chợt có
thuyền đi đến, liền hướng về đó. Đấy là ý nghĩa “quay theo”; ngồi yên ổn
trên thuyền là ý nghĩa “nương tựa”. Sanh tử là biển, Tam Bảo là thuyền;
chúng sanh quy y liền lên bờ kia.
Đã quy y Phật bèn thờ Phật làm thầy, từ nay trở đi cho đến khi mạng
chung, chẳng được quy y thiên ma, ngoại đạo, tà quỷ, tà thần. Đã quy Pháp
bèn thờ Pháp làm thầy, từ nay trở đi cho đến khi mạng chung, chẳng được
quy y kinh sách ngoại đạo. Đã quy y Tăng bèn thờ Tăng làm thầy, từ nay trở
đi cho đến khi mạng chung, chẳng được quy y đồ chúng ngoại đạo.

Ngũ Giới:
- Một là chẳng sát sanh.
- Hai là chẳng trộm cắp.
- Ba là chẳng tà dâm.
- Bốn là chẳng nói dối.
- Năm là chẳng uống rượu.

1) Sát sanh:
Loài vật cũng giống như ta, ham sống sợ chết. Ta đã ưa sống, há vật lại
muốn chết! Do đó hãy nghĩ: Có nên giết hại loài vật chăng? Hết thảy chúng
sanh luân hồi sáu nẻo, tùy nghiệp thiện - ác, thăng - giáng, siêu - trầm, ta
cùng bọn chúng trong nhiều kiếp lần lượt làm cha mẹ nhau, lần lượt làm con
cái nhau, phải nghĩ cách cứu vớt, nỡ nào giết hại? Hết thảy chúng sanh đều
có Phật tánh, trong đời tương lai sẽ đều thành Phật. Nếu ta đọa lạc còn mong
được cứu vớt.
Thêm nữa, ta đã tạo sát nghiệp, ắt phải đọa ác đạo đền bồi nợ cũ, xoay
vần giết hại lẫn nhau chẳng khi nào xong. Suy nghĩ như thế nào còn dám
giết? Nhưng nguyên nhân sát sanh là do ăn thịt. Nếu biết được những nhân
duyên như trên vừa nói sẽ tự chẳng dám ăn thịt nữa. Kẻ ngu lại cho thịt là
ngon, chẳng biết thịt vốn do tinh huyết tạo thành; trong chứa phân tiểu,
ngoài lẫn bẩn thỉu, tanh tưởi, hôi thối, ngon lành chỗ nào? Thường quán bất
tịnh, ắt ăn vào sẽ ói ra.
Thêm nữa, sanh vật là người, cầm thú, giòi, bọ, cá, tép, muỗi, mòng, rận,
rệp, tất cả những loài có sanh mạng; đừng bảo con vật lớn chẳng được giết,
con vật nhỏ thì giết được! Trong kinh Phật có rộng nói công đức kiêng giết,
phóng sanh. Tục nhân chẳng thể đọc đến thì hãy xem sách Vạn Thiện Tiên
Tư của An Sĩ tiên sinh ắt sẽ biết được đại khái!

2) Chẳng trộm cắp:


Thấy nghĩ được cái gì, chẳng cho bèn chẳng lấy. Người biết liêm sỉ
chẳng phạm lỗi này, nhưng nếu luận tỉ mỉ thì chẳng phải là bậc đại thánh đại
hiền sẽ rất khó chẳng phạm. Vì sao? Lấy công giúp tư, tổn người lợi mình,
cậy thế lấy của, dùng mưu kế đoạt vật, ghen ghét vì người khác phú quý,
mong họ bần tiện; làm lành để phô trương; đối với các việc lành tâm chẳng
hiểu đúng, chẳng hạn như lập trường miễn phí, chẳng chọn thầy nghiêm,
khiến con em người khác bị lầm lạc; thí thuốc chữa bệnh chẳng phân biệt
thật giả khiến người dùng bị nguy tánh mạng; thấy người bị tai nạn gấp vẫn
xem thường chẳng cứu, lề mề hờ hững đến nỗi lỡ việc; làm tắc trách cho
xong việc, mặc kệ tiền tài người khác bị lãng phí, trong lòng không coi đó là
chuyện khẩn yếu. Những điều như thế đều gọi là trộm cắp. Vì các vị đều ở
chốn tốt lành nên tôi chỉ chọn ra những điều tệ hại nhất để nói đại lược mà
thôi!
3) Chẳng tà dâm:
Tục nhân nam nữ lập gia đình sanh con đẻ cái, trên là liên quan đến
phong hóa, dưới là liên quan đến việc cúng giỗ. Dù vợ chồng ăn nằm với
nhau chẳng bị cấm, nhưng phải kính nhau như khách, cốt để [có con cháu]
giỗ quải tổ tiên, chẳng được lấy đó làm điều khoái lạc, ham dục đến nỗi mất
mạng. Dù là vợ mình, tham vui quá cũng là phạm tội, nhưng tội ấy còn nhỏ
nhặt. Nếu chẳng phải là vợ mình mà ăn nằm bừa bãi thì gọi là “tà dâm”, tội
ấy cực nặng!
Hành tà dâm là đem thân người làm chuyện súc sanh, khi báo hết mạng
tận trước là đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, sau là đọa trong đường súc sanh ngàn
vạn ức kiếp chẳng thể thoát khỏi. Hết thảy chúng sanh từ dâm dục sanh nên
giới này khó giữ, dễ phạm. Dẫu là bậc hiền đạt, cũng có lúc còn vi phạm,
huống chi kẻ ngu?
Nếu lập chí tu trì thì trước hết phải biết rõ lợi - hại (lợi là chẳng phạm
giới này sẽ được lợi lạc gì; hại là những họa hại do phạm giới này) cũng như
phương pháp đối trị thời sẽ như thấy rắn độc, như gặp oán tặc, kinh sợ,
hoảng hốt, dục tâm sẽ tự dứt. Cách đối trị chép rộng trong kinh Phật. Tục
nhân không duyên xem đến hãy đọc sách Dục Hải Hồi Cuồng của An Sĩ tiên
sinh sẽ biết được đại khái.

4) Chẳng vọng ngữ:


Lời nói đáng tin, chẳng thốt lời hư dối. Nếu thấy nói chẳng thấy, chẳng
thấy nói thấy, lấy hư làm thật, biến có thành không, phàm điều gì tâm chẳng
xứng với miệng, toan khinh dối người khác đều là vọng ngữ cả. Lại nếu như
chưa đoạn Hoặc bảo là đã đoạn Hoặc, chưa đắc đạo bảo là đắc đạo thì gọi là
đại vọng ngữ. Tội ấy rất nặng, sau khi mạng chung nhất định đọa thẳng vào
A Tỳ địa ngục, vĩnh viễn không có lúc thoát ra. Nay người tu hành chẳng
biết giáo lý Phật pháp, đa phần như thế cả, cho nên phải đau đáu răn đe.
Điều này thật thiết yếu.
Bốn điều trên chẳng luận là xuất gia hay tại gia, thọ giới hay không thọ
giới hễ phạm liền vướng tội lỗi, bởi thể tánh của chúng là ác. Nhưng người
chưa thọ giới thì mắc tội một tầng; người đã thọ giới mắc tội gấp đôi bởi
ngoài chuyện làm điều ác ra, còn thêm cái tội phạm giới. Nếu giữ được
chẳng phạm thì công đức vô biên; hết thảy phải nên gắng sức.

5) Chẳng uống rượu:


Rượu làm cho tâm người mê loạn, hoại giống trí huệ. Uống vào sẽ bị
điên đảo, hôn cuồng, làm chuyện càn quấy, nên Phật chế định người tu hành
trọn chẳng được uống rượu. Lại như hành, hẹ, kiệu, tỏi, nén, năm thứ thực
vật nồng gắt, mùi vị hôi hám, bản chất chẳng thanh khiết, ăn chín sanh dâm,
ăn sống tăng lòng nóng giận, người tu hành đều chẳng được ăn. Với giới
này, người chưa thọ giới ăn uống chúng chẳng bị tội gì; người thọ giới mà
dùng hay ăn chúng liền phạm một tầng giới của Phật. Phật đã cấm chế, các
vị vẫn phạm nên mắc tội vậy.

