You are on page 1of 24

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

BỘ MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
~~~~~*****~~~~~

ĐỀ
TÀI:
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
VÀ PHÂN TÍCH ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC CỦA ĐẢNG
~~~~~*****~~~~~

Nhóm thực hiện: Nhóm 12


- Nguyễn Thị Tú Anh
- Đỗ Phương Anh
- Phạm Thị Hải
- Nguyễn Thị Minh Hằng
- Nguyễn Phương Linh
- Nguyễn Thị Mận
- Ngô Thị Trang
Lớp: ĐL1205
Giáo viên: Nguyễn Văn Phượng

Hà Nội, 2012

Nhóm 12 – Lớp 1
ĐL1205
I. Bối cảnh lịch sử của cuộc kháng chiến

1. Bối cảnh đất nước

a) Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ở miền Nam (1954-
1975) là sự tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng.
Tháng 7-1954, miền Bắc được giải phóng, nhưng miền Nam còn dưới ách
thống trị của đế quốc và bọn tay sai. Đế quốc Mỹ hất cẳng thực dân Pháp, cùng
bọn tay sai Ngô Đình Diệm tiếp tục thống trị nhân dân ta ở miền Nam, hai mâu
thuẫn cơ bản trên vẫn tồn tại và đất nước tạm thời bị chia cắt. Đúng như Đảng
ta đã khẳng định tại Đại hội lần thứ III (tháng 9-1960): “Cuộc đấu tranh cách
mạng của nhân dân miền Nam là sự tiếp tục các cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, khởi
nghĩa Ba tơ, tổng khởi nghĩa tháng Tám và cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân
dân ta trong điều kiện mới của lịch sử”.

b) Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra trong điều kiện đất nước
bị chia làm hai miền, phải tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác
nhau dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960), xác định đường
lối cách mạng của nước ta:
- Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
- Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay
sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả
nước.
Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng
thúc đẩy lẫn nhau. Việc xác định đường lối cách mạng tiến hành đồng thời hai
chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền là nét độc đáo, chưa có tiền lệ
trong lịch sử, là thành công lớn của Đảng ta. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng,
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và là hậu phương lớn của cả nước, đã
tạo cho cách mạng miền Nam có điều kiện thuận lợi mới khác hẳn các thời kỳ
lịch sử trước đây. Đó là một nguyên nhân chủ yếu để cách mạng miền Nam
đánh thắng đế quốc Mỹ và tay sai.
Trên thực tế, việc tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau
trên hai miền Nam - Bắc chẳng những không mâu thuẫn, mà lại từng bước đưa
cách mạng hai miền cùng phát triển, cùng đi lên trong thế tương hỗ, thúc đẩy
nhau phát triển, tạo ra sức mạnh tổng hợp đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ
xâm lược và chế độ tay sai của chúng, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc.

