Professional Documents
Culture Documents
Tóm tắt Hồ Thị Nhâm
Tóm tắt Hồ Thị Nhâm
HỒ THỊ NHÂM
HÀ NỘI - 2019
Công trình được hoàn thành
tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1.1. NGHIÊN CỨU VỀ DÂN CHỦ, DÂN CHỦ XÃ HỘI, BẮC ÂU CỦA
CÁC TÁC GIẢ NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Những nghiên cứu về dân chủ
Tiêu biểu có thể kể đến một số tác giả như David Held với cuốn Models
of democracy; Tocqueville với cuốn Democracy in America; tác giả John
Dunn với Democracy:The Unfinished Journey,508 Bc to Ad 1993. Tác giả
Paul Cartledge với Democracy - a life. Joseph Schumpeter với Capitalism,
Socialism, and Democracy; Amartya Sen với tiểu luận Democracy as a
Universal Value…
1.1.2. Những nghiên cứu về dân chủ xã hội
Có thể điểm một số công trình tiêu biểu như Friedrich Ebert Stiftung
(FES) với History of Social Democracy và Basics on Social Democracy.
Thomas Meyer với The Theory of Social Democracy, Social Democracy - An
Introduction, Anthony Giddens với The Third Way, Herbert Kitschelt với The
Transformation of European Social Democracy…
1.1.3. Những nghiên cứu về Bắc Âu, Dân chủ xã hội ở Bắc Âu
Một số nghiên cứu tiêu biểu như: Trung tâm Bắc Âu về các vấn đề phúc
lợi và xã hội với ấn phẩm Nordic centre for welfare and social issues, Mary
Hilson với The Nordic Model: Scandinavia since 1945; Tác giả Nima
Sanandaji với công trình Scandinavian Unexceptionalism Culture, Markets,
and the Failure of Third-Way Socialism. The Nordic Economic Model:
Successes, Challenges and the Future của Ngân hàng Dự trữ Liên bang
Philadelphia. 瑞典社会主义调查 của giáo sư Ngô Giang; 六个为什么 của
Cục lý thuyết, Cục tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc…
1.2. NGHIÊN CỨU VỀ DÂN CHỦ, DÂN CHỦ XÃ HỘI VÀ BẮC ÂU
CỦA CÁC TÁC GIẢ VIỆT NAM
1.2.1. Những nghiên cứu về dân chủ
Có thể điểm một số công trình tiêu biểu như: Các mô hình dân chủ trên
thế giới của tác giả Ngô Huy Đức; Dân chủ, độc tài và phát triển của tác giả
Hồ Sỹ Quý. Cuốn “Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở
hiện nay” của Phan Xuân Sơn. Cuốn “Dân chủ ở cơ sở qua kinh nghiệm của
Thụy Điển và Trung Quốc” của Vũ Văn Hiền. Cuốn “Dân chủ và tập trung
dân chủ - lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Tiến Phồn…
5
1.2.2. Những nghiên cứu về Dân chủ xã hội
Có thể điểm một số công trình tiêu biểu như: Tác giả Trần Nhâm với
cuốn Về trào lưu xã hội dân chủ hiện đại. Các tác giả Hoàng Chí Bảo, Nguyễn
Thanh Tuấn, Nguyễn Lam Sơn: Chủ nghĩa xã hội dân chủ. Huyền thoại và bi
kịch; Tác giả Trịnh Thị Xuyến, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số
3.2015 - Những thách thức đối với đảng chính trị ở một số nước châu Âu
trong bối cảnh toàn cầu hóa; Các tác giả Tống Đức Thảo, Bùi Việt Hương với
cuốn Trào lưu xã hội dân chủ ở một số nước phương Tây hiện nay …
Các công trình này đều đã nêu được những vấn đề cơ bản về lý luận như
nguồn gốc, các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội dân chủ; những vấn
đề đặt ra hiện nay cũng như những ảnh hưởng của nó trong nền chính trị
đương đại; đồng thời đặt ra vấn đề cần có những nhìn nhận đúng đắn, khách
quan về chủ nghĩa xã hội dân chủ.
1.2.3. Những nghiên cứu về Bắc Âu, Dân chủ xã hội ở Bắc Âu
Cuốn sách “Mô hình phát triển Bắc Âu” và “Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về xã hội dân sự ở liên minh Châu Âu” của tác giả Đinh Công Tuấn.