Thập Thiện là:


- Một là chẳng sát sanh,
- Hai là chẳng trộm cắp.
- Ba là chẳng tà dâm.
- Bốn là chẳng nói dối.
- Năm là chẳng nói thêu dệt.
- Sáu là chẳng nói đôi chiều.
- Bảy là chẳng ác khẩu.
- Tám là chẳng tham.
- Chín là chẳng sân.
- Mười là chẳng si.
Ba điều đầu gọi là thân nghiệp, bốn điều giữa là khẩu nghiệp, ba điều
cuối là ý nghiệp. Nghiệp nghĩa là “sự”. Nếu trì chẳng phạm thì gọi là Thập
Thiện, nếu phạm chẳng trì thì gọi là Thập Ác. Thập Ác chia làm thượng,
trung, hạ, cảm ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Thập Thiện chia
thành thượng, trung, hạ cảm ba thiện đạo trời, người, a-tu-la. Nhân lành cảm
quả lành, nhân ác cảm quả ác, quyết định chẳng nghi, chẳng sai mảy may.
Trong phần nói về Ngũ Giới đã giảng giết - trộm - dâm - dối rồi.
Ỷ ngữ (nói thêu dệt) là những lời lẽ phù phiếm, vô ích, chải chuốt, bóng
bảy bàn nói chuyện dâm dục khiến người khác nghĩ bậy.
Lưỡng thiệt (nói đôi chiều) là đến người này nói người kia, đến người
kia nói người này, đâm thọc thị phi, đòn xóc hai đầu v.v...
Ác khẩu là ngôn ngữ thô ác như dao, như kiếm, vạch trần lỗi kín của
người, chẳng kiêng dè. Nếu lại còn khiến cho cha mẹ người bị xấu lây, thì
gọi là “đại ác khẩu”, tương lai mắc phải quả báo súc sanh. Đã thọ giới nhà
Phật, chớ nên phạm giới này.
Tham keo là tiền tài của mình chẳng chịu thí cho người thì gọi là “keo”,
chỉ mong vơ của cải của người về mình thì gọi là “tham”.
Sân khuể là giận dữ, thấy người được gì bèn sầu lo, phẫn nộ, thấy người
bị mất gì bèn mừng rỡ, sung sướng, lại còn cậy thế, cậy oai khinh người rẻ
vật.
Tà kiến là chẳng tin làm lành được phước, làm ác mắc tội, nói không
nhân quả, chẳng có đời sau, khinh chê thánh ngôn, hủy báng kinh giáo của
Phật...
Mười điều thiện này bao hàm hết thảy. Nếu có thể tuân hành thì không
điều ác nào chẳng đoạn, không điều thiện nào chẳng tu. Chỉ sợ quý vị chẳng
thể lãnh hội nên tôi nay chỉ nêu đại lược một hai việc: hiếu thuận cha mẹ,
chẳng trái, chẳng nghịch, khúc nhôi uyển chuyển khuyên cha mẹ nhập đạo,
dứt mặn ăn chay, trì giới niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, liễu sanh thoát
tử. Nếu cha mẹ tin theo thì chẳng còn gì tốt hơn.
Với anh em liền tận sức nhường nhịn, với vợ chồng thời hết sức kính
trọng, với con cái thời tận sức giáo huấn khiến chúng trở thành người tốt,
người hiền, chớ để chúng mặc tình quen thói kiêu căng, đến nỗi thành hạng
người chẳng ra gì. Với xóm giềng làng nước, phải hòa mục, nhường nhịn,
giảng cho họ nghe nhân quả thiện ác, khiến họ sửa lỗi hướng thiện. Với bằng
hữu tận lực giữ chữ tín. Với tôi tớ phải từ ái. Với việc công bèn tận tâm kiệt
lực như khi làm chuyện tư.
Hễ gặp người quen biết, họ hàng, gặp cha nói Từ, gặp con nói Hiếu. Còn
như kinh doanh cố nhiên là để kiếm lời, nhưng chẳng được bán hàng giả, lừa
dối người khác. Nếu như đem phong tục này giáo hóa cho cả một ấp, một
làng thì sẽ khiến cho họa loạn chưa nảy mầm đã tiêu, các hình phạt trở thành
vô dụng; có thể nói là ra ngoài tận trung, trong nhà tận chính vậy!

---o0o---

5. Các sách vở nên đọc

* Thuật rộng nguyện luân, giảng sâu xa duyên khởi thì chỉ có mình kinh
Vô Lượng Thọ. Chuyên giảng về pháp quán cũng như dạy rõ các nhân vãng
sanh thì chỉ có mình Thập Lục Quán Kinh (kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật).
Hai kinh trên đây pháp môn rộng lớn, đế lý tinh vi, kẻ độn căn đời mạt thật
khó thể được lợi ích.
Tìm lấy một bản kinh câu văn giản dị nhưng nghĩa lại giàu, dùng ít chữ
nhưng nghĩa lý phong phú, độ khắp ba căn, hạ thủ dễ nhưng thành công cao,
dùng sức ít mà đạt hiệu quả nhanh chóng, chuyên ròng tu một hạnh lại viên
thành vạn đức, khiến cho nhân tâm mau chóng khế hợp quả giác thì chỉ có
mình kinh Phật Thuyết A Di Đà mà thôi!
Ấy là vì một phen nghe đến y báo, chánh báo trang nghiêm, thượng thiện
nhân cùng nhóm họp, ắt sẽ sanh lòng tin chân thành, phát nguyện khẩn thiết,
quyết có cái thế [mạnh mẽ] như sông ngòi tuôn chảy không sao ngăn được.
Từ đấy giữ chặt khư khư, chấp trì vạn đức hồng danh, niệm đâu chú tâm vào
đó mãi cho đến khi nhất tâm bất loạn. Làm được như vậy thì ngay trong đời
này đã dự vào dòng thánh, lâm chung theo Phật vãng sanh, khai Phật tri
kiến, cùng thọ dụng như Phật.
Bởi thế biết rằng một pháp Trì Danh bao gồm vạn hạnh, toàn sự tức lý,
toàn vọng tức chân, nhân tột biển quả, quả thấu nguồn nhân. Thật đúng là
đường tắt để quay về gốc, là cửa ngõ trọng yếu để nhập đạo.

* Kinh A Di Đà có bản Yếu Giải do đại sư Ngẫu Ích trước tác, lý - sự


đều đạt tới mức cùng cực, là bản chú giải bậc nhất kể từ khi đức Phật nói ra
kinh này, diệu cực xác thực, dù cổ Phật tái hiện trong thế gian chú giải lại
kinh này cũng chẳng thể hay hơn được! Chớ nên xem thường, hãy tin nhận
chắc chắn.
Kinh Vô Lượng Thọ có bản sớ giải của pháp sư Huệ Viễn đời Tùy, giải
văn thích nghĩa thật là trong sáng, gãy gọn. Kinh Quán Vô Lượng Thọ có
bản [chú giải] Tứ Thiếp Sớ của hòa thượng Thiện Đạo. Ngài chỉ muốn khiến
cho ba căn cùng được lợi ích nên đa phần phát huy về mặt sự tướng. Sau
phần nói về Thượng Phẩm Thượng Sanh, Ngài phát huy sự hơn kém của hai
cách Chuyên Tu và Tạp Tu, khiến người đọc sanh lòng tin chân thành kiên
cố. Dù đức Thích Ca Mâu Ni Phật và chư Phật hiện thân bảo bỏ pháp môn
Tịnh Độ này để tu các pháp môn khác cũng chẳng thay đổi ý nguyện chút
nào; có thể nói sách ấy là kim chỉ nam cho hành giả Tịnh nghiệp.
Còn như cuốn Quán Kinh Diệu Tông Sao của tông Thiên Thai thì do đế
lý cực viên dung nên trung hạ căn chẳng được lợi ích, chẳng bằng sách Tứ
Thiếp Sớ lợi khắp ba căn, lợi căn hay độn căn đều được lợi ích cả!

* Cổ nhân muốn cả thế gian cùng tu nên lấy kinh A Di Đà làm nhật
khóa, bởi lẽ kinh này ngôn từ ngắn gọn, nghĩa lý phong phú, hạnh giản dị,
hiệu quả nhanh chóng. Bậc đại sĩ hoằng pháp chú sớ, ngợi khen kinh này từ
cổ đến nay chẳng đếm được hết. Trong số đó, tìm lấy bản rộng lớn, tinh vi
thì không bản nào bằng được tác phẩm Sớ Sao của ngài Liên Trì; còn thẳng
chóng, yếu diệu thì không chi bằng tác phẩm Yếu Giải của ngài Ngẫu Ích. U
Khê đại sư dùng pháp ấn Đế - Quán bất nhị của tông Thiên Thai để soạn
Lược Giải Viên Dung Trung Đạo Sao lý cao thâm nhưng sơ cơ vẫn lãnh hội
được, văn giảng minh bạch nhưng người tu lâu [đọc đến] vẫn khâm phục.

* Về Tịnh Độ thì chọn lấy sách như Di Đà Sớ Sao, ngôn từ giản dị


nhưng tinh vi, lý sâu xa nhưng dễ nhận, thật là cuốn sách trọng yếu trong
Tịnh Độ, là người hướng dẫn tốt cho kẻ sơ cơ.

* Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm dùng mười đại
nguyện vương để dẫn dắt quy hướng Tịnh Độ. Đọc phẩm này sẽ biết rằng
pháp Niệm Phật cầu sanh Tây Phương chính là chỗ quy kết sau cùng để
thành Phật trong một đời của kinh Hoa Nghiêm, thật là phương tiện tối thắng
để tự lợi khi tu nhân, là phương tiện tối thắng để lợi tha khi đắc quả của
mười phương chư Phật.

