Professional Documents
Culture Documents
Tailieuxanh 09200049 4836
Tailieuxanh 09200049 4836
BÀI GIẢNG
NĂNG LƯỢNG & MÔI TRƯỜNG
Dầu mỏ hay dầu thô là một chất lỏng sánh đặc màu nâu hoặc ngả lục. Dầu thô
tồn tại trong các lớp đất đá tại một số nơi trong vỏ Trái đất. Dầu mỏ là một hỗn hợp
hóa chất hữu cơ ở thể lỏng đậm đặc, phần lớn là những hợp chất của hydrocacbon
thuộc gốc alkan, thành phần rất đa dạng. Hiện nay dầu mỏ chủ yếu dùng để sản xuất
dầu hỏa, diezen và xăng nhiên liệu. Ngoài ra, dầu thô cũng là nguồn nguyên liệu chủ
yếu để sản xuất ra các sản phẩm của ngành hóa dầu như dung môi, phân bón hóa
học, nhựa, thuốc trừ sâu, nhựa đường... Khoảng 88% dầu thô dùng để sản xuất nhiên
liệu, 12% còn lại dùng cho hóa dầu. Do dầu thô là nguồn năng lượng không tái tạo
nên nhiều người lo ngại về khả năng cạn kiệt dầu trong một tương lai không xa.
Tùy theo nguồn tính toán, trữ lượng dầu mỏ thế giới nằm trong khoảng từ
1.148 tỉ thùng (barrel) (theo BP Statistical Review 2004 đến 1.260 tỉ thùng (theo
Oeldorado 2004 của ExxonMobil). Trữ lượng dầu mỏ tìm thấy và có khả năng khai
thác mang lại hiệu quả kinh tế với kỹ thuật hiện tại đã tăng lên trong những năm gần
đây và đạt mức cao nhất vào năm 2003. Người ta dự đoán rằng trữ lượng dầu mỏ sẽ
đủ dùng cho 50 năm nữa. Năm 2003 trữ lượng dầu mỏ nhiều nhất là ở Ả Rập Saudi
(262,7 tỉ thùng), Iran (130,7 tỉ thùng) và ở Iraq (115,0 tỉ thùng) kế đến là ở Các Tiểu
Vương quốc Ả Rập Thống nhất, Kuwait và Venezuela. Nước khai thác dầu nhiều
nhất thế giới trong năm 2003 là Ả Rập Saudi (496,8 triệu tấn), Nga (420 triệu tấn),
Mỹ (349,4 triệu tấn), Mexico (187,8 triệu tấn) và Iran (181,7 triệu tấn). Việt Nam
được xếp vào các nước xuất khẩu dầu mỏ từ năm 1991 khi sản lượng xuất được vài
ba triệu tấn. Đến nay, sản lượng dầu khí khai thác và xuất khẩu hàng năm đạt vào
khoảng 20 triệu tấn/năm.
Việc sử dụng dầu mỏ đã và đang có những tác động xấu đến môi trường: dầu
mỏ bị tràn ra biển gây ô nhiễm môi trường , ảnh hưởng đời sống sinh vật biển . Dầu
mỏ đem đốt cũng gây ra ô nhiễm vì sinh ra nhiều khí như SO2 , CO2 . Xe cộ , máy
móc ... chạy bằng xăng góp phần làm Trái Đất nóng lên .
Than đá.
Than đá là một loại nhiên liệu hóa thạch được hình thành ở các hệ sinh thái
đầm lầy nơi xác thực vật được nước và bùn lưu giữ không bị ôxi hóa và phân hủy bở
sinh vật (biodegradation). Thành phần chính của than đá là cacbon, ngoài ra còn có
các nguyên tố khác như lưu huỳnh. Than đá, là sản phẩm của quá trình biến chất, là
các lớp đá có màu đen hoặc đen nâu có thể đốt cháy được. Than đá là nguồn nhiên
liệu sản xuất điện năng lớn nhất thế giới, cũng như là nguồn thải khí carbon dioxide
lớn nhất, được xem là nguyên nhân hàng đầu gây nên hiện tượng nóng lên toàn cầu.
Than đá được khai thác từ các mỏ than lộ thiên hoặc dưới lòng đất (hầm lò).
Than đá sử dụng nhiều trong sản xuất và đời sống. Trước đây, than dùng làm
nhiên liệu cho máy hơi nước , đầu máy xe lửa . Sau đó , than làm nhiên liệu cho nhà
máy nhiệt điện , ngành luyện kim . Gần đây than còn dùng cho ngành hóa học tạo ra
các sản phẩm như dược phẩm , chất dẻo , sợi nhân tạo . Than chì dùng làm điện cực
Than có tính chất hấp thụ các chất độc vì thế người ta gọi là than hấp thụ hoặc là
than hoạt tính có khả năng giữ trên bề mặt các chất khí , chất hơi , chất tan trong
dung dịch . Dùng nhiều trong việc máy lọc nước , làm trắng đường , mặt nạ phòng
độc ....
Trữ lượng than của cả thế giới vẫn còn cao so với các nguyên liệu năng lượng khác (
dầu mỏ , khí đốt ... ) . Được khai thác nhiều nhất ở Bắc bán cầu , trong đó 4/5 thuộc
các nước sau : Hoa Kì , Nga , Trung Quốc , Ấn Độ , Úc , Đức , Ba Lan , Canada ... ,
sản lượng than khai thác là 5 tỉ tấn/năm
Tại Việt Nam , có rất nhiều mỏ than tập trung nhiều nhất ở các tỉnh phía Bắc
nhất là tỉnh Quảng Ninh , mỗi năm khai thác khoảng 15 đến 20 triệu tấn. Than được
khai thác lộ thiên là chính còn lại là khai thác hầm lò
Cũng như dầu mỏ, việc sử dụng than đá đã và đang tạo ra nhiều tác động có
hại đến môi trường: việc khai thác than tạo ra khói bụi, nước thải xử lý chế biến than
làm ảnh hưởng môi trường nước. Việc sử dụng các công nghệ khí hóa than cũng như
sử dụng than làm nhiên liệu tạo ra nhiều khí CO, CO2, SO2,... ảnh hưởng đến môi
trường không khí.
1.2.2. Các dạng năng lượng tái tạo.
Năng lượng tái tạo có tiềm năng thay thế các nguồn năng lượng hóa thạch và
năng lượng nguyên tử. Trên lý thuyết, chỉ với một hiệu suất chuyển đổi là 10% và
trên một diện tích 700 x 700 km ở sa mạc Sahara thì đã có thể đáp ứng được nhu cầu
năng lượng trên toàn thế giới bằng cách sử dụng năng lượng mặt trời.
Trong các mô hình tính toán trên lý thuyết người ta cũng đã cố gắng chứng
minh là với trình độ công nghệ ngày nay, mặc dầu là bị thất thoát công suất và nhu
cầu năng lượng ngày một tăng, vẫn có thể đáp ứng được toàn bộ nhu cầu về năng
lượng điện của châu Âu bằng các tuốc bin gió dọc theo bờ biển phía Tây châu Phi
hay là bằng các tuốc bin gió được lắp đặt ngoài biển (off-shore). Sử dụng một cách
triệt để các thiết bị cung cấp nhiệt từ năng lượng mặt trời cũng có thể đáp ứng nhu
cầu nước nóng.
Với điều kiện địa lý và khí hậu thuận lợi, Việt Nam là nước có nguồn NLTT
khá lớn và đa dạng, phân luồng trên nhiều vùng sinh thái khác nhau, có thể khai thác
để đáp ứng một phần nhu cầu năng lượng, điện năng tại chỗ cho miền núi, hải đảo,
nông thôn, thành thị cũng như nối lưới điện quốc gia.
Việt Nam có thể phát triển mạnh nguồn NLTT, đó là thủy điện nhỏ, gió, mặt
trời và sinh khối. Trong đó, thủy điện nhỏ có sức cạnh tranh so với các nguồn năng
lượng khác, ước tính Việt Nam có khoảng 480 trạm thủy điện nhỏ với tổng công
suất lắp đặt là 300MW, phục vụ hơn 1 triệu người tại 20 tỉnh.
Các đề tài nghiên cứu đang được tiến hành cho thấy Việt Nam có thể phát
triển mạnh nguồn năng lượng tái tạo, đó là thuỷ điện nhỏ, gió, mặt trời và sinh khối
(biomass). Từ lâu, thuỷ điện nhỏ đã được sử dụng ở Việt Nam nhằm giải quyết nhu
cầu năng lượng ở quy mô gia đình và cộng đồng nhỏ, chủ yếu là vùng trung du miền
núi. Thuỷ điện nhỏ có sức cạnh tranh so với các nguồn năng lượng khác do điện từ
đó có giá thành cạnh tranh, trung bình khoảng 4 cent (600 đồng)/KWh. Ước tính
Việt Nam có khoảng 480 trạm thuỷ điện nhỏ với tổng công suất lắp đặt là 300MW,
phục vụ hơn 1 triệu người tại 20 tỉnh. Trong số 113 trạm thuỷ điện nhỏ, công suất từ
100KW-10MW, chỉ còn 44 trạm đang hoạt động. Con số 300MW quả là quá nhỏ bé
so với tiềm năng của thuỷ điện nhỏ ở Việt Nam là 2.000MW, tương đương với công
suất của nhà máy thuỷ điện Hoà Bình.
Còn về điện mặt trời, Việt Nam đã phát triển nguồn năng lượng này từ những
năm 1960 song cho tới nay vẫn chưa được ứng dụng rộng rãi. Theo ý kiến của nhiều
chuyên gia, nên phát động phong trào sử dụng loại hình năng lượng này ở thành phố
nhằm tiết kiệm điện. Bức xạ nắng mặt trời sau khi đi qua tấm kính có thể đun nóng
nước tới 80oC và nước được nối qua bình nóng lạnh để tắm rửa hoặc đun nấu. Với
một bể 500 lít nước nóng/ngày, một hộ gia đình cần đầu tư 3 triệu đồng để mua thiết
bị và 3 năm sẽ thu hồi được vốn.
Một loại NLTT nữa là gió. Mặc dù Việt Nam không có nhiều tiềm năng gió
như các nước châu Âu, song so với khu vực Đông Nam Á thì lại có tiềm năng lớn.
Tuy nhiên tốc độ gió ở Việt Nam không cao, phân bố mật độ năng lượng vào
khoảng 800 -1.400 kWh/m2/năm tại các hải đảo, 500-1.000 kWh/m2/năm tại vùng
duyên hải và Tây Nguyên, các khu vực khác dưới 500kWh/m2/năm.
Ngoài phong điện, tiềm năng sinh khối trong phát triển năng lượng bền vững
ở Việt Nam cũng khá lớn. Nguồn sinh khối chủ yếu ở Việt Nam là trấu, bã mía, sắn,
ngô, quả có dầu, gỗ, phân động vật, rác sinh học đô thị và phụ phẩm nông nghiệp.
Trong đó, tiềm năng sinh khối từ mía, bã mía là 200-250MW, trong khi trấu có tiềm
năng tối đa là 100MW. Hiện cả nước có khoảng 43 nhà máy mía đường, trong đó
33 nhà máy sử dụng hệ thống đồng phát nhiệt điện bằng bã mía với tổng công suất
lắp đặt 130MW.
Mặc dù có nhiều nỗ lực trong việc thúc đẩy nguồn NLTT nhưng cho đến nay
số dự án NLTT thực hiện ở Việt Nam còn rất “khiêm tốn”. Theo nhiều chuyên gia,
mức độ giảm tỷ trọng trên sẽ còn tiếp diễn trong những năm tới bởi Việt Nam hiện
vẫn chưa có kế hoạch tổng thể về vấn đề này.
Kinh nghiệm thế giới cho thấy, một trong những phương cách đầy triển vọng
có thể giải quyết được những nhiệm vụ của chiến lược phát triển bền vững là thiết
lập cơ chế hữu hiệu, khuyến khích sử dụng các nguồn NLTT. Cơ chế này được hình
thành ở các nước công nghiệp phát triển vào những năm 1970. Chính phủ các nước
phải can thiệp vào ngành năng lượng mạnh hơn về phương diện đa dạng hóa nguồn
cung cấp năng lượng và nâng cao tính tự chủ về năng lượng cũng như về kiểm soát
sự tiêu thụ. Chính trong giai đoạn đó, NLTT bắt đầu được sử dụng tích cực hơn. Các
nhà sản xuất và người tiêu thụ năng lượng “sạch” được Nhà nước dành cho những
ưu đãi như: tài trợ và cấp tín dụng với mức lãi suất thấp, bảo lãnh tiền vay ngân
hàng, xác lập giá cố định mua điện năng được sản xuất bằng NLTT, cấp tài chính
cho các công tác nghiên cứu và triển khai trong lĩnh vực năng lượng phi truyền
thống…
Hiện nhiều nước trên thế giới có biện pháp trợ giúp hữu hiệu của Nhà nước
đối với ngành năng lượng phi truyền thống là các hợp đồng dài hạn (từ 15 tới 30
năm) mua điện theo giá cố định (thường cao hơn giá thị trường) của các công ty nhỏ
sản xuất điện năng bằng các nguồn NLTT.
Tại Mỹ, năm 1992 nước này đã thông qua Luật về chính sách năng lượng,
trong đó quy định ưu đãi thuế cố định là 10% đối với vốn đầu tư cho thiết bị sử dụng
năng lượng mặt trời và địa nhiệt. Bằng cách đó đã tạo được cơ sở để các nhà máy
điện sử dụng năng lượng truyền thống và các nguồn NLTT cạnh tranh với nhau, còn
các nhà đầu tư có đủ cơ sở để thu được lợi nhuận do sử dụng NLTT. Trong những
năm gần đây, chương trình “Gió cung cấp năng lượng cho Mỹ” đã được đưa vào
thực hiện với nguồn trợ cấp hàng năm của Bộ Năng lượng Mỹ là 33 triệu USD. Mỹ
còn là một trong những quốc gia dẫn đầu trong lĩnh vực sử dụng năng lượng mặt trời
với mục đích thương mại. Trong 20 năm qua, Mỹ đã chi hơn 1,4 tỷ USD cho việc
nghiên cứu triển khai các công nghệ sử dụng năng lượng mặt trời để sản xuất điện.
Hiện nay trên 10.000 ngôi nhà ở Mỹ sử dụng hoàn toàn năng lượng mặt trời.
