You are on page 1of 12

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á

KHOA:CNKT ÔTÔ

BÀI TẬP TIỂU LUẬN


Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam

ĐỀ TÀI : Quan điểm của Đảng về hoàn thiện thể chế


kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay.

GVHD : Th.s Nguyễn Thị Thu Vân


SVTH : Vũ Ngọc Sơn
ID: 44640
Lớp : AE18A2B
Khóa : 2018-2022

Đak Lak Ngày 28, tháng 9 năm 2021


Mục Lục
I. Phần mở đầu
II. Phần Nội Dung
1. Vai trò, định hướng phát triển các thành phần kinh tế trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong cơ chế vận
hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Để tiếp tục hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

III. Phần Kết Luận


IV. Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo
I. Phần Mở Đầu

Nghị quyết Ðại hội lần thứ XIII của Ðảng đề ra ba đột phá chiến lược phù hợp với giai đoạn mới, trong đó đột phá
chiến lược thứ nhất là: “Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ðổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả. Tập
trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt
hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh
doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế, thúc
đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính, hợp tác công – tư; đẩy
mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm
tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật
TCCS - Đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa (XHCN) là một nội dung quan trọng trong Văn kiện các đại
hội gần đây của Đảng. Điểm mới trong Văn kiện Đại hội XIII là làm rõ
hơn vai trò, định hướng phát triển các thành phần kinh tế trong nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN; xác định rõ hơn mối quan hệ giữa Nhà
nước, thị trường và xã hội trong cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN và đề ra nhiều nhiệm vụ mới, nội dung mới để tiếp
tục hoàn thiện toàn diện,
II. Phần Nội Dung
1. Vai trò, định hướng phát triển các thành phần kinh tế trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
. Sự phát triển của xã hội loài người được đánh dấu bằng nhiều tiêu chí, trong đó có tiêu chí
về sự phát triển kinh tế ở những thời kỳ, những giai đoạn khác nhau. Từ chỗ ban đầu thực
hành một “nền kinh tế cướp đoạt” (theo cách nói của Ph. Ăng-ghen), con người đã phải trải
qua hàng vạn năm để biết dùng lửa nấu chín thức ăn và sưởi ấm, biết thuần hóa súc vật, biết
chăn nuôi, biết làm nghề nông, biết chế tạo ra những vật phẩm đơn giản đáp ứng nhu cầu đơn
giản và rất hạn chế trong một phạm vi cộng đồng nhỏ hẹp. Dần dần, khi một cộng đồng có
thừa một loại sản phẩm nào đó đã được làm ra nhưng lại cần đến những loại sản phẩm khác
mà cộng đồng khác dư thừa thì sự trao đổi bắt đầu diễn ra. Sản xuất phát triển thì sự trao đổi
ấy diễn ra ngày càng thường xuyên hơn trên phạm vi ngày càng mở rộng hơn. Như vậy, từ
hình thái kinh tế tự nhiên, nhân loại chuyển dần lên một hình thái kinh tế cao hơn là sản xuất
hàng hóa - đó là kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế hàng hóa ra đời là một bước tiến lớn trong lịch
sử nhân loại, đánh dấu sự phát triển của nền kinh tế, cho tới nay nó đã phát triển và đạt tới
trình độ rất cao đó là nền kinh tế thị trường hiện đại.

Nền kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế - xã hội mà ở đó các quan hệ kinh tế, sự trao
đổi, sự mua bán các sản phẩm và nhất là sự phân chia lợi ích, tìm kiếm lợi nhuận,... đều do
các quy luật của thị trường điều tiết và chi phối. Không thu được lợi nhuận thì người sản
xuất, kinh doanh không còn động lực để tiếp tục, nhất là để thúc đẩy công việc sản xuất và
kinh doanh của họ, do đó sự trì trệ của xã hội là khó tránh khỏi. Cho nên có thể nói kinh tế thị
trường là thành quả quan trọng của sự phát triển lâu dài trong nền văn minh của toàn thể
nhân loại từ khi nó xuất hiện chứ không phải là của riêng hoặc là độc quyền của một hình thái
kinh tế - xã hội nào. Đặc biệt, như C. Mác viết, trong nền kinh tế thị trường của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa thì việc tìm kiếm “lợi nhuận là quy luật tuyệt đối của phương thức
sản xuất này”(1). Trong nền kinh tế thị trường, rõ nhất là trong phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa, lợi nhuận là yếu tố trung tâm, là động lực tuyệt đối thúc đẩy phát triển sản xuất,
tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả của hoạt động sản xuất, kinh doanh. Kinh tế thị
trường là thành quả, là sản phẩm của sự phát triển của kinh tế toàn thế giới trải qua nhiều thế
kỷ và được chủ nghĩa tư bản hiện đại nâng lên một tầm cao mới chứ không phải chỉ là sản
phẩm của riêng chủ nghĩa tư bản.

Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường, kể cả nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại,
không phải không có những hạn chế, những nhược điểm rất cơ bản, thậm chí cả những
khuyết tật không dễ gì sửa chữa. Như C. Mác đã chỉ ra, quy luật tuyệt đối của các nhà tư bản
là tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Nếu không thu được lợi nhuận tối đa thì chẳng có một nhà tư
bản nào lại chịu bỏ vốn ra để sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, theo C. Mác, dưới chủ nghĩa
tư bản, “lợi nhuận chỉ là hình thái thứ sinh, phái sinh và được biến đổi của giá trị thặng dư, là
hình thái tư sản trong đó đã xóa hết những nguồn gốc của nó” (2), còn giá trị thặng dư và tỷ
suất giá trị thặng dư “là biểu hiện chính xác của mức độ tư bản bóc lột sức lao động, hay
mức độ nhà tư bản bóc lột người công nhân”(3). Nói cách khác, trong nền kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa, chính lao động thặng dư của người công nhân là nguồn gốc đem lại lợi nhuận
và làm giàu cho nhà tư bản.

Như một quy luật, khi mà lợi nhuận kếch xù và sự giàu có tập trung về phía các nhà tư bản
thì tất nhiên là sự khốn cùng và sự nghèo đói sẽ đổ dồn về phía những người lao động làm
thuê, về phía những người vô sản. Nói cách khác, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa kể cả ở giai đoạn hiện nay, của cải vẫn đang ngày càng tập trung về một phía, còn
nghèo khó thì vẫn đổ dồn về phía người lao động. Ở đây, người lao động tuy là lực lượng chủ
yếu làm ra của cải cho xã hội nhưng lại được hưởng rất ít thành quả do chính họ làm ra. Vì
vậy, sẽ không quá nếu nói rằng, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, người lao
động không phải là mục tiêu hay đối tượng của sự phục vụ của nền kinh tế.

Thực tế ở những năm đầu thế kỷ XXI cho thấy sự bất công, tình trạng phân cực giàu
nghèo khi trên thế giới hiện nay chỉ 1% người giàu nhưng đã chiếm tới 90% của cải của toàn
xã hội. Năm 2017, trên toàn thế giới có tới 200 triệu người phải chịu cảnh thất nghiệp thường
xuyên. Con số này hiện nay chắc chắn đã tăng cao hơn rất nhiều. Điều đó có nghĩa rằng, nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dù hiện đại đến cỡ nào thì vẫn không thể giải quyết được
tình trạng bất công, tình trạng phân cực giàu nghèo ngày càng trở nên gay gắt hơn.

2. Quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong cơ chế


vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Trong cơ chế vận hành của nền kinh tế hiện đại có vai trò của điều
tiết thị trường, đồng thời có vai trò quản lý của Nhà nước và vai trò
của các tổ chức xã hội. Quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã
hội là những quan hệ cơ bản tạo nên cơ chế vận hành của nền kinh
tế thị trường hiện đại. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã xác định
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của nước ta là nền kinh
tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế vừa vận hành đồng bộ, đầy
đủ theo các quy luật của kinh tế thị trường, vừa có sự quản lý của
Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm định hướng XHCN phù
hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; do đó, yêu cầu
trong lãnh đạo quản lý nền kinh tế phải xử lý tốt mối quan hệ giữa
Nhà nước và thị trường. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa
XII đã bổ sung yếu tố xã hội vào mối quan hệ này, yêu cầu phải
quán triệt và xử lý tốt mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã
hội trong quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

- Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục khẳng định trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, giữa Nhà nước, thị trường và xã hội có
mối quan hệ chặt chẽ và tiếp tục yêu cầu phải nắm vững và xử lý
tốt mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong quản lý
nền kinh tế; đồng thời, có nhiều nhận thức mới, quan điểm mới làm
rõ hơn mối quan hệ này. Văn kiện Đại hội XIII xác định

- Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa,
dịch vụ. Đối với tuyệt đại bộ phận hàng hóa, dịch vụ cho sản xuất
và tiêu dùng xã hội, giá cả là do các quan hệ cung
- - Cầu, cạnh tranh, chi phí sản xuất, các quan hệ kinh tế trên thị
trường quyết định hết sức linh hoạt (trừ một số hàng hóa đặc biệt
thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước, giá cả do Nhà nước quyết
định). Thị trường tạo ra động lực huy động, phân bổ, sử dụng hiệu
quả các nguồn lực. Những biến động của quan hệ cung - cầu, giá cả
trên thị trường là tín hiệu để những người nắm giữ các nguồn lực
quyết định đầu tư, đưa các nguồn lực đầu tư vào lĩnh vực nào, sản
phẩm nào, địa bàn nào hay rút các nguồn lực khỏi đầu tư, chuyển
đầu tư từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác, từ sản phẩm này sang
sản phẩm khác để có hiệu quả cao nhất. Thị trường là yếu tố trực
tiếp điều tiết sản xuất, lưu thông và hoạt động của doanh nghiệp
một cách linh hoạt. Doanh nghiệp sẽ điều chỉnh sản xuất, thu hẹp
hoặc đình chỉ sản xuất hàng hóa, dịch vụ cung đã vượt cầu, chuyển
sang sản xuất những hàng hóa, dịch vụ cung nhỏ hơn cầu để có
hiệu quả cao. Những doanh nghiệp, người sản xuất, kinh doanh nào
thích ứng được với những biến động của thị trường, tận dụng được
cơ hội sẽ phát triển, ngược lại, doanh nghiệp, người sản xuất, kinh
doanh nào không theo kịp sự biến động, phát triển của thị trường sẽ
thua lỗ, phá sản. Thị trường tạo cơ chế thanh lọc những doanh
nghiệp, người sản xuất, kinh doanh yếu kém, thúc đẩy kinh tế phát
triển.

- - Các tổ chức xã hội có vai trò liên kết, phối hợp hoạt động, giải
quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên, hội viên; cung
cấp dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động của các thành viên, hội viên, bảo
vệ lợi ích của các thành viên, hội viên. Bằng những hoạt động này,
các tổ chức xã hội có tác động tới sản xuất, lưu thông, trao đổi, tiêu
dùng hàng hóa, dịch vụ, tác động tới tình hình thị trường. Các tổ
chức xã hội có vai trò phát hiện, đấu tranh với các hoạt động gian
lận, tình trạng độc quyền, đầu cơ, thao túng thị trường, cạnh tranh
không lành mạnh, làm méo mó thị trường...
3. . Để tiếp tục hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa

- Sự lựa chọn đúng đắn của Đảng ta


Thực tế 35 năm đổi mới đã khẳng định việc xây dựng và phát
triển KTTT định hướng XHCN là lựa chọn đúng đắn của Đảng
ta. Phát triển KTTT định hướng XHCN đã đáp ứng được với yêu
cầu thực tiễn và thực hiện cam kết hội nhập quốc tế. Hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Việc đổi mới, sắp
xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước được
đẩy mạnh; kinh tế tập thể được quan tâm đổi mới; kinh tế tư
nhân ngày càng được coi trọng; đội ngũ doanh nhân không
ngừng lớn mạnh; thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt được kết quả
tích cực.

