You are on page 1of 25

CHƯƠNG 2.

QUY LUẬT VÀ NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ


NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
2.1. QUY LUẬT
2.1.1. Định nghĩa quy luật
Quy luật là mối liên hệ nhân quả, bản chất, tất nhiên, phổ biến, bền
vững, lặp đi lặp lại của sự vật và hiện tượng khi điều kiện tồn tại của nó vẫn
còn.
Ví dụ: Quy luật trái đất luôn quay quanh mặt trời, mặt trời mọc ở
hướng Đông,lặn ở hướng Tây, quy luật bốn mùa, quy luật sinh lão bệnh tử…
2.1.2. Tính khách quan của quy luật
Quy luật không phải là vật chất, không thể sờ nắm được nhưng người ta
có thể nhận biết được quy luật thông qua các biểu hiện của nó khi nó hoạt
động. Quy luật mang tính khách quan, thể hiện:
- Con người không thể tạo ra các quy luật nếu như điều kiện xuất hiện
của nó chưa có và bỏ đi các quy luật nếu điều kiện tồn tại của nó vẫn còn.
- Kết quả hoạt động của các quy luật không tùy thuộc vào ý muốn của
con người.
- Thừa nhận tính khách quan của các quy luật không có nghĩa là phủ
nhận vai trò tích cực của con người. Con người không thể tạo ra quy luật,
nhưng con người hoàn toàn có thể nhận biết quy luật và vận dụng nó trong
hoạt động thực tiễn.
2.1.3. Các loại quy luật
Quản lý diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như: kinh
tế, chính trị, văn hóa, khoa học, công nghệ, môi trường….. Đó là sự tác động
của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý trên cơ sở nhận thức và vận dụng
các quy luật khách quan phù hợp, có hiệu quả. Hoạt động quản lý chịu tác
động của hàng loạt quy luật khách quan, đồng thởi quản lý cũng có những
quy luật riêng. Do đó, để quản lý có hiệu quả phải nhận thức và vận dụng các
quy luật một cách đúng đắn khoa học.
Xét theo lĩnh vực, có thể chia thành các loại quy luật sau đây:
13
2.1.3.1. Quy luật kinh tế.
a. Định nghĩa quy luật kinh tế
Từ định nghĩa về quy luật nói chung, ta có thể định nghĩa quy luật kinh
tế như sau:
Quy luật kinh tế là mối liên hệ nhân quả, bản chất, phổ biến, tồn tại
trong các hiện tượng kinh tế ở những thời điểm nhất định khi điều kiện tồn tại
của nó vẫn còn.
Ví dụ: Trong cơ chế thị trường có quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu...
b. Đặc điểm của các quy luật kinh tế
- Các quy luật kinh tế tồn tại và hoạt động thông qua hoạt động của con
người.
Khi con người xuất hiện, kéo theo đó là các mối quan hệ xã hội, trong
đó có quan hệ kinh tế. Kinh tế do con người tạo ra, nên quy luật kinh tế tồn tại
và hoạt động thông qua hoạt động của con người. Đặc điểm này đòi hỏi con
người phải chủ động tạo ra các điều kiện cho quy luật phát triển và phát huy
tác dụng, nhằm đạt được mục tiêu quản lý.
- Trong tự nhiên, mối liên hệ qua lại giữa nguyên nhân và kết quả trực tiếp
hơn, vì thế dễ phát hiện sự vi phạm các quy luật tự nhiên nhưng trong các quy
luật kinh tế không thể phát hiện được ngay sự vi phạm.
Trong cuộc sống kinh tế, mối liên hệ qua lại và sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa nguyên nhân và kết quả phức tạp và xa xôi hơn. Vì thế, không thể phát
hiện ngay được sự vi phạm các quy luật kinh tế. Hậu quả của sự vi phạm này
rất nguy hại, do đó gây khó khăn cho việc vận dụng và nhận thức các quy
luật.
- Các quy luật kinh tế có tính bền vững kém hơn so với quy luật tự nhiên.
Mỗi quy luật kinh tế chỉ tồn tại trong một hình thái kinh tế xã hội nhất
định, khi những điều kiện tồn tại của nó mất đi, các quy luật kinh tế cũng
không tồn tại nữa.

