You are on page 1of 10

Khóa LUYỆN THI THPT QUỐC GIA NĂM 2019 – GV: Vũ Thị Dung Facebook: DungVuThi.

HY

BÀI 10
ID: 64300, 66685
Chuyên đề: LUYỆN THI THPT QUỐC GIA MÔN NGỮ VĂN

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ


(Nguyễn Tuân)
I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả
- Nguyễn Tuân (1910 - 1987) là một nghệ sĩ chân chính suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông có một vị
trí quan trọng và đóng góp không nhỏ cho văn học Việt Nam hiện đại: thúc đẩy thể tùy bút, bút kí
văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao; làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc; đem đến
cho nền văn xuôi hiện đại Việt Nam một phong cách tài hoa, độc đáo.
- Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân tập trung viết về vẻ đẹp "vang bóng một thời", cảnh sắc
thiên nhiên và những cảnh sinh hoạt với những nét độc đáo khác nhau ở nhiều vùng quê trên đất
nước ta. Sau cách mạng, sáng tác của ông hướng vào đề tài ngợi ca đất nước và con người Việt
Nam trong chiến đấu và trong lao động sản xuất.
- Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách độc đáo: nhìn sự vật, hiện tượng thiên về phương
diện văn hóa thẩm mĩ, nhìn con người thiên về phương diện tài hoa nghệ sĩ. Ông là một cây bút tài
hoa, uyên bác; có sở trường ở thể tùy bút và là bậc thầy của ngôn ngữ văn xuôi nghệ thuật. Sau
cách mạng, phong cách Nguyễn Tuân có sự biến chuyển rõ rệt: đi tìm cái đẹp trong cuộc sống hiện
tại, khám phá chất tài hoa nghệ sĩ trong nhiều lĩnh vực của đời sống và trong đại chúng nhân dân.
2. Văn bản
"Người lái đò Sông Đà" được in trong tập tùy bút "Sông Đà" (1960) của nhà văn Nguyễn
Tuân, gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ phác thảo đứng vào hàng kiệt tác của Văn học Việt Nam
hiện đại. Bài văn mới đầu có tên là "Sông Đà", sau đó khi in vào tập 2 "Tuyển tập Nguyễn Tuân"
thì tác giả đổi lại là "Người lái đò Sông Đà".
II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1. Hình tượng Sông Đà
- Sông Đà được nhà văn xây dựng như một nhân vật có mặt suốt từ đầu đến cuối thiên tùy bút,
góp phần tạo nên giá trị độc đáo của tác phẩm. Dưới ngòi bút tài hoa và uyên bác của Nguyễn
Tuân, Sông Đà không phải là dòng sông vô tri, vô giác mà là một nhân vật có cá tính, có tâm
trạng, có hoạt động thật phong phú và phức tạp. Khi "hung bạo", nó vừa giống như một loài thủy
quái vừa như "kẻ thù số một" của con người; khi "trữ tình", nó lại đẹp hoang dại như thời tiền sử
và thân thiết với con người như một "cố nhân".
- Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội, nét tính cách hung bạo:
+ Cảnh đá bờ sông dựng vách thành: Những câu văn dài, từ ngữ giàu sắc thái gợi hình khắc
họa những khúc sông hẹp chảy xiết giữa hai bờ đá dựng vách thành, sâu, tối và lạnh, "mặt sông lúc
ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có chỗ vách đá chẹt lòng "Sông Đà" như một cái yết hầu.
Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ

Moon.vn - Học để khẳng định mình 1 Hotline: 0432 99 98 98


Khóa LUYỆN THI THPT QUỐC GIA NĂM 2019 – GV: Vũ Thị Dung Facebook: DungVuThi.HY

bờ này sang bờ kia". Thậm chí, khi ngước nhìn lên ta có cảm giác đang đứng vào cái ngõ hẹp mà
"ngó vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện".
+ Ghềnh Hát Loóng: Câu văn dài, ngắt làm nhiều vế, nhịp dồn dập, gấp gáp với phép lặp cấu
trúc ("nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió") và những từ láy có sức gợi hình, biểu cảm cao ("cuồn
cuộn", "gùn ghè") rất phù hợp để khắc họa ghềnh Hát Loóng "dài hàng cây số", hiểm trở, dữ dội,
sóng ghềnh tới tấp. Con ghềnh hiện lên như một loài thủy quái dai sức, hung dữ, đầy hận thù, lúc
nào cũng manh động trên Sông Đà.
+ Những cái hút nước trên sông:
 Phép liên tưởng, so sánh được tác giả sử dụng triệt để để gợi tả bộ mặt thật nham hiểm, táo
tợn những cái hút nước ("Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả
xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu."; "Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc.";
"Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt
quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra
ngoài bờ vực."; "Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng
sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào."; "Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít
đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì
lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh
phèn.")
 Chúng có cái miệng khổng lồ "giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm
móng cầu", lúc nào cũng há to để ngoạm, hút vào trong lòng nó tất thảy những gì đang trôi trên
mặt sông. Cái miệng ấy không những không vô hình mà còn không "vô thanh", lúc nào nó cũng
"thở và kêu như cửa cống cái bị sặc", có cái còn "ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào" để đe dọa, thị
oai.
 Mỗi cái hút nước là một chiếc cối xay bằng thủy tinh khối đúc dày màu xanh ve, với chiều
cao (tính từ đáy cối đến miệng cối) đến vài sải. Lòng nó như chiếc dạ dày của loài thủy quái khổng
lồ, lúc nào cũng háu đói. Bất cứ một cái thuyền nào sơ sảy bị cuốn vào miệng nó là lập tức "thuyền
trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau
mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới".
+ Thác đá sông Đà:
 Thác nước sông Đà: Tiếng thác ("rống") được tác giả liên tưởng đến tiếng trâu mộng ("lồng
lộn") và tiếng rừng lửa ("gầm thét").
Sự liên tưởng của tác giả độc đáo ở chỗ: âm thanh của tự nhiên (tiếng thác) được đổi thành
tiếng gầm đau đớn, "lồng lộn" của hàng ngàn con trâu mộng da cháy bùng bùng; và tài tình ở chỗ
tác giả đã đem thủy (thác nước) so sánh với hỏa (rừng lửa). Sức mạnh hoang dã của tự nhiên qua
tài đối sánh, qua trí tưởng tượng phong phú, độc lạ của Nguyễn Tuân đã gây ấn tượng trong người
đọc về sự dữ dội, y như một trận động rừng hay cháy rừng khủng khiếp, của nước thác trên sông
Đà.
 Thạch trận trên sông: Đội quân thạch giang trên Sông Đà khá hùng hậu, "cả một chân trời
đá", "ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông".
Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, mỗi hòn đá như có một gương mặt riêng. Hòn thì ngổ
ngáo, hiếu chiến ("mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy
để vồ lấy thuyền"), hòn thì "ngỗ ngược", hòn thì "nhăn nhúm méo mó"; mỗi hòn một dáng ("nó