* Phẩm Hạnh Nguyện nghĩa lý bao la, văn tự vi diệu. Tụng đến khiến
cho chấp trước ta - người - chúng sanh của con người biến mất nào còn có
nữa, thiện căn vãng sanh Tịnh Độ ngày càng thấy tăng trưởng, ắt sẽ tự hành
dạy người; nhưng chẳng được nghĩ rằng “chưa trì kinh này, dù có tu Tịnh
Độ cũng là bạc phước, thiên lệch!”
Các vị Liên Trì, Ngẫu Ích v.v... cũng đều cực lực tán dương [kinh Di
Đà]. Trong Di Đà Yếu Giải có câu: “Trong giáo pháp cả một đời của đức
Như Lai, chỉ mình kinh Hoa Nghiêm nói về một đời viên mãn, nhưng cái
nhân để viên mãn chỉ trong một đời là ở phần cuối kinh: ngài Phổ Hiền
dùng mười đại nguyện vương dẫn dắt hướng về Cực Lạc để khuyến tấn
Thiện Tài và Hoa Nghiêm hải chúng.
Ôi! Điều kinh Hoa Nghiêm đã dạy lại nằm trọn trong kinh này, nhưng
thiên hạ xưa nay tin thì ít, nghi lại nhiều, nói càng nhiều nghĩa càng hao, tôi
chỉ còn có cách mổ tim vẩy máu mà thôi!”
Vì thế, ngài Vô Ẩn nói: “Hoa Nghiêm là quảng bản Di Đà (bản kinh Di
Đà nói rộng), kinh Di Đà là lược bản Hoa Nghiêm (bản kinh Hoa Nghiêm
nói giản lược)”. Xem lời của hai vị đại sư ắt biết rằng xem kinh mà thiếu con
mắt viên đốn chính là cô phụ ân Phật nhiều lắm!

* Cuối quyển 5 kinh Lăng Nghiêm là chương Đại Thế Chí Niệm Phật
Viên Thông, đấy chính là lời khai thị tối thượng của Tịnh tông. Chỉ riêng
mình chương này đã có thể sánh cùng bốn kinh tạo thành Tịnh Độ ngũ kinh!

* Sách Tịnh Độ Thập Yếu do đại sư Ngẫu Ích dùng mắt kim cang xem
khắp các sách xiển dương Tịnh Độ mà soạn thành một tác phẩm khế lý, khế
cơ, chí cực không thể thêm gì được nữa. [Trong sách ấy, cuốn] thứ nhất là
Di Đà Yếu Giải do đại sư tự soạn, văn uyên thâm nhưng dễ lãnh hội, lý viên
đốn nhưng duy tâm, không gì tuyệt hơn. Hãy nên thường xem, đọc, nghiền
ngẫm. Chín cuốn còn lại không cuốn nào lý viên mãn, từ ngữ hay khéo, khế
hợp thời cơ sâu xa bằng cuốn Yếu Giải. Dù chưa thể hiểu trọn vẹn mỗi một
cuốn, nhưng một phen giở xem khác nào uống thuốc tiên, dần dà lâu ngày,
phàm chất ắt thành xác tiên vậy.

* Sách Tịnh Độ Thánh Hiền Lục chép tỉ mỉ các hạnh nguyện khi tu nhân
và công đức khi đã đắc quả của Phật Di Đà, và các việc tự hành dạy người
của các vị Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long
Thọ... Kế đến là các sự tích vãng sanh của từ Viễn Công (tổ Huệ Viễn), Trí
Giả cho đến các đại tổ sư, thiện tri thức đầu đời Thanh; rồi đến sự tích niệm
Phật vãng sanh của tỳ kheo ni, vua quan, sĩ thứ, phụ nữ, ác nhân, súc sanh.
Lại còn chọn chép cả những ngôn luận thiết yếu ngõ hầu người đọc có căn
cứ để chọn lấy pháp, không cách nào nghi ngờ được nữa, bèn noi gương cổ
nhân tận lực tu Tịnh nghiệp. So với việc tham phỏng thiện tri thức, đọc sách
này lại càng thật sự quan yếu hơn.

* Sách Long Thư Tịnh Độ Văn đoạn nghi khởi tín, bao lượt phân tích,
trình bày rành rẽ, chia môn định loại pháp môn tu trì, là cuốn sách hướng
dẫn quý bậc nhất của người sơ cơ. Nếu muốn lợi lạc khắp hết thảy, chẳng
thể không bắt đầu từ cuốn sách này.

* Sách Pháp Uyển Châu Lâm (gồm một trăm quyển) luận rõ nhân quả, lý
- sự cùng nêu, sự tích báo ứng rành rẽ phân minh. Đọc đến không lạnh mà
run, dù ở trong nhà kín phòng tối vẫn thường như đang đối diện Phật, trời,
chẳng dám nảy sanh chút ác niệm nào. Thượng - trung - hạ căn đều được lợi
ích, chẳng đến nỗi vướng mối tệ nhận lầm đường nẻo, chấp lý phế sự, ngả
theo thiên tà, cuồng vọng. Như ngài Mộng Đông nói: “Người khéo bàn tâm
tánh ắt chẳng bỏ lìa nhân quả, người tin sâu nhân quả rốt cuộc sẽ hiểu thật
rõ tâm tánh”. Lẽ ấy thế đương nhiên như thế.
Câu nói này của ngài Mộng Đông quả là lời bàn luận cùng tột thiên cổ
chẳng sửa đổi được, mà cũng là mũi kim đâm thẳng xuống đỉnh đầu những
kẻ cuồng huệ buông tuồng vậy.

* Bộ An Sĩ Toàn Thư giác thế, dạy người tận thiện tận mỹ, bàn đạo luận
đức, vượt cổ siêu kim, lời lẽ giản dị nhưng súc tích, lý sâu nhưng dễ hiểu,
dẫn những sự tích có chứng cứ đích xác, phát huy tột cùng uyên nguyên
những nghĩa luận, đúng là của báu để lưu truyền cho con cháu, mà cũng là
bộ kỳ thư để tuyên giảng.
Mỗi lời đều là tâm pháp của Phật, của Tổ, là đạo mạch thánh hiền, là đạo
trọng yếu khiến đời yên, dân hiền, là bí phương rạng rỡ, tốt lành. Nếu có thể
hành đúng theo sách ấy sẽ nối chí thánh hiền, liễu sanh thoát tử giống như
đưa ra giấy cầm đồ để lấy lại vật cũ, sánh với những thiện thư khác được lưu
thông trong đời thì có khác nào đem quả núi sánh với đụn đất, biển cả sánh
với vũng nước vậy!
An Sĩ tiên sinh họ Châu, tên Mộng Nhân, còn có tên là Tư Nhân, người
Côn Sơn, tỉnh Giang Tô, thông hiểu rộng khắp kinh sách của tam giáo (Phật
- Nho - Lão), tin tưởng sâu xa vào pháp môn Niệm Phật, đến tuổi nhược
quan (chừng 20 tuổi) đi học bèn chán con đường khoa cử, phát Bồ Đề tâm,
soạn sách giác ngộ người đời, ngõ hầu trước là để ai nấy chẳng lầm lỗi, sau
là thoát khỏi biển khổ sanh tử.
Vì thế, ông viết cuốn sách khuyên kiêng giết hại đặt tên là Vạn Thiện
Tiên Tư, sách giới dâm tên Dục Hải Hồi Cuồng. Ấy là vì chúng sanh tạo
nghiệp chỉ hai sự này là nhiều nhất, mà sửa lỗi thì cũng chỉ hai sự này là
khẩn yếu nhất. Ông còn soạn Âm Chất Văn Quảng Nghĩa (giảng rộng nghĩa
lý bài Âm Chất Văn của Văn Xương Đế Quân) ngõ hầu với mỗi một pháp, ai
cũng biết phân biệt đầu mối, đều biết kiêng dè. Sách phê bình, biện luận
cùng tột, tinh vi, đáng gọi là bậc công thần của Đế Quân, triệt để bóc trần,
phơi bày tất cả cái tâm rủ lòng giáo huấn khiến cho ngàn đời trước, ngàn đời
sau cả người giáo huấn lẫn người được giáo huấn không buồn bã, tiếc nuối
gì. Ấy là vì tiên sinh kỳ tài diệu ngộ, đã dùng những sự tích thế gian để phát
huy những nghĩa lý áo diệu, u vi của Phật, Tổ, khiến cho người nhã, kẻ tục
cùng xem, người trí, kẻ ngu cùng hiểu.
Lại vì trong các pháp môn tu hành, chỉ có pháp Tịnh Độ là thiết yếu nhất
nên tiên sinh lại soạn cuốn Tây Quy Trực Chỉ để giảng rõ đại sự niệm Phật
cầu sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử. Bởi lẽ, tích đức tu thiện chỉ được
phước nhân - thiên, phước hết lại phải đọa lạc. Niệm Phật vãng sanh là dự
vào địa vị Bồ Tát, quyết định đạt thành Phật đạo.
Ba cuốn sách đầu tuy dạy người tu thiện nghiệp thế gian, nhưng vẫn gồm
đủ pháp liễu sanh thoát tử. Cuốn sách thứ tư tuy dạy người pháp liễu sanh tử,
nhưng phải tận lực hành điều thiện thế gian. Thật có thể nói là tiên sinh hiện
thân cư sĩ để thuyết pháp độ sanh. Ai bảo tiên sinh chẳng phải là Bồ Tát tái
lai, tôi chẳng dám tin.

* Văn bút lẫn nghĩa luận của sách Cảm Ứng Thiên Vựng Biên thảy đều
siêu tuyệt, nhưng chẳng được quán thông Phật pháp như An Sĩ Toàn Thư.
Ngoại trừ sách An Sĩ Toàn Thư ra, tôi cho rằng cuốn này là hay nhất.