14
Ví dụ: Quy luật cạnh tranh chỉ tồn tại trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thời bao cấp, nó không tồn tại, vì không đủ điều kiện cho
nó xuất hiện.
Do đó, khi vận dụng các quy luật kinh tế phải tính đến giai đoạn phát
triển của nền kinh tế, bởi vì các quy luật kinh tế thể hiện sự hoạt động của
mình thông qua các hình thức và quá trình kinh tế cụ thể. Những hình thức
này, chúng ta thường gặp rất nhiều trong thực tế như: sản phẩm, thu nhập, tiền
lương…Những yếu tố tác động đến hình thức biểu hiện của quy luật rất nhiều,
một số yếu tố có tính chất nguyên tắc:
- Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Mức độ phát triển của quan hệ sản xuất.
- Điều kiện của đất nước
- Trạng thái ý thức của xã hội
- Hoàn cảnh quốc tế
Vì vậy, việc lựa chọn hình thức thể hiện cho các quy luật kinh tế là rất
quan trọng. Khi lựa chọn, phải chú ý để các quy luật kinh tế phản ánh được
bản chất của các quan hệ kinh tế. Các quy luật này liên quan chặt chẽ với
nhau, tạo thành hệ thống. Hình thức biểu hiện phải là hình thức chung của
một số quy luật kinh tế.
Cùng với đó, hình thức biểu hiện của các quy luật kinh tế phải phù hợp
với đặc điểm phát triển của nền kinh tế quốc dân trong những điều kiện lịch
sử nhất định của đất nước. Đặc điểm này yêu cầu con người phải biết sử dụng
các phương tiện và biện pháp khác nhau để vận dụng các quy luật kinh tế vào
thực tiễn; các phương pháp và hình thức này phải có những sự kế thừa nhất
định, loại bỏ những cái lỗi thời, sử dụng phương pháp mới hiệu quả hơn.
- Các quy luật kinh tế hoạt động trong mối liên hệ ràng buộc nhau, hỗ trợ và
thúc đẩy nhau đi theo một hướng dó quy luật kinh tế cơ bản quy định.
Các quy luật kinh tế không thể hoạt động như là những quy luật có
hướng khác nhau và dẫn đến xung đột nhau, hoạt động theo những phương
thức khác nhau. Một quy luật hoạt động theo một hướng chung dó quy luật
15
chung cơ bản đề ra. Khi đánh giá hoạt động của các quy luật kinh tế, cần chú
ý đến mối liên hệ cơ bản của chúng với quy luật kinh tế cơ bản của hình thái
kinh tế xã hội.
Nền kinh tế quốc dân được phát triển trong môi trường tự nhiên nhất
định cũng như gắn với thượng tầng kiến trúc nhất định. Vì thế, cần phải
nghiên cứu các quy luật kinh tế trong sự tác động qua lại của chúng với quy
luật tự nhiên và các quy luật của những quan hệ thượng tầng.
- Hoạt động của các quy luật kinh tế liên quan đến cơ chế quản lý.
Cơ chế quản lý là phương thức điều hành có kế hoạch nền kinh tế, dựa
trên đòi hỏi của các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, bao gồm
tổng thể các phương pháp, hình thức, các thủ thuật để thực hiện yêu cầu của
các quy luật khách quan ấy.
- Nếu cơ chế quản lý có kế hoạch thì các quy luật hoạt động một cách
tự giác.
- Nếu cơ chế quản lý không có kế hoạch thì các quy luật sẽ hoạt động
tự phát, gây bất ổn cho nền kinh tế.
c. Các quy luật kinh tế cơ bản.
- Quy luật giá trị: Là quy luật cơ bản của nền kinh tế hàng hóa. Trong
nền kinh tế hàng hóa đều phải dựa vào giá trị của hàng hóa. Giá trị của hàng
hóa biểu hiện trên thị trường là giá cả thị trường – đây là nhân tố của cơ chế
điều tiết nền kinh tế. Quy luật giá trị làm cho nền kinh tế thị trường có sức
sống nhờ các vai trò to lớn: điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa, kích
thích lực lượng sản xuất phát triển, thực hiện sự phân hóa từ phía những
người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo( làm tăng khoảng cách giàu nghèo)
- Quy luật cung cầu (cùng với quy luật giá trị) là một nhân tố trong cơ
chế thị trường, nó chỉ ra xu hướng vận động của cung và cầu theo giá cả của
hàng hóa dịch vụ một cách cụ thể và nó được đông đảo người dân trong xã
hội tiếp cận.
Chính giá cả tăng lên làm cho cầu về sản phẩm hàng hóa giảm nhưng
cung về hàng hóa đó lại tăng. Ngược lại, giá cả giảm xuống sẽ làm cho cầu
16
tăng lên, cung giảm xuống. Cứ như vậy, sự vận dụng quy luật cung cầu sẽ
điều tiết giá cả thị trường.
- Quy luật cạnh tranh: Là một trong những quy luật vốn có của cơ chế
thị trường. Quy luật này buộc các nhà doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
phải luôn luôn cải tiến sản phẩm, hạ giá thành và phục vụ tốt hơn cho nhu cầu
của khách hàng. Kết quả của quy luật này làm cho hàng hóa thêm phong phú,
chất lượng ngày một cao hơn và giá thành ngày một hạ. Tuy nhiên, mặt trái
của cạnh tranh là những biện pháp cạnh tranh không lành mạnh, cần sự điều
tiết của Nhà nước.
2.1.3.2. Quy luật tâm lý xã hội
- Quy luật về tính khí của con người là một thuộc tính tâm lý của con
người, gắn liền với hệ thần kinh. Nó được biểu hiện thành những hành vi cử
chỉ của con người hàng ngày. Tính khí của con người chia làm 4 loại: tính khí
nóng, tính khí lạnh, tính khí linh hoạt và tính khí ưu tư.
- Quy luật về nhu cầu: Nhu cầu là sự thiếu thốn một cái gì đó mong
muốn đáp ứng. Cũng có thể nói, nhu cầu là sự mất cân bằng về mặt sinh lý,
nó là nguyên nhân sinh ra động cơ hoạt động của con người và để thỏa mãn
một nhu cầu nào đó. Nhu cầu của con người không ngừng tăng.
- Quy luật về lợi ích: Lợi ích là sự vận động tự giác chủ quan của con
người nhằm thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người. Các quy luật lợi ích
cơ bản trong cuộc sống mà con người thường quan tâm:
+ Lợi ích các nhân hơn lợi ích tập thể
+ Lợi ích vật chất hơn lợi ích tinh thần
+ Lợi ích cá nhân hơn lợi ích tập thể
2.1.3.3. Các quy luật mang tính tổng quát
- Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất

17
Sản xuất đòi hỏi con người phải quan hệ với tự nhiên và quan hệ với
nhau. Hai loại quan hệ đó hình thành nên quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất.
Lực lượng sản xuất bao gồm: tư liệu sản xuất và người lao động cùng
với kinh nghiệm và thói quen của họ
Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ
trong phân phối.
Tính quy luật là quan hệ sản xuất phải luôn luôn phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển thì sẽ
phá vỡ quan hệ sản xuất cũ và hình thành quan hệ sản xuất mới cao hơn.
- Quy luật mỗi quốc gia đều có mục tiêu phát triển kinh tế: dân giàu
nước mạnh để đảm bảo tự chủ về đường lối và chủ quyền lãnh thổ
Đây là quy luật tổng quát của sự phát triển của mọi quốc gia thời nay.
Nó cũng là quy luật chi phối mọi đường lối chủ trương của mỗi nước, lệ thuộc
vào các nhà lãnh đạo cả của từng nước. Quy luật này đang chi phối vận mệnh
của nhân loại, đó là cùng tồn tại và phát triển trong hòa bình và hội nhập khu
vực, quốc tế hay là mầm mống của chiến tranh, của xâm lược và chống xâm
lược.
- Quy luật về sự phân hóa xã hội: đây là quy luật của mọi quốc gia khi đi
theo cơ chế thị trường. Một xã hội, nếu như không có chênh lệch về thu nhập,
về kết quả hoạt động của con người làm việc tạo ra thì xã hội sẽ không có
động lực, nhưng nếu sự chênh lệch bị đẩy đến mức phi lý thì trở thành mâu
thuẫn và rất dễ đổ vỡ. Chính vì vậy, các nhà quản lý quốc gia phải luôn ứng
dụng các quy luật tạo ra các chính sách nhằm bảo đảm công bằng hợp lý
nhưng lại luôn luôn tạ ra động lực cho xã hội phát triển.
2.1.4. Cơ chế vận dụng các quy luật
2.1.4.1 Khái niệm vận dụng các quy luật.
Cơ chế vận dụng các quy luật là một quá trình bao gồm từ khâu nhận
thức quy luật đến tạo điều kiện và kết hợp hài hòa các lợi ích trong xã hội làm
cho các quy luật phát huy tác dụng.
18
Ví dụ: Quy luật lợi nhuận
Lợi nhuận là cái đích là mục tiêu cao nhất đối với hầu hết các doanh
nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, quy luật tăng lợi nhuận là quy luật
khách quan.
Lợi nhuận được đo bằng sự chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi
phí, nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố: Quy mô sản xuất, giá cả, chất
lượng các yếu tố đầu vào, giá bán bình quân… Để quy luật lợi nhuận phát huy
được tác dụng trong thực tiễn phải nhận thức được các yếu tố cơ bản nói trên.
2.1.4.2 Đặc điểm của cơ chế vận dụng các quy luật
- Tính bao quát toàn diện và phục vụ cho việc vận dụng tổng hợp các
quy luật khách quan trong quản lý kinh tế. Trong đó, các quy luật kinh tế giữ
vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế.
- Tính thống nhất trong nền kinh tế.
- Tính đồng bộ nhịp nhàng ăn khớp giữa các yếu tố, hợp thành cơ chế
thống nhất gắn liền với hạch toán kinh tế và các đòn bẩy khuyến khích kinh
tế.
- Tính khoa học và tính cách mạng kết hợp với nhau trong việc xây
dựng, hoàn thiện và vận dụng cơ chế trong thực hiện quản lý kinh tế. Nó chứa
đựng khả năng phát hiện đấu tranh và loại trừ những yếu tố quan liêu trì trệ
cản trở ngay khi chúng bắt đầu phát sinh và thu hút những thành tựu mới của
các ngành khoa học và kỹ thuật để bổ sung và hoàn thiện cơ chế.
2.1.4.3 Nội dung của cơ chế vận dụng quy luật
Con người cần phải nắm được nội dung của cơ chế vận dụng quy luật
và áp dụng chúng trong thực tiễn để nâng cao được hiểu quả kinh tế, đồng
thời đây cũng là cơ sở, tiền đề cho sự xuất hiện các quy luật kinh tế mới, đáp
ứng được đòi hỏi ngày càng cao của con người. Để làm được như vậy thì con
người phải:
- Nhận biết được quy luật, nghĩa là phải nắm được nội dung của quy
luật, nắm được các mối liên hệ bản chất và sự biểu hiện của các quy luật. Có
hai cách để nhận biết các quy luật:
19
- Nhận biết quy luật bằng kinh nghiệm.
Theo cách này, dễ thực hiện không tốn kém tuy nhiên việc nhận biết quy
luật diễn ra lâu dài mà khả năng vận dụng lại không rộng rãi, sâu sắc.
Ví dụ: Người Hy Lạp đã biết dùng cây gỗ dài và lấy điểm tựa để tạo ra
lực đòn bẩy nhằm di chuyển những hòn đá lớn để xây dựng Kim Tự Tháp
cách đây 2.560 năm TCN. Nhưng phải đến hàng trăm năm sau Acsimet mới
tìm ra định luật đòn bẩy “ Hãy cho tôi điểm tựa tôi sẽ nâng bổng trái đất lên”
- Nhận biết quy luật bằng hệ thống lý luận khoa học và bằng những
phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại. Theo cách này, thời gian nhận thức
rút ngắn, phạm vi ứng dụng rộng rãi, sâu sắc hơn. Tuy nhiên, việc nhận biết
quy luật này tốn kém, phụ thuộc vào trình độ sử dụng công nghệ.
Ví dụ: Ngày nay, với việc vận dụng các thành quả khoa học công nghệ,
người ta giải mã được 98% lượng gen trong cơ thể con người.
- Tổ chức các điều kiện chủ quan để làm xuất hiện các điều kiện khách
quan của hệ thống mà nhờ đó các quy luật khách quan phát huy tác dụng.
- Tổ chức thu thập các thông tin sai phạm, ách tắc do việc không tuân thủ
các quy luật khách quan gây ra. Từ đó, đưa ra các quyết định hoạt động của
nền kinh tế, làm cho các quy luật hoạt động đúng với bản chât vốn có của nó.
2.1.5. Cơ chế quản lý kinh tế
2.1.5.1 Khái niệm về cơ chế quản lý kinh tế.
- Khái niệm cơ chế: Cơ chế là một khái niệm chỉ sự diễn biến vận hành
nội tại của một hệ thống, trong đó có sự tương tác giữa các yếu tố kết thành
hệ thống trong quá trình vận động của mỗi yếu tố, nhờ đó hệ thống có thể vận
hành theo mục đích đã định.
- Cơ chế kinh tế: Cơ chế được áp dụng vào lĩnh vực kinh tế gọi là cơ chế
kinh tế. Do đó, cơ chế kinh tế là diễn biến nội tại của hệ thống kinh tế trong
quá trình phát triển, trong đó có sự tương tác giữa các bộ phận, các mặt cấu
thành nền kinh tế trong quá trình vận động của mỗi mặt, mỗi bộ phận nào đó
tại nên sự vận động của cả hệ thống kinh tế.

20
- Cơ chế quản lý kinh tế là phương thức điều hành có kế hoạch nền kinh
tế, dựa trên cơ sở các đòi hỏi của các quy luật khách quan của sự phát triển xã
hội, bao gồm tổng thể các phương pháp, các hình thức, các thủ thuật để thực
hiện yêu cầu của các quy luật khách quan ấy.
2.1.5.2 Nội dung của cơ chế quản lý kinh tế.
- Phân tích thực trạng kinh tế, từ đó đề ra chủ trương, chiến lược phát
triển.
- Xác định cơ cấu nền kinh tế bao gồm: Cơ cấu sản xuất, cơ cấu tổ chức,
cơ cấu quản lý đảm bảo tính hoàn chỉnh cho hệ thống kinh tế nhằm loại bỏ các
tiêu cực xã hội.
- Xây dựng hệ thống kế hoạch, bao gồm: Hệ thống kế hoạch của nhà
nước, kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Làm trong sạch và có hiệu quả bộ máy quản lý và cán bộ công chức
của bộ máy quản lý.
- Thực hiện đúng các nguyên tắc quản lý, hình thành các quy tắc, các
rằng buộc về hành vi bắt buộc các cấp, các ngành phải tuân thủ.
- Ban hành các chính sách kinh tế, xã hội
- Lựa chọn các phương pháp quản lý thích hợp
2.1.5.3. Động lực của cơ chế quản lý kinh tế
Khái niệm: Động lực là những tác động tích cực của chủ thể quản lý
mà nhờ đó có thể thống nhất được hành vi của cả hệ thống, đưa hệ thống đến
được mục tiêu quản lý trong thời gian ngắn nhất.
- Các tác động tích cực có thể là:
+ Trong nội bộ chủ thể quản lý
+ Trong từng phân hệ và từng phần tử bị quản lý
+ Từ môi trường tác động vào
- Các yếu tố hình thành động lực, gồm:
+Sự đúng đắn của mục tiêu quản lý
+Tính gương mẫu của các chủ thể quản lý

