You are on page 1of 14

1.

Phân tích đặc trưng, chức năng của văn hóa

Nhiều định nghĩa về văn hóa  đúc kết được nhiều đặc trưng và chức năng của văn hóa.
Theo quan điểm của giáo sư Trần Ngọc Thêm, văn hóa có bốn đặc trưng và chức năng cơ
bản. Đặc trưng của văn hóa chính là cơ sở để xem xét một yếu tố, một hiện tượng, sự việc
có thuộc về văn hóa hay không.

Trước hết, văn hóa có tính hệ thống. Một nền văn hóa bao giờ cũng bao gồm cả hai giá trị
vật chất và tinh thần. Tính hệ thống là sự gắn bó mật thiết giữa giá trị vật chất – tinh thần
được sản sinh của nền văn hóa đó. Giá trị vật chất và tinh thần bổ trợ, tương hộ cho nhau
để phản ánh sự tồn tại của nền văn hóa đó – đó không phải là sự tập hợp rời rạc của các
yếu tố vật chất và tinh thần nhưng giữa chúng không có mối liên hệ gì với nhau. Thời kỳ
Văn Lang, con người đã đạt đén trình độ điêu luyện trong kỹ thuật luyện kim đồng với
bằng chứng là sự xuất hiện của các tống đồng (giá trị vật chất). Trên mặt trống đồng
người ta luôn tìm những hoa văn, hình vẽ thể hiện đời sống tinh thần của dân cư thời kì
đó (giá trị tinh thần). Tính hệ thống cho phép con người phát hiện những mối liên hệ mật
thiết giữa những sự vật, hiện tượng của một nền văn hóa. Nhờ đi sâu tìm hiểu, con người
phát hiện được những đặc trưng, quá trình hình thành và phát triển, và cả những phong
tục tập quán của từng bộ phận dân cư nhất định tạo ra nền văn hóa đó. Với chiếc trống
đồng Đông Sơn, thông qua những việc phân tích những hoa văn, ký hiệu trên mặt trống,
những nhà nghiên cứu có thể tìm hiểu được đời sống tinh thần thời kỳ Văn Lang, trang
phục, kết cấu nhà ở, thiên nhiên, phương tiện đi lại của họ... Từ đó hình thành sự hiểu
biết về một nền văn hóa đã từng tồn tại trong lịch sử. Tính hệ thống là cơ sở cho chức
năng tổ chức xã hội của văn hóa. Những giá trị vật chất và tinh thần của văn hóa được
con người sáng tạo trở thành khuôn mẫu cho một cộng đồng tộc người sáng tạo ra nó sinh
tồn. Đó là sự khác biệt giữa con người và động vật trong tự nhiên khi con người biết cách
tổ chức xã hội của mình một cách có trật tự.

Đặc trưng thứ hai của văn hóa là tính giá trị. Văn hóa bao gồm giá trị vật chất và giá trị
tinh thần. Đó là những sản phẩm do con người tạo ra để phục vụ đời sống con người. Tuy
nhiên, không phải sản phẩm nào do con người tạo ra cũng là văn hóa. Văn hóa vốn chính
là cái đẹp, cái thiện. Những sản phẩm được tạo ra với mục đích hướng con người đến cái
đẹp, cái chân – thiện – mĩ mới được coi là văn hóa. Giá trị văn hóa theo mục đích còn có
thể chia thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần, phân biệt theo thời gian có giá trị vĩnh
cửu (tinh thần yêu nước của nhân dân ta) và giá trị nhất thời (quan niệm về cái đẹp). Tính
giá trị cho phép văn hóa thực hiện chức năng điều chỉnh. Khi có một hiện tượng lệch ra
khỏi những chuẩn mực của xã hội, văn hóa sẽ thực hiện chức năng điều chỉnh của nó. Có
thể thấy, trong quan niệm truyền thống về ăn mặc, người Việt Nam thiên về cách ăn mặc
tế nhị, vừa quyến rũ mà không mất sự kín đáo. Khi có một hiện tượng phản cảm, lệch ra
khỏi quan niệm đó, văn hóa sẽ điều chỉnh với biểu hiện là dư luận xã hội, chế tài xử phạt
để đưa những hành vi lệch chuẩn đó trở về với chuẩn mực chung.

Đặc trưng thứ ba của văn hóa là tính nhân sinh. Đây là cơ sở để phân biệt văn hóa như
những hiện tượng, sự kiện do con người tạo ra với các hiện tượng có sẵn trong tự nhiên.
Văn hóa thực chất là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người. Người Việt có câu nói:
“Hòn đất cất lên tượng phật”. Hòn đất vốn là sản phẩm sẵn có của tự nhiên nhưng trải
qua quá trình biến đổi của con người đã trở thành sản phẩm văn hóa được tạo ra phục vụ
cho đời sống con người. Tính nhân sinh là cơ sở để văn hóa thực hiện chức năng giao
tiếp. Trong chức năng giao tiếp, mỗi một nền văn hóa với bản sắc riêng sẽ thể hiện sự tồn
tại trong sự so sánh đối chiếu với các nền văn hóa khác. Và vì thế, chức năng giao tiếp
mang các nền văn hóa đến gần nhau hơn trong sự giữ nguyên bản sắc văn hóa của mình.

Đặc trưng cuối cùng của văn hóa là tính lịch sử. Điều đó có nghĩa: một giá trị văn hóa dù
vật chất hay tinh thần đều phải có bề dày, chiều sâu về thời gian chứ không phải sản
phẩm mà con người vừa tạo ra; có quá trình phát sinh, hình thành và phát triển, nuôi
dưỡng qua thời gian, được chắt lọc và chọn lọc để trở thành chuẩn mực cho từng cộng
đồng tộc người. Tính lịch sử giúp văn hóa thực hiện chức năng giáo dục. Đây là chức
năng quan trọng nhất của văn hóa. Nhờ chức năng giáo dục mà nền văn hóa được duy trì,
phát triển với trật tự xã hội nhất định.

