You are on page 1of 10

A.

MỞ ĐẦU

Cũng giống như các ngành luật khác, Luật biển quốc tế cũng được hình
thành dựa trên nền tảng pháp lý là hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc
tế và những nguyên tắc đặc thù của ngành luật này. Từ rất sớm, con người đã có
các hoạt động trên biển. Đến thế kỷ XV, các nguyên tắc lớn và đặc thù của Luật
biển đã bắt đầu hình thành, trong đó phải kể đến một nguyên tắc quan trọng đó
là nguyên tắc tự do biển cả - tuyên truyền cho tư tưởng tự do biển cả và xu
hướng mở rộng quyền lực ra phía biển. Với nguyên tắc này, quy chế pháp lý của
các vùng biển ít nhiều bị ảnh hưởng. Do vậy, sau đây, trong phạm vi bài tiểu
luận, em xin lựa chọn đề tài: “Phân tích quy chế pháp lý của các vùng biển thuộc
chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia ven biển để chứng minh rằng càng
xa bờ biển thì quy chế pháp lý của các vùng biển đó càng bị ảnh hưởng bởi
nguyên tắc tự do biển cả” để làm rõ sự ảnh hưởng của nguyên tắc này đến các
vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền quốc gia ven biển.

B. NỘI DUNG
1. Khái quát về nguyên tắc tự do biển cả

Nguyên tắc tự do biển cả có lịch sử lâu đời gắn liền với việc khai thác, sử
dụng biển và đại dương. Bản chất của nguyên tắc này xuất phát từ quan niệm đại
dương là của chung nhân loại nhưng lại là con đường nối liền các châu lục, các
quốc gia. Vì vậy, tự do biển cả được mở ra để tất cả các quốc gia dù đó là quốc
gia ven biển hay quốc gia nằm trọn trong lục địa tham gia khai thác, sử dụng và
đều được hưởng các quyền tự do. Nội dung của nguyên tắc này đó là biển cả
được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù là quốc gia có biển hay không có biển,
thừa nhận sự ngang nhau về quyền và lợi ích của mọi quốc gia trên biển cả.
Nguyên tắc tự do biển cả không cho phép bất cứ quốc gia nào có thể áp đặt một
cách hợp pháp một bộ phận nào đó của biển cả thuộc chủ quyền của mình.
Không có sự phân biệt đối xử dựa trên vị trí và hoàn cảnh địa lý của mọi quốc
gia khi tham gia sử dụng và khai thác biển cả.
+ Các quốc gia có quyền tự do hàng hải và không phải các quốc gia nào
cũng được hưởng quyền này như các tàu thuyền không mang quốc tịch, tàu của
cướp biển thì không được hưởng các quyền này. Đây là quyền của tất cả các
quốc gia không phân biệt nước có biển hay không có biển đều được sử dụng các
phương tiện vận chuyển của mình trên mặt nước, đi lại dưới mặt nước để đi lại
tự do mà không bị khám xét và phải tuân theo quy định pháp luật của nước đó
khi đi qua.

+ Ngoài ra thì các nước cũng sẽ được hưởng các quyền tự do hàng không
sẽ tạo ra các đòn đẩy cho các ngành du lịch và xuất khẩu phát triển.

+Tự do đặt các dây cáp hoặc ống dẫn ngầm với điều kiện tuân thủ các quy
định về an toàn.

+ Tự do xây dựng các đảo nhân tạo hoặc các thiết bị khác được pháp luật
quốc tế cho phép, với điều kiện tuân thủ các trình tự thủ tục theo quy định và
không đe dọa xâm phạm chủ quyền của các quốc gia khác.

+ Các quốc gia có quyền tự do đánh bắt hải sản trong phần chủ quyền hợp
pháp của mình.

+ Các quốc gia có quyền tự do nghiên cứu khoa học với các điều kiện
tuân thủ theo các trình tự mà điều ước quốc tế quy định và không gây thiệt hại,
đe dọa gây thiệt cho các vùng, lãnh thổ khác.