21
+Cấu trúc của hệ thống hợp lý tạo được tính ưu việt
+Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa bên trong và bên ngoài
+Phát huy được các yếu tố phi kinh tế như đạo đức, tâm lý, tác phong,
thói quen của con người để tiến tới sự thống nhất hành vi của cả hệ thống
+Giải quyết sự công bằng hợp lý các lợi ích xã hội, đây chính là động
lực cơ bản của sự phát triển hệ thống kinh tế
2.1.5.4 Chức năng của cơ chế quản lý kinh tế
Chức năng của cơ chế quản lý kinh tế là duy trì trạng thái ổn định của
nền kinh tế và đưa nền kinh tế phát triển lên một bước cao hơn. Cụ thể là:
- Củng cố và hoàn thiện dần các quan hệ sở hữu trong nền kinh tế
- Làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực
lượng sản xuất.
- Làm cho lực lượng sản xuất phát triển, đưa khoa học –kỹ thuật vào
cuộc sống, mở rộng quan hệ đối ngoại, tập hợp được sức mạnh quần chúng
- Hoàn thiện kiến trúc thượng tầng xã hội, bảo đảm giữ vững kỷ cương
pháp luật nhà nước, sự công bằng và trong sạch của xã hội.
2.2. CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ.
2.2.1. Định nghĩa nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế.
2.2.1.1. Khái niệm nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế
Vận dụng quy luật trong quản lý trước hết là việc đề ra các nguyên tắc
trong quản lý. Trong lịch sử hoạt động quản lý, người ta đã đưa ra nhiều
nguyên tắc, và trong từng lĩnh vực lại có những nguyên tắc đặc thù. Nguyên
tắc quản lý nhà nước về kinh tế là một trong những nguyên tắc đặc thù đó.
Nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế là những quy tắc chỉ đạo,
những tiêu chuẩn hành vi, các quan điểm cơ bản mà các cơ quan quản lý nhà
nước phải tuân theo trong quá trình quản lý kinh tế.
2.2.1.2 Yêu cầu của các nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế.
Nguyên tắc là sản phẩm chủ quan của con người, để nguyên tắc đề ra
được đúng đắn phải dựa trên các yêu cầu sau:

22
- Các nguyên tắc phải phù hợp với mục tiêu của quản lý
- Các nguyên tắc phải phản ánh đúng tính chất và các quan hệ quản lý
- Các nguyên tắc phải đảm bảo tính thống nhất, nhất quán và phải được
đảm bảo bằng pháp luật.
Các nguyên tắc quản lý kinh tế phản ánh các yêu cầu khách quan của
các quy luật chi phối lên quá trình quản lý kinh tế, tức là muốn biết có nguyên
tắc nào thì trước tiên phải biết có quy luật nào.
Đối với các nước tư bản chủ nghĩa, các nguyên tắc quản lý kinh tế chủ
yếu là: hiệu quả, tiết kiệm và thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế.
Quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam cần vận dụng 7 nguyên tắc cơ bản sau đây:

- Nguyên tắc tập trung dân chủ.

- Nguyên tắc thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế.

- Nguyên tắc kết hợp quản lý ngành với quản lý theo lãnh thổ.

- Nguyên tắc phân định và kết hợp quản lý Nhà nước về kinh tế với
quản lý sản xuất kinh doanh.

- Nguyên tắc hài hòa lợi ích giữa người lao động, doanh nghiệp và xã
hội.

- Nguyên tắc tăng cường pháp chế XHCN trong quản lý Nhà nước về
kinh tế.

- Nguyên tắc tiết kiệm hiệu quả.

2.2.2. Các nguyên tắc quản lý kinh tế của Nhà nước.


2.2.2.1 Thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế.
Thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế, bảo đảm quan hệ đúng đắn
giữa chính trị và kinh tế đồng thời tạo được động lực cho mọi người dân trong
xã hội là một trong những nguyên tắc cơ bản trong quản lý kinh tế có căn cứ
khoa học trong phạm vi quốc gia.

23
Phát triển luận điểm của C.Mác và Ăng ghen, Lenin đã chỉ ra sự thống
nhất biện chứng và sự tác động qua lại giữa hai phạm vi hoạt động của con
người đó là chính trị và kinh tế.
Chính trị là lĩnh vực của những quan hệ nhất định trong xã hội diễn ra
như là hoạt động có ý thức của con người. Đó là một hình thức nhận thức xã
hội phản ánh mức độ lớn nhất của các quan hệ kinh tế của con người. Ngoài
những yếu tố khách quan, chính trị bao gồm cả yếu tố chủ quan. Chính trị là
tổng thể các quan điểm, các phương pháp hoạt động thực tế nhất định của
Đảng, của Nhà nước, của giai cấp mà vấn đề mấu chốt là vấn đề chính quyền.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, không có sự phân chia về chính trị vì
nhân dân là người làm chủ thực sự các tư liệu sản xuất, nắm quyền lực chính
trị trong tay, tiến tới không có giai cấp thù địch, xã hội không có mâu thuẫn
giai cấp. Nhưng vì không thể thích ghi ngay chính trị với yêu cầu kinh tế khi
chưa có cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa, hơn nữa việc xây dựng chủ nghĩa xã
hội lại diễn ra trong sự đấu tranh ác liệt với thế lực thù địch.
Sự thống nhất và tác động khách quan lẫn nhau giữa chính trị và kinh tế
được thể hiện với các đặc điểm:
- Sự thống nhất và mối liên hệ lẫn nhau giữa chính trị và kinh tế không
có nghĩa là sự đồng nhất giữa chúng vì đó là hai phạm vi khác nhau của hoạt
động con người. Chúng ta không thể nhìn thấy ngay lợi ích kinh tế trực tiếp
và dầy đủ trong mọi hành động chính trị. Đôi khi, muốn đạt được lợi ích kinh
tế nào đó, cần có hàng loạt biện pháp chính trị quá độ.
- Trong sự thống nhất về chính trị và kinh tế, vai trò quyết định thuộc về
kinh tế. Chúng ta có thể chứng minh luận điểm này thông qua việc xem xét về
sự hình thành các kiểu nhà nước trong lịch sử phát triển của nhân loại.
- Trong sự thống nhất giữa chính trị và kinh tế, chính trị không phải là một
cách thụ động thực tế kinh tế. Nó là phương tiện mạnh mẽ tác động đến các
quá trình kinh tế khách quan theo 3 hướng cơ bản:
+ Tác động cùng hướng: thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh

24
+ Tác động ngược hướng: kinh tế chậm phát triển
+ Cản trở kinh tế trong những hướng phát triển và thúc đẩy kinh tế phát
triển theo những hướng khác. Trong trường hợp này, cuối cùng dẫn đến một
trong hai trường hợp trên.
Ví dụ, ở Việt Nam đang phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường có sự
định hướng của Nhà nước. Nếu như Đảng định hướng nền kinh tế đi theo một
hướng khác, không phù hợp với sự phát triển khách quan thì định hướng đó sẽ
kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, kinh tế và chính trị không tách rời nhau,
vì chính sách của Đảng là cơ sở của mọi biện pháp lãnh đạo kinh tế, hướng
dẫn sự phát triển không ngừng của kinh tế.
Nội dung của nguyên tắc
- Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận kinh tế, nghĩa là:
+ Đảng vạch ra chủ trương đường lối phát triển kinh tế
+ Đảng đề ra biện pháp thực hiện
+ Đảng động viên quần chúng tham gia thực hiện những chủ
trương đường lối do mình đề ra.
- Phát huy vai trò điều hành, quản lý kinh tế của nhà nước. Trong nội
dung này Nhà nước phải thực hiện những công việc cụ thể là:
+ Biến chủ trương đường lối của Đảng thành kế hoạch.
+ Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, xây dựng nhà nước pháp chế
+ Phải chăm lo, đảm bảo mọi mặt của đời sống nhân dân.
+ Nhà nước triển khai việc thực hiện kế hoạch do mình đề ra, và kiểm tra
việc thực hiện đó.
- Vừa phát triển sản xuất, vừa chăm lo đến quốc phòng an ninh, đấu
tranh chống quan liêu tham nhũng và nguy cơ diễn biến hòa bình của các thế
lực thù địch.
2.2.2.2 Tập trung dân chủ.
a. Khái niệm
25
Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa
giữa hai mặt cơ bản “tập trung” và “dân chủ” trong mối quan hệ hữu cơ
biện chứng chứ không phải chỉ là tập trung, hoặc chỉ là dân chủ. “Dân chủ”
là điều kiện, là tiền đề của tập trung; cũng như “tập trung” là cái bảo đảm
cho dân chủ được thực hiện. Hay nói cách khác, tập trung phải trên cơ sở
dân chủ; dân chủ phải trong khuôn khổ tập trung.

b. Cơ sở khoa học của nguyên tắc


Nguyên tắc tập trung dân chủ được đặt ra xuất phát từ lí do sau đây:
hoạt động kinh tế và việc của công dân, nên công dân phải có quyền (đó là
dân chủ), đông thời, trong một chừng mực nhất định, hoạt động kinh tế của
công dân có ảnh hưởng rõ rệt tới lợi ích của Nhà nước, lợi ích quốc gia, lợi
ích cộng đồng, do đó Nhà nước cũng phải có quyền (đó là tập trung).
c. Biểu hiện của nguyên tắc
- Biểu hiện của tập trung thông qua việc:
+ Thông qua hệ thống kế hoạch
+ Thông qua hệ thống pháp luật và chính sách quản lý kinh tế
+ Thực hiện chế độ một thủ trưởng ở tất cả các đơn vị
- Biểu hiện của dân chủ:
+ Mở rộng phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của các cấp. Phân biệt rõ
chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước và chức năng quản lý kinh doanh của
các doanh nghiệp về các mặt: Chủ thể, khách thể, phạm vi, mục tiêu, phương
thức.
+ Hạch toán kinh tế và chấp nhận nền kinh tế thị trường với cả mặt
hạn chế và tích cực của nó.
+ Giáo dục, bồi dưỡng trình độ kiến thức cho quần chúng
+ Kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng
lãnh thổ

d. Nội dung

26
- Bảo đảm cho cả Nhà nước và công dân, cho cả cấp trên và cấp dưới, tập
thể và các thành viên tập thể đều có quyền quyết định, không thể chỉ có Nhà
nước hoặc chỉ có công dân, chỉ có cấp trên hoặc chỉ có cấp dưới có quyền. Có
nghĩa là vừa phải có tập trung, vừa phải có dân chủ.

- Quyền của mỗi bên (Nhà nước và công dân; cấp trên và cấp dưới) phải
được xác lập một cách có căn cứ khoa học và thực tiễn. Có nghĩa là, phải xuất
phát từ yêu cầu và khả năng làm chủ của mỗi chủ thể: Nhà nước và công dân,
cấp trên và cấp dưới.

- Trong mỗi cấp của hệ thống quản lý nhiều cấp của Nhà nước phải bảo
đảm vừa có cơ quan thẩm quyền chung, vừa có cơ quan thẩm quyền riêng.
Mỗi cơ quan phải có thẩm quyền rõ rệt, phạm vi thẩm quyền của cơ quan
thẩm quyền riêng phải trong khuôn khổ thẩm quyền chung. Trong cơ quan
thẩm quyền chung, mỗi ủy viên phải được giao nhiệm vụ nghiên cứu chuyên
sâu một số vấn đề, có trách nhiệm phát biểu sâu sắc về các vấn đề đó, đồng
thời tập thể được trao đổi, bổ sung và biểu quyết theo đa số.

Tập trung quan liêu vào cấp trên, vào trung ương hoặc phân tán, phép vua
thua lệ làng; chuyên quyền, độc đoán của Nhà nước đến mức vi phạm nhân
quyền, dân quyền hoặc dân chủ quá trớn trong hoạt động kinh tế đều trái với
nguyên tắc tập trung dân chủ. Khuynh hướng phân tán, tự do vô tổ chức của
nền sản xuất nhỏ đang là cản trở nguy hại và phổ biến hiện nay.

2.2.2.3. Kết hợp hài hòa các lợi ích xã hội


Quản lý thực chất là quản lý con người, là tổ chức và phát huy tính chủ
động sáng tạo của con người. Con người vốn có những lợi ích, những nguyện
vọng và những nhu cầu nhất định. Do đó, nhiệm vụ quan trọng của quản lý là
phải chú ý đến lợi ích đó để khuyến khích họ làm việc và phát huy tính tích
cực lao động. Đồng thời, phải đảm bảo được hài hòa giữa các lợi ích: Lợi ích
cá nhân người lao động, lợi ích bộ phận và lợi ích xã hội. Trong đó, lợi ích cá
nhân người lao động là động lực trực tiếp, đồng thời nó là cơ sở để đảm bảo
lợi ích của tổ chức và xã hội.
27
Vậy từ đó, ta hiểu lợi ích là:
- Là sự vận động tự giác, chủ quan của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu
nào đó của con người
- Lợi ích là động lực thúc đẩy phát huy tính tích cực chủ động của con
người.
- Là phương tiện quản lý nên dùng nó để động viên con người.
Nội dung của nguyên tắc là phải kết hợp 3 loại lợi ích: Lợi ích nhà nước,
lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân trên cơ sở tôn trọng các đòi hỏi của quy luật
khách quan.
Biện pháp:
+ Thực hiện đường lối phát triển kinh tế đúng đắn trên cơ sở vận dụng
các quy luật khách quan phù hợp với đặc điểm của đất nước. Đường lối đó
phải phản ánh lợi ích cơ bản và lâu dài của toàn xã hội, cũng như lợi ích của
mọi thành viên trong xã hội
+ Xây dựng và thực hiện các kế hoạch và quy hoạch chuẩn xác. Kế hoạch
quy tụ quyền lực của cả hệ thống phải có tính hiện thực cao.
+ Thực hiện đầy đủ chế độ hạch toán kinh tế và vận dụng các đòn bẩy
kinh tế để quản lý một cách hiệu quả mọi tiềm năng và cơ hội.
Người lao động và tập thể của họ không chỉ có lợi ích về vật chất mà
còn có nhu cầu về lợi ích tinh thần. Đó là giá trị của họ với xã hội, là danh dự
và sư tôn trọng của con người, quyền được hưởng những giá trị về văn hóa
tinh thần của xã hội.
Giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích trong quản lý sẽ làm cho hệ thống
vận hành thuận lợi và hiệu quả. Ngược lại, nếu quan hệ lợi ích bị rối loạn sẽ là
nguyên nhân rối loạn tổ chức, phá vỡ hệ thống quản lý.
Như vậy, nhận thức lợi ích chẳng qua là vạch rõ khuynh hướng của các
quy luật, phạm vi và cường độ tác động của chúng. Chỉ khi nào các hình thức
và phương pháp quản lý phù hợp với lợi ích của xã hội, của tập thể, của cá
nhân thì các quy luật của chủ nghĩa xã hội mới nhận thức đúng đắn và vận