2. Tiếp xúc văn hóa, tiếp biến văn hóa, giao lưu, tiếp biến văn hóa Việt Nam với các
nước

Tiếp xúc văn hóa: là hiện tượng xảy ra khi ít nhất 2 tộc người, 2 dân tộc hay 2 nóm người
có văn hóa khác nhau tiếp xúc lâu dài, ổn định với nhau gây ra sự biến đổi mô thức văn
hóa ban đầu của một trong số tộc người, dân tộc hay nhóm người đó. Sự biến đổi này có
thể là tích cực hay tiêu cực.

Sự tiếp xúc văn hóa có 2 phương thức tiếp nhận: cưỡng bức và tự nguyện.
Có nhiều các hình thức tiếp xúc văn hóa: truyền giáo, chiến tranh, buôn bán...

Sự tiếp nhận này có 3 mức:

- Thứ nhất là không tiếp nhận toàn bộ mà chỉ chọn lọc lấy những giá trị thích hợp
cho tộc người của mình.

Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ du nhập vào Việt Nam, từ một tôn giáo với tính chất
“xuất thế”, đi ra khỏi cuộc đời, người Việt đã tiếp thu hạt nhân “Phật tại tâm” của Phật
giáo, đó là tinh thần “nhập thế” – Phật không ở đâu xa mà ở ngay giữa cuộc đời. Cũng
chính vì thế mà người Việt Nam có câu “Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu
chùa”.

- Thứ hai là tiếp nhận lại cả hệ thống nhưng đã có sự sắp xếp lại theo quan niệm của
tộc người chủ thể.
- Thứ ba là mô phỏng và biến thể một số thành tựu của văn hóa tộc người khác.

Người Việt còn đọc chữ Hán theo cách thức của riêng mình, tạo ra lớp từ Hán – Việt, làm
phong phú thêm cho ngôn ngữ Việt Nam

Tiếp biến văn hóa: là hiện tượng tiếp nhận có chọn lựa một số yếu tố văn hóa ngoại lai và
biến đổi chúng cho phù hợp với điều kiện sử dụng bản địa, tức phù hợp với văn hóa bản
địa. Và sau một thời gian sử dụng và biến đổi tiếp thì chúng trở thành những yếu tố văn
hóa bản địa ngoại sinh.

 Giao lưu và tiếp biến trong văn hóa Việt Nam

Văn hóa Việt Nam là sự dung hợp, lai ghép giữa cơ tầng văn hóa bản địa Đông Nam Á
và tầng bồi đắp văn hóa Đông Á. Đó là nền văn hóa lúa nước với ba yếu tố: văn hóa núi,
văn hóa đồng bằng và văn hóa biển, trong đó văn hóa đồng bằng chiếm vai trò chủ đạo.
Cư dân chuyển ang trồng lúa từ thế kỉ VI – IV TCN. Trâu được sử dụng để làm sức kéo.
Công cụ lao động được làm bằng đồng và sắt. Vai trò của phụ nữ trong gia đình, cộng
đồng và xã hội được đề cao. Cư dân có đời sống tinh thần phong phú: bái vật giáo, thờ
thiên nhiên, tổ tiên. Cư dân thời kì này mang trong mình tư duy lưỡng phân, lưỡng hợp
và sử dụng ngôn ngữ đơn tố.

Sự giao lưu, tiếp biến với văn hóa Trung Hoa

Quá trình giao lưu và tiếp biến với văn hóa Trung Hoa diễn ra trong một thời gian rất dài
và thậm chí cho đến bây giờ sự giao lưu, tiếp biến ấy vẫn còn đang tiếp diễn. Văn hóa
Việt Nam giao lưu với văn hóa Trung Hoa theo cả hai con đường: cưỡng bức và tự
nguyện. Sự giao lưu dưới hình thức cưỡng bức chủ yếu diễn ra bằng con đường chiến
tranh. Giai đoạn đầu của việc giao lưu văn hóa ấy diễn ra với hình thức cưỡng bức. đó là
giai đoạn Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam, khi nhà Hán đặt nền cai trị trên đất nước ta.
Thái độ tiếp nhận văn hóa Trung Hoa của người Việt trong giai đoạn này là thờ ơ, lạnh
nhạt. Giao lưu văn hóa cưỡng bức còn xảy ra lần thứ trong giai đoạn nhà Minh xâm lược
và cai trị Đại Việt. Không chỉ vậy, giao lưu, tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa
Trung Hoa còn xảy ra dưới hình thức tự nguyện. Sự tự nguyện tiếp nhận này cũng xảy ra
trong thời kỳ Bắc thuộc khi người ta tìm thấy những hiện vật văn hóa Trung Quốc
(gương đồng, ấm đồng...) bên cạnh những hiện vật của văn hóa Đông Sơn lại. Người Việt
còn tiếp nhận từ người Hán kỹ thuật rèn đúc gang và sắt, kinh nghiệm đắp đê, kĩ thuật
dùng phân bón... Sự giao lưu tiếp biến theo phương thức này được đẩy mạnh từ thời Lý.
Trong giai đoạn này, rất nhiều thành tố trong văn hóa Trung Hoa đã được người dân tự
nguyện tiếp nhận như tôn giáo, ngôn ngữ, chữ viết, phong tục tập quán... Sự giao lưu tiếp
biến trong quá trinh dài đã để lại trong văn hóa Việt Nam nhiều dấu ấn của văn hóa
Trung Hoa. Người Việt tiếp nhận chúng nhưng không lấy hết toàn bộ mà biến đổi để
chúng trở nên phù hợp với văn hóa Việt Nam bản địa. Trong lĩnh vực ngôn ngữ, trên cơ
sở chữ Hán, người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm – sản phẩm riêng có của người Việt.
Ngoài ra, người Việt còn đọc chữ Hán theo cách thức của riêng mình, tạo ra lớp từ Hán –
Việt, làm phong phú thêm cho ngôn ngữ Việt Nam. Trong tư tưởng, người Việt cũng tiếp
thu một cách có biến đổi. Điển hình là việc người Việt biến đổi Nho giáo, tạo thành Việt
Nho, tồn tại song song với Hán Nho có nguồn gốc Trung Quốc. Hệ giá trị của Nho giáo
Trung Quốc đề cao trung – hiếu: trung với vua, hiếu với cha mẹ, nhưng khi trung – hiếu
được du nhập vào Việt Nam, người Việt đã biến đổi theo nghĩa rộng hơn: trung với nước,
hiếu với dân. Người Việt còn tiếp thu một số ngày lễ tết của văn hóa Trung Hoa nhưng
lại kỷ niệm những ngày lễ tết ấy theo văn hóa Việt như tết Hàn Thực, tết Đoan Ngọ...
Chính vì những yếu tố này mà khi nhìn lướt qua, người ta cho rằng văn hóa Việt Nam là
sự bắt chước của văn hóa Trung Hoa nhưng khi đi sâu tìm hiểu kỹ, người ta nhận thấy
văn hóa Trung Hoa chỉ là lớp vỏ ngoài, tận sâu bên trong vẫn là một nền văn hóa mang
đậm bản sắc dân tộc Việt Nam.

