(123doc) Nguoi Thua Ke Khong Phu Thuoc Vao Noi Dung Cua Di Chuc Mot So Van de Ly Luan Va Thuc Tien

You might also like

You are on page 1of 20

A. MỞ ĐẦU.

Pháp luật thừa kế là một phần quan trọng trong bộ luật dân sự. Trong bất kỳ
chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan trọng trong các
chế định pháp luật, là hình thức pháp lý chủ yếu để bảo vệ các quyền của công dân.
Chính vì vậy, thừa kế đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được đối với đời
sống của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng xã hội. Mỗi nhà nước dù có các xu thế
chính trị khác nhau, nhưng đều coi thừa kế là một quyền cơ bản của công dân và
được ghi nhận trong Hiến pháp.
Những quy định về pháp luật thừa kế trong bộ luật dân sự đã góp công sức
không nhỏ trong việc ổn định và phát triển đời sống xã hội trong nhiều năm qua.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự phát triển ngày càng đa dạng
của các quan hệ xã hội, các vấn đề tranh chấp về thừa kế ngày càng gia tăng về số
lượng và phức tạp về nội dung, bởi vì giá trị của di sản thừa kế không chỉ đơn
thuần là là tài sản thông thường phục vụ sinh hoạt tiêu dùng mà là quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu trí tuệ, vốn đầu tư, cổ phần, cổ phiếu...Nói đến thừa kế chắc hẳn
ai cũng nghĩ tới người thừa kế theo pháp luật hay người thừa kế theo di chúc. Tuy
nhiên có một loại thứ ba, vừa không phải là người thừa kế theo pháp luật cũng
không phải người theo di chúc đó là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung
của di chúc (Điều 669). Đây là một vấn đề quan trọng nhưng khá phức tạp của chế
định thừa kế. Chính vì vậy, để làm sáng tỏ thêm về vấn đề này em xin chọn đề tài
“người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc – Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn”.

1
B. NỘI DUNG.

I. Cơ sở lý luận về thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.
1. Khái niệm thừa kế, quyền thừa kế.
“Sinh, lão, bệnh, tử” đó là quy luật của tự nhiên, con người sinh ra rồi một
ngày nào đó cũng phải chết đi không giống như tài sản có thể tồn tại vĩnh viễn hay
chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác. Bởi vậy, sự dịch chuyển tài sản của
người chết cho người còn sống đã tồn tại như một yêu cầu khách quan của xã hội
và được hiểu đó là việc thừa kế tài sản.
Khi nhà nước ra đời thì pháp luật – công cụ hữu hiệu giúp nhà nước quản lý
mọi mặt trong đời sống xã hội. Là một quan hệ ra đời và tồn tại từ rất lâu trong đời
sống xa hội, thừa kế được điều chỉnh khá hiệu quả bởi quy phạm pháp luật dân sự,
một ngành luật điều chỉnh mối quan hệ về tài sản mang tính chất ngang giá và giữa
các chủ thể bình đẳng với nhau về địa vị pháp lý. Từ một phạm trù kinh tế mang
tính khách quan, khi được điều chỉnh bởi pháp luật quyền thừa kế đã đã trở thành
một phạm trù pháp lý mang tính chủ quan và bị ảnh hưởng bởi những điều kiện
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia.
Như vậy, xuất phát từ những quan hệ xã hội đời thường và được điều chỉnh
bởi các quy phạm pháp luật, quyền thừa kế được hiểu theo nhiều cách như sau:
- Theo nghĩa rộng, quyền thừa kế được hiểu là một chế định pháp luật bao
gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ việc dịch chuyển tài
sản từ người chết cho những người còn sống khác theo ý chí của họ được thể hiện
trong di chúc hoặc theo ý chí của Nhà nước được thể hiện trong các quy phạm
pháp luật.
- Theo nghĩa hẹp: quyền thừa kế được hiểu là một quyền năng dân sự chủ
quan của chủ thể có quyền để lại di sản thừa kế hoắc có quyền hưởng di sản thừa
kế của người chết để lại theo ý chí của người đó hoặc theo quy định của pháp luật.
- Ngoài ra, dưới góc độ pháp lý thì quyền thừa kế còn được hiểu là một quan
hệ pháp luật dân sự. Quan hệ này bao gồm chủ thể, khách thể và nội dung. Đây là
một loại quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh và có mối quan hệ mật thiết với
quan hệ sở hữu.
2. Khái niệm di chúc.
Việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống có thể được
thực hiện theo ý chí của người để lại di sản (thừa kế theo di chúc) nhưng cũng có
thể được thể hiện thông qua ý chí của nhà nước (thừa kế theo pháp luật). Xét về sơ
sở hình thành thì thừa kế theo di chúc xuất hiện sau thừa kế theo pháp luật. Vậy di
chúc và thừa kế theo di chúc là gì?
Theo Điều 646 BLDS năm 2005 thì “ Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân
nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Như vậy, di chúc là
sự bày tỏ ý chí của một người định đoạt tài sản của mình để cho ai, tặng cho ai sau
khi chết, đây là ý chí mang tính đơn phương của người lập di chúc. Sự bày tỏ được

2
thể hiện bằng văn bản được gọi là di chúc viết tay hay còn gọi là chúc thư hoặc
bằng miệng thường là lời trăng trối trước khi chết. Tuy nhiên, theo quy định của
pháp luật thì vợ chồng có quyền lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung
(Điều 663 BLDS năm 2005). Trường hợp này xuất hiện ý chí của cả hai vợ chồng
(2 người) nhưng vẫn là sự thể hiện tính đơn phương của di chúc vì vợ chồng là hai
chủ thể đúng về một phía trong việc lập di chúc để định đoạt tài sản cho những
người thừa kế. Nội dung của di chúc không đơn thuần chỉ là sự phân định tài sản
một cách trực tiếp mà còn chứa những nội dung mang ý nghĩa khi tiến hành việc
phân chia tài sản. Ví dụ: Ông A có ba người con, ông A có thể lập di chúc cho mỗi
người 1/3 di sản của mình hoặc ông A cũng có thể truất quyền thừa kế của con trai
mình, di sản sẽ được chia đều cho các con còn lại. Di chúc chỉ có hiệu lực khi nó
thỏa mãn các điều kiện của di chúc như lập di chúc trong trạng thái tinh thần minh
mẫn và người lập di chúc chết. Trong di chúc người lập di chúc có toàn quyền
trong việc định đoạt tài sản cũng như đưa ra các điều kiện cho người thừa kế.
3. Về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.
3.1 Cơ sở quy định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc
Từ trước cho đến nay, pháp luật của Việt Nam luôn tôn trọng, bảo vệ người
có tài sản di chúc lại cho người thừa kế của mình. Người lập di chúc có thể lựa
chọn bất cứ chủ thể nào đó để cho hưởng di sản theo di chúc: có thể là cá nhân, cơ
quan, tổ chức. Tuy nhiên, xét dưới góc độ đạo lý và dưới góc độ pháp lý thì cá
nhân phải có những “ nghĩa vụ” nhất định đối với một số đối tượng theo xác định
của pháp luật, bởi vì cũng có những trường hợp người lập di chúc không cho
những người mà mình có “nghĩa vụ” đối với họ được hưởng di sản. Pháp luật chỉ
can thiệp khi khi nào người có tài sản quá lạm dụng quyền chuyển giao tài sản của
mình mà lạm dụng tới quyền lợi đương nhiên của người thân nhất của mình. Chính
vì vậy, Điều 669 BLDS năm 2005 đã hạn chế một phần quyền của cá nhân trong
việc lập di chúc. Đó là người để lại di sản bắt buộc dành lại một phần di sản của
mình cho những người thân thuộc gần gũi:
“ Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất
của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản dược chia theo pháp luật, trong
trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc cho hưởng
phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di
sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di
sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng.
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động”.
3.2. Điều kiện là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.
Điều 669 quy định người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
là những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản. Tuy
nhiên, không phải tất cả những người ở hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di