28
dụng khéo léo nhằm mục đích phát triển kinh tế xã hội. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu lợi ích, việc thỏa mãn và kết hợp hài hòa chúng là cơ sở để cải
tiến các phương pháp quản lý.
2.2.2.4. Kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ

2.2.2.4.1. Quản lý Nhà nước theo ngành.

a) Khái niệm ngành trong kinh tế (ngành kinh tế kỹ thuật)

Ngành kinh tế kỹ thuật là tổng hợp của nhiều đơn vị sản xuất kinh
doanh, mà hoạt động của chúng có những đặc trưng kỹ thuật – sản xuất giống
nhau, hoặc tương tự nhau như: cùng thực hiện một phương pháp công nghệ
hoặc công nghệ tương tự; sản phẩm sản xuất ra từ một loại nguyên liệu hay
nguyên liệu đồng loại; sản phẩm có công dụng cụ thể giống nhau hoặc tương
tự nhau.

Chẳng hạn, về công nghệ sản xuất có ngành công nghiệp khai thác,
ngành công nghiệp hóa học, ngành công nghiệp sinh hóa; về nguyên liệu cho
sản xuất có ngành công nghiệp chế biến xen-luy-lo, ngành công nghiệp chế
biến kim loại đen, kim loại màu; về công dụng của sản phẩm có ngành công
nghiệp thực phẩm, ngành chế tạo ô tô, ngành công nghiệp điện tử…

b) Khái niệm quản lí theo ngành

Quản lý theo ngành là việc quản lý về mặt kỹ thuật, về nghiệp vụ


chuyên môn của Bộ quản lý ngành ở trung ương đối với tất cả các đơn vị sản
xuất kinh doanh thuộc ngành trong phạm vi cả nước.

c) Sự cần thiết phải quản lý theo ngành

Các đơn vị sản xuất trong cùng một ngành có rất nhiều mối liên hệ với
nhau. Chẳng hạn, các mối liên hệ về sản phẩm sản xuất ra ( như các thông số
kỹ thuật để đảm bảo tính lắp lẫn; chất lượng sản phẩm; thị trường tiêu thụ…);
các mối liên hệ về việc hỗ trợ và hợp tác (như hỗ trợ và hợp tác trong việc sử
dụng lao động; trang bị máy móc thiết bị; ứng dụng công nghệ - kỹ thuật; áp
dụng kinh nghiệm quản lý…)
29
d) Nội dung quản lý Nhà nước theo ngành

Quản lý Nhà nước theo ngành bao gồm các nội dung quản lý sau đây:

- Trong việc xây dựng và triển khai thực hiện pháp luật, chủ trương, chính
sách phát triển kinh tế toàn ngành.

- Trong việc xây dựng và triển khai thực hiện các chiến lược, quy hoach,
kế hoạch và các dự án phát triển kinh tế toàn ngành.

- Trong việc xây dựng và triển khai các chính sách, biện pháp nhằm phát
triển nguồn nhân lực, nguồn vốn, nguồn nguyên liệu và khoa học công
nghệ….cho toàn ngành.

- Trong việc xây dựng và triển khai thực hiện các quan hệ tài chính giữa
các đơn vị kinh tế trong ngành với Ngân sách Nhà nước.

- Thống nhất trong toàn ngành và liên ngành về việc tiêu chuẩn hóa quy
cách, chất lượng sản phẩm. Hình thành tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng sản
phẩm.

- Trong việc thực hiện các chính sách, biện pháp phát triển và mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm chung cho toàn ngành và thực hiện sự bảo hộ sản
xuất của ngành nội địa trong những trường hợp cần thiết.

- Trong việc áp dụng các hình thức tổ chứ sản xuất khoa học và hợp lý các
đơn vị sản xuất kinh doanh trong toàn ngành.

- Trong việc thanh tra và kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của các
đơn vị kinh tế trong ngành. Định hướng đầu tư xây dựng lực lượng của ngành,
chống sự mất cân đối trong cơ cấu ngành và vị trí ngành trong cơ cấu chung
cua rnền kinh tế quốc dân.

- Thực hiện các chính sách, các biện pháp phát triển thị trường chung cho
toàn ngành, bảo hộ sản xuất ngành nội địa.

30
- Thống nhất hóa, tiêu chuẩn hóa quy cách, chất lượng hàng hóa và dịch
vụ, hình thành hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng sản phẩm để cơ
quan có thẩm quyền ban bố.

- Thực hiện các biện pháp, các chính sách quốc gia trong phát triển nguồn
nhân lực, nguồn nguyên liệu, nguồn trí tuệ khoa học và công nghệ chung cho
toàn ngành.

- Tham gia xây dựng các dự án Luânt, pháp lệnh, pháp quy, thẻ chế kinh tế
theo chuyên môn của mình để cùng các cơ quan chức năng chuyên môn khác
hình thành hệ thống văn bản pháp luật quản lý ngành.

