You are on page 1of 67

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN

KHOA TÂM LÝ HỌC

Nguyễn Ngọc Quang

MỐI LIÊN HỆ GIỮA SỰ QUAN TÂM CÓ ĐIỀU KIỆN CỦA MẸ


VỚI MỨC ĐỘ LO ÂU VÀ TRẦM CẢM CỦA CON CÁI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


NGÀNH TÂM LÝ HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X

HÀ NỘI, 2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TÂM LÝ HỌC

Nguyễn Ngọc Quang

MỐI LIÊN HỆ GIỮA SỰ QUAN TÂM CÓ ĐIỀU KIỆN CỦA MẸ


VỚI MỨC ĐỘ LO ÂU VÀ TRẦM CẢM CỦA CON CÁI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


NGÀNH TÂM LÝ HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X

Người hướng dẫn:


TS. Đặng Hoàng Ngân

HÀ NỘI, 2019
Lời cảm ơn

Khóa luận tốt nghiệp có thật nhiều ý nghĩa đối với tôi. Nó không chỉ là sự kết
thúc của một quãng thời gian, mặc dù khó khăn, nhưng cũng thật đẹp đẽ trong cuộc đời
tôi, không chỉ là điều đánh dấu sự bắt đầu của một giai đoạn mới có lẽ cũng không kém
phần thử thách ở trước mắt, nó còn là lời cảm ơn mà tôi muốn gửi đến rất nhiều người
đã ở bên cạnh tôi trong suốt bốn năm theo học ngành Tâm lý học tại trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Tôi muốn gửi lời cảm ơn tới những bạn học sinh và sinh viên đã tham gia không
chỉ nghiên cứu này mà còn nhiều nghiên cứu khác mà tôi đã thực hiện. Sự giúp đỡ rộng
lượng và kiên nhẫn của các bạn là một nguồn động lực cho tôi cố gắng hoàn thiện kỹ
năng và tư duy nghiên cứu để có được những nghiên cứu chất lượng hơn.
Tôi muốn gửi lời cảm ơn tới các bạn học của tôi ở khoa Tâm lý học, đặc biệt là
các bạn Mai Phan, Thùy Dung, Thùy Tiên, Linh Chi, Phương Thục, Minh Nhân, Đức
Huy, Phương Thảo, Thảo Hoàng, Xuân Thanh, Minh Quân, Anh Đức, bởi vì bằng cách
này hay cách khác đã động viên và giúp đỡ tôi trong suốt những tháng ngày học tập và
nghiên cứu vừa qua. Việc học và nghiên cứu về tâm lý hẳn sẽ bớt phần ý nghĩa và thú
vị đối với tôi nếu như không có các bạn ở bên.
Tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn tới những thân chủ của tôi bởi vì các bạn đã sẵn
lòng tin tưởng mà trao cho tôi một phần trái tim của các bạn. Bởi vì những phần đó, dù
đau đớn hay hạnh phúc, đều đã dạy cho tôi rất nhiều về những nỗi đau khổ, về sự nhẫn
nãi, về sự cởi mở, về sự chấp nhận, về sự thấu cảm, và về sự sống. Chính những câu
chuyện của các bạn đã là một phần lý do thôi thúc tôi thực hiện nghiên cứu này. Tôi
cũng muốn gửi lời cảm ơn tới Ths. Phạm Lê Hoàng Minh vì những những nỗ lực của
anh đã cho tôi cơ hội được gặp gỡ với các thân chủ.
Tôi muốn gửi lời cảm ơn tới các thầy cô của khoa Tâm lý học vì đã luôn tạo ra
một bầu không khí học thuật thân thiện và cởi mở. Tôi đặc biệt muốn gửi lời cảm ơn tới
PGS. TS. Nguyễn Văn Lượt vì đã ở bên cạnh tôi từ những bước đi đầu tiên của tôi trên
con đường nghiên cứu khoa học. Sự kiên nhẫn và khích lệ mà thầy dành cho tôi đã giúp
tôi nỗ lực cố gắng và đạt được những thành tựu trong lĩnh vực này. Tôi cũng muốn gửi
lời cảm ơn tới TS. Đặng Hoàng Ngân bởi vì cô đã luôn khuyến khích tôi tự do theo đuổi
những câu hỏi nghiên cứu mà tôi mong muốn trong suốt quá trình làm khóa luận tốt

i
nghiệp; đã luôn động viên và đặt niềm tin vào khả năng của tôi dù tôi vẫn thường tỏ ra
lơ là; đã luôn cởi mở và tôn trọng những quyết định của tôi đối với khóa luận này.
Tối cũng muốn bày tỏ sự biết ơn đối với ba nhân vật có ảnh hưởng rất lớn tới đời
sống tinh thần của tôi và do đó cũng đã phần nào ảnh hưởng tới việc theo học tâm lý
cũng như việc thực hiện khóa luận tốt nghiệp này của tôi. Đó là nhà tâm lý học người
Mỹ Carl Rogers, Hòa Thượng Viên Minh, và Đức Phật.
Cuối cùng, tôi muốn dành tặng khóa luận tốt nghiệp này cho mẹ của tôi, không
phải như một sự trách móc mà như một lời cảm ơn và xin lỗi đối với mẹ bởi vì tôi đã
luôn không thấy được rằng mẹ vẫn luôn luôn yêu thương tôi bằng những điều tốt đẹp
nhất mà mẹ có thể làm được...
Hà Nội, ngày 10 tháng 06 năm 2019

Nguyễn Ngọc Quang

ii
Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu khoa học do riêng tôi thực
hiện với sự hướng dẫn của TS. Đặng Hoàng Ngân. Các quan điểm, lập luận, các số liệu
thu thập được, cùng với những bình luận trong công trình nghiên cứu khoa học này đều
có nguồn gốc rõ ràng, trung thực, và chưa từng được công bố.
Nghiên cứu cũng đã được thông qua bởi giảng viên hướng dẫn.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự cam đoan này.

Hà Nội, ngày 21 tháng 05 năm 2019


Sinh viên thực hiện

Nguyễn Ngọc Quang

iii
Tóm tắt khóa luận tốt nghiệp

Mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều kiện của mẹ


với mức độ lo âu và trầm cảm của con cái
Nguyễn Ngọc Quang
Khóa QH-2015-X, Khoa Tâm lý học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội

Tóm tắt: Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu về mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều
kiện của mẹ với mức độ lo âu và trầm cảm của con cái cũng như một số biến số nhân khẩu
khác. Mẫu nghiên cứu là mẫu thuận tiện bao gồm 416 sinh viên có độ tuổi trung bình là 20.36
với độ lệch chuẩn hóa là 1.30. Trong đó, nam chiếm 16.80% và nữ chiếm 83.20%. Các khách
thể tham gia nghiên cứu bằng cách trả lời một bảng câu hỏi bao gồm các câu hỏi về đặc điểm
nhân khẩu và các thang đo đánh giá nhận thức về sự quan tâm có điều kiện của mẹ, mức độ lo
âu, và mức độ trầm cảm. Kết quả phân tích cho thấy sự quan tâm tiêu cực và tích cực có điều
kiện của mẹ đều có tương quan thuận chiều có ý nghĩa thống kê ở mức độ trung bình với các
triệu chứng lo âu và trầm cảm của con cái. Bên cạnh đó, phần trăm biến thiên của các triệu
chứng lo âu và trầm cảm của con cái được giải thích bởi cả hai biến số sự quan tâm tích cực và
tiêu cực có điều kiện của mẹ lần lượt là 28% và 20%. Trong đó, so với sự quan tâm tiêu cực có
điều kiện, sự quan tâm tích cực có điều kiện có khả năng dự báo lớn hơn đối với mức độ lo âu
và thấp hơn đối với mức độ trầm cảm. Nhất quán với những nghiên cứu trước đây, các kết quả
này cho thấy ảnh hưởng tiêu cực của sự quan tâm có điều kiện đối với sức khỏe tinh thần của
con cái. Cụ thể, trong khi sự quan tâm tiêu cực có điều kiện của mẹ có khả năng dẫn tới các
triệu chứng lo âu và trầm cảm ở con cái thì sự quan tâm tích cực có điều kiện của mẹ lại đặt
con cái vào tình trạng thường xuyên lo âu và dễ bị tổn thương tâm lý. Các kết quả này kêu gọi
sự thay đổi nhận thức của cha mẹ trong việc sử dụng sự quan tâm hay tình yêu thương của mình
như là một cách thức để thúc đẩy con cái thực hiện những hành vi được kỳ vọng.

Từ khóa: lý thuyết tự quyết, lý thuyết nhân vị trọng tâm, sự quan tâm tích cực có điều kiện, sự
quan tâm tiêu cực có điều kiện, lo âu, trầm cảm, nuôi dạy con

iv
Mục lục
Mở đầu........................................................................................................................ 1
Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 1
Mục đích nghiên cứu............................................................................................... 4
Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................. 4
Khách thể nghiên cứu ............................................................................................. 4
Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................................. 5
Giả thuyết nghiên cứu ............................................................................................. 5
Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................................. 5
Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 5
Chương 1. Cơ sở lý luận ............................................................................................. 6
1.1. Khái niệm và phân loại sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ........................... 6
1.2. Đo lường sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ ................................................ 9
1.3. Tổng quan nghiên cứu về sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ ..................... 12
1.3.1. Hệ quả của sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ ....................................... 12
1.3.2. Khác biệt trong ảnh hưởng của sự quan tâm có điều kiện của cha và của mẹ ..... 19
1.3.3. Tiền đề của sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ ....................................... 22
1.4. Lo âu và trầm cảm.......................................................................................... 24
1.5. Mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ với mức độ trầm cảm và
lo âu ở con cái ....................................................................................................... 25
Chương 2. Phương pháp............................................................................................ 28
2.1. Khách thể nghiên cứu ..................................................................................... 28
2.2. Mẫu nghiên cứu ............................................................................................. 29
2.3. Công cụ nghiên cứu ....................................................................................... 29
2.3.1. Thang đo Nhận thức của Con cái về Sự Quan tâm có Điều kiện của Mẹ .. 29
2.3.2. Thang đo Rối loạn Lo âu Lan tỏa 7 item...................................................... 31
2.3.3. Bảng Câu hỏi Sức khỏe Bệnh nhân 9 item................................................... 31
2.4. Phân tích dữ liệu ............................................................................................ 32
Chương 3. Kết quả .................................................................................................... 33
3.1. Thống kê mô tả các biến nghiên cứu .............................................................. 33
3.2. So sánh sự quan tâm có điều kiện của mẹ giữa nam và nữ .............................. 33
3.3. So sánh sự quan tâm có điều kiện của mẹ giữa thành thị và nông thôn ........... 34

v
3.4. Mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều kiện và trình độ học vấn của mẹ .......... 34
3.5. Mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều kiện của mẹ và khoảng cách tuổi ......... 34
3.6. Mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều kiện của mẹ và mức độ lo âu và trầm cảm
ở con cái ............................................................................................................... 35
3.7. Khả năng dự báo các triệu chứng lo âu và trầm cảm ở con cái theo sự quan tâm
có điều kiện của mẹ............................................................................................... 35
Chương 4. Thảo luận................................................................................................. 37
4.1. Sự khác biệt giữa nam và nữ về mức độ quan tâm có điều kiện của mẹ .......... 37
4.2. Sự khác biệt về mức độ quan tâm có điều kiện của mẹ giữa các khu vực........ 38
4.3. Mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều kiện và trình độ học vấn của mẹ .......... 38
4.4. Mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều kiện và khoảng cách tuổi ..................... 38
4.5. Mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều kiện của mẹ với mức độ lo âu và trầm
cảm ở con cái ........................................................................................................ 39
Kết luận .................................................................................................................... 42
Tài liệu tham khảo .................................................................................................... 45
Phụ lục A: Thang đo Nhận thức của Con cái về Sự Quan tâm có Điều kiện của Mẹ .. 55
Phụ lục B: Thang đo Rối loạn Lo âu Lan tỏa 7 item .................................................. 57
Phụ lục C: Bảng Câu hỏi Sức khỏe Bệnh nhân 9 item ............................................... 58

vi
Danh mục bảng biểu

Bảng 1. Đặc điểm nhân khẩu của mẫu nghiên cứu..................................................... 28


Bảng 2. Thống kê mô tả cho các biến số nghiên cứu ................................................. 33
Bảng 3. Thống kê mô tả cho quan tâm có điều kiện ở nam và nữ .............................. 33
Bảng 4. Thống kê mô tả cho quan tâm có điều kiện ở thành thị và nông thôn ............ 34
Bảng 5. Tương quan giữa các biến số nghiên cứu...................................................... 35
Bảng 6. Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính dự báo lo âu và trầm cảm ở con cái theo
quan tâm có điều kiện của mẹ ................................................................................... 35

vii
Mở đầu

Lý do chọn đề tài
Trầm cảm và lo âu đang ngày càng trở nên phổ biến ở trẻ em và thanh thiếu niên.
Thống kê dịch tễ được thực hiện trên mẫu đại diện quốc gia với 10 trên tổng số 63
tỉnh/thành phố cho thấy tỷ lệ trẻ em đang gặp phải những vấn đề tâm lý nghiêm trọng,
trong đó có cả trầm cảm và lo âu, là khoảng 12% (Weiss và c.s., 2014). Nghiên cứu của
Nguyen, Dedding, Pham, Wright, và Bunders (2013) cho thấy tỷ lệ mắc phải lo âu và
trầm cảm ở học sinh cấp hai lần lượt là 22.80% và 41.10%. Theo Điều tra Quốc gia về
Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam, có tới 73.10% vị thành niên và thanh niên trong
độ tuổi từ 14 đến 25 từng cảm thấy buồn, 27.70% cảm thấy buồn hoặc bất lực tới mức
không thể thực hiện các hoạt động bình thường, và 21.30% từng cảm thấy mất niềm tin
vào tương lai. Nhiều nghiên cứu trước đây đã cho thấy trầm cảm và lo âu không chỉ tác
động tiêu cực tới sức khỏe thể chất và tâm lý của cá nhân (chẳng hạn như làm suy giảm
hệ miễn dịch, làm tăng nguy cơ mắc phải các triệu chứng loạn thần, nghiện chất, hay tự
sát) mà còn gây ra những gánh nặng về kinh tế và xã hội (làm mất khả năng lao động,
đòi hỏi chi phí chữa trị cao; Baxter, Vos, Scott, Ferrari, & Whiteford, 2014; Johnson,
Dupuis, Piche, Clayborne, & Colman, 2018; Lynch & Clarke, 2006; Naicker, Galambos,
Zeng, Senthilselvan, & Colman, 2013).
Trong số những yếu tố có ảnh hưởng đến khả năng mắc phải trầm cảm và lo âu
ở trẻ em và thanh thiếu niên, cách nuôi dạy con của cha mẹ có thể trở thành yếu tố bảo
vệ nhưng cũng có thể là yếu tố nguy cơ (Huberty, 2012). Sự quan tâm có điều kiện của
cha mẹ, trong đó tình cảm hay sự quan tâm của cha mẹ phụ thuộc vào việc con cái có
đáp ứng được các kỳ vọng của cha mẹ hay không, là một trong những cách nuôi dạy con
phổ biến của các cha mẹ. Mặc dù có nhiều quan điểm và lý thuyết ủng hộ cho cách nuôi
dạy con này, nhiều tác giả cho rằng sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ là một dạng
kiểm soát tâm lý và tất yếu sẽ để lại những hệ quả tiêu cực đối với sức khỏe tinh thần
của con cái (Assor, Roth, & Deci, 2004; Soenens & Vansteenkiste, 2010).
Ủng hộ quan điểm này, các nghiên cứu trước đây đã cho thấy sự quan tâm có
điều kiện của cha mẹ có mối liên hệ với sự nội hóa theo hướng tiêu cực các giá trị mà
cha mẹ mong muốn đối với con cái, cảm giác ép buộc phải thực hiện các hành vi mà
cha mẹ kỳ vọng, sự dồn nén các cảm xúc tiêu cực, sự suy giảm năng lực xúc cảm, cùng
với tính ái kỷ (Assor và c.s., 2004; Roth & Assor, 2010, 2012; Roth, Assor, Niemiec,

1
Ryan, & Deci, 2009). Hơn thế nữa, sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ còn tạo cho
con cái cảm giác không được chập nhận và do đó dẫn tới sự oán giận đối với cha mẹ
(Assor và c.s., 2004), làm suy giảm chất lượng mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái
(Kanat-Maymon, Roth, Assor, & Raizer, 2016). Sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ
cũng có mối liên hệ với lòng tự trọng thấp và lòng tự trọng có điều kiện mà qua đó làm
xuất hiện tính cầu toàn thiếu thích ứng, cùng với sự bất ổn trong cảm nhận về bản thân
của con cái (Curran, 2018; Wouters, Colpin, Luyckx, & Verschueren, 2018).
Trong khi đó, nhiều nghiên cứu đã chứng minh có mối liên hệ giữa sự dồn nén
các cảm xúc (Campbell-Sills, Barlow, Brown, & Hofmann, 2006), chất lượng mối quan
hệ giữa cha mẹ và con cái (Raudino, Fergusson, & Horwood, 2013), lòng tự trọng có
điều kiện, lòng tự trọng thấp (Sowislo & Orth, 2013), tính cầu toàn (O’Connor,
Rasmussen, & Hawton, 2010), và sự dao động của lòng tự trọng (M. H. Kernis, Cornell,
Sun, Berry, & Harlow, 1993) với trầm cảm và lo âu. Phân tích trong nghiên cứu của
Wouters và c.s. (2018) cho thấy sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ làm tăng lòng tự
trọng có điều kiện và qua đó làm tăng các triệu chứng lo âu ở con cái. Bên cạnh đó, sự
quan tâm có điều kiện của cha mẹ cũng làm suy giảm lòng tự trọng và qua đó làm tăng
mức độ trầm cảm và lo âu. Nghiên cứu của Perrone, Borelli, Smiley, Rasmussen, và Hilt
(2016) cũng cho thấy sự quan tâm có điều kiện của mẹ có mối liên hệ với các triệu chứng
trầm cảm. Như vậy, các bằng chứng gián tiếp đã gợi ý mối quan hệ giữa sự quan tâm có
điều kiện của cha mẹ và mức độ trầm cảm và lo âu ở con cái. Tuy nhiên chưa có nhiều
nghiên cứu cung cấp bằng chứng trực tiếp về mối liên hệ này. Mặt khác, các nghiên cứu
trước đây chỉ dựa vào việc đo lường sự quan tâm có điều kiện trên một vài lĩnh vực
(chẳng hạn học tập, thể thao, kiểm soát cảm xúc, hành vi ủng hộ xã hội, hay tôn giáo)
nên có thể không phản ánh hết được ảnh hưởng của sự quan tâm có điều kiện của cha
mẹ đối với mức độ trầm cảm và lo âu ở con cái. Do đó, cần có thêm các nghiên cứu với
cách đo lường chung về tính có điều kiện của sự quan tâm của cha mẹ đối với con cái
để tìm hiểu về mối liên hệ trực tiếp này. Cụ thể, thay vì đề cập đến những yêu cầu trong
từng lĩnh vực cụ thể, thang đo có thể yêu cầu người trả lời đánh giá tính điều kiện của
sự quan tâm của cha mẹ dựa trên việc họ có đáp ứng được các kỳ vọng, mong muốn,
hay yêu cầu nói chung của cha mẹ hay không.
Các nghiên cứu trước đây về sự quan tâm có điều kiện chủ yếu tập trung vào hệ
quả của cách nuôi dạy con này. Chưa có nhiều nghiên cứu tìm hiểu về các yếu tố về tâm

2
lý xã hội ảnh hưởng tới sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ. Trong khi đó, mối quan
hệ giữa cha mẹ và con cái luôn luôn chịu sự chi phối của bối cảnh văn hóa xã hội. Chẳng
hạn, sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ dành cho con trai và con gái có thể khác biệt
do định kiến về giới. Giữa cha mẹ ở khu vực thành thị và khu vực nông thôn cũng có
thể có sức khác biệt trong việc sử dụng sự quan tâm có điều kiện để thúc đẩy con cái đạt
được các kỳ vọng. Áp lực của đời sống đô thị có thể khiến cho cha mẹ có nhiều kỳ vọng
vào con cái hơn và do đó làm gia tăng khả năng cha mẹ sử dụng sự quan tâm có điều
kiện. Nghiên cứu cho thấy những cha mẹ nhìn nhận xã hội là có tính cạnh tranh cao thì
càng có xu hướng sử dụng sự quan tâm có điều kiện đối với con cái (Assor, Kanat-
Maymon, & Roth, 2014). Bên cạnh đó, trình độ học vấn của cha mẹ cũng là một yếu tố
có thể tác động đến sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ. Cha mẹ có trình độ học vấn
cao hơn có thể có xu hướng nuôi dạy con theo phong cách dân chủ hơn thay vì kiểm
soát hay độc đoán, và do đó ít có khả năng sử dụng sự quan tâm có điều kiện hơn. Ngoài
ra, khoảng cách thế hệ giữa cha mẹ và con cái cũng có thể là nguyên nhân dẫn tới sự
quan tâm có điều kiện của cha mẹ. Những cha mẹ thế hệ trước đây có thể có tính áp đặt
nhiều hơn so với những cha mẹ thế hệ gần đây và khoảng cách tuổi tác giữa cha mẹ và
con cái có thể là rào cản (Shapiro, 2004) để cha mẹ có thể nuôi dạy con theo hướng ủng
hộ sự tự chủ trong đó đòi hỏi phải có khả năng lắng nghe và thấu hiểu các cảm nhận của
con cái thay vì áp đặt.
Tại Việt Nam, khi các thế hệ cha mẹ gần đây đang ngày càng ý thức được những
tác động tiêu cực của các hình thức trừng phạt thể xác đối với con cái, sự quan tâm có
điều kiện có thể coi là một trong những cách nuôi dạy con thay thế phổ biến. Mặc dù
các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra tác động không mong muốn của sự quan tâm có điều
kiện của cha mẹ đối với con cái, phần lớn những kết quả này thu được từ những mẫu
khách thể ở phương Tây và do đó đặt ra câu hỏi về khả năng suy rộng đối với bối cảnh
văn hóa phương Đông như tại Việt Nam. Theo lý thuyết Tự quyết, tác động tiêu cực của
sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ đối với sức khỏe tinh thần của con cái trước hết
xuất phát tự sự xung đột giữa mong muốn thỏa mãn nhu cầu gắn kết và nhu cầu tự chủ
(Ryan & Deci, 2017) do về bản chất, cách nuôi dạy con này cũng là một hình thức kiểm
soát tâm lý (Soenens & Vansteenkiste, 2010). Tuy nhiên, sự xung đột này có thể không
xảy ra trong những nền văn hóa mà ở đó công nhận thẩm quyền của cha mẹ đối với con
cái và coi việc con cái vâng lời cha mẹ như là một biểu hiện của lòng hiếu thảo (McHale,