3
sản đều là người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc; để
được nhận phần di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc những người
này còn phải thỏa mãn các điều kiện:
- Người lập di chúc không cho họ hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di
sản ít hơn hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật (2/3 một suất theo
luật được xác định bằng cách giả định toàn bộ di sản chia theo pháp luật)
- Không thuộc trường hợp những người từ chối nhận di sản theo quy định tại
Điều 642 BLDS
- Không thuộc trường hợp những người không có quyền hưởng di sản theo
quy định tại Khoản 1 Điều 643 BLDS
Khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện nói trên, thì những người này sẽ được
hưởng một phần di sản tối thiểu bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp
luật mặc dù họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản.
3.3. Nghĩa vụ của người thừa kế không phụ thuốc vào nội dung của di
chúc.
Nhận phần di sản được hưởng không phụ thuộc vào nội dung của di chúc,
người thụ hưởng có nghĩa vụ thanh toán nợ di sản như tất cả những người thừa kế
khác, họ tiếp nhận không chỉ 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật mà họ
còn cả 2/3 suất đó trong tập hợp các khoản nợ.
3.4 Những lưu ý của quy định người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung của di chúc
Thứ nhất: Chỉ xác định người hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của
di chúc để cho họ hưởng di sản nếu người này không được người để lại di sản cho
hưởng di sản (người để lại di sản truất quyền thừa kế của người thừa kế thuộc đối
tượng được hưởng không phụ thuộc vào nội dung của di chúc) hoặc cho hưởng
nhưng giá trị phần di sản được hưởng là quá ít (chưa bằng 2/3 suất của một người
thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật).
Thứ hai: đối tượng được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc bao gồm vợ hoặc chồng của người chết, con chưa thành niên (con trai, con
gái, con nuôi, con đẻ, con trong giá thú, con ngoài giá thú, dưới 18 tuổi); cha, mẹ
đẻ, cha, mẹ nuôi; con đã thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên) không có khả năng lao
động.
Thứ ba: Sẽ không cho người thừa kế được hưởng di sản không phu thuộc vào
nội dung của di chúc nếu người thừa kế từ chối hưởng di sản (Điều 642 BLUS năm
2005) hoặc không có quyền hưởng di sản ( khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005).
Thứ tư: Đối với cách tính 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật để cho
người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc được hưởng:
hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến việc xác định di sản để
chia, cá nhân suất để chia. Có quan điểm cho rằng một suất thừa kế được không
phụ thuộc vào người thừa kế nào đó có bị truất quyền hay không. Tuy nhiên nếu
theo quy định tại Điều 669 BLDS 2005 thì có thể hiểu: nếu chia theo pháp luật thì

4
ai sẽ được hưởng hay nói cách khác là sẽ chia cho những ai. Do đó sẽ không bao
gồm người thừa kế bị truất quyền, từ chối quyền hoặc không có quyền hưởng di
sản. Người thừa kế theo Điều 669 có được hưởng di sản khi người để lại di chúc
truất quyền hưởng di sản hay không? Trước hết cần phải hiểu rằng người thừa kế
không được người để lại di chúc cho hưởng di sản bao gồm: người không được
người lập di chúc phân định cho một phần di sản nào và người bị người lập di chúc
truất quyền hưởng di sản. Từ đó, có thể hiểu người không được người để lại di
chúc cho hưởng di sản có thể không phải là người bị truất quyền nhưng ngược lại
thì đúng.
Thứ năm: Giả thiết có người thừa kế là đối tượng được hưởng di sản không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc nhưng họ lại vi phạm khoản 1 Điều 643 BLDS
quy định vể những người không được quyền hưởng di sản:
“a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về
hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm
trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác
nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền
hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản
trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.”
Tuy nhiên người lập di chúc vấn thể hiện ý chí (thông qua di chúc) cho người
này hưởng di sản (khoản 2 Điều 643) nhưng phần di sản họ được hưởng lại nhỏ
hơn 2/3 của một suất thừa kế thì họ có được hưởng 2/3 suất hay không? Ở đây
chúng ta thấy rằng nếu người lập di chúc cho người thừa kế hưởng di sản thì họ
không được quyền hưởng di sản thì nguồi này luôn luôn không được hưởng. Do đó
nếu người lập di chúc cho họ bao nhiêu thì họ cũng chỉ được hưởng bấy nhiêu, kể
cả ít hơn 2/3 của mỗi suất thừa kế theo pháp luật.
Thứ sáu: Khối di sản dùng làm căn cứ cho việc tính 2/3 suất của một người
thừa kế theo pháp luật có bao gồm di sản thờ cúng và di tặng hay không?
Điều 669 BLDS quy định: người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di
chúc sẽ được hưởng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật “được xác định
bằng cách giả định toàn bộ di sản chia theo pháp luật”. Để xác định 2/3 suất của
một người thừa kế theo pháp luật ta phải giả định rằng: nếu không có di chúc thì
khối di sản này sẽ được chia như thế nào? Bởi vậy, phải lấy toàn bộ di sản thừa kế
(bao gồm cả phần di tặng và phần di sản dùng vào việc thờ cúng) chia cho tất cả
những người thừa kế theo pháp luật để xác định hai phần ba suất của một người
thừa kế theo pháp luật. Có như vậy mới bảo đảm được quyền lợi của những người
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

5
Thứ bảy: Việc cắt giảm phần di sản chia thừa kế, di tặng và di sản dùng vào
việc thờ cúng để đảm bảo quyền lợi của người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung di chúc sẽ được thực hiện theo thứ tự như thế nào?
Trước hết, chúng ta cần phải khẳng định: di sản thừa kế không phụ thuộc vào
nội dung di chúc không phải là một khoản nợ của người để lại di sản. Vì nếu coi
đây là một khoản nợ (là nghĩa vụ tài sản) của người để lại di sản thì nó phải được
thanh toán theo thứ tự ưu tiên được quy định tại Điều 683 của BLDS năm 2005.
Do đây không phải là nghĩa vụ tài sản của người chết để lại, nên phần di sản chia
thừa kế sẽ không phải đem ra thanh toán cho phần di sản này trước tiên. Để đảm
bảo quyền lợi của người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, trong
trường hợp người lập di chúc không cho hoặc cho hưởng ít hơn 2/3 suất của một
người thừa kế theo pháp luật thì cả di sản chia thừa kế, di tặng và di sản dùng vào
việc thờ cúng sẽ bị cắt giảm đồng thời và theo tỷ lệ.
3.5. Ý nghĩa của việc quy định những người thừa kế không phụ thuộc vào
nội dung của di chúc.
Thực chất, việc quy định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc là để bảo vệ lợi ích của những người thừa kế theo pháp luật ở hàng thứ nhất,
có quan hệ huyết thống trực hệ và quan hệ hôn nhân với người lập di chúc, phù
hợp với phong tục, truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, cá nhân (chủ sở hữa tài sản
với tư cách là một thành viên của gia đình không thể bỏ qua lợi ích của những
người thân thiết nhất. Họ có quyền được hưởng 2/3 một định suất của người thừa
kế theo pháp luật trong trường hợp di sản được chia theo di chúc mà người lập di
chúc không cho họ hưởng thừa kế theo di chúc hoặc cho hưởng phần di sản ít hơn
2/3 một định suất của người thừa kế theo pháp luật. Có thể nói đây chính là sự giao
thoa giữa thừa kế theo di chúc và theo pháp luật. Người được thừa kế theo Điều
669 BLDS không có tên trong di chúc và họ không được người lập di chúc cho
hưởng di sản nhưng vẫn giả sử di sản được chia theo pháp luật để xác định suất
thừa kế mà họ được hưởng. Ví dụ: A và B là hai vợ chồng họ có mộ con là C. A
chẳng may chết và đề lại di chúc cho con C toàn bộ di sản là căn nhà trị giá 60
lượng vàng, tuy nhiên căn cứ quy định trên, khi anh A qua đời thì con chị chỉ được
hưởng 40 lượng, chồng chị được hưởng 20 lượng. Bởi vì nếu chia theo pháp luật
(thừa kế hàng thứ nhất chỉ có 2 người) thì mỗi người được hưởng 60:2= 30 lượng,
mức hưởng thừa kế không phụ thuộc di chúc của chồng là 2/3 của 1 suất, tức 2/3 x
30 = 20 lượng, vậy người con chỉ còn 60 – 20 = 40 lượng. Hay trong trường hợp
hai vợ chồng lấy nhau được 10 năm và có hai con ( 9 tuổi và 3 tuổi). Người chồng
mất và để lại di chúc là để lại toàn bộ căn nhà trị giá 570 triệu người chồng xây
trước khi kết hôn cho em của người chồng. Bố mẹ chồng cũng đã mất từ lâu,
người vợ không di làm chỉ ở nhà chăm sóc hai con nên hiện giờ rất khó khăn. Giải
quyết trường hợp này chúng ta thấy: Vì bố mẹ chồng đã mất, người vợ và hai con
thuộc hàng thừa kế thứ nhất, cả hai con đều chưa thành niên nên căn cứ vào khoản
1 Điều 669 thì vợ và hai con là những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung

6
di chúc. Vì người vợ đã viết di chúc để lại toàn bộ căn nhà cho người em trai, nên
người vợ và hai con mỗi người được hưởng 2/3 suất của một người thừa kế theo
pháp luật mà không phụ thuộc vào nội dung của di chúc mà anh chồng để lại là
570 : 3 x 2/3 = 380/3. Người em trai của người chồng sẽ được hưởng phần di sản là
570- 380/3 x 3= 190 triệu đồng.
3. Vấn đề xác định hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp
luật.
Chia như thế nào để xác định một định suất thừa kế theo pháp luật ?. Về
nguyên tắc, một suất thừa kế theo luật là kết quả của một phép chia, trong đó số bị
chia là tổng giá trị di sản thừa kế mà như đã xác định thì di sản thừa kế là toàn bộ
di sản của người chết để lại sau khi đã trừ đi các nghĩa vụ về tài sản cảu người chết
để lại và các khoản chi phí có liên quan, số chia là tổng những người thừa kế theo
pháp luật (những nhân suất). Trong thực tế, việc xác định được một suất thừa kế để
từ đó xác định 2/3 của nó không đơn giản như chỉ đơn thuần như một phép chia số
học. Việc xác định xem ai là nhân suất còn có nhiều quan điểm khác nhau. Cần lưu
ý những người sau đây có phải là một nhân suất hay không: người không có quyền
hưởng di sản theo Điều 643, người thừa kế theo Điều 669 bị người để lại di chúc
truất quyền hưởng di sản, người từ chối nhận di sản. Việc người từ chối nhận di
sản thì họ sẽ không được nhận di sản nữa kể cả chia theo pháp luật. Tuy nhiên cần
phải xem xét trong những tình huống cụ thể sau :
- Những người không có quyền hưởng di sản theo Điều 643 BLDS: Những
người không có quyền hưởng di sản bao gồm cả những người thừa kế theo pháp
luật và những người thừa kế theo di chúc. Nhưng để được coi là một nhân suất để
tính một suất theo luật thì ta chỉ xem xét nếu họ là người thừa kế theo pháp luật của
người lập di chúc. Đây là những người đáng lẽ được hưởng di sản nhưng do có
những hành vi trái pháp luật, trái đạo đức nên pháp luật không cho họ hưởng di
sản. Theo Điều 643, những người này bao gồm: “ a) Người bị kết án về hành vi cố
ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành
hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người
đó; b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; c)
Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong
việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một
phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.”
Những người này có được coi là nhân suất khi xác định một suất theo luật hay
không, hiện nay còn tồn tại hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, đây là
những người đáng lẽ được hưởng di sản nhưng do có những hành vi trái đạo đức,
trái pháp luật nên họ bị pháp luật tước đi quyền hưởng di sản. Do đó, họ không còn
là người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. Vì vậy không được tính họ
vào nhân suất để xác định một suất theo luật. Quan điểm thứ hai cho rằng, cho dù

7
bị tước quyền hưởng di sản nhưng những người này vẫn phải được coi là nhân suất
để tính một suất theo luật vì nếu không như vậy dễ dẫn đến trường hợp “kỷ phần
bắt buộc” có thể ít hơn bằng hay thậm chí lớn hơn một suất của một người thừa kế
theo pháp luật trong trường hợp bình thường.
Theo em, quan điểm thứ nhất hợp lý hơn, bởi lẽ, cách tính 2/3 suất của một
người thừa kế theo pháp luật là giả định di sản được chia theo pháp luật. Nếu di
sản được chia theo pháp luật thì đương nhiên sẽ không thể chia cho những người bị
tước quyền hưởng di sản. Vì vậy, những người này không được coi là một nhân
suất để tính 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật.
- Những người bị người để lại di chúc truất quyền hưởng di sản: Đây là những
người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. Nếu không có di chúc hoặc di
chúc vô hiệu, di sản được chia theo pháp luật thì đương nhiên họ sẽ được hưởng di
sản. Sở dĩ họ không được hưởng di sản bởi vì người lập di chúc đã truất quyền
hưởng di sản của họ. Vì vẫn là người thừa kế theo pháp luật của người để lại di
sản, nếu di sản được chia theo pháp luật họ vẫn được hưởng di sản thừa kế, do đó,
họ phải được coi là nhân suất khi tính một suất theo luật.
- Những người từ chối quyền hưởng di sản: Đây có thể là những người thừa
kế theo pháp luật cũng có thể là những người thừa kế theo di chúc. Họ có quyền
hưởng di sản theo pháp luật cũng như theo di chúc (nếu người lập di chúc cho họ
hưởng). Về vấn đề người từ chối hưởng di sản có được coi là nhân suất để xác định
2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật hay không theo chúng tôi phải chia
làm hai trường hợp:
+ Nếu người từ chối chỉ là người thừa kế theo di chúc (không thuộc diện và
hàng thừa kế, không có quan hệ hôn nhân, huyết thống nuôi dưỡng với người để lại
di sản) thì đương nhiên họ không phải là nhân suất khi xác định một suất thừa kế
theo luật (bởi lẽ nếu di sản được chia theo pháp luật thì không chia cho những
người này).
+ Nếu người từ chối nhận di sản là người thừa kế theo di chúc đồng thời là
người thừa kế theo luật của người để lại di sản thì cần phải xác định: nếu họ chỉ từ
chối việc nhận di sản theo di chúc thì họ vẫn là người thừa kế theo luật, do vậy, họ
là nhân suất để xác định một suất thừa kế theo luật; nếu họ từ chối việc nhận di sản
theo pháp luật thì họ không phải là người thừa kế theo luật nữa. Do vậy họ không
phải là một nhân suất khi xác định một suất thừa kế. Từ việc phân tích trên cho
chúng ta nhận thấy hiện đang còn nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định
2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật. Qua đó chúng ta cần xác định như sau:
Lấy tổng giá trị di sản thừa kế chia cho tổng nhân suất (trừ người đã bị tước, bị
truất, người từ chối theo luật đã từ chối toàn bộ). Vì vậy 2/3 của một định suất
được tính theo công thức: tổng giá trị di sản thừa kế chia cho tổng nhân suất thừa
kế rồi nhân với 2/3. Sau khi áp dụng công thức trên thì tính được 2/3 của một suất
thừa kế theo luật cụ thể là bao nhiểu thì việc trích từ phần di sản nào để cho người
thừa kế được.