Moon.vn - Học để khẳng định mình 2 Hotline: 0432 99 98 98


Khóa LUYỆN THI THPT QUỐC GIA NĂM 2019 – GV: Vũ Thị Dung Facebook: DungVuThi.HY

đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé"); mỗi hòn một nhiệm vụ ("đám
tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông"; "hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ
hở, (…) giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa"; "những boong-ke chìm và pháo đài
đá nổi (…) phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy
thủ ngay ở chân thác.").
Để khắc họa từng gương mặt riêng của đá thác Sông Đà, tưởng như Nguyễn Tuân đã phải lao
động cật lực, khổ công quan sát và tung ra trường từ vựng hết sức giàu có, phong phú về hành
động ("nhổm cả dậy", "vồ lấy", "chặn ngang", "dụ", "đánh khuýp quật vu hồi", "đánh tan", "tiêu
diệt"), tính cách ("ngỗ ngược"), hình sắc ("nhăn nhúm", "méo mó", "to", "bé"), tư thế ("đứng",
"ngồi", "nằm")…
 Thác đá Sông Đà hiện lên trong văn bản như một loài "thủy quái" khôn ngoan, mưu trí,
nham hiểm và hung ác. Có sự phối hợp rất chặt chẽ giữa nước thác và đá thác trên sông.
Từ xa, tiếng nước thác "réo gần mãi lại réo to mãi lên", rồi "rống lên" vừa như phô trương sức
mạnh vừa như uy hiếp, đe dọa con thuyền sắp qua thác nước Sông Đà.
Sau đó, đến thác, "một chân trời đá" hiện hình và bày thạch trận trên sông. Đội quân thạch
giang đủ loại lớn bé, đủ tư thế ngồi, nằm, đứng nhưng hòn nào cũng "nhăn nhúm méo mó" và hiếu
chiến. Mỗi hòn đá đều nhận đúng vị trí: Đám đá tảng thì "chia làm ba hàng chặn ngang trên
sông"; hàng tiền vệ có hai hòn canh cửa; ở tuyến ba là những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi.
Với mỗi vị trí là một nhiệm vụ: Đám đá tảng sẽ "ăn chết" cái thuyền đơn độc; hai hòn đá canh ở
hàng tiền vệ sẽ dụ cái thuyền đi vào sâu nữa; những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi "phải đánh
tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân
thác". Nhiệm vụ nào của đám thạch giang trên Sông Đà cũng hung hãn, quyết liệt, cũng thể hiện
một quyết tâm tiêu diệt con thuyền đối phương đến cùng để giành chiến thắng.
 Những tri thức của khoa học quân sự đã được Nguyễn Tuân sử dụng rất nhuần nhuyễn, tài
tình. Hàng loạt các thuật ngữ quân sự được vận dụng hết sức tự nhiên: "mai phục", "thạch trận",
"giáp lá cà", "trận địa", "đánh khuýp quật vu hồi", "du kích", "boong-ke", "pháo đài". Theo đó,
tác giả đã dựng lại trước mắt người đọc một trận địa được dàn bày một cách công phu, mưu trí bởi
thác đá Sông Đà. Nước thác thì reo hò như làm thanh viện. Đá thác thì dàn thạch trận trên sông với
một thế trận bài bản với các đòn đánh phong phú theo binh pháp Tôn Tử (đánh vu hồi, đánh du
kích, đánh mai phục, đánh giáp lá cà…).
- Bên cạnh vẻ hung bạo, dữ ác thì Sông Đà còn là một dòng sông thơ mộng, trữ tình:
+ Nguyễn Tuân đã hình dung dòng sông như một thiếu nữ đẹp, kiều diễm với mái tóc "tuôn
dài tuôn dài, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo".
Những liên tưởng của Nguyễn hết sức thú vị, khơi gợi trong người đọc những cảm xúc mới mẻ
về một dòng sông đẹp vẻ đẹp thơ mộng, dịu dàng, trữ tình, đằm thắm.
+ Vẻ đẹp của Sông Đà còn được miêu tả trong những khoảng không gian và thời gian khác
nhau. Bằng sự am hiểu tường tận về Sông Đà, nhà văn đã phát hiện, miêu tả một cách tinh tế sự
biến đổi màu sắc của dòng sông theo từng mùa: mùa xuân về thì "xanh ngọc bích", một màu xanh
tuyệt đẹp chứ không phải là màu xanh canh hến hay xanh đục như của sông Gâm, sông Lô. Khi
thu sang thì "lừ lừ chín đỏ" như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, một màu đỏ giận dữ ở một
người bất mãn bực bội một chuyện gì đó. Mặt sông cứ "loang loáng" như "chiếu gương vào mắt
mình và sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu"".