3
Dinh, & Rao, 2014). Nghiên cứu của Kwak và Jang (2014) trên nhóm khách thể người
Hàn Quốc, một nước có nhiều giá trị gia đình tương đồng với văn hóa Việt Nam do chịu
ảnh hưởng của Khổng giáo, cho thấy sự quan tâm có điều kiện của mẹ dựa trên việc
kiểm soát cảm xúc của con cái có mối liên hệ nghịch chiều với niềm tin vào năng lực
bản thân, khả năng tự ý thức về cảm xúc, và sự dao động lòng tự trọng của con cái. Mặc
dù kết quả này tương đồng với những nghiên cứu ở nhóm khách thể phương Tây, vẫn
cần có thêm các nghiên cứu về sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ ở văn hóa phương
Đông.
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm tìm hiểu về mối liên hệ giữa sự quan tâm
có điều kiện của mẹ và mức độ lo âu và trầm cảm ở con cái. Nghiên cứu tìm hiểu về sự
quan tâm có điều kiện của mẹ do một mặt hạn chế về nguồn lực và mặt khác ở Việt
Nam, vai trò nuôi dưỡng và giáo dục con cái của người mẹ vẫn lớn hơn so với người
cha (McHale và c.s., 2014; Mestechkina, Son, & Shin, 2014). Kết quả của nghiên cứu
được kỳ vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ trực tiếp giữa các biến số này cũng
như trả lời cho câu hỏi về khả năng suy rộng kết quả của các nghiên cứu trước đây trong
bối cảnh văn hóa phương Đông nói chung, và văn hóa Việt Nam nói riêng. Hơn thế nữa,
các kết quả nghiên cứu cũng được kỳ vọng là cơ sở để đưa ra một số kiến nghị về cách
nuôi dạy con cho cha mẹ.
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tập trung vào mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều kiện của mẹ và
các triệu chứng trầm cảm và lo âu ở con cái. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng quan tâm
tới sự khác biệt giữa các nhóm phân chia theo đặc điểm nhân khẩu về mức độ của sự
quan tâm có điều kiện của mẹ. Cụ thể, sự khác biệt về sự quan tâm có điều kiện của mẹ
đối với nam và nữ (hay con trai và con gái), giữa thành thị và nông thôn, giữa các nhóm
trình độ học vấn của mẹ. Nghiên cứu cũng tìm hiểu mối liên hệ giữa khoảng cách tuổi
tác giữa mẹ và con với sự quan tâm có điều kiện của mẹ.
Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu là sinh viên đại học được lựa chọn theo tiêu chí trước năm
17 tuổi chưa từng có khoảng thời gian nào sống xa mẹ hơn một năm nhằm đảm bảo
khách thể có sự tương tác với mẹ từ nhỏ cho đến năm 17 tuổi và cũng để hạn chế ảnh
hưởng của những khoảng thời gian xa mẹ đến kết quả nghiên cứu.

4
Câu hỏi nghiên cứu
Cụ thể hơn, nghiên cứu hướng tới trả lời các câu hỏi (1) Có sự khác biệt giữa
nam và nữ (hay con trai và con gái) về sự quan tâm có điều kiện của mẹ không? (2) Có
sự khác biệt giữa khu vực thành thị và nông thôn về sự quan tâm có điều kiện của mẹ
không? (3) Sự quan tâm có điều kiện của mẹ có mối liên hệ như thế nào với trình độ học
vấn của mẹ? (4) Sự quan tâm có điều kiện của mẹ có mối liên hệ như thế nào với khoảng
cách tuổi tác giữa mẹ và con? (5) Sự quan tâm có điều kiện của mẹ có mối liên hệ như
thế nào với mức độ trầm cảm và lo âu ở con cái? Và (6) Sự quan tâm có điều kiện của
mẹ có khả năng dự báo như thế nào đối với mức độ trầm cảm và lo âu ở con cái?
Giả thuyết nghiên cứu
Dựa trên lý thuyết và các kết quả nghiên cứu trước đây, nghiên cứu này đặt ra
các giả thuyết đó là (1) Có sự khác biệt giữa nam và nữ về sự quan tâm có điều kiện của
mẹ; (2) Có sự khác biệt giữa khu vực thành thị và nông thôn về sự quan tâm có điều
kiện của mẹ; (3) Sự quan tâm có điều kiện của mẹ có mối liên hệ nghịch chiều với trình
độ học vấn của mẹ; (4) Sự quan tâm có điều kiện của mẹ có mối liên hệ thuận chiều với
khoảng cách tuổi tác giữa mẹ và con; (5) Sự quan tâm có điều kiện của mẹ có mối liên
hệ thuận chiều với mức độ trầm cảm và lo âu ở con cái; (6) Sự quan tâm có điều kiện
của mẹ có khả năng dự báo đối với mức độ trầm cảm và lo âu ở con cái.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu và kiểm chứng các giả thuyết, chúng tôi
xác định các nhiệm vụ cần thực hiện bao gồm (1) Xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu
(khái niệm, phân loại, cách đo lường, tổng quan các nghiên cứu trước đây về sự quan
tâm có điều kiện); (2) Xây dựng và lựa chọn công cụ nghiên cứu để đánh giá sự quan
tâm có điều kiện của mẹ và mức độ trầm cảm và lo âu ở con cái; (3) Tiến hành thu thập
dữ liệu thông qua bảng câu hỏi nghiên cứu; và (4) Phân tích dữ liệu thu được để trả lời
cho các câu hỏi nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng câu hỏi và phân tích dữ liệu
thu được từ bảng câu hỏi này bằng phần mềm SPSS 23.0 và STATA 14.0 để trả lời cho
các câu hỏi và kiểm chứng các giả thuyết nghiên cứu.

5
Chương 1. Cơ sở lý luận

1.1. Khái niệm và phân loại sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ
Nhiều nghiên cứu và lý thuyết đã chỉ ra rằng tình yêu thương mà cha mẹ dành
cho con cái là một trong những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng tới sự phát triển tâm lý
xã hội của mỗi cá nhân. Mặc dù vậy, một số nhà tâm lý học cho rằng, nghiên cứu về
tình yêu thương của cha mẹ không nên chỉ quan đến việc cha mẹ có yêu thương con hay
không mà còn phải quan tâm tới cách mà cha mẹ trao đi tình yêu thương ấy (Kohn,
2006). Trong khi một số cha mẹ cố gắng trao cho con tình yêu thương một cách vô điều
kiện, nhiều cha mẹ vẫn sử dụng tình yêu thương của mình như một công cụ để kiểm soát
con cái và do đó để lại những hệ quả tiêu cực đối với tâm lý của chúng cũng như mối
quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
Ảnh hưởng của tính điều kiện trong tình yêu thương của cha mẹ đối với sự lành
mạnh tâm lý của con cái lần đầu tiên được hệ thống hóa trong lý thuyết về sự phát triển
nhân cách theo tiếp cận Nhân vị Trọng tâm (Rogers, 1951, 1959). Trong lý thuyết này,
sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ được mô tả thông qua khái niệm sự nhìn nhận tích
cực có điều kiện. Theo đó, cha mẹ nhìn nhận con cái một cách tích cực có điều kiện là
khi cha mẹ chỉ bày tỏ những thái độ tích cực như chấp nhận, coi trọng, quan tâm, hay
yêu thương, đối với con cái khi nào chúng đáp ứng được những kỳ vọng, mong muốn,
hay yêu cầu của cha mẹ. Do mỗi đứa trẻ đều có nhu cầu nhận được tình yêu thương của
cha mẹ, sự nhìn nhận tích cực có điều kiện có thể buộc chúng phải cảm nhận, suy nghĩ,
và hành xử theo những cách mà cha mẹ mong muốn để được đổi lại sự chấp nhận từ cha
mẹ. Khi những hành vi được kỳ vọng này đối nghịch lại với những mong muốn hay trải
nghiệm thật sự, con cái có thể sẽ phải đối mặt với những xung đột nội tâm, từ đó dẫn tới
những rối nhiễu tinh thần. Trái lại, sự nhìn nhận tích cực vô điều kiện của cha mẹ dành
cho con cái sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho khuynh hướng hiện thực hóa, hay khuynh
hướng phát triển tiến tới việc tối ưu hóa các tiềm năng và chức năng tâm sinh lý ở con
cái, từ đó dẫn tới sự lành mạnh tâm lý.
Thực tế, khái niệm sự nhìn nhận tích cực có điều kiện và vô điều kiện đã được
đề cập trước hết trong mối quan hệ trị liệu giữa nhà trị liệu Nhân vị Trọng tâm và thân
chủ (Bozarth, 2013). Mặc dù đã có nhiều bằng chứng về ảnh hưởng của sự nhìn nhận
tích cực có điều kiện và vô điều kiện đối với hiệu quả trị liệu tâm lý, cho tới gần đây
vẫn chưa có nhiều nghiên cứu được tiền hành nhằm tìm hiểu về hai thái độ này trong

6
các mối quan hệ liên cá nhân khác, đặc biệt là mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, như
lý thuyết Nhân vị Trọng tâm đã đề xuất.
Một nghiên cứu được tiến hành bởi Assor và c.s. (2004) đã cung cấp những bằng
chứng đầu tiên ủng hộ cho quan điểm của Carl Rogers và mở đường cho việc tìm hiểu
về ảnh hưởng của sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ đối với sự lành mạnh tâm lý của
con cái. Trong nghiên cứu này, dựa trên lý thuyết Tự quyết (Ryan & Deci, 2017), các
tác giả đã tiếp cận sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ với tư cách là một cách thức xã
hội hóa mà trong đó cha mẹ tỏ ra yêu thương và chấp nhận con cái khi chúng tuân theo
những kỳ vọng của cha mẹ; và rút lại những thái độ đó khi con cái không đáp ứng. Kết
quả nghiên cứu ban đầu của Assor và c.s. (2004) cho thấy sự quan tâm có điều kiện của
cha mẹ có thể thúc đẩy con cái thực hiện những hành vi được kỳ vọng nhưng đồng thời
cũng gây ra những hệ quả tiêu cực như con cái cảm thấy bị ép buộc thay vì được tự chủ
đối với hành vi của mình, cảm thấy tiêu cực về bản thân, khó cảm thấy hài lòng dù thành
công, và trở nên hổ thẹn mỗi khi thất bại. Hơn nữa, sự quan tâm có điều kiện còn khiến
cho con cái cảm thấy bị ruồng bỏ và hình thành thái độ oán giận đối với cha mẹ.
Mặc dù các kết quả trên đây đã làm sáng tỏ phần nào những ảnh hưởng tích cực
và tiêu cực đối với con cái của sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ, một trong những
hạn chế của nghiên cứu này và một số nghiên cứu ban đầu khác là chưa phân biệt hai
chiều hướng tác động của sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ (Roth và c.s., 2009). Cụ
thể, chiều hướng thứ nhất, hay sự quan tâm tích cực có điều kiện, là việc cha mẹ tỏ ra
yêu thương, coi trọng, và tình cảm hơn với con cái khi con cái hành động phù hợp với
kỳ vọng của cha mẹ. Trong khi đó, ở chiều hướng ngược lại, hay là sự quan tâm tiêu
cực có điều kiện, cha mẹ tỏ ra bớt yêu thương, bớt coi trọng, và bớt tình cảm với con
cái khi chúng không đáp ứng những mong muốn của cha mẹ. Chiều hướng thứ hai này
có sự tương đồng với cách nuôi dạy con rút lại tình yêu thương thuộc cấu trúc kiểm soát
tâm lý (Barber, 1996). Tuy nhiên, sự quan tâm tiêu cực có điều kiện không bao gồm
những yếu tố khác của sự kiểm soát tâm lý như gây cảm giác tội lỗi hay làm cho hổ
thẹn. Nhằm phân biệt giữa sự quan tâm có điều kiện và sự kiểm soát tâm lý, cũng như
dựa trên lý thuyết và các bằng chứng gián tiếp cho thấy ảnh hưởng khác biệt của hai
cách quan tâm có điều kiện, Roth và c.s. (2009) kiến nghị cần nghiên cứu sự quan tâm
có điều kiện của cha mẹ thông qua hai cách thức cụ thể này. Phân tích nhân tố khám phá
trong nghiên cứu của các tác giả này cho thấy các item đo lường sự quan tâm tích cực

7
có điều kiện và sự quan tâm tiêu cực có điều kiện tải lên hai nhân tố khác nhau và hai
cấu trúc này có tương quan thuận với nhau ở nhiều mức độ khác nhau tùy theo lĩnh vực.
Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng báo cáo sự khác biệt về tác động của sự quan tâm tích
cực có điều kiện và sự quan tâm tiêu cực có điều kiện. Trong khi sự quan tâm tích cực
có điều kiện thúc đẩy quá trình nội hóa và từ đó tạo ra sự thúc ép con cái phải đáp ứng
các kỳ vọng của cha mẹ thì sự quan tâm tiêu cực có điều kiện lại làm xuất hiện cảm giác
oán giận cha mẹ ở con cái và biểu hiện ra bằng việc không thực hiện các hành vi mà cha
mẹ mong muốn. Các kết quả này xác nhận quan điểm cho rằng cần nghiên cứu sự quan
tâm có điều kiện thông qua hai chiều cạnh này. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều nghiên cứu
trước đây vẫn được tiến hành theo hướng tìm hiểu tác động của sự quan tâm có điều
kiện như một cấu trúc đơn nhất thay vì có sự phân biệt giữa sự quan tâm tích cực có
điều kiện và sự quan tâm tiêu cực có điều kiện.
Một điểm đáng lưu ý đó là hai từ “tích cực” và “tiêu cực” trong các khái niệm
này không được sử dụng với ý nghĩa là “tốt” hay “xấu” mà được hiểu theo nghĩa “có
mặt/xuất hiện/tăng lên” hay “không có mặt/biến mất/giảm đi”. Việc lưu ý về ý nghĩa
của hai từ này là cần thiết bởi nó giúp phân biệt hai khái niệm này với khái niệm sự nhìn
nhận tích cực có điều kiện và sự nhìn nhận tiêu cực có điều kiện được sử dụng trong lý
thuyết về quá trình phát triển nhân cách theo tiếp cận Nhân vị Trọng tâm. Trong lý
thuyết này, “tích cực” và “tiêu cực” được sử dụng với ý nghĩa “tốt” và “xấu”. Sự nhìn
nhận tích cực là khái niệm được dùng để chỉ những thái độ như quan tâm, chấp nhận,
tôn trọng, yêu thương, ấm áp. Nó có ý nghĩa trái ngược với khái niệm sự nhìn nhận tiêu
cực được dùng để chỉ những thái độ như coi thường, ghét bỏ, kỳ thị. Như vậy, cụm từ
“sự nhìn nhận tích cực” có cùng ý nghĩa với từ “quan tâm” trong khái niệm sự quan tâm
có điều kiện. Nói cách khác, khái niệm sự nhìn nhận tích cực có điều kiện được sử dụng
trong tiếp cận Nhân vị Trọng tâm có cùng ý nghĩa với khái niệm sự quan tâm có điều
kiện, và do đó có thể được phản ánh thông qua cả hai khái niệm là sự quan tâm tích cực
có điều kiện và sự quan tâm tiêu cực có điều kiện. Tóm lại, sự nhìn nhận tích cực có
điều kiện không có cùng ý nghĩa với sự quan tâm tích cực có điều kiện bởi từ “tích cực”
trong hai khái niệm này có ý nghĩa khác biệt.
Như vậy, khái niệm sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ đang được nghiên cứu
hiện nay bởi nhiều tác giả trên thế giới (Assor và c.s., 2004) có cùng nội hàm với khái
niệm sự nhìn nhận tích cực có điều kiện trong lý thuyết Nhân vị Trọng tâm. Theo đó, sự

8
quan tâm có điều kiện của cha mẹ là việc sự quan tâm và tình cảm mà cha mẹ dành cho
con cái bị phụ thuộc vào việc con cái có đáp ứng được các kỳ vọng của cha mẹ hay
không. Cụ thể hơn, sự quan tâm có điều kiện được thể hiện theo hai chiều hướng đó là
sự quan tâm tích cực có điều kiện - cha mẹ tỏ ra yêu thương và coi trọng con cái hơn
khi chúng đáp ứng các yêu cầu của cha mẹ - và sự quan tâm tiêu cực có điều kiện - cha
mẹ tỏ ra bớt yêu thương và coi trọng con cái khi chúng không đáp ứng được các mong
muốn của cha mẹ dành cho chúng.
1.2. Đo lường sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ
Phương pháp đo lường sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ chủ yếu hiện nay là
thang đo tự báo cáo. Với cách thức đo lường này, cần quan tâm tới các vấn đề đó là (1)
đo lường theo lĩnh vực với đo lường chung; (2) đo lường từ góc nhìn của con cái với đo
lường từ góc nhìn của cha mẹ; và (3) đo lường cảm nhận với đo lường hành vi. Trong
các nghiên cứu trước đây, sự quan tâm cót điều kiện của cha mẹ dành cho con cái chủ
yếu được đánh giá thông qua cảm nhận của con cái theo từng lĩnh vực cụ thể mà cha mẹ
đặt kỳ vọng. Hướng đo lường này có những ưu và nhược điểm nhất định.
Một trong những hạn chế ở các nghiên cứu trước đây đó là việc đo lường sự quan
tâm có điều kiện của cha mẹ theo từng lĩnh vực cụ thể. Trong những nghiên cứu này,
các tác giả cho rằng sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ không tồn tại ở tất cả các lĩnh
vực trong cuộc sống (Assor và c.s., 2004). Chẳng hạn, cha mẹ có thể tỏ ra quan tâm hay
coi trọng con cái nhiều hơn khi con cái đạt được thành tích cao trong học tập nhưng lại
không có nhiều sự thay đổi về thái độ khi con cái tích cực tham gia các hoạt động thể
thao hay nghệ thuật. Vì lý do này, các tác giả thường tiến hành đo lường sự quan tâm có
điều kiện của cha mẹ trong một vài lĩnh vực cụ thể như học tập, thể thao, điều chỉnh
cảm xúc, hành vi ủng hộ xã hội, hay thực hành tôn giáo (Assor và c.s., 2004; Brambilla,
Assor, Manzi, & Regalia, 2015; Curran, Hill, & Williams, 2017). Đo lường theo hướng
này có thể đem lại những kết quả cụ thể làm cơ sở cho các kiến nghị về can thiệp (chẳng
hạn ảnh hưởng của sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ dựa trên kết quả học tập với sự
kiệt sức vì học tập ở con cái; Moon, 2017). Tuy nhiên, trên thực tế, cha mẹ thường có
những kỳ vọng, mong muốn, hay yêu cầu đối với con cái ở nhiều lĩnh vực khác nhau.
Chẳng hạn, cha mẹ có thể kỳ vọng con trai có thành tích học tập cao đồng thời có những
đặc điểm của một người con trai lý tưởng theo quan điểm của cha mẹ như mạnh mẽ,
quyết đoán, biết suy nghĩ cho gia đình, hiếu thảo. Việc chỉ đo lường dựa trên một lĩnh