8
Về vấn đề này, BLDS Cộng hòa Pháp có quy định rất rõ ràng: “Người thừa kế
khước từ di sản được coi như chưa bao giờ là người thừa kế” (Điều 785). Nếu theo
quan điểm này thì người từ chối hưởng di sản sẽ không được coi là một nhân suất
khi xác định một suất thừa kế theo luật.
- Người thừa kế chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản:
Trường hợp khi có người thừa kế theo pháp luật chết trước hoặc chết cùng thời
điểm với người để lại di sản nhưng người này có con hoặc cháu được thừa kế thế
vị theo Điều 677 thì theo chúng tôi, người này vẫn được coi là nhân suất khi xác
định suất của một người thừa kế theo pháp luật.
- Còn nếu người thừa kế chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại
di sản nhưng người này không có con hoặc cháu được thừa kế thế vị, trong trường
hợp này, nếu di sản được chia theo pháp luật, pháp luật cũng không chia di sản cho
những người này, bởi vậy họ sẽ không được coi là nhân suất khi xác định suất của
một người thừa kế theo pháp luật.
- Xác định tại Điều 669 hưởng đủ theo phần di sản đã được tính cũng còn có
nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng nếu di sản chưa chia thì trước
khi chia di sản, trích từ di sản thừa kế cho mỗi người được hưởng theo Điều 669
một phần di sản bằng phần di sản dã được xác định từ công thức trên nếu họ không
được người để lại di sản cho hưởng hoặc cho hưởng nhưng không bằng phần di sản
đó. Nếu di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế được nhận di sản phải trích lại
một phần sao cho đủ so với kỉ phần mà người thừa kế theo Điều 669 được hưởng,
trong đó phần phải trích lại từ mỗi người thừa kế tương ứng với phần di sản mà họ
đã nhận. Quan điểm này có nhiều bất cập vì không phù hợp với nguyên tắc quyền
định đoạt của người lập di chúc, không đảm bảo được quyền hưởng di sản cảu
những người thừa kế theo luật khác. Quan điểm khác cho rằng phần di sản mà
người thừa kế theo Điều 669 được hưởng chỉ trích từ phần di sản mà người thừa kế
được hưởng theo di chúc và tương ứng với phần vượt trội so với suất thừa kế theo
luật mà họ được hưởng. Ví dụ ông N để lại một khối di sản có giá trị 90.000.000
đồng có ba người thừa kế theo pháp luật là vợ ông – bà B cùng hai con K và H .
Ông chết có để lại di chúc cho K hưởng 2/3 di sản. Theo quan điểm trên thì chia
như sau: Theo di chúc thì K được hưởng 90.000.000 đồng x 2/3 = 60.000.000 đồng
đồng. Phần di sản còn lại được chia cho B và H , mỗi người được hưởng
(90.000.000 đồng – 60.000.000 đồng) : 2 = 15.000.000 đồng. 2/3 của một suất thừa
kế theo pháp luật là 90.000.000 đồng : 3 x 2/3= 20.000.000đồng. Như vậy B mới
được hưởng 15.000.000 đồng so với phần mà Điều 669 đã định thì còn thiếu
5.000.000 đồng. Nếu không được A cho hưởng theo di chúc và di sản được chia
theo luật thì K chỉ được 30.000.000 đồng nhưng theo di chúc thì K được
60.000.000 đồng. Vì vậy 5.000.000 đồng còn thiếu trong kỉ phần luật định của bà
B chỉ trích từ phần di sản mà K được hưởng (H không phải trích vì phần này chưa
bằng 1 suất thừa kế theo luật). Quan điêm này hợp lý hơn vì đã thể hiện được việc
pháp luật chỉ hạn chế quyền tụ định đoạt của người lập di chúc nếu sự định đoạt đó

9
vượt quá giới hạn cho phép và ảnh hưởng tới lợi ích chính đáng của những người
thừa kế mà pháp luật bảo hộ.
Điều 669 BLDS đã quy định rõ ràng về các đối tượng được hưởng “kỉ phần
bắt buộc”. Nhưng điều luật này lại không quy định rõ các trường hợp có thể xác
định “ hai phần ba của một người thừa kế theo pháp luật” dẫn đến việc hiểu luật
không thống nhất. Việc áp dụng “kỉ phần bắt buộc” sẽ chính xác và chính xác khi
những người thừa kế theo luật không bị truất quyền hưởng di sản; không từ chối
nhận di sản; không bị tước quyền hưởng di sản; và không chết trước người để lại di
sản khi người chết trước người để lại di sản có con hoặc cháu hưởng thừa kế thế vị
(Điều 677 BLDS)
Nhưng việc xác định di sản thừa kế khi có những người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc theo Điều 669 BLDS bị truất quyền hưởng di sản;
người từ chối quyền hưởng di sản... còn nhiều lúng túng, vướng mắc bởi còn nhiều
cách hiểu khác nhau trong việc xem xét những ai được tính vào "nhân suất" để xác
định suất của một người thừa kế theo pháp luật. Mỗi cách hiểu đều có những lý do
riêng cần phải được nghiên cứu. Xét hai cách hiểu sau:
+ Cách hiểu thứ nhất: Người thừa kế từ chối quyền hưởng di sản thì không
được coi là nhân suất để xác định xuất của một người thừa kế theo pháp luật. Chỉ
có người thừa kế theo Điều 669 BLDS bị người để lại di chúc truất quyền hưởng di
sản được tính là nhân suất khi xác định suất của một người thừa kế theo pháp luật.
Những người hiểu theo cách này cho rằng các đối tượng nêu trên không được coi
là người thừa kế theo pháp luật, không được coi là nhân suất.
+ Cách hiểu thứ hai: Những đối tượng kể trên mặc dù bị truất, bị tước, từ chối
quyền hưởng di sản nhưng vẫn là một nhân suất khi xác định suất của một người
thừa kế theo pháp luật. Theo tôi cách hiểu thứ hai hợp lý hơn, bởi những lý do sau:
- Thứ nhất: Quy định tại Điều 669 BLDS là để hạn chế quyền định đoạt di sản
của người để lại di sản khi họ không làm tròn "bổn phận" của mình đối với những
người thân thích, chứ không phải tước bỏ hoặc phủ nhận hoàn toàn quyền định
đoạt của người để lại di sản.
- Thứ hai: Nên hiểu di sản cho người thừa kề không phụ thuoocjvafo nội dung
của di chúc luôn ít hơn suất của một người thừa kế theo pháp luật mà không thể
bằng hoặc lớn hơn mới đúng với tinh thần của điều luật: "..vẫn được hưởng phần di
sản...
- Thứ ba: Nhà làm luật đã dự liệu: "...nếu chia theo pháp luật..." Vậy cần hiểu
quy định này của điều luật là đưa ra giả thiết nếu chia theo pháp luật trong trường
hợp bình thường thì một suất là bao nhiều để từ đó xác định 2/3 suất của một người
thừa kế theo pháp luật cho người nào hưởng theo.
- Thứ tư: Nếu không lấy toàn bộ di sản chia cho tất cả những người thừa kế
theo luật để xác định 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật thì sẽ dẫn đến
phần di sản có thể ít hơn, bằng hay thậm chí lớn hơn một suất của người thừa kế
theo pháp luật trong trường hợp bình thường.