1.3. Phân loại các nguồn NLTT
1.3.1. Nguồn gốc từ bức xạ mặt trời
Khoa Công nghệ Hóa học & Môi trường 6
Bài giảng Năng lượng & Môi trường
Năng lượng Mặt Trời thu được trên Trái Đất là năng lượng của dòng bức xạ
điện từ xuất phát từ Mặt Trời đến Trái Đất. Chúng ta sẽ tiếp tục nhận được dòng
năng lượng này cho đến khi phản ứng hạt nhân trên Mặt Trời hết nhiên liệu, vào
khoảng 5 tỷ năm nữa.Có thể trực tiếp thu lấy năng lượng này thông qua hiệu ứng
quang điện, chuyển năng lượng các photon của Mặt Trời thành điện năng, như trong
pin Mặt Trời. Năng lượng của các photon cũng có thể được hấp thụ để làm nóng các
vật thể, tức là chuyển thành nhiệt năng, sử dụng cho bình đun nước Mặt Trời, hoặc
làm sôi nước trong các máy nhiệt điện của tháp Mặt Trời, hoặc vận động các hệ
thống nhiệt như máy điều hòa Mặt Trời.Năng lượng của các photon có thể được hấp
thụ và chuyển hóa thành năng lượng trong các liên kết hóa học của các phản ứng
quang hóa.Một phản ứng quang hóa tự nhiên là quá trình quang hợp. Quá trình này
được cho là đã từng dự trữ năng lượng Mặt Trời vào các nguồn nhiên liệu hóa thạch
không tái sinh mà các nền công nghiệp của thế kỷ 19 đến 21 đã và đang tận dụng.
Nó cũng là quá trình cung cấp năng lượng cho mọi hoạt động sinh học tự nhiên, cho
sức kéo gia súc và củi đốt, những nguồn năng lượng sinh học tái tạo truyền thống.
Trong tương lai, quá trình này có thể giúp tạo ra nguồn năng lượng tái tạo ở nhiên
liệu sinh học, như các nhiên liệu lỏng (diesel sinh học, nhiên liệu từ dầu thực vật),
khí (khí đốt sinh học) hay rắn.
Năng lượng Mặt Trời cũng được hấp thụ bởi thủy quyển Trái Đất và khí
quyển Trái Đất để sinh ra các hiện tượng khí tượng học chứa các dạng dự trữ năng
lượng có thể khai thác được. Trái Đất, trong mô hình năng lượng này, gần giống
bình đun nước của những động cơ nhiệt đầu tiên, chuyển hóa nhiệt năng hấp thụ từ
photon của Mặt Trời, thành động năng của các dòng chảy của nước, hơi nước và
không khí, và thay đổi tính chất hóa học và vật lý của các dòng chảy này.
Thế năng của nước mưa có thể được dự trữ tại các đập nước và chạy máy
phát điện của các công trình thủy điện. Một dạng tận dụng năng lượng dòng chảy
sông suối có trước khi thủy điện ra đời là cối xay nước. Dòng chảy của biển cũng có
thể làm chuyển động máy phát của nhà máy điện dùng dòng chảy của biển.
Dòng chảy của không khí, hay gió, có thể sinh ra điện khi làm quay tuốc bin gió.
Trước khi máy phát điện dùng năng lượng gió ra đời, cối xay gió đã được ứng dụng
để xay ngũ cốc. Năng lượng gió cũng gây ra chuyển động sóng trên mặt biển.
Chuyển động này có thể được tận dụng trong các nhà máy điện dùng sóng biển.
Đại dương trên Trái Đất có nhiệt dung riêng lớn hơn không khí và do đó thay đổi
nhiệt độ chậm hơn không khí khi hấp thụ cùng nhiệt lượng của Mặt Trời. Đại dương
nóng hơn không khí vào ban đêm và lạnh hơn không khí vào ban ngày. Sự chênh
lệch nhiệt độ này có thể được khai thác để chạy các động cơ nhiệt trong các nhà máy
điện dùng nhiệt lượng của biển.
Khi nhiệt năng hấp thụ từ photon của Mặt Trời làm bốc hơi nước biển, một phần
năng lượng đó đã được dự trữ trong việc tách muối ra khỏi nước mặn của biển. Nhà
máy điện dùng phản ứng nước ngọt - nước mặn thu lại phần năng lượng này khi đưa
nước ngọt của dòng sông trở về biển.
1.3.2. Nguồn gốc từ nhiệt năng trái đất
Nhiệt năng của Trái Đất, gọi là địa nhiệt, là năng lượng nhiệt mà Trái Đất có
được thông qua các phản ứng hạt nhân âm ỉ trong lòng. Nhiệt năng này làm nóng
chảy các lớp đất đá trong lòng Trái Đất, gây ra hiện tuợng di dời thềm lục địa và
sinh ra núi lửa. Các phản ứng hạt nhân trong lòng Trái Đất sẽ tắt dần và nhiệt độ
lòng Trái Đất sẽ nguội dần, nhanh hơn nhiều so với tuổi thọ của Mặt Trời.
Địa nhiệt dù sao vẫn có thể là nguồn năng lượng sản xuất công nghiệp quy mô vừa,
trong các lĩnh vực như:
- Nhà máy điện địa nhiệt
- Sưởi ấm địa nhiệt
1.3.3. Nguồn gốc từ hệ động năng trái đất - mặt trăng.
Trường hấp dẫn không đều trên bề mặt Trái Đất gây ra bởi Mặt Trăng, cộng
với trường lực quán tính ly tâm không đều tạo nên bề mặt hình elipsoit của thủy
quyển Trái Đất (và ở mức độ yếu hơn, của khí quyển Trái Đất và thạch quyển Trái
Đất). Hình elipsoit này cố định so với đường nối Mặt Trăng và Trái Đất, trong khi
Trái Đất tự quay quanh nó, dẫn đến mực nước biển trên một điểm của bề mặt Trái
Đất dâng lên hạ xuống trong ngày, tạo ra hiện tượng thủy triều.
Sự nâng hạ của nước biển có thể làm chuyển động các máy phát điện trong các nhà
máy điện thủy triều. Về lâu dài, hiện tượng thủy triều sẽ giảm dần mức độ, do tiêu
thụ dần động năng tự quay của Trái Đất, cho đến lúc Trái Đất luôn hướng một mặt
về phía Mặt Trăng. Thời gian kéo dài của hiện tượng thủy triều cũng nhỏ hơn so với
tuổi thọ của Mặt Trời.
1.3.4. Các nguồn NLTT nhỏ khác.
Ngoài các nguồn năng lượng nêu trên dành cho mức độ công nghiệp, còn có
các nguồn năng lượng tái tạo nhỏ dùng trong một số vật dụng:
- Một số đồng hồ đeo tay dự trữ năng lượng lắc lư của tay khi con người hoạt
động thành thế năng của lò xo, thông qua sự lúc lắc của một con quay. Năng lượng
này được dùng để làm chuyển động kim đồng hồ.
- Một số động cơ có rung động lớn được gắn tinh thể áp điện chuyển hóa biến
dạng cơ học thành điện năng, làm giảm rung động cho động cơ và tạo nguồn điện
phụ. Tinh thể này cũng có thể được gắn vào đế giầy, tận dụng chuyển động tự nhiên
của người để phát điện cho các thiết bị cá nhân nhỏ như PDA, điện thoại di động...
- Hiệu ứng điện động giúp tạo ra dòng điện từ vòi nước hay các nguồn nước
chảy, khi nước đi qua các kênh nhỏ xíu làm bằng vật liệu thích hợp.
- Các ăngten thu dao động điện từ (thường ở phổ radio) trong môi trường
sang năng lượng điện xoay chiều hay điện một chiều. Một số đèn nhấp nháy gắn vào
điện thoại di động thu năng lượng sóng vi ba phát ra từ điện thoại để phát sáng, hoạt
động theo cơ chế này.
1.4. Vai trò của năng lượng tái tạo
1.4.1. Về môi trường
Vấn đề biến đổi khí hậu
Việc sử dụng quá mức các nguồn năng lượng truyền thống đã và đang gây ra
các vấn đề nghiêm trọng về môi trường, đó là vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu.
Để ứng phó với biến đổi khí hậu, nhiều quốc gia đang nỗ lực tìm kiếm và sử
dụng hiệu quả các nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, giảm lượng khí thải
gây hiệu ứng nhà kính.
Báo cáo phát triển Thế giới do Ngân hàng Thế giới công bố mới đây cho biết ba yếu
tố chính khiến người dân ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương bị ảnh hưởng bởi
biến đổi khí hậu là: Lượng dân cư lớn sống dọc theo bờ biển và ở đảo thấp; một số
nước nghèo phụ thuộc vào nông nghiệp; các nền kinh tế khu vực phụ thuộc nhiều
vào nguồn thuỷ hải sản.
Việt Nam là một nước chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu và cũng đã
chủ động có kế hoạch hành động cùng cộng đồng quốc tế chống biến đổi khí hậu.
Theo Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Văn Đức, Việt Nam đã có
nhiều nỗ lực trong việc ứng dụng các công nghệ giảm carbon. Chương trình mục
tiêu quốc gia chống biến đổi khi hậu đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Kịch
bản nước biển dâng cũng đã được công bố dựa trên các cơ sở nghiên cứu thực tiễn.
Một số nước khác cũng đã giảm sự thâm dụng năng lượng, đầu tư vào năng lượng
tái tạo, tích cực bảo vệ rừng, xây dựng các đô thị thông minh với khí hậu.
Một số nước khác cũng đã giảm sự thâm dụng năng lượng, đầu tư vào năng lượng
tái tạo, tích cực bảo vệ rừng, xây dựng các đô thị thông minh với khí hậu.
Thái Lan đang theo đuổi con đường năng lượng tái tạo để cải thiện an ninh năng
lượng. Quốc gia này dự kiến tăng tỷ lệ tiêu thụ năng lượng tái tạo toàn quốc từ 1%
như hiện nay lên 20% vào năm 2020.Hay như Trung Quốc đang xây dựng các toà
nhà chọc trời ở thành phố Rizhao (tinhr Sơn Đông) có khả năng sử dụng năng lượng
mặt trời. 99% hộ dân của thành phố sẽ sử dụng hơn 500.000 m2 tấm đun nước nóng
bằng năng lượng mặt trời, giảm được một nửa phát thải cacbon.
Trên thực tế, vấn đề đặt ra là cần nâng cao nhận thức của cộng đồng, thuyết phục
cộng đồng đương đầu với sự thay đổi và nắm bắt các cơ hội để đạt được sự tăng
trưởng bền vững
Mới đây, tại Hội nghị về khí hậu do tạp chí The Economist, Viện nghiên cứu Trái
đất của Đại học Columbia và doanh nghiệp viễn thông Ericsson đồng tổ chức, Tổng
Thư ký Liên hợp quốc, tuyên bố: “Chúng ta đang sống trong một thế giới phát triển
nhanh, một thế giới phụ thuộc, tương trợ lẫn nhau”. Ông cũng nhấn mạnh tăng
trưởng xanh chính là con đường để giúp giải quyết các thách thức về khí hậu. “Điều
này có thể giúp chúng ta đạt được các nền tảng phục hồi bền vững và rộng mở”.
1.4.2. Về kinh tế xã hội
Nhu cầu sử dụng năng lượng trên Thế giới ngày càng tăng và việc lạm dụng
các nguồn năng lượng hóa thạch đã làm cho các nguồn năng lượng này ngày càng
trở nên cạng kiệt, đồng thời kéo theo đó là giá cả năng lượng leo thang. Do đó việc
sử dụng các nguồn NLTT sẽ góp phần giải quyết nhu cầu sử dụng năng lượng, giảm
chi phí cho việc sử dụng năng lượng, góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế, cải
thiện đời sống kinh tế và tinh thần của người dân ở những vùng sâu, vùng xa,...
1.4.3. Về an ninh quốc gia.
Hạn chế, tiến đến chấm dứt sự phụ vào năng lượng của nước ngoài, bảo đảm
an ninh năng lượng trong nước
1.4.4. Việc nghiên cứu và ứng dụng năng lượng mới và năng lượng tái tạo.
Đức hiện đang dẫn đầu thế giới về mức sử dụng nguồn năng lượng tái tạo và
có thể trở thành quốc gia đầu tiên của G20 từ bỏ các nguồn nhiên liệu từ dầu
mỏ. Đức hiện đang dẫn đầu thế giới về mức sử dụng nguồn năng lượng tái tạo và có
thể trở thành quốc gia đầu tiên của G20 từ bỏ các nguồn nhiên liệu từ dầu mỏ.
Theo nghiên cứu mang tên Cách mạng năng lượng: Hướng tới cung cấp năng
lượng tái tạo đầy đủ tại châu Âu (Energy (R)evolution: Towards a fully renewable
energy supply in the EU) của tổ chức Greenpeace và hội đồng Năng lượng tái tạo
châu Âu (EREC) công bố ngày 8.7, đến năm 2050, Liên minh châu Âu (EU) có thể
chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo gần như hoàn toàn.
Nghiên cứu cho biết 27 nước thành viên châu Âu có thể hướng tới loại bớt
năng lượng hóa thạch và hạt nhân để dần sử dụng các nguồn khác như năng lượng
gió, mặt trời, địa nhiệt và sinh khối (biomass). Cụ thể: vào năm 2050, 92% năng
lượng sử dụng và 97% lượng điện của châu Âu sẽ là năng lượng tái tạo; 8% số năng
lượng còn lại là dầu, chỉ được dùng trong hàng hải và hàng không, vốn là hai lĩnh
vực được xem là khó tìm nguồn năng lượng thay thế.
Mục tiêu trên có thể làm EU tiêu tốn trên 2.000 tỉ euro từ nay đến năm 2050,
đồng thời làm giá năng lượng trong khu vực này tăng cao trong ngắn và trung hạn.
Đầu tư cho năng năng lượng tái tạo từ 2007 đến 2030 có thể lên đến 30 tỉ euro/năm,
tương đương 80% tổng số đầu tư của EU.
Tuy nhiên Greenpeace và EREC khẳng định các kế hoạch năng lượng xanh
sẽ giúp châu Âu giảm gánh nặng 19 tỉ euro (24,05 tỉ USD) mỗi năm cho nhập khẩu
dầu và khí đốt. Tính tổng cộng đến năm 2050, EU có thể tiết kiệm 2650 tỉ euro chi
phí nhiên liệu. Ngoài ra, các dự án năng lượng xanh sẽ giải quyết việc làm cho
khoảng 1,2 triệu người lao động châu Âu vào năm 2030 và tạo ra 280.000 việc làm
mới từ năm 2020 đến 2030.