“Mô hình phát triển xã hội của một số nước phát triển châu Âu - Kinh nghiệm
và ý nghĩa đối với Việt Nam” của Nguyễn Quang Thuấn, Bùi Ngọc Quang,
Nhóm tác giả Thái Vĩnh Thắng, Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Chu Dương với
Thể chế chính trị các nước Châu Âu. Bài viết “Kinh tế thị trường xã hội: Lý
thuyết và mô hình của một số nước, so sánh với Mô hình kinh tế thị trường
định hướng Xã hội chủ nghĩa của Việt Nam” của PGS.TS. Hà Văn Hội…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về dân chủ, Dân chủ xã hội, về
Bắc Âu của các tác giả Việt Nam hay của các tác giả nước ngoài là rất phong
phú và đa diện, đã làm nổi bật được các vấn đề cơ bản trên những phương
diện cụ thể mà các công trình đó đề cập. Những nguồn tư liệu này là rất có ý
nghĩa để trên cơ sở đó, tác giả phân tích, đánh giá, luận giải về vấn đề mình
đang nghiên cứu một cách khoa học hơn, có tính thực tiễn hơn…
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Những nội dung đã được các tác giả nghiên cứu
Thứ nhất, về vấn đề dân chủ: Đã có sự đa diện, đa chiều trong cách tiếp
cận nghiên cứu về dân chủ từ một lịch sử rất dài của nó cho đến nay. Hầu hết
các nghiên cứu đều đã chỉ ra khái niệm, các tính chất, các hình thức, ưu và
khuyết điểm của dân chủ, các nền dân chủ trong lịch sử, cũng như phân tích,
phân loại các mô hình dân chủ trên thế giới.
6
Thứ hai, về dân chủ xã hội: Dân chủ xã hội đã được tiếp cận nghiên cứu
trên nhiều lập trường chính trị khác nhau. Trên một số khía cạnh của DCXH,
đặc biệt là giai đoạn 2008 trở về trước, các nghiên cứu đã chỉ ra được lịch sử
hình thành của DCXH, các giá trị cơ bản của nó cũng như quá trình bổ sung
các giá trị; sự phát triển ở từng giai đoạn của DCXH.
Thứ ba, về vấn đề mô hình Bắc Âu: Là một mô hình tiêu biểu trên nhiều
lĩnh vực, mô hình Bắc Âu đã được nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới
đề cập đến. Các nghiên cứu đó đã chỉ ra được sự hình thành, những ưu và
nhược điểm, những thuận lợi và khó khăn của mô hình này. Các nghiên cứu
cũng đã chỉ ra được những bình diện cụ thể của mô hình Bắc Âu như về nhà
nước phúc lợi, chính sách kinh tế xã hội, về bình đẳng giới, v.v..
1.3.2. Những nội dung cần tiếp tục nghiên cứu
- Nghiên cứu về DCXH tuy đã có một vài công trình (của các tác giả
trong nước hay các công trình dịch), tuy nhiên đó là những nghiên cứu ở giai
đoạn trước. Dân chủ xã hội không phải mô hình tĩnh, lý thuyết của nó luôn có
sự bổ sung, điều chỉnh, nhất là ở giai đoạn hiện nay. Hiện các Đảng DCXH
đang gặp những khó khăn được xem là chưa từng có và DCXH vẫn tiếp tục
điều chỉnh để có thể tồn tại. Vì vậy nghiên cứu về lý thuyết, rất cần có những
công trình mới mẻ hơn về DCXH, nhất là giai đoạn 10 năm (từ 2008 đến nay).
Đây là giai đoạn DCXH đang định vị lại các mục tiêu và giá trị của mình, tái
cấu trúc trên nhiều phương diện để ứng phó với những đổi thay trong một thế
giới đang có nhiều thay đổi.
- Ở Việt Nam, tuy đã có một vài công trình nghiên cứu về Bắc Âu
nhưng những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc phân tích về kinh tế xã
hội Bắc Âu nói chung. Dưới lăng kính của Chính trị học, chưa có tác giả nào
nghiên cứu về DCXH ở các nước Bắc Âu, nhất là về các giá trị dân chủ và
một số biến đổi của mô hình này. Bắc Âu là mô hình khá đặc biệt, mang tính
hình mẫu cho nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay nghiên cứu. Bắc Âu có
những giá trị (điều đáng quý, đáng học hỏi) của mô hình này rất cần được
nghiên cứu để từ đó rút ra một số gợi mở cho Việt Nam trong quá trình hội
nhập và phát triển. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn của mô
hình này, chúng ta có thể nghiên cứu, tham khảo những kinh nghiệm trên
nhiều lĩnh vực của Bắc Âu, phù hợp với đặc điểm thể chế, văn hóa, lịch sử và
con người Việt Nam.
7
Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ DÂN CHỦ XÃ HỘI,
MÔ HÌNH DÂN CHỦ XÃ HỘI Ở BẮC ÂU
Dân chủ là vấn đề đa diện, đa chiều nhưng nhìn chung, từ nguyên của
dân chủ vẫn là “Cai trị của người dân”, nhân dân là chủ thể gốc của quyền lực.
Cách thức làm chủ của người dân và sự lựa chọn quốc gia làm cho các mô
hình dân chủ khác nhau. Với những mô hình dân chủ cho đến nay, Chủ nghĩa
xã hội dân chủ là mô hình đã trải qua những biến đổi lịch sử. Chủ nghĩa xã hội
dân chủ là lý thuyết đa nguyên được hình thành từ nhiều nguồn gốc, lý thuyết.
