You are on page 1of 3

TRAO DUYÊN

I. Mở bài
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới. Truyện Kiều của ông được
xem là một kiệt tác của nhân loại. Bài thơ như tiếng khóc ai oán, một bản sầu ca não nề của người phụ nữ
trong xã hội phong kiến đầy rẫy những thối nát, bất công. Đoạn trích "Trao duyên" từ câu 723-756 thuộc
phần Gia biến và lưu lạc đã khép lại chặng đời êm đềm của Kiều, mở ra một chuỗi dài những sóng gió chất
chồng lên cuộc đời nàng. Đoạn trích thể hiện sâu sắc bi kịch tình yêu tan vỡ, nỗi lòng đau xót của Thúy Kiều
khi phải trao mối tình mặn nồng giữa nàng và Kim Trọng cho Thúy Vân, và nỗi đau tột cùng về số phận bi
kịch của nàng. Nỗi đau được khắc họa rõ nét nhất qua
II. Thân bài
Sau đêm Kiều và Kim Trọng thề nguyền, Kim Trọng phải trở về Liêu Dương hộ tang chú. Gia đình Kiều
gặp biến cố, Kiều quyết định bán mình chuộc cha. Đêm trước lúc theo Mã Giám Sinh, Kiều vẫn canh cánh
món nợ ân tình với Kim Trọng. Thúy Vân tỉnh giấc đến bên ân cần hỏi han và Kiều nảy ra ý định trao duyên,
trao lại mối tình đầu dang dở cho em, nhờ em thay mình trả nghĩa cho chàng Kim. Đây là một nghịch cảnh
éo le, một thảm kịch đầy nước mắt của cuộc đời Kiều.
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Ở hai câu thơ này, tác giả đã tạo ra một tình huống, một không khí đặc biệt quan trọng. Những lời nói,
hành động của Kiều trở nên trang trọng khác thường. Nguyễn Du sử dụng từ “cậy” mà không dùng “nhờ”,
dùng “chịu” mà không dùng nhận. Bởi “cậy” ngoài nét nghĩa là “nhờ” còn là sự ủy thác trong một niềm tin
tưởng tuyệt đối về một việc rất hệ trọng như một sự hi vọng thiết tha của một lời gửi gắm, tựa nương. Dùng
“chịu” mà không dùng “nhận”, bởi “nhận” thiên về sự tự nguyện còn “chịu” là nhận lời trong tư thế bị nài ép,
bắt buộc. Kiều dường như đã đưa Vân vào hoàn cảnh không thể chối từ. Ba động từ nối tiếp nhau ngồi – lạy
– thưa gợi nhiều suy nghĩ. Tại sao Kiều lại phải lạy Vân? Tại sao lại phải lạy rồi mới thưa? “Lạy”, “thưa”
vốn là những từ thể hiện thái độ trân trọng, trang nghiêm và kính cẩn – thường dùng làm chỉ cho những
người bề trên hoặc người mình chịu ơn. Lúc này, Kiều đã chủ động hạ mình - trong quan hệ người ban ơn –
kẻ chịu ơn bởi Kiều ý thức được sự việc mà nàng nói ra đây sẽ tác động ảnh hưởng tới cả cuộc đời của Vân.
Vì vậy, lạy ở đây là lạy cái đức hi sinh của Vân. Kiều đã hạ mình hết mực với một thái độ trang trọng,
nghiêm túc. Từ lời ướm hỏi và hành động thỉnh cầu, ta có thể thấy Kiều là một cô gái thông minh, khéo léo,
chu toàn, đồng thời cũng thấy được sự sâu sắc và tinh tế của Nguyễn Du qua việc diễn tả nỗi lòng nhân vật.
Sau cái phút ban đầu khó nói, giờ đây nàng bộc bạch với em gái về mối tình đẹp đẽ mà dang dở của
mình:
“ Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”
Tình yêu dang dở của Kiều và Kim Trọng được trình bày ngắn gọn qua thành ngữ “giữa đường đứt
gánh”. Đồng thời sự kết hợp “giữa đường đứt gánh” và “tương tư” đã cụ thể hóa một khái niệm trừu tượng
khiến nó như có hình có khối và càng khắc sâu thêm nỗi đau nơi tâm hồn Kiều. Vì thế mà “mặc em” tùy em