9
vực cụ thể (chẳng hạn như chỉ ở lĩnh vực học tập) do đó có thể không thể phản ánh được
toàn bộ mức độ của sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ.
Đo lường cảm nhận chung của con cái về tính phụ thuộc của sự quan tâm từ cha
mẹ vào việc con cái có đáp ứng được hay không các yêu cầu, mong muốn, hay kỳ vọng
của cha mẹ (chẳng hạn Kanat-Maymon và c.s., 2016) có thể giải quyết được hạn chế
này. Cách đo lường này không tiếp cận trên toàn bộ những lĩnh vực của cuộc sống mà
thay vào đó khi các khách thể được yêu cầu đánh giá sự thay đổi thái độ của cha mẹ phụ
thuộc vào việc họ có đáp ứng được các điều kiện của cha mẹ hay không, mỗi một khách
thể sẽ liên tưởng đến những điều kiện khác nhau của riêng bản thân mình. Như vậy,
cách đo lường này có thể phán ảnh được toàn bộ ảnh hưởng của sự quan tâm có điều
kiện của cha mẹ đến khách thể ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Kết quả thu được từ tiếp cận
đo lường như vậy có thể được sử dụng để nghiên cứu mối liên hệ giữa sự quan tâm có
điều kiện với các biến số mang tính chất xuyên lĩnh vực như niềm tin vào năng lực bản
thân, lòng tự trọng, tiêu điểm kiểm soát, tính cầu toàn, mức độ trầm cảm, lo âu, hay sự
lành mạnh về tâm lý.
Bên cạnh việc đo lường theo lĩnh vực, ngoại trừ một số nghiên cứu (Assor và
c.s., 2014, 2004; Israeli-Halevi, Assor, & Roth, 2015), các nghiên cứu trước đây chủ
yếu sử dụng kết quả thu được từ câu trả lời của con cái đối với các bảng hỏi tự báo cáo.
Cách đo lường này tỏ ra phù hợp với quan điểm hiện tượng học. Theo đó, nhận thức chủ
quan của cá nhân đối với một kích thích thay vì bản thân kích thích đó mới là yếu tố tác
động đến hành vi và cảm xúc của cá nhân (Rogers, 1951, 1959). Quan điểm này cũng
được ủng hộ bởi nhiều nghiên cứu trước đây cho thấy kết quả đo lường về phong cách
nuôi dạy con của cha mẹ từ góc nhìn của con cái, so với từ góc nhìn của cha mẹ, có giá
trị dự báo tốt hơn đối với các hệ quả về tâm lý xã hội (Hoffman, 1970; Kuppens,
Grietens, Onghena, & Michiels, 2009). Tuy nhiên cách đo lường này cũng có thể chịu
ảnh hưởng bởi các yếu tố chủ quan ở con cái, chẳng hạn như thành kiến hay trạng thái
cảm xúc (Saeed & Hanif, 2014). Tương tự, kết quả tự báo cáo thu được từ cha mẹ cũng
có thể phần nào chịu tác động bởi thành kiến. Chẳng hạn, nghiên cứu của Israeli-Halevi
và c.s. (2015) cho thấy có mối tương quan thuận chiều giữa kết quả đo lường sự quan
tâm có điều kiện của mẹ từ góc nhìn của con cái và từ góc nhìn của mẹ nhưng không
quá mạnh. Điều gợi ý khả năng có sự thiếu nhất quá trong cảm nhận của mẹ và của con
về cách nuôi dạy con của mẹ. Do đó việc so sánh nhận thức của con cái với nhận thức

10
của cha mẹ hay của một người thứ ba (chẳng hạn như ông bà hay cha mẹ còn lại) về sự
quan tâm có điều kiện của cha mẹ là cần thiết để đưa ra những điều chỉnh thích hợp từ
cả phía con cái và cha mẹ để hạn chế mức độ tác động của sự quan tâm có điều kiện.
Ngoài ra, các hệ quả tâm lý cũng sẽ được đánh giá khách quan hơn thông qua người thứ
ba như thầy cô giáo hay ông bà thay vì từ chính bản thân con cái.
Cuối cùng, mặc dù nhận thức của mỗi cá nhân với cùng một kích thích là khác
nhau nhưng vẫn có thể kỳ vọng là sẽ xác định được một số hành vi điển hình đem lại
cho con cái cảm nhận về sự quan tâm có điều kiện. Chẳng hạn, tạm ngưng - một trong
những kỹ thuật gây nhiều tranh cãi khi được khuyến khích sử dụng bởi nhiều nhà giáo
dục, nhà tâm lý học phát triển, và các chương trình hướng dẫn cách nuôi dạy con nhằm
giúp cha mẹ thay đổi hành vi của trẻ nhỏ từ 3 đến 7 tuổi (Everett, Hupp, & D. Joe Olmi,
2010; Morawska & Sanders, 2011) - có thể sẽ truyền tải tới trẻ thông điệp về tình yêu
thương có điều kiện. Tạm ngưng được định nghĩa là việc tách trẻ khỏi những phẩn
thưởng bao gồm cả sự chú ý của cha mẹ trong một thời gian ngắn sau khi trẻ thực hiện
một hành vi không được cha mẹ mong muốn và chỉ được quay trở lại môi trường củng
cố tích cực khi hành vi không mong muốn (chẳng hạn như khóc lóc, gào thét, hay ăn
vạ) chấm dứt (Quetsch, Wallace, Herschell, & McNeil, 2015), do đó có thể là biểu hiện
của sự quan tâm có điều kiện. Việc xác định các hành vi của cha mẹ gây ra cảm nhận
về sự quan tâm có điều kiện sẽ đem lại nhiều kết quả có ý nghĩa thực tiễn trong bối cảnh
ngày càng có nhiều những kỹ thuật nuôi dạy con được giới thiệu cho các cha mẹ mà
không dựa trên các bằng chứng khoa học rõ ràng. Tuy nhiên, do phần lớn các nghiên
cứu trước đây về sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ đều dựa trên việc đo lường cảm
nhận chủ quan của con cái hay của cha mẹ nên câu hỏi về những hành vi điển hình này
vẫn chưa được làm rõ. Do đó, trong tương lai cần có thêm các nghiên cứu được thiết kế
theo cả hai kiểu định tính và định lượng để khám phá câu trả lời cho nghi vấn này, từ đó
làm cơ sở cho việc xây dựng một thang đo theo tiếp cận hành vi đối với sự quan tâm có
điều kiện trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
Như vậy, phần lớn các nghiên cứu trước đây đo lường sự quan tâm có điều kiện
của cha mẹ bằng thang đo tự báo cáo từ góc nhìn của con cái theo từng lĩnh vực cụ thể.
Hướng đo lường này có những ưu điểm nhưng cũng có những hạn chế nhất định cần
phải được khắc phục trong tương lai để tạo cơ sở cho những nghiên cứu sâu rộng hơn
về sự quan tâm có điều kiện. Những khắc phục đó có thể bao gồm đo lường không theo

11
lĩnh vực cụ thể; đo lường và so sánh kết quả giữa nhận thức của cha mẹ và của con cái
hay của người thứ ba; và đo lường thông qua hành vi nhằm phản ánh được đầy đủ và
khách quan mức độ của sự quan tâm có điều kiện mà cha mẹ dành cho con cái.
1.3. Tổng quan nghiên cứu về sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ
1.3.1. Hệ quả của sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ
Khi các hình thức trừng phạt thể xác đã được chứng minh là một tiếp cận nuôi
dạy con kém hiệu quả và sẽ để lại nhiều tổn thương tâm lý cho con cái (Gershoff, 2002),
một nhu cầu tất yếu ở các bậc cha mẹ là tìm kiếm và áp dụng được những hình thức giáo
dục thay thế hiệu quả hơn (Larzelere & Kuhn, 2005). Mặc dù vậy, có quan điểm cho
rằng các hình thức thay thế cho sự trừng phạt thể xác hiện nay như phớt lờ, cô lập, tạm
ngưng, rút lại tình yêu thương vẫn có thể tác động một cách tiêu cực tới tâm lý của con
cái bởi thực tế về bản chất những cách thức này vẫn dựa trên nguyên lý củng cố và trừng
phạt để kiểm soát hành vi của con cái (Kohn, 2006). Sự khác biệt duy nhất giữa những
hình thức này với trừng phạt thể xác đó là thay vì sử dụng đòn roi hay phần thưởng thì
cha mẹ sử dụng tình yêu thương để buộc con cái đáp ứng các yêu cầu của mình.
Đã có nhiều lý thuyết và quan điểm ủng hộ cho việc sử dụng sự quan tâm có điều
kiện của cha mẹ trong việc nuôi dạy con. Từ góc nhìn của trường phái hành vi (Gewirtz
& Peláez-Nogueras, 1991), sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ có thể đóng vai trò như
yếu tố củng cố và trừng phạt giúp thúc đẩy những hành vi được cha mẹ mong muốn ở
con cái và hạn chế những hành vi mà cha mẹ cho là không phù hợp. Chẳng hạn,
Aronfreed (1968) cho rằng, dựa trên sự phụ thuộc của con cái vào cha mẹ, sự quan tâm
có điều kiện được cha mẹ thể hiện thông qua việc phớt lờ hay cô lập con cái khi chúng
phạm lỗi có thể tạo ra trạng thái lo âu ở con cái mà qua đó giúp con cái tuân thủ theo
những yêu cầu của cha mẹ ngay cả khi cha mẹ không có mặt. Theo lý thuyết Tương tác
Biểu trưng (Mead, 1981), các cá nhân có xu hướng hành động phù hợp với cái nhìn về
bản thân được hình thành dựa trên đánh giá của những người xung quanh. Những đánh
giá của cha mẹ khi được con cái nội hóa có thể trở thành một phần trong cái nhìn về bản
thân của con cái và từ đó điều hướng hành vi của chúng. Do đó, sự quan tâm có điều
kiện là một cách thức để những giá trị của cha mẹ được con cái nội hóa và tuân theo,
giúp con cái hành xử phù hợp với yêu cầu của xã hội. Fromm (1956) trong khi công
nhận vai trò quan trọng của tình yêu thương vô điều kiện từ người mẹ đối với con cái
thì khẳng định rằng tình yêu thương có điều kiện của người cha dựa trên việc con cái có

12
đáp ứng được các kỳ vọng của người cha hay không là cần thiết để con cái có thể thích
ứng với đời sống xã hội.
Tuy nhiên, trải ngược với những quan điểm trên đây, lý thuyết Gắn bó (Bowlby,
1988) cho rằng khi cha mẹ không thể dành cho con cái sự quan tâm hay tình yêu thương
một cách nhất quán (khi tình yêu thương hay sự quan tâm thay đổi tùy thuộc vào việc
con cái có đáp ứng được các kỳ vọng của cha mẹ hay không), con cái có thể cảm thấy
bản thân không xứng đáng được chấp nhận và yêu thương, từ đó dẫn tới những rối loạn
trong các chức năng tâm lý xã hội. Miller và Ward (1981) cho rằng tình yêu thương có
điều kiện của cha mẹ sẽ buộc con cái phải chối bỏ cái tôi hay con người chân thật của
mình để đáp ứng các kỳ vọng của cha mẹ và do đó có khả năng mắc phải các rối nhiễu
tinh thần. Tương tự, lý thuyết Tự quyết và lý thuyết Nhân vị Trọng tâm cũng cho rằng
sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ về lâu dài sẽ để lại những hệ quả tiêu cực đối với
sự lành mạnh tâm lý của con cái (Rogers, 1959; Ryan & Deci, 2017)
Phóng nội các giá trị từ cha mẹ
Hai lý thuyết này đều cho rằng sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ sẽ đặt con
cái vào tình thế buộc phải tiếp nhận những giá trị, chuẩn mực, hay kỳ vọng của cha mẹ
để có thể tiếp tục nhận được sự quan tâm và chấp nhận. Đây là quá trình nội hóa có tính
chất phóng nội mà bản chất của nó là cá nhân tiếp thu những giá trị hay sự điều chỉnh
từ bên ngoài nhưng không thực sự chấp nhận hay đồng tình với chúng. Nghiên cứu của
Assor và c.s. (2004) chỉ ra rằng những sinh viên được cha mẹ thúc đẩy nỗ lực trong học
tập, thể thao, kiểm soát cảm xúc, và hành vi ủng hộ xã hội, cảm thấy có một sự thúc ép
bên trong phải thực hiện những hành vi mà cha mẹ mong muốn trong những lĩnh vực
này thay vì được tự chủ trong hành động của bản thân. Phân tích trong nghiên cứu của
Israeli-Halevi và c.s. (2015) cho thấy sự quan tâm có điều kiện của mẹ (theo kết quả tự
báo cáo của mẹ) có khả năng dự báo động lực phóng nội của con cái trong việc dồn nén
sự lo âu. Cụ thể, con cái cảm thấy cần phải che giấu sự lo âu của mình để có thể cảm
thấy tốt về bản thân hay để tránh sự hổ thẹn, tội lỗi. Kết quả tương tự cũng được tìm
thấy trong lĩnh vực tôn giáo (Assor, Cohen-Malayev, Kaplan, & Friedman, 2005;
Brambilla và c.s., 2015). Những sinh viên nhận được tình yêu thương của cha mẹ dựa
trên việc họ có tích cực thực hành tôn giáo hay không cho biết lý do phải thực hiện các
hoạt động này là để tránh cảm giác tội lỗi hay cảm thấy đây là điều bắt buộc thay vì thực
sự hiểu được ý nghĩa của việc thực hành tôn giáo. Khi xem xét cụ thể hai cách quan tâm

13
có điều kiện của cha mẹ, nghiên cứu của Roth và c.s. (2009) tiến hành trên khách thể là
học sinh Israel cho thấy sự quan tâm tích cực có điều kiện của cha mẹ là biến số có khả
năng dự báo độc lập đối với sự nội hóa có tính chất phóng nội kỳ vọng của cha mẹ về
việc dồn nén các cảm xúc tiêu cực và nỗ lực học tập ở con cái. Trong khi đó, nghiên cứu
của Lee và Jang (2015) với nhóm khách thể là sinh viên Hàn Quốc lại cho thấy sự quan
tâm tiêu cực có điều kiện có khả năng dự báo lớn hơn đối với động lực học tập bị kiểm
soát. Như vậy việc cha mẹ tỏ ra quan tâm và yêu thương con cái nhiều hơn hay ít hơn
khi con cái đạt được hay không đạt được những kỳ vọng mà cha mẹ mong muốn là yếu
tố thúc đẩy quá trình nội hóa và tạo ra thôi thúc thực hiện hành vi được mong muốn ở
con cái.
Như đã trình bày, những người ủng hộ cho việc sử dụng sự quan tâm có điều kiện
của cha mẹ trong việc nuôi dạy con cái cho rằng cách thức nuôi dạy con này sẽ củng cố
những hành vi được kỳ vọng và hạn chế những hành vi không được kỳ vọng ở con cái.
Trên thực tế, kết quả nghiên cứu của Assor và c.s. (2004) cho thấy sự quan tâm có điều
kiện mà cha mẹ dành cho con cái càng lớn thì tần suất thực hiện các hành vi được kỳ
vọng càng cao. Tuy nhiên, các tác giả này cũng nhấn mạnh rằng, sự tuân thủ trong hành
vi của con cái mà chúng ta có thể quan sát được từ bên ngoài không thể đảm bảo rằng
sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ là một cách thức nuôi dạy con hiệu quả. Khả năng
kiểm soát hành vi của sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ có thể phải trả giá bằng
những hệ quả tiêu cực lâu dài đối với cảm xúc, nhận thức, và hành vi của con cái cũng
như đối với các mối quan hệ liên cá nhân của chúng.
Hành động rập khuôn, cứng nhắc
Trước hết, những hành vi được con cái thực hiện do sự tác động của sự quan tâm
có điều kiện thường có tính rập khuôn, cứng nhắc, thiếu linh hoạt, thiếu sáng tạo (Assor
và c.s., 2014). Nghiên cứu chỉ ra rằng sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ có thể thúc
đẩy những hành vi ủng hộ xã hội của con cái (Roth, 2008). Tuy nhiên, trong khi cách
nuôi dạy con ủng hộ tính tự chủ giúp cho con cái hiểu được ý nghĩa của những hành vi
đó và thực hiện dựa trên sự tự do lựa chọn của bản thân, thì sự quan tâm có điều kiện
của cha mẹ lại tạo ra cảm giác bị thúc ép phải thực hiện hành vi ủng hộ xã hội ở con cái.
Hơn thế nữa, trong khi hành vi ủng hộ xã hội ở những sinh viên nhận được sự ủng hộ
tính tự chủ có tính vị tha hay vì lợi ích của người khác (mà cụ thể là tập trung vào nhu
cầu và mong muốn của người khác) thì hành vi ủng hộ xã hội ở những sinh viên nhận

14
được sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ lại có tính chất vị kỷ hay vì lợi ích của bản
thân (mà cụ thể là để bảo vệ cái tôi thông qua việc nhận được sự công nhận hay chấp
nhận từ người khác).
Nghiên cứu của Roth và c.s. ( 2009) trên nhóm khách thể là học sinh cấp hai cho
thấy sự quan tâm tích cực có điều kiện của cha mẹ dựa trên thành tích học tập của con
cái tạo ra sự thôi thúc phải nỗ lực học tập ở con cái. Mặc dù vậy, sự nỗ lực này, theo
như đánh giá của giáo viên, là thường tập trung vào điểm số thay vì thực sự yêu thích
việc học tập. Trong khi những học sinh nhận được sự ủng hộ tính tự chủ từ cha mẹ sẵn
lòng dành thì giờ để khám phá các kiến thức mới thì những học sinh được thúc đẩy học
tập bởi sự quan tâm có điều kiện lại thường chỉ tập trung vào những kiến thức sẽ có
trong bài kiểm tra. Những học sinh này cũng sẵn sàng tranh cãi với thầy cô giáo nếu như
đạt được điểm số không như mong muốn. Nghiên cứu của Assor & Tal (2012) chỉ ra
rằng sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ, dù tích cực hay tiêu cực, dựa trên thành tích
học tập của con cái, đều dẫn tới việc con cái đầu tư quá mức vào việc học tập. Những
học sinh lớp 10 và lớp 11 này tự nhận thấy bản thân dành nhiều thời gian và công sức
cho việc học tập thậm chí đến mức từ bỏ những hoạt động mà bản thân mình yêu thích.
Kiểm soát hay dồn nén được các cảm xúc tiêu cực (như buồn bã, lo âu, hay tức
giận) thường là một trong những điều mà cha mẹ mong muốn ở con cái và do đó cha
mẹ cũng thường sử dụng sự quan tâm có điều kiện để thúc đẩy sự điều chỉnh cảm xúc
này. Nghiên cứu cũng cho thấy những học sinh có cha mẹ sử dụng sự quan tâm có điều
kiện dựa trên việc con cái dồn nén được các cảm xúc tiêu cực thì có xu hướng dồn nén
cảm xúc và bị rối loạn cảm xúc (Roth và c.s., 2009). Cụ thể hơn, sự quan tâm tích cực
có điều kiện tạo ra sự thúc ép bên trong buộc con cái phải dồn nén các cảm xúc tiêu cực,
từ đó dẫn tới sự dồn nén cảm xúc tiêu cực cũng như sự rối loạn cảm xúc. Trong khi đó,
việc cha mẹ rút lại sự quan tâm, chấp nhận, hay tình yêu thương khi con cái không dồn
nén được các cảm xúc tiêu cực lại dẫn tới sự oán giận đối với cha mẹ và từ đó cũng dẫn
tới sự rối loạn cảm xúc. Về lâu dài, sự dồn nén các cảm xúc ở con cái do tác động của
sự quan tâm có điều kiện từ cha mẹ cũng sẽ gây ảnh hưởng đến năng lực cảm xúc của
con cái và từ đó tác động đến những chức năng sống khác. Nghiên cứu của Smiley và
c.s. (2016) chỉ ra rằng khi cảm thấy giận dữ trước thất bại trong một bài kiểm tra nhận
thức, những trẻ nhận được sự quan tâm tích cực có điều kiện của cha mẹ dựa trên việc
dồn nén được cảm xúc giận dữ thì cho thấy có sự sụt giảm trong hiệu quả thực hiện đối

15
với bài kiểm tra. Lý do có thể là bởi vì nếu tiếp tục cố gắng thực hiện bài kiểm tra, hay
nói cách khác là tiếp tục đối mặt với sự thất bại, những trẻ trong nhóm thứ nhất sẽ tự đặt
mình ở vào tình thế phải chịu đựng sự tức giận mà không thể giải tỏa được. Trong khi
đó, những trẻ được xã hội hóa theo hướng có thể biểu lộ sự tức giận một cách hợp lý lại
cho thấy có sự tăng cường trong hiệu quả thực hiện khi ở vào tình huống tương tự.
Nghiên cứu của Roth và Assor (2010) cho thấy sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ
dựa trên việc con cái dồn nén được cảm xúc buồn bã có thể làm suy giảm khả năng của
con cái trong việc nhận diện được cảm xúc buồn bã ở bản thân mình cũng như ở người
khác và khả năng đưa ra những phản hồi thấu cảm với sự buồn bã của người khác. Bên
cạnh đó, con cái của những cha mẹ này cũng tỏ ra khó khăn để có thể bộc lộ bản thân
và trở nên thân thiết trong các mối quan hệ (Roth & Assor, 2012). Sự suy giảm trong
khả năng nhận thức và kết nối về cảm xúc của con cái do tác động của sự quan tâm có
điều kiện có thể được lý giải thông qua cơ chế ảnh hưởng của cách thức nuôi dạy con
này đối với mạng lưới thần kinh phụ trách chức năng thấu cảm (Riem và c.s., 2013).
Thực nghiệm chỉ ra rằng trải nghiệm thường xuyên về sự rút lại tình yêu thương của mẹ
có thể cản trở tác động của oxytocin đối với khả năng thấu cảm ở con cái, và do đó hạn
chế việc thực hiện các hành vi ủng hộ xã hội. Tóm lại, sự quan tâm có điều kiện của cha
mẹ tuy có thể thúc đẩy những hành vi được kỳ vọng nhưng lại khiến cho những hành vi
đó trở nên rập khuôn, cứng nhắc, và có thể dẫn tới sự suy giảm trong chức năng tâm lý
xã hội cũng như xung đột tâm lý ở con cái.
Lòng tự trọng có điều kiện
Theo lý thuyết Nhân vị Trọng tâm, mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều kiện của
cha mẹ với những hành vi mang tính chất rập khuôn, cứng nhắc có thể được lý giải
thông qua khái niệm điều kiện có giá trị (Rogers, 1959). Điều kiện có giá trị đối với một
người là những tiêu chí mà người đó cần phải đáp ứng để có thể nhận được sự nhìn nhận
tích cực từ bản thân hay từ những người xung quanh. Theo đó, những giá trị, kỳ vọng,
hay mong muốn mà cha mẹ dành cho con cái đã được phóng nội thông qua sự quan tâm
có điều kiện của cha mẹ sẽ dần dần trở thành những điều kiện có giá trị của con cái. Lúc
này, con cái trở thành người quan trọng đối với chính bản thân mình và tự đánh giá bản
thân là có giá trị, xứng đáng được yêu thương hay vô giá trị, không xứng đáng được yêu
thương dựa trên những kỳ vọng đã được phóng nội. Nói cách khác, con cái dần dần học
được rằng bản thân chỉ có giá trị khi nào đáp ứng được những tiêu chí nhất định mà cha