Mặc dù có một số tư tưởng tiến bộ nhất định về tự do, dân chủ, đoàn kết, nâng
cao đời sống cho một bộ phận người lao động và có sự phê phán chủ nghĩa tư
bản ở một số luận điểm nhất định, tuy nhiên bản chất của chủ nghĩa xã hội dân
chủ là để thực hiện một số cải cách trong phạm vi chủ nghĩa tư bản. Từ vai trò
lịch sử, chủ nghĩa xã hội dân chủ ở các nước tư bản chủ nghĩa như là để “chữa
lành” những căn bệnh của chủ nghĩa tư bản: Trong đó có sự tồn tại của lĩnh
vực kinh tế sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa; trong lĩnh vực chính trị là đa
đảng, dân chủ nghị viện, tam quyền phân lập và hệ thống chính trị tư bản chủ
nghĩa; chủ trương đa nguyên trong lĩnh vực tư tưởng.
Trong thời hiện đại, dân chủ xã hội tồn tại không chỉ như một hình thức
lý thuyết mà còn là một hình thức thực tế. Sự tồn tại lâu dài của Đảng Dân chủ
Xã hội ở nhiều nước tư bản phương Tây đã có tác động sâu sắc đến các quá
trình chính trị của thế giới đương đại. Thời điểm thịnh suy của nó ở các quốc
gia là khác nhau, nhưng nó luôn điều chỉnh để thích ứng, và trên thực tế cho
đến nay nó đã thực hiện điều chỉnh nhiều lần. Điều chỉnh là cần thiết để tồn tại
nhưng điều chỉnh cũng làm tính chất của DCXH không ngừng biến đổi theo
một xu hướng rất rõ rệt là ngày càng xích lại gần với chủ nghĩa thực dân hơn,
đặc biệt là từ Con đường thứ ba. Việc xích lại gần với chủ nghĩa thực dân hơn,
phát triển song tồn với chủ nghĩa tư bản cũng đồng nghĩa với việc ngày càng
rời xa những mục tiêu đặt ra ban đầu.
12
Chương 3
MỘT SỐ GIÁ TRỊ CHỦ YẾU
CỦA MÔ HÌNH DÂN CHỦ XÃ HỘI BẮC ÂU
3.1. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN MÔ HÌNH DÂN CHỦ XÃ HỘI
BẮC ÂU
3.1.1. Yếu tố tự nhiên
Khí hậu khắc nghiệt, điều kiện tự nhiên tương đối nghèo nàn đã hình
thành ở người dân Bắc Âu những đặc tính đặc biệt: Không chỉ có quyết tâm
kiên trì, làm việc chăm chỉ, có kế hoạch mà còn có sự tin tưởng vào sự gắn kết
xã hội mạnh mẽ để tồn tại
3.1.2. Các yếu tố lịch sử và văn hóa
Văn hóa Bắc Âu có tính đồng thuận và định hướng tập thể, bị chi phối
bởi nông nghiệp. Bắc Âu có một tầng lớp nông dân độc lập, lịch sử ít có đấu
tranh giai cấp và việc giải quyết xung đột thường thiên về thỏa hiệp là chủ
yếu. Chế độ phong kiến Bắc Âu có nhiều điểm khác biệt so với các vùng lân
cận. Văn hoá lối sống Bắc Âu cũng có sự ảnh hưởng của Luật “Jante”. Bắc Âu
có vốn xã hội rất cao và lịch sử có các hiệp hội tự nguyện xuất hiện sớm.
3.1.3. Truyền thống dân chủ và tự do
Bắc Âu cũng là nơi sớm có truyền thống tự do, dân chủ mà hệ thống
Nghị viện là nền tảng. Truyền thống dân chủ còn được các Đảng DCXH khắc
họa đậm nét ở Bắc Âu, nổi bật là Folkhemmet (các nhà nhân dân).
3.1.4. Các yếu tố chính trị
Các đảng DCXH với sức ảnh hưởng mạnh mẽ và một hệ thống công
đoàn thành công, mối quan hệ Đảng DCXH - Công đoàn - nhân dân rất đặc
biệt là những yếu tố chính trị quan trọng đối với sự vận hành của mô hình
DCXH Bắc Âu.
3.2. GIÁ TRỊ CHỦ YẾU CỦA MÔ HÌNH DÂN CHỦ XÃ HỘI BẮC ÂU
Luận án này chỉ đề cập đến giá trị của mô hình DCXH Bắc Âu với tư
cách là những điều có ý nghĩa, là đáng quý, đáng giá và đáng học hỏi của mô
hình dân chủ này trên các lĩnh vực chủ yếu. Theo đó, Mô hình DCXH Bắc Âu
có 4 giá trị chủ yếu, cụ thể là:
3.2.1. Đối thoại xã hội “Social dialogue"
“Social dialogue" - Đối thoại xã hội là một thuật ngữ đã được ILO định
nghĩa trong lĩnh vực lao động. Theo đó, Đối thoại xã hội bao gồm tất cả các
loại đàm phán, tham vấn hoặc trao đổi thông tin đơn giản giữa các đại diện
của các chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động, trong các vấn
đề quan tâm chung liên quan đến chính sách kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, đối
13
thoại xã hội theo nghĩa rộng hơn không chỉ có trong lĩnh vực lao động, mà còn
diễn ra trong tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị - xã hội.
Có thể hiểu theo nghĩa rộng, đối thoại xã hội là:
1) Sự kết hợp nhiều tiếng nói, câu chuyện, quan điểm; 2)Yêu cầu, thăm
dò, khám phá được chia sẻ; 3) Lắng nghe sâu sắc để thúc đẩy sự tôn trọng và
hiểu biết; 4) Chia sẻ ý nghĩa để cùng kiến tạo kiến thức.