Giao lưu tiếp biến với văn hóa Ấn Độ


Sự giao lưu tiếp biến với văn hóa Ấn Độ là sự giao lưu ôn hòa nhất. Văn hóa Ấn Độ du
nhập và thẩm thấu sâu vào văn hóa Việt Nam có lẽ bởi con đường du nhập tự nhiên của
nó. Văn hóa Ấn Độ du nhập vào Việt Nam theo hai con đường: đường bộ (qua Trung
Quốc rồi mới đến Việt Nam) và đường biển (đi thẳng từ Ấn Độ qua Việt Nam), bằng
nhiều hình thức liên tục: giao thương, buôn bán, truyền giáo... Sự giao lưu và tiếp biến
với văn hóa Ấn Độ theo phương thức tự nguyện bởi con đường không chiến tranh của
nó.. Văn hóa Ấn Độ ảnh hưởng đến cả ba nền văn hóa Việt Nam thời kì bấy giờ: văn hóa
Óc Eo, văn hóa Champa, văn hóa Việt. Giống với việc tiếp thu văn hoa Trung Hoa, người
Việt cũng tiếp thu văn hóa Ấn Độ và biến đổi nó theo cách thức phù hợp với văn hóa
Việt. Điển hình là khi Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ du nhập vào Việt Nam, từ một
tôn giáo với tính chất “xuất thế”, đi ra khỏi cuộc đời, người Việt đã tiếp thu hạt nhân
“Phật tại tâm” của Phật giáo, đó là tinh thần “nhập thế” – Phật không ở đâu xa mà ở ngay
giữa cuộc đời. Cũng chính vì thế mà người Việt Nam có câu “Thứ nhất là tu tại gia, thứ
nhì tu chợ, thứ ba tu chùa”. Thời Lý – Trần là thời kỳ mà Phật giáo phát triển mạnh mẽ,
có rất nhiều tháp chùa quy mô lớn với kiến trúc độc đáo được xây dựng như chùa Một
Cột, chùa Phật Tích, chùa Yên Tử. Văn hóa Ấn Độ còn để lại dấu ấn trong công trình
kiến trúc ở Việt Nam mà điển hình là tháp Chàm.

Giao lưu tiếp biến với văn hóa phương Tây.

Sự giao lưu tiếp biến với văn hóa phương Tây cũng là một quá trình lâu dài và qua con
đường chiến tranh là chủ yếu. Quá trình này bắt đầu manh nha từ thế kỉ 16 khi những
giáo sĩ phương Tây đến Việt Nam để truyền giáo và trở nên mạnh mẽ vào giữa thế kỉ 19.
Sự giao lưu này mạnh mẽ chủ yếu sự xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mĩ trên dất
nước Việt Nam. Trong giai đoạn này hình thành hai dạng giao lưu và tiếp xúc văn hóa:
cưỡng bức, áp đặt và tự nguyện. Để phục vụ cho bộ máy cai trị ở nước ta, người Pháp đã
thay thế chữ nôm, chữ Hán bằng tiếng Pháp, mở các trường học dạy tiếng Pháp... Văn
hóa phương Tây cũng dần tiến vào đời sống con người Việt Nam theo cách thức ấy.
Trong thời gian đô hộ, nền văn hóa phương Tây để lại nhiều dấu ấn trong văn hóa Việt
Nam từ ngôn ngữ, chữ viết, cách ăn mặc, kiến trúc, tôn giáo. Quá trình giao lưu và tiếp
biến đem lại sự phát triển cho văn hóa Việt Nam với sự xuất hiện của các phương tiện
văn hóa như nhà in, máy in, báo chí, nhà xuất bản hay sự xuất hiện của các loại hình nghệ
thuật mới như tiểu thuyết, phim ảnh... Điển hình nhất là sự xuất hiện của chữ Quốc ngữ,
sau trở thành chữ viết của cả một nền văn hóa. Về lĩnh vực tôn giáo, Ki-tô giáo du nhập
vào Việt Nam và trở thành một trong những tôn giáo chính của người Việt. Sự du nhập
này làm xuất hiện ở Việt Nam những công trình phục vụ cho mục đích tôn giáo mới: nhà
thờ, nhà nguyện... Văn hóa phương Tây còn để lại dấu ấn đậm nét trong kiến trúc người
Việt. Người Việt xây nhà theo kiến trúc phương tây, thậm chí một số công trình kiến trúc
do người Pháp thiết kế và xây dựng vẫn còn tồn tại đến ngày nay: cầu Long Biên, trường
THPT Chu Văn An, ...