Moon.vn - Học để khẳng định mình 3 Hotline: 0432 99 98 98


Khóa LUYỆN THI THPT QUỐC GIA NĂM 2019 – GV: Vũ Thị Dung Facebook: DungVuThi.HY

Các từ ngữ miêu tả màu sắc của dòng Sông Đà qua các mùa trong năm, thể hiện cảm nhận hết sức
tinh tế của tác giả.
 "Xanh ngọc bích": sắc xanh trong trẻo, thanh quí, mát lành, tinh khiết của làn nước Sông Đà
mùa xuân, tưởng như có thể vốc làn nước trong đôi bàn tay khum lại mà uống để tận hưởng cái vị
ngọt lành.
 "Xanh canh hến": sắc xanh đục, xanh lờ lờ của sông Gâm, sông Lô.
 "Lừ lừ chín đỏ": sắc nước mùa lũ đỏ dần bởi lớp phù sa cuộn xoáy trong lòng sông. Sắc đỏ
báo hiệu nỗi giận dữ đang lớn dần của dòng sông theo mùa. Màu sắc được cảm nhận bởi liên
tưởng thú vị, độc đáo của tác giả.
 "Màu nắng tháng ba Đường thi": cảm nhận về màu sắc thông qua thời gian nghệ thuật của
thi ca cổ. Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác khơi gợi những liên tưởng thú vị về màu nắng tháng ba
– cuối xuân – mùa hoa khói, trên dòng Trường Giang tấp nập thuyền bè qua lại trong câu thơ của
Lí Bạch: "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu".
 Và chính tình yêu đối với cái đẹp trữ tình của Sông Đà khiến nhà văn không nén nổi sự bực
tức: "chưa hề bao giờ tôi thấy dòng "Sông Đà" đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra
đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ".
+ Con sông Đà rất gợi cảm đối với những ai đã từng qua lại, mỗi người một cách. Riêng với
Nguyễn Tuân, đã có lần ông nhìn Sông Đà như một "cố nhân". Tác giả dùng những hình ảnh nên
thơ, trong sáng, dịu dàng khi viết về Sông Đà. "Bờ "Sông Đà", bãi "Sông Đà", chuồn chuồn bươm
bướm trên "Sông Đà". Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui
như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra "Sông Đà", đúng thế, nó đằm
thắm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chừng,
chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy". Những trang văn tài hoa
như thế này thật khó phân biệt đâu là tả ngoại cảnh, đâu là tiếng lòng của thiên nhiên mĩ lệ hòa với
tiếng lòng yêu thương của người nghệ sĩ đang đắm say trước dòng sông đẹp.
+ Ngòi bút của Nguyễn Tuân thật tinh tế, gợi cảm khi miêu tả tính cách trữ tình của Sông Đà ở
những quãng hoang sơ, "lặng tờ". Bằng những hình ảnh đẹp đẽ, thơ mộng, giọng văn mượt mà, êm
đềm, tác giả đã dựng nên một bức tranh rất nên thơ: "thuyền tôi trôi trên "Sông Đà". Cảnh ven
sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà
thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không có một
bóng người. Có gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh
đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ
tích tuổi xưa". Chính tác giả cũng ngạc nhiên vì cảnh vật hoang sơ, tĩnh lặng ở quãng Sông Đà này
và thốt lên niềm mong ước: "chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một
chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu". Ở đoạn này, Nguyễn Tuân đã
huy động cả một hệ thống từ ngữ so sánh độc đáo để miêu tả khung cảnh này. Bờ sông "hoang dại
như một bờ tiền sử" - như thể từ khi khai thiên lập địa đến giờ chưa từng in dấu chân của con
người. Thời gian cũng như đang ngừng lại trong không gian bởi từ đời Trần, đời Lí nơi đây cũng
vẫn lặng tờ, im vắng. Giữa khung cảnh sông nước, đồi núi đẹp như trong truyện cổ tích đó,
Nguyễn Tuân lại tưởng tưởng ra những âm thanh, hình ảnh tưởng chừng chỉ có trong truyện cổ
tích: "con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên
một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của
con vật lành: "Hỡi ông khách "Sông Đà", có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương ?".