3.2.1.1. Đối thoại xã hội trong kinh tế, đặc biệt là về lao động, việc làm
Khác với quan hệ lao động ở các nước khác, mô hình xã hội Bắc Âu có
quan hệ lao động hài hòa, xung đột quy mô lớn giữa lao động và giới chủ là
rất hiếm, điều này được hình thành từ lâu trong lịch sử Bắc Âu. Quan hệ lao
động Bắc Âu dựa trên bình đẳng, thỏa hiệp, hợp tác. Khái niệm bình đẳng,
thỏa hiệp và hợp tác không thể tách rời khỏi truyền thống Bắc Âu. Sự hình
thành ý tưởng này trước tiên được đúc kết từ lịch sử, và thứ hai là từ sự ảnh
hưởng của lý thuyết Dân chủ xã hội với sự tác động mạnh mẽ của nó trong
nền chính trị Bắc Âu. Thụy Điển là một điển hình của mô hình Bắc Âu về
bình đẳng, thỏa hiệp, hợp tác dựa trên khái niệm cơ bản của quá trình quan hệ
lao động.
3.2.1.2. Đối thoại xã hội trong chính trị
Mô hình chính trị dân chủ xã hội Bắc Âu là cơ chế thỏa hiệp lợi ích cho
tất cả các giai cấp và các nhóm, đòi hỏi sức mạnh của các lực lượng chính trị
khác nhau (tả, hữu, trung dung) và các nhóm khác nhau để cùng phối hợp và
tham khảo ý kiến. Trong cơ chế này, mối quan hệ lao động là vấn đề cốt lõi.
Trong xã hội Bắc Âu, các bên liên quan đến xung đột xã hội đồng ý đạt được
lợi ích thông qua phương pháp tiếp cận đa chiều để đạt được kết quả tốt hơn,
chứ không phải thông qua các biện pháp mạnh mẽ hoặc bạo lực. Quy tắc này
có thể điều phối lợi ích của các nhóm xã hội và các giai cấp, do đó đưa đến
những quy ước trong thiết lập trật tự xã hội. Nó tạo thành một mô hình hành vi
chính trị độc đáo.
3.2.1.3. Đối thoại xã hội trong các vấn đề dân sự, xã hội công dân
Sự tham gia của công dân trong việc quản lý các vấn đề của nhà nước
bằng cách tham gia các tổ chức xã hội khác nhau là một đặc điểm nổi bật của
xã hội Bắc Âu. Trong mô hình Bắc Âu, hầu hết các ngành đều có các nhóm
bảo vệ lợi ích riêng của mình, chẳng hạn như công đoàn, các hiệp hội của các
nhà tuyển dụng, các hiệp hội ngành và các phòng thương mại. Các quốc gia
Bắc Âu bắt đầu điều chỉnh sự phát triển của các tổ chức xã hội rất sớm, các tổ
chức xã hội sớm nhất được phát triển bởi các tôn giáo và các hiệp hội dân sự
của nhân dân.
14
Chương 4
NHỮNG BIẾN ĐỔI CHỦ YẾU TRONG MÔ HÌNH
DÂN CHỦ XÃ HỘI BẮC ÂU VÀ MỘT SỐ GỢI MỞ CHO VIỆT NAM
4.1. BIẾN ĐỔI CHỦ YẾU TRONG MÔ HÌNH DÂN CHỦ XÃ HỘI Ở
CÁC NƯỚC BẮC ÂU HIỆN NAY
4.1.1. Các yếu tố tác động đến sự biến đổi trong mô hình Dân chủ xã
hội Bắc Âu
Mô hình Bắc Âu đang có sự tác động của các yếu tố sau đây:
Yếu tố thứ nhất, sự khủng hoảng của dân chủ xã hội
Trên toàn châu Âu, các đảng DCXH nhìn chung hiện đang đứng trước
nhiều thách thức: Một là, châu Âu và toàn cầu hoá.Hai là, bất bình đẳng. Ba
là, tính bền vững. Bốn là, cải thiện chủ nghĩa tư bản. Năm là, vai trò của nhà
nước.Sáu là, tổ chức dân chủ và các đảng chính trị.
Yếu tố thứ hai, vấn đề nhân khẩu học.
Thách thức nhân khẩu học được xem là yếu tố chính và là một cơ sở
quan trọng cho những thách thức khác đối với nhà nước phúc lợi Bắc Âu.
Tuổi thọ tăng và tỷ lệ sinh tương đối thấp, dân số ở các nhà nước phúc lợi Bắc
Âu đang già đi. Điều này tạo ra những thách thức trong nhiều lĩnh vực,
Yếu tố thứ ba, vấn đề nhập cư.
với số lượng người nhập cư nước ngoài ngày càng tăng, đã có nhiều vấn
đề xã hội “chưa từng có” xảy ra trong xã hội Bắc Âu. Thứ nhất, vấn đề tội
phạm nhập cư. Thứ hai, tỷ lệ người nhập cư dựa vào trợ giúp xã hội ngày càng
tăng, theo nghĩa người nhập cư ngày càng trở thành gánh nặng kinh tế của xã
hội Bắc Âu. Thứ ba, rào cản văn hóa do nhập cư ngày càng trở nên nghiêm
trọng hơn.