định liệu nhưng cũng chỉ có duy nhất em là người có thể quyết định mà thôi. Câu thơ tuy không phải lời trao
duyên chính thức nhưng đã phần nào ràng buộc. Kiều điểm qua những sự kiện quan trọng trong cuộc đời
mình. Đó là lúc nàng gặp chàng Kim và sóng gió bất kỳ xẩy ra. Những kỉ niệm với Kim Trọng được liệt kê
ngắn gọn với hình ảnh “quạt ước”, “chén thề” cũng đủ cho ta thấy được sự gắn bó sâu nặng, tình yêu tha
thiết, nặng nghĩa thề non của họ. Có thể thấy, diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao
duyên, đặc biệt quan trọng qua những câu thơ này vô cùng xúc động. Điệp từ “khi” như nhằm gợi nhắc, nhấn
mạnh những kỉ niệm còn tươi nguyên, vẹn nguyên ấy. Nhưng sự sung sướng không được bao lâu thì “sóng
gió bất kỳ”. Kiều buộc phải chọn dứt bỏ, hi sinh chữ tình để làm tròn chữ hiếu, cũng có nghĩa nàng đã bội
ước với chàng Kim. Không còn nỗi đau khổ nào hơn khi vì chữ hiếu mà phải dứt bỏ chữ tình với chàng Kim.
Vì thế Thúy Kiều cũng mong Thúy Vân thấu hiểu cho nỗi khổ của mình mà nhận lời chắp nối tơ duyên với
Kim Trọng. Lời giãi bày của Kiều cho thấy nàng là một cô gái chung tình, luôn thiết tha với tình yêu, đặt
hạnh phúc người mình yêu lên trên hạnh phúc của mình.
Nếu sáu câu trên có tính chất thông báo nhưng lời trao duyên vẫn chưa trực tiếp thì đến bốn câu sau
Kiều đã trực tiếp đưa ra lý lẽ để thuyết phục em nhận lời.
“ Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương tan
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Ngày xuân ở đây không chỉ mang ý nghĩa là tuổi trẻ mà đó còn là một những tháng ngày vui vẻ sự sung
sướng ấm êm. Tuổi trẻ của Vân là lý do đầu tiên được nàng viện dẫn. Thúy Vân vẫn còn trẻ, còn cả tương lai
phía trước, có thể gánh tiếp mối duyên với chàng Kim, với người mà Kiều yêu thương. Tình máu mủ thiêng
liêng là lý do quan trọng nhất để thuyết phục Vân nhận lời.
Không những thế, Kiều còn lấy cái chết của mình, sự chịu ơn của mình để thuyết phục em. Lấy cái chết
không nhằm mục tiêu đẩy Vân vào tình thế khó xử mà để thể hiện sự toại nguyện, hàm ân của Kiều so với
Vân nếu em đồng ý. Lời thỉnh cầu của Kiều chủ yếu thiên về mặt tình cảm. Kiều luôn đặt mình trong vị thế
của người chịu ơn nên lời lẽ của nàng cũng vì thế mà trở nên khẩn khoản tha thiết. Tâm trạng của nàng lúc
này chỉ hướng về việc thuyết phục em nhận lời, là tiếng nói của lý trí bỏ qua trái tim đang quặn thắt. Đến
đây, diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên đã được đẩy lên rất cao độ, cho thấy biết
bao giằng xé trong tâm hồn nàng Kiều. Thúy Kiều đã thuyết phục Vân không chỉ bằng sự rành rẽ của lí trí
mà bằng cả tấm lòng, bằng tình cảm tha thiết, thẳm sâu, cái lí và cái tình quyện chặt, lời lẽ sắc xảo và tha
thiết.
Trong quá trình phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, ta thấy sau
lúc tìm lý lẽ thuyết phục em, Kiều không để cho Vân có cơ hội nói mà nàng lập tức hành động – trao kỷ vật
cho Vân. Gọi là kỷ vật bởi lẽ những vật này chứa đựng biết bao kỷ niệm ngọt ngào của cuộc tình mới chớm.
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung”