Việt Nam được đánh giá là nước có nguồn tài nguyên năng lượng tái tạo sạch
khá dồi dào, nhưng ứng dụng công nghệ năng lượng tái tạo vẫn ở bước đầu chập
chững và còn nhiều hạn chế. Theo “Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của
Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050” mục tiêu hướng tới của các
nguồn năng lượng mới và tái tạo vẫn còn ở mức khiêm tốn (đạt tỉ lệ khoảng 5% tổng
năng lượng thương mại sơ cấp đến năm 2010 và 11% vào năm 2050). Trong khi đó,
nhu cầu sử dụng năng lượng đang gia tăng ở mức chóng mặt ở Việt Nam.
Mặc dù chưa được đầu tư đúng mức nhưng năng lượng tái tạo hiện cũng đã
thu hút sự chú ý của một số cơ quan nghiên cứu trong nước. Thách thức chung của
các nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay là giá thành vật liệu cao, do đó, các sản phẩm
làm ra khó có thể cạnh tranh với hàng ngoại nhập và chủ yếu nghiên cứu ứng dụng
năng lượng thủy điện, năng lượng mặt trời, và năng lượng gió.
Khoa Công nghệ Hóa học & Môi trường 11
Bài giảng Năng lượng & Môi trường
lượng bức xạ chủ yếu của mặt trời là do phản ứng nhiệt hạch tổng hợp hạt nhân
Hydro, phản ứng này đưa đến sự tạo thành Hêli. Hạt nhân của Hydro có một hạt
mang điện dương là proton. Thông thường những hạt mang điện cùng dấu đẩy nhau,
nhưng ở nhiệt độ đủ cao chuyển đông của chúng sẽ nhanh tới mức chúng có thể tiến
gần tới nhau ở một khoảng cách mà ở đó có thể kết hợp với nhau dưới tác dụng của
các lực hút. Khi đó cứ 4 hạt nhân Hyđrô lại tạo ra một hạt nhân Hêli, 2 neutrino và
một lương bức xạ :
phóng ra một lượng năng lượng tương đương với tổng số điện năng sản xuất trong
một năm trên trái đất).
2.1.2. Khái quát về năng lượng bức xạ mặt trời
Trong toàn bộ bức xạ của mặt trời, bức xạ liên quan trực tiếp đến các phản ứng
hạt nhân xảy ra trong nhân mặt trời không quá 3%. Bức xạ ban đầu khi đi qua
5.105km chiều dày của lớp vật chất mặt trời bị biến đổi rất mạnh. Tất cả các dạng
của bức xạ điện từ đều có bản chất sóng và chúng khác nhau ở bước sóng. Bức xạ
là sóng ngắn nhất trong các sóng đó (hình 2) Từ tâm mặt trời đi ra do sự va chạm
hoặc tán xạ mà năng lượng của chúng giảm đi và bây giờ chúng ứng với bức xạ có
bước sóng dài. Như vậy bức xạ chuyển thành bức xạ Rơnghen có bước sóng dài
hơn. Gần đến bề mặt mặt trời nơi có nhiệt độ đủ thấp để có thể tồn tại vật chất trong
trạng thái nguyên tử và các cơ chế khác bắt đầu xảy ra.
Đặc trưng của bức xạ mặt trời truyền trong không gian bên ngoài mặt trời là
một phổ rộng trong đó cực đại của cường độ bức xạ nằm trong dải 0,1 – 10 m và
hầu như một nửa tổng năng lượng mặt trời tập trung trong khoảng bước sóng 0,38 –
0,78 m, đó là vùng nhìn thấy của phổ.
Trong đó:
β2
=
D-T
4
Do khoảng cách giữa trái đất và mặt trời thay đổi theo mùa trong năm nên
cũng thay đổi do đó q cũng thay đổi nhưng độ thay đổi này không lớn lắm nên có
thể xem như q = const và được gọi là hằng số mặt trời.
2.1.3. Quá trình truyền bức xạ mặt trời đến trái đất
Khi truyền qua lớp khí quyển bao bọc quanh trái đất các chùm tia bức xạ bị
hấp thụ và tán xạ bởi ôzôn, hơi nước và bụi trong khí quyển, chỉ một phần năng
lượng được truyền trực tiếp tới trái đất. Lúc đầu ôxy phân tử bình thường O 2 phân ly
thành ôxy nguyên tử O, để phá vỡ liên kết phân tử đó cần phải có các photon bước
sóng ngắn hơn 1,18 m, do đó các photon (coi bức xạ như các hạt rời rạc - photon)
có năng lượng như vậy bị hấp thụ hoàn toàn. Chỉ một phần các nguyên tử ôxy kết
hợp thành các phân tử, còn đại đa số các nguyên tử tương tác với phân tử ôxy khác
để tạo thành phân tử ôzôn O3. Ôzôn cũng hấp thụ các bức xạ tử ngoại nhưng với
mức độ thấp hơn so với ôxy. Dưới tác dụng của các photon với bước sóng ngắn hơn
0,32 m, sự phân tách O3 thành O2 và O xảy ra. Như vậy hầu như toàn bộ năng
lượng của bức xạ tử ngoại được sử dụng để duy trì quá trình phân ly và hợp nhất của
O, O2 và O3, đó là một quá trình ổn định. Do quá trình này, khi đi qua khí quyển bức
xạ tử ngoại biến đổi thành bức xạ với năng lượng nhỏ hơn.
Các bức xạ với bước sóng ứng với các vùng nhìn thấy và vùng hồng ngoại
của phổ tương tác với các phân tử khí và các hạt bụi của không khí nhưng không phá
vỡ các liên kết của chúng, khi đó các photon bị tán xạ khá đều theo mọi hướng và
một số photon quay trở lại không gian vũ trụ. Bức xạ chịu dạng tán xạ đó chủ yếu là
bức xạ có bước sóng ngắn nhất. Sau khi phản xạ từ các phần khác nhau của khí
quyển,
bức xạ tán xạ đi đến chúng ta mang theo màu xanh lam của bầu trời trong
sáng và có thể quan sát được ở những độ cao không lớn. Các giọt nước cũng tán xạ
rất mạnh bức xạ mặt trời. Khi đi qua lớp khí quyển, bức xạ mặt trời còn gặp một trở
ngại đáng kể nữa đó là sự hấp thụ của các phần tử hơi nước, khí cacbonic và các hợp
chất khác. Mức độ của sụ hấp thụ này phụ thuộc vào bước sóng, mạnh nhất là ở
khoảng giữa vùng hồng ngoại của phổ.
Hình 2.4. Quá trình truyền bức xạ mặt trời qua lớp khí quyển của trái đất
Phần năng lượng bức xạ mặt trời truyền tới bề mặt trái đất trong những ngày
quang mây ở thời điểm cao nhất vào khoảng 1000 W/m2. (Hình 4)
Yếu tố cơ bản xác định cường độ bức xạ mặt trời ở một thời điểm nào đó trên
trái đất là quãng đường nó đi qua. Sự mất mát năng lượng trên quãng đường đó gắn
liền với sự tán xạ, hấp thụ bức xạ và phụ thuộc vào thời gian trong ngày, mùa trong
năm và vị trí địa lý. Các mùa hình thành là do sự nghiêng của trục trái đất đối với
mặt phẳng quỹ đạo của nó quanh mặt trời gây ra (hình 5). Góc nghiêng vào khoảng
23,5o và thực tế xem như không đổi trong không gian. Sự định hướng như vậy của
trục trái đất trong chuyển động của nó đối với mặt trời gây ra những sự dao động
quan trọng về độ dài ngày và đêm trong năm.
Thêi gian ®Ó tr¸i ®Êt hoµn thµnh mét quü ®¹o chuyÓn ®éng lµ mét n¨m.
T¹i mét vÞ trÝ nhÊt ®Þnh trªn quü ®¹o, phÇn b¸n cÇu nµo nghiªng vÒ phÝa mÆt
trêi sÏ nhËn ®-îc l-îng bøc x¹ trùc x¹ nhiÒu h¬n víi thêi gian chiÕu s¸ng dµi h¬n
trong mét ngµy so víi b¸n cÇu kia.
B¾c cùc
21/3
MÆt trêi
21/6 21/12
21/9
Hình 2.5. Trái đất trên quỹ đạo chuyeenrr động quanh mặt trời
Tõ mét vÞ trÝ quan s¸t trªn bÒ mÆt tr¸i ®Êt, sù thay ®æi cña vÞ trÝ mÆt trêi
theo thêi gian trong n¨m ®-îc minh häa nh- trªn h×nh 5. Vµo ngµy 22 th¸ng 6 mÆt
trêi ë vÞ trÝ gÇn b¸n cÇu b¾c nhÊt vµ ®i qua ®Ønh ®Çu vµo lóc gi÷a tr-a t¹i chÝ
tuyÕn b¾c (vÜ tuyÕn 23,50N). KÕt qu¶ lµ b¾c b¸n cÇu nhËn ®-îc ¸nh s¸ng mÆt
trêi nhiÒu nhÊt vµo ngµy nµy trong n¨m. Khi tr¸i ®Êt tiÕp tôc quay theo quü ®¹o
cña nã, mÆt trêi sÏ chuyÓn dÞch t-¬ng ®èi vÒ phÝa nam b¸n cÇu lµm thêi gian
®-îc chiÕu s¸ng ë phÝa nam b¸n cÇu trong mét ngµy dµi h¬n so víi b¾c b¸n cÇu.
Vµo ngµy 22 th¸ng 9 mÆt trêi trùc tiÕp ®i qua thiªn ®Ønh t¹i xÝch ®¹o nªn c¶ hai
b¸n cÇu ®Òu nhËn ®-îc ¸nh s¸ng mÆt trêi nh- nhau trong mét ngµy. Sau khi tiÕp
tôc di chuyÓn t-¬ng ®èi vÒ phÝa nam cho ®Õn khi ®i qua thiªn ®Ønh t¹i chÝ
Khoa Công nghệ Hóa học & Môi trường 17
Bài giảng Năng lượng & Môi trường
tuyÕn nam (vÜ ®é 23,50S) vµo ngµy 22 th¸ng 12. Trong ngµy nµy b¸n cÇu b¾c cã
thêi gian chiÕu s¸ng Ýt nhÊt vµ b¸n cÇu nam cã thêi gian chiÕu s¸ng dµi nhÊt. Sau
khi ®¹t tíi vÞ trÝ thiªn ®Ønh ë nam chÝ tuyÕn, mÆt trêi l¹i di chuyÓn t-¬ng ®èi
vÒ phÝa b¾c b¸n cÇu vµ ®i ngang qua xÝch ®¹o lÇn n÷a vµo ngµy 21 th¸ng 3 råi
l¹i ®èi diÖn trùc tiÕp víi trÝ tuyÕn b¾c vµo ngµy 22 th¸ng 6 hoµn thµnh mét chu
kú chuyÓn ®éng cña tr¸i ®Êt quanh mÆt trêi trong thêi gian mét n¨m
C-êng ®é bøc x¹ mÆt trêi phô thuéc vµo kho¶ng c¸ch t-¬ng ®èi gi÷a mÆt trêi
vµ víi ®iÓm quan s¸t trªn tr¸i ®Êt. Trong mét ngµy, kho¶ng c¸ch nµy sÏ gi¶m dÇn
tõ khi mÆt trêi mäc ®Õn khi ®¹t ®-îc gi¸ trÞ thÊp nhÊt vµo gi÷a tr-a khi mÆt trêi
ë trªn ®Ønh ®Çu, sau ®ã l¹i t¨ng dÇn cho tíi khi mÆt trêi lÆn. Nh- vËy c-êng ®é
bøc x¹ t-¬ng øng sÏ t¨ng dÇn trong buæi s¸ng cho tíi khi ®¹t gi¸ trÞ lín nhÊt I max vµo
gi÷a tr-a sau ®ã l¹i gi¶m dÇn trong buæi chiÒu
Phân bố cường độ bức xạ đơn sắc Io() của mặt trời được xác định theo định
luật Planck:
C1λ -5
I0λ = C2 (0.2)
λT
e -1
Với: - chiều dài bước sóng (m);
T - nhiệt độ tuyệt đối (0K);
C1 = 0,374.10-15 W/m2
C2 = 1,4388.10-2 m.0K
Diện tích phía dưới đường cong I0 = f() mô tả năng suất bức xạ toàn phần
E0 = I d
0
0 của mặt trời (hình 6)
I0
(W/m3)
83
50%E0
80
60
E0
40
20
Phần năng suất bức xạ mang tia sáng (AS) thấy được là:
0,8.10-6
EAS = I0λ dλ = 0,5 I0λ dλ = 0,5E 0
0,4.10-6 0
I0 đạt giá trị cực đại tại (max) = 2,98.10-3 /T0 = 0,5 m
Vậy:
I0max = I0 ((max), T0) = 8,3.10-3 W/m3
Năng suất bức xạ toàn phần:
E0 = 0.T04 = 6,25.107 W/m2
Công suất bức xạ toàn phần của mặt trời:
Q0 = E0.F = D2.0.T04 = 3,8.1026 W
Công suất này bằng 4.103 lần tổng công suất điện trên toàn thế giới hiện nay,
vào khoảng 1013W.
2.2. Các phương pháp biến đổi năng lượng mặt trời
Ngày nay, NLMT đã được sử dụng rộng rãi với nhiều ứng dụng khác nhau.
Quá trình biến đổi NLMT là quá trình chuyển đổi vật lý của năng lượng nhiệt mặt
trời thành các dạng năng lượng khác, bao gồm các các phương pháp chuyển đổi
sau:
- Nhiệt – nhiệt: chuyển năng lượng bức xạ nhiệt của mặt trời thành nhiệt năng
hấp thụ trong các vật thể. Ví dụ: đun nước nóng bằng NLMT
- Nhiệt – Điện (hiện tượng quang điện): chuyển năng lượng bức xạ của các
photon của mặt trời thành điện. Ví dụ: tế bào quang điện - pin mặt trời.