2. Bối cảnh quốc tế.

Hệ thống xã hội
nghĩa thế giới lúc này ở thời kỳ phát triển
chủ
đang
mạnh mẽ, có tác động to lớn tới quá trình phát triển của thế giới. Hệ thống xã
hội chủ nghĩa thế giới nối liền từ châu Á sang châu Âu, không ngừng phát triển
và củng cố về mọi mặt. Nếu miền Bắc là hậu phương trực tiếp cho cách mạng
miền Nam, thì hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lúc này nối liền với miền Bắc
xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là hậu phương rộng lớn đáng tin cậy, một thuận
lợi chưa bao giờ có đối với cách mạng nước ta.
Cùng với sự lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phong trào
giải phóng dân tộc cuồn cuộn dâng cao ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh,
hệ thống thuộc đia của chủ nghĩa đế quốc bị thu hẹp và đi vào quá trình tan rã.
Cuộc đấu tranh cho dân sinh, dân chủ và hoà bình ở các nước tư bản chủ nghĩa
phát triển rộng khắp và liên tục. So sánh lực lượng trên thế giới lúc đó ngày
càng thay đổi có lợi cho chủ nghĩa xã hội, cho lực lượng cách mạng. Chủ nghĩa
đế quốc tiếp tục suy yếu và khó khǎn. Cách mạng thế giới lúc này đang ở thế
tiến công. Cách mạng Việt Nam đã hoà được vào trào lưu chung của cách mạng
thế giới.
Thời kỳ này cũng cần lưu ý rằng, tuy chủ nghĩa đế quốc đã suy yếu
nhưng chừng nào còn chủ nghĩa đế quốc thì vẫn còn miếng đất để xảy ra chiến
tranh. Lực lượng xâm lược gây chiến chủ
yếu trên thế giới là đế quốc Mỹ.
Nguy cơ chiến tranh thế giới vẫn tồn tại. Nhân dân các nước đang đứng trước
sự đe doạ hết sức nghiêm trọng của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Mặt khác,
sự tàn sát và huỷ diệt ghê gớm trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai và
hậu quả của nó còn làm cho nhiều người lo ngại và lẫn lộn giữa chiến tranh
chính nghĩa và chiến tranh phi nghĩa.
Khi nhân dân ta tiến hành kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trên thế giới
tồn tại bốn mâu thuẫn chủ yếu: mâu thuẫn giữa hệ thống xã hội chủ nghĩa thế
giới với các lực lượng tư bản chủ nghĩa thế giới; mâu thuẫn giữa các nước đế
quốc với nhau; mâu thuẫn giữa các dân tộc đòi độc lập với các lực lượng đế
quốc thực dân; mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Đế quốc Mỹ
xâm chiếm và thiết lập sự thống trị của chúng ở miền Nam nước ta đã làm nảy
sinh và sâu sắc thêm cả bốn mâu thuẫn trên ở miền Nam. Mỹ tuyên bố chiến
tranh ở Việt Nam là chiến tranh hệ tư tưởng, giữa hệ tư tưởng cộng sản với hệ
tư tưởng "tự
do" kiểu Mỹ. Đế quốc Mỹ hất cẳng thực dân Pháp, độc chiếm
miền Nam, đẩy dần các đế quốc châu Âu ra khỏi Đông Nam Á, chèn ép quyền
lợi của tư bản thực dân nhiều nước ở vùng này, càng làm cho mâu thuẫn giữa
Mỹ với các đế quốc khác thêm sâu sắc. Đế quốc Mỹ cố xây dựng ở miền Nam
một giai cấp tư sản mại bản làm tay sai cho chúng, làm mâu thuẫn giữa giai cấp
công nhân và tư bản ở miền Nam càng trở nên sâu sắc. Để phục vụ chiến tranh
của chúng ở miền Nam, đế quốc Mỹ bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao
động Mỹ, bắt họ sang miền Nam làm bia đỡ đạn để bọn tư bản Mỹ thu những
món lợi kếch xù từ cuộc chiến tranh này. Mỹ còn lôi kéo các nước tay sai đổ của
đổ người vào cuộc chiến tranh của chúng ở miền Nam. Do vậy, giai cấp công
nhân, nhân dân lao động Mỹ và các nước chư hầu của Mỹ bị lôi cuốn vào cuộc
chiến tranh, ngày càng mâu thuẫn quyết liệt với tư bản Mỹ, với các nhà cầm
quyền Mỹ và giai cấp tư bản các nước hầu Mỹ, làm rung chuyển hậu
chư
phương của chúng.
Điều đó nói lên rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân
ta là cuộc đụng đầu lịch sử mang tính thời đại sâu sắc

- Thuận lợi:
+ Hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự,
khoa học - kỹ thuật, nhất là Liên Xô.
+ Phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển ở Châu Á, Châu Phi và
khu vực Mỹ Latinh.
+ Phong trào hòa bình, dân chủ lên cao ở các nước tư bản.
+ Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa chung cho cả
nước.

- Khó khăn:
+ Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, âm mưu bá chủ
thế giới với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng.
+ Thế giới bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa 2
phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.
+ Xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là giữa
Liên Xô và Trung Quốc.
+ Đất nước ta bị chia làm 2 miền: kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu.
Miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Đế quốc Mỹ trở thành kẻ thù
trực tiếp của nhân dân ta.