Đặc biệt, trong nhiệm kỳ Đại hội XII, dù phải đối mặt với vô vàn
khó khăn, thách thức, nhất là tác động nặng nề của cuộc khủng
hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu do đại dịch Covid-19 nhưng
nhờ phát triển KTTT định hướng XHCN một cách sáng tạo, kinh
tế vĩ mô của chúng ta vẫn ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng
trưởng được duy trì ở mức khá cao; tiềm lực, quy mô và sức cạnh
tranh của nền kinh tế được nâng lên. Các yếu tố thị trường và các
loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn, gắn kết với thị
trường khu vực và thế giới. Môi trường đầu tư, kinh doanh được
cải thiện và thông thoáng hơn; quyền tự do kinh doanh và cạnh
tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế được bảo đảm hơn. Các cơ chế, chính sách được ban hành
trong nhiệm kỳ qua đã chú trọng kết hợp giữa phát triển kinh tế
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo cơ hội cho người
dân tham gia và nhận được thành quả từ quá trình phát triển
kinh tế. Phương thức lãnh đạo của Ðảng, hoạt động của Nhà
nước cũng từng bước được đổi mới phù hợp hơn với yêu cầu phát
triển nền KTTT định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.

Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ 2016-2021 của Chính phủ trước Quốc
hội mới đây, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định “Đột
phá quan trọng, mở đường là đột phá về hoàn thiện thể chế
KTTT định hướng XHCN. Điểm mới trong triển khai xây dựng,
hoàn thiện pháp luật phải quy định ngắn gọn, dễ hiểu, dễ thực
hiện gắn với tổ chức thi hành hiệu quả”.

Chính nhờ thực hiện hiệu quả khâu đột phá nói trên và phát huy
tinh thần, khát vọng của con người Việt Nam mà trong năm 2020
vừa qua, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 bùng phát, thiên tai
diễn ra liên tiếp mà tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của chúng ta
vẫn tăng 2,91%. Việt Nam là nước duy nhất có tăng trưởng
dương trong 6 nền kinh tế lớn tại Đông Nam Á.
- Nhận thức mới về KTTT định hướng XHCN
Theo đánh giá của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII
trong Báo cáo chính trị trình Đại hội XIII thì bên cạnh những
thành tựu đạt được, việc hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình
tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong 5 qua vẫn còn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản;
năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế
chưa cao. Một số quy định pháp luật, cơ chế, chính sách còn
chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu ổn định, nhất quán; còn có biểu
hiện lợi ích cục bộ, chưa tạo được bước đột phá trong huy động,
phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Hiệu
quả hoạt động của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh nghiệp
trong nền kinh tế còn nhiều hạn chế. Việc tiếp cận một số nguồn
lực xã hội chưa bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế. Cải cách hành
chính còn chậm. Môi trường đầu tư, kinh doanh chưa thực sự
thông thoáng, mức độ minh bạch, ổn định chưa cao. Một số loại
thị trường chậm hình thành và phát triển, vận hành còn nhiều
vướng mắc, kém hiệu quả. Giá cả một số hàng hóa, dịch vụ thiết
yếu chưa được xác lập thật sự theo cơ chế thị trường...

Những hạn chế, yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân trong đó
có nguyên nhân quan trọng là do nhận thức của một số cán bộ,
đảng viên về nền KTTT định hướng XHCN chưa đầy đủ. Tư duy
bao cấp còn ảnh hưởng nặng nề. Năng lực xây dựng và thực thi
thể chế còn nhiều bất cập, chưa theo kịp với sự phát triển của nền
KTTT. Vai trò, chức năng, phương thức hoạt động của các cơ
quan trong hệ thống chính trị chậm đổi mới phù hợp với yêu cầu
phát triển KTTT trong điều kiện hội nhập quốc tế.

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, vấn đề hoàn thiện thể
chế KTTT định hướng XHCN đã được nhiều đại biểu đề cập
trong tham luận, khái niệm KTTT định hướng XHCN cũng đã
được bổ sung, phát triển mới.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XII trình Đại hội XIII nêu rõ: “KTTT định hướng XHCN là mô
hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Đó là nền KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế, vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT, có sự quản lý
của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN vì mục tiêu "dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của đất nước. Nền KTTT định hướng XHCN
Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể,
kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài ngày càng được khuyến khích phát triển”.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã có bước phát triển mới trong
nhận thức về KTTT định hướng XHCN. Trong đó xác định mối
quan hệ chặt chẽ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Nhà nước
xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh
doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế;
tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho các doanh
nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trường hoạt động; điều tiết, định
hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với
phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc
phòng, an ninh. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ
chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn,
định mức và lực lượng kinh tế nhà nước phù hợp với các yêu cầu
và quy luật của KTTT. Thị trường đóng vai trò quyết định trong
xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân
bổ các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt
động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém.
Các tổ chức xã hội có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động,
giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên; đại diện
và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với các chủ
thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên;
phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà
nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của
Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà
nước trong việc thực thi pháp luật.

- Tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn để hoàn thiện đồng


bộ thể chế
Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
được tổ chức cuối tuần qua, đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị,
Thủ tướng Chính phủ khi giới thiệu, quán triệt chuyên đề về Chiến lược phát triển
KT-XH hội 10 năm 2021-2030 và Phương hướng, nhiệm vụ 5 năm tới (2021-
2025) đã nhấn mạnh đến việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng. Thủ tướng lưu ý các cấp, các ngành từ Trung ương tới địa phương phải xây
dựng chương trình, kế hoạch hành động cụ thể. Chính phủ sẽ ban hành chương
trình, kế hoạch hành động của Chính phủ. Từng cấp, từng ngành, từng địa phương
phải xây dựng chương trình, kế hoạch hành động cụ thể theo quy định trong phạm
vi quản lý, chức năng, nhiệm vụ được giao. Đồng thời phải tập trung chỉ đạo, tổ
chức triển khai thực hiện quyết liệt, động bộ hiệu quả. Chú trọng tháo gỡ vướng
mắc, khó khăn, nút thắt, điểm nghẽn để hoàn thiện đồng bộ thể chế KTTT định
hướng XHCN. Bên cạnh đó, có kế hoạch cụ thể về kiểm tra, giám sát, đánh giá
thực hiện.

Để đẩy nhanh việc hoàn thiện đồng bộ thể chế KTTT định hướng XHCN, theo
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, trước hết cần nâng cao chất lượng, hiệu quả quản
trị quốc gia, xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Xây
dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp,
đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra
đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới. Tập trung sửa
đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế. Đẩy mạnh
cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, ủy quyền gắn với tăng cường
kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa
các cấp, các ngành.

Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các
loại thị trường. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường đối với hàng hóa, dịch
vụ. Phát triển các yếu tố sản xuất để thị trường đóng vai trò quyết định trong huy
động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực. Phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ
theo các phương thức tổ chức, giao dịch văn minh, hiện đại, thương mại điện tử.
Phát triển đồng bộ, nâng cao hiệu quả hoạt động của các thị trường tài chính, tiền
tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm... trên nền tảng công nghệ số với
kết cấu hạ tầng, công nghệ và phương thức giao dịch hiện đại. Phát triển mạnh thị
trường khoa học và công nghệ. Phát triển và quản lý chặt chẽ thị trường bất động
sản; thị trường quyền sử dụng đất. Phát triển thị trường lao động, cải cách chính
sách tiền lương, bảo hiểm xã hội. Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, xã hội-
nghề nghiệp tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ kinh tế thị trường. Xử lý
tốt những bất cập của cơ chế thị trường, bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội, quốc
phòng, an ninh và bảo vệ môi trường sinh thái.

Tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp. Đẩy nhanh việc xử lý nợ, thoái vốn, cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh
nghiệp nhà nước; thúc đẩy đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, áp dụng chế độ
quản trị doanh nghiệp hiện đại để nâng cao hiệu quả, đồng thời kiểm tra, giám sát
chặt chẽ hoạt động của doanh nghiệp, không để thất thoát, lãng phí vốn, tài sản
nhà nước. Nhà nước có chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển các mô hình
kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế hộ, trang trại
trong nông nghiệp. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân đổi mới, nâng cao trình
độ công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, mở rộng thị trường, cải thiện thu nhập,
điều kiện làm việc của người lao động và tham gia các hoạt động xã hội, bảo vệ
môi trường, thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả
các dự án đối tác công-tư trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng. Ưu tiên những
dự án đầu tư nước ngoài có trình độ công nghệ cao, thân thiện với môi trường, tạo
điều kiện cho doanh nghiệp trong nước phát triển, tham gia có hiệu quả vào chuỗi
giá trị toàn cầu.