- Nhiệt – Cơ: chuyển hóa năng lượng nhiệt bức xạ của mặt trời thành cơ năng
làm quay động cơ. Ví dụ: động cơ Stirling
- Nhiệt – hóa (quang – hóa): hấp thụ và chuyển hóa năng lượng nhiệt mặt trời
thành năng lượng trong các phản ứng quang hóa
Bức xạ mặt trời phát ra ở nhiệt độ cao T0 = 5762K, có năng lượng tập trung quanh
sóng max0 = 0,5 m sẽ xuyên qua kính hoàn toàn
vì D(max0) 1. Bức xạ thứ cấp phát từ vật thu có nhiệt độ thấp, khoảng T 400K,
có năng lượng tập trung quanh sóng max = 8m hầu như không xuyên qua kính vì
D( max) 0, và bị phản xạ lại mặt thu. Hiệu số (năng lượng vào – năng lượng ra) >
0, được tích luỹ phía dưới tấm kính làm nhiệt độ tại đó tăng lên.
2.4. Bộ thu bức xạ nhiệt mặt trời dạng tấm phẳng (bộ thu phẳng-collector)
2.4.1. Định nghĩa và kết cấu bộ thu phẳng
Bộ thu phẳng là một hệ tấm phẳng: kính, tấm hấp thụ, lớp cách nhiệt được đặt
song song thành một hệ bền vững. Về nguyên lý thì các bộ thu phẳng có cấu tạo
dựa trên nguyên lý hiệu ứng nhà kính nhưng tùy thuộc vào việc sử dụng nhiệt
vào mục đích sử dụng: nung nóng không khí, đun nước nóng, chưng cất nước,
bếp mặt trời,... mà cấu tạo của bộ thu có hình dạng khác nhau
* Nguyên lý hoạt động của bộ thu phẳng (nguyên lý bẫy nhiệt nhờ hiệu ứng
nhà kính): Ta khảo sát một bộ thu phẳng (hình 8). Mặt trên hộp được đậy bằng tấm
kính, thành chung quanh và đáy làm bằng vật liệu cách nhiệt tốt. Đáy hộp là một tấm
kim loại dẫn nhiệt tốt, mặt trên của tấm được phủ một lớp sơn có hệ số hấp thụ cao.
Tấm này được gọi là tấm hấp thụ. Tia mặt trời sau khi truyền qua tấm kính đậy phía
trên hộp tới bề mặt tấm hấp thụ, bị tấm này hấp thụ một phần năng lượng và chyển
hoá thành nhiệt làm cho tấm hấp thụ nóng dần lên. Khi đó tấm hấp thụ trở thành
nguồn phát ra các tia bức xạ nhiệt thứ cấp có bước sóng dài hướng về mọi phía. Nhờ
nhận liên tục các tia bức xạ mặt trời nên nó được nung nóng liên tục, và bức xạ nhiệt
cũng được phát ra liên tục. Những tia bức xạ nhiệt hướng lên phía trên bị kính ngăn
lại do phần lớn các tia bức xạ nhiệt thứ cấp có bước sóng dài λ > 0,7 μm (nhiệt độ
tấm hấp thụ không cao), bị phản xạ trở về tấm hấp thụ và lại bị tấm hấp thụ hấp
thụ,… Quá trình này dẫn đến nhiệt độ tấm hấp thụ tăng lên nhờ các mặt đáy và các
thành bên đước cách nhiệt tốt nên nhiệt không bị truyền dẫn ra khỏi hộp. Kết quả là
năng lượng từ các tia bức xạ mặt trời vào được hộp mà không ra ngoài đựơc. Hộp
thu thành một bẫy nhiệt. Hiện tượng đó được gọi là hiệu ứng nhà kính. Nhiệt độ của
tấm hấp thụ càng cao phát xạ nhiệt từ mặt hấp thụ càng lớn, cho đến khi năng lượng
mà tấm hấp thu nhận đựơc từ bức xạ mặt trời cân bằng với năng lượng mất mát với
môi truờng xung quanh thì trạng thái cân bằng nhiệt được thiết lập
+ Phải thường xuyên xoay mặt phản xạ theo hướng mặt trời, nếu dùng thiết bị
tự động thì giá thành sẽ cao mà xoay thủ công cũng không được thuận tiện,
+ Thiết bị này chỉ thu được phần trực xạ (tia nắng trực tiếp) còn phần tán xạ
thì không thu được, nếu khi bị mây che khuất thì thiết bị không thu được năng
lượng.
2.4.2. Kết cấu và hoạt động của một vài bộ thu phẳng.
2.4.2.1. Bộ thu phẳng dùng để nung nóng không khí
Collector phẳng: Collector phẳng có mặt hấp thụ ánh sáng dạng tấm phẳng.
So với các loại collector khác thì collector dạng tấm phẳng có một số ưu điểm
như: có thể hấp thụ tất cả các loại tia bức xạ, không cần quay theo mặt trời, dễ gia
công, không cần bảo trì thường xuyên và giá thành khá rẻ.
Collector phẳng được chia thành nhiều loại, sau đây là một số loại collector
phẳng sử dụng phổ biến:
- Collector tấm trần:
Collector dòng trên có dòng khí chuyển động giữa tấm hấp thụ và tấm che.
Năng lượng hữu ích có giảm chút ít do phản xạ và tính hấp thụ của tấm che. Giảm
được mất mát nhiệt đối lưu và bức xạ. Nhiệt độ có thể tăng lên 10 ÷ 30oC.
- Collector dòng dưới:
Collector này giảm mất mát nhiệt do tấm hấp thụ được che bằng vật liệu trong
suốt. Dòng khí chuyển động bên dưới tấm hấp thụ. Nhiệt độ dòng khí tăng lên được
30oC, giảm bám bụi vào bề mặt hấp thụ và tấm che.
Hình 2.17. Sơ đồ bộ thu sản xuất nước nóng(a) và hệ thống ống kim loại
hàn vào dưới tấm hấp thu (b)
Trong các bộ phận của collector, bộ phận quan trọng nhất và có ảnh hưởng lớn
đến hiệu quả sử dụng của collector là bề mặt hấp thụ nhiệt. Sau đây là 3 mẫu
collector có bề mặt hấp thụ nhiệt đơn giản với hiệu quả hấp thụ cao có thể dễ dàng
chế tạo trong điều kiện Việt Nam
Hình 2.18. Các dạng bề mặt hấp thụ của collector đun nóng nước.
Nhận xét:
- Loại bề mặt hấp thụ dạng dãy ống có kết quả thích hợp nhất về hiệu suất hấp
thụ nhiệt, giá thành cũng như chi phí chế tạo. Tuy nhiên nếu trong trường hợp không
có điều kiện để chế tạo thì có thể chọn loại bề mặt hấp thụ dạng loại hình rắn. Bề
mặt hấp thụ dạng tấm cũng có kết quả tốt như dạng dãy ống nhưng đòi hỏi nhiều
công và khó chế tạo hơn.
- Tấm hấp thụ dạng dãy ống được đan xen vào tấm hấp thụ có hiệu quả cao
nhất. Ngoài ra có thể gắn tấm hấp thụ và ống hấp thụ bằng phương pháp hàn sẽ cho
hiệu quả hấp thụ cao hơn nhưng tốn thời gian và giá thành chế tạo cao hơn.
Nhiều nước trên thế giới, điển hình là Mỹ, Úc, Israel, Ấn Độ, Nhật,
Trung Quốc và các nước châu Âu đã nghiên cứu ứng dụng NLMT để đun nước
phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Hà Lan tuy dân số ít nhưng hiện nay cả nước đã
có 26.000 hộ gia đình dùng nước nóng mặt trời và 15.000 m2 bộ thu nhiệt cấp
nước nóng cho 500 khu nhà ở. Israel và Hy Lạp là hai nước có tỷ lệ sử dụng đun
nước mặt trời rất cao, chiếm 80% số gia đình dùng nước nóng, trong khi Nhật Bản
mới có 20%. Khu vực châu Á, Trung Quốc là nước đi đầu trong việc sản xuất và
sử dụng đun nước mặt trời với 500 cơ sở sản xuất, mỗi năm xuất xưởng trên 4 triệu
m2 đun nước mặt trời, hiện cả nước đã lắp đặt cho các cơ sở sản xuất và gia đình
được 20 triệu m2. Nguyên lý hoạt động của thiết bị đun nước mặt trời dựa trên
hiệu ứng nhà kính và kết cấu là bộ thu góp phẳng.
Một số nước có cường độ bức xạ mặt trời (W/m2) và số giờ nắng trong năm
khá lớn như Israel, Trung Quốc, Hàn Quốc nên chính quyền địa phương đã khuyến
khích phát triển việc sử dụng NLMT nhằm giảm tối đa tiêu thụ nhiên liệu hoá thạch
bằng cách đưa ra các chính sách trợ giá cho nhà sản xuất thiết bị đun nước mặt
trời. Dựa trên nền tảng công nghiệp hiện đại và công nghệ tiên tiến người ta đã
chế tạo ra mẫu đun nước mặt trời có hiệu suất cao (trên 70%), có kiểu dáng công
nghiệp, làm việc ổn định và giá thành phù hợp cho hầu hết các gia đình từ thành thị
đến nông thôn. Tuy nhiên, giá tiền mua thiết bị đun nước mặt trời hiện nay còn cao
hơn (khoảng 1,5 lần) bình đun nước nóng bằng điện, nhưng được bù lại do không
cần chi phí năng lượng trong quá trình sử dụng và điều quan trọng đối với cộng
đồng là bảo vệ được môi trường trong sạch. Ví dụ, đun nước mặt trời của Korea
(mã hiệu KSH.201) hoặc của Israel (PNEO) vào mùa đông nhiệt độ 150C, sau
khi hấp thụ NLMT nước nóng ở đầu ra có thể đạt 28 - 320C và sau 01 đêm vẫn còn
giữ được 22 - 250C; vào mùa hè giữa trưa nước nóng có thể lên tới 70 - 800C.
Thiết bị đun nước bằng NLMT có thể sử dụng một trong bốn kiểu sau:
1 - Hấp thụ trực tiếp: Dùng bề mặt để hấp thụ trực tiếp bức xạ mặt trời và truyền
nhiệt làm cho nước nóng lên. Loại này kết cấu đơn giản nhưng hiệu suất thấp.
2 - Hộp phẳng (bằng kim loại): Bên trong hộp chứa nước để hấp thụ nhiệt và nối liền
với bình chứa tập trung tạo thành dòng nước tuần hoàn kín. Loại này chế tạo và
lắp đặt đơn giản nhưng hiệu suất được cải thiện.
3 - Dàn ống kim loại: Những ống này ghép lại thành dàn và nối liền với bình chứa
tạo sự tuần hoàn đối lưu tự nhiên làm cho nước lạnh đi xuống còn nước nóng đi
lên bình. Dàn ống trực tiếp hấp thụ năng lượng bức xạ nên hiệu suất rất cao, tuy
nhiên kết cấu, lắp ráp có phức tạp và nặng nề hơn. Israel và Korea phần lớn sản xuất
theo kiểu này.
4 - Dàn ống thuỷ tinh chân không: Mặt trong ống được sơn đen để hấp thụ bức
xạ, ở giữa ống thuỷ tinh là ống kim loại có nước chảy qua. Loại này hiệu suất rất
cao nhưng đòi hỏi công nghệ chế tạo và lắp ráp mang tính công nghiệp. Nhược
điểm là giá thành cao và nặng nề. Hiện nay Trung Quốc đang phát triển thiết bị đun
nước mặt trời theo kết cấu này.
Sự khác nhau về hiệu suất của từng loại thay đổi theo công nghệ chế tạo và
chất lượng cũng như kỹ thuật sơn phủ bề mặt tấm hấp thụ. Diện tích và hiệu suất
tầm hấp thụ sẽ quyết định lượng nước nóng tạo ra. Bình bảo ôn thường được chế tạo
2 lớp, lớp cách nhiệt ở giữa bằng bông thuỷ tinh hoặc PUFoan (có độ dày lớn hơn 50
mm, đảm bảo thời gian giữ nhiệt lâu trong điều kiện mưa bão, không có nắng ).
Có hai loại bộ thu phẳng: một loại hoạt động theo chu trình đối lưu tự
nhiên và loại hoạt động theo chu trình đối lưu cưỡng bức
Bộ thu hoạt động theo chu trình đối lưu tự nhiên
Hình 1.19. là sơ đồ một bộ thu sản xuất nước nóng hoạt động theo chu trình
đối lưu tự nhiên. Nước lạnh qua bộ thu hấp thụ nhiệt và sẽ nóng lên, khối lượng
riêng giảm nên nổi lên phía trên. Phía dưới các ống áp suất nước bị giảm nên nước
lạnh lại chảy vào. Cứ như thế nước sẽ tự động chuyển động tuần hoàn theo chiều
mũi tên chỉ trên hình 19. Kết quả là dòng nước sẽ tự chảy qua bộ thu nhiều lần và do
đó nước trong bình chứa (có lớp cách nhiệt tốt xung quanh) sẽ đạt được nhiệt độ
cao.
Hình 2.19. Hệ thống bộ thu hoạt động theo chu trình đối lưu tự nhiên
Khi lấy nước nóng trong bình chứa để sử dụng, nước trong bình sẽ vơi đi và
nước lạnh tự động chảy bổ sung vào.
Ưu điểm của hệ thống đun nước nóng dùng đối lưu tự nhiên là việc chế tạo lắp
đặt bộ thu đơn giản, rẻ tiền. Tuy nhiên, hệ thống này có nhược điểm là năng suất sản
xuất nước nóng thấp. Vì vậy cấu hình sản xuất nước nóng dùng đối lưu tự nhiên chỉ
phù hợp cho việc sản xuất nước nóng dùng cho sinh hoạt trong các hộ gia đình hay
các hộ sử dụng nước nóng không nhiều lắm(khách sạn, bệnh xá, trang trại,..)
Hiệu suất bộ thu hoạt động theo chu trình đối lưu tự nhiên chỉ đạt 40-50%.
Bộ thu hoạt động theo chu trình đối lưu cưỡng bức
Khi cần một lượng nước lớn thì hệ thống nước nóng đối lưu tự nhiên không thích
hợp. Khi đó người ta sử dụng hệ thống dùng đối lưu cưỡng bức. Hình 20. là sơ đồ hệ
thống sản xuất nước nóng dùng năng lượng mặt trời với chu trình đối lưu cưỡng
bức.
Hình 2.20. Hệ thống bộ thu hoạt động theo chu trình đối lưu cưỡng bức.