16
mẹ đã đặt ra. Chẳng hạn, con cái chỉ có thể cảm thấy bản thân có giá trị chừng nào còn
duy trì được thành tích trong học tập hoặc thể thao, hay sự dồn nén các cảm xúc tiêu
cực. Cảm nhận này có thể thúc đẩy các cá nhân phải liên tục nỗ lực để duy trì hay đạt
được các thành tựu. Các nghiên cứu hiện nay sử dụng khái niệm lòng tự trọng có điều
kiện (Crocker & Wolfe, 2001; Michael H Kernis, 2003) để chỉ tình trạng trong đó cá
nhân đặt giá trị bản thân của mình phụ thuộc vào những điều kiện nhất định. Lòng tự
trọng có điều kiện có mối liên hệ với nhiều hệ quả tiêu cực về tâm lý như trầm cảm, lo
âu, rối loạn ăn uống, ý định tự sát, ứng phó thiếu thích ứng, hay nghiện rượu (Bos,
Huijding, Muris, Vogel, & Biesheuvel, 2010; Lakey, Hirsch, Nelson, & Nsamenang,
2014; Tomaka, Morales-Monks, & Shamaley, 2013; Wouters và c.s., 2013).
Một số nghiên cứu trước đây cũng đã chỉ ra mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều
kiện của cha mẹ và lòng tự trọng có điều kiện của con cái cùng với tác động của mối
liên hệ này đến đời sống tâm lý của con cái (Curran, 2018; Grundman, 2010; Kollat,
2007; Wouters, Colpin, và c.s., 2018). Kết quả phân tích mô hình phương trình cấu trúc
trong nghiên cứu của Curran (2018) cho thấy sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ làm
tăng lòng tự trọng có điều kiện của con cái và qua đó làm tăng nỗ lực cầu toàn và bận
tâm cầu toàn. Kết quả này phần nào giải thích cho mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều
kiện của cha mẹ và tính cầu toàn tự chỉ trích và tính cầu toàn ái kỷ được tìm ra trong
nghiên cứu trước đó (Curran và c.s., 2017). Theo tác giả này, việc luôn luôn cố gắng đặt
ra và vươn tới những tiêu chuẩn cao cùng với mối bận tâm về việc mắc phải các sai lầm
hay thất bại là một cách thức để những vận động viên ở tuổi vị thành niên tránh gặp phải
các tổn thương tâm lý do không nhận được tình yêu thương hay cảm giác bản thân là vô
giá trị (Curran, 2018; Hewitt, Flett, & Mikail, 2017). Nghiên cứu của Kollat (2007) còn
cho thấy ảnh hưởng của sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ đến mối quan hệ bạn bè
đồng trang lứa của con cái thông qua lòng tự trọng có điều kiện. Theo đó, sự quan tâm
có điều kiện của cha mẹ làm gia tăng lòng tự trọng có điều kiện và từ đó dẫn tới sự đầu
tư quá mức của con cái trong mối quan hệ bàn bè được biểu hiện thông qua sự gây hấn,
ganh tị, hành vi ủng hộ xã hội, hay sự chấp nhận. Những biểu hiện này là cách để con
cái có thể duy trì được mối quan hệ bạn bè được coi là điều kiện có giá trị của bản thân.
Sự lành mạnh về tâm lý
Không chỉ dẫn tới những hành vi mang tính chất rập khuôn, thiếu thích ứng, lòng
tự trọng được hình thành bởi sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ còn có thể gây ra

17
những rối nhiễu tinh thần, làm suy giảm sự lành mạnh về tâm lý. Kết quả nghiên cứu
của Wouters và c.s. (2018) cho thấy sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ làm tăng lòng
tự trọng có điều kiện và từ đó làm gia tăng các triệu chứng lo âu ở con cái. Đáng chú ý,
trong nghiên cứu này, lòng tự trọng có điều kiện không có khả năng dự báo các triệu
chứng trầm cảm mà thay vào đó, mức độ của lòng tự trọng lại có khả năng dự báo được
cả các triệu chứng lo âu và trầm cảm ở con cái. Nguyên nhân có thể là vì lòng tự trọng
có điều kiện sẽ đặt cá nhân vào tình trạng luôn luôn lo lắng về khả năng bản thân không
duy trì được các điều kiện có giá trị đề rồi đánh mất sự quan tâm, chấp nhận, hay yêu
thương từ cha mẹ hoặc những người xung quanh. Khi không thể duy trì được những giá
trị này, cá nhân phải đối mặt với các triệu chứng trầm cảm do sự sụt giảm lòng tự trọng.
Nói cách khác, lòng tự trọng có điều kiện xuất phát từ sự quan tâm có điều kiện của cha
mẹ sẽ đặt cá nhân vào tình trạng dễ bị tổn thương (Rogers, 1959). Thực nghiệm của
Baldwin và Sinclair (1996) cho thấy, so với những sinh viên được yêu cầu nghĩ về một
người chấp nhận họ một cách vô điều kiện, những sinh viên nghĩ tới một người chỉ chấp
nhận họ trong những điều kiện nhất định có xu hướng liên hệ sự thất bại với sự chối bỏ
và sự thành công với sự chấp nhận. Tương tự, trong thực nghiệm của Brummelman và
c.s. (2014), những học sinh được yêu cầu tưởng tượng về một tình huống mà bản thân
nhận được sự quan tâm có điều kiện (so với những học sinh tưởng tượng về sự quan tâm
vô điều kiện) có nhiều cảm xúc tiêu cực hơn khi gặp phải thất bại. Nghiên cứu của Assor
và c.s. (2004) cho thấy có mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ với sự
hài lòng ngắn hạn sau thành công và cảm giác hổ thẹn hay xấu hổ khi thất bại, từ đó dẫn
tới sự đầu tư quá mức hay là sự né tránh các thử thách. Tương tự, phân tích cho thấy sự
quan tâm có điều kiện dẫn tới sự tự mãn sau thành công và sự tự xúc phạm sau thất bại
(Assor & Tal, 2012). Những kết quả này đã phản ánh tác động của sự quan tâm có điều
kiện của cha mẹ đối với sự lành mạnh tâm lý của con cái thông qua lòng tự trọng có
điều kiện hay là sự dao động trong lòng tự trọng của con cái (Assor và c.s., 2014).
Các mối quan hệ liên cá nhân
Các mối quan hệ liên cá nhân của con cái cũng chịu ảnh hưởng của sự quan tâm
có điều kiện mà trước hết là mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Nghiên cứu của Assor
và c.s. (2004) cho thấy sinh viên liên hệ sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ với sự
không chấp nhận của cha mẹ và do đó dẫn tới sự oán giận đối với cha mẹ. Cụ thể hơn,
nghiên cứu của Roth và c.s. (2009) cho thấy sự quan tâm tiêu cực của cha mẹ là biến số

18
có khả năng dự báo độc lập đối với sự oán giận đối với cha mẹ. Do đó, có thể thấy việc
cha mẹ rút lại tình yêu thương hay sự quan tâm khi con cái không đáp ứng được các kỳ
vọng của cha mẹ tất yếu sẽ dẫn tới cảm nhận không được chấp nhận và do đó hình thành
thái độ oán giận cha mẹ ở con cái. Bên cạnh đó, sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ
cũng khiến cho con cái cảm thấy không hài lòng với mối quan hệ giữa bản thân và cha
mẹ, đồng thời cảm thấy xa cách (Kanat-Maymon và c.s., 2016). Con cái càng trải nghiệm
sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ càng cảm thấy ít được ủng hộ, khó có thể tin tưởng
vào cha mẹ, và thường có những xung đột với cha mẹ (Øverup, Brunson, Steers, &
Acitelli, 2017). Hệ quả là con cái có thể thường xuyên cảm thấy bản thân không xứng
đáng với tình yêu thương của cha mẹ. Những cảm nhận như vậy có thể đã dẫn tới chất
lượng mối quan hệ thấp giữa cha mẹ và con cái (Saeed & Hanif, 2014). Bên cạnh đó, sự
quan tâm có điều kiện của cha mẹ còn có thể gây ảnh hưởng tới những mối quan hệ liên
cá nhân khác của con cái. Dựa trên lý thuyết Gắn bó (Bowlby, 1988), nghiên cứu của
Moller, Roth, Niemiec, Kanat-Maymon, và Deci (2019) đã cho thấy sự gắn bó thiếu an
toàn giữa cha mẹ và con cái xuất phát từ sự quan tâm có điều kiện có thể được lặp lại
trong những mối quan hệ liên cá nhân của con cái khi đã trưởng thành. Trong những
mối quan hệ này, các cá nhân nhận được sự quan tâm có điều kiện của đồng sự và do đó
thường cảm thấy không được thỏa mãn các nhu cầu tâm lý cơ bản, từ đó dẫn tới tình
trạng gắn bó thiếu an toàn.
1.3.2. Khác biệt trong ảnh hưởng của sự quan tâm có điều kiện của cha và của mẹ
Ngoài một số các nghiên cứu đo lường chung sự quan tâm có điều kiện của cha
mẹ (Curran, 2018; Itzhaki, Yablon, & Itzhaky, 2018; Kollat, 2007) hoặc chỉ của riêng
mẹ (Assor & Tal, 2012; Israeli-Halevi và c.s., 2015; Wouters, Colpin, và c.s., 2018),
nhiều nghiên cứu cũng đo lường tách biệt giữa sự quan tâm có điều kiện của cha và của
mẹ, và do đó phản ánh được phần nào sự tương đồng và khác biệt trong ảnh hưởng của
sự quan tâm có điều kiện của cha và của mẹ đối với tâm lý của con cái.
Trong khi nghiên cứu của Kanat-Maymon và c.s. (2016), và Roth và Assor
(2012) cho thấy có tương quan trung bình giữa sự quan tâm có điều kiện của cha và sự
quan tâm có điều kiện của mẹ, và nghiên cứu của Roth và Assor (2010) cho thấy giữa
sự quan tâm tiêu cực của cha và của mẹ, giữa sự quan tâm tích cực của cha và của mẹ,
có tương quan ở mức độ trung bình, thì trong những nghiên cứu còn lại có báo cáo về
hệ số tương quan giữa sự quan tâm có điều kiện (hoặc sự quan tâm tích cực và tiêu cực

19
có điều kiện) của cha và của mẹ cho thấy có sự biến thiên thuận chiều ở mức độ mạnh
về mức độ sử dụng các phương pháp nuôi dạy con này ở cha và mẹ (Assor và c.s., 2005,
2004; Curran và c.s., 2017; Moller và c.s., 2019; Øverup và c.s., 2017; Roth, 2008; Roth
và c.s., 2009). Các hệ số tương quan thường nằm trong khoảng từ .60 đến .70, thậm chí
trong nghiên của mình, Brambilla và c.s. (2015) đã tính tổng điểm số của sự quan tâm
có điều kiện của cha và của mẹ do hai biến số này có tương quan chặt chẽ với nhau. Các
nghiên cứu này cho thấy sự quan tâm có điều kiện của cha và của mẹ đều có mối liên
hệ nghịch chiều với sự thỏa mãn các nhu cầu tâm lý cơ bản và sự gắn kết trong mối quan
hệ với đồng sự (Moller và c.s., 2019); đều có liên hệ thuận chiều với sự hài lòng trong
mối quan hệ với cha mẹ và cảm giác gần gũi (Kanat-Maymon và c.s., 2016); đều làm
giảm cảm giác ủng hộ, tin tưởng, tự do, làm tăng cảm giác bị bỏ mặc, xung đột, và từ
đó làm tăng hay giảm cảm giác bản thân xứng đáng với tình yêu ở con cái (Øverup và
c.s., 2017); đều làm tăng sự nội hóa có tính phóng nội và qua đó làm tăng mức độ thực
hiện hành vi ủng hộ xã hội định hướng cái tôi (Roth, 2008).
Mối tương quan chặt chẽ này có thể đã phản ánh sự tương đồng trong phong cách
hay quan điểm nuôi dạy con của cha mẹ cũng như trong ảnh hưởng của chúng đối với
con cái. Tuy nhiên, các kết quả đó cũng có thể là hệ quả của phương pháp nghiên cứu
bằng bảng hỏi tự báo cáo. Bằng chứng là trong các nghiên cứu không tính gộp sự quan
tâm có điều kiện (hay tích cực và tiêu cực có điều kiện) của cha và mẹ, và tương quan
giữa các biến số này của cha và của mẹ không có mức độ quá lớn thì kết quả phân tích
vẫn cho thấy những điểm khác biệt trong ảnh hưởng của sự quan tâm có điều kiện (hay
tích cực và tiêu cực có điều kiện) của cha và của mẹ đối với con cái. Chẳng hạn nghiên
cứu của Roth và Assor (2012) cho thấy ảnh hưởng của sự quan tâm có điều kiện của mẹ
dựa trên sự bộc lộ cảm xúc tiêu cực gây ra sự rối loạn cảm xúc nhiều hơn so với ảnh
hưởng của thái độ từ cha. Hay nghiên cứu của Kanat-Maymon và c.s. (2016) cho thấy
dù tương quan giữ sự quan tâm có điều kiện của cha và mẹ ở mức độ trung bình, vẫn có
sự khác biệt trong ảnh hưởng của hai thái độ này đối với sự hài lòng trong mối quan hệ
và cảm giác gần gũi.
Mặc dù vậy, vẫn có những kết quả phản ánh chiều hướng ngược lại. Chẳng hạn
như trong nghiên cứu của Roth và Assor (2010), giữa sự quan tâm tiêu cực (và cả tích
cực) có điều kiện của cha và của mẹ đối với sự dồn nén cảm xúc buồn bã ở con cái có
tương quan ở mức độ trung bình nhưng không ghi nhận sự khác biệt trong ảnh hưởng

20
của hai thái độ từ cha và mẹ này đối với tâm lý của con cái. Hay trong nghiên cứu của
Roth và c.s. (2009), mặc dù tương quan giữa sự quan tâm tích cực (cũng như tiêu cực)
có điều kiện của cha và của mẹ đối với sự dồn nén cảm xúc ở mức độ mạnh, vẫn tìm
thấy tác động khác biệt. Trong nghiên cứu này, sự quan tâm tích cực có điều kiện của
cha làm tăng sự thôi thúc bên trong và qua đó làm tăng sự dồn nén cảm xúc tức giận ở
con cái. Và những ảnh hưởng này là lớn hơn so với ảnh hưởng của sự quan tâm tích cực
có điều kiện của mẹ. Trong khi đó, sự quan tâm tiêu cực có điều kiện của mẹ dựa trên
sự dồn nén cảm xúc tức giận (tương tự với lĩnh vực dồn nén cảm xúc sợ hãi, và kết quả
học tập) có ảnh hưởng đối với sự oán giận cha mẹ lớn hơn so với sự quan tâm tiêu cực
có điều kiện của cha.
Một số nghiên cứu khác, không báo cáo về tương quan giữa sự quan tâm có điều
kiện (hay sự quan tâm tích cực và tiêu cực có điều kiện) của cha và của mẹ, cho thấy có
sự khác biệt nhất định trong ảnh hưởng đối với tâm lý của con cái của thái độ này đến
từ cha và mẹ. Chẳng hạn nghiên cứu Grundman (2010) cho thấy sự quan tâm tích cực
(và cả tiêu cực) có điều kiện của cha và của mẹ có mối liên hệ tương tự với các loại
động lực đối với việc giao tiếp với cha mẹ, động lực đối với việc học tập, cách hình
thành bản sắc, lòng tự trọng có điều kiện dựa trên sự ủng hộ của gia đình và dựa trên kết
quả học tập. Tuy nhiên, sự quan tâm tích cực có điều kiện của cha có tương quan thuận
chiều với động lực nội tại đối với việc giao tiếp với cha mẹ, và đối với thiếu động lực
học tập trong khi không có tương quan giữa sự quan tâm tích cực có điều kiện của mẹ
với hai biến số này. Hoặc nghiên cứu của Saeed và Hanif (2014) cho thấy sự khác biệt
trong khả năng dự báo chất lượng mối quan hệ giữa cha/mẹ với con cái của sự quan tâm
có điều kiện của cha và của mẹ. Cụ thể, trong việc dự báo chất lượng mối quan hệ giữa
mẹ và con, sự quan tâm có điều kiện của mẹ dựa trên thể thao, học tập làm giảm chất
lượng mối quan hệ, và sự quan tâm có điều kiện của mẹ dựa trên việc kiểm soát cảm
xúc thì làm tăng chất lượng mối quan hệ, trong khi thái độ này khi dựa trên hành vi ủng
hộ xã hội thì không có tác động. Trong việc dự báo chất lượng mối quan hệ giữa cha và
con, chỉ có sự quan tâm có điều kiện của cha dựa trên học tập sẽ làm giảm chất lượng
mối quan hệ còn thái độ này dựa trên những lĩnh vực khác thì không có tác động.
Như vậy có thể thấy mặc dù nhìn chung sự quan tâm có điều kiện của cha và của
mẹ có sự tương đồng trong ảnh hưởng đối với tâm lý của con cái nhưng vẫn tồn tại
những điểm khác biệt và sự tương đồng này không phải xuất phát vì cách thức đo lường

21
(tương quan của các thái độ này giữa cha và mẹ là mạnh nhưng vẫn có điểm khác biệt
hoặc tương quan giữa các thái độ này giữa cha và mẹ là trung bình nhưng không có điểm
khác biệt). Những kết quả thiếu nhất quán này đặt ra câu hỏi về sự tương đồng và khác
biệt trong ảnh hưởng của sự quan tâm có điều kiện của cha và của mẹ đối với con cái.
Fromm (1956) cho rằng tình yêu thương của mẹ cần phải vô điều kiện còn tình yêu
thương của cha cần phải có điều kiện. Tình yêu thương vô điều kiện của mẹ đem lại sự
an toàn cho con còn tình yêu thương có điều kiện của cha thì thúc đẩy con trưởng thành.
Để có thể kiểm chứng giả thuyết này cần phải có thêm các nghiên cứu tập trung vào mối
liên hệ giữa sự quan tâm có điều kiện của mẹ với của cha trong khả năng ảnh hưởng tới
đời sống tâm lý của con cái. Các nghiên cứu trước đây được thiết kế theo kiểu tương
quan không thể phản ánh được được những cách kết hợp giữa các kiểu quan tâm có điều
kiện của cha mẹ mà chỉ có thể xem xét tác động của sự quan tâm có điều kiện (hay tích
cực và tiêu cực có điều kiện) của cha và của mẹ một cách độc lập.
1.3.3. Tiền đề của sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ
Tuy phần lớn các nghiên cứu trước đây đều tập trung vào hệ quả của sự quan tâm
có điều kiện, một số nghiên cứu cũng đã chỉ ra tiền đề của sự quan tâm có điều kiện của
cha mẹ. Chẳng hạn nghiên cứu của Assor và c.s. (2004) đã tìm ra mối liên hệ giữa sự
quan tâm có điều kiện của ông bà và sự quan tâm có điều kiện của mẹ. Kết quả này gợi
ý rằng sự quan tâm có điều kiện có thể được truyền lại xuyên thế hệ. Cơ chế của quá
trình này có thể dựa trên việc sự quan tâm có điều kiện của ông bà làm hình thành nên
lòng tự trọng có điều kiện của mẹ và từ đó dẫn tới sự quan tâm có điều kiện của mẹ đối
với con cái. Nghiên cứu của Israeli-Halevi và c.s. (2015) cho thấy lòng tự trọng có điều
kiện của mẹ có khả năng dự báo sự quan tâm có điều kiện của mẹ được đo lường từ cả
góc nhìn của con và góc nhìn của mẹ. Nghiên cứu của Assor và c.s. (2004) cũng cho
thấy có mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều kiện của ông bà và thái độ kiểm soát trong
nuôi dạy con của mẹ. Như vậy, sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ có thể hình thành
quan điểm nuôi dạy con có tính kiểm soát. Ngoài ra, một số tác giả cũng cho rằng sự
quan tâm có điều kiện có thể được hình thành dựa trên cơ sở học tập qua quan sát hoặc
do cha mẹ nhìn nhận xã hội theo hướng cạnh tranh và do đó muốn thúc đẩy con cái đạt
được các thành tựu thông qua sự quan tâm có điều kiện (Assor và c.s., 2014).
Nghiên cứu của Moon (2017) đã tìm hiểu vai trò trung gian của sự quan tâm có
điều kiện của cha mẹ trong mối quan hệ giữa khả năng tự kiểm soát bản thân và tình