18
Yếu tố thứ tư, chủ nghĩa dân túy.
Có thể thấy chủ nghĩa dân túy đang trở thành một kênh chủ yếu để
những cử tri thuộc tầng lớp dưới thể hiện nỗi thất vọng và kêu gọi thay đổi
đường lối, nhấn mạnh đến các nguy cơ mâu thuẫn giữa “nhân dân” với tầng
lớp “tinh hoa”. Ở Bắc Âu, các nhà dân túy theo lập trường thiên về cánh Hữu,
nhấn mạnh yếu tố sắc tộc và chống người nhập cư. Họ muốn bảo vệ các nhà
nước phúc lợi hiện hữu nhưng không coi trọng việc mở rộng nhanh chóng các
dịch vụ hoặc trợ cấp xã hội.
4.1.2. Nội dung và biểu hiện của các biến đổi chủ yếu trong mô hình
dân chủ xã hội Bắc Âu
4.1.2.1. Sự suy giảm quy mô của công đoàn và thương lượng tập thể
Công đoàn ở Bắc Âu hiện ít phổ biến hơn, dù trong lịch sử nó rất mạnh
mẽ và từng vượt xa mức trung bình của các nước OECD. Căng thẳng và thách
thức cũng xuất hiện trong các hệ thống thương lượng tập thể Bắc Âu, hệ thống
thương lượng này cho đến nay đã không thể phát triển hiệu quả như trước đây,
trước các phản ứng chung đến từ những xu thế mới. cùng với sự suy giảm của
công đoàn, các ràng buộc của thương lượng tập thể Bắc Âu cũng trở nên mong
manh hơn dưới sức ép của các yếu tố kinh tế, và từ hệ thống luật chồng chéo
của EU/ EEA và luật trong nước trong quá trình hội nhập.
4.1.2.2. Sự gia tăng của kinh tế tư nhân và tự do kinh tế
Biểu hiện của biến đổi kinh tế trong mô hình Bắc Âu thể hiện ở mức độ
tự do kinh tế, sự phát triển kinh tế tư nhân, thay đổi chính sách thuế. Thụy
Điển đã trở thành một mô hình của chủ nghĩa tự do mới, về tư nhân hóa và bãi
bỏ các quy định kinh tế cũ, nó đã thực hiện các biện pháp tự do hóa mạnh mẽ
và tự do hơn bất kỳ nền kinh tế phát triển nào trên thế giới.
4.1.2.3. Sự suy giảm của Đảng Dân chủ xã hội
Trước đây, các đảng Dân chủ Xã hội ở Bắc Âu được coi là những đảng
thành công trong tham chính. Thành công đó có được là vì họ có những đặc
điểm lịch sử đặc biệt, có những cách thức riêng trong huy động cử tri và giành
lá phiếu ủng hộ. Tuy nhiên hiện nay, trong xu thế suy giảm chung của DCXH
trên toàn châu Âu, các Đảng DCXH ở Bắc Âu cũng không ngoại lệ.
4.2. MỘT SỐ GỢI MỞ CHO VIỆT NAM
Việt Nam và các nước Bắc Âu có sự khác biệt lớn về mặt địa lý, các
điều kiện lịch sử, chính trị, xã hội và văn hóa. Trong tư tưởng, chúng ta luôn
kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong chính trị,
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất lãnh đạo. Ngoài ra trong kinh tế,
trong văn hoá, trong xây dựng xã hội chúng ta đều có những điểm khác biệt.
Các yếu tố như đa nguyên, bầu cử, bảo vệ hiến pháp…là những đặc điểm về
thể chế riêng của Bắc Âu và chúng ta tôn trọng sự khác biệt đó. Tuy nhiên về
19
lý luận, một trong những cội nguồn của Dân chủ xã hội Bắc Âu là chủ nghĩa
Mác. Qua nghiên cứu mô hình Bắc Âu có thể thấy “chất xã hội” rất rõ nét và
dường như rất gần với “chất xã hội chủ nghĩa” Mác-Lênin, ít nhất là ở các nội
dung đảm bảo phúc lợi cao cho người dân. Xét đến cùng, mô hình DCXH Bắc
Âu là mô hình trọng xã hội, quan tâm đến việc phát triển con người. Bên cạnh
đó, mô hình Bắc Âu cũng là mô hình đang được thế giới chú trọng nghiên
cứu, trên những khía cạnh phù hợp với từng quốc gia. Bắc Âu là những nước
tiên phong với tinh thần giải phóng, đổi mới và phát triển. Qúa trình giải
phóng, đổi mới và phát triển ở Việt Nam hiện nay cần nghiên cứu nghiêm túc
những vấn đề này. Có thể nói, thành công của mô hình Bắc Âu có nhiều giá trị
tham khảo gợi mở cần thiết đối với quá trình xây dựng CNXH ở nước ta hiện
nay, đặc biệt ở những giá trị tiêu biểu của mô hình Bắc Âu như: Đối thoại xã
hội, lòng tin xã hội, giáo dục và nhà nước thúc đẩy phát triển.