Hệ thống bộ thu đối lưu cưỡng bức chỉ khác hệ bộ thu đối lưu tự nhiên là có
thêm một máy bơm(3). Nước bị bơm cưỡng bức chảy qua bộ thu mà không phải
chảy tuần hoàn tự nhiên như hệ thống đối lưu tự nhiên. Vì vậy hiệu suất và năng
suất của loại thiết bị này cao hơn. Hiệu suất thu nhiệt của hệ thống phụ thuộc vào tốc
độ nước chảy qua bộ thu. Để điều khiển quá trình cưỡng bức này thông thường
người ta lắp thêm một thiết bị điện tử(4), nó tự động theo dõi hiệu số nhiệt độ ΔT =
T1 – T2. Căn cứ hiệu số nhiệt độ ΔT mà thiết bị điều khiển điện tử sẽ cho bơm làm
việc hay ngừng bơm.
Trong trường hợp phải sử dụng nước nóng cho sản xuất hay các dịch vụ yêu
cầu nước nóng liên tục người ta còn lắp thêm bộ phận đun nước bằng điện hay khí
đốt dự phòng(6) cho những thời gian không có nắng .
2.4.2.4. Thiết bị làm lạnh và điều hoà không khí dùng NLMT
Trong số những ứng dụng của
NLMT thì làm lạnh và điều hoà
không khí là ứng dụng hấp dẫn nhất
vì nơi nào khí hậu nóng nhất thì nơi đó
có nhu cầu về làm lạnh lớn nhất, đặc
biệt là ở những vùng xa xôi héo lánh
thuộc các nước đang phát triển không
có lưới điện quốc gia và giá nhiên liệu
quá đắt so với thu nhập trung bình
Hình 2.23. Tủ lạnh dùng pin mặt trời của người dân. Với các máy lạnh làm việc
trên nguyên lý biến đổi NLMT thành điện năng nhờ pin mặt trời (photovoltaic) là
thuận tiện nhất, nhưng trong giai đoạn hiện nay giá thành pin mặt trời còn quá cao.
Ngoài ra các hệ thống lạnh còn được sử dụng NLMT dưới dạng nhiệt năng để chạy
máy lạnh hấp thụ, loại thiết bị này ngày càng được ứng dụng nhiều trong thực tế,
tuy nhiên hiện nay các hệ thống này vẫn chưa được thương mại hóa và sử dụng
rộng rãi vì giá thành còn rất cao và hơn nữa các bộ thu dùng trong các hệ thống này
chủ yếu là bộ thu phẳng với hiệu suất còn thấp (dưới 45%) nên diện tích lắp đặt bộ
thu cần rất lớn chưa phù hợp với yêu cầu thực tế. ở Việt Nam cũng đã có một số nhà
khoa học nghiên cứu tối ưu hoá bộ thu năng lượng mặt trời kiểu hộp phẳng mỏng cố
định có gương phản xạ để ứng dụng trong kỹ thuật lạnh, với loại bộ thu này có thể tạo
được nhiệt độ cao để cấp nhiệt cho máy lạnh hấp thụ, nhưng diện tích mặt bằng cần
lắp đặt hệ thống cần phải rộng.
Khoa Công nghệ Hóa học & Môi trường - 32 -
Bài giảng Năng lượng & Môi trường
2.4.2.5. Thiết bị chưng cất nước.
Trên trái đất của chúng ta, những nơi có nhiều nắng thì thường bị khan hiếm
nước uống. Bởi vậy năng lượng mặt trời đã được sử dụng từ rất lâu để cung cấp nước
uống bằng phương pháp chưng cất từ nguồn nước bẩn hoặc nhiễm mặn. Trên hình
1.44 là sơ đồ nguyên lý của thiết bị chưng cất nước dùng năng lượng mặt trời đơn
giản.
Máng chứa
nước ngưng
Dòng đi
lên với
nhiệt độ T Dòng đi
xuống với
nhiệt độ T1
HÌnh 2.26.Các dòng năng lượng chính trong thiết bị chưng cất nước kiểu bể.
Khi thiết kế cần tính toán sao cho nhiệt lượng dùng để làm bay hơi nước là lớn
nhất, đồng nghĩa với lượng nước ngưng lớn nhất thu được. Tất cả các thành phần
năng lượng tổn thất ra đáy và xung quanh cần phải hạn chế càng nhiều càng tốt.
Hầu hết các dòng năng lượng có thể xác định theo nguyên lý cơ bản, nhưng sự rò
rỉ các tổn thất qua các góc cạnh rất khó xác định và có thể gộp lại để xác định bằng
thực nghiệm nhờ các thiết bị chưng cất thực tế.
Trên hình 1.35 là các thiết bị chưng cất nước dùng NLMT đơn giản.
Hình 2.27. Thiết bị chưng cất nước dùng năng lượng mặt trời.
h ν = E 2 – E1
Vùng năng lượng phía trên tiếp đó hoàn toàn trống hoặc chỉ bị chiếm một phần gọi là
vùng dẫn, mặt dưới của vùng có năng lượng là Ec. Cách ly giữa 2 vùng hóa trị và vùng
dẫn là một vùng cấp có độ rộng với năng lượng là Eg, trong đó không có mức năng lượng
Khi nhận bức xạ mặt trời, photon có năng lượng hν tới hệ thống và bị điện tử ở vùng
-
hoá trị thấp hấp thu và nó có thể chuyển lên vùng dẫn để trở thành điện tử tự do e , để
+
lại ở vùng hoá trị một lỗ trống có thể coi như hạt mang điện dương, ký hiệu là h . Lỗ
trống này có thể di chuyển và tham gia vào quá trình dẫn điện.
Hiệu ứng lượng tử của quá trình hấp thụ photon có thể mô tả bằng phương trình:
- +
Ev + hν -> e + h
Điều kiện để điện tử có thể hấp thụ năng lượng của photon và chuyển từ vùng hoá trị lên
vùng dẫn, tạo ra cặp điện tử - lỗ trống là
hν = hc/λ ≥ Eg = Ec - Ev .
- +
Từ đó có thể tính được bước sóng tới hạn λc của ánh sáng để có thể tạo ra cặp e - h :
- +
Trong thực tế các hạt dẫn bị kích thích e và h đều tự phát tham gia vào quá trình phục
-
hồi, chuyển động đến mặt của các vùng năng lượng: điện tử e giải phóng năng lượng
Tóm lại khi vật rắn nhận tia bức xạ mặt trời, điện tử ở vùng hoá trị hấp thụ năng lượng
- +
photon hν và chuyển lên vùng dẫn tạo ra cặp hạt dẫn điện tử - lỗ trống e - h , tức là đã
tạo ra một điện thế. Hiện tượng đó gọi là hiệu ứng quang điện bên trong.
2.5.2.2. Hiệu suất của quá trình biến đổi quang điện
Ta có thể xác định hiệu suất giới hạn về mặt lý thuyết η của quá trình biến đổi quang
điện của hệ thống 2 mức như sau:
Trong đó:
Jo(λ) là mật độ photon có bước λ
2.5.2.3. Hiệu ứng quang điện trên lớp tiếp xúc bán dẫn pn
Bán dẫn tinh khiết (Bán dẫn Si, Ge)
Tính chất dẫn điện của các vật liệu rắn được giải thích nhờ lý thuyết vùng năng
lượng. Như ta biết, điện tử tồn tại trong nguyên tử trên những mức năng lượng gián
đoạn (các trạng thái dừng). Nhưng trong chất rắn, khi mà các nguyên tử kết hợp lại với
nhau thành các khối, thì các mức năng lượng này bị phủ lên nhau, và trở thành các
vùng năng lượng và sẽ có ba vùng chính.
Cấu trúc năng lượng của điện tử trong mạng nguyên tử của chất bán dẫn. Vùng hóa trị
được lấp đầy, trong khi vùng dẫn trống. Mức năng lượng Fermi nằm ở vùng trống
năng lượng.
Vùng hóa trị (Valence band): Là vùng có năng lượng thấp nhất theo thang năng
lượng, là vùng mà điện tử bị liên kết mạnh với nguyên tử và không linh động.
Vùng dẫn (Conduction band): Vùng có mức năng lượng cao nhất, là vùng mà
điện tử sẽ linh động (như các điện tử tự do) và điện tử ở vùng này sẽ là điện tử
dẫn, có nghĩa là chất sẽ có khả năng dẫn điện khi có điện tử tồn tại trên vùng
dẫn. Tính dẫn điện tăng khi mật độ điện tử trên vùng dẫn tăng.
Hình 2.31. Cấu trúc năng lượng của điện tử trong mạng điện tử của chất bán dẫn
Vùng cấm (Forbidden band): Là vùng nằm giữa vùng hóa trị và vùng dẫn,
không có mức năng lượng nào do đó điện tử không thể tồn tại trên vùng cấm.
Nếu bán dẫn pha tạp, có thể xuất hiện các mức năng lượng trong vùng cấm
(mức pha tạp). Khoảng cách giữa đáy vùng dẫn và đỉnh vùng hóa trị gọi là độ
rộng vùng cấm, hay năng lượng vùng cấm (Band Gap). Tùy theo độ rộng vùng
cấm lớn hay nhỏ mà chất có thể là dẫn điện hoặc không dẫn điện.
Như vậy, tính dẫn điện của các chất rắn và tính chất của chất bán dẫn có thể lý giải
một cách đơn giản nhờ lý thuyết vùng năng lượng như sau:
- Kim loại có vùng dẫn và vùng hóa trị phủ lên nhau (không có vùng cấm) do đó luôn
luôn có điện tử trên vùng dẫn vì thế mà kim loại luôn luôn dẫn điện.
- Các chất bán dẫn có vùng cấm có một độ rộng xác định. Ở không độ tuyệt đối (0 0K),
mức Fermi nằm giữa vùng cấm, có nghĩa là tất cả các điện tử tồn tại ở vùng hóa trị, do
đó chất bán dẫn không dẫn điện. Khi tăng dần nhiệt độ, các điện tử sẽ nhận được năng
lượng nhiệt nhưng năng lượng này chưa đủ để điện tử vượt qua vùng cấm nên điện tử
vẫn ở vùng hóa trị. Khi tăng nhiệt độ đến mức đủ cao, sẽ có một số điện tử nhận được
năng lượng lớn hơn năng lượng vùng cấm và nó sẽ nhảy lên vùng dẫn và chất rắn trở
Hình 2.32. Cấu trúc năng lượng của bán dẫn loại n
Hình 1.33. Cấu trúc năng lượng của bán dẫn loại p
2.5.2.4. Cấu tạo và nguyên lý hoạt động của pin mặt trời
Năng lượng ánh sáng mặt trời được chuyển đổi trực tiếp thành năng lượng điện
nhờ hiệu ứng quang học. Cơ sở của nguyên lý là các cơ cấu vật lý điện tử trong kỹ
thuật transitor của vật liệu bán dẫn.
Các tế bào quang điện có khả năng chuyển các photon ánh sáng thành điện. Bằng
cách nối các tế bào quang điện với nhau và ghép thành các mô đun sẽ sinh ra điện
năng. Các mô đun này được nối lại với nhau để sản xuất điện năng mà chỉ dùng mặt
trời làm nguồn nhiên liệu.
Do cấu tạo đặc biệt của các tế bào quang điện nên bên trong nó xuất hiện một lớp
biên từ trường, mặt khác theo lí thuyết vùng năng lượng khi các hạt trong tinh thể
Silicon nhận năng lượng photon của ánh sáng thì sẽ chuyển sang mức năng lượng cao
hơn do đó làm cho các loại hạt trong tinh thể, ở đây các hạt là điện tử và lỗ trống sẽ
chuyển động hỗn loạn nhưng do có lớp từ trường nên các hạt này lại chuyển động theo
hướng nhất định theo từng loại hạt và khi đó ở lớp giữa hai vùng bên ngoài của tế bào
quang điện sẽ xuất hiện một điện thế. Nối các đầu của tế bào quang điện ta được các
mô đun của pin mặt trời để sử dụng.
Hiệu suất của pin mặt trời
Hiệu suất của một mô đun pin mặt trời là tỷ số giữa công suất cực đại đạt được
và năng lượng bức xạ mặt trời chiếu tới bề mặt của mô đun ở một nhiệt độ xác định:
Pmax
M(T) = (1.39)
F1 E
Trong đó: Pmax - công suất cực đại của mô đun pin mặt trời, W
Ft - diện tích hứng nắng của mô đun, m2
E – năng suất bức xạ mặt trời tới bề mặt mô đun, W/m2.
Ví dụ: Một mô đun pin mặt trời có tổng diện tích bề mặt 0,5 m2 và công suất cực
đại 35W đạt được tại nhiệt độ 25oC và năng suất bức xạ mặt trời 1000 W/m2. Khi đó
hiệu suất của mô đun này là:
Ở nhiệt độ cao hơn, hiệu suất mô đun sẽ giảm. Hiệu suất ứng với nhiệt độ làm
việc của mô đun Top và năng suất bức xạ mặt trời tới 1 kW/m2 được tính theo phương
trình sau:
M(Top) = M(25o) [(1 + PTC(Top – 25)]
Khoa Công nghệ Hóa học & Môi trường - 45 -
Bài giảng Năng lượng & Môi trường
pmax(Top) = Pmax(25o) [1 + PTC(Top – 25)]
Trong đó: PTC là hệ số hiệu chỉnh theo nhiệt độ của Pmax.
Đối với mô đun ở ví dụ trên, với Pmax = - 0,003 khi nhiệt độ làm việc là 55oC thì:
M(55o) = 0,07[1 – 0,003(55 – 25)] = 0,064
Pmax(55o) = 35[1 – 0,003(55 – 25)] = 32 W
Hiệu suất mô đun là một trong những thông số quan trọng để tính toán hệ thống
pin mặt trời.
Các dạng pin mặt trời
Ở đây chỉ đề cập đến các dạng pin mặt trời quan trọng nhất đang được ứng dụng
trên trái đất. Có thể phân chia khái quát thành hai loại pin mặt trời là loại lớp dày và
loại lớp mỏng.
a) Pin mặt trời lớp dày
Trên cơ sở phát triển từ các ứng dụng vũ trụ, hiện nay các pin mặt trời chế tạo từ
silic tinh thể đang được phổ biến rộng rãi. Người ta phân biệt: pin mặt trời silic đơn
tinh thể và pin mặt trời silic đa tinh thể.