Giao lưu tiếp biến trong giai đoạn hiện nay

Trong thời kỳ độc lập tự chủ và xây dựng phát triển đất nước như hiện nay, sự giao lưu
và tiếp biến văn hóa diễn ra một cách toàn diện, không giới hạn về phạm vi. Công cuộc
này còn có sự thúc đẩy của Đảng Cộng sản Việt Nam khiến nó diễn ra dưới hình hoàn
toàn tự nguyện, không hề cưỡng bức hay bắt ép. Đó còn là nhờ sự thúc đẩy của khoa học
kỹ thuật, công nghệ thông tin. Những yếu tố này tạo hóa ra điều kiện thuận lợi cho văn
hóa Việt Nam có cơ hội tiếp cận và giao lưu với nhiều nền văn hóa mới, học hỏi những
tinh hoa từ các nền văn hóa nước bạn. Chúng ta tiếp thu được các tiến bộ khoa học kỹ
thuật, đạt được sự hợp tác trên lĩnh vực từ kinh tế đến chính trị. Tuy nhiên điều kiện này
cũng tạo ra không ít thách thức cho văn hóa Việt Nam trong giữ gìn bản sắc dân tộc mà
vẫn tiếp thu được nét đẹp trong văn hóa khác. Điều đó đòi hỏi mỗi chủ thế tiếp nhận văn
hóa cần phải có bản lĩnh vững vàng, cần phải có khả năng chọn lọc những yếu tố văn hóa
mới để du nhập và phát triển nền văn hóa nội tại của mình.

3. Hoàn cảnh tự nhiên sinh thái có ảnh hưởng gì đến văn hóa Việt Nam.

Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á với ¾ diện tích là đồi
núi, ¼ diện tích là đồng bằng. Địa hình Việt Nam trải dài từ Bắc đến Nam trên khoảng 15
vĩ độ, thu hẹp lại theo chiều Tây Đông. Đi từ Tây sang Đông có Núi – Đồi – Thung –
Châu thổ - Ven biển – Biển và Hải đảo Bao quanh hướng Đông và Nam là bờ biển dài
khoảng hơn 2000 km, cùng các biển và hải đảo. Hướng Tây và Bắc bị chắn bởi núi, trong
đó quan trọng nhất là dãy núi Hoàng Liên Sơn và Trường Sơn. Mạng lưới sông ngòi
nước ta dày đặc, phân bố rộng khắp. Cả nước có tới 2360 sông dài trên 10 km với nhiều
hồ ao, đầm phá, kênh mương. Đường bờ biển dài 3260 km. Từ thời Văn Lang, quá trình
biến tiến kết thúc, cảnh quan đồng bằng tương đối ổn định. Do vị trí nằm trong vùng nội
chí tuyến và chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển, khí hậu Việt Nam mang tính chất nhiệt đới
ẩm gió mùa. Cân bằng bức xạ quanh năm luôn dương, nhiệt độ trung bình năm cao,mưa
nhiều, lượng mưa trung bình năm cao, độ ẩm thường xuyên lên tới 80%. Khí hậu này đã
tạo nên một hệ sinh thái phồn tạp. Trong hệ sinh thái phồn tạp, chỉ số đa dạng giữa giống
loài và số cá thể loài rất cao, thực vật phát triển hơn động vật. Trong thời kì kinh tế hái
lượm, hái lượm vượt trội hơn săn bắn. Đến thời kinh tế nông nghiệp, trồng trọt vượt trội
chăn nuôi.

Sự đa dạng trong môi trường tự nhiên sinh thái góp phần làm nên sự đa dạng trong
văn hóa Việt Nam. Điều kiện tự nhiên đã để lại cho nền văn hóa Việt Nam hai tính trội:
tính thực vật, nông nghiệp và tính sông nước.

Hai tính trội đó đã để lại nhiều dấu ấn trong những thành tố của văn hóa Việt Nam,
trước hết là ở ẩm thực. Bữa ăn truyền thống trong gia đình Việt Nam khá đơn giản, bao
gồm cơm – rau – cá, thịt. Cách chế biến món ăn đơn giản, chủ yếu bằng nước. Nền ẩm
thực Việt Nam có sự đa dạng theo từng vùng miền. Mỗi vùng miền khác nhau đều có
những điều kiện địa lý khác nhau, dẫn đến sự khác biệt về khí hậu từng vùng. Khí hậu
khác nhau quyết định đến sự khác biệt trong ẩm thực của con người từng vùng miền.
Miền Bắc với khí hậu tương đối cao và ẩm ưa chuộng các món ăn thanh đạm, cầu kì
trong cách chế biến và sử dụng gia vị. Ở vùng miền có nhiệt độ trung bình năm không
cao như miền Trung, người dân chuộng những món ăn với hương vị cay, mặn. Vì môi
trường sống gắn liền với nước nên những món ăn chứa nhiều yếu tố biển. Ẩm thực xứ
Huế là một nét tiêu biểu khi nói đến ẩm thực nơi đây với đặc trưng: “đế vương hóa các
món ăn Mường”. Ẩm thực miền Nam là tổng hợp của các bếp ăn Việt – Chăm – Hoa -
Ấn với hương vị cay, thanh ngọt, dân dã, thậm chí mang chút “lạ”.