* Sách Cảm Ứng Thiên giảng thẳng [vào vấn đề], là sách do bậc đại
thông gia soạn, lời chú giải thuần dùng văn bạch thoại, chỉ đọc qua một lượt,
sẽ tự hiểu rõ ý nghĩa. Lúc con cái còn nhỏ, rất nên bảo chúng đọc sách này
để nhờ sách này răn dạy con cái mình, tương lai chúng ắt sẽ được thọ dụng
chân thật hòng gỡ bỏ mối lo cho mình.

* Sách Cư Sĩ Truyện do tiến sĩ Bành Thiệu Thăng ở Tô Châu soạn vào


thời Càn Long. Ông xem khắp các sách vở, chọn lấy những gương đại trung,
đại hiếu, thanh cao, chánh trực, liêm khiết, hữu công danh giáo, hiểu sâu
Phật pháp từ đời Hán đến nay, ghi chép những sự nhập đạo, tu chứng của họ,
và chép cả những câu văn phát huy Phật pháp. Số người được chép lên đến
mấy trăm người, chép thành sáu quyển.

* Tam Giáo Bình Tâm Luận do học sĩ Lưu Mật đời Nguyên soạn. Trước
hết, sách chỉ rõ tam giáo đều khuyên người dứt ác tu lành, chẳng nên phế
một giáo nào. Tiếp đó, sách luận rõ công dụng cùng cực của từng giáo sâu
cạn bất đồng. Cuối cùng sách đả phá sạch những thuyết của Hàn Dũ, Âu
Dương, Trình, Chu.

* Thích Thị Kê Cổ Lược chép theo năm tháng các đời, ghi sự tích của
Thích Nho thành từng mục. Từ Phục Hy cho đến cuối đời Minh, quốc gia
thái bình hay loạn lạc, Phật pháp hưng thịnh hay suy vong, tội do hủy báng,
phước do tin tưởng, lợi ích do tu trì, pháp ngữ của tổ sư, hạnh chân thật của
chư Tăng, và những kẻ trung thứ lỗi lạc, kẻ gian ác cùng cực đều chép tỉ mỉ
cả khiến cho ai nấy giở xem liền biết pháp giới, ngồi ngay ngắn xem khắp cổ
kim, há phải đâu chỉ có ích cho riêng người tu đạo, mà còn là của báu kỳ lạ
trong tay áo của những ai đọc sách để luận cổ suy kim nữa!

* Nếu đã có tín tâm, hãy nên đọc các sách Tịnh Độ. Nếu chẳng thể đọc
nhiều thì chọn lấy cuốn sách dễ hiểu, nghĩa lý rộng rãi nhất như cuốn Kính
Trung Kính Hựu Kính (trong các con đường tắt nhất, lại là con đường tắt
hơn nữa). Cuốn sách này thâu thập yếu nghĩa của các nhà, phân môn chia
loại, khiến người xem đến chẳng phí sức nghiên cứu, tìm đọc mà ngộ thẳng
vào chỗ yếu diệu, cốt tủy của Tịnh Độ. Đối với kẻ sơ cơ, sách này có lợi ích
rất lớn.

* Cao Tăng Truyện quyển 1, 2, 3, 4; Cư Sĩ Truyện, Tỳ Kheo Ni Truyện,


Thiện Nữ Nhân Truyện, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục đều ghi chép lời lẽ tốt
lành, hành vi cao đẹp của chư cổ đức. Xem đến ắt sẽ nảy lòng vui mừng
ngưỡng mộ, trọn chẳng đến nỗi mắc lỗi được chút ít đã cho là đủ, cam phận
kém hèn.
Hoằng Minh Tập, Quảng Hoằng Minh Tập, Đàm Tân Văn Tập, Chiết
Nghi Luận, Hộ Pháp Luận, Tam Giáo Bình Tâm Luận, Tục Nguyên Giáo
Luận, Nhất Thừa Quyết Nghi Luận đều là những sách hộ trì giáo pháp. Đọc
đến chẳng những không bị tà ma, ngoại đạo mê hoặc, lại còn phá tan được
thành lũy tà kiến của chúng nữa. Các sách này đọc đến sẽ khiến cho chánh
kiến kiên cố, chúng có thể dùng để chứng tỏ, soi sáng kinh giáo. Chớ bảo là
“cứ nhất tâm đọc kinh, chẳng thèm dòm dõi gì đến những sách ấy”. Cái tri
kiến sai biệt ấy nếu không đả thông được, khi gặp địch rất có thể bị chuốc
lấy nhục vậy!
* Sách Mộng Đông Ngữ Lục do cư sĩ Tiền Y Am trích tuyển những câu
nói chuyên dạy về Tịnh Độ trong Mộng Đông Di Tập soạn thành, lưu truyền
ở phương Nam ngõ hầu đáp ứng nỗi hận đã lâu của những người vô duyên
hội ngộ. Toàn tập thì có ở Bắc kinh, nhưng ở phương Nam chỉ có lược bản
này. Sách này văn từ, nghĩa lý tinh diệu, là trước tác đáng xếp hạng nhất sau
sách của các vị Ngẫu Ích, Tỉnh Am.

* Ngài Mộng Đông nói: “Thật vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm, dùng tín
nguyện sâu trì danh hiệu Phật”. Mười sáu chữ này là đại cương tông của
pháp môn Niệm Phật. Một đoạn khai thị này tinh vi, thiết thực đến cùng cực,
hãy nên đọc kỹ.
Toàn bộ sách Mộng Đông Ngữ Lục văn từ, nghĩa lý chu đáo, đích thật là
kim chỉ nam trong Tịnh tông. Nếu còn muốn đọc thêm nữa thì cuốn Di Đà
Yếu Giải của Ngẫu Ích lão nhân, đúng là một tác phẩm hướng dẫn tốt ngàn
đời chỉ có một.
Nếu có thể một lòng hành theo hai cuốn sách này sẽ chẳng cần phải
nghiên cứu hết thảy kinh luận nào nữa. Nếu thường xem ba kinh Tịnh Độ và
các sách như Tịnh Độ Thập Yếu v.v... ngửa tin lời chân thành của Phật, của
Tổ, phát lòng tin chân thành, phát nguyện thiết tha, dùng lòng chí thành cung
kính trì danh hiệu Phật, dù ở trong nhà tối phòng kín vẫn như đang đối trước
Phật, trời, khắc kỷ giữ lễ, thành thật, cẩn thận, e dè, chẳng giống như những
kẻ trong đời hiện tại trọn chẳng câu thúc, phóng túng không biết e sợ gì.
Quang tôi dù còn là phàm phu sanh tử, vẫn dám bảo đảm ngay trong đời này
các hạ sẽ giã biệt Sa Bà, cao dự hải hội, tự làm đệ tử Phật Di Đà, làm bạn
hiền của các vị đại sĩ.

* Có các sách Tịnh Độ, các giáo nghĩa Tịnh Độ như thế, phải nên hiểu
biết trọn vẹn; dù chẳng đọc khắp các kinh cũng chẳng bị khiếm khuyết chi!
Còn như chẳng biết đến pháp môn Tịnh Độ, dẫu thâm nhập nghĩa lý mọi
kinh, triệt ngộ tự tâm lại toan liễu sanh thoát tử thì chẳng biết phải mất mấy
đại kiếp mới mãn được nguyện ấy! Chẳng biết đến món thuốc A Già
Đà (Hán dịch là Đối Trị, trị được hết thảy các bệnh) trị chung vạn bệnh này
thật đáng đau buồn thay! Biết nhưng không tu, hoặc tu nhưng chẳng chuyên
chí lại càng đáng đau tiếc hơn nữa!

---o0o---

Phần Tăng Bổ
1. Thư gởi Sài Dã Ngu

(Lá thư này vốn không có trong Văn Sao, nhân vì người đời thường đối với
những nghĩa như mê - ngộ, chúng sanh - Phật, cuồng - thánh v.v... khởi nghi
nên kèm thêm thư này để giải trừ những mối nghi ấy)