II. Quá trình hình thành và phân tích nội dung của đường lối
1. Giai đoạn 1954 – 1964

- Tháng 9/1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới
và chính sách mới của Đảng.
- Hội nghị lần thứ 7 (3/1955) và Hội nghị lần thứ 8 (8/1955) của Trung Ương
Đảng nhận định: Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa bình, thực
hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ. Điều cốt lõi là phải ra sức
củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân
dân miền Nam.
- Tháng 12/1957, Hội nghị Trung Ương Đảng lần thứ 13 đã xác định đường
lối tiến hành đồng thời 2 chiến lược cách mạng:
+ Mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay là:
củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội.
+ Tiếp tục đấu tranh để thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và
dân chủ bằng phương pháp hòa bình.
- Tháng 01/1959, Hội nghị Trung Ương Đảng lần 15 họp bàn về cách
thứ
mạng miền Nam. Nghị quyết khẳng định lại 2 nhiệm vụ chiến lược của Cách
mạng Việt Nam: cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam.
Nghị quyết 15 của Trung Ương Đảng ra đời, xác định rõ mục tiêu, phương
pháp cách mạng miền Nam, mối quan hệ chiến lược của cách mạng hai miền,
giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới; phản ánh đúng nhu cầu của
lịch sử, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam; định
hướng và động viên nhân dân miền Nam vùng lên trong phong trào Đồng khởi
(1959 - 1960), xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam, làm tan rã hàng loạt
bộ máy của ngụy quyền ở các thôn, xã.
Quá trình đề ra và chỉ đạo thực hiện những nghị quyết, chủ trương trên chính
là quá trình hình thành đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước.
- Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15 (1-1959) và Đại hội
lần thứ III của Đảng (9-1960) đã phân tích tính chất xã hội miền Nam và vạch ra
đường lối cách mạng miền Nam như sau:
Cuộc cách mạng miền Nam là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Cuộc cách mạng đó có:
Nhiệm vụ chung là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc
Mĩ xâm lược và gây chiến tranh, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình
Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc dân
chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải
thiện đời sống nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên
cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông - Nam Á
và thế giới.
Nhiệm chiến lược là tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc, và giải
vụ
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc
lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình thống nhất, dân chủ và
giàu mạnh.
Con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là lấy sức mạnh của
quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu kết hợp với
lực lượng vũ trang để đánh đổ ách thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng
lên chính quyền cách mạng của nhân dân.
Phải thành lập một Mặt trận dân tộc dân chủ thật rộng rãi ở miền Nam, lấy
liên minh công nông làm cơ sở, cần có sách lược lợi dụng mâu thuẫn giữa các
bộ phận trong hàng ngũ kẻ thù, phân hoá và cô lập cao độ đế quốc Mĩ và bọn
tay sai Ngô Đình Diệm. Sử dụng kết hợp những hình thức đấu tranh hợp pháp,
nửa hợp pháp và không hợp pháp, phối hợp chặt chẽ phong trào ở đô thị với
phong trào ở nông thôn và vùng căn cứ. Cần kiên quyết giữ vững đường lối hoà
bình, thống nhất nước nhà. Song, vì đế quốc Mĩ là tên đế quốc hiếu chiến đầu
sỏ, nên cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam có thể chuyển thành cuộc đấu
tranh vũ trang trường kỳ, thành chiến tranh cách mạng. Lúc đó Đảng ta nhận
định rằng, kẻ địch cũng có thể liều lĩnh mở rộng chiến tranh xâm lược ra miền
Bắc, nên trong khi lãnh đạo, Đảng phải chuẩn bị chu đáo và chủ động đối phó,
kiên quyết đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc.
Củng cố, xây dựng Đảng bộ miền Nam thật vững mạnh, không ngừng nâng
cao năng lực lãnh đạo của các cấp đảng bộ đối với sự nghiệp cách mạng miền
Nam, bảo đảm sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, nắm vững phương châm hoạt
động bí mật, tăng cường mối quan hệ khăng khít giữa Đảng và quần chúng.
Đường lối cách mạng do Hội nghị lần thứ 15 Ban chấp hành trung ương và
đại hội lần thứ III của Đảng đề ra là căn cứ để Đảng lãnh đạo, chỉ đạo thắng
lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, giải phóng miền Nam, hoàn thành
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất tổ quốc,
tạo điều kiện để đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Ý nghĩa đường lối:
+ Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng: giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp
với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt Nam và phù hợp với tình hình
quốc tế.
+ Đường lối chung của cách mạng Việt Nam đã thể hiện tinh thần độc lập,
tự chủ và sáng tạo của Đảng trong việc giải quyết những vấn đề không có tiền
lệ trong lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam vừa phù hợp với lợi ích của
nhân loại và xu thế của thời đại.
+ Đường lối chiến lược chung cho cả nước và đường lối cách mạng ở mỗi
miền là cơ sở để Đảng chỉ đạo quan dân ta phấn đấu giành được những thành
tựu to lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thắng lợi
chống các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam.