+ Mỗi quốc gia khi thực hiện và phải tuân thủ  các quyền tự do này phải
tính đến lợi ích của việc thực hiện tự do trên biển cả của các quốc gia khác, cũng
như đến các quyền được Công ước thừa nhận liên quân đến các hoạt động trong
Vùng.

2. Ảnh hưởng của nguyên tắc tự do biển cả đến quy chế pháp lý của các
vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia ven biển
Nguyên tắc tự do biển cả không chỉ được thể hiện trong quy chế pháp lý
của biển cả và vùng mà nó còn thể hiện ở trong quy chế pháp lý ở các vùng biển
thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền quốc gia. Tuy nhiên, tại mỗi vùng biển thì
mức độ ảnh hưởng của nguyên tắc này lại khác nhau.

2.1. Vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia

Các vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển (QGVB) bao gồm:
nội thủy và lãnh hải. Đối với các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia này, do là
những vùng biển chuyển tiếp giữa đất liên và biển nên ảnh hưởng của nguyên
tắc tự do biển cả lại càng ít hơn bởi càng đi sâu vào đất liền thì ảnh hưởng của
nguyên tắc này càng giảm đi.

2.1.1. Quy chế pháp lý của nội thủy

Tại Điều 8 Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982
(UNCLOS), thì nội thủy là vùng nước nằm phía bên trong đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải. Vùng nội thủy gồm: Vùng nước cảng biển, các vũng
tàu, cửa sông, các vịnh, các vùng nước nước nằm giữa lãnh thổ đất liền và
đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.

Nội thuỷ là vùng biển gắn liền với đất liền và là bộ phận của lãnh thổ
quốc gia. Tại đó, chủ quyền của quốc gia ven biển (QGVB) là hoàn toàn và
tuyệt đối, chủ quyền này bao trùm lên cả vùng trời bên trên, vùng đáy biển và
vùng lòng đất dưới đáy biển bên dưới nội thuỷ. Theo quy định của Công ước,
quốc gia có thể có một hoặc nhiều vùng nội thuỷ với các chế độ pháp lí khác
nhau, đó là nội thuỷ không áp dụng quyền qua lại vô hại và nội thuỷ được áp
dụng quyền qua lại vô hại.1 Như vậy, tại nội thủy có sự ảnh hưởng của nguyên
tắc tự do biển cả nhưng rất hạn chế.

Việc thực hiện chủ quyền của QGVB đối với nội thuỷ chủ yếu được thể
hiện trong hai vấn đề: 1) Chế độ ra vào của tàu thuyền nước ngoài; 2) Việc thực
1
Khoản 2 Điều 8 UNCLOS
thi thẩm quyền tài phán của quốc gia đối với hành vi vi phạm xảy ra trong nội
thuỷ. Cụ thể:

- Về chế độ ra vào của tàu thuyền nước ngoài: tàu thuyền nước ngoài
trước khi vào nội thuỷ của QGVB phải thực hiện chế độ xin phép, trừ những
trường hợp bất khả kháng như: tàu gặp các sự cố nghiêm trọng về kĩ thuật hoặc
lí do thiên tai (sóng thần, bão, lốc...) hoặc lí do nhân đạo khác. Khi hoạt động
trong nội thuỷ, tàu thuyền nước ngoài phải tuân thủ pháp luật của quốc gia sở
tại. Đối với tàu ngầm khi được phép vào nội thuỷ phải vận hành ở tư thế nổi,
phải treo cờ mà tàu mang quốc tịch và chấp hành quy định đối với các loại tàu
nổi ở nội thuỷ của nước sở tại. Tàu dân sự nước ngoài được tự do ra vào cảng
quốc tế nằm trong khu vực nội thuỷ của mình trên cơ sở tự do hàng hải và
nguyên tắc có đi có lại được áp dụng giữa các quốc gia.