Ai cũng có thể trở thành Nghiêu, Thuấn, ai cũng có thể thành Phật.
Nhưng thánh thất niệm cuồng, cuồng chế ngự được niệm ắt sẽ thành thánh.
Mê thì Phật thành chúng sanh, ngộ thì chúng sanh tức là Phật. Xét lẽ ấy, mấu
chốt ở tại nơi ta. Vì thế, trên phải ngưỡng mộ chư thánh, dưới phải trọng
tánh linh của mình, dè dặt kinh sợ, phẫn chí tu trì, đôn đốc luân thường, tận
hết bổn phận, các điều ác đừng làm, vâng làm các điều thiện, sáng dậy tối
ngủ chẳng nẩy sanh điều gì đáng thẹn. Làm được như thế chính là làm thánh,
làm hiền, chẳng điếm nhục, ô uế trời đất.
Lại còn sanh lòng tín nguyện trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương
để mong tự chứng được Phật tánh sẵn có, viên thành vô thượng Bồ Đề mới
thôi. Đại trượng phu sanh trong thế gian nếu chẳng biết đại thể, chỉ biết đắm
đuối ăn uống, nam nữ, tham cầu sắc thanh, của cải, lợi lộc thì có khác gì dị
loại đâu? Nỡ nào để cái tánh có khả năng làm được Nghiêu, Thuấn, có thể
thành Phật bị luân hồi trong lục đạo bao kiếp dài lâu, chịu đủ mọi nỗi khổ
cùng cực, chẳng đáng buồn ư?
Ngươi đã phát tâm quy y Tam Bảo thì phải lấy việc niệm niệm đối trị
phiền não làm gốc, ngăn tà, giữ lòng thành, khắc kỷ, giữ lễ, cải ác tu thiện,
trọn hết bổn phận, luân thường, chuyên tu Tịnh nghiệp, tự hành, dạy người,
ngõ hầu trong là cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc, ngoài là thân thích,
bạn bè, láng giềng chòm xóm cùng được gội ân giáo hóa của Phật, cùng
thành thiện nhân mới chẳng uổng phí cái đời này, chẳng uổng duyên gặp gỡ
này.
Sách Trung Dung nói: “Ai cũng bảo mình là người trí, nhưng cứ bị xua
vào, vướng vào lưới rập, hầm bẫy, chẳng ai biết tránh cả”. Là vì chỉ biết
hướng ngoại rong ruổi tìm cầu, chẳng biết hồi quang phản chiếu, nên mới
mắc hại như thế. Nếu có thể phản chiếu tự tâm, ngầm vận dụng trí ngõ hầu
tự chiếu ắt sẽ có thể học thánh, học hiền, học Phật, học Tổ, ắt lúc sống đã dự
vào cảnh giới thánh nhân, mất đi liền sanh về cõi nước Cực Lạc. Đấy là
những điều Quang tôi vì ông mệnh danh là “đại ý”.
Thêm nữa, chỉ vì thánh mất niệm thành cuồng, cuồng chế ngự được niệm
sẽ thành thánh, mê thì Phật thành chúng sanh, ngộ thì chúng sanh chính là
Phật. Nếu chẳng khéo hiểu bốn câu này rất có thể đến nỗi sanh nghi, luận
bàn lầm lạc. Nay tôi sẽ giải thích sơ lược.
Thứ nhất, nói Thánh hay Phật đều là ước theo bản thể của tự tâm mà nói,
chứ chẳng phải đã thành Phật hay thành thánh. Tiếp đó, “mất niệm”, “chế
ngự được niệm”, “mê - ngộ” đều là nói người ấy nghịch hay thuận, có tu
luyện, gìn giữ hay không. Cuối cùng, “thành cuồng”, “thành thánh”, “thành
chúng sanh”, “chính là Phật” là nói đến hiệu quả của việc nghịch thuận, tu
trì, gìn giữ.
Nếu chẳng hiểu “thành Phật, thành thánh” là nói về bản thể, ắt sẽ lầm
tưởng mình đã thành Phật, thành thánh, cũng như hiểu lầm “thành cuồng”,
“thành chúng sanh” sẽ có hại rất lớn. Bởi thế, tôi chẳng thể không giảng sơ
lược cho ông hiểu về điểm này. Những điều khác xin đọc kỹ Văn Sao ắt sẽ
tự biết.

---o0o---

2. Thư phúc đáp Du Huệ Úc, Trần Huệ Sưởng

Nghiệp chướng sâu nặng, bẩm chất ngu tối, may được nghe pháp môn
Tịnh Độ nên được quy y dưới tòa, chỉ còn biết tận lực tuân thủ lời giáo huấn
già giặn chắc thật của thầy tôi để mong chóng liễu sanh tử, chẳng phụ tấm
lòng đau đáu của thầy. Đã là Phật tử, ắt phải phát tâm tự độ độ người. Nay
các đệ tử chưa tự độ được mình, còn nói gì độ người, nhưng khi gặp thân
hữu phải phương tiện khuyên họ tin tưởng, đấy cũng là phận sự của chính
mình vậy.
Thường thấy có hai hạng người kiến giải hoặc lời lẽ đều khiến mình lầm,
khiến người khác lầm chẳng phải ít;
a) Một hạng cho rằng: Phật vô dục, kinh A Di Đà lại nói đến các thứ
vàng, chất báu, dường như vẫn là dục vọng, chẳng bằng kinh Kim Cang “hết
thảy đều không” thật cao siêu huyền diệu. Bởi thế, miệt thị pháp môn Tịnh
Độ, chẳng sanh lòng tin. Hạng người này chẳng hiểu ý nghĩa hai kinh Kim
Cang và Di Đà nên cứ chấp theo ý mình mà loạn đạo.
b) Hạng thứ hai cho rằng Phật dạy con người thấy rõ bản tánh của hết
thảy các pháp, cớ sao chính mình lại khởi lòng tham dục? Sao chúng ta lại
phải khổ sở bỏ đi cái thật sự có trước mắt để mong cầu chuyện vu vơ sau khi
chết? Đây là hạng người chấp trước tà kiến, mặc tình báng Phật, báng Pháp.
Hai hạng người này tuy phẩm vị có cao thấp [khác nhau] nhưng đều tà
kiến hệt như nhau, đều tự lầm, lầm người giống hệt nhau. Các đệ tử phải tận
lực bảo họ các thứ cảnh giới Tây Phương đều là thật tướng trang nghiêm do
công đức của Phật A Di Đà hóa hiện, là quả báo để hưởng thọ phước đức tự
tại, chẳng giống với đời ngũ trược do nghiệp lực cảm thành.
Huống nữa, tất cả mọi thứ trong cõi Sa Bà đều là khổ, không, vô thường,
nên phải buông bỏ chúng để cầu lấy những cái thật. Lời lẽ của kẻ ngu
này (tổ Ấn Quang tự xưng) dù chẳng trái nghịch chánh lý, vẫn chẳng thể
phát khởi chánh tín nổi. Nghĩ lại thầy tôi, tất cả ngôn luận của ngài đều như
mặt trời rực rỡ, không tối tăm nào chẳng chiếu tỏ được; đành xin mượn mấy
lời trong sách để phá mối tà kiến này.
Thư các vị gởi tới có nhắc đến hai loại tà kiến này, ấy là dùng tri kiến
phàm phu để suy lường cảnh giới Như Lai, giống như Khổng Tử nói “thích
thực hành trí huệ nhỏ nhoi” hay như Mạnh Tử bảo là “tự mình bỏ phí”. Hạng
người ấy vốn chẳng có tư cách giá trị gì để đàm luận, nhưng Phật từ rộng lớn
chưa từng bỏ bất cứ loại người nào, nên chẳng ngại gì lập bày phương tiện
để đánh thức cơn mơ ngủ của chúng.
Do Phật trọn chẳng có tâm tham nên mới cảm được các báu trang
nghiêm. Phàm những sự hóa hiện đều là những cảnh giới trang nghiêm thù
thắng chẳng cần phải tốn sức người trù tính, lo liệu, cảnh giới phàm phu của
thế giới Sa Bà há sánh được ư?
Ví như người từ thiện hữu đức, tâm địa hành vi thảy đều chánh đại
quang minh nên tướng mạo cũng hiện vẻ tươi sáng, hiền từ, rạng rỡ. Cố
nhiên họ chẳng có tâm mong cầu dung nhan tướng mạo đẹp đẽ nhưng tự
nhiên được đẹp đẽ. Người tạo nghiệp tâm địa cáu bẳn, ô uế, hung ác, nên
diện mạo cũng tăm tối, dữ dằn theo. Cố nhiên họ chỉ muốn vẻ mặt mình đẹp
đẽ, khiến người khác tưởng mình là thiện nhân chánh đại quang minh,
nhưng vì tâm địa chẳng lành dù có muốn thế cũng chẳng được.
Đấy là ước theo con mắt của phàm phu, chứ trong mắt quỷ thần, họ sẽ
thấy thiện nhân thân có quang minh. Quang minh lớn hay nhỏ tùy thuộc
người ấy đức lớn hay nhỏ. Quỉ thần thấy người ác thân có các tướng hắc ám,
ác bạo... tướng ấy lớn hay nhỏ cũng do kẻ đó ác nhiều hay ít mà hiện.
Kẻ [tà kiến] kia bảo kinh Kim Cang là không, chính là chẳng hiểu kinh
Kim Cang chỉ phát minh lý tánh chứ chưa luận đến quả báo do chứng được
lý tánh. Sự trang nghiêm nơi cõi nước Thật Báo không chướng ngại chính là
quả báo rốt ráo đạt được của kinh Kim Cang. Phàm phu nghe đến ắt sẽ ngờ
vực làm sao có chuyện ấy được.
Kinh Kim Cang nhằm dạy kẻ trai gái lành phát Bồ Đề tâm nhưng chẳng
trụ tướng, mà lại muốn độ hết chúng sanh. Dù độ vẫn chẳng thấy mình là
người độ, chúng sanh là kẻ được độ, cũng chẳng thấy có pháp Niết Bàn rốt
ráo để đạt được. Đó gọi là “vô sở trụ nhi sanh tâm”, đã đạt vô sở đắc mà
thành Phật; há nên bảo đức Phật được thành và cõi nước ngài trụ trong kinh
Kim Cang cũng chỉ giống như cảnh giới ngũ trược ác thế này ư? Cũng chỉ là
rỗng tuếch chẳng có được một vật gì ư?
Cõi Phật thanh tịnh, người ta một phen được nghe đến thân tâm liền
thanh tịnh, thế nhưng kẻ kia lại bảo là tham dục, thì gã đó chỉ là giòi tửa
sống trong hầm xí, tự khoe mình thơm tho, sạch sẽ, chê chiên đàn là hôi thối,
chẳng mong lìa khỏi hầm phân đó để ngửi được mùi thơm này!
Lũ Đạo Chích62 tụ tập cả mấy ngàn đứa, hoành hoành trộm cắp trong
thiên hạ, lại tự khoe mình là hạng có đạo đức, thống trách vua Nghiêu bất
nhân, vua Thuấn bất hiếu, vua Vũ dâm dật, vua Thang, Châu Võ Vương bạo
loạn, chê Khổng Tử là ngụy, là vô đạo; tri kiến của chúng có khác gì hai
hạng người tà kiến ấy đâu?
Lại như gần đây, có kẻ phế kinh, phế hiếu, phế cả luân thường, trần
truồng đi lại, cho đó là bẩm thọ đức tự nhiên của trời đất, chẳng nhọc lòng
tạo tác. Nhưng nếu Hạ đã đua nhau lõa lồ, sao Đông về lại chẳng trần truồng
nữa? Bảo là bẩm thọ tự nhiên, chẳng cần phải tạo tác, sao lại phải đào giếng,
cày ruộng, dệt vải mới hòng có cái ăn cái mặc, chẳng phải là tạo tác đó ư?
Kẻ ác phá hoại, ngăn trở người khác làm lành thường như thế. Họ cứ bảo
“làm lành phải vô tâm, nếu hữu tâm thì chẳng phải là làm lành thật sự”!
Nhưng thánh hiền tự cổ không ai chẳng sáng lo chiều lắng, dè dặt, cẩn thận
như vào nơi vực sâu, như đi trên băng mỏng, chẳng phải là hữu tâm ư? Nói
chung, hạng người ấy ý chỉ muốn coi không tu trì là cao thượng, nên mới đề
ra luận thuyết mù lòa cực hạ tiện như thế, tự huyễn mình là bậc hiểu lý,
mong người coi mình là bậc cao minh, là đại thông gia, là chân danh sĩ,
chẳng hề biết toàn thân đang ở trong hầm phẩn. Trừ những kẻ có cùng tri
kiến, nào ai chấp nhận những lý lẽ ấy đâu!