2.2.2.4.2. Quản lí theo lãnh thổ.

a) Khái niệm lãnh thổ

Lãnh thổ của một nước có thể chia ra thành nhiều vùng lãnh thổ khác
nhau, trong đó có lãnh thổ của các đơn vị hành chính với các cấp độ khác
nhau. Chẳng hạn: lãnh thổ Việt Nam dược chia thành 4 cấp: lãnh thổ cả nước,
lãnh thổ tỉnh, lãnh thổ huyện, lãnh thổ xã.

b) Khái niệm quản lý theo lãnh thổ

Quản lý về Nhà nước trên lãnh thổ là việc tổ chức, điều hòa, phối hợp hoạt
động của tất cả các đơn vị kinh tế phân bổ trên địa bàn lãnh thổ (ở nước ta,
chủ yếu là theo lãnh thổ của các đơn vị hành chính)

c) Sự cần thiết phải thực hiện quản lý kinh tế theo lãnh thổ

Các đơn vị kinh tế phân boỏ tren cùng một địa bàn lãnh thổ (có thể
cùng một ngành hoặc không cùng ngành) có nhêìu mối quan hệ. Có thể kể
đến các mối quan hệ chủ yếu sau:

- Mối quan hệ về việc cung cấp và tiêu thụ sản phẩm của nhau.

- Sự hợp tác và liên kết với nhau trong việc khai thác và sử dụng các
nguồn lực sẵn có trên địa bàn lãnh thổ. Cụ thể: trong việc khai thác tài nguyên
thiên nhiên (khoáng sản, lâm sản, hải sản,…), khai thác và sử dụng điều kiện
31
tự nhiên ( như đất đai, thời tiết, sông hồ, bờ biển, thềm lục địa…); sử dụng
nguồn nhân lực và ngành; xử lí chất thải, bảo vệ môi trường sinh thái; sử
dụng kết cấu hạ tầng kỹ thuật (giao thông, cung ứng điện nước, bưu chính
viễn thông…)

Chính vì giữa các đơn vị kinh tế trên địa bàn lãnh thổ có nhiều mối
quan hệ như trên nên đòi hỏi phải có sự tổ chức, điều hòa và phối hợp hoạt
động của chúng để đảm bảo một cơ cấu kinh tế lãnh thổ hợp lí và hoạt động
kinh tế có hiệu quả trên địa bàn lãnh thổ.

d) Nội dung quản lý kinh tế theo lãnh thổ

- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch và dự án phát triển kinh tế - xã hội trên lãnh
thổ ( không phân biệt kinh tế trung ương, kinh tế địa phương, các thành phần
kinh tế khác nhau) nhằm xây dựng một cơ cấu kinh tế lãnh thổ hợp lí và có
hiệu quả.

- Điều hòa, phối hợp hoạt động sản xuất kinh doanh của tất cả các đơn vị
kinh tế trên lãnh thổ nhằm tận dụng tối đa và sử dụng một cách có hiệu quả
nhất nguồn lực sẵn có tại địa phương.

- Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật của từng vùng lãnh thổ bao
gồm: hệ thống giao thông vận tải; cung ứng điện năng; cấp thoát nước; đường
sá, cầu cống; hệ thống thông tin liên lạc….để phục vụ chung cho cả cộng
đồng kinh tế trên lãnh thổ.

- Thực hiện công tác thăm dò, đánh giá tài nguyên thiên nhiên trên địa bàn
lãnh thổ.

- Thực hiện sự phân bố các cơ sở sản xuất trên địa bàn lãnh thổ một cách hợp
lí và phù hợp với lợi ích quốc gia.

- Quản lý, kiểm soát việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên quốc gia
trên địa bàn lãnh thổ.

32
- Quản lý, kiểm soát việc xử lí chất thải, bảo vệ môi trường sinh thái trên địa
bàn lãnh thổ.

2.2.2.4.3. Kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ.

a) Khái niệm

Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ đòi hỏi phải có sự
phối hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ trên tất cả
mọi lĩnh vực kinh tế.

Cả hai chiều quản lý đều phải có trách nhiệm chung trong việc thực hiện
mục tiêu của ngành cũng như của lãnh thổ. Sự kết hợp này sẽ tránh được tư
tưởng bản vị của bộ, ngành, trung ương và tư tưởng cục bộ địa phương của
chính quyền địa phương.

Theo đó, Bộ chỉ quan tâm đến lợi ích của các đơn vị kinh tế do mình thành
lập và Ủy ban nhân dân địa phương chỉ quan tâm đến lợi ích của các đơn vị
kinh tế của địa phương. Từ đó, dẫn đến tình trạng tranh chấp, không có sự
liên kết giữa các đơn vị kinh tế trên cùng một địa bàn lãnh thổ, do đó hiệu quả
thấp.

b) Nội dung kết hợp

Sự kết hợp quản lý nhà nước theo ngành và theo lãnh thổ được thực hiện
như sau:

- Thực hiện quản lý đồng thời cả hai chiều: Quản lý theo ngành và quản lý
theo lãnh thổ. Có nghĩa là, các đơn vị đó phải chịu sự quản lý của ngành (Bộ)
đồng thời nó cũng phải chịu sự quản lý theo lãnh thổ của chính quyền địa
phương trong một số nội dung theo chế độ quy định.

- Có sự phân công quản lý rành mạch cho các cơ quan quản lý theo ngành
và theo lãnh thổ, không trùng lặp, không bỏ sót về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn.

33
- Các cơ quan quản lý nhà nước theo mỗi chiều thực hiện chức năng,
nhiệm vụ quản lý theo thẩm quyền của mình trên cơ sở đồng quảnl hiệp quản,
tham quản với cơ quan nhà nước thuộc chiều kia, theo quy định cụ thể của
Nhà nước. Đồng quản là cùng có quyền và cùng nhau ra quyết định quản lý
theo thể thức liên tịch. Hiệp quản là cùng nhau ra quyết định quản lý theo
thẩm quyền, theo vấn đề thuộc tuyến của mình nhưng có sự thương lượng,
trao đổi, bàn bạc để hai loại quyết định của mỗi bên tương đắc với nhau.
Tham quản là việc quản lý , ra quyết định của mỗi bên phải trên cơ sở được
lấy ý kiến của bên kia.

2.2.2.5. Nguyên tắc phân định và kết hợp tốt chức năng quản lý nhà nước
về kinh tế với chức năng quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp.
a. Sự cần thiết của việc phân biệt.
Một là, trong thời kỳ đổi mới, trong cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập
trung, đã từng không có sự phân biệt giữa hai loại quản lý nói trên. Điều này
thể hiện ở việc Nhà nước can thiệp một cách toàn diện, triệt để và sâu rộng
vào mọi hoạt động của sản xuất- kinh doanh của các doanh nghiệp, đồng thời
các doanh nghiệp lại được giao cho thực hiệnc một số chức năng vượt quá
khả năng và tầm kiểm soát của chúng. Đó là chế độ quản lý tập trung, quan
liêu, can thiệp quá sâu vào nội bộ của doanh nghiệp. Bên cạnh đó còn là việc
giao cho bộ máy quản lý doanh nghiệp một số chức năng quản lý mà chỉ có
Nhà nước mới có thể đảm nhận được.
Hai là, việc phân biệt quản lý nhà nước với quản lý sản xuất kinh
doanh cho phép định rõ được trách nhiệm của cơ quan nhà nước và trách
nhiệm của cơ quan sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp. Chỉ khi đó, mọi sai
lầm trong quản lý dẫn đến tổn thất tài sản quốc gia, lợi ích của nhân dân sẽ
được truy tìm nguyên nhân, thủ phạm. Không ai có thể trốn tránh trách nhiệm.
Ba là, trong điều kiện nền kinh tế tồn tại nhiều hình thức sở hữu, việc không
phân biệt quản lý nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh là vi phạm tính tự
do kinh doanh và sự chịu trách nhiệm cảu các đơn vị kinh tế trong nền kinh tế