Điều kiện tự nhiên sinh thái cũng ảnh hưởng đến phong cách ăn mặc của người
Việt. Phong cách ăn mặc là một trong những biểu tượng của văn hóa dân tộc. Sinh sống
trong một môi trường khí hậu nóng ẩm, người Việt tìm cách đối phó với thiên nhiên
trước hết qua chất liệu ăn mặc. Người Việt sử dụng những chất liệu có nguồn gốc từ
chính tự nhiên, những sản phẩm của trồng trọt (tơ tằm, đay, gai, sợi bông…), đó cũng là
những chất liệu mỏng, nhẹ, thoáng khí, thấm mồ hôi, đặc biệt phù hợp với khí hậu
phương Nam. Cách ăn mặc truyền thống của người Việt cũng chịu ảnh hưởng của khí
hậu nóng ẩm. Trong khi nam ở trần, đóng khố, đi chân đất, thì nữ ưa chuộng yếm và váy.
Người Việt ưa chuộng phong cách ăn mặc này không chỉ vì tính mát mè mà còn vì sự
phù hợp của nó trong các hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Tính thực vật nông nghiệp và sông nước còn ghi đậm dấu ấn trong các nhà ở của
người Việt. Với loại hình văn hóa gốc nông nghiệp, người Việt ưa chuộng sự ổn định
trong sinh hoạt và cư trú. Người Việt biết tận dụng những nguồn vật liệu có sẵn trong tự
nhiên (gỗ, tre, nứa...) để xây dựng nhà cửa. Nhà ở truyền thống của người Việt là nhà sàn,
loại nhà có sàn cao để đối phó với lũ lụt, mưa bão. Sống trong khí hậu nóng ấm ở phương
Nam, những ngôi nhà của người Việt được xây dựng theo hình thức “nhà cao của rộng”.
Khác với những ngôi nhà của phương tây xứ lạnh phải xây trần thấp, tường dày, cửa ít để
giữ hơi ấm, những ngôi nhà của người Việt có sàn cao để tránh lũ lụt, ẩm ướt, côn
trùng....; trần cao để thông thoáng khí và tránh cái nắng nóng phương nam; cửa rộng để
tránh nắng xiên chiếu vào và đón gió mát. Nhà ở của người Việt được xây cất khá kiên
cố, bền chắc và thường được xây theo hướng nam và đông nam. Điều đó cho thấy người
Việt hiểu biết rất rõ về môi trường tự nhiên của mình. Người Việt ta có câu nói: “Lấy vợ
đàn bà, làm nhà hướng nam”. Hướng nhà như vậy giúp con người tránh được bão ở phía
đông, nắng nóng ở phía tây, tránh được gió rét từ phía bắc và đón được nhiều gió mát
mang hơi ẩm từ biển phía nam thổi vào. Dấu ấn sông nước cũng được ghi lại sâu sắc
trong những ngôi nhà của người Việt. Người Việt lợp nhà bằng ngói vảy cá, tận dụng các
môi trường sông nước để làm nhà (nhà nổi, nhà bè, chợ nổi, làng chài, xóm chài...). Tên
các bộ phận của ngôi nhà người Việt được gắn liền với chữ “tàu” – phương tiện giao
thoong đi trên sông nước: then tàu, câu tàu... Ở các đầu nóc nhà của nhà truyền thống
người Việt thường được làm theo hình dáng cong vút, mô phỏng hình dáng con thuyền
đang đi trên sông nước.

Dấu ấn của môi trường tự nhiên sinh thái cũng để lại trong giao thông đi lại của người
Việt. Người Việt vốn là dân cư sống bằng nghề nông trong các làng xã tiểu nông khép
kín. Nghề nông nghiệp khiến cho người Việt ít có nhu cầu di chuyển, sư giao lưu di
chuyển chủ yếu xảy ra trong làng xã. Vì thế mà dân gian có những câu nói: “Nhất ruộng
giữa đồng, nhì chồng giữa làng” ...Và vì thế, giao thông đường bộ của người Việt kém
phát triển. Ngược lại, xứ Việt Nam là xứ sở của sông nước nên người Việt biết tận dụng
đường thủy để di chuyển dẫn đến giao thông đường thủy phát triển mạnh. Những phương
tiện đi trên sông nước rất phong phú (tàu, thuyền, ghe, xuồng...); người Việt cũng rất điêu
luyện về kỹ thuật đi trên sông nước, giỏi về bắc cầu (cầu ngói, cầu khỉ, cầu treo, cầu
gỗ...). Người Việt còn rất giỏi thủy chiến. Những chiến thắng lẫy lừng chống giặc ngoại
xâm của người Việt hầu hết đều là những trận thủy chiến (chiến thắng sông Bạch Đằng
của Ngô Quyền, của Lê Hoàn, phòng tuyến sông Như Nguyệt chống Tống, trận Rạch
Gầm – Xoài Mút...). Tục vẽ mắt cho thuyền cũng phổ biến trong văn hóa Việt với ý nghĩa
giúp cho con thuyền nhìn thấy bến bờ. Yếu tố sông nước cũng ảnh hưởng đến việc giao
thương trong văn hóa Việt. Hầu hết các quan hệ giao thương của người Việt đều diễn ra
nơi bến sông. Những đô thị ra đời sớm ở Việt Nam hầu hết xuất hiện ở ven sông, ven
biển: đô thị cổ Vân Đồn, đô thị cổ Phố Hiến, đô thị cổ Hội An. Đến những đô thi xuất
hiện sau này như Bến Nghé, Sài Gòn – Gia Định cũng đều được hình thành ven sông, ven
biển.