22
trạng kiệt sức trong học tập ở con cái. Theo đó, những học sinh có khả năng tự kiểm
soát bản thân trong học tập thấp thì càng có nhiều trải nghiệm về sự quan tâm có điều
kiện của cha mẹ và do đó cũng đẫn tới sự kiệt sức trong học tập. Như vậy, một trong
những khả năng dẫn tới việc cha mẹ sử dụng sự quan tâm có điều kiện đối với con cái
là do con cái có những đặc điểm tâm lý hạn chế trong việc kiểm soát hành vi của bản
thân. Một nghiên cứu khác cũng cho thấy khí chất của trẻ sơ sinh cũng có ảnh hưởng
điều phối giữa ý định sử dụng sự quan tâm có điều kiện và việc sử dụng thật sự của cha
mẹ. Một số kết quả trên đây gợi ý khả năng can thiệp nhằm hạn chế sự quan tâm có điều
kiện của cha mẹ đối với con cái. Chẳng hạn như thay đổi thái độ đối với việc nuôi dạy
con, hạn chế lòng tự trọng có điều kiện của cha mẹ, hay tìm ra những cách ứng phó thích
hợp với đặc điểm khí chất của con cái.
Mặc dù vậy, nhìn chung, chưa có nhiều nghiên cứu tìm hiểu về các yếu tố về tâm
lý xã hội ảnh hưởng tới sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ. Trong khi đó, mối quan
hệ giữa cha mẹ và con cái luôn luôn chịu sự chi phối của bối cảnh văn hóa xã hội. Chẳng
hạn, sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ dành cho con trai và con gái có thể khác biệt
do định kiến về giới. Giữa cha mẹ ở khu vực thành thị và khu vực nông thôn cũng có
thể có sức khác biệt trong việc sử dụng sự quan tâm có điều kiện để thúc đẩy con cái đạt
được các kỳ vọng. Áp lực của đời sống đô thị có thể khiến cho cha mẹ có nhiều kỳ vọng
vào con cái hơn và do đó làm gia tăng khả năng cha mẹ sử dụng sự quan tâm có điều
kiện. Nghiên cứu cho thấy những cha mẹ nhìn nhận xã hội là có tính cạnh tranh cao thì
càng có xu hướng sử dụng sự quan tâm có điều kiện đối với con cái (Assor và c.s., 2014).
Bên cạnh đó, trình độ học vấn của cha mẹ cũng là một yếu tố có thể tác động đến sự
quan tâm có điều kiện của cha mẹ. Cha mẹ có trình độ học vấn cao hơn có thể có xu
hướng nuôi dạy con theo phong cách dân chủ hơn thay vì kiểm soát hay độc đoán, và
do đó ít có khả năng sử dụng sự quan tâm có điều kiện hơn. Ngoài ra, khoảng cách thế
hệ giữa cha mẹ và con cái cũng có thể là nguyên nhân dẫn tới sự quan tâm có điều kiện
của cha mẹ. Những cha mẹ thế hệ trước đây có thể có tính áp đặt nhiều hơn so với những
cha mẹ thế hệ gần đây và khoảng cách tuổi tác giữa cha mẹ và con cái có thể là rào cản
(Shapiro, 2004) để cha mẹ có thể nuôi dạy con theo hướng ủng hộ sự tự chủ trong đó
đòi hỏi phải có khả năng lắng nghe và thấu hiểu các cảm nhận của con thay vì áp đặt.
Các nghiên cứu trước đây về sự quan tâm có điều kiện đã cho thấy mặc dù sự
quan tâm có điều kiện có thể thúc đẩy những hành vi mà cha mẹ kỳ vọng ở con cái

23
nhưng nó cũng gây ra những tác động không mong muốn đối với tâm lý của con cái. Sự
quan tâm có điều kiện của cha mẹ dẫn tới sự nội hóa các kỳ vọng của cha mẹ ở con cái,
từ đó hình thành nên lòng tự trọng có điều kiện, và kéo theo sau là nỗ lực rập khuôn,
cứng nhắc để duy trì những điều kiện có giá trị và tình trạng bấp bênh của lòng tự trọng
cũng như cảm xúc khi đối mặt với thành công hay thất bại trong những nỗ lực duy trì
đó. Hạn chế của các nghiên cứu trước đây đó là phần lớn nghiên cứu được thiết kế theo
kiểu tương quan nên không thể khẳng định được mối quan hệ nhân quả; các nghiên cứu
chủ yếu dựa vào kết quả đo lường thu được từ thang đo tự báo cáo của con cái do đó có
thể chịu tác động của những biến số khác chẳng hạn như thành kiến hay trạng thái cảm
xúc; phần lớn các nghiên cứu được tiến hành với mẫu khách thể phương Tây với nền
văn hóa đề cao tính cá nhân, do đó đặt ra câu hỏi về khả năng thu được kết quả tương tự
ở các nước phương Đông với nền văn hóa đề cao tính cộng đồng.
1.4. Lo âu và trầm cảm
Lo âu là một trạng thái cảm xúc đối với những mối đe dọa trong tương lai được
đặc trưng bởi cảm giác e ngại, lo lắng, thiếu kiểm soát đối với các phản ứng xúc cảm
của bản thân và cũng thường đi kèm với những cảm nhận như hổ thẹn, tội lỗi, hưng
phấn, tức giận, hay buồn chán. Bên cạnh đó, lo âu cũng thường xuất hiện cùng với sợ
hãi và được biểu hiện ra với các triệu chứng cơ thể như căng cơ, khô miệng, tim đập
nhanh, run rẩy, chóng mặt, và khó thở (Weiner & Craighead, 2010). Khi trạng thái lo âu
kéo dài và cản trở đối với các chức năng sống khác của cá nhân thì nó có thể trở thành
rối loạn lo âu. Theo Hướng dẫn Chẩn đoán và Thống kê về Các Rối nhiễu Tinh thần
(Diagnostic and Stastical Manual of Mental Disorders, Fifth Edition - DSM-V;
American Psychiatric Association, 2013), mặc dù có nhiều loại rối loạn lo âu khác nhau
tùy theo đối tượng hay tình huống của sự sợ hãi, lo âu, và hành vi né tránh cùng với
những suy nghĩ có liên quan, các rối loạn này thường được đặc trưng bởi sự sợ hại quá
mức và những rối loạn trong hành vi có liên quan tới sự lo âu.
Thang đo Rối loạn Lo âu Lan tỏa 7 item là một trong những công cụ thường được
sử dụng trong sàng lọc và chẩn đoán các rối loạn lo âu (Kurt Kroenke, Spitzer, Williams,
Monahan, & Löwe, 2007) với các triệu chứng điển hình như lo lắng, lo âu quá mức,
không thể kiểm soát sự lo lắng, bồn chồn, rối loạn giấc ngủ, dễ cáu giận.
Trầm cảm là một trạng thái được đặc trưng bởi sự buồn chán, thiếu năng lượng,
cảm giác tội lỗi và giá trị bản thân thấp (Comer, 2016). Trong tâm lý học lâm sàn, khái

24
niệm trầm cảm thường được sử dụng để chỉ pha trầm cảm chủ yếu trong các rối nhiễu
khí sắc, trong đó có rối loạn trầm cảm chủ yếu và rối loạn lưỡng cực (Weiner &
Craighead, 2010). Theo DSM-V, tiêu chuẩn để chẩn đoán một cá nhân mắc rối loạn
trầm cảm chủ yếu đó là trong vòng hai tuần, phải có tối thiểu một trong hai triệu chứng
khí sắc trầm buồn hoặc giảm hứng thú, hài lòng, cùng với đó là năm hoặc nhiều hơn
trong số các triệu chứng đó là sụt hoặc tăng cân hay ăn nhiều hoặc chán ăn; mất ngủ
hoặc ngủ nhiều; cử động chậm chạm hoặc kích động; mệt mỏi hoặc mất năng lượng;
cảm thấy vô giá trị hoặc tội lỗi quá mức; khó suy nghĩ hoặc thiếu quyết đoán; liên tục
có ý nghĩ về cái cái chết, có ý tưởng về tự sát với kế hoạch cụ thể, hoặc cố gắng tự sát.
Bảng Câu hỏi Sức khỏe Bệnh nhân 9 item là một trong những công cụ thường
được sử dụng nhằm sàng lọc và chẩn đoán trầm cảm với các tiêu chuẩn của DSM-V
(Smarr & Keefer, 2011).
1.5. Mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ với mức độ trầm cảm và
lo âu ở con cái
Như đã trình bày, sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ có liên hệ với nhiều hệ
quả tiêu cực đối với cảm xúc, nhận thức, và hành vi của con cái. Theo lý thuyết Tự quyết
(Ryan & Deci, 2017), khía cạnh kiểm soát tâm lý của sự quan tâm có điều kiện của cha
mẹ đối với con cái sẽ tạo ra sự xung đột giữa nhu cầu gắn kết và nhu cầu tự chủ của con
cái. Do mong muốn được chấp nhận và yêu thương bởi cha mẹ, con cái sẽ buộc phải hi
sinh nhu cầu tự chủ của bản thân. Khi bị kiểm soát bởi sự quan tâm có điều kiện của cha
mẹ, hành vi của con cái trong những lĩnh vực bị điều kiện hóa bởi tình yêu thương,
chẳng hạn như học tập, thể thao, hay điều hòa cảm xúc, đều mang tính ép buộc, thiếu tự
chủ, do đó dẫn tới sự cứng nhắc, rập khuôn, thiếu sáng tạo (Assor và c.s., 2014, 2004;
Roth & Assor, 2010; Roth và c.s., 2009). Trong khi đó, nghiên cứu của Campbell-Sills
và c.s. (2006), và Ehring và Quack (2010) cho thấy sự dồn nén các cảm xúc tiêu cực có
mối liên hệ với những rối nhiễu khí sắc, điển hình là trầm cảm và lo âu. Bên cạnh đó,
sự thiếu thỏa mãn các nhu cầu tâm lý đã được chỉ ra là có khả năng dự báo mức độ trầm
cảm và lo âu (Quested và c.s., 2011; Wei, Shaffer, Young, & Zakalik, 2005).
Đồng tình với quan điểm của lý thuyết Nhân vị Trọng tâm (Rogers, 1959), lý
thuyết này cũng cho rằng sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ sẽ hình thành nên lòng
tự trọng có điều kiện của con cái. Khi con cái học được rằng giá trị của bản thân mình
phụ thuộc vào những điều kiện nhất định, hay nói cách khác là không chắc chắn, thì tất

25
yếu sẽ dẫn tới nỗ lực để duy trì những giá trị đó (Crocker & Wolfe, 2001). Những nỗ
lực này có thể trở nên quá mức và được thể hiện ra thành tính cầu toàn (Curran, 2018;
Curran và c.s., 2017). Khi những nỗ lực này thành công, cá nhân có thể có cảm nhận
tích cực về bản thân hay thậm chí tự mãn (Assor & Tal, 2012), và do đó có lòng tự trọng
cao, cùng với sự hài lòng với cuộc sống (Grundman, 2010). Tuy nhiên, khi những nỗ
lực này gặp phải thất bại, cá nhân có thể cảm thấy hổ thẹn về bản thân (Assor & Tal,
2012), có cái nhìn tiêu cực về chính mình, và từ đó đánh mất động lực sống. Thực
nghiệm của Wouters, Thomaes, Colpin, Luyckx, và Verschueren (2018) cho thấy sự
quan tâm có điều kiện làm gia tăng biên độ dao động của cảm xúc tích cực và tiêu cực
khi cá nhân thành công hay thất bại. Trong khi đó, nghiên cứu cho thấy lòng tự trọng
thấp cùng với sự dao động của lòng tự trọng có mối liên hệ với trầm cảm và lo âu (Bos
và c.s., 2010; M. H. Kernis và c.s., 1993; Lakey và c.s., 2014; Sargent, Crocker, &
Luhtanen, 2006; Sowislo & Orth, 2013; Wouters và c.s., 2013). Tính cầu toàn cũng được
tìm thấy là một yếu tố nguy cơ đối với trầm cảm và lo âu (Flett, Besser, Davis, & Hewitt,
2003; Hewitt và c.s., 2002; Kawamura, Hunt, Frost, & DiBartolo, 2001; Nepon, Flett,
Hewitt, & Molnar, 2011; O’Connor và c.s., 2010).
Ngoài ra, sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ còn làm suy giảm chất lượng mối
quan hệ giữa cha mẹ và con cái (Assor và c.s., 2004; Roth và c.s., 2009; Saeed & Hanif,
2014). Sự quan tâm có điều kiện khiến cho con cái cảm thấy mình không được chấp
nhận, không được ủng hộ, không được tin tưởng, không xứng đáng được yêu thương và
qua đó hình thành thái độ oán giận đối với cha mẹ. Fromm (1956) mô tả đây là cảm
nhận cay đắng khi phát hiện ra bản thân không hề được yêu thương mà đang bị sử dụng.
Thậm chí còn ảnh hưởng tới toàn bộ những mối quan hệ quan trọng khác trong đời sống
sau này khi con cái trưởng thành (Kanat-Maymon và c.s., 2016, tr 2). Những người có
cha mẹ sử dụng sự quan tâm có điều kiện có xu hướng hình thành những mối quan hệ
mà trong đó họ cũng bị quan tâm một cách có điều kiện bởi đồng sự. Trong những mối
quan hệ này, họ thường cảm thấy những nhu cầu tâm lý cơ bản của mình không được
thỏa mãn và do đó cảm thấy thiếu gắn bó an toàn với những mối quan hệ như vậy.
Thêm vào đó, theo lý thuyết Nhân vị Trọng tâm (Rogers, 1959), lòng tự trọng có
điều kiện khi được hình thành có thể trở thành những chuẩn mực, giá trị, niềm tin đối
với cá nhân. Cá nhân sẽ nhìn nhận và phản ứng với cuộc sống sao cho phù hợp với
những gì đã được phóng nội từ sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ. Tuy nhiên, trên

26
thực tế, sinh thể cá nhân vẫn sẽ có những cảm nhận đối nghịch với những giá trị hay
niềm tin này, và do đó đặt cá nhân vào tình trạng xung đột nội tâm giữa những giá trị
kiên cố và những cảm nhận hay mong muốn thật của bản thân mình. Việc duy trì các cơ
chế phòng vệ để chống lại những trải nghiệm mâu thuẫn với điều kiện có giá trị hay né
tránh sự mâu thuẫn nội tâm tất yếu sẽ dẫn tới tình trạng căng thẳng, lo âu kéo dài.
Như vậy, có thể thấy sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ có khả năng là một
trong những yếu tố nguy cơ đối với sức khỏe tâm lý của con cái, mà cụ thể là làm tăng
khả năng mắc phải các triệu chứng trầm cảm và lo âu. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên
cứu tìm hiểu mối quan hệ trực tiếp giữa hai biến số này. Nghiên cứu của Wouters,
Colpin, và c.s. (2018) cho thấy sự quan tâm có điều kiện có mối liên hệ với các triệu
chứng trầm cảm và lo âu. Tuy nhiên, nghiên cứu chưa phân biệt được ảnh hưởng của sự
quan tâm tích cực có điều kiện và sự quan tâm tiêu cực có điều kiện. Trong khi đó,
nghiên cứu trước đây cho thấy sự quan tâm tích cực và tiêu cực có điều kiện có ảnh
hưởng không tương đồng. Ngoải ra, nghiên cứu này cũng gặp một hạn chế nữa đó là đã
đo lường sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ theo lĩnh vực và do đó có thể không thể
phản ánh hết tác động của sự quan tâm có điều kiện.

27
Chương 2. Phương pháp

2.1. Khách thể nghiên cứu


Khách thể nghiên cứu là sinh viên của một trường đại học tại Hà Nội. Tiêu chí
để lựa chọn khách thể là trước năm 17 tuổi chưa từng có khoảng thời gian nào sống xa
mẹ hơn một năm nhằm đảm bảo khách thể có sự tương tác với mẹ từ nhỏ cho đến năm
17 tuổi cũng như hạn chế tác động của những khoảng thời gian xa mẹ đến kết quả.
Nghiên cứu lấy 17 tuổi để sàng lọc khách thể vì tại Việt Nam đây là thời điểm sinh viên
bắt đầu việc học đại học và thông thường những sinh viên ở các tỉnh hay thành phố khác
sẽ rời xa gia đình để tới sống tại thành phố của trường đại học. Ngoài ra, nghiên cứu tìm
hiểu về sự quan tâm có điều kiện của mẹ một mặt do hạn chế về nguồn lực và mặt khác
do ở Việt Nam, vai trò nuôi dưỡng và giáo dục con cái của người mẹ vẫn lớn hơn so với
người cha (McHale và c.s., 2014; Mestechkina và c.s., 2014).

Bảng 1
Đặc điểm nhân khẩu của mẫu nghiên cứu
Tần số Tần suất
Dân tộc
Kinh 389 93.50%
Khác 27 6.50%
Khu vực
Thành thị 212 51.00%
Nông thôn 204 49.00%
Trình độ học vấn của mẹ
Không qua trường lớp đào tạo 5 1.20%
Chưa học hết tiểu học 13 3.10%
Học hết tiểu học 23 5.50%
Chưa học hết cấp 2 48 13.90%
Học hết cấp 2 68 16.30%
Chưa học hết cấp 3 23 5.50%
Tốt nghiệp cấp 3 89 21.40%
Bỏ dở Đại học/Cao đẳng 6 1.40%
Tốt nghiệp Đại học/Cao đẳng 108 26.00%
Đang học cao học 8 1.90%
Có bằng sau đại học 15 3.60%
Ghi chú. N = 416

28
2.2. Mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu là mẫu thuận tiện bao gồm 416 sinh viên có độ tuổi trung bình
là 20.36 với độ lệch chuẩn hóa là 1.30. Trong đó, nam chiếm 16.80% và nữ chiếm
83.20%. Độ tuổi trung bình của mẹ là 47.24 với độ lệch chuẩn hóa là 5.61. Bảng 1 trình
bày một số đặc điểm nhân khẩu nhân khẩu của mẫu nghiên cứu.
2.3. Công cụ nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng một bảng câu hỏi bao gồm các câu hỏi về năm sinh, giới
tính, dân tộc, khu vực sinh sống, năm sinh của mẹ, trình độ học vấn của mẹ, khoảng thời
gian sống xa mẹ trước năm 17 tuổi, và các thang đo về sự quan tâm có điều kiện của
mẹ, mức độ trầm cảm, và lo âu.
2.3.1. Thang đo Nhận thức của Con cái về Sự Quan tâm có Điều kiện của Mẹ
Nghiên cứu đo lường sự quan tâm tích cực và tiêu cực có điều kiện của mẹ thông
qua nhận thức của con cái bằng một thang đo tự xây dựng bao gồm 22 item (Phụ lục A).
Tiểu thang quan tâm tích cực có điều kiện bao gồm 11 item, chẳng hạn “Tôi cảm thấy
mẹ tình cảm với tôi hơn mỗi khi tôi làm mẹ hài lòng”. Tiểu thang quan tâm tiêu cực có
điều kiện bao gồm 11 item, chẳng hạn: “Nhìn chung tôi cảm thấy mẹ dành cho tôi ít tình
cảm hơn khi tôi không làm theo ý mẹ”. Khách thể được yêu cầu đánh giá mức độ chính
xác của mỗi câu mô tả theo thang Likert 7 điểm với 1 là “Rất không chính xác” và 7 là
“Rất chính xác”.
Do các item không có phân phối chuẩn đa biến theo kiểm định Doornik-Hansen
(c2 (44) = 421.01, p = .000), để đánh giá độ hiệu lực cấu trúc của thang đo, nghiên cứu
tiến hành phân tích nhân tố xác nhận với phương pháp ước lượng MLM và hiệu chỉnh
sai số tiêu chuẩn Satorra-Bentler. Sự phù hợp của mô hình được đánh giá thông qua
Satorra-Bentler Chi bình phương (SBc2). Ngoài ra, do SBc2 chịu tác động lớn bởi cỡ
mẫu (Brown, 2015), nghiên cứu đánh giá thêm các chỉ số khác bao gồm RMSEA,
SRMR, CFI, và TLI đã được tính toán theo hiệu chỉnh Satora-Bentler có tính đến ảnh
hưởng của bộ dữ liệu không có phân phối chuẩn. Theo Hu và Bentler (1999), giá trị của
RMSEA xấp xỉ .06 hoặc nhỏ hơn và giá trị của SRMR xấp xỉ hoặc nhỏ hơn .08 cho thấy
mô hình phù hợp. Giá trị SBc2/df nhỏ hơn 5, giá trị CFI và TLI nằm trong khoảng từ 0
đến 1 và đạt tối thiểu .90 thì mô hình được coi là tương đối phù hợp (Bentler, 1990).