Phần Kết Luận


 Trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030,
phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế – xã hội đầu tiên là:
“Tập trung hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước, thị
trường và xã hội”. Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế, pháp
luật đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, ổn định, cụ thể, minh bạch. Tăng
cường hiệu lực, hiệu quả các thiết chế thi hành pháp luật, bảo đảm chấp
hành pháp luật nghiêm minh. Phát triển đầy đủ và đồng bộ thị trường các
yếu tố sản xuất, nhất là các thị trường quyền sử dụng đất, khoa học, công
nghệ… Nhà nước thực hiện tốt chức năng xây dựng và quản lý thực hiện
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách, phân bổ nguồn lực
phát triển theo cơ chế thị trường. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và
quyền tự do kinh doanh, thực thi hợp đồng của người dân, doanh nghiệp
theo quy định của pháp luật. Phát huy vai trò của người dân, doanh nghiệp,
các tổ chức chính trị – xã hội, nghề nghiệp và cộng đồng trong tham gia xây
dựng, phản biện và giám sát thực hiện pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà
nước. Cải cách thủ tục hành chính một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả,
bãi bỏ các rào cản hạn chế quyền tự do kinh doanh, cải thiện và nâng cao
chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình
đẳng, minh bạch. Xây dựng nhanh nền hành chính hiện đại, dựa trên đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực
sáng tạo, phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị, phục vụ người dân,
doanh nghiệp; thực hiện phương thức, công cụ quản lý nhà nước chủ yếu
bằng điều tiết gián tiếp, tăng cường hậu kiểm; giảm đến mức thấp nhất rủi
ro pháp lý và chi phí tuân thủ đối với người dân và doanh nghiệp. Ðẩy mạnh
xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số, trong đó tập trung phát
triển hạ tầng số phục vụ các cơ quan nhà nước một cách tập trung, thông
suốt. Ðổi mới mạnh mẽ phân cấp, phân quyền, ủy quyền và nâng cao hiệu
quả phối hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Củng cố, hoàn
thiện hệ thống chính quyền địa phương; phân định rõ trách nhiệm, quyền
hạn giữa Trung ương và địa phương. Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế
địa phương và kinh tế vùng trên cơ sở phát huy hiệu quả tiềm năng, thế
mạnh của từng vùng, địa phương…
 Như vậy, có thể khẳng định Ðại hội XIII của Ðảng, trên cơ sở tổng
kết 35 năm đổi mới đất nước, nhất là từ Ðại hội IX (2001) đến nay; 10 năm
(2011 – 2020) thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và hơn ba năm
thực hiện Nghị quyết số 11 – NQ/TW ngày 3-6-2017 Hội nghị Trung ương 5
khóa XII, đã bổ sung, nâng tầm chủ trương, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp
hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập… Ðể những chủ
trương, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp này đi vào cuộc sống, trên cơ sở
quán triệt sâu sắc, nắm chắc nội dung, thống nhất nhận thức và hành động
trong toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân, cả hệ thống chính trị vào cuộc với
quyết tâm chính trị cao, quyết liệt, Ðảng đoàn Quốc hội chỉ đạo xây dựng,
hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và giám sát việc thực hiện; Ban cán sự Ðảng
Chính phủ chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện thắng lợi chương trình
hành động, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm phát huy lợi thế và
sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để đất nước phát triển nhanh và bền
vững, đạt được mục tiêu Ðại hội XIII đề ra; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội và của nhân dân trong việc
kiểm tra, giám sát thực hiện Nghị quyết Ðại hội XIII của Ðảng.
III. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. https://tapchicongsan.org.vn/media-
story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/nen-kinh-te-thi-
truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-va-van-de-con-nguoi-tiep-
can-tu-muc-tieu-va-dong-luc-cua-su-phat-trien
2. https://www.qdnd.vn/chinh-tri/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-
cuoc-song/nghi-quyet-va-cuoc-song/hoan-thien-the-che-kinh-
te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-655728

You might also like