---o0o---

3. Thư phúc đáp cư sĩ Ngu Tăng

Một việc phóng sanh vốn là để cảm phát cái tâm kiêng giết, cứu vật cho
đồng nhân, thực hành tâm trắc ẩn bất nhẫn đó thôi. Thế nhân phần nhiều tâm
hạnh khác nhau, dù chẳng thể khiến cho mọi người đều cảm động, nhưng
nếu cảm động được một người thì cả đời người ấy đã bớt giết cả mấy ngàn
sanh mạng, huống hồ nào phải chỉ có mỗi một người thôi đâu!
Còn như ông bảo cá lớn nuốt cá bé, dù có thả nó xuống sông sâu cũng
khó cứu nó thoát nạn lưới chài. Điều suy nghĩ ấy tựa hồ hữu lý, nhưng thật
ra là trở ngại thiện niệm, hỗ trợ sát nghiệp của người khác! Người ấy may
mắn làm thân người, may ra chẳng đến nỗi thân bị giết hại nên mới lý luận
vô lý như thế, toan dùng cái trí của mình ngăn trở việc phóng sanh.
Nếu như họ bị vướng chài và là các sanh mạng sắp bị giết, nhất định họ
sẽ chẳng khởi lên các tưởng niệm như thế, chỉ mong có ai cứu lấy mạng
sống của mình, quyết chẳng có ý niệm “không mong được người khác cứu,
chỉ sợ sau này lại bị con vật khác ăn mất, bị người khác bắt được, chỉ mong
cam tâm bị giết để sau này khỏi bị mắc các nạn ấy nữa”. Dù lúc ấy có ý
niệm như thế đi nữa, vẫn chẳng đáng để bàn cãi; huống hồ trong lúc ấy vạn
vạn phần chẳng thể nghĩ tưởng như thế được!
Kẻ nào nhằm lúc mình chẳng bị dính dấp đau đớn gì bèn ngăn trở thiện
niệm của người khác, nói những lời khơi động sát cơ cho người khác như
thế, mà nếu đời sau chẳng thọ báo thì nhật nguyệt sẽ mọc ngược, trời đất sẽ
bị đảo lộn! Có nên thốt lời xằng bậy chăng?
Dĩ nhiên có chuyện cá lớn nuốt cá nhỏ, thả ra rồi lại bị bắt cũng chẳng
phải là không thể có, nhưng nói cá lớn ăn sạch cá nhỏ không còn sót gì,
quyết chẳng có lẽ ấy! Được thả rồi lại bị người khác bắt sạch hết cũng quyết
chẳng có lẽ ấy! Cần chi phải lo quá như thế? Ví như cứu giúp người bị nạn,
nếu cho một manh áo, hoặc cho một bữa ăn cũng có thể giúp cho người ấy
chẳng đến nỗi phải bị chết ngay, nhưng lại cứ đối trước người ấy bảo: “Một
manh áo, một bữa cơm này sao có thể khiến người ấy no ấm suốt đời được?
Có cho cũng chẳng lợi ích gì, chẳng thà mặc cho kẻ đó đói lạnh đến chết ắt
kẻ ấy chẳng phải chịu đói lạnh dài lâu!”
Lại như cường đạo cướp giật người khác, kẻ có sức mạnh ra tay chống
cự, ngăn trở, kẻ kia bèn bảo: “Nếu ông có thể chống cự, ngăn trở kẻ cướp cả
đời mới thật là tốt, còn như chỉ chống cự, ngăn trở một lúc thì rốt cuộc có
ích lợi gì đâu? Chẳng thà mặc cho nó cướp hết sạch đi, sau này mới khỏi bị
cướp nữa thì tốt hơn!” Đối với con cái, cha mẹ thường chăm sóc, nuôi nấng,
nhưng mẹ hiền chẳng thể chăm sóc thân đời sau của con; kẻ kia bèn bảo:
“Đã chẳng thể chăm sóc, nuôi nấng thì chẳng bằng giết phứt nó đi, chẳng tốt
hơn sao?”
Quân tử tu đức chẳng vì điều thiện nhỏ bèn không làm, chẳng vì điều ác
nhỏ mà làm. Kẻ kia cứ muốn muôn sự chẳng sai suyển điều gì mới chịu
hành phóng sanh, tức là muốn cho thế nhân suốt cả đời chẳng làm những
việc phóng sanh, kiêng giết. Tương lai khi kẻ ấy sắp bị chết, cả vạn người
không có lấy một ai cứu cho. Đau thay, buồn thay; chẳng đặng đừng phải dài
dòng phân giải!

---o0o---

4. Thư phúc đáp cư sĩ Thiệu Huệ Viên


Hôm qua nhận được thư ông gởi đến, trong xóm ông có ông Phan Trọng
Thanh ở Trương Gia Khẩu gởi thơ muốn được quy y. Người này tánh tình
chân thành, chất phác, cũng có học vấn. Ông ta đã phát tâm thì Quang tôi
cũng chỉ tùy duyên.
Nay tôi đặt pháp danh quy y cho ông ta là Huệ Thuần, bởi hết thảy
chúng sanh đều có Phật tánh, tức là đều có Phật huệ; nhưng vì bị tham, sân,
si v.v... xen tạp nên Phật huệ bị trở thành tri kiến chúng sanh. Nay đã biết
vốn sẵn đủ Phật huệ thì đối với tất cả những điều nghĩ ngợi, móng niệm, xử
sự thảy đều kiểm điểm, chẳng cho những tri kiến tham, sân, si... phát sanh.
Lại còn phải dùng lòng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật, kiêng giết,
phóng sanh, yêu tiếc tánh mạng loài vật, đừng làm các điều ác, vâng làm các
điều thiện, tự hành, dạy người cùng tu Tịnh nghiệp thì trí huệ ấy sẽ dần dần
thuần. Nếu giữ được như vậy chẳng để mất, vãng sanh Tây Phương thì huệ
ấy càng dễ thuần, đến khi phiền não hết sạch, phước huệ viên mãn là huệ đã
thuần đến cực điểm bèn viên thành Phật đạo.
Thế nhân hay lầm tưởng mình có trí huệ, chẳng biết rằng trí huệ đó là
vàng còn trong quặng, trọn chẳng sử dụng được, cần phải nung luyện cho
tiêu sạch hết mọi tạp chất thì mới có ích. Đại ý như thế, mong hãy dốc chí!
Người học Phật tận lực thực hành nhiệm vụ. Nay thế nhân đa phần
miệng lưỡi nhanh nhạy, ăn nói hay ho, bóng bảy, trong bụng thối nát, vô ích,
thật đáng buồn!