- Về thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển: thẩm quyền tài phán của
quốc gia đối với tàu thuyền quân sự và tàu thuyền dân sự có sự khác nhau. Theo
đó, tàu quân sự khi hoạt động trong nội thuỷ của QGVB sẽ được hưởng quyền
miễn trừ tư pháp, còn tàu dân sự sẽ được đặt dưới thẩm quyền tài phán của
QGVB khi có hành vi vi phạm pháp luật của quốc gia này. Đối với hành vi vi
phạm xảy ra trên tàu thuyền nước ngoài thì thẩm quyền tài phán sẽ thuộc về
quốc gia mà tàu mang cờ, trừ trường hợp: 1) Hành vi phạm tội do người ngoài
thuỷ thủ đoàn thực hiện; 2) Khi được thuyền trưởng hoặc đại diện cơ quan ngoại
giao, lãnh sự của quốc gia tàu treo cờ yêu cầu can thiệp; 3) Hậu quả của hành vi
phạm tội ảnh hưởng tới an ninh, trật tự của cảng biển

2.1.2. Quy chế pháp lý của lãnh hải


Lãnh hải là vùng biển nằm ngay bên ngoài đường cơ sở. Lãnh hải đã được
xem là vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển từ lâu trong tập quán
quốc tế. Quy định điều ước đầu tiên về lãnh hải được tìm thấy trong Công ước
Geneva về Lãnh hải và Tiếp giáp lãnh hải năm 1958. Sau đó, quy định này được
ghi nhận lại vào Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Ảnh hưởng
của nguyên tắc tự do biển cả đến lãnh hải được thể hiện thông qua quy chế ra
vào của tàu thuyền nước ngoài tại lãnh hải tồn và thẩm quyền tài phán. Cụ thể:
Thứ nhất, Điều 17 UNCLOS quy định “tàu thuyền của tất cả các quốc
gia, có biển hoặc không có biển, được hưởng quyền qua lại vô hại qua lãnh hải”.
Tàu thuyền có thể đi từ hoặc đi vào nội thủy xuyên qua lãnh hải hoặc di chuyển
dọc theo lãnh hải mà không vào nội thủy. Khi thực hiện quyền qua lại vô hại,
tàu thuyền cần tuân thủ các điều kiện theo quy định của Công ước, cụ thể: qua
lại phải nhanh chóng và liên tục, và phải không ảnh hưởng đến hòa bình, trật tự
và an ninh của quốc gia ven biển. Các hành vi sau đây được xem là ảnh hưởng
đến hòa bình, trật tự và an ninh của quốc gia ven biển và do đó không “vô hại”:
đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ lực, thử vũ khí, tuyên truyền chống quốc gia ven
biển, gây ô nhiễm nghiêm trọng, đánh bắt cá, thực hiện nghiên cứu khoa học,…
và tất cả các hành vi không trực tiếp liên quan đến việc qua lại của tàu
thuyền. Công ước có quy định đặc biệt với tàu ngầm, phương tiện di chuyển
dưới nước và tàu hoạt động bằng năng lượng hạt nhân hay mang chất phóng xạ,
nguy hiểm hay độc hại
Quốc gia ven biển có nghĩa vụ phải không gây ảnh hưởng đến quyền qua
lại của tàu thuyền nước ngoài qua lãnh hải, và kể cả khi thực thi thẩm quyền