- Pin mặt trời silic đơn tinh thể được chế tạo hàng loạt có hiệu suất cao nhất. Đối
với một pin mặt trời ở điều kiện tiêu chuẩn (nhiệt độ 25oC, công suất bức xạ G = 1000
W/m2, phổ bức xạ/khối lượng không khí = 15) có hiệu suất vào khoảng 13 – 16%. Về
khoảng hiệu suất rộng này có thể giải thích bởi sự phân tán bất ký trong chế tạo, bởi
các quá trình công nghệ khác nhau và bởi chất lượng của silic.
- Pin mặt trời silic đa tinh thể được mô tả như sau: silic tinh thể lỏng được rót và
làm lạnh thnàh khối có chiều dài cạnh đến 40 cm.. Nhờ đó tạo ra một số lượng giới
hạn các tinh thể được định hướng. Các khối sau đó được cắt tương ứng với hướng tinh
thể có chiều dài 10 – 15 cm và tiếp tục thành đĩa (tấm) có chiều dày 0,4mm. Tuy có
quá trình công nghệ chế tạo đơn giản so với silic đơn tinh thể và có chi phí giảm thiểu
song pin silic đa tinh thể lại có hiệu suất thấp (10 – 12 %).
b) Pin mặt trời lớp mỏng
Đã từ lâu người ta tìm kiếm các biện pháp kỹ thuật để xử lý tiết kiệm một cách
cơ bản chất silic đắt tiền nhờ việc tránh hao tổn khi cắt và nhờ giảm thiểu chiều dày
lớp hoạt tính.
Các quá trình để chế tạo các pin mặt trời cực mỏng từ silic vô định hình có chiều
dày lớp khoảng 1 m hiện nay là một phát kiến tiến bộ nhất. Dạng pin này chính là pin
mặt trời lớp mỏng.
Nhờ những quá trình tương đối đơn giản, người ta tách từ pha khí ở khoảng
150oC được các lớp silic vô định hình dày khoảng 1 m. Do có tính chất hấp thụ đặc
Khoa Công nghệ Hóa học & Môi trường - 46 -
Bài giảng Năng lượng & Môi trường
biệt so với silic tinh thể mà các lớp silic vô định hình cực mỏng có thể hấp thụ hoàn
toàn các phôton.
Trong thực tế người ta cần điện áp cao hơn điện áp có thể cấp từ một pin riêng
biệt. Để có điện áp cao cần mắc nối tiếp nhiều pin. Đối với pin mặt trời lớp mỏng
người ta chế tạo được các mô đun điện mặt trời liên kết các mạch nối tiếp các pin riêng
biệt nhờ kỹ thuật ép mặt nạ và phương pháp lade.
Các ưu thế mang tính tiềm năng về chi phí của pin mặt trời lớp mỏng tuy nhiên
không lấn át được các hạn chế cơ bản như hiệu suất thấp (6 8%) và khả năng mở
rộng sản xuất còn bị giớ hạn nên đến nay vẫn còn chưa được phổ biến.
Đối với pin mặt trời chế tạo từ các chất bán dẫn liên kết, các lớp hoạt tính của nó
là hỗn hợp của các vật liệu bán dẫn khác nhau, thí dụ từ galli – arsen, cadmisinfid -
đồng sunfit, đồng – indi-selen (Cí) có triển vọng phát triển nhất. Ưu thế cơ bản so với
silic tinh thể (lớp dày) của loại này là có kết cấu rất mỏng (2 3 m), điều này cho
khả năng hấp thụ ánh sáng tốt hơn. Do phát triển mạnh pin CiS nên ở Mỹ loại pin này
có khả năng bổ xung và thay thế các pin mặt trời vô định hình.
Trong tương lai người ta sẽ tiến hành nghiên cứu để chế tạo pin mặt trời từ liên kết
silic – germani, mà theo lý thuyết khi được bổ sung chính xác một lượng C và H trên
những khoảng cách giải mong muốn sẽ có thể đạt hiệu suất 20%.
2.5.2.5. Ứng dụng pin mặt trời
Pin mặt trời là phương pháp sản xuất điện trực tiếp từ NLMT qua thiết bị biến
đổi quang điện. Pin mặt trời có ưu điểm là gọn nhẹ có thể lắp bất kỳ ở đâu có ánh sáng
mặt trời, đặc biệt là trong lĩnh vực tàu vũ trụ. Ứng dụng NLMT dưới dạng này được
phát triển với tốc độ rất nhanh, nhất là ở các nước phát triển. Ngày nay con người đã
ứng dụng pin mặt trời trong rất nhiều dụng cụ cá nhân như máy tính, đồng hồ và các đồ
dùng hàng ngày. Pin mặt trời còn dùng để chạy xe ôtô thay thế dần nguồn năng lượng
truyền thống, dùng thắp sáng đèn đường, đèn sân vườn và sử dụng trong từng hộ gia đình.
Trong công nghệp người ta cũng bắt đầu lắp đặt các hệ thống điện dùng pin mặt trời với
công suất lớn.
Hiện nay giá thành thiết bị pin mặt trời còn khá cao, trung bình hiện nay
khoảng 5USD/WP, nên ở những nước đang phát triển pin mặt trời hiện mới chỉ có khả
năng duy nhất là cung cấp năng lượng điện sử dụng cho các vùng sâu, xa nơi mà
đường điện quốc gia chưa có.
3.1. Phương pháp tập trung năng lượng và các dạng trạm thủy điện
Từ thời xa xưa con người đã biết lợi dụng sức nước để thay thế môt số công việc
nặng nhọc như đưa nước từ suối lên ruộng bằng các cọn nước, giã gạo bằng sức nước
mà hiện nay các dân tộc miền núi nước ta vẫn đang dùng. Đến thế kỷ thứ 18 khi phát
minh ra turbin hơi nước thì việc lợi dụng sức nước càng thuận lợi và kỹ thuật ngày
càng hoàn thiện hơn.
Kinh nghiệm của nước ta cũng như các nước đang phát triển cho thấy: ở những
hợp tác xã hay cụm dân cư miền núi thì không nhất thiết phải dùng điện làm năng
lượng chạy máy bơm nước, máy xát gạo … Vì như vậy sẽ đòi hỏi lắp đặt máy phát
điện có công suất lớn, dùng các động cơ điện cho máy công tác, thiết bị dây dẫn, … và
đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu lớn. Để tiết kiệm người ta lắp đặt các máy bơm nước trực
tiếp, máy xay xát gần turbin, đấu trực tiếp hoặc qua dây đai để turbin kéo máy công tác
quay. Như vậy dùng ngay thuỷ năng để phục vụ sản xuất.
Chỉ riêng các máy công tác không thể đặt gần turbin do khó khăn về vận chuyển
sản phẩm hoặc địa điểm thì cần dẫn điện tới nơi đặt máy. Như vậy nhu cầu điện sẽ
gồm các máy công tác đặt ở xa, điện thắp sáng, điện truyền thanh, … Tổng nhu cầu
điện sẽ là cơ sở để xác định công suất máy phát điện. Làm như vậy thì turbin vừa cung
cấp điện năng vừa cung cấp thuỷ năng.
Hiện nay nhiều nước đã có tiêu chuẩn phân loại thuỷ điện nhỏ theo cấp công suất
của trạm như sau:
- Loại cực nhỏ (micro) từ 100 kW trở xuống
- Loại nhỏ (mini) từ 101 1000 kW
- Loại vừa từ 1000 10.000 hoặc 20.000 kW
3.1.3. Phương pháp tập trung năng lượng bằng đường dẫn
Ở những đoạn sông thượng lưu, độ dốc lòng sông thường lớn, lòng sông hẹp, dùng
đập để tạo nên cột nước thường không có lợi cả về tập trung cột nước, tập trung và
Khi vừa có điều kiện xây dựng hồ để tạo ra một phần cột nước và điều tiết lưu lượng
lại vừa có thể lui tuyến nhà máy ra xa đập một đoạn nữa để tận dụng độ dốc lòng sông
làm tăng cột nước, thì cách tốt nhất là dùng phương pháp tập trung cột nước bằng đập
và đường dẫn.
Với phương thức này, cột nước của trạm thuỷ điện do đập và đường dẫn tạo thành.
Đập thương đặt ở chỗ thay đổi độ dốc của lòng sông nơi khai thác.
Hình 3.6. Hoạt động của các rotor gió khác nhau
Hiện nay trên thế giới người ta vẫn tiến hành nghiên cứu và phát triển turbin
gió nhằm nâng cao hiệu suất và tính kinh tế. Ở các nước đang phát triển đã xuất
hiện nhiều ứng dụng có ý nghĩa như chạy bơm nước và phát điện cho những vùng
có chế độ gió trung bình và những nơi có nhu cầu sử dụng có hiệu quả kinh tế.
Việc thiết kế và chế tạo những turbin gió đơn giản bằng những nguyên liệu sẵn có
ở địa phương là điều có thể làm được. Tuy nhiên những turbin gió giá thấp phải là
những turbin được chế tạo theo phương pháp công nghiệp. Hệ thống biến đổi năng
lượng gió đòi hỏi đầu tư cao, do đó yêu cầu tuổi thọ phải đạt trên 10 năm.
Một số nhà nghiên cứu đã đề nghị thiết kế những turbin có công suất lớn đến
15 kW cho bơm nước và máy phát điện thay thế cho động cơ diesel ở những vùng
nông thôn.
3.4.3. Động cơ gió
Turbin gió thu năng lượng nhờ chuyển đổi lực thổi của gió thành lực quay để
quay các quạt của rotator. Năng lượng chuyển đổi từ gió sang rotator phụ thuộc vào
mật độ không khí, diện tích rotator và vận tốc gió.
20 năm về trước, những turbin gió đầu tiên ra đời có công suất tương đối nhỏ
(50-100 kW, đường kính từ 15-20 m). Từ đó trở đi, công suất của turbin gió tăng
không ngừng. Ngày nay, các turbin thương mại có mức xấp xỉ 1 MW và các turbin gió
ngoài khơi có công suất lên đến 3 MW. Việc tăng công suất của turbin có 2 thuận lợi
chính: giảm giá thành và tăng sản lượng. Độ tin cậy của các turbin cũng được cải thiện
đáng kể (95%).
Hầu hết các turbin hiện nay trên thế giới là dạng 3 lưỡi quạt nhựa gia cố. Ngoài ra
còn một số dạng khác như turbin 2 lưỡi quạt (thậm chí 1 lưỡi quạt) với các dạng vật
liệu làm lưỡi quạt khác nhau (như wood epoxy). Các turbin đa tốc ngày càng trở nên
phổ biến với khả năng gia tăng sản lượng điện qua việc ứng dụng hệ thống
Biến đổi sức gió thành điện năng là một biện pháp khá thuận tiện trong sử
dụng năng lượng gió, song hiện nay quá trình này đòi hỏi chi phí quá lớn. Trên thị
trường người ta chào bán hàng loạt turbin gió, từ turbin cỡ nhỏ công suất 200W có
giá bán khoảng 2000 USD/1kW, cỡ 5 kW giá khoảng 600 USD/1kW, tới các turbin
công suất lớn 800 kW.
Dưới đây giới thiệu một số máy phát điện bằng sức gió đang có trên thị
trường.
Hình 3.9. Máy phát cỡ nhỏ công suất 100W, đường kính vòng ngoài 910 mm.
Hình 3.11. Turbin gió tại bờ biển Đan Mạch Hình 3.12. Trang tại turbin gió tại Đức
cuối cùng
Lọc dầu
khô
Chuyển thành đường
Sấy khô bán sản Ép
phẩm (hạt) dầu
Thức ăn gia súc
Tách bán sản phẩm
(đường) Hình 4.1. Các phương pháp sử dụng biomass.
Hạt nông sản
Cây có đường
Chưng cất tới 95%
Khoa Công nghệ Hóa học & Môi trường - 67 -
ethanol
Lên men
Pha loãng với
Bài giảng Năng lượng & Môi trường
4.1.1.2. Ưu điểm và nhược điểm của năng lượng sinh khối
Theo lý thuyết, năng lượng hữu ích lấy ra từ biomass gấp khoảng 6 lần nhu cầu
năng lượng hiện nay trên toàn thế giới. Tuy nhiên, để có thể thay thế nhiên liệu hoá
thạch bằng năng lượng từ biomass là cả một vấn đề lớn, lâu dài, bởi vì bên cạnh những
ưu điểm, việc sử dụng năng lượng từ biomass hiện tại còn gặp một số khó khăn như
sau:
a) Ưu điểm:
1. Rất sẵn có và phân bố rộng khắp trên toàn thế giới.
2. Có thể dự trữ được
3. Có khả năng tái tạo
4. Chuyển đổi dễ dàng
5. Mức đầu tư đa dạng tuỳ thuộc vào công nghệ, có thể giảm đến mức tối thiểu
nên phù hợp với mọi đối tượng có mức độ thu nhập khác nhau.
6. Có thể có tính kinh tế trong những điều kiện đặc thù của địa phương, nhất là
những đơn vị kinh tế nhỏ có điều kiện vận chuyển phù hợp.
7. Có thể phát triển ở trình độ thủ công.
8. Tạo việc làm và tăng thu nhập.
9. Không gây hại cho hệ sinh thái và an toàn đối với môi trường.
10. Không làm tăng lượng khí nhà kính CO2 trong khí quyển.
b) Hạn chế:
1. Đòi hỏi diện tích đất sử dụng lớn, cạnh tranh với đất canh tác
2. Nguồn cung cấp không chắc chắn trong thời gian đầu.
3. Yêu cầu chi phí về phân bón, đất và nước.
4. Cồng kềnh, khó khăn trong khâu vận chuyển và dự trữ.
5. Thay đổi thất thường theo điều kiện khí hậu.
4.1.2. Các nguồn nguyên liệu biomass
Các nguồn nguyên liệu để sản xuất năng lượng sinh học bao gồm phế thải
nông nghiệp, các loại thực vật cho năng lượng, thực vật biển và tảo. Các nguồn
biomass này trải rộng trên toàn cầu và được coi là nguồn nhiên liệu bổ sung quan
trọng cho dầu mỏ.
Không phải tất cả các loại phế thải đều có thể sử dụng làm nhiên liệu. Phế
thải nói chung có rất nhiều công dụng, như làm thức ăn cho gia súc, làm phân bón,
làm nguyên liệu công nghiệp và nguyên liệu chế biến. Cần phân biệt lượng phế thải
tổng cộng và lượng phế thải có thể sử dụng được trong thực tế. Một loại phế thải có
thể có nhiều công dụng khác nhau. Ví dụ: thân cây lúa (rơm rạ) có thể sử dụng để
9 Ethiopia 3,3
10 Pêru 2,9
11 Somalia 2,1
12 Cônggô 1,1
Trung bình tại các nước đang phát triển 5,6
b) Phân động vật là một dạng phế thải quan trọng ở các nước đang phát triển.