29
4 6 7 8 9 10 12 13 15 17 19

.64 .74 .74 .75 .81 .82 .74 .76 .81 .68 .78

CNR

.82

CPR

.53 .65 .62 .49 .78 .78 .79 .76 .73 .70 .60

1 2 3 5 11 14 16 18 20 21 22

Hình 1. Hệ số tải nhân tổ chuẩn hóa của các item thuộc thang đo Nhận thức Của Con cái Về Sự Quan tâm Có Điều Kiện Của Mẹ

30
Kết quả phân tích cho các chỉ số về mức độ phù hợp phản ánh mô hình phù hợp
với dữ liệu thực tế với SBc2 (208, N = 416) = 517.60, p = .000, SBc2/df = 2.488, CFI =
.928, TLI = .920, RMSEA = .060, SRMR = .048. Nói cách khác, thang đo đảm bảo độ
hiệu lực cấu trúc với hai nhân tố là quan tâm tích cực có điều kiện và quan tâm tiêu cực
có điều kiện. Bảng 2 trình bày kết quả phân tích hệ số tải nhân tố chuẩn hóa, sai số chuẩn
hóa, và khoảng tin cậy của mỗi item trong hai nhân tố. Các hệ số tải nhân tố chuẩn hóa
đều có ý nghĩa thống kê (p = 0.000) và nằm trong khoảng từ .49 đến .82. Như vậy, phần
trăm biến thiên được giải thích của các item nằm trong khoảng 22% đến 64%. Hệ số
Cronbach’s alpha của tiểu thang quan tâm tích cực có điều kiện và quan tâm tiêu cực có
điều kiện lần lượt là .90 và .93 cho thấy hai tiểu thang đảm bảo độ nhất quán bên trong.
Tổng điểm của các item trong mỗi tiểu thang phản ánh mức độ mà con cái nhận được
sự quan tâm tích cực hay tiêu cực có điều kiện của mẹ. Tổng điểm càng cao thì mức độ
quan tâm tích cực hay tiêu cực của mẹ đối với con cái càng cao.
2.3.2. Thang đo Rối loạn Lo âu Lan tỏa 7 item
Để đo lường mức độ lo âu của con cái, nghiên cứu sử dụng Thang đo Rối loạn
Lo âu Lan tỏa 7 item (Generalized Anxiety Disorder 7 item) do Spitzer, Kroenke,
Williams, và Löwe (2006) xây dựng (Phụ lục B). Thang đo bao gồm các item thể hiện
triệu chứng của lo âu như “Lo lắng, lo âu, hay bồn chồn” hay “Cảm thấy lo sợ như thể
điều gì đó tồi tệ sẽ xảy ra”. Khách thể được yêu cầu đánh giá mức độ thường xuyên có
các triệu chứng lo âu trong vòng 2 tuần trở lại đây theo thang Likert 4 điểm với 1 là
“Hoàn toàn không” và 4 là “Gần như mọi ngày”. Hệ số Cronbach’s alpha của Thang
Rối loạn Lo âu Lan tỏa 7 item là .86 cho thấy thang đo có sự nhất quán giữa các item.
2.3.3. Bảng Câu hỏi Sức khỏe Bệnh nhân 9 item
Để đo lường mức độ trầm cảm của con cái, nghiên cứu sử dụng Bảng Câu hỏi Sức khỏe
Bệnh nhân 9 item (Patient Health Questionnaire 9 item) do Kroenke, Spitzer, &
Williams (2001) xây dựng (Phụ lục C). Thang đo bao gồm các item mô tả triệu chứng
của trầm cảm chẳng hạn như “Không hứng thú với việc gì” hay“Cảm thấy buồn bã,
chán nản, hay vô vọng”. Khách thể được yêu cầu đánh giá mức độ thường xuyên có các
triệu chứng trầm cảm trong vòng 2 tuần vừa qua theo thang Likert 4 điểm với 1 là “Hoàn
toàn không” và 4 là “Gần như mọi ngày”. Hệ số Cronbach’s alpha của Bảng Câu hỏi
Sức khỏe Bệnh nhân 9 item là .85 cho thấy thang có sự nhất quán giữa các item.

31
2.4. Phân tích dữ liệu
Nghiên cứu sử dụng phần mềm STATA/SE 14.0 và SPSS 23.0 để phân tích thống
kê mô tả (tần số, tần suất, điểm trung bình, độ lệch chuẩn hóa, giá trị nhỏ nhất, giá trị
lớn nhất) và phân tích thống kê suy luận (tương quan, hồi quy, độ tin cậy của thang đo,
phân tích nhân tố xác nhận).

32
Chương 3. Kết quả

3.1. Thống kê mô tả các biến nghiên cứu


Kết quả phân tích thống kê mô tả được trình bày ở Bảng 3. Giá trị trung bình của
quan tâm tích cực có điều kiện lớn hơn so với giá trị trung bình của quan tâm tiêu cực
có điều kiện. Trầm cảm có giá trị trung bình lớn hơn so với lo âu.

Bảng 2
Thống kê mô tả cho các biến số nghiên cứu
Khoảng
Biến số M SD a Có thể Thực tế
Quan tâm tích cực có điều kiện 49.65 11.26 .90 11-77 12-73
Quan tâm tiêu cực có điều kiện 34.65 12.51 .93 11-77 11-77
Lo âu 13.76 4.39 .86 7-28 7-28
Trầm cảm 17.82 5.81 .85 9-36 9-36
Ghi chú. N = 416

3.2. So sánh sự quan tâm có điều kiện của mẹ giữa nam và nữ


Do quan tâm tích cực có điều kiện và quan tâm tiêu cực có điều kiện không có
phân phối chuẩn với cả hai nhóm nam và nữ, nghiên cứu tiến hành phân tích so sánh giá
trị trung vị của hai biến số giữa hai nhóm nam và nữ theo kiểm định Mann-Whitney.
Kết quả phân tích, được trình bày ở Bảng 4, cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê giữa hai nhóm nam và nữ về mức độ nhận được sự quan tâm tích cực có điều kiện và
quan tâm tiêu cực có điều kiện từ mẹ.

Bảng 3
Thống kê mô tả cho quan tâm có điều kiện ở nam và nữ
M Khoảng Median Skewness SEskewness Kurtorsis SEkurtorsis
Quan tâm tích cực có điều kiện (U = 9720.50, p <.01)
Nam 53.26 29-72 53.00 -0.27 .28 0.02 .57
Nữ 48.92 12-73 51.00 -0.73 .13 0.31 .26
Quan tâm tiêu cực có điều kiện (U = 10131.00, p < .05)
Nam 37.69 17-77 38.00 0.87 .28 1.47 .56
Nữ 34.04 11-70 33.00 0.3 .13 -0.46 .26
Ghi chú. N = 416. nNam = 70. nNữ = 346

33
Cụ thể, phân tích Mann-Whitney cho thấy mức độ nhận được sự quan tâm tích
cực có điều kiện của mẹ ở nam (Mdn = 53) cao hơn so với ở nữ (Mdn = 51), U = 9720.50,
p <.01. Tương tự, phân tích cũng cho thấy mức độ nhận được sự quan tâm tiêu cực có
điều kiện của mẹ ở nam (Mdn = 38) cũng cao hơn so với ở nữ (Mdn = 33), U = 10131.00,
p < .05. Nói cách khác, đành giá của con trai về mức độ của sự quan tâm có điều kiện
của mẹ lớn hơn so với đánh giá của con gái.
3.3. So sánh sự quan tâm có điều kiện của mẹ giữa thành thị và nông thôn
Do quan tâm tích cực có điều kiện và quan tâm tiêu cực có điều kiện không có
phân phối chuẩn với cả hai nhóm thành thị và nông thôn, nghiên cứu tiến hành phân tích
so sánh giá trị trung vị của hai biến số giữa hai nhóm thành thị và nông thôn theo kiểm
định Mann-Whitney. Kết quả phân tích, được trình bày ở Bảng 5, cho thấy không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm thành thị và nông thôn về mức độ nhận
được sự quan tâm tích cực có điều kiện và quan tâm tiêu cực có điều kiện từ mẹ.

Bảng 4
Thống kê mô tả cho quan tâm có điều kiện ở thành thị và nông thôn
M Khoảng Median Skewness SEskewness Kurtorsis SEkurtorsis
Quan tâm tích cực có điều kiện (U = 21576.50, p = .97)
Thành thị 49.74 12-73 51.00 -0.80 .17 0.86 .33
Nông thôn 49.56 18-73 51.00 -0.63 .17 0.00 .34
Quan tâm tiêu cực có điều kiện (U = 21109.00, p = .67)
Thành thị 35.00 11-77 33.50 -.63 .17 0.00 .34
Nông thôn 34.29 11-67 34.00 0.29 .17 -0.23 .34
Ghi chú. N = 416. nNam = 70. nNữ = 346

3.4. Mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều kiện và trình độ học vấn của mẹ
Để tìm hiểu mối liên hệ giữa sự quan tâm tích cực có điều kiện và sự quan tâm
tiêu cực có điều kiện với trình độ học vấn của mẹ, nghiên cứu tiến hành phân tích tương
quan giữa các biến số. Kết quả cho thấy không có tương quan có ý nghĩa thống kê giữa
trình độ học vấn của mẹ với sự quan tâm tích cực có điều kiện (r = -.01, p = .91) và sự
quan tâm tiêu cực có điều kiện (r = .03, p = .617)
3.5. Mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều kiện của mẹ và khoảng cách tuổi
Nghiên cứu cũng tiến hành phân tích tương quan giữa sự quan tâm tích cực có
điều kiện và sự quan tâm tiêu cực có điều kiện của mẹ với khoảng cách tuổi tác giữa mẹ

34
và con. Kết quả cho thấy không có tương quan có ý nghĩa thống kê giữa khoảng cách
tuổi giữa mẹ và con với sự quan tâm tích cực có điều kiện (r = .02, p = .76) và sự quan
tâm tiêu cực có điều kiện (r = .07, p = .14).
3.6. Mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều kiện của mẹ và mức độ lo âu và trầm cảm
ở con cái
Kết quả phân tích tương quan, được trình bày ở bảng 6, cho thấy quan tâm tích
cực có điều kiện và quan tâm tiêu cực có điều kiện có tương quan ở mức độ mạnh cả
với lo âu và trầm cảm. Nói cách khác, sự quan tâm tích cực và tiêu cực có điều kiện của
mẹ đối với con cái càng cao thì mức độ trầm cảm và lo âu của con cái càng lớn.

Bảng 5
Tương quan giữa các biến số nghiên cứu
Biến số 1 2 3 4
1. Quan tâm tích cực có điều kiện -
2. Quan tâm tiêu cực có điều kiện .62** -
3. Lo âu .48** .47** -
4. Trầm cảm .40** .42** .68** -
Ghi chú. N = 416. **p < .01

3.7. Khả năng dự báo các triệu chứng lo âu và trầm cảm ở con cái theo sự quan
tâm có điều kiện của mẹ

Bảng 7
Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính dự báo lo âu và trầm cảm ở con cái theo quan tâm
có điều kiện của mẹ
B SE b t F p R2 Adj.R2
Lo âu
Hằng số 4.375 .83 5.29 81.38 .000 .28 .28
Quan tâm tích cực CĐK 0.12 .02 .30 5.76
Quan tâm tiêu cực CĐK 0.10 .02 .23 5.44
Trầm cảm
Hằng số 7.505 1.35 6.53 53.91 .000 .21 .20
Quan tâm tích cực CĐK 0.12 .03 .23 4.12
Quan tâm tiêu cực CĐK 0.13 .03 .28 4.99
2 2
Ghi chú. N = 416. Adj.R = R hiệu chỉnh

35
Nghiên cứu đã tiến hành hồi quy tuyến tính đa biến theo phương pháp Enter nhằm
dự báo mức độ lo âu theo quan tâm tích cực có điều kiện và quan tâm tiêu cực có điều
kiện (Bảng 7). Kết quả cho ra công thức hồi quy có ý nghĩa thống kê (F (2, 413) = 81.38,
p < .000) với R2 = .28 và R2 hiệu chỉnh = .28. Lo âu được dự báo bằng 4.375 + 0.12
(Quan tâm tích cực có điều kiện) + 0.10 (Quan tâm tiêu cực có điều kiện). Cả hai biến
số quan tâm tích cực có điều kiện và quan tâm tiêu cực có điều kiện của mẹ đều có ý
nghĩa thống kê trong việc dự báo 28% sự biến thiên của lo âu ở con cái.
Tương tự, phân tích hồi quy tuyến tính đa biến nhằm dự báo trầm cảm theo quan
tâm tích cực có điều kiện và quan tâm tiêu cực có điều kiện (Bảng 6). Kết quả cho thấy
công thức hồi quy có ý nghĩa thống kê (F (2, 413) = 53.91, p < .000) với R2 = .21 và R2
hiệu chỉnh = 0.20. Trầm cảm được dự báo bằng 7.505 + 0.12 (Quan tâm tích cực có điều
kiện) + 0.13 (Quan tâm tiêu cực có điều kiện). Cả quan tâm tích cực có điều kiện và
quan tâm tiêu cực có điều kiện của mẹ đều có ý nghĩa thống kê trong việc dự báo 20%
sự biến thiên của trầm cảm ở con cái.
Đáng chú ý, sự quan tâm tích cực có điều kiện có hệ số hồi quy lớn hơn so với
sự quan tâm tiêu cực có điều kiện trong phép hồi quy dự báo mức độ lo âu. Trong khi
đó, kết quả này là ngược lại trong phép hồi quy dự báo mức độ trầm cảm. Như vậy, sự
quan tâm tích cực có điều kiện có khả năng dự báo lớn hơn đối với mức độ lo âu trong
khi sự quan tâm tiêu cực có điều kiện có khả năng dự báo lớn hơn đối với mức độ trầm
cảm của con cái.

36
Chương 4. Thảo luận

Sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ đối với con cái đã được nhiều nghiên cứu
chứng minh là có mối liên hệ với những hệ quả tiêu cực về tâm lý như sự nội hóa mang
tính phóng nội, cảm giác bị ép buộc phải thực hiện các hành vi mà cha mẹ mong muốn,
lòng tự trọng thấp/có điều kiện, tính ái kỷ, tính cầu toàn thiếu thích ứng, sự dao động
mạnh trong cảm xúc sau thất bại hoặc thành công. Bên cạnh đó, sự quan tâm có điều
kiện có làm suy giảm chất lượng mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái cũng như các mối
quan hệ xã hội khác của con cái. Những kết quả này gợi ý khả năng có một mối liên hệ
giữa sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ và mức độ trầm cảm, lo âu ở con cái. Tuy
nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề này. Bên cạnh đó, vẫn còn thiếu các
nghiên cứu tìm hiểu về ảnh hưởng của giới tính, khu vực sinh sống, trình độ học vấn
của cha mẹ, và khoảng cách tuổi tác giữa cha mẹ và con cái đối với sự quan tâm có điều
kiệnc của cha mẹ. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm tìm hiểu về sự quan tâm có điều
kiện của mẹ và những biến số này ở nhóm khách thể là sinh viên Việt Nam với mong
muốn tạo tiền đề cho các nghiên cứu trong tương lai cũng như đưa ra các kiến nghị về
cách nuôi dạy con của cha mẹ.
Trong quá trình thực hiện, nghiên cứu đã xây dựng được một công cụ đo lường
chung sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ từ góc nhìn của con cái và không cụ thể
theo từng lĩnh vực, do đó có thể phản ánh được toàn bộ mức độ của sự quan tâm có điều
kiện mà cha mẹ dành cho con cái. Phân tích nhân tố xác nhân và phân tích độ tin cậy
cho thấy thang đo đảm bảo các tiêu chí này để có thể sử dụng trong nghiên cứu.
4.1. Sự khác biệt giữa nam và nữ về mức độ quan tâm có điều kiện của mẹ
Kết quả phân tích cho thấy có sự khác biệt giữa nam và nữ về mức độ của sự
quan tâm tích cực có điều kiện và sự quan tâm tiêu cực có điều kiện của mẹ. Cụ thể, so
với sinh viên nữ, các sinh viên nam cảm thấy nhận được nhiều sự quan tâm, cả tích cực
lẫn tiêu cực, có điều kiện từ mẹ nhiều hơn. Nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng so với con
trai, con gái thường có xu hướng đánh giá cách nuôi dạy con của cha mẹ là mang tính
đáp ứng hơn, ủng hộ sự tự chủ hơn, ít kiểm soát tâm lý hơn, ít sự quan tâm có điều kiện
hơn (Beyers & Goossens, 2008; Wouters, Colpin, và c.s., 2018). Bên cạnh đó, kết quả
này cũng có thể xuất phát từ việc cha mẹ ở Việt Nam thường đặt nhiều kỳ vọng được
coi là lớn lao (chẳng hạn như có sự nghiệp, công danh, làm rạng danh dòng họ) vào con
trai hơn so với con gái (United Nations Children’s Fund, 2018). Áp lực từ những kỳ

37
vọng này có thể khiến cho cảm nhận của sinh viên nam về tính điều kiện trong tình cảm
của cha mẹ lớn hơn so với sinh viên nữ. Mặt khác, do định kiến về giới, một số cha mẹ
có thể không quá coi trọng việc thành công hay thất bại của con gái và do đó không đặt
sự quan tâm của mình dựa trên khía cạnh này. Các nghiên cứu trong tương lai có thể sử
dụng câu hỏi mở để tìm hiểu về sự khác biệt trong kỳ vọng mà cha mẹ dành cho con trai
và con gái để lý giải về sự khác biệt trong sự quan tâm có điều kiện.
4.2. Sự khác biệt về mức độ quan tâm có điều kiện của mẹ giữa các khu vực
Nghiên cứu cũng đã tìm hiểu mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều kiện của cha
mẹ với khu vực sinh sống, trình độ học vấn của mẹ, và khoảng cách tuổi giữa mẹ và
con. Tuy nhiên, các kết quả phân tích cho thấy không có mối liên hệ giữa những biến số
này với sự quan tâm có điều kiện của mẹ. Sự khác biệt về đặc điểm kinh tế xã hội được
thể hiện thông qua khu vực sống được kỳ vọng sẽ tác động đến sự quan tâm có điều kiện
của cha mẹ dành cho con cái. Cơ sở của kỳ vọng này đó là cha mẹ ở khu vực thành thị
thường phải chịu nhiều áp lực cạnh tranh trong đời sống xã hội và do đó có thể sử dụng
sự quan tâm có điều kiện của mình như là cách để thúc đẩy con cái vươn lên trong xã
hội (Assor và c.s., 2014). Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu không ủng hộ cho giả thuyết
này. Lý do có thể là bởi vì dù ở khu vực thành thị hay nông thôn thì cha mẹ vẫn luôn có
những kỳ vọng nhất định đối với con cái (Hunt, 2005) và việc sử dụng sự quan tâm có
điều kiện để thúc đẩy con cái đạt được những kỳ vọng này là tất yếu do nhu cầu căn bản
của con cái là nhận được sự chấp nhận và yêu thương của cha mẹ.
4.3. Mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều kiện và trình độ học vấn của mẹ
Phân tích tương quan cũng không ủng hộ cho giả thuyết về mối liên hệ nghịch
chiều giữa sự quan tâm có điều kiện và trình độ học vấn của mẹ. Các cha mẹ có trình độ
học vấn cao hơn được kỳ vọng là sẽ hướng tới việc giáo dục con cái theo hướng dân chủ
hay ủng hộ sự tự chủ hơn. Tuy nhiên kết quả của nghiên cứu cho thấy không có sự khác
biệt về sự quan tâm có điều kiện của mẹ giữa các trình độ học vấn khác nhau. Kết quả
này có thể xuất phát từ việc cha mẹ có trình độ học vấn cao hơn sẽ có nhiều kỳ vọng
hơn đối với con cái và do đó cũng sẽ sử dụng sự quan tâm có điều kiện như là một cách
thức để xã hội hóa, truyền tải cho con cái những giá trị mà mình coi trọng.
4.4. Mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều kiện và khoảng cách tuổi
Bên cạnh đó, cũng không có tương quan có ý nghĩa thống kê giữa sự quan tâm
có điều kiện của mẹ và khoảng cách tuổi giữa mẹ và con. Điều này có thể gợi ý rằng

38
việc sử dụng sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ đã không thay đổi qua các thế hệ cha
mẹ. Cần có thêm các nghiên cứu trong tương lai để xác nhận lại kết quả này.
4.5. Mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều kiện của mẹ với mức độ lo âu và trầm
cảm ở con cái
Kết quả phân tích của nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ thuận chiều có ý nghĩa
thống kê ở mức độ tương đối mạnh giữa sự quan tâm có điều kiện của mẹ và mức độ lo
âu và trầm cảm ở con cái. Như vậy, những sinh viên nào cảm nhận thấy sự quan tâm có
điều kiện của mẹ càng cao thì càng có xu hướng mắc phải các triệu chứng trầm cảm và
lo âu. Phân tích hồi quy đa biến dự báo mức độ trầm cảm và lo âu của con cái theo sự
quan tâm có điều kiện của mẹ cho thấy sự quan tâm tích cực có điều kiện và sự quan
tâm tiêu cực có điều kiện đều có khả năng dự báo có ý nghĩa thống kê đối với mức độ
trầm cảm và lo âu. Kết quả này phù hợp với lý thuyết Tự quyết và lý thuyết Nhân vị
Trọng tâm cũng như các kết quả nghiên cứu trước đây cho rằng sự quan tâm có điều
kiện của cha mẹ về lâu dài sẽ dẫn tới những rối nhiễu về tinh thần, cụ thể ở đây là trầm
cảm và lo âu ở con cái (Rogers, 1959; Ryan & Deci, 2017).
Bên cạnh đó, phần trăm biến thiên được dự báo bởi sự quan tâm có điều kiện của
các triệu chứng lo âu lớn hơn so với phần trăm biến thiên được dự báo của các triệu
chứng trầm cảm. Lòng tự trọng có điều kiện được hình thành dựa trên sự quan tâm có
điều kiện của cha mẹ tất yếu đặt con cái vào tình trạng lo lắng vì sự quan tâm này là
không chắc chắn, phụ thuộc vào các điều kiện nhất định mà con cái cảm thấy cần phải
nỗ lực để có thể duy trì được (Wouters và c.s., 2013). Mặt khác, khi các điều kiện này
bị đe dọa, cá nhân với lòng tự trọng có điều kiện có thể sử dụng các cơ chế phòng vệ để
né tránh hay bóp méo những sự kiện này và do đó dẫn tới tình trạng xung đột tâm lý
được biểu thông qua sự lo âu, căng thẳng (Rogers, 1959). Trong khi đó, sự quan tâm có
điều kiện của cha mẹ chỉ thật sự dẫn tới tình trạng trầm cảm khi con cái không có đủ
khả năng hay gặp thất bại trong việc duy trì các điều kiện có giá trị (Hewitt và c.s., 2002;
Wouters, Colpin, và c.s., 2018). Đây là những lý do có thể giải thích cho sự chênh lệch
về phần trăm biến thiên được dự báo bởi sự quan tâm có điều kiện của mẹ của mức độ
trầm cảm và lo âu ở con cái.
Một điểm đáng lưu khác đó là sự chênh lệch về hệ số hồi quy giữa sự quan tâm
tích cực có điều kiện và sự quan tâm tiêu cực có điều kiện ở cả hai phép hồi quy. Thứ
nhất, sự quan tâm tích cực có điều kiện có khả năng dự báo mức độ lo âu lớn hơn so với