theo đúng quy định của Công ước thì quốc gia ven biển cũng phải thực thi theo
cách thức mà không có tác tộng thực tế dẫn đến (i) từ chối hay gây tổn hại đến
quyền qua lại, hoặc (ii) phân biệt đối xử giữa các tàu thuyền.
Thứ hai, mặc dù, tàu thuyền nước ngoài có quyền qua lại vô hại nhưng
không có nghĩa là trong vấn đề này quốc gia ven biển không có bất kỳ thẩm
quyền nào. Quốc gia ven biển có quyền thông qua các quy định về an toàn hàng
hải, giao thông đường biền, bảo vệ các cơ sở hạ tầng hàng hải, các tuyến cáp,
ống ngầm, bảo tồn tài nguyên sinh vật biển, bảo vệ môi trường và ngăn chặn ô
nhiễm, ngăn chặn vi phạm về đánh bắt cá, và ngăn chặn các vi phạm về hải
quan, tài chính, nhập cư và vệ sinh. Tuy nhiên, các quy định trên không được
phép áp dụng đối với thiết kế, xây dựng, vận hành và các thiết bị trên tàu thuyền
nước ngoài, trừ khi phù hợp với các tiêu chuẩn và quy định được quốc tế chấp
nhận rộng rãi. Quốc gia ven biển cũng có thể yêu cầu tàu thuyền qua lại theo các
tuyến hàng hải nhất định trong lãnh hải. Thậm chí, quốc gia ven biển có thể tạm
đình chỉnh quyền qua lại vô hại trong một khu vực nhất định nếu cần thiết để
bảo vệ an ninh, ví dụ như thử vũ khí.
Về thực thi thẩm quyền đối với tàu thuyền thương mại, về nguyên tắc
quốc gia ven biển không có quyền thực thi thẩm quyền hình sự và dân sự. Điều
27 quy định quốc gia ven biển không nên thực thi thẩm quyền hình sự trên tàu
thuyền thương mại nước ngoài trên lãnh hải của mình để bắt giữ người, thực
thiện điều tra tội phạm xảy ra trên tàu thuyền, trừ trường hợp: (a) hậu quả của tội
phạm mở rộng đến quốc gia ven biển, (b) tội phạm thuộc loại gây ảnh hưởng
đến hòa bình quốc gia hay trật tự trên lãnh hải, (c) thuyền trưởng của tàu thuyền
hay đại diện ngoại giao, lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ yêu cầu giúp đỡ,
và (d) khi cần thiết để ngăn chặn việc vận chuyển trái phép ma túy và các chất
hướng thần. Trong lĩnh vực dân sự, quốc gia ven biển không nên thực thi thẩm
quyền dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài đi qua lãnh hải của họ hay có hành
vi dừng hay chuyển hướng tàu để thực thi thẩm quyền dân sự đối với những
người trên tàu.
Giới hạn thứ hai cho chủ quyền quốc gia trên lãnh hải là quyền miễn trừ
với tàu chiến. Quyền này áp dụng cho tất cả tàu chiến thỏa mãn định nghĩa tại
Điều 29 và áp dụng rộng ra cho tất cả các tàu thuyền chính phủ được sử dụng
cho mục đích phi-thương mại. “Tàu thuyền chính phủ được sử dụng cho mục
đích phi-thương mại” không được định nghĩa trong Công ước.
2.2. Vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia

Trong khi xu hướng của các quốc gia ven biển đều muốn mở rộng các
vùng biển thuộc lãnh thổ quốc gia hoặc mở rộng các quyền của mình ra bên
ngoài lãnh thổ để phục vụ cho các nhu cầu an ninh, kinh tế, thì ngược lại, các
quốc gia khác lại muốn giới hạn các quyền của quốc gia ven biển để có thể tận
dụng tối đa những quyền tự do trong khai thác, sử dụng biển. Chính vì vậy mà
nguyên tắc tự do biển cả đã bắt đầu thể hiện một cách rõ ràng tại các vùng biển
này do sự tồn tại và dung hòa về lợi ích giữa quốc gia ven biển và các quốc gia
khác.

2.2.1. Quy chế pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải

Điều 33 UNCLOS: Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển nằm phía ngoài
và tiếp liền với lãnh hải, có chiều rộng không vượt quá 24 hải lý tình từ đường
cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải. Ảnh hưởng của nguyên tắc tự do biển cả đã bắt
đầu có sự rõ ràng khi tại vùng biển này tồn tại song song hai quyền: quyền QGVB và
quyền quốc gia khác:
Quyền quốc gia ven biển Quyền của quốc gia khác
- Ngăn ngừa, trừng trị vi phạm xảy ra - Tự do hàng hải:
trong 4 lĩnh vực (ngăn ngừa trước khi
+ Tự do đi lại trên vùng tiếp giáp lãnh
hành vi vi phạm xâm phạm trực tiếp
hải
đến lãnh thổ quốc gia): Hải quan, Thuế
+ Thẩm quyền tài phán chỉ thuộc về
khóa, Y tế, Nhập cư. Điều này nhằm
quốc gia mà tàu mang cờ trừ trường
kiểm soát sự ra vào lãnh thổ quốc gia.
hợp 4 lĩnh vực thuộc thẩm quyền tài
Tàu thuyền nước ngoài sau khi từ lãnh
phán của QGVB
hải ra hoặc muốn vào lãnh hải sẽ phải
kiểm tra tại vùng tiếp giáp lãnh hải, - Tự do hàng không:
nếu có vi phạm sẽ xử lí theo luật quốc
+ Tự do bay ở vùng trời phía trên tiếp
gia
giáp lãnh hải
- Đặc quyền với hiện vật, khảo cổ lịch
+ Thẩm quyền tài phán thuộc về quốc
sử trên đáy biển
gia mà tàu bay mang quốc tịch
- Hưởng quy chế pháp lý của vùng Đặc
- Tự do đặt dây cáp ống dẫn ngầm
quyền kinh tế

2.2.2. Quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế


Điều 56 UNCLOS quy định quốc gia ven biển có quyền chủ quyền và
quyền tài phán mang tính chất độc quyền trên vùng đặc quyền kinh tế (EEZ).
Theo đó, quốc gia ven biển có quyền chủ quyền trong việc thăm dò, khai thác,
quản lý và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và phi sinh vật, và các hoạt
động thăm dò, khai thác kinh tế khác, như tạo năng lượng từ nước, dòng chảy và
gió. Quyền chủ quyền không chỉ bao gồm quyền được trực tiếp thăm dò, khai
thác, bảo tồn và quản lý tài nguyên thiên nhiên, mà bao gồm tất cả các quyền
cần thiết cho hay liên quan đến các hoạt động đó. Quyền tài phán của quốc gia
ven biển liên quan đến ba lĩnh vực: (i) xây dựng và sử dụng đảo nhân đạo, công
trình và cấu trúc nhân tạo, (ii) nghiên cứu khoa học biển, và (iii) bảo vệ và bảo
tồn môi trường biển. Trong các lĩnh vực thuộc quyền chủ quyền và quyền tài
phán của quốc gia ven biển, mọi hoạt động đều cần phải có sự đồng ý của quốc
gia ven biển.
Dưới sự ảnh hưởng của nguyên tắc tự do biển cả nên trong vùng đặc
quyền kinh tế của quốc gia ven biển, tất cả các quốc gia khác, dù có biển hay
không có biển đều được hưởng quyền: Vùng EEZ không thuộc chủ quyền của
quốc gia ven biển và do đó các quốc gia khác có nhiều quyền rộng rãi hơn so với
trong lãnh hải. Trong lãnh hải, các quốc gia khác chỉ có quyền qua lại vô hại
(bên cạnh quyền miễn trừ dành cho tàu chiến). Trong vùng EEZ, các quốc gia
khác có các quyền tự do về hàng hải, hàng không và lắp đặt cáp và ống
ngầm. Trong 6 tự do biển cả cơ bản, trong vùng EEZ các quốc gia khác được
hưởng ba tự do. Ngoài ra Điều 58(2) quy định các Điều 88 đến 115 của Công
ước cũng áp dụng cho các quốc gia khác trên vùng EEZ của quốc gia ven biển,
bao gồm các quy định về thẩm quyền đối với tàu thuyền của quốc gia mà tàu
mang cờ, quyền miễn trừ đối với tàu chiến, quyền thăm tàu, quyền truy đuổi
nóng, các quy định liên quan đến chống cướp biển và các hoạt động bị cấm.

