Professional Documents
Culture Documents
Khái niệm về CSR (Corporate social responsibility) được hình thành trên toàn thế
giới khoảng 60 năm trước đây. Trước giai đoạn này, có các tiêu chuẩn khác nhau và
quy định trong các lĩnh vực quản trị công ty (QTCT), đạo đức công ty và mối quan hệ
với đối thủ cạnh tranh, trách nhiệm đối với xã hội và đất nước. Các quy tắc và tiêu
chuẩn chính sách xã hội chưa được phát triển vì đã sử dụng cách tiếp cận "ngẫu
nhiên". Tuy nhiên, từ cuối những năm 60 - 70, các doanh nghiệp hàng đầu của Mỹ và
châu Âu đã bắt đầu tìm hiểu sự cần thiết phải thống nhất các yếu tố khác nhau của
chính sách doanh nghiệp liên quan đến mối quan hệ của công ty với môi trường và
phát triển một tích hợp đơn lẻ tiếp cận tương tác với xã hội. Một chính sách như vậy
nhằm hướng doanh nghiệp phải gắn liền với triết lý, phương thức hoạt động, chiến
lược tiếp thị, phải đáp ứng được kỳ vọng của xã hội. Cùng một lúc ở Tây Âu và Mỹ
đã thống nhất luật lao động và môi trường, đã có công khai các sáng kiến chính sách
nhằm phát triển CSR.
Sáng kiến trách nhiệm xã hội trong kinh doanh là truyền thống lâu đời trong thế giới
phương Tây. Trong báo cáo của Liên hợp quốc “Phát triển các quy định về vai trò và
trách nhiệm xã hội của khu vực tư nhân" năm 2002, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Kofi
Annan nói rằng "sự hiện diện của các công ty lớn như tuyên ngôn nhất định về trách
nhiệm xã hội của công ty và trở thành điều kiện tiên quyết cho thành công của bất kỳ
chiến lược truyền thông và quan hệ công chúng nào”.
CSR hướng đến doanh nghiệp với ý tưởng doanh nghiệp nên cân bằng các hoạt động
tạo ra lợi nhuận với các hoạt động có lợi cho xã hội. Nó liên quan đến việc phát triển
các doanh nghiệp trong mối quan hệ tích cực với xã hội mà doanh nghiệp hoạt động.
Mặc dù cụm từ CSR đã trở thành một thuật ngữ phổ biến, nhưng cho đến nay vẫn
chưa có định nghĩa nào được chấp nhận rộng rãi, cụ thể:
Liên minh châu Âu (EU) - CSR được hiểu là khi doanh nghiệp tích hợp các mối quan
tâm xã hội và môi trường trong hoạt động kinh doanh, tương tác với các bên liên quan
trên cơ sở tự nguyện.
Hội đồng kinh doanh thế giới về phát triển bền vững - PTBV (WBCSD) - cam kết liên
tục của doanh nghiệp để hành xử đạo đức và đóng góp cho phát triển kinh tế nhằm
nâng cao chất lượng cuộc sống của lực lượng lao động và gia đình của họ cũng như
của cộng đồng địa phương và xã hội nói chung.
Kinh doanh vì trách nhiệm xã hội (BSR) - CSR là khi doanh nghiệp đạt được thành
công thương mại theo cách tôn trọng các giá trị đạo đức và tôn trọng con người, cộng
đồng và môi trường tự nhiên.
ISO 26000 - Đặc điểm cơ bản của CSR là sự sẵn lòng của một tổ chức chịu trách
nhiệm về tác động của các hoạt động và các quyết định kinh doanh đối với xã hội và
môi trường. Điều này hàm ý cả hành vi minh bạch và đạo đức góp phần vào sự
PTBV, bao gồm sức khỏe và phúc lợi xã hội, có tính đến sự mong đợi của các bên
liên quan, tuân thủ luật hiện hành và phù hợp với các tiêu chuẩn hành vi quốc tế. CSR
được tích hợp vào ba lĩnh vực: cụ thể là con người (xã hội), hành tinh (môi trường) và
lợi nhuận (kinh tế).
Vấn đề đặt ra ở đây là phương thức thể hiện CSR trong lĩnh vực, ngành mà doanh
nghiệp hoạt động. Mặc dù CSR không bị bắt buộc điều chỉnh bởi các quy phạm pháp
luật, nhưng nó lại được xem là thực hành tốt để doanh nghiệp xem xét các vấn đề xã
hội và môi trường.
Trách nhiệm xã hội và thực hành đạo đức rất quan trọng đối với thành công của doanh
nghiệp. Nghiên cứu CSR toàn cầu năm 2015 nhận thấy rằng 91% người tiêu dùng
toàn cầu mong đợi các doanh nghiệp hoạt động có trách nhiệm để giải quyết các vấn
đề xã hội và môi trường. Hơn nữa, 84% nói rằng họ tìm kiếm các sản phẩm có trách
nhiệm bất cứ khi nào có thể. Số liệu thống kê cho thấy, người tiêu dùng ngày càng
nhận thức được tầm quan trọng của trách nhiệm xã hội và tích cực tìm kiếm các sản
phẩm từ các doanh nghiệp hoạt động về mặt đạo đức. CSR chứng minh rằng một
doanh nghiệp quan tâm đến các vấn đề xã hội tác động đến lợi nhuận, điều này sẽ thu
hút những khách hàng tăng nền tảng giá trị, tăng tính bền vững cho doanh nghiệp.
Chính phủ phải xây dựng quy định một cách thích hợp, có tính đến trụ cột PTBV như:
trụ cột kinh tế, xã hội và môi trường. CSR có thể đóng vai trò là một trong những
"công cụ", hoặc thay thế cho chính sách điều tiết, nhưng điều đó không chỉ đúng về lý
thuyết, mà đó có thể được chứng minh trong thực tế bởi các doanh nghiệp.