4.2.1. Gợi mở trong đối thoại xã hội
Kinh nghiệm gợi mở mà Việt Nam có thể tham khảo từ mô hình Bắc Âu là:
Trong quan hệ giữa công dân - nhà nước: Để phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh mối quan hệ gắn bó chặt
chẽ giữa Nhà nước với nhân dân. Dân chủ còn là làm sao để dân có tiếng nói,
có diễn đàn, có môi trường để thể hiện quan điểm của mình. Sự gần dân, hiểu
dân, không ngừng đối thoại với nhân dân phải là một nguyên tắc quan trọng.
Sự đối thoại dân chủ đặt ra ở đây là phải thực chất, tránh hình thức và phải
thực hành thường xuyên. Trong đó, sự tiếp cận thông tin và minh bạch thông
tin cho nhân dân là một kênh quan trọng cho sự tin tưởng để cùng đối thoại có
hiệu quả.
Trong mối quan hệ công dân - công dân: Ở Bắc Âu, công dân có môi
trường sâu rộng cho việc thực hiện quyền làm chủ. Đối với Việt Nam, chúng
ta hiện có Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội, đồng thời cũng có
các tổ chức, các hiệp hội, số lượng ngày càng tăng của Hội đồng nghĩa với vai
trò, ảnh hưởng của các hội trong đời sống xã hội Việt Nam cũng ngày càng
lớn. Tuy nhiên, hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội
còn nhiều bất cập. Vấn đề đặt ra hiện nay là đổi mới hiệu quả mô hình tổ chức
và phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, mối
quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng về công tác cán bộ Mặt trận, các tổ chức
thành viên và tính đại diện lợi ích của các thành viên Mặt trận, các thành viên
của các tổ chức chính trị - xã hội. Phát huy đầy đủ môi trường cho các tổ chức
xã hội khác nhau, tôn trọng sinh hoạt dân chủ của nhân dân, tạo hành lang
pháp lý vững chắc để đảm bảo nhu cầu đối thoại dân chủ cho nhân dân, vừa
tránh được việc lợi dụng tự do dân chủ cho những mục đích chính trị khác.
20
Trong lĩnh vực lao động, kinh nghiệm Bắc Âu cho thấy, quan hệ ba bên
được thực hiện tốt và hiếm khi xẩy ra các hành động công nghiệp (industrial
action) (đình công, biểu tình). Ở nước ta, mặc dù giai cấp công nhân được coi
là có sứ mệnh lịch sử lớn lao nhưng cuộc sống của công nhân hiện nay còn
nhiều khó khăn, còn nhiều cuộc đình công xẩy ra. Ở đây đặt ra vấn đề cần gia
tăng đối thoại xã hội trong lao động, tăng cường vai trò của công đoàn cũng
như sự vai trò của nhà nước để giảm thiểu các tranh chấp trong quan hệ lao
động. Đặc biệt, vai trò của công đoàn cần được phát huy thực chất, tránh hình
thức. Công đoàn phải có sự độc lập, có tiếng nói của mình, nhất là ở những
doanh nghiệp ngoài nhà nước.
4.2.2. Gợi mở trong tạo dựng lòng tin xã hội
Ở Việt Nam hiện nay, lòng tin cần được xây dựng trên nhiều lĩnh vực,
nhưng dưới góc nhìn chính trị học, cần chú trọng xây dựng sự tin tưởng
chính trị, lòng tin của công dân với thể chế, cụ thể là với chế độ XHCN, với
Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước hết, vấn đề cốt lõi trong xây dựng lòng tin
xã hội hiện nay ở nước ta là xây dựng lòng tin chính trị của nhân dân đối
với Đảng, với nhà nước và với chế độ XHCN. Như vậy, trong cách tiếp cận
của Bắc Âu, lòng tin đến từ hai nhóm nhân tố chủ đạo: thứ nhất là các yếu
tố lịch sử và văn hóa truyền thống, thứ hai là từ thể chế. Vì thế, muốn gia
tăng lòng tin trong nhân dân nói chung và trong chính trị nói riêng, rất cần
khợi gợi các yếu tố truyền thống, đồng thời chú trọng đến các yếu tố thể
chế. Ở Việt Nam, cần khai thác các yếu tố truyền thống như: văn hóa trọng
Tình, Dân là gốc - tư tưởng chính trị xuyên suốt trong lịch sử dân tộc Việt
Nam, tinh thần đoàn kết…
4.2.3. Gợi mở trong xây dựng nhà nước
Đối với Việt Nam, thực chất Nhà nước xã hội chủ nghĩa là chính quyền
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và vì thế, trong nhà nước này, nền dân
chủ phải là nền dân chủ đầy đủ nhất, rộng rãi nhất và thực chất nhất - đó là nền
dân chủ bao quát toàn diện mọi lĩnh vực đời sống xã hội và lấy dân chủ trong
lĩnh vực kinh tế làm nền tảng. Đại hội XII của Đảng khẳng định kinh tế tư
nhân là “một động lực quan trọng của nền kinh tế”, Việt Nam hiện nay đang
đẩy mạnh xây dựng chính phủ kiến tạo phát triển và đẩy mạnh cuộc chiến
chống tham nhũng. Dưới góc độ quản lý, quản trị quốc gia, nhà nước tiếp tục
sử dụng chính sách công như một công cụ quan trọng tác động vào các lĩnh
vực đời sống xã hội để đạt được mục tiêu định hướng của nhà nước. Bên cạnh
đó còn định hướng mục tiêu cho các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế - xã
hội, tạo động lực cho các đối tượng tham gia hoạt động kinh tế - xã hội theo
21
mục tiêu chung, phát huy mặt tích cực, đồng thời khắc phục những hạn chế
của nền kinh tế thị trường.