39
sự quan tâm tiêu cực có điều kiện. Thứ hai, sự quan tâm tiêu cực có điều kiện lại có khả
năng dự báo mức độ trầm cảm lớn hơn so với sự quan tâm tích cực có điều kiện. Nghiên
cứu trước đây cho thấy sự quan tâm tích cực có điều kiện mới là biến số tạo ra sự ép
buộc phải thực hiện các hành vi được cha mẹ kỳ vọng (Assor và c.s., 2004; Roth &
Assor, 2010; Roth và c.s., 2009). Trong khi đó, sự quan tâm tiêu cực lại khiến cho con
cái cảm thấy bị ruồng bỏ và từ đó dẫn tới sự oán giận cùng với những rối loạn về cảm
xúc. Trong khi sự quan tâm tích cực tạo ra một sự thôi thúc phải nỗ lực duy trì các điều
kiện ở con cái, và do đó trực tiếp dẫn tới tình trạng lo âu thì sự quan tâm tiêu cực có điều
kiện lại có thể làm suy giảm sự thỏa mãn nhu cầu gắn kết, nhu cầu tự chủ, và thậm chí
nhu cầu năng lực. Khi con cái nhận được nhiều sự quan tâm hơn, yêu thương hơn mỗi
khi đáp ứng yêu cầu hay mong muốn của cha mẹ thì con cái có thể học được rằng mình
cần phải cố gắng duy trì các điều kiện này để có thể đổi lại được sự chấp nhận và yêu
thương của cha mẹ, từ đó dẫn tới nỗ lực một cách rập khuôn, cứng nhắc, và nỗi lo sợ
gặp phải thất bại được thể hiện thông qua nỗ lực cầu toàn, bận tâm cầu toàn, hay sự tự
mãn khi thành công và sự hổ thẹn khi thất bại (Assor & Tal, 2012; Curran, 2018; Curran
và c.s., 2017).
Các kết quả trên đây xác nhận ảnh hưởng tiêu cực của sự quan tâm có điều kiện,
một hình thức kiểm soát tâm lý (Soenens & Vansteenkiste, 2010) của cha mẹ đối với
con cái, ngay cả ở các nước có nền văn hóa phương Đông được cho là không quá đề cao
giá trị cá nhân hay là sự tự chủ. Sự quan tâm có điều kiện có khả năng dự báo mức độ
trầm cảm và lo âu. Trong đó, sự quan tâm tích cực có điều kiện, thường được coi như là
một biểu hiện để khuyến khích những thành tích của con cái, được chứng minh là có
liên hệ thuận chiều với mức độ lo âu và trầm cảm. Một mặt, sự quan tâm tích cực có
điều kiện làm gia tăng các triệu chứng trầm cảm và lo âu. Mặc khác, cách nuôi dạy con
này còn đặt con cái vào tình thế dễ bị tổn thương nếu như gặp phải khó khăn hay thất
bại trong cuộc sống.
Như vậy, cha mẹ cần hạn chế tính điều kiện trong sự quan tâm dành cho con cái.
Nói cách khác, cha mẹ không nên sử dụng tình yêu thương của mình như là một phần
thưởng hay là yếu tố củng cố những hành vi được mong muốn ở con cái. Điều này không
có nghĩa là cha mẹ không nên có bất cứ kỳ vọng nào đối với con cái mà ngược lại cần
cho con cái hiểu được rằng chúng được chấp nhận và yêu thương bất kể hành vi của
chúng là gì, bất kể chúng đã thành công hay thất bại (Kohn, 2006). Với một cảm nhận

40
về giá trị bản thân không bị lệ thuộc vào điều kiện nào, con cái sẽ có thể phát triển theo
hướng lành mạnh (Michael H Kernis, 2003). Assor và c.s. (2004) gợi ý cha mẹ có thể
áp dụng phong cách nuôi dạy con ủng hộ tính tự chủ. Theo đó, cha mẹ hạn chế sự kiểm
soát tâm lý bằng cách cho con cái cơ hội để tự mình quyết định những công việc có liên
quan tới bản thân; cố gắng hiểu được cảm nghĩ của con cái; và đưa ra những lý do thật
sự cho những quyết định của mình mà có liên quan tới con cái.

41
Kết luận

Trong khi nhiều nghiên cứu trước đây về sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ
đã gợi ý khả năng về mối quan hệ giữa cách nuôi dạy con này với mức độ trầm cảm và
lo âu ở con cái, chưa có nhiều nghiên cứu tìm hiểu mối liên hệ trực tiếp giữa các biến
số này. Bên cạnh đó, do các nghiên cứu trước đây chủ yếu được thực hiện với nhóm
khách thể phương Tây, nghi vấn đối với khả năng suy rộng kết quả đối với các nước
phương Đông đã luôn luôn được đặt ra. Trong khi đó, tại Việt Nam, sự quan tâm có điều
kiện đã được cha mẹ sử dụng phổ biến như một cách thức thúc đẩy con cái nỗ lực đạt
được các kỳ vọng hay mong muốn của cha mẹ nhưng chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu
về vấn đề này. Nghiên cứu hiện tại được tiến hành nhằm tìm hiểu về mối liên hệ giữa
sự quan tâm có điều kiện của mẹ và mức độ lo âu và trầm cảm của con cái.
Nhất quán với các kết quả nghiên cứu gián tiếp và trực tiếp, cũng như lý thuyết
Tự quyết và lý thuyết Nhân vị Trọng tâm, kết quả phân tích trong nghiên cứu hiện tại
đã phản ánh mối liên hệ và khả năng dự báo của sự quan tâm có điều kiện của mẹ đối
với mức độ trầm cảm và lo âu ở con cái. Hơn thế nữa, nghiên cứu cũng cho thấy được
sự khác biệt trong ảnh hưởng của sự quan tâm tích cực có điều kiện và sự quan tâm tiêu
cực có điều kiện đối với hai biến số này. Cụ thể, so với sự quan tâm tiêu cực có điều
kiện, sự quan tâm tích cực có điều kiện có khả năng dự báo lớn hơn đối với mức độ lo
âu và thấp hơn đối với mức độ trầm cảm. Trong khi quan niệm cho rằng sự quan tâm
tiêu cực có điều kiện của cha mẹ – trong đó cha mẹ tỏ ra bớt quan tâm, bớt yêu thương,
hay bớt coi trọng con cái mỗi khi con cái không đáp ứng được các yêu cầu – là một cách
nuôi dạy con thiếu lành mạnh được nhiều tác giả đồng tình và có thể dễ dàng hiểu được,
đối với nhiều người tác động tiêu cực của sự quan tâm tích cực có điều kiện – trong đó
cha mẹ tỏ ra quan tâm và yêu thương con cái mỗi khi con cái đáp ứng kỳ vọng như là
một cách khuyến khích – vẫn là khó có thể tiếp nhận, đặc biệt là trong bối cảnh ngày
càng có nhiều chương trình và sách hướng dẫn nuôi dạy con khuyến khích cha mẹ sử
dụng cách thức kiểm soát tâm lý này. Nghiên cứu này cùng với nhiều nghiên cứu khác
đã cho thấy trong khi sự quan tâm tiêu cực có điều kiện có thể gây ra những hệ quả tiêu
cực ngay lập tức đối với đời sống tâm lý và xã hội của con cái, sự quan tâm tích cực có
điều kiện lại đặt con cái vào tình trạng dễ bị tổn thương trong dài hạn. Một mặt, sự quan
tâm tích cực có điều kiện luôn khiến con cái thường rơi vào tình trạng lo âu, mặt khác
nó tạo tiền đề cần thiết cho sự suy sụp trong cảm nhận về bản thân nếu như con cái thất

42
bại và do đó dẫn tới các triệu chứng trầm cảm. Như vậy, kết quả nghiên cứu là cơ sở đề
kêu gọi các bậc cha mẹ phải thay đổi nhận thức về việc sử dụng tình yêu thương của
mình như là một cách thức điều hướng hành vi của con cái để từ đó hạn chế việc sử
dụng cách nuôi dạy con này.
Về mặt lý thuyết, các kết quả nghiên cứu đã ủng hộ quan điểm của lý thuyết Tự
quyết và lý thuyết Nhân vị Trọng tâm, từ đó gợi ý khả năng áp dụng các lý thuyết này
trong nghiên cứu tại môi trường văn hóa phương Đông cũng như suy rộng các kết quả
nghiên cứu trước đây được tìm thấy ở các nước phương Tây. Đặc biệt là với lý thuyết
Nhân vị Trọng tâm, nghiên cứu này là một trong số ít những nghiên cứu tìm cách kiểm
chứng giả thuyết của lý thuyết này về sự phát triển nhân cách dẫn tới những rối nhiễu
tâm lý ở cá nhân. Kết quả này có ý nghĩa không chỉ về mặt lý thuyết mà cả về mặt thực
hành tham vấn và trị liệu tâm lý theo tiếp cận Nhân vị Trọng tâm. Cũng theo lý thuyết
này, một cá nhân có thể phát triển lành mạnh về tâm lý xã hội, hướng tới trở thành một
con người toàn vẹn chức năng, chỉ khi nào nhận được sự nhìn nhận tích cực của cha mẹ
cũng như mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái nên có sự hiện diện của các thái độ thấu
cảm và chân thật bên cạnh sự nhìn nhận tích cực vô điều kiện. Đây là một hướng nghiên
cứu tiềm năng mà kết quả nghiên cứu có thể chuyển hướng sự quan tâm của cha mẹ đối
với thái độ đằng sau mỗi cách nuôi dạy con thay vì chỉ tập trung vào các kỹ thuật nuôi
dạy con.
Mặc dù đã góp phần mở rộng hiểu biết về ảnh hưởng của sự quan tâm có điều
kiện của cha mẹ đối với sức khỏe tinh thần của con cái trong bối cảnh văn hóa phương
Đông, nghiên cứu vẫn có một số hạn chế sau đây: Thứ nhất, nghiên cứu được thiết kết
theo kiểu cắt ngang do đó không thể khẳng định được mối quan hệ nhân quả. Thứ hai,
nghiên cứu không bao gồm sự quan tâm có điều kiện của cha trong khi sự quan tâm có
điều kiện của cha cùng với sự nhất quán giữa cha và mẹ trong việc sử dụng cách nuôi
dạy con này có thể tác động rất lớn tới tâm lý của con cái như một số nghiên cứu trước
đây đã chỉ ra. Thứ ba, kết quả đo lường thu được mang tính hồi cố, dựa trên bảng hỏi tự
báo cáo, do đó có thể ảnh hưởng tới độ tin cậy của kết quả thu được. Thứ tư, việc đo
lường sự quan tâm có điều kiện của mẹ từ góc nhìn của con cái mặc dù sẽ đem lại khả
năng dự báo các hệ quả tâm lý tốt hơn nhưng cũng có khả năng bị ảnh hưởng bởi thành
kiến (chẳng hạn rất có khả năng trạng thái cảm xúc tiêu cực cũng là yếu tố khiến con cái
nhận thức cách nuôi dạy con của cha mẹ theo hướng tiêu cực hơn) cũng như không thể

43
phản ánh được sự khác biệt trong nhận thức giữa mẹ và con cái về cách nuôi dạy con
của mẹ. Thứ năm, nghiên cứu mới chỉ cho thấy mối liên hệ và khả năng dự báo của sự
quan tâm của cha mẹ đối với mức độ lo âu và trầm cảm ở con cái chứ chưa chứng minh
được cơ chế cụ thể của mối liên hệ này. Các nghiên cứu trong tương lai cần phải khắc
phục những hạn chế này thông qua việc thiết kế nghiên cứu theo chiều dọc, đo lường sự
quan tâm có điều kiện của cả cha và mẹ từ cả góc nhìn của con và góc nhìn của cha mẹ,
sử dụng các phương pháp quan sát hay thực nghiệm, và bao gồm trong mô hình nghiên
cứu các biến số có tiềm năng giải thích tốt mối liên hệ giữa sự quan tâm có điều kiện
của cha mẹ và các hệ quả tâm lý (chẳng hạn như lòng tự trọng có điều kiện hay sự dao
động trong lòng tự trọng). Bên cạnh đó, các nghiên cứu về sau cũng nên tập trung tìm
hiểu tiền đề của sự quan tâm có điều kiện của cha mẹ, đặc biệt là cần phải tập trung vào
các đặc điểm cá nhân và xã hội của cha mẹ để có thể kiến nghị các cách can thiệp phù
hợp nhằm làm giảm việc sử dụng sự quan tâm có điều kiện đối với con cái của cha mẹ

44
Tài liệu tham khảo

American Psychiatric Association. (2013). Diagnostic and Statistical Manual of Mental


Disorders (DSM-5®).
Aronfreed, J. (1968). Conduct and conscience: The socialization of internalized control
over behavior. Oxford, England: Academic Press.
Assor, A., Cohen-Malayev, M., Kaplan, A., & Friedman, D. (2005). Choosing to stay
religious in a modern world: socialization and exploration processes leading to
an integrated internalization of religion among israeli jewish youth. Trong
Advances in Motivation and Achievement (Vol 14, tr 105–150).
https://doi.org/10.1016/S0749-7423(05)14005-9
Assor, A., Kanat-Maymon, Y., & Roth, G. (2014). Parental conditional regard:
psychological costs and antecedents. Trong N. Weinstein (B.t.v), Human
Motivation and Interpersonal Relationships (tr 215–237).
https://doi.org/10.1007/978-94-017-8542-6_10
Assor, A., Roth, G., & Deci, E. L. (2004). The emotional costs of parents’ conditional
regard: A self-determination theory analysis. Journal of Personality, 72(1), 47–
88.
Assor, A., & Tal, K. (2012). When parents’ affection depends on child’s achievement:
Parental conditional positive regard, self-aggrandizement, shame and coping in
adolescents. Journal of Adolescence, 35(2), 249–260.
https://doi.org/10.1016/j.adolescence.2011.10.004
Baldwin, M. W., & Sinclair, L. (1996). Self-esteem and “if . . . then” contingencies of
interpersonal acceptance. Journal of Personality and Social Psychology, 71(6),
1130–1141.
Barber, B. K. (1996). Parental psychological control: Revisiting a neglected construct.
Child Development, 67(6), 3296. https://doi.org/10.2307/1131780
Baxter, A. J., Vos, T., Scott, K. M., Ferrari, A. J., & Whiteford, H. A. (2014). The global
burden of anxiety disorders in 2010. Psychological Medicine, 44(11), 2363–
2374. https://doi.org/10.1017/S0033291713003243
Bentler, P. M. (1990). Comparative fit indexes in structural models. Psychological
Bulletin, 107(2), 238–246. https://doi.org/10.1037/0033-2909.107.2.238

45
Beyers, W., & Goossens, L. (2008). Dynamics of perceived parenting and identity
formation in late adolescence. Journal of Adolescence, 31(2), 165–184.
https://doi.org/10.1016/j.adolescence.2007.04.003
Bos, A. E. R., Huijding, J., Muris, P., Vogel, L. R. R., & Biesheuvel, J. (2010). Global,
contingent and implicit self-esteem and psychopathological symptoms in
adolescents. Personality and Individual Differences, 48(3), 311–316.
https://doi.org/10.1016/j.paid.2009.10.025
Bowlby, J. (1988). A secure base: Parent-child attachment and healthy human
development. New York, NY, US: Basic Books.
Bozarth, J. D. (2013). Unconditional positive regard. Trong M. Cooper, M. O’Hara, P.
F. Schmid, & A. C. Bohart (B.t.v), The Handbook of Person-Centred
Psychotherapy & Counselling (tr 180–192). https://doi.org/10.1007/978-1-137-
32900-4_12
Brambilla, M., Assor, A., Manzi, C., & Regalia, C. (2015). Autonomous versus
controlled religiosity: family and group antecedents. The International Journal
for the Psychology of Religion, 25(3), 193–210.
https://doi.org/10.1080/10508619.2014.888902
Brown, T. A. (2015). Confirmatory factor analysis for applied research (Second
edition). New York ; London: The Guilford Press.
Brummelman, E., Thomaes, S., Walton, G. M., Poorthuis, A. M. G., Overbeek, G.,
Orobio de Castro, B., & Bushman, B. J. (2014). Unconditional regard buffers
children’s negative self-feelings. Pediatrics, 134(6), 1119–1126.
https://doi.org/10.1542/peds.2013-3698
Campbell-Sills, L., Barlow, D. H., Brown, T. A., & Hofmann, S. G. (2006). Effects of
suppression and acceptance on emotional responses of individuals with anxiety
and mood disorders. Behaviour Research and Therapy, 44(9), 1251–1263.
https://doi.org/10.1016/j.brat.2005.10.001
Comer, R. J. (2016). Fundamentals of Abnormal Psychology.
Crocker, J., & Wolfe, C. T. (2001). Contingencies of self-worth. Psychological Review,
108(3), 593–623.
Curran, T. (2018). Parental conditional regard and the development of perfectionism in
adolescent athletes: The mediating role of competence contingent self-worth.

46
Sport, Exercise, and Performance Psychology, 7(3), 284–296.
https://doi.org/10.1037/spy0000126
Curran, T., Hill, A. P., & Williams, L. J. (2017). The relationships between parental
conditional regard and adolescents’ self-critical and narcissistic perfectionism.
Personality and Individual Differences, 109, 17–22.
https://doi.org/10.1016/j.paid.2016.12.035
Ehring, T., & Quack, D. (2010). Emotion Regulation Difficulties in Trauma Survivors:
The Role of Trauma Type and PTSD Symptom Severity. Behavior Therapy,
41(4), 587–598. https://doi.org/10.1016/j.beth.2010.04.004
Everett, G. E., Hupp, S. D. A., & D. Joe Olmi. (2010). Time-out with Parents: A
Descriptive Analysis of 30 Years of Research. Education and Treatment of
Children, 33(2), 235–259. https://doi.org/10.1353/etc.0.0091
Flett, G. L., Besser, A., Davis, R. A., & Hewitt, P. L. (2003). Dimensions of
perfectionism, unconditional self-acceptance, and depression. Journal of
Rational-Emotive and Cognitive-Behavior Therapy, 21(2), 119–138.
https://doi.org/10.1023/A:1025051431957
Fromm, E. (1956). The art of loving. New York, NY, US: HarperPerennial.
Gershoff, E. T. (2002). Corporal punishment by parents and associated child behaviors
and experiences: A meta-analytic and theoretical review. Psychological Bulletin,
128(4), 539–579. https://doi.org/10.1037/0033-2909.128.4.539
Gewirtz, J. L., & Peláez-Nogueras, M. (1991). Proximal mechanisms underlying the
acquisition of moral behavior patterns. Trong Handbook of moral behavior and
development, Vol. 1: Theory; Vol. 2: Research; Vol. 3: Application. (tr 153–
182). Hillsdale, NJ, US: Lawrence Erlbaum Associates, Inc.
Grundman, J. K. (2010). Does parenting style predict identity and emotional outcomes
in emerging adulthood? (Unpublished Manuscript), Minnesota, United States.
Hewitt, P. L., Caelian, C. F., Flett, G. L., Sherry, S. B., Collins, L., & Flynn, C. A.
(2002). Perfectionism in children: Associations with depression, anxiety, and
anger. Personality and Individual Differences, 32(6), 1049–1061.
https://doi.org/10.1016/S0191-8869(01)00109-X

47
Hewitt, P. L., Flett, G. L., & Mikail, S. F. (2017). Perfectionism: A relational approach
to conceptualization, assessment, and treatment. New York, NY, US: Guilford
Press.
Hoffman, M. L. (1970). Conscience, personality, and socialization techniques. Human
Development, 13(2), 90–126. https://doi.org/10.1159/000270884
Hu, L., & Bentler, P. M. (1999). Cutoff criteria for fit indexes in covariance structure
analysis: Conventional criteria versus new alternatives. Structural Equation
Modeling: A Multidisciplinary Journal, 6(1), 1–55.
https://doi.org/10.1080/10705519909540118
Huberty, T. J. (2012). Anxiety and Depression in Children and Adolescents.
https://doi.org/10.1007/978-1-4614-3110-7
Hunt, P. C. (2005). An introduction to Vietnamese culture for rehabilitation service
providers in the United States. Culture and disability: Providing culturally
competent services, 203–223.
Israeli-Halevi, M., Assor, A., & Roth, G. (2015). Using maternal conditional positive
regard to promote anxiety suppression in adolescents: A benign strategy?
Parenting, 15(3), 187–206. https://doi.org/10.1080/15295192.2015.1053324
Itzhaki, Y., Yablon, Y. B., & Itzhaky, H. (2018). Becoming Less Religious (BLR) and
Well-Being Among High School Dropouts. Psychology of Religion and
Spirituality. https://doi.org/10.1037/rel0000179
Johnson, D., Dupuis, G., Piche, J., Clayborne, Z., & Colman, I. (2018). Adult mental
health outcomes of adolescent depression: A systematic review. Depression and
Anxiety, 35(8), 700–716. https://doi.org/10.1002/da.22777
Kanat-Maymon, Y., Roth, G., Assor, A., & Raizer, A. (2016). Controlled by love: The
harmful relational consequences of perceived conditional positive regard: CPR,
autonomy, and relationship quality. Journal of Personality, 84(4), 446–460.
https://doi.org/10.1111/jopy.12171
Kawamura, K. Y., Hunt, S. L., Frost, R. O., & DiBartolo, P. M. (2001). Perfectionism,
anxiety, and depression: Are the relationships independent? Cognitive Therapy
and Research, 25(3), 291–301. https://doi.org/10.1023/A:1010736529013

48
Kernis, M. H., Cornell, D. P., Sun, C. R., Berry, A., & Harlow, T. (1993). There’s more
to self-esteem than whether it is high or low: The importance of stability of self-
esteem. Journal of Personality and Social Psychology, 65(6), 1190–1204.
Kernis, Michael H. (2003). Toward a conceptualization of optimal self-esteem.
Psychological inquiry, 14(1), 1–26.
Kohn, A. (2006). Unconditional Parenting: Moving from Rewards and Punishments to
Love and Reason.
Kollat, S. H. (2007). The Role of Conditional Parental Regard and Excessively
Contingent Self-Esteem in Children’s Peer Relationships ((Unpublished doctoral
dissertation)). Pennsylvania State University, Pennsylvania, United States.
Kroenke, K., Spitzer, R. L., & Williams, J. B. (2001). The PHQ-9: validity of a brief
depression severity measure. Journal of General Internal Medicine, 16(9), 606–
613.
Kroenke, Kurt, Spitzer, R. L., Williams, J. B. W., Monahan, P. O., & Löwe, B. (2007).
Anxiety Disorders in Primary Care: Prevalence, Impairment, Comorbidity, and
Detection. Annals of Internal Medicine, 146(5), 317.
https://doi.org/10.7326/0003-4819-146-5-200703060-00004
Kuppens, S., Grietens, H., Onghena, P., & Michiels, D. (2009). Measuring parenting
dimensions in middle childhood: Multitrait-multimethod analysis of child,
mother, and father ratings. European Journal of Psychological Assessment,
25(3), 133–140. https://doi.org/10.1027/1015-5759.25.3.133
Kwak, H.-J., & Jang, Y.-J. (2014). The effects of maternal conditional regard on pre-
service kindergarten teachers’ emotional competence: Focusing on the mediating
impacts of introjection. Child Education, 23(3), 169–185.
Lakey, C. E., Hirsch, J. K., Nelson, L. A., & Nsamenang, S. A. (2014). Effects of
contingent self-esteem on depressive symptoms and suicidal behavior. Death
Studies, 38(9), 563–570. https://doi.org/10.1080/07481187.2013.809035
Larzelere, R. E., & Kuhn, B. R. (2005). Comparing child outcomes of physical
punishment and alternative disciplinary tactics: A meta-analysis. Clinical Child
and Family Psychology Review, 8(1), 1–37.