2.2.3. Quy chế pháp lý của thềm lục địa


Điều 76 UNCLOS quy định: “Thềm lục địa của quốc gia ven biển bao
gồm vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển mở rộng bên ngoài lãnh hải theo
sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền đến mép ngoài của rìa lục địa, hoặc
đến khoảng cách 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính lãnh hải nếu rìa
lục địa không mở rộng đến khoảng cách đó.”
Về cơ bản quy chế pháp lý của thềm lục địa tập trung vào lợi ích kinh tế
từ tài nguyên thiên nhiên, tương tự như với vùng đặc quyền kinh tế (EEZ). Quốc
gia ven biển có quyền chủ quyền trong việc thăm dò và khai thác tài nguyên sinh
vật và phi sinh vật tại thềm lục địa. Mọi hoạt động khoan vì bất kỳ mục đích nào
đều trái phép nếu không có sự đồng ý của quốc gia ven biển. Các quốc gia khác
có các quyền tự do lắp đặt cáp, ống ngầm, nhưng hướng đi của các tuyến cáp,
ống này phải được quốc gia ven biển đồng ý. Một điểm khác nữa là quốc gia ven
biển có nghĩa vụ đóng góp khi tiến hành khai thác tài nguyên trong thềm lục địa
mở rộng.
3. Đánh giá ý nghĩa và sự ảnh hưởng của nguyên tắc tự do biển cả
Nguyên tắc tự do biển cả là nguyên tắc pháp lý cơ bản, có giá trị chi phối
nhiều quy phạm pháp luật của ngành Luật biển quốc tế. Nguyên tắc tự do biển
cả luôn được coi là nền tảng mang tính xuất phát điểm cho sự hình thành và phát
triển của các quy phạm Luật biển, đặc biệt là sự hình thành và quy chế của các
vùng biển. Đây là nguyên tắc nền tảng, cốt lõi, là cơ sở pháp lý của các vùng
biển và duy trì hoạt động của các đối tượng tham gia sử dụng biển. Những nội
dung của nguyên tắc tự do biển cả không chỉ tồn tại duy nhất ở vùng biển cả mà
nó còn có giá trị pháp lý và mở rộng ra đối với những vùng biển thuộc chủ
quyền và quyền chủ quyền quốc gia ven biển.
Điều này có lẽ xuất phát từ quan điểm truyền thống đó là Biển là không
gian mở đối với các quốc gia, theo đó sự thiết lập các vùng biển có quy chế pháp
lý khác nhau không có nghĩa là tạo ra sự chia cắt hoàn toàn độc lập giữa những
khoảng không gian này với nhau, tạo ra các nhóm lợi ích đối lập với nhau.
Chính vì vậy, nguyên tắc tự do biển cả là để thiết lập trật tự pháp lý trên biển.
Nguyên tắc này đảm bảo duy trì quyền tự do cơ bản và truyền thống của
cộng đồng quốc tế trong sử dụng biển;
Nguyên tắc này cũng là sự bảo đảm bình đẳng giữa các quốc gia trong
hưởng lợi ích và sử dụng biển vì mục đích hòa bình.
Nguyên tắc tự do biển cả một mặt hạn chế xu thế mở rộng thái quá chủ
quyền của các quốc gia ven biển, mặt khác duy trì quyền lợi vốn có của các
quốc gia tại các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền quốc gia ven
biển. Do vậy, mà có thể thấy rằng quy chế pháp lý của các vùng biển này càng
ra phía xa bờ thì cảng bị ảnh hưởng bởi nguyên tắc tự do biển cả.
C. KẾT LUẬN
Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 là một văn kiện pháp lý
toàn diện, có khả năng áp dụng cho tất cả các vùng biển, với một hệ thống các
quy định phân bổ quy chế ra vào và thẩm quyền tài phán của các quốc gia đối
với hoạt động đi lại của tàu thuyền nước ngoài trong các vùng biển. Có thể thấy
rằng, quy chế pháp lý của các vùng biển được quy định trong Công ước đã thể
hiện rất rõ ràng nguyên tắc tự do biển cả. Với các vùng biển thuộc chủ quyền, do
sự gắn kết với đất liền mà ảnh hưởng của nguyên tắc này rất hạn chế. Còn đối
với vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia do có sự dung hòa về lợi ích giữa
các quốc gia nên thể hiện khá rõ ràng nguyên tắc tự do biển cả.

You might also like