2. Giai đoạn 1965 – 1975

Khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam,
các hội nghị của Bộ Chính trị đầu năm 1961 và đầu năm 1962 đã nêu chủ trương
giữ vững và phát triển thế tiến công mà ta đã giành được sau cuộc "đồng khởi"
năm 1960, đưa cách mạng miền Nam từ khởi nghĩa từng phần phát triển thành
chiến tranh cách mạng trên quy mô toàn miền. Bộ Chính trị chủ trương kết hợp
khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng, giữ vững và đẩy mạnh
đấu tranh chính trị, đồng thời phát triển đấu tranh vũ trang nhanh lên một bước
mới, ngang tầm với đấu tranh chính trị.
Hội nghị Trung Ương Đảng lần thứ chín (tháng 11 - 1963), ngoài việc xác
định đúng đắn quan điểm quốc tế, hướng hoạt động đối ngoại vào việc kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để đánh Mỹ và thắng Mỹ, còn quyết
định nhiều vấn quan trọng về cách mạng miền Nam. Hội nghị tiếp tục
đề
khẳng định đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang đi đôi, cả hai đều có vai trò
quyết định cơ bản, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu mới của đấu tranh vũ trang.
Đối với miền Bắc, Hội nghị tiếp tục xác định trách nhiệm là căn cứ địa, hậu
phương đối với cách mạng miền Nam, đồng thời nâng cao cảnh giác, triển khai
mọi mặt sẵn sàng đối phó với âm mưu đánh phá của địch.
Trước hành động gây "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam, tiến hành chiến
tranh phá hoại ra miền Bắc của đế quốc Mỹ, Hội nghị Trung ương lần thứ 11
(tháng 3 - 1965) và lần thứ 12 (tháng 12 - 1965) đã tập trung đánh giá tình hình và
đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên cả nước.
- Về nhận định tình hình và chủ trương chiến lược: Trung ương Đảng cho
rằng cuộc “Chiến tranh cục bộ” mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là một
cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, buộc phải thực thi trong thế thua, thế
thất bại và bị động cho nên nó chứa đựng nhiều mâu thuẫn về chiến tranh. Do
đó, Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước trong toàn quốc
- Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: Nêu cao khẩu hiệu “Quyết tâm đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược”, “kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của
đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền
Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dan chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới
thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”
- Phương châm đạo chiến lược: Tiếp tục và đẩy mạnh cuộc chiến
chỉ
tranh chống chiến tranh cục bộ của Mỹ, thực hiện kháng chiến lâu dài, tập trung
lực lượng của cả hai miền để mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ
giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn nhất trên chiến
trường miền Nam
- Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở miền Nam: Giữ vững và
phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến công
- Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế,
bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế, quốc phòng trong
điều kiện có chiến tranh,tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ
để bảo vệ vững chắc miến Bắc xã hội chủ nghĩa,chi viện sức người, sức của
cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đề
phòng để đánh bại địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng “Chiến tranh
cục bộ” ra cả nước
- Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: Trong cuộc
chiến tranh chống Mỹ, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương
lớn.Do đó, phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền
Bắc về moi mặt nhằm bảo đảm chi viện đắc lực cho miền Nam càng đánh càng
mạnh

* Mở rộng “Chuyển hướng tư tưởng”:

Làm cho toàn Đảng, toàn dân hiểu rõ những vấn đề sau:

- Sự chuyển biến của tình hình, miền Bắc không còn ở trong thời kỳ xây
dựng hoà bình nữa, mà đã bắt đầu ở vào thời chiến.

- So sánh lực lượng giữa ta và địch. Nhấn mạnh những thuận lợi của ta và
thất bại nghiêm trọng của Mỹ, cho nên ta nhất định sẽ thắng, Mỹ nhất định sẽ
thất bại hoàn toàn.

- Giải phóng miền Nam là trách nhiệm chung của nhân dân cả nước và cả
nước đều phải tham gia đánh giặc. Cần phải xác định rõ “Miền Bắc dù có bị
ném bom bắn phá đến đâu cũng phải vào giải phóng miền Nam mà không chút
nao núng, nâng cao chí khí căm thù và quyết tâm thắng địch”. Phải đẩy mạnh
phong trào “ba sẵn sàng” với nội dung và yêu cầu mới. Cần phải xây dựng tác
phong tích cực, khẩn trương của thời chiến.