34
thị trường và trong khuôn khổ pháp luật, làm thui chột tính năng động, sáng
tạo của giới kinh doanh và hạn chế hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
b. Nội dung phân biệt
Chúng ta có thể phân biệt được quản lý nhà nước về kinh tế với quản lý
kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các tiêu chí sau:

Nội dung phân biệt QLNN về kinh tế QLKD của doanh nghiệp
Quan hệ QL Chủ thể quản lý Đối tượng bị quản lý của
Nhà nước
Đối tượng QL Tài sản thuộc sở hữu toàn Tài sản thuộc sở hữu của
dân DN
Mục tiêu Phát triển toàn bộ nền kinh Lợi ích kinh tế, cụ thể là
tế quốc dân, ổn định chính giá trị hoặc giá trị sử dụng
trị, XH, tăng thu nhập quốc nào đó
dân
Phạm vi Toàn bộ nền kinh tế QD DN của mình
Công cụ Pháp luật, hệ thống các Hợp đồng kinh tế, kế hoạch
chính sách sản xuất.
Nguyên tắc tổ Tập trung dân chủ Hạch toán kinh tế
chức bộ máy

2.2.2.6. Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả


Tiết kiệm và hiệu quả là hai mặt của cùng một vấn đề, đó là làm sao để
với một cơ sở vật chất và kỹ thuật, một nguồn tài nguyên, một lực lượng xã
hội hiện có và sẽ có, trong một giai đoạn phát triển nào đó sẽ sản xuất ra một
khối lượng của cải vật chất và tinh thần nhiều nhất, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu vật chất của xã hội chủ nghĩa. Thông qua đó có thể chứng minh
về tính vượt trội của chủ nghĩa xã hội so với hệ thống tư bản chủ nghĩa.
* Bản chất của tiết kiệm
- Tiết kiệm suy cho cùng là tiết kiệm thời gian
- Tiết kiệm là quy luật của nền sản xuất xã hội
- Tiết kiệm đi đôi với việc ứng dụng các thành quả khoa học công nghệ
35
Yêu cầu của nguyên tắc là phải đạt được kết quả của các hoạt động kinh tế
cao nhất trong phạm vi có thể được.
* Khả năng tiết kiệm có nhiều trong đó bao gồm:
- Có đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn, phù hợp với đòi
hỏi của các quy luật khách quan.
- Giảm chi phí vật tư, được thực hiện bằng cách:
+ Áp dụng kỹ thuật mới và quy trình công nghệ tiên tiến
+ Cải tiến kết cấu sản phẩm, giảm trọng lượng
+ Nâng cao chất lượng sản phẩm
+ Sử dụng vật tư nhiều lần, giảm tổn thất về phế liệu, tận dụng phế liệu
+ Sử dụng vật liệu thay thế và phế phẩm
- Tiết kiệm lao động sống, đặc biệt là nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực. Cần tổ chức lại các loại lao động, kể cả lao động quản lý, cải tiến bộ máy
quản lý, giảm bớt chi phí hành chính theo hướng gọn nhẹ, thạo việc và linh
hoạt.
- Đảm bảo đầu tư có trọng điểm, tránh phân tán tản mạn, coi trọng tính
hệ thống, tính đồng bộ của đầu tư xây dựng cơ bản.
- Tiết kiệm trong sử dụng tài nguyên thiên nhiên, khai thác phải đi đôi
với bồi bổ.
Bên cạnh đó, yêu cầu của nguyên tắc hiệu quả còn đòi hỏi người quản lý
phải có quan điểm đúng đắn, biết phân biệt hiệu quả trong từng tình huống
khác nhau, biết đặt lợi ích chung lên lợi ích cá nhân, biết đánh giá hiệu quả
một cách toàn diện. Từ đó đề ra các quyết định tối ưu, nhằm tạo được thành
quả có lợi nhất cho cả hệ thống.
2.2.2.7. Nguyên tắc pháp chế XHCN
a. Sự cần thiết của việc thực hiện nguyên tắc

Một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta hiện nay là một nền kinh tế đa sở hữu về tư liệu sản
xuất. Chính sự xuất hiện của nhiều loại hình kinh tế thuộc nhiều thành phần
36
kinh tế khác nhau như: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân tư
bản, kinh tế tư nhân…đòi hỏi Nhà nước phải quản lý đối với nền kinh tế bằng
những biện pháp, trong đó đặc biệt phải coi trọng phương pháp quản lý bằng
pháp luật, trên cơ sở pháp luật.

Thực tiễn quản lý nhà nước đối với nền kinh tế ở nước ta trong những
năm qua cho thấy, tình trạng buông lỏng kỷ luật, kỷ cương, sự hữu khuynh
trong việc thực hiện chức năng tổ chức, giáo dục, xem nhẹ pháp chế trong
hoạt động kinh tế của nhiều doanh nghiệp…đã làm cho trật tự kinh tế ở nước
ta có nhiều rối loạn, gây ra những tổn thất không nhỏ cho đât nước, đồng thời
làm giảm sút nghiêm trọng uy tín va làm lu mờ quyền lực của Nhà nước. Vì
vậy, việc thực hiện nguyên tác tăng cường pháp chế XHCN là một yêu cầu
khách quan của quá trình quản lý kinh tế của Nhà nước ta.

b. Yêu cầu của việc thực hiện nguyên tắc

Để thực hiện nguyên tắc trên cần phải tăng cường công tác lập pháp và
tư pháp.

- Về lập pháp, phải từng bước đưa mọi quan hệ kinh tế vào khuôn khổ
pháp luật. Các đạo luật phải được xây dựng đầy đủ, đồng bộ, có chế tài rõ
ràng, chính xác và đúng mức.

- Về tư pháp, mọi việc phải được thực hiện nghiêm mimh (từ khâu giám
sát, phát hiện, điều tra, công tó đến khâu xét xử, thi hành án…) không để xảy
ra tình trạng có tội không bị bắt, bắt rồi không xét xử hoặc xét xử quá nhẹ, xử
rồi mà không thi hành án hoặc thi hành án nửa vời v.v

37

You might also like