4.2.4. Gợi mở trong giáo dục
Giáo dục Việt Nam thời gian qua đã có sự nâng cao hơn về chất lượng.
Tuy nhiên Việt Nam hiện vẫn còn nhiều rào cản, lạc hậu trong giáo dục…
trong đó, rào cản từ nhiều tư duy khác biệt cùng sự thiếu vắng về một triết lý
giáo dục chung là quan trọng. Yếu tố dân chủ, tinh thần khai phóng trong giáo
dục cần được đẩy mạnh. chúng ta còn thiếu vắng một triết lý giáo dục rõ ràng.
Trong thời đại của Cách mạng Công nghiệp 4.0, trí thông minh nhân tạo sẽ
“tiêu diệt” một nửa lượng công việc hiện tại. Giáo dục 4.0 là một mô hình giáo
dục thông minh, liên kết chủ yếu giữa các yếu tố Nhà trường - Nhà quản lý -
Nhà doanh nghiệp, tạo điều kiện cho việc đổi mới, sáng tạo và tăng năng suất
lao động trong xã hội tri thức. Do đó, cần phải có một nền giáo dục đào tạo ra
nguồn nhân lực có tầm nhìn rộng, khả năng sáng tạo phong phú, nền tảng kiến
thức liên ngành vững chắc để chế ngự lại những trí tuệ nhân tạo ấy. kinh
nghiệm Nhà trường - Nhà quản lý - Nhà doanh nghiệp của Bắc Âu mà tiêu
biểu là Phần Lan và Thụy Điển cần được tham khảo nghiên cứu nghiêm túc để
chúng ta có thể bắt kịp với trình độ giáo dục, khoa học với thế giới.
KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu, tác giả Luận án đi đến một số đánh giá sau đây:
Thứ nhất, Dân chủ xã hội là một dòng lý thuyết - thực tiễn quan trọng, có
sức ảnh hưởng mạnh mẽ trong lịch sử chính trị quan hệ quốc tế. Khởi thủy là
những ý tưởng muốn tìm kiếm một con đường khác, những trăn trở để cải tạo
xã hội đương thời theo một chu trình không có sẵn, nhưng DCXH sau đó lại
gây được sự chú ý và có nhiều quốc gia, nhất là khu vực Châu Âu đi theo. Tuy
nhiên, nghiên cứu về DCXH, chúng ta cần có quan điểm chính trị vững vàng,
khoa học, biện chứng trong đánh giá về DCXH, chủ nghĩa xã hội dân chủ, cần
có thái độ phê phán các quan điểm sai trái xuyên tạc và chống suy thoái về tư
tưởng chính trị, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa về chính trị. Bởi lẽ
hiện nay ở Việt Nam, dân chủ là vấn đề khá nhạy cảm và dễ bị xuyên tạc hay
làm sai lệch bản chất. Tuy nhiên, dù có những cách nhìn nhận khác nhau về
DCXH, nó vẫn có những ưu điểm nhất định trong việc đề cao một xã hôi tự do,
bình đẳng, đoàn kết, với những giá trị cho nhân đạo, hòa bình.
Thứ hai, các nước Bắc Âu nổi tiếng với mô hình của mình và được xem
là trị quốc tốt nhất. Bắc Âu có một lịch sử văn hóa truyền thống độc đáo, một
dấu ấn lịch sử của Đảng DCXH rất đậm nét, một thiết kế đất nước mang nặng
yếu tố thực dụng…tất cả làm nên sự thành công cho một mô hình độc đáo và
không thể bắt chước, ngay cả với các quốc gia phát triển hàng đầu thế giới.
Những giá trị về dân chủ, nhất là trong nội hàm của đối thoại xã hội cho thấy
chất xã hội và tính dân chủ, điều đó giải thích vì sao Bắc Âu luôn dẫn đầu trên
các bảng xếp hạng toàn cầu, nhất là về dân chủ và được xem đó là những nền
24
dân chủ đầy đủ. Mô hình Bắc Âu còn tiêu biểu ở giá trị của lòng tin xã hội, của
một nhà nước thúc đẩy phát triển và một nền giáo dục đề cao dân chủ, bình
đẳng, hòa nhập. Mô hình này hiện nay đang có những biến đổi rất khác so với
lý luận ban đầu của DCXH Bắc Âu, và theo xu thế chung là những đặc tính tích
hợp nổi bật của chủ nghĩa thực dân ngày càng biểu hiện rõ hơn.