Moon.vn - Học để khẳng định mình 4 Hotline: 0432 99 98 98


Khóa LUYỆN THI THPT QUỐC GIA NĂM 2019 – GV: Vũ Thị Dung Facebook: DungVuThi.HY

Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi
mất đàn hươu vụt biến". Tác giả đã dùng âm thanh để cực tả những gì là yên tĩnh, mặt khác, những
dòng viết ấy còn là sự phối kết rất nhiều cảm giác: có những cảm nhận về thị giác ("bụng trắng
như bạc"), lại có những cảm nhận về thính giác ("tiếng cá đập nước")...
2. Hình tượng người lái đò sông Đà
- Khái quát hình tượng ông Đò trong tương quan với Sông Đà:
+ Thác nước Sông Đà: hùng hậu, nham hiểm, độc dữ (lực lượng, trận địa đá Sông Đà bày
trong lòng sông).
+ Ông đò: cùng với năm bơi chèo còn lại đi trên một con thuyền đơn độc, võ khí chỉ là cán
chèo.
Trong cuộc đối chiến giữa con người với thiên nhiên, phần yếu thuộc về ông đò.
Trùng vi Thác nước Sông Đà Ông đò
Thứ nhất - Bày thạch trận: năm cửa tử, một - Hiện lên qua một vài chi tiết hình ảnh
cửa sinh; cửa sinh bố trí lệch bờ nhưng rất sắc nét.
bên trái. - Trước đòn tấn công như vũ bão của
- Thác nước làm thanh viện cho đá, Sông Đà, ông đò vẫn bình tĩnh giữ chặt
hò la vang dậy, đá trái, thúc gối, dội mái chèo (cuống lái).
thuyền từ dưới lên; sóng thác đánh - Khi bị thương bất ngờ, vết thương rất
đến đòn hiểm độc làm ông đò bị hiểm (méo bệch), ông vẫn cố nén vết
thương. thương, ghì chặt cuống lái  dũng
- Trận địa đá: toàn những hòn oai cảm.
phong lẫm liệt, thách thức, khiêu - Bình tĩnh chỉ huy, tiếng chỉ huy ngắn
chiến con thuyền... gọn, tỉnh táo  tài cầm quân, tài chỉ
 Sóng nước phối hợp với đá liên huy.
tiếp ra những đòn tấn công đối với - Đi qua năm cửa tử, ông đò đã bộc lộ
con thuyền. phẩm chất của một vị chiến tướng tài
Động từ mạnh, mật độ dày đặc mô ba, dũng cảm. Nhưng từ phía bên trái,
tả sự hiếu chiến, hiểm độc của Sông ông đò lái con thuyền lượn một đường
Đà. lượn sang bờ bên phải để tới được cửa
sinh thì đường lượn đó cho ta thấy
được sự điêu luyện, tài hoa - phẩm chất
nghệ sĩ của ông đò.
Thứ hai - Một cửa sinh bố trí ở bờ bên phải,
tăng thêm cửa tử.
- Thác Sông Đà được ví như hùm - Ghì cương lái, bám chắc lấy luồng
beo hổ báo (dữ dội, hung ác). nước mà phóng nhanh vào cửa sinh, lái
miết một đường chéo về phía cửa sinh.
 hình tượng của một võ tướng (Võ
Tòng đả hổ), một mình xông vào chiến
trận mà chiến đấu với hổ dữ (sức mạnh

Moon.vn - Học để khẳng định mình 5 Hotline: 0432 99 98 98


Khóa LUYỆN THI THPT QUỐC GIA NĂM 2019 – GV: Vũ Thị Dung Facebook: DungVuThi.HY

vô song, lòng quả cảm, kiên cường).


- Đứa thì ông tránh bơi nhanh, đứa thì
ông đè sấn lên mà chặt đôi.  Chiến
- Đám thủy quân nơi cửa ải nước thuật chiến đấu rất linh hoạt, tùy vào
xô ra định bám lấy con thuyền để đối tượng mà có những đòn đánh phù
lôi vào tập đoàn cửa tử. hợp (mưu trí).
- Để qua được tập đoàn cửa tử và đến
được với cửa sinh duy nhất ở bờ bên
trái thì con thuyền cũng phải lượn một
đường lượn  tài hoa.
Thứ ba - Ít cửa hơn, trái phải đều là luồng - Ông đò không được miêu tả trực tiếp
chết. mà gián tiếp xuất hiện thông qua hình
- Luồng sống nằm ở giữa bọn đá tượng con thuyền.
hậu vệ của con thác. - So sánh: Con thuyền như một mũi tên
 Sự hiểm nguy gia tăng, chỉ cần tre, tự động lái được lượn được.
sơ sảy thì con thuyền sẽ bị nuốt  Trí dũng, tài ba; tài hoa.
chửng.
Hình tượng ông đò hiện lên qua ba trùng vi thạch trận với hai vẻ đẹp: trí dũng và tài hoa.
III. TỔNG KẾT
1. Nghệ thuật
- Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị;
- Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao;
- Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ
tình…
2. Nội dung
Tác phẩm đã giới thiệu, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động ở
miền Tây Bắc của Tổ quốc; thể hiện tình yêu mến, sự gắn bó thiết tha của Nguyễn Tuân đối với
đất nước và con người Việt Nam.