---o0o---

5. Thư gởi cư sĩ Vương Tâm Thiền

Mẹ ông đã có thể niệm Phật thì hãy bảo các nàng dâu giúp mẹ niệm
Phật. Lại nên khuyên bà ăn chay trường để trợ thành đạo nghiệp cho mẹ mới
là hiếu. Nếu cứ nghĩ niệm Phật chỉ sợ tổn hao tâm lực, ăn chay sợ chẳng
đúng phép vệ sinh mới là hiếu thì lòng hiếu ấy khác gì con La Sát cái yêu
người đâu.
Hiếu như vậy phá hoại đạo nghiệp của mẹ, chẳng làm cho mẹ được liễu
sanh thoát tử, trái lại còn khiến mẹ ở mãi trong sanh tử. Hiếu như vậy là đã
xô người xuống giếng, còn quăng thêm đá nữa, khiến cho mẹ chẳng được
siêu sanh, luân lạc bao kiếp. Dù là hiếu nhưng chẳng biết hiếu đúng cách lại
hóa thành ngỗ nghịch.
Ông lo việc công, về hình dáng bất tất phải làm ra vẻ tu trì, nhưng trong
lòng chẳng thể thường nghĩ nhớ hay sao? Nếu ông nhớ mẹ, ai cấm trong tâm
ông thường nhớ đến mẹ? Ông tự thốt lên những lời trở ngại ấy nhưng toàn là
luận về mặt hình tích, nào phải là luận trên phương diện tâm địa? Hiện tại
thời cuộc nguy ngập như thế, nếu trong tâm vẫn chẳng chịu thầm niệm Phật
thì chuyện tương lai chẳng biết phải giải quyết như thế nào!
Ông đọc Văn Sao, Gia Ngôn Lục, nhưng những điều nói trong các sách
ấy vẫn chưa đủ để xóa tan được lòng nghi nên tôi lại phải dùng một tờ giấy
với vài trăm chữ để an ủi, vỗ về, đều là do ông thường ngày chẳng chịu suy
xét, nghiền ngẫm mà ra cả. Ông hãy nên đem lòng hiếu đúng đắn để dạy các
cô con dâu, thường mật niệm tự hành thì lợi ích rất lớn. Mong ông hãy hạ cố
xét kỹ thì thật là may lắm vậy!
Liên Trì đại sư nói: “Cha mẹ lìa được trần cấu, đạo làm con mới được
thành tựu”. Vì thế, sau khi cha mẹ đã mất, phận làm con đều phải nên chí
thành niệm Phật ngõ hầu cha mẹ chưa được vãng sanh sẽ được vãng sanh,
vãng sanh rồi sẽ liền cao thêm phẩm vị. Điều ấy phù hợp với ba thứ phước
Tịnh nghiệp dạy trong Quán Kinh, thành tựu đạo hiếu thế gian và xuất thế
gian vậy []

Ấn Quang Gia Ngôn Lục hết


(dịch xong ngày 27 tháng 03 năm 2004)

---o0o---
Hết
1
. Nhược quan: là 20 tuổi. Thời cổ, con trai đến 20 tuổi làm lễ đội mũ
(nhược quan), công nhận là một người trưởng thành. Theo Ấn Quang Niên
Phổ, đại sư trốn nhà đi xuất gia năm 21 tuổi, vào năm Quang Tự thứ 7 (Tân
Tỵ - 1881) tại chùa Nam Ngũ Ðài Liên Hoa Ðộng Tự ở núi Chung Nam, thờ
hòa thượng Ðạo Thuần làm thầy.
2
Khánh hạnh: mừng rỡ, nhận biết là mình may mắn mới gặp được việc gì
.
đó.
3
. Thượng thổ hạ tả: trên thì ói, dưới thì tiêu tiện không kiểm soát được.
4
. Tại Ðài Loan, chư Tăng không được miễn quân dịch. Toàn bộ tăng sĩ trẻ
phải nhập ngũ, thi hành quân dịch một thời gian, trước khi được trở về chùa
tu tiếp.
5
. Tam luân không tịch: Bố thí mà không thấy mình đang cho, không thấy có
người nhận, không thấy có vật được mình bố thí.
6
Trung quốc: ở chính giữa đất nước, hoặc những vùng văn minh, không
.
sanh nơi biên cương, mọi rợ.
7
. Lục tức thành Phật: Lục tức là xứng lý, danh tự, tương tự, phần chứng,
cứu cánh, quán hạnh. Tức là thành Phật đi từ mặt lý đến thực chứng. Chẳng
hạn như: Xứng lý tức thành Phật nghĩa là chúng sanh ai cũng sẵn Phật tánh,
nên về mặt lý, chúng sanh đều là Phật. Khi nhận hiểu rằng ai cũng có Phật
tánh, tin chắc không nghi nhưng chưa đoạn được phiền não, chưa chứng đạo
quả, thì chỉ là danh tự tức thành Phật. Khi khởi công tu tập, đoạn dần phiền
não thì gọi là quán hạnh tức thành Phật...
8
. Tức là kệ tán Phật A Di Ðà: A Di Ðà Phật thân kim sắc....
9
Nguyên văn là “tân lương” (bến và cầu), nghĩa bóng là những hướng dẫn
.
chỉ nam
10
. Khai Tích hiển Bổn: Bổn là bản thể, Tích là hình tướng thị hiện. Ví như
mặt trăng là Bổn, bóng trăng hiện trong các chỗ có nước là Tích. Khai Tích
hiển Bổn là chỉ dạy về Pháp Thân, chỉ rõ Ứng Thân. Chẳng hạn trong hội
Pháp Hoa, phẩm Như Lai Thọ Lượng, Ðức Phật chỉ rõ thân thuyết pháp
trong cõi Sa Bà, thọ tám mươi tuổi là ứng thân thị hiện để dẫn dụ chúng sanh
về đạo Nhất Thừa, chứ pháp thân của Phật thường trụ bất hoại. Cũng như
không riêng trong cõi Sa Bà, Phật còn thị hiện trong nhiều thế giới khác
nhau, dùng nhiều danh hiệu khác nhau để hóa độ chúng sanh.
11
Nguyên văn là “minh linh” (một loại sâu cắn lúa). Dịch là nhện để thuận
.
theo câu ca dao “tò vò mà nuôi con nhện...”. Thật ra, tò vò bắt các loài sâu
hay nhện, tiêm nọc cho chúng mê đi, nhưng vẫn sống, rồi bỏ vào ổ có chứa
trứng tò vò con để làm mồi cho con. Ở đây, Tổ dùng ví dụ này để thuận theo
cách hiểu của thế gian.
12
. Dương diệm (mirage): ảo ảnh do sức nóng hay ánh nắng soi lên các lớp
không khó lạnh và nóng khác nhau tạo thành.
13
Ðăng Ðịa Bồ Tát: còn gọi là Ðịa Thượng Bồ Tát, bậc Bồ Tát đã chứng từ
.
Sơ Ðịa trở lên.
14
. Ðầu gã Diễn Nhã: trong kinh Lăng Nghiêm có nhắc đến một người tên là
Diễn Nhã, soi gương thấy mặt mình, bèn sanh vọng tưởng là đầu của ai đây,
đầu của mình ở đâu, rồi đâm ra phát cuồng.
15
. Chước: một phần trăm của thăng (ta thường dịch là thưng), đơn vị đo
dung lượng rất nhỏ. Mười chước là một cáp (ta thường dịch là một “lẻ”).
Một thưng gần bằng một lít (Tàu gọi litre là “công thăng”). Như vậy, có thể
tạm hiểu một chước gần bằng một centilitre.
16
. Ðả thất: tham dự Phật thất cùng với đại chúng, hay tự mình kết thất để
niệm Phật hay tọa thiền, trì chú v.v... Một thất là bảy ngày.
(2) Tái lai: sanh lại trong nhân gian.
17
. Tái lai: sanh lại trong nhân gian.
18
. Cách vật trí tri, minh minh đức: Hiểu theo nghĩa thông thường, “cách vật
trí tri” nghĩa là nghiên cứu mọi sự nhằm hiểu rõ lý lẽ (vì thế, trước đây
những môn nghiên cứu khoa học tự nhiên hay gọi là Cách Trí). Nhưng tổ Ấn
Quang hiểu hơi khác. Trong pháp thoại tại Tức Tai Hộ Quốc ở Thượng Hải,
Tổ đã giảng như sau: “Họ (chỉ bọn Tống Nho) bảo “trí tri” là suy xét tri thức
của mình đến cùng cực, “cách vật” là hiểu cùng tận cái lý của mọi sự vật
trong thiên hạ; nào hay “vật” chính là tư dục trong tâm mình. Do có tư dục
nên tự tâm bị chướng ngăn; bởi thế, tâm vốn sẵn đủ chơn tri nhưng không
cách nào hiển hiện được. “Cách trừ” (hiểu biết và trừ khử) được tư dục thì
chơn tri sẵn có sẽ tự hiển hiện. Hễ chơn tri đã hiển thì tâm sẽ chánh, ý sẽ
thành!”
19
Tạo vật: đối với người Tàu, Tạo Vật đồng nghĩa với Tạo Hóa. Không như
.
trong thần học Công Giáo, Tạo Hóa (creator) là Chúa Trời, còn tạo vật là
những vật được Chúa tạo ra (creature).
20
. Nguyên văn: “Kiến tiên triết ư canh tường, thận độc tri khâm ảnh”. Canh
tường là điển tích nói về vua Ngu Thuấn do hâm mộ đức hạnh của vua
Ðường Nghiêu nên trong suốt ba năm ăn canh thấy bóng vua Nghiêu hiện
trong bát canh, ngồi thấy bóng vua Nghiêu hiện trên tường. Ðời sau thường
dùng chữ “canh tường” để chỉ lòng cung kính, chí thành đến cùng cực.
“Thận độc” là ở một mình, hành vi luôn dè dặt, chẳng cẩu thả. “Khâm ảnh”
là bóng chiếc áo, lấy từ thành ngữ “khâm ảnh vô quý” (chẳng thẹn với bóng
áo). Như vậy “thận độc khâm ảnh” ngụ ý hành vi luôn cẩn thận, nghiêm
cung, không hề phải hổ thẹn với ai, dù ngay cả với bóng của chính mình.
21
. Ngũ suy: Năm tướng suy: 1. Hoa trên đầu héo 2. Y phục nhơ nhớp 3. Ðổ
mồ hôi nách 4. Thân hình hôi thối 5. Không ưa ngồi trên tòa.Mỗi khi năm
tướng ấy hiện là điềm báo trước vị trời ấy khi mạng chung sẽ bị đọa lạc.
22
Bổn địa: là ứng với Tích Hóa mà nói. Bổn là gốc, là Pháp Thân, Tích là
.
sự hóa hiện để hóa độ chúng sanh. Bổn địa là nói đến sự chứng ngộ thật sự
của Ngài.
23
. Truy tiến: làm các công đức hồi hướng cho người đã quá vãng.
24
Ðảnh thánh, nhãn sanh thiên... là thuyết cho rằng khi người chết, căn cứ
.
vào chỗ nào còn giữ được hơi nóng, sẽ biết được người chết sanh về đâu,
như đảnh đầu nóng sẽ sanh vào cõi thánh, nóng ở mắt sanh vào cõi trời v.v...
25
. Phóng thí: đánh trung tiện (break wind, passing gas).
26
. Tự bình: những bức thư họa, hoặc chữ viết trên quạt, trên giấy, trên lụa
để phô diễn tài thư pháp.
27
.Tọa hạ: tiếng tôn xưng người khác, thường dùng để gọi người có chức vụ.
28
. Ý nói: đọc kinh không thành kính chỉ có âm điệu nhịp nhàng như thợ rèn
thổi bễ, đánh các pháp khí làm lễ nhưng chẳng thành kính khác gì người
giã gạo, cứ nhịp chày đều đều cho xong việc.
29
Liệt Quốc là thời gian kể từ khi Châu U Vương (Cơ Cung Niết) lên ngôi
.
năm 781 trước Công Nguyên cho đến khi Tần Thủy Hoàng Đế (Doanh
Chính) gồm thâu lục quốc, thống nhất Trung Nguyên vào năm 221 trước
CN. Thời này, các chư hầu đánh lẫn nhau, tranh nhau xưng bá nên còn gọi là
thời Xuân Thu Chiến Quốc (từ năm 781 trước CN đến năm 476 trước CN là
thời Xuân Thu, từ năm 475 đời Châu Nguyên Vương trở đi, chỉ còn sáu
nước lớn (Tần, Triệu, Hàn, Yên, Tề, Sở, Tấn) tranh giành lẫn nhau nên gọi
là thời Chiến Quốc). Tuẫn táng là hình thức chôn sống hay giết rồi chôn
những người tùy tùng, ái thiếp trong lăng mộ của các bậc đế vương, công
hầu.
30
. Chỉ hoàng đế. Vua ngồi trên ngai, quay mặt về hướng Nam, tự xưng là
Trẫm. Thời cổ, Trẫm là tiếng thông dụng để tự xưng. Sau này, Tần Thủy
Hoàng cấm ngặt người khác tự xưng là Trẫm. Các đời vua sau này, cũng bắt
chước xưng là Trẫm.
31
. Hiểu theo quan điểm Nho gia, những điều này có nghĩa là nghiên cứu sự
vật để hiểu thấu tận cùng lý lẽ, tu dưỡng thân, giữ cho trong nhà yên vui,
thuận thảo, giúp ích cho đất nước, làm cho thiên hạ thái bình, làm sáng tỏ cái
đức sáng, đạt được đạo tốt lành.
32
.Nguyên văn: “Lương thượng chi quân tử” (kẻ quân tử ở trên xà nhà) là
thành ngữ chỉ kẻ trộm.
33
. Quan, quả, cô, độc: quan là góa vợ, quả là góa chồng, cô là không cha mẹ,
độc là không con cái.
34
. Trong nhà Nho hay có câu: “Quân tử viễn trù” (quân tử nên tránh xa bếp
núc). Ở đây, Tổ quở người học Nho chỉ nói suông “xa lánh bếp núc”, nhưng
vẫn tham ăn tục uống.
35
Cát Căn: củ sắn dây, thường cho là mát, có tính chất giải nhiệt, nên ta
.
thường uống bột sắn dây trong mùa Hạ.
36
. Tam kỳ: ba đại a-tăng-kỳ kiếp.
37
. Xuất thai cách ấm: thân này chết đi, sanh sang đời sau.
38
. Cơm vua (vương thiện): Vương thiện là cỗ bàn của nhà vua. Đây là điển