10
- Thứ năm: Những người bị truất, bị tước, từ chối nhận di sản (người thừa kế
theo pháp luật) được coi là nhân suất để xác định suất của một người thừa kế theo
pháp luật mới đảm bảo tính hợp lý và thống nhất trong mọi cách chia khi lấy toàn
bộ di sản để chia.
Theo Điều 669 BLDS trường hợp phải xác định di sản thừa kế khi có người
thừa kế theo luật chết trước người để lại di sản nhưng người này có con hưởng thế
vị theo Điều 677 BLDS thì được coi là nhân suất để xác định suất của một người
thừa kế theo pháp luật. Vì khi chia di sản thừa kế theo pháp luật, mặc dù người
thừa kế ko còn sống vào thời điểm mở thừa kế nhưng để bảo vệ quyền lợi cho
người hưởng thế vị thì pháp luật quy định phải chia cho họ (như còn sống) để con
họ được hưởng thế vị.
4. Mối liên hệ giữa người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc và người thừa kế theo di chúc.
Phần di sản dành cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là
một phần di sản nằm trong khối tài sản của người chết để lại. Vì vậy, cũng giống
như di sản thừa kế theo di chúc ta chỉ có thể xác định phần di sản dành cho người
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc sau khi đã thanh toán các nghĩa vụ
về tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế theo thứ tự ưu tiên thanh toán
được quy định tại Điều 683 BLDS gồm: chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai
táng; tiền cấp dưỡng còn thiếu; tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ; tiền công
lao động; tiền bồi thường thiệt hại; thuế và các khoản nợ khác đối với Nhà nước;
tiền phạt; các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác; chi phí
cho việc bảo quản di sản; các chi phí khác…
Nếu nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế lớn hơn hoặc
bằng tổng giá trị di sản thừa kế của người chết để lại thì sẽ không còn di sản để
chia thừa kế cũng như di sản dành cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung di chúc.
Nếu nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế nhỏ hơn so
với tổng giá trị di sản chia thừa kế, chúng ta xem xét các trường hợp sau:
Thứ nhất: Giả định không có di chúc hoặc di chúc không có hiệu lực
- Nếu không có di chúc hoặc di chúc không có hiệu lực toàn bộ, toàn bộ di sản
được chia theo pháp luật, không còn di sản thừa kế theo di chúc, do đó vấn đề thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc cũng không được đặt ra. Những người
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc sẽ được nhận phần di sản của mình
với tư cách là người thừa kế theo pháp luật.
- Nếu di chúc không có hiệu lực một phần, di sản thừa kế theo di chúc sẽ bị
giảm do phần di sản không có hiệu lực sẽ bị chia theo pháp luật. Phần di sản thừa
kế theo di chúc có thể tiếp tục bị giảm nếu người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung di chúc vẫn chưa nhận đủ phần của mình (bằng 2/3 suất của một người thừa
kế theo pháp luật).

11
Ví dụ: Ông X có 3 người thừa kế theo pháp luật là bà A - vợ ông X và hai
người con đã thành niên và có khả năng lao động là B và C. Trước khi chết, ông X
lập di chúc định đoạt khối di sản trị giá 180.000.000 đồng của mình; trong đó ông
cho bà A được hưởng 10.000.000 đồng, B và C mỗi người được hưởng 55.000.000
đồng, còn 60.000.000 đồng ông cho E hưởng với điều kiện E phải gây thương tích
nặng cho F (là một người mà ông X rất ghét khi còn sống). Để xác định phần di
sản thừa kế theo di chúc có bị cắt giảm hay không, trước hết phải xác định phần
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc mà bà A được hưởng. Ông X có 3
người thừa kế theo pháp luật, do đó một suất thừa kế theo pháp luật là:
180.000.000 đồng: 3 = 60.000.000 đồng. Bà A được hưởng 2/3 suất của một người
thừa kế theo pháp luật: 60.000.000 x 2/3 = 40.000.000 đồng. Việc ông X định đoạt
60.000.000 đồng cho E hưởng là bất hợp pháp. Vì vậy, phần di chúc liên quan đến
phần 60.000.000 đồng đó là không có hiệu lực và sẽ bị chia theo pháp luật cho bà
A, và hai con là B và C, mỗi người được hưởng: 60.000.000 đồng : 3 = 20.000.000
đồng. Tổng số phần di sản mà bà A được hưởng theo di chúc và theo pháp luật là:
10.000.000 đồng + 20.000.000 đồng = 30.000.000 đồng. Còn thiếu 10.000.000
đồng nữa mới đủ 40.000.000 đồng (2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật).
Phần 10.000.000 đồng này sẽ phải được lấy từ phần di sản thừa kế theo di chúc của
B và C. Di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc: 40.000.000 đồng.
Di sản thừa kế theo di chúc bằng: 180.000.000 đồng – 60.000.000 đồng (phần di
sản liên quan đến phần di chúc không có hiệu lực) – 40.000.000 đồng (phần di sản
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc) = 80.000.000 đồng. Từ ví dụ trên,
chúng ta có thể thấy sự chuyển hóa từ di sản thừa kế theo di chúc và di sản thừa kế
theo pháp luật thành di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
(10.000.000 đồng thừa kế theo di chúc của bà A và 10.000.000 đồng thừa kế theo
di chúc bị cắt giảm của B và C và phần 20.000.000 đồng chia theo pháp luật). Nói
cách khác, phần di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc của bà A
được cấu thành từ phần di sản thừa kế theo di chúc và di sản thừa kế theo pháp
luật, nhưng bà A nhận phần di sản này không phải với tư cách người thừa kế theo
di chúc hay người thừa kế theo pháp luật mà lại là người thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung di chúc. Đây là điểm rất khác biệt của di sản thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung di chúc với di sản thừa kế theo di chúc và di sản thừa kế theo pháp
luật. Đối với di sản thừa kế theo di chúc và di sản thừa kế theo pháp luật, việc nhận
một trong hai phần di sản này không làm triệt tiêu quyền của người thừa kế trong
việc nhận phần di sản kia. Nói cách khác, một người thừa kế có thể mang cùng một
lúc hai tư cách – vừa có thể là người thừa kế theo di chúc, vừa có thể là người thừa
kế theo pháp luật. Nhưng sẽ không thể xảy ra trường hợp một người vừa là người
thừa kế theo di chúc vừa là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
hoặc vừa là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc vừa là người thừa
kế theo pháp luật trừ khi cùng một lúc họ được nhận di sản thừa kế từ nhiều chủ