Bài tập:
I. ĐỌC HIỂU
1. Đề 1. Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Hùng vĩ của "Sông Đà" không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng
vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng "Sông
Đà" như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con
nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè
mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa
sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.

Moon.vn - Học để khẳng định mình 6 Hotline: 0432 99 98 98


Khóa LUYỆN THI THPT QUỐC GIA NĂM 2019 – GV: Vũ Thị Dung Facebook: DungVuThi.HY

Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô "Sóng", "Sóng"
xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ "Người lái
đò Sông Đà" nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng
thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống
như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa
cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền
nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y
như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực.
Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên
như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi
tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi
vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông
dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho
khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả
máy quay xuống đáy cái hút "Sông Đà" – từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông
chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ngược contre-plongée lên một cái mặt
giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha
lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu
được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy
gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng
lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.
(Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr.186-187)
Câu 1. Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Tuân.
Câu 2. Nêu chủ đề và các ý chính của đoạn.
Câu 3. Chỉ ra phong cách ngôn ngữ của đoạn trích.
Câu 4. Chỉ ra 02 phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn.
Câu 5. Tìm các câu văn có sử dụng nghệ thuật so sánh và nêu tác dụng của chúng.
Câu 6. Làm rõ vẻ đẹp của câu văn in đậm trong đoạn trích.
Câu 7. Sự nham hiểm, táo tợn của những cái hút nước trên Sông Đà đã được tác giả khắc họa
như thế nào?
Câu 8. Tri thức của kĩ thuật điện ảnh đã được nhà văn vận dụng ra sao trong đoạn trích?
Câu 9. Nêu cảm nhận của anh/chị về tính cách hung bạo của Sông Đà.

2. Đề 2. Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên.
Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng
gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa
rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu
da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy "Sóng" bọt đã trắng xóa cả một

Moon.vn - Học để khẳng định mình 7 Hotline: 0432 99 98 98


Khóa LUYỆN THI THPT QUỐC GIA NĂM 2019 – GV: Vũ Thị Dung Facebook: DungVuThi.HY

chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có một
chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào
đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng
ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung rít lên
như tuyếc-bin thủy điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hòn
những tảng đá mới trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to
đá bé. Nhưng hình như "Sông Đà" đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch
trận trên sông. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền,
một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa
sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò
dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước sóng luồng mới đánh khuýp
quật vu hồi lại. Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng được tuyến hai, thì
nhiệm vụ của những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt
lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân thác.
(Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr.187-188)
Câu 1. Giới thiệu vài nét thể loại tùy bút.
Câu 2. Nêu chủ đề và các ý chính của đoạn trích.
Câu 3. Làm rõ nét độc đáo trong thủ pháp so sánh của tác giả qua câu văn in đậm.
Câu 4. Đội quân thạch giang trên Sông Đà khá hùng hậu, nhưng dưới ngòi bút của Nguyễn
Tuân, mỗi hòn đá đều có một gương mặt riêng. Phân tích tài năng ngôn ngữ của nhà văn để thấy
được điều đó.
Câu 5. Sự khôn ngoan, mưu trí, nham hiểm và hung ác của thác đá Sông Đà được tác giả khắc
họa như thế nào trong đoạn trích?
Câu 6. Đoạn văn làm nảy nở trong anh/chị những cảm xúc, cảm giác gì?
Câu 7. Những tri thức về khoa học quân sự đã được Nguyễn Tuân vận dụng như thế nào để
khắc họa tính cách "hung bạo" của Đà giang?

3. Đề 3. Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm
thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là
đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn đá khác lùi lại một
chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên
khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào bẻ gãy
cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà
thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng dội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô
vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Sóng
thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ
người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống
mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái, mặt
méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng
thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe

Moon.vn - Học để khẳng định mình 8 Hotline: 0432 99 98 98


Khóa LUYỆN THI THPT QUỐC GIA NĂM 2019 – GV: Vũ Thị Dung Facebook: DungVuThi.HY

rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng
thứ nhất.
(Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr.188)
Câu 1. Nêu chủ đề của đoạn trích.
Câu 2. Chỉ ra hiệu quả nghệ thuật của thủ pháp nhân hóa được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 3. Tìm và nêu tác dụng của các động từ miêu tả hành động của thác đá Sông Đà và ông
đò.
Câu 4. Nêu ý nghĩa biểu đạt của từ "méo bệch".
Câu 5. Hình tượng ông đò được tác giả khắc họa như thế nào?
Câu 6. Nguyễn Tuân đã sử dụng những tri thức của các lĩnh vực nào để miêu tả lại cuộc chiến
nảy lửa giữa thác đá Sông Đà với ông đò?