Mỗi khu vực có các quy tắc khác nhau. Để điều hướng các khu vực này đòi
hỏi nhận thức về hai chiều quan trọng:
Thứ nhất là quy mô hoạt động chính trị diễn ra. Động lực chính trị bắt đầu
từ người chơi cá nhân và kỹ năng chính trị của họ. Chúng có thể phát triển
thành các hành vi cấp nhóm. Ở đầu kia của chiều hướng này là bối cảnh rộng
hơn, nơi chính trị hoạt động ở cấp độ tổ chức.
Khía cạnh thứ hai là mức độ quyền lực mềm (không chính thức) hoặc quyền
lực cứng (chính thức). Quyền lực mềm là tiềm ẩn, sử dụng ảnh hưởng từ các
mối quan hệ và giá trị cá nhân. Hoạt động chính trị dựa trên quyền lực “cứng”
dựa trên vị trí, chuyên môn, chỉ thị và cơ chế khen thưởng / kiểm soát.
Hai chiều kích quyền lực này có thể cung cấp cho chúng ta những công cụ để
điều hướng bốn khu vực chính trị.
Trong thực tế, những hội nhóm đó đã đóng một vai trò rất lớn để một quốc gia có thể
hoạt động trơn tru, được gọi với cái tên – xã hội dân sự.
Cấu trúc một xã hội bền vững bao hàm: thị trường; gia đình; chính phủ và xã hội dân sự.
Ảnh: #XHDS
Xã hội dân sự bao gồm các nhóm hoặc tổ chức hoạt động vì lợi ích của cộng
đồng, nhưng hoạt động bên ngoài chính phủ và không vì mục đích lợi nhuận.
Các tổ chức và thể chế tạo nên xã hội dân sự bao gồm các công đoàn lao động,
các tổ chức phi lợi nhuận, cơ sở thờ nguyện, và các cơ quan dịch vụ khác cung
cấp một dịch vụ quan trọng cho xã hội.
Xã hội dân sự đôi khi được gọi là khu vực dân sự, một thuật ngữ được sử dụng
để phân biệt nó từ các lĩnh vực khác. Ví dụ, Việt Nam được tạo thành từ ba
khu vực: khu vực công cộng – đó là các chính phủ và các cơ quan địa phương;
khu vực tư nhân – bao gồm các doanh nghiệp và các tập đoàn; và khu vực lĩnh
vực dân sự, trong đó bao gồm các tổ chức hoạt động vì lợi ích của cộng đồng
nhưng không được thúc đẩy bởi lợi nhuận hoặc chính phủ.
Ví dụ về Xã hội Dân sự tại nơi bạn sống :
Trong rất nhiều trường hợp, rất khó để nhận biết chính xác loại hình khu vực
bởi có rất nhiều người thuộc các nhóm khác nhóm có xu hướng hợp tác với
nhau để phục vụ cộng đồng. Nhưng nếu dựa vào một số ví dụ liên quan đến xã
hội dân sự, về cách thức họ đóng góp và vai trò của họ sẽ dễ dàng nhận biết
hơn.
Trên quy mô quốc gia – toàn cầu, các tổ chức xã hội dân sự đóng một vai trò vô cùng
quan trọng. Trong hậu quả của thiên tai, như cơn bão Xangsane (2006) hoặc trận bão
Wutip năm 2013, các tổ chức như Hội Chữ thập đỏ – Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế đã tích
cực hỗ trợ những người nằm trong vùng ảnh hưởng. Hay dự án Nhà chống lũ do Trung
tâm Sống và học tâ ̣p vì môi trường và cô ̣ng đồng (Live&Learn) thực hiện tại các tỉnh
miền Trung và miền Tây. Những nhóm này được coi là các tổ chức viện trợ phi chính
phủ (NGO). NGO thường được nằm trong khu vực xã hội dân sự, vì họ không được điều
hành bởi chính phủ, phụ thuộc nhiều vào sự đóng góp cộng đồng, và có xu hướng hoạt
động dựa trên các tình nguyện viên.
Thiên tai là thời điểm mà các tổ chức xã hội dân sự phát huy vai trò của mình. Ảnh:
#XHDS
Một ví dụ khác của xã hội dân sự tại nơi làm việc là nhóm dân sự, chẳng hạn
như các câu lạc bộ tình nguyện Hope (Hà Nội), Câu lạc bộ Tình Nguyện Xanh
(Đà Nẵng) hay CLB Y Bác Sĩ Tình Nguyện Sài Gòn (Tp. Hồ Chí Minh), gần
gũi hơn tí nữa là Wikipedia – trang web mà ai cũng một lần truy vấn thông tin.
Tại Việt Nam, đây là những nhóm được tạo thành từ những người trong cộng
đồng những người tình nguyện bỏ thời gian của mình để quyên góp tiền cho
các dự án hoặc đáp ứng nhu cầu của cộng đồng. Mặc dù các nhóm này có xu
hướng nhỏ hơn nhiều so với các tổ chức NGO, nhưng họ lại nắm vai trò quan
trọng bởi vì họ đại diện cho các công dân bình thường góp phần vào sự tốt đẹp
toàn diện của cộng đồng.
Trong một số trường hợp, gia đình của bạn có thể được coi là một phần của xã
hội dân sự, vì họ tự nguyện đóng góp cho hạnh phúc và không hề tính toán lợi
nhuận. Điều này, lần lượt, có thể cho phép bạn đi ra ngoài và đóng góp ở các
nơi khác – trong khu vực dân sự rộng lớn hơn.