Duyên này chính mối tình giữa nàng và Kim Trọng. Những kỉ vật: “chiếc vành”, “bức tờ mây” gắn với
bao kỉ niệm yêu thương sâu đâm. Trao duyên bởi thế cũng là trao kỉ vật. Trao duyên cho em, ở Kiều nổi dậy
sự mâu thuẫn, giằng xé giữa lí trí và tình cảm. Trao kỷ vật cho Vân nhưng lại nói với em đây là “của chung”,
biết bao đau đớn trong hai từ “của chung” ấy. Của chung ấy là của người nào? Nếu trước kia đó là của Kim –
Kiều thì giờ có một sự đổi ngôi Kim – Vân, nhưng còn dường như thể Kim – Kiều – Vân. Qua lời trao
duyên, ta thấy được tâm trạng giằng xé, đau đớn, nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều, đồng thời cũng thấy
được nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ miêu tả tâm lí bậc thầy của Nguyễn Du.

Khi Vân đồng ý nhận lời và nhận kỷ vật là lúc thảm kịch trong tim Kiều bắt đầu trào dâng không sao
kìm nén. Tâm trạng, sự đau đớn của Kiều được soi chiếu ở sự đối lập, xích mích còn – mất, hợp – tan trong
cõi âm khí và dương khí cách trở. Sau lúc trao duyên, Kiều hướng về tương lai và dặn dò em:
“Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”
Tình yêu đối với kiều chính là lẽ sống, mất đi tình yêu, mất đi hy vọng cuộc đời nàng giờ đây không còn
ý nghĩa. Đau đớn hơn, Kiều lại là người chính tay dập tắt mối tình mới chớm ấy. Hướng về tương lai, Kiều ý
thức được mình là một người “mệnh bạc”, Điệp khúc “mệnh bạc” này đã gắn chặt với cuộc đời Kiều. Phân
tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, ta nhận ra những chuỗi ngày thảm kịch
của tương lai cũng không đau xót bằng cõi lòng nàng đã nát tan ở hiện tại.
“Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Từ “của chung” giờ đã chuyển thành “của tin”. Kỷ vật trao thì đã thành của chung, nhưng kỷ niệm và
tình cảm ấy không thể trao trọn nên vẫn là của tin của chỉ Kiều và Kim. Một lần nữa gợi nhắc lại kỷ niệm
“phím đàn”, “mảnh hương huyền”, nhưng bao kỷ niệm giờ chỉ với tồn tại trong ký ức, trong quá khứ xa xăm.
Nàng hướng tầm nhìn đến tương lai nhưng tương lai lại càng tuyệt vọng bế tắc.
* Tổng kết: Đoạn trích đã thể hiện tâm trạng đau khổ, tuyệt vọng của Kiều khi tình duyên dang dở,
đồng thời ở đó hiện lên vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách cao đẹp của nàng. Nguyễn Du cũng thể hiện sự cảm thông
sâu sắc cho kiếp hồng nhan, tố cáo xã hội phong kiến vùi dập tình yêu lứa đôi làm tan vỡ hạnh phúc và quyền
sống của con người. Nguyễn Du đã vận dụng thành công phép biện chứng của tâm hồn diễn tả tinh tế từng
bước chuyển biến tâm trạng của Kiều. Cách sử dụng từ ngữ kết phù hợp với hình ảnh giàu giá trị biểu cảm đã
diễn tả rõ nét tâm trạng thảm kịch giằng xé của Kiều. Còn gì đau đớn hơn khi chính tay mình dập tắt mối tình
đầu tươi đẹp. Thông qua đó, người đọc đồng cảm và thấu hiểu hơn với Kiều.
III/ Kết bài
Đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” là một khúc “đoạn trường” số 1 trong thiên “Đoạn trường tân
thanh” của cuộc đời Kiều. Với con mắt tinh đời “trông thấu sáu cõi nhân gian”, Nguyễn Du đã tái hiện lại
cuộc trao duyên với biết bao cảm xúc ngổn ngang ấy. Thông qua đó, ta càng thêm hiểu hơn cho Thúy Kiều
hiểu hơn cho quyết định trao duyên những tưởng đầy vô lý ấy nhưng lại thấm đượm một tình yêu thực bụng
mà nàng giành

You might also like