Tính thực vật nông nghiệp và tính sông nước còn để lại dấu ấn trong những phong tục
tập quán. Về tín ngưỡng, người Việt có tục thờ nước, thờ các loài vùng sông nước, thờ
cây, thờ lúa. Về tục thờ cây, người Việt có câu nói “Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây
đề”. Người Việt thờ lúa, thờ thần nông bởi cây lúa là cây trông chủ đạo của người Việt
với nhiều hình thức khác nhau: thờ vỏ trấu bằng gỗ, lễ tịch điền (lễ xuống đồng...). Sông
nước đã ăn sâu vào tín ngưỡng người Việt. Nước là thứ không thể thiếu trên bàn thờ
người Việt. Việc thờ nước, thờ các sinh vật dưới nước cũng diễn ra dưới nhiều hình thức:
tục lấy nước, lễ rước nước và tế cá (lễ hội đền Trần). Trong phong tục tang ma cũng có
dấu ấn rất mạnh của sông nước: lễ phạn hàm (đặt một nhúm gạo nếp và ba đồng xu vào
miệng người mất với ý nghĩa để người mất có tiền đi đò khi sang thế giới bên kia) , chèo
đò (làm động tác chèo đò trong giờ đưa tang với ý nghĩa đưa linh hồn người mất ra khỏi
dương gian) , lễ bắc cầu (dùng dải vải bắc một cây cầu dể cho linh hồn người mất đi từ
dương gian đến âm phủ)... Với tính chất hối hả gấp gáp khi vào mùa vụ và nông nhàn khi
kết thúc mùa vụ, xen kẽ giữa các mùa lúa nước là các lễ hội. Lễ hội của Việt Nam rất
phong phú với hơn 7000 lễ hội trong một năm và được phân bố theo mùa vụ lúa nước.
Các trò chơi, nghi lễ cúng tế trong lễ tết và lễ hội thường có liên quan đến nông nghiệp
(trò chơi ném pháo đất, đi cà kheo, …). Bởi cư dân nông nghiệp cần nhiều nguồn nhân
lực nên người Việt chuộng sự sinh sôi nảy nở, vậy nên trong những dịp lễ hội, những
điều kiêng kị nam nữ tạm thời được gác bỏ lại. Biểu hiện của điều này là những trò chơi
như đánh đu, bắt trạch trong chum,.. mà qua những trò chơi này, nam nữ có cơ hội tìm
đến bên nhau. Không chỉ mang tính nông nghiệp mà lễ hội của người Việt cũng mang
đậm dấu ấn sông nước với những nghi lễ, trò chơi như nghi lễ rước nước, lễ hội đua
thuyền.

 Tính sông nước và nông nghiệp còn để lại dấu ấn sâu sắc trong ngôn từ.
Văn hóa Việt Nam là văn hóa gốc nông nghiệp với nền văn minh lúa nước phát triển
mạnh. Người Việt từ khi ra đời đã gắn bó với nghề nông và đi lên bằng nghề trồng lúa.
Cỏ cây, hoa cỏ từ lâu đã đi sâu vào đời sống người Việt từ những công việc đồng áng.
Những từ ngữ đồng áng ấy chuyển hóa tự nhiên vào cách nói chuyện, vào ngôn ngữ của
con người Việt Nam. Ngôn ngữ Việt Nam mang đậm tính nông nghiệp bởi việc sử dụng
nhiều từ ngữ liên quan đến nông nghiệp trong giao tiếp, trong học tập và cả trong thơ ca.
Từ những từ ngữ chỉ nghề nông như Nước – Phân – Cần – Giống, người Việt đã chuyển
hóa vào ngôn từ theo nghĩa khác biệt “Đất nước Việt Nam”, “Nòi giống Việt Nam”. Hay
như từ hoạt động ươm mầm và gặt hái trong nông nghiệp, người Việt đã liên tưởng vào
trong ngôn ngữ “Mặt trời mọc”, “gặt hái thành công”, ...

Tính sông nước cũng để lại dấu ấn đâm nét trong ngôn từ người Việt. Việt Nam vốn
chính là xứ sở của sông nước, mọi hoạt động sản xuất đều có liên quan đến nước. Nước
là yếu tố không thể thiếu trong canh tác nông nghiệp, mọi hoạt động giao thương cũng
đều diễn ra trên miền sông nước. Thậm chí người Việt còn sống và sinh hoạt trên miền
sông nước từ thuở đầu. Vậy nên yếu tố sông nước đã đi sâu vào trong cuộc sống hằng
ngày, trong ngôn từ người Việt. Có rât nhiều từ ngữ mà cho đến hiện nay vẫn mang đậm
dấu ấn sông nước “mặt trời lặn”, “dòng thời gian trôi”, “biển tri thức”, “bến bờ hạnh
phúc”,... Dấu ấn sông nước còn đi vào những câu ca dao, tục ngữ như cách khuyên bảo,
chỉ dạy con người: “Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”, nói về tình yêu đôi lứa, người
Việt cũng mượn hình ảnh sông nước để bày tỏ “Thuyền về có nhớ bến chăng/ Bến thì
một dạ khăng khăng đợi thuyền”.

Dấu ấn nông nghiệp và sông nước cũng được ghi lại trong tâm lý người Việt. Nghề nông
vốn cần nhiều nguồn nhân lực, nhiều mối quan hệ đã tạo ra trong tâm lý người Việt sự ưa
chuộng ổn định, đề cao chữ “hòa” trong mối quan hệ với mọi người “dĩ hòa vi quý” ...
Dấu ấn sông nước để lại trong tâm lý khiến cho tâm lý người Việt linh hoạt, mềm dẻo
như nước: ở bầu thì tròn, ở ống thì dài, nước nổi thì bèo nổi.