12
thể độc lập mà đối với chủ thể này họ là người thừa kế theo di chúc, đối với chủ
thể kia họ lại là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Thứ hai: giả định di chúc được lập hoàn toàn hợp pháp và có hiệu lực toàn
bộ
Trường hợp 1: người lập di chúc định đoạt toàn bộ di sản trong di chúc
- Nếu người lập di chúc cho những người thuộc diện thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung di chúc hưởng một phần di sản lớn hơn hoặc bằng 2/3 suất của một
người thừa kế theo pháp luật. Lúc này, quyền lợi tối thiểu của những người thuộc
diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc đã được bảo đảm.
Do đó, không phát sinh vấn đề thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Phần di sản thừa kế theo di chúc được giữ nguyên theo đúng sự định đoạt của
người lập di chúc.
- Nếu người lập di chúc không cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung di chúc hưởng di sản, hoặc tuy có cho nhưng cho hưởng ít hơn 2/3 suất của
một người thừa kế theo pháp luật. Trong trường hợp này, người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung di chúc sẽ vẫn được hưởng 2/3 suất của một người thừa kế theo
pháp luật (được tính bằng cách giả định toàn bộ di sản được chia theo pháp luật).
Di sản thừa kế theo di chúc là phần di sản còn lại sau khi đã lấy tổng giá trị di sản
thừa kế trừ đi tổng số di sản mà những người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung di chúc được hưởng.
Trường hợp 2: Người lập di chúc chỉ định đoạt một phần di sản trong di chúc.
Lúc này, di sản thừa kế được chia thành hai phần: một phần di chuyển theo di
chúc và phần còn lại theo pháp luật. Để xác định có hay không phần di sản không
phụ thuộc vào nội dung di chúc ta phải tiến hành cộng phần di sản mà những người
thuộc diện thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc được hưởng theo di chúc
với phần di sản được hưởng theo pháp luật. Nếu kết quả bằng hoặc lớn hơn 2/3
suất của một người thừa kế theo pháp luật, di sản thừa kế theo di chúc được giữ
nguyên theo đúng sự định đoạt của người lập di chúc; nếu kết quả ấy nhỏ hơn 2/3
suất của một người thừa kế theo pháp luật thì di sản thừa kế theo di chúc là phần di
sản còn lại sau khi đã trừ đi phần còn thiếu trong phần di sản mà người thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc được hưởng.
Từ những điều vừa trình bày trên đây, cho phép chúng ra rút ra nhận xét:
trong mối liên hệ với di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, di sản
chia thừa kế có thể sẽ là một thành phần cấu tạo nên phần di sản thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung di chúc. Nếu người lập di chúc càng hạn chế phần di sản được
hưởng của người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc trong di chúc thì
phần di sản thừa kế theo di chúc bị cắt giảm cho đủ 2/3 suất của một người thừa kế
theo pháp luật sẽ càng lớn. Một người sẽ không thể đồng thời vừa nhận phần di sản
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc vừa nhận phần di sản thừa kế theo
di chúc. Họ chỉ có thể là một trong hai: hoặc là người thừa kế theo di chúc hoặc là

13
người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc – nếu như phần di sản họ
nhận được chưa đủ 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật.
II. Những cơ sở thực tiễn của quy định người thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung của di chúc.
1. Thực trạng và diễn biến tình hình giải quyết các tranh chấp về thừa kế
trong những năm gần đây.
Bộ luật Dân sự 2005 được xem là kết quả cao của quá trình pháp điển hoá
những quy định của pháp luật về thừa kế. Nó kế thừa và phát triển những quy định
phù hợp với thực tiễn, không ngừng hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi của người thừa
kế một cách có hiệu quả nhất.
Tuy nhiên về thực tiễn, do sự phát triển mạnh mẽ từng ngày, từng giờ của đời
sống kinh tế - xã hội của đất nước, nên pháp luật về thừa kế hiện hành vẫn chưa thể
trù liệu hết những trường hợp, tình huống xảy ra trên thực tế. Còn một số quy định
pháp luật về thừa kế chung chung, mang tính chất khung, chưa chi tiết, chưa rõ ràng,
lại chưa có văn bản hướng dẫn thi hành cho từng vấn đề cụ thể. Vì vậy, còn nhiều
quan điểm trái ngược nhau, nên khi áp dụng vào thực tế sẽ xảy ra tình trạng không
nhất quán trong cách hiểu cũng như cách giải quyết. Điều đó đã xâm phạm quyền
thừa kế của công dân, đôi khi còn gây bất ổn trong đời sống sinh hoạt của mỗi gia
đình, cộng đồng và xã hội.
Trong bối cảnh hội nhập, với thực trạng nền kinh tế thị trường và xây dựng
nhà nước pháp quyền thì vấn đề tài sản thuộc sở hữu cá nhân ngày càng phong
phú, thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp phức tạp. Hàng năm Toà
án nhân dân các cấp đã thụ lý và giải quyết hàng ngàn vụ án thừa kế. Nhiều vụ
tranh chấp thừa kế phải xét xử nhiều lần mà tính thuyết phục không cao. Có những
bản án quyết định của toà án vẫn bị coi là chưa "thấu tình đạt lý"... Sở dĩ còn tồn
tại những bất cập đó là do nhiều nguyên nhân trong đó phải kể đến là do các quy
định của PLVTK chưa đồng bộ, cụ thể... Chính vì điều đó, nên trong thời gian gần
đây nhiều văn kiện của Đảng như Nghị quyết 48 về chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị về một
số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới... đã xác định rõ
nhiệm vụ, mục tiêu, sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời kỳ
đổi mới, trong đó có pháp luật về thừa kế.
2. Nguyên nhân của tình trạng này.
Thừa kế là chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam.
Khi xã hội càng phát triển, các mối quan hệ kính tế và xã hội cũng phát triển đa
dạng, nhiều vấn đề thừa kế nếu như trước đây được điều chỉnh bởi các quy phạm
đạo đức, phong tục tập quán thì nay đã chịu sự điều chỉnh trực tiếp của các quy
phạm pháp luật về thừa kế.
Theo thống kê của ngành tòa án trong những năm gần đây số vụ việc tranh
chấp về thừa kế luôn có số lượng lớn và phức tạp trong các tranh chấp về dân sự,

14
điều này là hoàn toàn bình thường trong giai đoạn quá độ chuyển giao giữa hai thời
kỳ cũ và mới như ở Việt Nam. Tuy nhiên, theo chúng tôi xét trên khía cạnh pháp lý
và xã hội, việc phát sinh nhiều và phức tạp các tranh chấp về thừa kế trong những
năm gần đây xuất phát từ một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất: Do nhận thức của người dân về pháp luật thừa kế còn hạn chế.
Việc tuyên truyền , phổ biến giáo dục đã có nhiều cố gắng và được chú ý nhưng
còn nhiều sự hạn hẹp. Vì long tham mà đương sự tìm mọi cách để giảm bớt quyền
lợi của những người thừa kế khác, chỉ quan tâm tới lợi ích của bản thân mình. Dẫ
đến nhiều bản án có hiệu lực pháp luật nhưng các đương sự vẫn tiếp tục tranh
giành và tiếp tục kéo dài làm cho các vụ án cứ kéo dài, phức tạp. Cũng như nhận
thức về pháp luật nói chung của người Việt Nam, nhận thức pháp luật về thừa kế
của người Việt còn nhiều hạn chế, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, vùng sâu,
vùng xa còn nhiều khó khăn. Xuất phát từ nhận thức pháp luật hạn chế nên người
dân đã không nhận thấy được vai trò của pháp luật là một nguyên nhân quan trọng
của việc phát sinh những tranh chấp về thừa kế. Ví dụ: Người dân thường không
quan tâm đến việc lập di chúc để định đoạt tài sản của mình sau khi qua đời hoặc
không kê khai, từ chối nhận di sản..
Thứ hai: Do điều kiện kinh tế, xã hội Việt Nam có nhiều đặc thù.
Do sự tác động của nền kinh tế thị trường, sự biến đổi về giá trị tài sản dẫn
đến phạm vi và giá trị tài sản của công dân tăng lên. Ngoài ra di tình hình phát
triển kinh tế không đều, có dự chênh lệch lớn giữa các khu vực. Cùng với đó là quá
trình đô thị hóa, xã hội mới các khu kinh tế, khu du lịch và các công trình hạ tầng
cơ sở ngày càng nhiều đã sử dụng phần lớn diện tích đất. Do chính sách của nhà
nước về nhà ở, đât sđai cũng làm thay đổi chủ sở hữu, người dung. Việc thừa nhận
ai là chủ sở hữu từ đó xác định di sản thừa kế
Các quan hệ truyền thống và các quan hệ xã hội mới luôn luôn đan xen tồn tại
làm tăng tính phức tạp của các tranh chấp về thừa kế. Bên cạnh đó còn phải kể đến
nền kinh tế thị trường phát triển với tốc độ cao đã phá vỡ nhiều mối quan hệ kinh
tế và xã hội truyền thống của người Việt, tốc độ đô thị hóa và công nghệp hóa
nhanh làm cho các quan hệ kinh tế xã hội phát triển và thay đổi nhanh chóng. Ví
dụ: Việc thu hồi đất cho một dự án nào đó người dân sẽ có được một số tiền đền bù
lớn, việc này có thể sẽ dẫn đến tranh chấp về thừa kế nếu phần đất bị thu hồi do
người chết để lại chưa được kê khai thừa kế;
Thứ ba: Do các quy định của pháp luật thừa kế còn chưa đầy đủ, thiếu đồng
bộ.
Tuy các đạo luật đã được sửa đổi nhưng vẫn có những quy định mang tính
chất khung nên việc áp dụng cảu các cơ quan nhà nước gặp nhiều khó khăn. Thực
tế vẫn phải có nhiều quy đinh cần sự hướng dẫn cụ thể của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền mới có thể thực hiện được. Đây không phải là lý do quan trọng