Thứ ba, thiết kế xã hội của Việt Nam so với Bắc Âu là rất khác biệt,
nhưng chắc chắn Việt Nam vẫn phải nỗ lực trên con đường kiến tạo chung như
là một xu thế của thế giới, để vươn lên là một nước giàu mạnh, hiện thực hóa
mục tiêu dân chủ trong hệ mục tiêu xây dựng CNXH của mình. Trong khi thể
chế dân chủ ở nước ta hiện chưa phát triển đúng mức cần thiết. Đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị chưa đồng bộ. Sự kiểm soát của xã hội đối với quyền lực
nhà nước vẫn còn hạn chế. Mặc dù đã tích cực phát huy dân chủ, công khai hóa,
phòng, chống tham nhũng, nhưng trên thực tế, tính công khai trong hoạt động
cũng như trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước, nhất là các cơ quan
hành pháp, vẫn còn mờ nhạt; các cơ quan nhà nước ở các cấp không đủ sức
mạnh để kiểm soát lẫn nhau; các cơ quan dân cử, cao nhất là Quốc hội, nhiều
khi không kiểm soát được đúng mức đối với hoạt động của các cơ quan hành
pháp; sự phản biện và áp lực từ bên ngoài đối với Nhà nước (chẳng hạn, qua
báo chí, truyền thông, các tổ chức chính trị - xã hội) có tác dụng chưa cao. Nhìn
chung, có rất nhiều khía cạnh tích cực có thể khai thác trong việc học hỏi kinh
nghiệm phát triển của mô hình Bắc Âu. Mặc khác, yêu cầu đổi mới ở Việt Nam
hiện còn cấp bách hơn trong bối cảnh cách mạng 4.0. Cách mạng 4.0 sẽ thay
đổi một cách toàn diện cách chúng ta sống, kinh doanh, các hệ thống tương tác
với nhau, do vậy sẽ tác động đến cách thức ra chính sách và cải cách quốc gia.
Trong đó có kinh nghiệm trong đối thoại xã hội nhằm xây dựng một xã hội hài
hòa, giảm thiểu bất đồng xung đột hướng đến sự đồng thuận xã hội; kinh
nghiệm trong việc tạo dựng lòng tin xã hội; kinh nghiệm trong xây dựng nhà
nước thúc đẩy phát triển đề cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình; kinh
nghiệm trong quản lý và phát triển kinh tế; trong lĩnh vực lao động - công đoàn;
kinh nghiệm trong giáo dục đào tạo…
Một đất nước khép kín, bảo thủ và cứng nhắc trong bối cảnh của toàn cầu
hóa, thế giới phẳng hiện nay là điều đã trở nên lỗi thời. Con đường còn lại chỉ
có thể là mở cửa, trao đổi và học hỏi dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau. Việc học
hỏi một mô hình phát triển như Bắc Âu không chỉ cần thiết với riêng Việt Nam,
mà đó là cũng điều mà nhiều quốc gia phát triển hàng đầu thế giới hiện nay đã
và đang thực hiện.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Hồ Thị Nhâm (2009), “Phát huy vai trò giai cấp công nhân trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, 1 (92),
tr.24-28.
2. Hồ Thị Nhâm (2016), “Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn Đà Nẵng hiện nay”, Tạp chí Sinh
hoạt lý luận, (03), tr 58-61, 99.
3. Hồ Thị Nhâm, Lê Văn Phục (2016), “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Kinh nghiệm thế giới và bài học cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Miền
Trung, (02), tr.19-23.
4. Hồ Thị Nhâm, Phạm Văn Giang (2016), “Thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa
dưới ánh sáng nghị quyết Đại hội XII của Đảng”, Tạp chí Lao động và công
đoàn, (601), tr.10-11.
5. Hồ Thị Nhâm (2018), “Lòng tin xã hội - nhìn từ Bắc Âu”, Tạp chí Lý luận
chính trị, (6), tr.105-110.
6. Hồ Thị Nhâm (2018), “Một số vấn đề về nền dân chủ xã hội châu Âu đương
đại”, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, (9), tr.105-111.
7. Hồ Thị Nhâm (2018), “Sự khủng hoảng của nền dân chủ xã hội châu Âu đương
đại - Thực trạng, nguyên nhân và những chuyển đổi”, Tạp chí Thông tin Khoa
học xã hội, (9), tr.31-38.
8. Hồ Thị Nhâm (2018), “Mô hình Bắc Âu và một số giá trị tham khảo gợi mở
cho Việt Nam”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (1), tr.95-99.
9. Hồ Thị Nhâm (2018), “Kinh nghiệm của các nước Bắc Âu trong việc giải quyết
mối quan hệ giữa công bằng xã hội với dân chủ và những gợi mở cho Việt
Nam”, Sách Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: Karl Marx’s thought on the
relation between social justice and democracy and its current relevance, Quỹ
Rosa Luxemburg Stiftung (Văn phòng Đông Nam Á), Viện Triết học (Viện
Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam). Nxb Khoa học xã hội, tr.696-713.
10. Hồ Thị Nhâm (2019), “Một số giá trị của nền giáo dục Phần Lan và những gợi
mở tham khảo cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, (5), tr.58-66.