4. Hoàn cảnh lịch sử xã hội và ảnh hưởng của nó đến văn hóa Việt Nam

Việt Nam nằm ở trung tâm của khu vực Đông Nam Á, là cầu nối giữa Đông Nam Á lục
địa và Đông Nam Á hải đảo và nằm trên giao điểm của các nền văn hóa lớn. Đây là
những điều kiện vô cùng thuận lợi để văn hóa Việt Nam tiếp thu, tiếp nhận các ảnh
hưởng của văn hóa ngoại lai. Trong sự tiếp thu, tiếp nhận này, văn hóa Việt Nam nổi lên
hai tính trội: tính tổng hợp, dung hợp cao và tính linh hoạt. Tính tổng hợp của văn hóa
hóa Việt Nam được thể hiện trong việc không chối từ các ảnh hưởng của văn hóa ngoại
lai. Người Việt Nam dung hòa và hội nhập mọi sở đắc văn hóa. Vì thế, khi nói đến văn
hóa Việt Nam người ta đều ví nó như “một nồi lẩu hầm nhừ”. Điều đó có nghĩa các yếu
tố văn hóa ngoại lai đều có mặt trong văn hóa Việt Nam nhưng chúng không tồn tại một
cách riêng rẽ, mâu thuẫn với nhau mà các yếu tố văn hóa ngoại lai kết hợp với các yếu tố
văn hóa bản địa một cách nhuần nhuyễn, bổ sung cho nhau. Điều này có thể thấy ở việc
khi Đạo giáo du nhập vào Việt Nam, bên cạnh những vị thần mang nguồn gốc Trung
Hoa, người Việt còn đưa những vị thần có nguồn gốc Việt Nam vào trong đền thờ của
Đạo giáo (đưa ban thờ Quan Công, Thái Bạch Kim Tinh... và Đức Thánh Trần thờ trong
đền Ngọc Sơn – ngôi đền của Đạo giáo). Không chối từ trong việc tiếp thu những yếu tố
văn hóa ngoại lai, nhưng người Việt không sao chép một cách y nguyên. Đây chính là
điểm tạo nên sức sống cho văn hóa Việt Nam. Người Việt khi tiếp thu văn hóa ngoại lai
đã chọn lọc, biến đổi chúng để phù hợp với nền văn hóa của bản thân. Điều này chính là
tính linh hoạt trong văn hóa Việt Nam. Trong lĩnh vực ngôn ngữ, trên cơ sở chữ Hán,
người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm – sản phẩm riêng có của người Việt. Ngoài ra, người
Việt còn đọc chữ Hán theo cách thức của riêng mình, tạo ra lớp từ Hán – Việt, làm phong
phú thêm cho ngôn ngữ Việt Nam. Trong tư tưởng, người Việt cũng tiếp thu một cách có
biến đổi. Điển hình là việc người Việt biến đổi Nho giáo, tạo thành Việt Nho, tồn tại song
song với Hán Nho có nguồn gốc Trung Quốc. Hệ giá trị của Nho giáo Trung Quốc đề cao
trung – hiếu: trung với vua, hiếu với cha mẹ, nhưng khi trung – hiếu được du nhập vào
Việt Nam, người Việt đã biến đổi theo nghĩa rộng hơn: trung với nước, hiếu với dân. Hay
như Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ du nhập vào Việt Nam, từ một tôn giáo với tính
chất “xuất thế”, đi ra khỏi cuộc đời, người Việt đã tiếp thu hạt nhân “Phật tại tâm” của
Phật giáo, đó là tinh thần “nhập thế” – Phật không ở đâu xa mà ở ngay giữa cuộc đời.
Cũng chính vì thế mà người Việt Nam có câu “Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ
ba tu chùa”. Trong lịch sử, có những nhà sư góp công sức cho nền chính trị nước nhà như
thiền sư Vạn Hạnh, thiền sư Thích Minh Không... Sự tiếp thu có biến đổi còn thể hiện
trong việc người Việt tiếp thu những phong tục tập quán ngoại lai nhưng biến đổi theo
cách thức của người Việt. Người Việt tiếp thu tết Đoan Ngọ của Trung Quốc, nhưng
không phải để tưởng nhớ ông Khuất Nguyên mà là ngày tết giết sâu bọ của người Việt.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử của công cuộc đấu tranh chống xâm lược và công cuộc mở
rộng bờ cõi về phương Nam thống nhất đất nước.

Chống xâm lược: Trong 20 thế kỷ đã qua, không có thế kỷ nào người Việt không đối mặt
với các cuộc chiến, từ cuộc chiến tranh chống quân Tần, chống Triệu Đà cho đến các đấu
tranh chống Bắc thuộc với cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng chống quân Tây Hán, cuộc
khởi nghĩa Bà Triệu chống quân Đông Hán, cuộc khởi nghĩa Lí Bí chống quân Lương
cho đến cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ, Ngô Quyền kết thúc 1000 năm Bắc thuộc.
Đến thời kỳ độc lập tự chủ, nhân dân ta có những cuộc đấu tranh chống Tống, chống
quân Nguyên – Mông, chống Minh, chống Thanh, chống Pháp, chống Mĩ, những cuộc
chiến tranh biên giới Tây Nam, chiến tranh biên giới phía Bắc. Chỉ từ 1980 cho đến nay,
nước ta mới thực sự chấm dứt đươc tiếng súng chiến tranh trên đất Việt Nam. Bên những
cuộc chiến tranh chống xâm lược, nước ta còn đối mặt với những cuộc nội chiến: loạn 12
sứ quân, nội chiến Nam – Bắc triều, nội chiến Trịnh – Nguyễn, nội chiến Nguyễn Ánh –
Tây Sơn. Hoàn cảnh lịch sử này đã tạo nên cho nước ta rất nhiều anh hùng, trong đó có
cả phụ nữ. Vai trò của phụ nữ trong chiến tranh cũng được đề cao. Môi trường xã hội
chiến tranh liên miên như vậy đã hun đúc lên những nét tính cách của người Việt Nam
sẵn sàng hi sinh tất cả cho nền hòa bình của đất nước. Với người Việt, đất nước bờ cõi là
cao cả nhất, cả dân tộc là một gia đình lớn, che chở và giúp đỡ nhau trong nhiệm vụ
chống lại kẻ thù chung của dân tộc. Tham gia vào nhiều cuộc chiến tranh khiến người
Việt phải luôn tỉnh táo, quyết đoán để đưa ra quyết dịnh. Chính điều đó đã tạo nên nét sắc
sảo trong tính cách người Việt trong việc ứng phó với kẻ thù và có tâm lý ứng phó rất
linh hoạt trong cuộc sống. Vị trí của người phụ nữ trong chiến tranh luôn được đề cao và
coi trọng.