49
Lee, J. Y., & Jang, H. S. (2015). Analysis of the structural relationship between mock
autonomy support and conditional attention, autonomic motivation, pro-social
behavior. Korean Journal of Psychology, 20(2), 133–155.
Lynch, F. L., & Clarke, G. N. (2006). Estimating the economic burden of depression in
children and adolescents. American Journal of Preventive Medicine, 31(6), 143–
151. https://doi.org/10.1016/j.amepre.2006.07.001
McHale, J. P., Dinh, K. T., & Rao, N. (2014). Understanding coparenting and family
systems among east and southeast asian-heritage families. Trong H. Selin (B.t.v),
Parenting Across Cultures (Vol 7, tr 163–173). https://doi.org/10.1007/978-94-
007-7503-9_12
Mead, G. (1981). Mind, Self, and Society from the Standpoint of a Social Behaviorist.
Chicago, United States: University of Chicago Press.
Mestechkina, T., Son, N. D., & Shin, J. Y. (2014). Parenting in Vietnam. Trong H. Selin
(B.t.v), Parenting Across Cultures (Vol 7, tr 47–57). https://doi.org/10.1007/978-
94-007-7503-9_5
Miller, A. (1979). Prisoners of Childhood: The Drama of the Gifted Child and the
Search for the True Self. Basic Books.
Moller, A. C., Roth, G., Niemiec, C. P., Kanat-Maymon, Y., & Deci, E. L. (2019).
Mediators of the associations between parents’ conditional regard and the quality
of their adult-children’s peer-relationships. Motivation and Emotion, 43(1), 35–
51. https://doi.org/10.1007/s11031-018-9727-x
Moon, H. (2017). The relationship of self-control and academic burnout of adolescents:
With the mediating effects of parental conditioning regard and psychological
control. Korean Association For Learner-Centered Curriculum And Instruction,
17(12), 139–161. https://doi.org/10.22251/jlcci.2017.17.12.139
Morawska, A., & Sanders, M. (2011). Parental use of time out revisited: A useful or
harmful parenting strategy? Journal of Child and Family Studies, 20(1), 1–8.
https://doi.org/10.1007/s10826-010-9371-x
Naicker, K., Galambos, N. L., Zeng, Y., Senthilselvan, A., & Colman, I. (2013). Social,
demographic, and health outcomes in the 10 years following adolescent
depression. Journal of Adolescent Health, 52(5), 533–538.
https://doi.org/10.1016/j.jadohealth.2012.12.016

50
Nepon, T., Flett, G. L., Hewitt, P. L., & Molnar, D. S. (2011). Perfectionism, negative
social feedback, and interpersonal rumination in depression and social anxiety.
Canadian Journal of Behavioural Science/Revue Canadienne Des Sciences Du
Comportement, 43(4), 297–308. https://doi.org/10.1037/a0025032
Nguyen, D. T., Dedding, C., Pham, T. T., Wright, P., & Bunders, J. (2013). Depression,
anxiety, and suicidal ideation among Vietnamese secondary school students and
proposed solutions: A cross-sectional study. BMC Public Health, 13(1), 1195.
https://doi.org/10.1186/1471-2458-13-1195
O’Connor, R. C., Rasmussen, S., & Hawton, K. (2010). Predicting depression, anxiety
and self-harm in adolescents: The role of perfectionism and acute life stress.
Behaviour Research and Therapy, 48(1), 52–59.
https://doi.org/10.1016/j.brat.2009.09.008
Øverup, C. S., Brunson, J. A., Steers, M.-L. N., & Acitelli, L. K. (2017). I know I have
to earn your love: how the family environment shapes feelings of worthiness of
love. International Journal of Adolescence and Youth, 22(1), 16–35.
https://doi.org/10.1080/02673843.2013.868362
Perrone, L., Borelli, J. L., Smiley, P., Rasmussen, H. F., & Hilt, L. M. (2016). Do
children’s attributions mediate the link between parental conditional regard and
child depression and emotion? Journal of Child and Family Studies, 25(11),
3387–3402. https://doi.org/10.1007/s10826-016-0495-5
Quested, E., Bosch, J. A., Burns, V. E., Cumming, J., Ntoumanis, N., & Duda, J. L.
(2011). Basic psychological need satisfaction, stress-related appraisals, and
dancers’ cortisol and anxiety responses. Journal of Sport & Exercise Psychology,
33(6), 828–846.
Quetsch, L. B., Wallace, N., Herschell, A., & McNeil, C. (2015). Weighing in on the
time-out controversy: An empirical perspective. The Clinical Psychologist,
68(2), 4–19.
Raudino, A., Fergusson, D. M., & Horwood, L. J. (2013). The quality of parent/child
relationships in adolescence is associated with poor adult psychosocial
adjustment. Journal of Adolescence, 36(2), 331–340.
https://doi.org/10.1016/j.adolescence.2012.12.002

51
Riem, M. M. E., van IJzendoorn, M. H., Tops, M., Boksem, M. A. S., Rombouts, S. A.
R. B., & Bakermans-Kranenburg, M. J. (2013). Oxytocin effects on complex
brain networks are moderated by experiences of maternal love withdrawal.
European Neuropsychopharmacology, 23(10), 1288–1295.
https://doi.org/10.1016/j.euroneuro.2013.01.011
Rogers, C. R. (1951). Client-Centered Therapy; Its Current Practice, Implications, and
Theory. Oxford, England: Houghton Mifflin.
Rogers, C. R. (1959). A Theory of Therapy, Personality, and Interpersonal
Relationships: As Developed in the Client-Centered Framework. Trong S. E.
Kosch (B.t.v), Psychology: A Study of a Science. Formulations of the Person and
the Social Context (Vol 3, tr 184–256). New York: McGraw-Hill.
Roth, G. (2008). Perceived parental conditional regard and autonomy support as
predictors of young adults’ self- versus other-oriented prosocial tendencies.
Journal of Personality, 76(3), 513–534. https://doi.org/10.1111/j.1467-
6494.2008.00494.x
Roth, G., & Assor, A. (2010). Parental conditional regard as a predictor of deficiencies
in young children’s capacities to respond to sad feelings. Infant and Child
Development, n/a-n/a. https://doi.org/10.1002/icd.676
Roth, G., & Assor, A. (2012). The costs of parental pressure to express emotions:
Conditional regard and autonomy support as predictors of emotion regulation and
intimacy. Journal of Adolescence, 35(4), 799–808.
https://doi.org/10.1016/j.adolescence.2011.11.005
Roth, G., Assor, A., Niemiec, C. P., Ryan, R. M., & Deci, E. L. (2009). The emotional
and academic consequences of parental conditional regard: Comparing
conditional positive regard, conditional negative regard, and autonomy support
as parenting practices. Developmental Psychology, 45(4), 1119–1142.
https://doi.org/10.1037/a0015272
Ryan, R. M., & Deci, E. L. (2017). Self-Determination Theory: Basic Psychological
Needs in Motivation, Development, and Wellness. New York: Guilford Press.
Saeed, A., & Hanif, R. (2014). Effect of parental conditional regard on parent-
adolescents relationship quality: Emotional state as moderator. Pakistan Journal
of Psychological Research, 29(2), 315–331.

52
Sargent, J. T., Crocker, J., & Luhtanen, R. K. (2006). Contingencies of self–worth and
depressive symptoms in college students. Journal of Social and Clinical
Psychology, 25(6), 628–646. https://doi.org/10.1521/jscp.2006.25.6.628
Shapiro, A. (2004). Revisiting the generation gap: Exploring the relationships of
parent/adult-child dyads. The International Journal of Aging and Human
Development, 58(2), 127–146. https://doi.org/10.2190/EVFK-7F2X-KQNV-
DH58
Smarr, K. L., & Keefer, A. L. (2011). Measures of depression and depressive symptoms:
Beck Depression Inventory-II (BDI-II), Center for Epidemiologic Studies
Depression Scale (CES-D), Geriatric Depression Scale (GDS), Hospital Anxiety
and Depression Scale (HADS), and Patient Health Questionnaire-9 (PHQ-9).
Arthritis Care & Research, 63 Suppl 11, S454-466.
https://doi.org/10.1002/acr.20556
Smiley, P. A., Buttitta, K. V., Chung, S. Y., Coffey, J. K., Wang, B. A., & Borelli, J. L.
(2016). Anger in response to challenge: Children’s emotion socialization predicts
approach versus avoidance. Motivation and Emotion, 40(6), 923–935.
https://doi.org/10.1007/s11031-016-9583-5
Soenens, B., & Vansteenkiste, M. (2010). A theoretical upgrade of the concept of
parental psychological control: Proposing new insights on the basis of self-
determination theory. Developmental Review, 30(1), 74–99.
https://doi.org/10.1016/j.dr.2009.11.001
Sowislo, J. F., & Orth, U. (2013). Does low self-esteem predict depression and anxiety?
A meta-analysis of longitudinal studies. Psychological Bulletin, 139(1), 213–
240. https://doi.org/10.1037/a0028931
Spitzer, R. L., Kroenke, K., Williams, J. B. W., & Löwe, B. (2006). A Brief Measure
for Assessing Generalized Anxiety Disorder: The GAD-7. Archives of Internal
Medicine, 166(10), 1092. https://doi.org/10.1001/archinte.166.10.1092
Tomaka, J., Morales-Monks, S., & Shamaley, A. G. (2013). Stress and coping mediate
relationships between contingent and global self-esteem and alcohol-related
problems among college drinkers: Alcohol-related problems. Stress and Health,
29(3), 205–213. https://doi.org/10.1002/smi.2448

53
United Nations Children’s Fund. (2018). Mental Health and Psychosocial Wellbeing
Among Children and Young People in Viet Nam. Hanoi, Vietnam.
Wei, M., Shaffer, P. A., Young, S. K., & Zakalik, R. A. (2005). Adult Attachment,
Shame, Depression, and Loneliness: The Mediation Role of Basic Psychological
Needs Satisfaction. Journal of Counseling Psychology, 52(4), 591–601.
https://doi.org/10.1037/0022-0167.52.4.591
Weiner, I. B., & Craighead, W. E. (2010). The Corsini Encyclopedia of Psychology, 4
Volume Set.
Weiss, B., Dang, M., Trung, L., Nguyen, M. C., Thuy, N. T. H., & Pollack, A. (2014).
A nationally representative epidemiological and risk factor assessment of child
mental health in Vietnam. International Perspectives in Psychology: Research,
Practice, Consultation, 3(3), 139–153. https://doi.org/10.1037/ipp0000016
Wouters, S., Colpin, H., Luyckx, K., & Verschueren, K. (2018). Explaining the
relationship between parenting and internalizing symptoms: The role of self-
esteem level and contingency. Journal of Child and Family Studies, 27(10),
3402–3412. https://doi.org/10.1007/s10826-018-1167-4
Wouters, S., Duriez, B., Luyckx, K., Klimstra, T., Colpin, H., Soenens, B., &
Verschueren, K. (2013). Depressive symptoms in university freshmen:
Longitudinal relations with contingent self-esteem and level of self-esteem.
Journal of Research in Personality, 47(4), 356–363.
https://doi.org/10.1016/j.jrp.2013.03.001
Wouters, S., Thomaes, S., Colpin, H., Luyckx, K., & Verschueren, K. (2018). How does
conditional regard impact well-being and eagerness to learn? An experimental
study. Psychologica Belgica, 58(1), 105–114. https://doi.org/10.5334/pb.401

54
Phụ lục A: Thang đo Nhận thức của Con cái về Sự Quan tâm có Điều kiện của Mẹ

Cha mẹ thường có những yêu cầu, mong muốn, hay kỳ vọng đối với lối sống, cách cư xử, cũng như những thành tựu của con cái.
Dưới đây là những phản ứng mà bạn có thể cảm nhận được từ mẹ khi bạn làm theo hoặc không làm theo những mong muốn, kỳ vọng,
hay yêu cầu của mẹ. Xin hãy đọc và đánh dấu (X) vào ô tương ứng với mức độ chính xác của mỗi câu theo thang điểm:
Rất không Không Phần nhiều là Phần nhiều là Rất
chính xác chính xác không chính xác Phân vân chính xác Chính xác Chính xác
1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7
1. Nhìn chung tôi cảm thấy mẹ sẽ chấp nhận tôi hơn nếu tôi làm theo đúng ý của mẹ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢
2. Khi tôi đáp ứng được mong muốn của mẹ, tôi cảm thấy mẹ trở nên dịu dàng hơn với tôi ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢
3. Tôi cảm thấy mẹ tình cảm với tôi hơn mỗi khi tôi làm mẹ hài lòng ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢
4. Khi tôi làm mẹ thất vọng, tôi cảm thấy mẹ trở nên mất kiên nhẫn với tôi ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢
5. Tôi cảm thấy mẹ đánh giá cao về tôi những khi tôi đạt được kỳ vọng của mẹ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢
6. Khi tôi không làm theo mong muốn của mẹ, tôi cảm thấy mẹ không chấp nhận tôi ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢
7. Tôi cảm thấy nếu tôi làm mẹ thất vọng, mẹ sẽ khó chịu với tôi một thời gian ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢
8. Nhìn chung tôi cảm thấy mẹ dành cho tôi ít tình cảm hơn khi tôi không làm theo ý mẹ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢
9. Tôi cảm thấy mẹ trở nên bớt dịu dàng với tôi một thời gian khi tôi không làm theo kỳ vọng của mẹ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢
10. Tôi cảm thấy mẹ bớt coi trọng tôi mỗi khi tôi làm điều gì đó khiến mẹ không vừa lòng ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢
11. Tôi cảm thấy mẹ trở nên dễ chịu với tôi hơn mỗi khi tôi đáp ứng được kỳ vọng của mẹ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢

55
Phụ lục A (tiếp theo)

Rất không Không Phần nhiều là Phần nhiều là Rất


chính xác chính xác không chính xác Phân vân chính xác Chính xác Chính xác
1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7
12. Khi tôi làm mẹ không vừa lòng, tôi cảm thấy mẹ bớt quan tâm tới tôi một thời gian ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢
13. Tôi cảm thấy mẹ đánh giá thấp về tôi khi tôi không đáp ứng được mong muốn của mẹ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢
14. Những khi tôi làm điều gì đó khiến mẹ vừa lòng, tôi cảm thấy mẹ coi trọng tôi hơn. ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢
15. Nhìn chung mỗi khi tôi không làm theo đúng ý của mẹ, tôi cảm thấy mẹ trở nên ít tôn trọng tôi hơn ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢
16. Tôi cảm thấy mẹ tôn trọng tôi hơn khi tôi đáp ứng được kỳ vọng của mẹ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢
17. Nếu tôi không đáp ứng được kỳ vọng của mẹ, tôi cảm thấy mẹ sẽ thấy mất mặt vì tôi ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢
18. Khi tôi đáp ứng được kỳ vọng của mẹ, tôi cảm thấy mẹ rộng lượng với tôi hơn ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢
19. Mỗi khi tôi không làm theo yêu cầu của mẹ, tôi cảm thấy mẹ bớt rộng lượng với tôi hơn ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢
20. Khi tôi làm điều gì đó khiến mẹ vừa lòng, tôi cảm thấy mẹ quan tâm tới tôi nhiều hơn ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢
21. Khi tôi làm theo kỳ vọng của mẹ, tôi cảm thấy mẹ kiên nhẫn với tôi hơn ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢
22. Nhìn chung, tôi cảm thấy nếu tôi đáp ứng được kỳ vọng của mẹ thì mẹ sẽ tự hào về tôi ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢ ▢

56
Phụ lục B: Thang đo Rối loạn Lo âu Lan tỏa 7 item

Xin hãy đánh dấu (X) vào số tương ứng với mức độ thường xuyên mà bạn có những cảm nhận sau trong khoảng 02 tuần vừa qua.

Hoàn toàn không Một vài ngày Hơn một tuần Gần như mọi ngày
1 2 3 4

Trong 02 tuần vừa qua, số lần mà bạn cảm thấy... 1 2 3 4


1. Lo lắng, lo âu, hay bồn chồn ▢ ▢ ▢ ▢
2. Không có khả năng dừng lại hoặc kiểm soát cảm giác lo lắng ▢ ▢ ▢ ▢
3. Lo lắng nhiều về nhiều chuyện ▢ ▢ ▢ ▢
4. Khó thư giãn ▢ ▢ ▢ ▢
5. Bồn chồn không thể ngồi yên ▢ ▢ ▢ ▢
6. Dễ dàng trở nên bực mình, khó chịu ▢ ▢ ▢ ▢
7. Cảm thấy lo sợ như thể điều gì đó tồi tệ sẽ xảy ra ▢ ▢ ▢ ▢

57
Phụ lục C: Bảng Câu hỏi Sức khỏe Bệnh nhân 9 item

Xin hãy đánh dấu (X) vào số tương ứng với mức độ thường xuyên mà bạn có những cảm nhận sau trong khoảng 02 tuần vừa qua.

Hoàn toàn không Một vài ngày Hơn một tuần Gần như mọi ngày
1 2 3 4

Trong 02 tuần vừa qua, số lần mà bạn cảm thấy... 1 2 3 4


1. Không hứng thú với việc gì ▢ ▢ ▢ ▢
2. Cảm thấy buồn bã, chán nản, hay vô vọng ▢ ▢ ▢ ▢
3. Khó đi vào giấc ngủ, khó ngủ sâu, hoặc ngủ quá nhiều ▢ ▢ ▢ ▢
4. Cảm thấy mệt mỏi hoặc thiếu năng lượng ▢ ▢ ▢ ▢
5. Chán ăn hoặc ăn quá nhiều ▢ ▢ ▢ ▢
6. Cảm thấy tệ về bản thân – hoặc thấy mình là một kẻ thất bại hoặc thấy mình đã làm thất vọng gia đình hoặc
▢ ▢ ▢ ▢
bản thân
7. Khó tập trung vào bất cứ việc gì, chẳng hạn đọc sách, đọc báo hay xem tivi ▢ ▢ ▢ ▢
8. Di chuyển hay nói quá chậm chạp khiến cho người khác không thể nhận ra?
▢ ▢ ▢ ▢
Hoặc ngược lại - đứng ngồi không yên và quá bồn chồn đến mức phải đi lại nhiều hơn bình thường
9. Nghĩ rằng tốt hơn là mình nên chết đi hoặc nghĩ đến việc làm đau bản thân theo một cách nào đó ▢ ▢ ▢ ▢

58

You might also like