Phải ra sức xây dựng tư tưởng phấn khởi và tin tưởng, quyết chiến quyết
thắng đế quốc Mỹ và tay sai, tư tưởng sẵn sàng chiến đấu và công tác ở bất cứ
nơi nào theo tiếng gọi của Đảng và của Tổ quốc; tư tưởng sẵn sàng đánh bại
bất cứ loại chiến tranh nào của địch, sẵn sàng khắc phục mọi khó khăn gian
khổ, sẵn sàng chiến đấu lâu dài chống Mỹ với tinh thần tự lực cánh sinh cao;
chống tư
tưởng sợ Mỹ, đánh giá địch quá cao, hoặc chủ quan khinh địch; tư
tưởng hoang mang, dao động, cầu an; tư tưởng muốn đàm phán khi chưa có
điều kiện có lợi, muốn kết thúc chiến tranh với bất cứ giá nào; tư tưởng ỷ lại
vào sự giúp đỡ của nước ngoài và không tin vào sức mình.

Như vậy, “chuyển hướng tư tưởng” ở đây có thể hiểu một cách ngắn gọn
là: chuyển từ nội dung và phương pháp tư tưởng ở thời bình sang nội dung và
phương pháp tư tưởng ở thời chiến, trong đó bao gồm những nội dung cụ thể
là:

- Đế quốc Mỹ dù có mạnh đến mấy chúng ta cũng nhất định thắng.

- Miền Bắc dù có bị bắn phá đến đâu cũng phải quyết tâm cùng miền
Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Như vậy, chủ trương “chuyển hướng tư tưởng” ở miền Bắc được Đảng
ta xác định từ Hội nghị Trung Ương lần thứ 11 (3-1965) và tiếp tục được khẳng
định, bổ sung, cụ thể hoá ở Hội nghị Trung Ương lần thứ 12 (12-1965) cùng các
chỉ thị, nghị quyết sau đó của Trung Ương về công tác tư tưởng. Đó là một chủ
trương đúng đắn và có ý nghĩa to lớn trong việc chỉ đạo công tác tuyên truyền,
cổ động của Đảng ở miền Bắc thời gian này. Từ chủ trương này, những vấn đề
căn bản nhất của công tác tư tưởng nói chung, công tác tuyên truyền, cổ động
nói riêng được xác định kịp thời và chính xác. Nhờ đó, công tác tuyên truyền, cổ
động chính trị của Đảng ở miền Bắc được triển khai mạnh mẽ, rầm rộ và liên
tục trong suốt những năm ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, góp phần to lớn vào việc động viên, cổ vũ tinh thần chiến đấu và sản
xuất của nhân dân miền Bắc, biến sức mạnh tinh thần đó thành sức mạnh vật
chất vượt qua mọi gian nan, thử thách, giành thắng lợi cuối cùng trong cuộc
chiến đấu không cân sức giữa dân tộc ta và đế quốc Mỹ. Chuyển hướng tư
tưởng của Đảng ở miền Bắc những năm 65-75 là một bài học vô cùng quý giá.

Ý nghĩa của đường lối:


- Thể hiện quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, tinh thần cách mạng tiến
công, tinh thần độc lập tự chủ, sự kiên trì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc, phản ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng chung của toàn Đảng,
toàn quân và toàn dân ta
- Thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến
lược cách mạng trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh ở mức độ khác nhau,
phù hợp với thực tế đất nước và bối cảnh quốc tế

Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa
vào sức mình là chính được phát triển trong hoàn cảnh mới, tạo nên sức mạnh
mới để dân tộc ta đủ sức đánh thắng giặc Mỹ xâm lược
III. Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh
nghiệm
1. Kết quả và ý nghĩa lịch sử

a) Kết quả
Ở miền Bắc, Một chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa bước đầu
được hình thành.Văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục không những được duy trì mà
còn có sự phát triển mạnh. Sản xuất nông nghiệp phát triển, công nghiệp địa
phương được tăng cường. Quân dân miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá
hoại của đế quốc Mỹ.
Ở miền Nam, Trong giai đoạn 1954 – 1960, đánh bại chiến lược chiến
tranh đơn phương của Mỹ - ngụy, đưa cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang
thế
tiến công. Trong giai đoạn 1961 – 1965, giữ vững và phát triển tiến
thế
công, đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Giai đoạn 1965 – 1968,
đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ Mỹ
của Mỹ và chư hầu, buộc
phải
xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Paris. Giai
đoạn 1969 – 1975 đánh bại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ và tay
sai mà đỉnh cao là Đại thắng mùa xuân 1975 với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử,
đập tan toàn bộ chính quyền địch, buộc chúng phải tuyên bố đầu hàng không
điều kiện, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