Mở mang bờ cõi: lịch sử Việt Nam là lịch sử nam tiến. Ở thời kỳ xa xưa, người Việt Nam
lùi về phía Nam để tránh sự đồng hóa của người phương Bắc. Đến thời kỳ trung đại,
người Việt tiến về phái Nam để mở rộng lãnh thổ. Quá trình mở rộng bờ cõi về phương
nam bắt đầu từ thời nhà Lý và kết thúc vào thời các chúa Nguyễn.

Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa đa dạng, phong phú trong sự thống nhất cao độ. Sự
đa dạng ở đây là về tộc người, là sự đa dạng bản sắc văn hóa tộc người trên lãnh thổ Việt
Nam. Đó là sự đa dạng về văn hóa của 54 dân tộc với văn hóa của người Kinh chiếm vai
trò chủ đạo. Đại đa số các dân tộc Việt Nam đều có chung một nguồn gốc từ tộc người
Bách Việt.
Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa hình thành trên nền tảng xã hội nông nghiệp lúa
nước. Về mặt phổ hệ xã hội, mô hình xã hội của Việt Nam xưa là cá nhân – gia đình – họ
hàng – làng xóm – vùng – nước. Trong đó yếu tố gia đình, làng xóm và nước đóng vai trò
đặc biệt quan trọng trong đời sống người Việt. Mối quan hệ giữa ba yếu tố này cũng đặc
biệt, tạo nên nét khác biệt với các nước khác trên thế giới. Làng được hình thành từ gia
đình, là một gia đình lớn; nước được hình thành trên cơ sở liên kết giữa các làng, vậy nên
nước là một ngôi làng lớn. Mối quan hệ này khiến cho người Việt đối xử với những
người khác trong xã hội như trong gia đình, xưng hô với nhau là
anh/chị/em/cô/dì/chú/ông/bà, gọi nhau là đồng bào. Trong quan hệ xã hội, người Việt cư
xử theo lối đề cao cộng đồng, tập thể, trọng tình “yêu nhau chín bỏ làm mười”, “Yêu
nhau yêu cả đường đi/ Ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng”, trọng văn, trọng phụ nữ. Nghề
trồng lúa nước chiếm vai trò chủ đạo nên có sự phân công lao động công bằng giữa nam
và nữ theo nhưng công việc phù hợp với mình vậy nên, vai trò của phụ nữ trong xã hội
được coi trọng và đề cao “nhất vợ nhì trời”, “Ba đồng một mớ đàn ông/ Đem bỏ vào lồng
cho kiến nó tha/ Ba trăm một mụ đàn bà/ Đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi”, hay như
theo quan niệm dân gian “Ruộng sâu trâu nái, không bằng con gái đầu lòng”. Về mặt
nhận thức, người Việt có lối tư duy tổng hợp – biện chứng, trọng kinh nghiệm. Điều đó
có nghĩa người Việt nhìn nhận, đánh giá các yếu tố, các sự vật hiện tượng dưới nhiều góc
độ, coi trọng sự tác động, tương tác giữa các yếu tố với nhau. Nghề nông nghiệp trồng
trọt đòi hỏi cần phải tích lũy nhiều kinh nghiệm, sự biến đổi kinh nghiệm thông qua sự
quan sát biến đổi của thời tiết nên người già được coi trọng trong xã hội “Kính già già để
tuổi cho”, “Kính lão đắc thọ”. Người Việt cũng tích lũy được nhiều kinh nghiệm về
những mối quan hệ trong tự nhiên để áp dụng vào trồng trọt như: “Quạ tắm thì ráo, sáo
tắm thì mưa”, “Ráng mỡ gá, ai có nhà phải chống”. Trong đối ngoại, người Việt dung
hợp trong tiếp nhận – mềm dẻo linh hoạt trong ứng phó. Các vương triều phong kiến Việt
Nam khi ứng xử với người phương bắc thường ứng xử theo nguyên tắc “ngoại vương nội
đế”. Trong ứng xử với môi trường tự nhiên, nghề trồng trọt đòi hỏi thời gian, sự ổn định,
hài hòa giữa các yếu tố tự nhiên vậy nên người Việt ưa sự hài hào, ưa định cư, sống hòa
hợp với thiên nhiên. Điều này cũng dẫn đến một lối sống thiên về “tĩnh” của người Việt –
ngại thay đổi, biến đổi, chủ yếu là sự cải tiến, ít khi có sự biến dổi hoàn toàn. Sống trong
xã hội nông nghiệp ổn định đến hàng nghìn năm đến mùa vụ thì trồng cấy, kết thúc mùa
vụ thì nông nhàn đã tạo nên lối sống lúc hối hả gấp gáp – lúc nhẹ nhàng khoan thai. Hai
lối sống trái ngược nhau ấy tưởng như không thể dung hòa nhưng lại cùng lúc tồn tại
trong con người Việt Nam.

You might also like