15
nhất, các quy định về thừa kế tuy còn nhiều điểm phải hoàn thiện nhưng được đánh
giá là một trong những chế định hoàn thiện nhất của bộ luật dân sự. Tuy nhiên
cũng như việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, các quy định về thừa kế
cũng phải được hoàn thiện để không một quan hệ thừa kế nào nằm ngoài sự điều
chỉnh của pháp luật.
Thứ tư ; Công tác xét xử của tòa án.
Thực tế cho thấy trình độ chuyên môn của một số thẩm phán còn non yếu,
tỏng quá trình xét xử còn nhiều thiếu xót, xét xử nhiều lần không đảm bảo quyên
lợi của đương sự. Có vụ người để lại di sản, khi viết di chúc đã không dành lại
“phần di sản bằng 2/3 suất của một thừa kế theo pháp luật” cho các đối tượng nói
trên, song Tòa án vẫn công nhận toàn bộ di chúc của họ hợp pháp là không đúng;
khi giải quyết còn gặp vướng mắc và lúng túng dẫn đến sai sót.
3. Những tình huống thực tế cụ thể liên quan tới người thừa kế không
theo nội dung của di chúc.
Tình huống 1:
Vợ chồng ông A và bà B kết hôn năm 1960 có ba người con chung là anh C,
anh D và chị E. lúc sinh thời ông A không có tình cảm thắm thiết với bà B nhưng
ông vẫn có nghĩa vụ cới các con, Ông qua đời vào tháng 4/2006 có để lại di chúc
truất quyền của bà B và để lại cho mỗi con 1/3 di sản của mình. Khi ông A qua đời
bà B mai táng cho ông hết 6.000.000 đồng từ tài sản chung hợp nhất của ông bà.
Qua sự kiện trên bà B kiện lên tòa án quận M xin được chia di sản thừa kế của ông
A. Tòa án xác định được
- Tài sản chung hợp nhất của ông A và bà B còn lại là 330.000.000 đồng
- Tài sản riêng của ông A do được thừa kế của cha mẹ là 20.000.000 đồng,
Giải quyết tình huống:
Theo tình huống trên bà B mai tang cho ông A hết 6.000.000 đồng từ tài sản
chung hợp nhất của 2 vợ chồng ông A và bà B. Do đó số tài sản chung hợp nhất
của hai ông bà trong thời chung sống là 6.000.000 đồng + 330.000.000 đồng =
336.000.000 đồng.
Theo quy định của pháp luật di sản của ông A được xác định trong khối tài
sản chung hợp nhất của 2 vợ chồng. Vậy di sản của ông A là 336.000.000 đồng : 3
= 168.000.000 đồng
Theo quy đinh tài Điều 683 BLDS thì mai táng phí được trừ vào di sản của
người chết, vậy di sản của ông A được xác định từ tài sản chung còn lại sau khi đã
trừ đi mai táng 168.000.000 đồng – 6 = 162.000.000 đồng
Tổng di sản của ông A gồm phần xác định từ tài sản chung với bà B và tài sản
riêng của ông A do được thừa kế. Vậy di sản của ông A có 162.000.000 đồng +
20.000.000 đồng = 182.000.000 đồng

16
Ông A qua đời có để lại di chúc là truất quyền thừa kế của bà B nhưng theo
quy định tại Điều 669 về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
thì bà B được hưởng phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp
luật B = 182.000.000 đồng: 4 x 2/3 = 30.333.000 đồng.
Sau khi đã xác định phần di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc cho bà B thì, Phần di sản còn lại của ông A được chia theo di chúc cho ba
người con, mỗi người một suất bằng nhau theo như ông A đã định đoạt trong di
chúc. Di sản còn lại của ông A được chia theo di chúc là 182.000.000 đồng
-30.333.000 đồng= 151.667.000 đồng
Theo đó. C = D = E = 151.667.000 đồng : 3 = 50.555.666 đồng.
Nhận xét :
Theo sự kiện trên, ông A tuy để lại di chúc truất quyền thừa kế của bà B
nhưng bà B là vợ hợp pháp của ông A nên vẫn được hưởng di sản không phụ thuộc
vào nội dung của di chúc theo quy định tại Điều 669 BLDS và suất của bà B được
hưởng bằng 2/3 suất của người thừa kế theo pháp luật. Theo cách tính trên bà B
được hưởng 30.333,000 đồng. Phần di sản của ông A được chia theo di chúc cho
mỗi người được 1/3 tức là 50.555.667 đồng. Đặt giả thuyết nếu ông A thì những
người thừa kế theo pháp luật phần di sản của ông A là 4 người B, C. D. E và mỗi
người được ¼ di sản tức 182.000.000 đồng : 4 = 45.500.000 đồng. Qua cách giải
quyết tình huống này nhận thấy quyền định đoạt tài sản của ông A đã bị hạn chế
theo quy định tại Điều 669 BLDS.
Tình huống 2:
Vợ chồng ông A và bà B kết hôn năm 1959, có bốn người con chung là C, D,
E, F. Do tính cách của hai vợ chồng không hợp nhau ông A và bà B thường xuyên
to tiếng với nhau và bà B nhiều lần bị ông A hành hạ về thể xác. Do bị bệnh hiểm
nghèo bà B đã qua đời vào vào tháng 4/2007 có để lại di chúc truất quyền của ông
A và cho anh C hưởng ½ di sản chia đều cho chị D, F, E . Sau khi bà B qua đời
ông A kiện đến tòa án đòi chia di sản của bà B, Tòa án xác định được tài sản
chung hợp nhất của 2 vợ chồng ông A và bà B là 1.200.000.000 đồng.
Giải quyết tình huống:
Theo tình huống trên ông A và bà B có bốn người con chung 1 trai và 3 gái.
Khi sinh thời bà B nhiều lần bị ông A hành hạ nhưng chưa có bản án như vậy theo
quy định tại khoản 1 Điều 643 thì ông A vẫn được quyền hưởng di sản của bà B
cho dù bà B có truất quyền hưởng di sản của ông A. Theo quy định tại Điều 669,
ông A tuy bị bà B truất quyền thừa kế nhưng ông là chồng của bà B cho đến thời
điểm mở thừa kế của bà cho nên ông A vẫn được hưởng phần di sản tối thiểu là
2/3 suất thừa kế được chia theo pháp luật
Theo tình huống thì tài sản chung hợp nhất của ông A và bà B xác định có
được là 1.200.000.000 đồng. Vậy di sản của bà B được xác định là 1.200.000.000
đồng: 3 = 600.000.000 đồng. Theo tình huống thì không có nghĩa vụ tài sản đối với
ai khi còn sống do vậy toàn bộ tài sản sẽ là di sản chia thừa kế.