b) Ý nghĩa lịch sử
Ý nghĩa lịch sử đối với nước ta:
- Kết thúc thắng lợi 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược (tính
từ năm 1954), 30 năm chiến tranh cách mạng (tính từ 1945), 115 năm chống đế
quốc thực dân phương Tây (tính từ 1858), quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ
cõi, giải phóng miền Nam; đưa lại độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ cho
đất nước.
- Hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước. Mở
ra kỷ nguyên mới cho dân tộc ta, kỷ nguyên cả nước hòa bình, thống nhất, cùng
chung một nhiệm vụ chiến lược là đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh thần, thế và lực cho cách mạng và
dân tộc Việt Nam, để lại niềm tự hào sâu sắc và những kinh nghiệm quý báu
cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước giai đoạn sau.
- Góp phần quan trọng vào việc nâng cao uy tín của Đảng và dân tộc Việt
Nam trên trường quốc tế.
Ý nghĩa đối với cách mạng thế giới:
- Đập tan cuộc phản kích lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc vào chủ nghĩa
xã hội và cách mạng thế giới kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, bảo vệ
vững chắc tiền đồn phía Đông Nam Á của chủ nghĩa xã hội.
- Làm phá sản các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, gây
tổn thất to lớn và tác động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ trước mắt và lâu dài.
- Góp phần làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan
trọng của chúng ở khu vưc Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ không thể tránh khỏi
của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì mục tiêu
đôc lập dân tộc, dân chủ, tự do và hòa bình phát triển của nhân dân thế giới

2. Nguyên nhân thắng lợi và những bài học kinh nghiệm trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
a) Nguyên nhân thắng lợi
Nguyên nhân thứ nhất: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam là nhân tố
quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
Nguyên nhân thứ hai: Nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân đã phát
huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một lòng đi theo
Đảng, đi theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ, lao động quên
mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH và vì quyền con người.
Nguyên nhân thứ ba: Cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động,
trên dưới một lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược.
Nguyên nhân thứ tư: Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của
thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Nguyên nhân thứ năm: Đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và
nhân dân Campuchia; đoàn kết quốc tế.

b) Những bài học kinh nghiệm trong cuộc kháng chiến chồng Mỹ cứu
nướ
c
lược. Một là, kiên định tâm
quyết quyế
t đánh, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm
Quyết đánh, quyết thắng đế
quốc Mỹ xâm lược là quyết tâm lớn của Đảng,
cũng là quyết tâm của toàn quân, toàn dân, của cả nước Việt nam. Đó là một
quyết tâm vĩ đại được khẳng định từ đầu và luôn luôn kiên định trong suốt cuộc
kháng chiến chống Mỹ.

Hai là, đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn, sáng tạo,
độc lập, tự chủ.

Đại hội lần thứ IV của Đảng đã khẳng định: “Thắng lợi vĩ đại của sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trước hết là thắng lợi của đường
lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ đúng đắn và sáng tạo của Đảng
ta”. Đường lối đó được thể hiện trong một loạt chủ trương mang tính hệ thống,
kết hợp những vấn đề về nguyên tắc, chiến lược với những vấn đề về sách
lược và phương pháp, hình thành một giải pháp tối ưu đưa cách mạng và kháng
chiến tiến lên một cách vững chắc, từ giai đoạn mở đầu đến giai đoạn kết thúc.
Nó tạo nên sức chiến đấu to lớn của cả nước, của toàn dân tộc, đồng thời tranh
thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ sâu rộng và mạnh mẽ nhất của thế giới trong điều
kiện quốc tế rất phức tạp, bảo đảm cho quân và dân ta đánh thắng từng bước,
tiến lên đánh thắng hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.

Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của chiến
lược giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng XHCN ở miền Bắc,
kết hợp chặt chẽ hai nhiệm đó với nhau nhằm thực hiện một mục tiêu
vụ
chung: Hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực
hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên XHCN.
Đường lối đó chỉ ra phương hướng giải quyết đúng đắn các mối quan hệ
giữa dân tộc và giai cấp, giữa chống đế quốc và phong kiến, giữa nhiệm vụ giải
phóng đất nước với xây dựng đất nước, giữa cách mạng nước ta với cách mạng
thế giới, giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế.

Ba là, nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân sáng tạo

Đó là nghệ thuật động viên, tổ chức toàn dân, cả nước tiến hành chiến
tranh với hai lực lượng quân sự và chính trị, hai hình thức đấu tranh vũ trang và
đấu tranh chính trị, chiến tranh cách mạng và khởi nghĩa của quần chúng, tiến
công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công trong đó đòn tiến công quân sự có ý nghĩa
quyết định, làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ.

Đó là xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, một thế trận rất hiểm hóc,
ngày càng hoàn chỉnh và vững chắc. Thế trận đó được xây dựng bằng lực lượng
chính trị và lực lượng vũ trang nhân dân trên ba vùng chiến lược (đồng bằng,
rừng núi và đô thị), kết hợp chặt chẽ để tiến công địch, tạo nên thế trận liên
hoàn trên toàn miền Nam, nối liền với miền Bắc, cùng với hai nước anh em Lào
và Campuchia dựng lên thế trận liên hoàn giữa 3 nước.

Đó là nghệ thuật tiến công kiên quyết, tích cực, chủ động, cơ động, linh
hoạt, kết hợp chặt chẽ ba mặt trận: đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao
với hình thức phong phú đa dạng. Kết hợp chiến đấu với sản xuất và không
ngừng ổn định đời sống nhân dân trong chiến tranh.

Bốn là, tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, công tác tổ chức đã được triển
khai với quy mô rộng lớn chưa từng có trong lịch sử chiến tranh nước ta. Đó là
công tác xây dựng, phát triển lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, đó còn là
hình thức và phương thức xây dựng các tổ chức Đảng, chính quyền, quần chúng
ở cả hai miền Nam, Bắc; tổ chức hậu phương lớn, tổ chức các căn cứ kháng
chiến tại chỗ ở miền Nam; tổ chức chiến trường…

Năm là, xây dựng căn cứ địa cách mạng, hậu phương kháng chiến vững
chắc, phát huy vai trò của hậu phương lớn và hậu phương tại chỗ.

Đảng ta sớm xác định miền Bắc là nền tảng cho lực lượng cách mạng cả
nước, xây dựng miền Bắc tiến lên CNXH là xây dựng căn cứ địa cách mạng cho
cả nước.

Đảng ta còn chăm lo xây dựng và mở rộng những vùng căn cứ, vùng giải
phóng ngay tại chiến trường làm hậu phương tại chỗ.

Chú trọng xây dựng tuyến đường giao thông, vận chuyển chiến lược
thông suốt, chi viện từ hậu phương lớn miền Bắc vào tiền tuyến lớn miền Nam
cũng như đường vận chuyển chiến lược giữa Việt Nam, Lào, Campuchia.
Tuyến vận tải 559 – đường Trường Sơn – đường Hồ Chí Minh là biểu tượng ý
chí và nghị lực lớn lao của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta “xẻ dọc Trường
Sơn đi cứu nước”.

Sáu là, phát huy sức mạnh đoàn kết chiến đấu của ba dân tộc Việt Nam,
Lào, Campuchia để cùng nhau đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

Bảy là, đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh của thời đại gắn với sức
mạnh dân tộc

Tám là, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người


Đảng ta đặt trọng tâm trước hết vào việc xây dựng nhân tố chính trị tinh
thần cho con người; xác định lập trường kiên quyết kháng chiến, quyết tâm
đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Từ đó, động viên được ý chí chiến đấu,
năng lực sáng tạo và nỗ lực phi thường của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân làm
nên chiến thắng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam, NXB
Chính trị Quốc gia (2009)
2. Website: http://kenhdaihoc.com
3. Báo điện tử: Đảng Cộng Sản Việt Nam (dangcongsan.vn)
4. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (hỏi đáp), Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia (1996).
5. Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975
(Tập 1, 2 , 3, 4),
NXB Chính trị Quốc gia (Bản online)
6. Website: www.lichsuvietnam.vn
7. Website: tailieuphothong.blogspot.com
8. Cùng một số tài liệu khác.
XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN!

You might also like