tích lấy từ kinh Pháp Hoa, phẩm Thọ Ký: Các vị La Hán như Ca Chiên Diên,

Tu Bồ Đề, Mục Kiện Liên... nghe Phật chỉ dạy đạo Nhất Thừa, bèn biết

mình cũng có khả năng thành Phật, nhưng vẫn chưa đủ tự tin, bèn cầu xin

Phật thọ ký, giống như kẻ đói thấy cỗ bàn của vua chẳng dám ăn, phải chờ

vua cho phép. “Ăn no cơm vua” ý nói vị Tăng trong đoạn thư này đã hiểu lý

Nhất Thừa, đã tự tin mình có khả năng thành Phật.

39
.Trước khi hiểu đạo Phật, tổ Ấn Quang mê Nho nên kịch liệt bài báng đạo
Phật.
40
. Thời xưa dùng những tấm đồng tròn, đánh bóng làm gương soi mặt.
41
. Phật sát vi trần số kiếp: Số kiếp nhiều như số vi trần trong một cõi Phật.
42
. Bạn bè xa cách nhau gọi là “khiết khoát”, nên khi viết thư, ta hay gọi
người bạn ở xa là “hiền khiết” (bạn hiền)
43
. Đắc pháp sư: lãnh hội pháp, chứng ngộ pháp nơi vị nào thì vị ấy gọi là
“đắc pháp sư”.
44
. Thô trì trọng giới: Giữ các giới trọng còn ở mức giới tướng, chưa hoàn
toàn giữ được giới tánh nên gọi là “thô trì”.
45
Lệnh thân: tiếng gọi tỏ ý tôn trọng đối với mẹ của người khác
.
46
. Năm tông: năm tông của nhà Thiền là Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động,
Vân Môn và Pháp Nhãn.
47
Sở dĩ gọi là chánh âm vì chú Vãng Sanh ta thường đọc chỉ là cách phiên
.
âm theo giọng Hán, mô phỏng Phạn âm.
48
. Thời Minh, tăng sĩ phải trúng tuyển kỳ khảo thí về nội điển mới được cấp
giấy chứng nhận (độ điệp) là Tăng sĩ thực thụ.
49
. Thẩn lâu hải thị: lầu sò chợ biển. Người cổ Trung Hoa tin ngoài biển có
giống sò rất lớn gọi là Thẩn, hơi thở của chúng tạo thành những ảo ảnh nhìn
xa như lầu gác, chợ búa trên mặt biển.
50
Ý nói: kinh điển lưu truyền như thế nào thì cứ chép đúng y như thế, đừng
.
tự tiện sửa đổi theo ý riêng
51
. Gọi là “thuần viên” vì chỉ giảng về pháp viên đốn, gọi là “độc diệu” vì chỉ
mình kinh Pháp Hoa phô bày diệu nghĩa “hội tam quy nhất”.
52
. Năm bộ lớn là cách phán giáo chia kinh điển đức Phật đã nói ra làm năm
thời kỳ: Hoa Nghiêm, A Hàm, Bát Nhã, Phương Đẳng và Pháp Hoa - Niết
Bàn.
53
Tam luân thể không: bản thể của ba luân đều không, tức là không thấy có
.
người thí, không thấy có người nhận, không thấy có vật được dùng để bố thí.
54
. Lệnh nghiêm: tiếng gọi cha người khác một cách tôn kính.
55
. Dương Tử tức là Dương Châu (Chu), tên tự là Tử Cư, người thời Chiến
Quốc, chủ trương thuyết “vị ngã”: dù là làm điều lợi nhỏ nhặt dù bằng cái
lông cho người khác cũng chẳng chịu làm.
56
Ý nói khuyên nhủ, khuyến dụ dần dần.
.
57
. Tông Lâm Tế dùng gậy (bổng) và tiếng hét (hát) để khai ngộ thiền cơ.
58
. Nhàm lìa (yểm ly) cõi Sa Bà, vui thích (hân nhạo) cõi Cực Lạc.
59
. Cao đường: tiếng dùng để tỏ vẻ tôn kính mẹ người khác.
60
Văn tự tri kiến: sự thấy hiểu dựa theo phân biệt, nhận định ý nghĩa của
.
kinh văn, chứ không lãnh hội trực nhập được huyền nghĩa, yếu chỉ.
61
. Tăng sĩ đi tham học các nơi gọi là du phương hành cước.
62
Đạo Chích: tên một kẻ trộm lừng danh thời cổ, thường dùng để chỉ kẻ
.
trộm.

You might also like