Cũng như phế thải thực vật, phân động vật có thể được sử dụng theo nhiều cách
như bón thẳng ra ruộng, ủ để làm phân hữu cơ hoặc sản xuất khí sinh hoc (biogas).
4.1.2.2. Cây trồng làm nhiên liệu
a) Cây hàng năm: Nhiều loại cây trồng hàng năm có thể sử dụng làm nguyên liệu
để sản xuất nhiên liệu như ngô, mía, củ cải đường, … Tỷ số năng lượng của các
loại cây này (là tỷ số giữa năng lượng đầu ra so với tổng năng lượng đầu vào để
sản xuất và chế biến một loại nhiên liệu từ biomass) nằm trong khoảng 1 17. Tuy
nhiên hiện nay việc chế biến nhiên liệu từ sản phẩm của cây trồng hàng năm còn
gặp nhiều khó khăn do tính kinh tế thấp và tính cạnh tranh với cây lương thực.
b) Cây rừng và cây lâu năm: Mặc dù rất khó đo đếm, nhưng phải thừa nhận rằng
nguồn tài nguyên rừng trên thế giới là vô cùng lớn. Theo ước tính, tổng diện tích
rừng trên thế giới vào khoảng 3800.106 ha, hàng năm có thể cho 19.109 m3 gỗ với
51% từ các vùng nhiệt đới. Trong tổng sản lượng gỗ nói trên, có 11% đang được
sử dụng – 2% cho công nghiệp và 9% làm nhiên liệu.
Mặc dù diện tích rừng rất lớn và trải rộng nhưng phân bố không đều. Nạn phá
rừng đang là vấn đề nghiêm trọng ở nhiều nước đang phát triển, và nhiều thảm hoạ
đã xảy ra ở những vùng mà tốc độ khai thác gỗ làm củi đun nhanh hơn tốc độ phát
triển của cây rừng hàng năm.
c) Cây lấy dầu: Gần đây người ta quan tâm nhiều đến các cây lấy dầu như hướng
dương, đậu tương, lạc, cải dầu, cọ, đậu cọc rào, … Nhiều chương trình nghiên cứu
về kỹ thuật sản xuất, ép dầu và tinh chế dầu thực vật làm nhiên liệu đang được tiến
hành ở Nam Phi, Brasil, Úc, Mỹ và Đức.
4.1.2.3. Cây sống dưới nước:
a) Cây nước ngọt: Cây nước ngọt rất đa dạng, từ vi tảo đến những cây lớn sống ở
đầm lầy như cây đuôi mèo, lan dạ hương, đước… Những loại cây này có thể cho
điện.
Hình 4.2 . Sơ đồ công nghệ đốt trực tiếp
Khi được sử dụng để đốt trực tiếp, sinh khối phải được hun khô, cắt thành
mảnh vụn, và ép thành bánh than (hay còn gọi là briquetting).
Một khi quá trình chuẩn bị được hoàn tất, sinh khối được đưa vào lò nung/lò hơi
để tạo nhiệt/hơi nước. Nhiệt tạo ra từ quá trình đun, ngoài việc cung cấp cho turbin
máy phát điện, còn có thể được sử dụng để điều nhiệt nhà máy và các công trình xây
dựng khác, tức là để khai thác tối đa hiệu suất. Nhà máy dạng này còn được gọi là nhà
máy liên hợp nhiệt-năng lượng (Combined Heat Power – CHP), tức là tận dụng lẫn
nhiệt và hơi nước để khai thác tối đa tiềm năng năng lượng được tạo ra, tránh lãng phí
năng lượng.
Nhiệt phân là quá trình đốt sinh khối ở nhiệt độ rất cao và sinh khối phân rã
trong môi trường thiếu khí oxy. Vấn đề trở ngại ở đây là rất khó tạo ra một môi trường
hoàn toàn không có oxy. Thông thường, một lượng nhỏ oxy hóa vẫn diễn ra và có thể
tạo ra một số sản phẩm phụ không mong muốn. Ngoài ra, công nghệ này đòi hỏi một
nguồn thu nhiệt lượng cao và do đó vẫn còn rất tốn kém. Quá trình đốt sinh khối tạo ra
dầu nhiệt phân (pyrolysis oil), than hoặc khí tổng hợp (char & syngas). Các sản phẩm
này có thể được sử dụng tương tự như dầu khí để tạo điện năng. Như vậy, quá trình
nhiệt phân không tạo ra tro hoặc năng lượng một cách trực tiếp, mà nó chuyển sinh k
thành các nhiên liệu có chất lượng cao hơn. Tiến trình này bắt đầu từ việc hun khô
sinh khối để tăng tối đa hiệu suất đốt, tương tự như trong quá trình đốt trực tiếp. Khi
nguội lại, dầu nhiệt phân có dạng lỏng, màu nâu, và được sử dụng như nhiên liệu đốt
gasifier.
CH4 50 –70
CO2 30 – 45
N2 0–3
H2 0–3
O2 0–3
H2 S 0–3
Mªtan (CH4) lµ thµnh phÇn chñ yÕu cña khÝ sinh häc. Nã lµ chÊt khÝ kh«ng
mµu, kh«ng mïi vµ nhÑ b»ng nöa kh«ng khÝ, Ýt hßa tan trong n-íc. ë ¸p suÊt khÝ
quyÓn, mªtan hãa láng ë nhiÖt ®é –161,50c.
Khi Mªtan ch¸y sÏ t¹o ra ngän löa mµu l¬ nh¹t vµ táa nhiÒu nhiÖt l-îng
CH4 + 2O2 = CO2 + 2H2O + 882 kJ
Qu¸ tr×nh lªn men c¸c phÕ th¶i h÷a c¬ ®Ó t¹o thµnh biogas gåm ba giai ®o¹n
sau:
Giai ®o¹n 1: D-íi t¸c dông cña ezin thñy ph©n c¸c chÊt h÷a c¬ lín ®-îc ph©n
gi¶i thµnh c¸c chÊt h÷a c¬ ph©n tö nhá nh- axit bÐo, axit amin
Giai ®o¹n 2: D-íi t¸c dông cña vi khuÈn t¹o axit c¸c chÊt h÷a c¬ ph©n tö nhá
®-îc ph©n gi¶i thµnh c¸c axit bÐo dÔ bay h¬i.
Giai ®o¹n 3: C¸c axit bÐo dÔ bay h¬i ®-îc chuyÓn hãa thµnh khÝ CH 4 vµ khÝ
CO2 nhê c¸c vi khuÈn sinh mªtan (Methanogen).
Trong 3 giai ®o¹n trªn th× giai ®o¹n thø 2 vµ giai ®o¹n thø 3 x¶y ra d-íi ®iÒu
kiÖn yÕm khÝ chÆt chÏ (kÝn hoµn toµn). Cßn ë giai ®o¹n 1 th× nguyªn liÖu ®-îc ñ
ë bÓ hë. Do ®ã qu¸ tr×nh lªn men c¸c chÊt th¶i h÷u c¬ cã thÓ chia thµnh 2 pha: pha
kh«ng kþ khÝ (giai ®o¹n 1) vµ pha kþ khÝ (gåm giai ®o¹n 2 vµ giai ®o¹n 3). Do vËy
®Ó t¹o ra khÝ sinh häc ng-êi ta th-êng thiÕt kÕ hÇm ñ cho c¶ 2 pha cña qu¸ tr×nh lªn
men (2 pha hçn hîp hoÆc cã v¸ch ng¨n 2 pha) hoÆc hÇm ñ nguyªn liÖu ë bÓ hë
kho¶ng 1 tuÇn cho pha kh«ng kþ khÝ råi míi chuyÓn xuèng hÇm kÝn.
b) Nguyên liệu để sản xuất biogas
Nguyªn liÖu ®Ó s¶n xuÊt biogas lµ c¸c chÊt th¶i h÷u c¬ nh- ph©n ®éng vËt,
c¸c lo¹i thùc vËt nh- bÌo, cá, r¬m r¹, phÕ th¶i h÷u c¬ sinh ho¹t… Kh¶ n¨ng khai th¸c
biogas vµ n¨ng l-îng tõ mét sè nguyªn liÖu kh¸c nhau ®-îc tr×nh bµy trong b¶ng 4.6.
B¶ng 4.6. Kh¶ n¨ng khai th¸c biogas vµ n¨ng l-îng cña mét sè vËt liÖu h÷u c¬.
STT VËt liÖu Kh¶ n¨ng khai th¸c N¨ng l-îng hµm chøa
biogas (l/kg v.c.kh«) (kWh/kg v.c. kh«)
1 Th©n lóa m¹ch 200 – 310 1,19 – 1,85
2 Th©n c©y ng« 380 – 460 2,27 – 2,75
3 Th©n c©y khoai t©y 280 – 490 1,67 – 2,93
4 L¸ cñ c¶i ®-êng 400 – 500 2,39 – 2,99
ViÖt Nam lµ n-íc cã nguån nguyªn liÖu ®Ó s¶n xuÊt khÝ sinh häc rÊt ®a d¹ng.
Do lµ mét n-íc n«ng nghiÖp nªn l-îng chÊt th¶i h÷u c¬ trong ch¨n nu«i, trång trät vµ
sinh ho¹t gia ®×nh lµ rÊt lín. ViÖc x©y dùng c¸c hÇm ñ khÝ sinh häc lµ vÊn ®Ò
®ang ®-îc Nhµ n-íc vµ c¸c ®Þa ph-¬ng quan t©m v× nã kh«ng nh÷ng gi¶i quyÕt
®-îc vÊn ®Ò m«i tr-êng mµ cßn t¹o ra ®-îc mét l-îng lín khÝ sinh häc, mét nguån
n¨ng l-îng s¹ch vµ rÎ tiÒn phôc vô cho sinh ho¹t gia ®×nh ®em l¹i lîi Ých kinh tÕ
®¸ng kÓ cho c¸c hé n«ng d©n.
ViÖc ph©n hñy yÕm khÝ x¶y ra tèt nhÊt khi tû lÖ gi÷a c¸cbon vµ nit¬ (C/N) trong
vËt liÖu n»m ë kho¶ng 30 tøc lµ vi khuÈn trong qu¸ tr×nh lªn men sö dông C nhanh h¬n
N ®Õn 30 lÇn. Tû lÖ C/N ë mét sè vËt liÖu th«ng th-êng ®-îc giíi thiÖu ë b¶ng 4.7.
B¶ng 4.7. Tû lÖ C/N cña mét sè lo¹i vËt liÖu
STT Nguyªn liÖu Tû lÖ C/N
1 Ph©n tr©u, bß 24 – 25
2 Ph©n lîn 12 – 20
3 Ph©n gia cÇm 5 – 15
4 Ph©n ng-êi 2,9 – 10
5 BÌo t©y t-¬i 12 – 25
6 R¬m r¹ kh«, trÊu 48 – 110
Qua b¶ng 4.7 cho thÊy r¬m r¹ kh« lµ lo¹i nguyªn liÖu cã tû lÖ C/N cao nhÊt do
®ã viÖc thñy ph©n yÕm khÝ x¶y ra rÊt chËm ®«i khi cã thÓ kh«ng thñy ph©n ®-îc
nh- trÊu. Tuy nhiªn ®é chøa N vµ C cã thÓ thay ®æi theo ®iÒu kiÖn ph¸t triÓn cña
thùc vËt hoÆc møc ®é ¨n uèng, chÕ ®é nu«i nhèt cña sóc vËt. Cô thÓ ®èi víi ph©n
bß s÷a cã thÓ t¹o ra khÝ sinh häc sau 20 ngµy ñ kho¶ng 200 –250 lÝt khÝ sinh häc
trªn 1kg vËt liÖu h÷a c¬ cßn víi ph©n bß thÞt th× ®-îc ®Õn 350 – 450 lÝt. Ngoµi ra
kh¶ n¨ng khai th¸c khÝ sinh häc cßn chÞu t¸c ®éng cña thêi gian ñ. Thêi gian ñ t¨ng sÏ
lµm t¨ng kh¶ n¨ng khai th¸c khÝ sinh häc. Th«ng th-êng theo kinh nghiÖm thùc tÕ th×
ng-êi ta chän thêi gian ñ lµ 20 ngµy v× nÕu ñ l©u h¬n th× kh¶ n¨ng khai th¸c khÝ
sinh häc còng t¨ng lªn rÊt Ýt.
5
3 4
N¾p th-êng ®-îc chÕ t¹o b»ng s¾t hay xim¨ng cã l-íi thÐp. Yªu cÇu cña n¾p lµ
ph¶i ®¶m b¶o ®é kÝn khÝt. Ngoµi ra träng l-îng cña n¾p sÏ t¹o ra ¸p suÊt khÝ. Tuy
H×nh 4.9. HÇm s¶n xuÊt biogas n¾p cè ®Þnh vßm cÇu.
1. BÓ ph©n huû; 2. Bé phËn chøa khÝ; 3. Cöa n¹p;
4. èng dÉn; 5. Cöa lÊy khÝ ra; 6. Cöa th¶i b·.
Gi÷a bÒ mÆt dÞch ph©n hñy vµ mÆt tho¸ng ë ngoµi kh«ng khÝ cã mét ®é
chªnh lÖch nhÊt ®Þnh, thÓ hiÖn ¸p suÊt khÝ trong thiÕt bÞ. KhÝ tÝch l¹i cµng
nhiÒu th× ®é chªnh lÖch nµy cµng lín. Khi lÊy khÝ sö dông dÞch ph©n hñy tõ bÓ
®iÒu ¸p l¹i dån vµo bÓ ph©n hñy vµ ®Èy khÝ ra ngoµi, ¸p suÊt khi ®ã sÏ gi¶m dÇn
tíi 0.
ThiÕt bÞ n¾p cè ®Þnh cã thÓ x©y dùng b»ng nh÷ng vËt liÖu th«ng th-êng nh-
g¹ch, c¸t, xim¨ng nªn gi¸ thµnh h¹ h¬n. Ngoµi ra cã thÓ ®Æt ch×m d-íi mÆt ®Êt nªn
®ì tèn diÖn tÝch h¬n vµ gi÷ æn ®Þnh ®-îc nhiÖt ®é. ThiÕt bÞ lo¹i nµy cã thÓ t¹o
®-îc ¸p suÊt khÝ cao ( tíi 100cm cét n-íc) nªn khÝ dïng rÊt cã hiÖu qu¶.