17
Ông A được hưởng (600.000.000 đồng : 5) x 2/3 = 80.000.000 đồng.
Phần di sản còn lại là 520.000.000 đồng được chia theo di chúc. Anh C được
½ di sản của bà B là 260.000.000 đồng và D, F, E mỗi người được 1/3 của
260.000.000 đồng.
Nhận xét:
Lúc sinh thời ông A thường hành hạ thể xác bà B nên bà B lập di chúc truất
quyền thừa kế của ông A. Tuy nhiên ông A lại không bị kết án về hành vi đó nên
ông vẫn có quyền hưởng di sản của vợ khi bà B qua đời tuy rằng bà B đã truất
quyền thừa kế của ông A nhưng theo quy định tại Điều 669 thì ông A vẫn được
quyền hưởng di sản. Ngược lại nếu ông A bị kết án và bàn án có hiệu lực pháp luật
thì cả trong trường hợp bà B không lập di chúc cho ai hưởng và cũng không truất
quyền hưởng di sản của ông A thì ông A cũng không có quyền hưởng di sản của bà
B theo pháp luật (điểm a khoản Điều 643 BLDS năm 2005). Trong trường hợp này
nếu bà B truất quyền thừa kế của ông A thì ông cũng không được quyền hưởng di
sản thừa kế của bà B theo quy định tại Điều 669 với tư cách của người được hưởng
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Vì ông A vừa bị kết án vừa bị
truất quyền. Nếu ông A tuy đã bị kết án và bà B có biết hành vi ông A hành hạ
mình mà vẫn cho ông A hưởng di chúc thì ông A được thừa kế di sản của bà B
theo di chúc. Trường hợp này không phải là hiếm trong cuộc sống mà là do tình
sảm vợ chồng và lòng vị tha của người vợ hoặc người chồng. Nghĩa vợ tình chồng
là yếu tố hòa giải mạnh mẽ những mâu thuẫn giữa vợ chồng khi còn sống và là kỉ
niệm êm đềm ấm áp động viên con người sống khi vợ hoặc chồng đã mất. Đây là
nét văn hóa của con người Việt Nam được pháp luật bảo hộ bằng cơ chế điều
chỉnh của pháp luật đặc biệt là trong quan hệ thừa kế di sản
4. Phương hướng hoàn thiện quy định về người thừa kế không theo nội
dung của di chúc.
Chúng ta biết rằng, dựa vào hình thức dịch chuyển tài sản từ người chết sang
cho người còn sống, pháp luật thừa kế chia di sản thành hai loại: di sản thừa kế
theo di chúc và di sản thừa kế theo pháp luật.
Nếu việc dịch chuyển tài sản theo ý chí của người để lại di sản được thể hiện
trong một bản di chúc có hiệu lực pháp luật, phần di sản được dịch chuyển đó được
gọi là di sản thừa kế theo di chúc. Phần di sản thừa kế theo di chúc sẽ được phân
cho những người thừa kế theo di chúc theo ý chí của người lập di chúc. Đối chiếu
với đặc điểm này, di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc không thể là di sản
thừa kế theo di chúc bởi lẽ, phần di sản này hoàn toàn nằm ngoài ý chí của người
lập di chúc. Người lập di chúc đã không chỉ định cho những người này được hưởng
di sản trong di chúc của mình. Điều này thể hiện ngay tại tên gọi của điều luật
“người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc”.
Nếu người chết không lập di chúc hoặc tuy có lập nhưng di chúc nhưng di
chúc không phù hợp với yêu cầu của pháp luật thì di sản của họ được phân chia
theo pháp luật, phần di sản đó được gọi là di sản thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên,

18
tại Điều 675 BLDS quy định những trường hợp thừa kế theo pháp luật không có
khoản nào đề cập đến việc di chuyển phần di sản được hưởng không phụ thuộc vào
nội dung di chúc cho những người thừa kế được liệt kê tại Điều 669 là thừa kế theo
pháp luật.
Như vậy, có thể khẳng định di sản dành cho người thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung di chúc cũng không phải là di sản thừa kế theo pháp luật. Điều này
còn được thể hiện trong việc dịch chuyển phần di sản này cho những người thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Nếu xác định đây là di sản thừa kế theo
pháp luật thì theo nguyên tắc nó sẽ phải được chia đều cho tất cả những người thừa
kế của người để lại di sản, mỗi người sẽ được hưởng “một suất”, nhưng theo quy
định tại Điều 669 thì phần di sản này chỉ được chia cho một số những người thuộc
hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản (con đã thành niên chỉ được nhận
phần di sản này khi thỏa mãn điều kiện “không đủ khả năng lao động”) và mỗi
người chỉ được hưởng2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật.
Vấn đề đặt ra là họ hưởng di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di
chúc với tư cách là gì? Có phải với tư cách là “người thừa kế” hay không?
Pháp luật gọi những đây là những “người thừa kế” không phụ thuộc vào nội
dung di chúc có nghĩa là pháp luật coi đây là những người thừa kế của người để lại
di sản. Tuy nhiên, nếu coi đây là “người thừa kế” thì về nguyên tắc họ phải thuộc
một trong hai loại: hoặc là người thừa kế theo di chúc hoặc là người thừa kế theo
pháp luật. Nhưng ở đây, người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
không thể là người thừa kế theo di chúc bởi lẽ, như trên đã phân tích – việc họ
nhận di sản nằm ngoài ý chí của người lập di chúc. Họ cũng không thể là người
thừa kế theo pháp luật, bởi lẽ phần di sản họ được nhận không phải là di sản thừa
kế theo pháp luật.
Chính vì vậy, những người này nên được gọi là những “người được hưởng di
sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc” – giống như cách gọi trong Pháp lệnh
Thừa kế – thì hợp lý hơn là “người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di
chúc”. Vì vậy, tên gọi của Điều 669 nên được sửa lại là: “Người hưởng di sản
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc” thay vì “Người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc” như cách gọi của BLDS hiện nay.
Vì có rất nhiều quan điểm khác nhau về cách xác định nhân suất, về cách tính
2/3 một suất thừa kế theo pháp luật nên chúng ta phải quán triệt cách đúng nhất,
đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật về những người được hưởng di sản không phụ
thuộc vào nội dung di chúc được đồng bộ và thống nhất.
Bên cạnh đó, cần phải nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức pháp luật cho
các thẩm phán để giải quyết các vụ án nhanh gọn và chính xác; đồng thời cũng
phải giáo dục, nâng cao sự hiểu biết cho người dân, tránh tình trạng kéo nhau ra tòa
đòi chia tài sản không cần thiết.

19
C. KẾT THÚC

Tóm lại, Điều 669 BLDS năm 2005 quy định về người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc có những mặt ưu điểm nhưng vẫn tồn tại những
mặt hạn chế. Chính vì thế cần phải biết phát huy những điểm mạnh, khắc phục
những điểm yếu. Trách nhiệm đó không chỉ đặt ra đối với các cá nhân, cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền mà còn cả đối với mỗi công dân Việt Nam. Làm được như
thế thì những quy định của pháp luật thừa kế nói chung và quy định người hưởng
di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc nói riêng mới thật sự đem lại
quyền lợi chính đáng của mỗi cá nhân cũng như tính hiệu quả trong công tác xét
xử của Tòa án.

20

You might also like