4. Đề 4. Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Con "Sông Đà" tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây
trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.
Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên "Sông Đà", tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà
nhìn xuống dòng nước "Sông Đà". Mùa xuân dòng xanh (…)1, chứ nước "Sông Đà" không xanh
màu xanh (…)2 của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước "Sông Đà" (…)3 như da mặt một người
bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa
hề bao giờ tôi thấy dòng "Sông Đà" đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây
vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ. […]
Đã có lần tôi nhìn "Sông Đà" như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã
thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra "Sông Đà". Xuống
một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ
chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu (…)4 "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu". Bờ
"Sông Đà", bãi "Sông Đà", chuồn chuồn bươm bướm trên "Sông Đà". Chao ôi, trông con sông, vui
như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày
rồi lại bắt ra "Sông Đà", đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố
nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt
gỏng thác lũ ngay đấy.
Thuyền tôi trôi trên "Sông Đà". Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời
Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy
lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp.
Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử.
Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một
tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu.
(Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr.191-192)
Câu 1. Đoạn trích trên được trích từ tùy bút "Người lái đò Sông Đà" của nhà văn Nguyễn
Tuân. Giới thiệu vài nét về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân trong thiên tùy bút này.
Câu 2. Nêu những hiểu biết của anh/chị biết về dòng sông Đà?

Moon.vn - Học để khẳng định mình 9 Hotline: 0432 99 98 98


Khóa LUYỆN THI THPT QUỐC GIA NĂM 2019 – GV: Vũ Thị Dung Facebook: DungVuThi.HY

Câu 3. Nêu chủ đề của đoạn trích.


Câu 4. Để làm nổi bật tính cách trữ tình của "nhân vật" Sông Đà, Nguyễn Tuân đã có những
liên tưởng thú vị như thế nào?
Câu 5. Điền vào những khoảng trống in đậm trong đoạn trích các từ ngữ bị khuyết thiếu. Chỉ
ra giá trị thẩm mĩ của các từ ngữ đó.
Câu 6. Nêu cảm nhận về chất thơ được thể hiện trong đoạn trích.

II. LÀM VĂN


1. Đề 1. Nhận xét về hình tượng Sông Đà trong thiên tùy bút "Người lái đò Sông Đà" của
Nguyễn Tuân, có ý kiến cho rằng: Con "Sông Đà" mang vẻ đẹp hung bạo. Ý kiến khác lại cho
rằng: "Sông Đà" hấp dẫn người đọc bởi vẻ đẹp trữ tình.
Bằng cảm nhận về hình tượng Sông Đà, hãy trình bày suy nghĩ của anh/chị về các ý kiến trên.
2. Đề 2. Nhận xét về hình tượng người lái đò trong thiên tùy bút "Người lái đò Sông Đà" của
Nguyễn Tuân, có ý kiến cho rằng: Trong cuộc chiến đấu không cân sức với thiên nhiên dữ dội,
hiểm độc, ông đò là vị chỉ huy trí dũng tuyệt vời. Ý kiến khác lại cho rằng: Trong nghệ thuật vượt
thác leo ghềnh, ông đò là người nghệ sĩ có "tay lái ra hoa".
Bằng cảm nhận về hình tượng người lái đò, hãy trình bày suy nghĩ của anh/chị về các ý kiến
trên.
3. Đề 3. "Người lái đò Sông Đà" là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say
đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng,
vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc.
Từ tác phẩm "Người lái đò Sông Đà" của Nguyễn Tuân, anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận định
trên.

Giáo viên Vũ Dung


Nguồn: Moon.vn

Moon.vn - Học để khẳng định mình 10 Hotline: 0432 99 98 98

You might also like