Ngoµi ra cßn cã hÇm s¶n xuÊt biogas tói chÊt dÎo, ®ã lµ biÕn thÓ cña n¾p cè
®Þnh. ¸p suÊt khÝ t¹o ra do ®é ®µn håi cña vá tói nªn kh«ng cÇn ph¶i cã bÓ ®iÒu ¸p
nh-ng l¹i cÇn cã träng vËt ®Ì lªn tói. Lo¹i nµy cã gi¸ thµnh h¹ nh-ng tuæi thä ng¾n.
Trong sè c¸c lo¹i hÇm ñ khÝ sinh häc, lo¹i n¾p cè ®Þnh vßm cÇu lµ lo¹i cã
nhiÒu -u ®iÓm nhÊt vµ ®ang ®-îc øng dông réng r·i t¹i ViÖt Nam v× thiÕt bÞ nµy
cã mét sè -u ®iÓm sau:
H×nh 4.10. ThiÕt bÞ khÝ sinh häc kiÓu tói chÊt dÎo
1. BÓ ph©n huû; 2. Bé phËn chøa khÝ; 3. Cöa n¹p;
4. Cöa x¶; 5. Cöa lÊy khÝ ra
Hình 4.12. Cấu trúc nhiệt độ sơ giản của trái đất (a) và các dạng biểu hiện của nguồn
năng lượng địa nhiệt
Một phần trong tổng khối nhiệt lượng khổng lồ trong lòng Trái Đất này bắt
nguồn từ quá trình hình thành hành tinh trong khoảng 4,5 tỷ năm trước (Trái Đất hình
thành từ một khối cầu vật chất cực nóng, nguội dần từ trong ra ngoài qua quá trình
quay quanh trục), và phần còn lại là kết quả của quá trình phân rã của các nguyên tố
phóng xạ tồn tại trong lõi Trái Đất. Theo nguyên lý tuần hoàn nhiệt lượng từ nơi nhiệt
độ cao xuống nhiệt độ thấp, dòng nhiệt của Trái Đất di chuyển từ trong lõi ra ngoài vỏ.
Dưới tác động của một quá trình địa chất gọi là kiến tạo mảng, vỏ Trái Đất được
phân ra thành 12 mảng lớn và được tái tạo (tái sinh) một cách chậm chạp qua hàng
triệu năm. Các mảng này di chuyển tương đối với nhau (phân tách hoặc hội tụ) với tốc
độ vài cm/năm. Khi hai mảng kiến tạo va chạm vào nhau, 1 mảng có thể hút chìm
xuống mảng còn lại, tạo nên các trũng đại dương và gây ra động đất. Đây chính là nơi
vỏ Trái Đất trở nên yếu hơn bình thường, cho phép vật chất nóng từ trong lòng đất
dịch chuyển lên mặt. Ở độ sâu lớn tại đới hội tụ, ngay bên dưới mảng sụp chìm, nhiệt
độ tăng lên đủ cao đến nung chảy đất đá và tạo ra magma (nham thạch). Do có mật độ
thấp hơn khối đất đá xung quanh, magma di chuyển lên phía trên vỏ Trái Đất và mang
theo nhiệt lượng cùng với nó. Đôi khi magma di chuyển lên tới bề mặt Trái Đất thông
qua các điểm yếu của vỏ Trái Đất và phun trào lava tại các miệng núi lửa. Tuy nhiên,
- Đá khô nóng: địa nhiệt có thể được khai thác từ một số các nguồn đá khô,
không thấm ở độ sâu khoảng 5-10 m dưới mặt đất, hoặc thậm chí nông hơn ở một số
khu vực. Ý tưởng chủ đạo là bơm nước lạnh xuống nguồn đá khô này tại một giếng
khoan, cho khối nước này chảy qua nguồn đá khô và được nung nóng, sau đó dẫn khối
nước được nung nóng ra một giếng khoan khác và trữ trong bể địa nhiệt. Tuy nhiên
hiện nay vẫn chưa có ứng dụng thương mại nào cho kỹ thuật này (xem Hình 4.14).
- Magma: tất cả các kỹ thuật địa nhiệt hiện nay đều chỉ khai thác “gián tiếp” nhiệt
năng từ lòng đất do magma chuyển lên. Hiện tại vẫn chưa có kỹ thuật này cho phép
khai thác trực tiếp nhiệt lượng từ magma, mặc dù magma là nguồn nhiệt lượng cực kỳ
dồi dào trong vỏ Trái Đất.
- Nước muối địa áp là dạng nước nóng, áp suất cao và chứa methane hòa tan. Cả
nhiệt và methane đều có thể được sử dụng để sản xuất điện thông qua turbine.
4.2.3. Ứng dụng của địa nhiệt
Địa nhiệt có 3 ứng dụng chính như sau:
- Sản xuất điện năng: người ta có thể khoan các giếng xuống các bể địa nhiệt để
hút hơi nước hoặc nước nóng cho việc vận hành turbine trên mặt đất, một cách trực
tiếp hoặc gián tiếp.
- Sử dụng trực tiếp: nguồn nước nóng gần bề mặt Trái Đất có thể được sử dụng
trực tiếp như nhiệt lượng. Một số ứng dụng trực tiếp của địa nhiệt là: hệ thống suởi,
nhà kính, sấy thóc, làm ấm nước ở các trại nuôi cá, hoặc một số các ứng dụng trong
công nghiệp như tiệt trùng sữa.
Hình 4.16. Nhà máy điện địa nhiệt chạy bằng hơi khô
b) Flash steam (nhà máy điện địa nhiệt chạy bằng nước siêu lỏng)
Flash steam là dạng kỹ thuật phổ biến nhất hiện nay. Nhà máy dạng flash steam
sử dụng nước nóng ở áp suất cao (>1820C) từ bể địa nhiệt. Nước nóng ở nhiệt độ cao
này tự phụt lên bề mặt thông qua giếng do chính áp suất của chúng. Trong quá trình
nước nóng được bơm vào máy phát điện, áp suất của nước giảm rất nhanh khi phụt lên
gần mặt đất. Chính sự giảm áp này khiến nước nóng bốc hơi hoàn toàn và hơi nước
sinh ra sẽ làm quay turbine phát điện. Lượng nước nóng không bốc thành hơi sẽ được
bơm xuống trở lại bể địa nhiệt thông qua giếng bơm xuyên (injection wells).
c) Binary-cycle (nhà máy điện địa nhiệt 2 chu trình)
Các nhà máy địa nhiệt binary-cycle sử dụng nước nóng có nhiệt độ trung bình
dao động từ 107-1820C từ bể địa nhiệt. Tại các hệ thống binary, chất lỏng địa nhiệt
được dẫn qua một bên của hệ thống trao đổi nhiệt để nung nóng chất lỏng thứ cấp ở
ống dẫn bên cạnh. Chất lỏng thứ cấp thường là hợp chất hữu cơ có nhiệt độ sôi thấp
hơn nhiệt độ sôi của nước, ví dụ như Isobutane hoặc Iso-pentane. Chất lỏng thứ cấp
sau khi được đun sôi ở hệ thống trao đổi nhiệt sẽ bốc hơi và được dẫn vào turbine.
Lợi thế chủ yếu của hệ thống binary là chất lỏng thứ cấp có nhiệt độ sôi thấp hơn
nhiệt độ sôi của nước, do đó các bể địa nhiệt nhiệt độ thấp vẫn có thể được sử dụng.
Mặt khác, do hệ thống binary cycle là một chu trình tương đối kính nên hầu như không
có khí thải nào được sinh ra. Vì những lý do kể trên mà các chuyên gia địa nhiệt dự
đoán rằng hệ thống binary sẽ là giải pháp kỹ thuật chủ đạo cho việc sản xuất điện địa
nhiệt trong tương lai.
Hình 4.17. Nhà máy điện địa nhiệt chạy bằng nước siêu lỏng
Hình 4.18. Nhà máy điện địa nhiệt chạy bằng 2 chu trình
Trong quá trình vận hành của bất kỳ nhà máy địa nhiệt điện nào, hệ thống làm
nguội đóng một vai trò hết sức quan trọng. Các tháp làm nguội (cooling towers) giúp
turbin không bị quá nóng và từ đó kéo dài thời gian sử dụng. Có hai dạng hệ thống làm
nguội chính yếu: dùng nước hoặc dùng không khí.
Một hệ thống bơm địa nhiệt bao gồm các phần như sau:
+ Hệ nối đất (earth connection): sử dụng Trái Đất như nguồn nhiệt, bao gồm một hệ
các ống dẫn, thường được gọi là loop, chôn dưới mặt đất ở khu vực gần công trình xây
dựng. Hệ thống này có thể được chôn dọc hoặc chôn ngang. Hệ thống này luân chuyển
một lưu chất (nước, hoặc hỗn hợp nước và chất chống đông – antifreeze) hấp thụ
nhiệt, hoặc “nhả” nhiệt, từ khối đất đá ép xung quanh, tùy thuộc vào nhiệt độ không
khí cao hơn hoặc thấp hơn nhiệt độ đất.
+ Bơm nhiệt (heat pump): một máy bơm nhiệt hút nhiệt từ lưu chất luân chuyển
trong loop, tập trung nhiệt này lại và chuyển nó vào trong tòa nhà. Để làm mát, quá
trình này được đảo ngược.
+ Các ống dẫn nhiệt (ductwork) thông thường được sử dụng để phân bố không
khí ấm hoặc mát từ bơm địa nhiệt ra khắp tòa nhà.
Trong thập kỷ vừa qua, một số quốc gia đã tiến hành khuyến khích việc khai triển bơm
địa nhiệt cho việc điều hòa nhiệt độ vào mùa đông và mùa hè với nhiều chương trình
trợ giá hấp dẫn khác nhau. Hoa Kỳ hiện vận dẫn đầu trong ứng dụng bơm địa nhiệt
(đạt 3.300 GWh/năm theo số liệu năm 1999), với tăng trưởng mỗi năm là 10%. Các
quốc gia dẫn đầu khác là Thụy Sĩ, Thụy Điển, Đức, Áo và Canada.
Thủy triều sinh ra do sức hút của mặt trăng, mặt trời lên quả đất, trong đó ảnh
hưởng của mặt trăng tới thủy triều lớn hơn.Có hai lần triều cao và thấp trong một ngày
(do sự tự quay của trái đất quanh trục của nó).
Nước triều cường và triều kiệt xảy ra theo chu kỳ 14 ngày.
- Thủy triều cực đại (triều cường-khi ảnh hưởng của lực hấp dẫn lớn nhất-lúc đó mặt
trăng, mặt trời và trái đất giống như thẳng hàng) xảy ra ngay sau khi trăng tròn và
trăng non, có sự chênh lệch lớn giữa độ cao nước dâng và nước hạ
- Thủy triều kiệt (khi ảnh hưởng của sức hút thấp nhất-khi đường thẳng nối trái đất và
mặt trăng tạo thành góc 90 độ với đường thẳng nối trái đất và mặt trời)
Việc chế ngự nguồn năng lượng này đã được chú ý hàng thế kỷ nay. Vào thế kỷ 18,
nhà máy năng lượng nước vận hành nhờ sự chuyển động lên xuống thủy triều được
xây dựng ở New England. Bơm nước cống rãnh dùng năng lượng thủy triều ở
Hamburg, Đức mãi đến năm 1880. Còn bơm nước sử dụng năng lượng thủy triều lắp
Hình 4.23. Sơ đồ cơ chế vận hành của nhà máy điện thủy triều
Hiện nay, các trạm điện thủy triều đang hoạt động ở Pháp, Nga, Trung Quốc và
Canada. Tuy nhiên, năng lượng thủy triều không phải là một nguồn năng lượng quan
trọng trên toàn thế giới, bởi vì chỉ có một số ít các vị trí có mực nước triều dâng cao đủ
để việc phát điện mang tính khả thi.
Nhà máy điện thủy triều đầu tiên được xây dựng ở Pháp nơi sông Rance đổ ra Đại
Tây Dương trên vùng biển Brittany. Hoàn thành năm 1968, nó có công suất 240 MW.
"Lòng chảo" (basin) của nó rộng 8,5 dặm vuông và có mực triều dâng cao nhất là 27,6
feet (8,28m).
Trạm thủy triều đầu tiên ở Bắc Mỹ đặt trên sông Annapolis, nơi đổ vào vịnh
Fundy. Hoàn thành năm 1984, nó có công suất 20 MW.
Hình 4.24. Sơ đồ công nghệ chuyển hóa năng lượng nhiệt đại dương
Sóng đại dương sinh ra do gió, gió gây ra bởi mặt trời (chuyển động của các
khối khí do chênh lệch nhiệt độ v.v..). Vì vậy, năng lượng sóng được xem như dạng
gián tiếp của năng lượng Mặt Trời. Giống như các dạng dòng nước chảy khác, năng
lượng sóng có khả năng làm quay tuabin phát điện. NaUy, Anh, Nhật và một số nước
đang nghiên cứu sản xuất điện từ sóng đại dương. Trạm phát điện từ sóng dùng một kỹ
thuật đơn giản. Thiết bị bằng bêtông rỗng được đặt chìm vào trong một máng rãnh
ngoài khơi để "bắt" sóng. Mỗi khi một cơn sóng mới đi vào khoang (khoảng 10
giây/lần), nước dâng lên trong khoang đẩy không khí đi vào lỗ thoát có đạt một tuabin,
làm quay tuabin chạy máy phát điện. Khi sóng hạ, nó kéo không khí trở lại khoang và
sự chuyển động của không khí lại tiếp tục làm quay tuabin.
Điều cần lưu ý là sự cố ngoài khơi có thể làm hư hỏng thiết bị. Năm 1995, trạm phát
điện bằng sóng đầu tiên của thế giới ngoài biển Bắc Scotland đã bị nhấn chìm trong
một cơn bão sau khi nó hoạt động chưa đầy một tháng.
Mặc dù nguồn năng lượng từ sóng đại dương là rất lớn nhưng cho đến nay, hiệu suất
năng lượng thu được còn rất thấp nên việc ứng dụng năng lượng sóng chưa mang tính
kinh tế và thực tiễn.