You are on page 1of 451

Nguyễn Viết Bảy - Văn Nghị Luận

VĂN NGHỊ LUẬN

TẬP 4

Nguyễn Viết Bảy


Biên soạn và tổng hợp
Mục Lục
Đề bài: “Nếu con người chỉ tử tế vì sợ bị trừng phạt và hy vọng được
ban thưởng thì chúng ta thực sự là những số phận đáng thương”. Anh
(chị) hãy bình luận câu nói trên củaAlbe Einstein?............................1
Đề bài: “Có một điều không phải ai cũng làm được, đó là mình ngày
hôm nay phải tốt hơn mình ngày hôm qua”. Theo anh, chúng ta nên
làm gì và làm như thế nào để mỗi ngày một tốt hơn?...........................6
Đề bài: Người ta thường nói: “Cha mẹ sinh con, trời sinh tính.” (Tục
ngữ). Nhưng lại có ý kiến cho rằng:“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn,/
Phần nhiều do giáo dục mà nên.”Hãy so sánh hai quan điểm trên.
Quan điểm của anh về vấn đề này như thế nào?.................................23
Đề bài:...............................................................................................35
Ca dao Việt Nam có câu:...................................................................35
Đề bài:Bình luận ý kiến sau của Baba Ram Dass:“Càng thinh lặng,
chúng ta càng nghe được nhiều hơn.”...............................................42
Đề bài: Bình luận ý kiến sau của Baba Tam Dass:“Càng tĩnh lặng,
chúng ta càng nghe được nhiều hơn.”...............................................46
Đề bài: Nguyễn Bỉnh Khiêm tâm sự:“Ta dại ta tìm nơi vắng
vẻ/Người khôn người đến chốn lao xao.”Trần Tế Xương bình
luận:“Thế sự đua nhau nói dại khôn/ Biết ai là dại, biết ai khôn.”Anh
suy nghĩ gì về lẽ dại khôn ở đời?......................................................50
Đề bài: Bình giảng câu thơ sau đay trích trong tác phẩm Đoạn
Trường Tân Thanh của Nguyễn Du:“Tu là cội phúc, tình là dây oan”.
...........................................................................................................62
Đề bài: Chứng minh nhận định sau: “Người có đức hạnh không phải cứ
làm những việc phi thường khác chúng. Làm đầy đủ bổn phận hàng
ngày một cách đều đặn cũng đủ gọi là có đức rồi”..............................71
Đề bài: Thi hào W. Goehte đã từng nói:“Đừng đi qua thời gian mà
không để lại dấu vết.Bao giờcũng phải có một nơi nào để đến. Trí
tuệ trưởng thành trong tĩnh lặng, còn tính cách trưởng thành trong
bão tố”.Trình bày suy nghĩ về ý kiến trên.........................................80
Đề bài: Nguyễn Bỉnh Khiêm tâm sự:“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/
Người khôn người đến chốn lao xao.”Trần Tế Xương bình luận:“Thế
sự đua nhau nói dại khôn/ Biết ai là dại biết ai khôn?”Anh suy nghĩ
gì về lẽ dại khôn ở đời?.....................................................................93
Đề bài: Hãy bình luận câu nói sau: “Đỉnh núi chẳng phải là mục tiêu
chinh phục của ta, mà điều ta cần vượt qua là chính bản thân mình”
.........................................................................................................105
Đề tài:Câu hỏi: “Nếu con người chỉ tử tế vì sợ bị trừng phạt và hi
vọng được ban thưởng thì chúng ta thực sự là số phận đáng thương”.
(A. Einstein) Theo bạn, chúng ta nên sống tử tế vì mục đích nào?.109
ĐỂ BÀI: Bình giảng bài ca dao:......................................................124
Đề tài: Bình giảng bài ca dao:.........................................................128
ĐỀ BÀI 14:Bình giảng câu tục ngữ:...............................................135
Đề 15:Bình luận ý kiến: " Lòng nhân ái chỉ trở thành các giá trị đạo
đức khi chính nó là sự hy sinh vị tha"?...........................................138
Đề 16.Bình luận nhận định sau: “Cái đáng sợ nhất trên đời chính là
công lý bị tách rời khỏi lòng nhân ái.”............................................142
Đề 17. Theo anh, sống đẹp là sống thế nào?...................................148
Đề bài: Bình giảng câu nói của Nguyễn Ba Học: "Đường đi khó,
không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e
sông"................................................................................................152
Đề tài 18.Bình giảng nhận định sau của Socrate: “Cuộc sống không ý
thức, không đáng sống”...................................................................157
Đế tài 19. Sứ điệp Mùa Chay 2012.................................................161
Đề tài 20.Có ý kiến cho rằng : “ Con người không phải là thùng nước
cần đổ đầy, mà là ngọn đèn cần thắp sáng”. Anh hiểu thế nào về ý
kiến này?.........................................................................................169
Đề Bài: Hãy giải thích và chứng minh ý kiến: “Sự thật đôi khi gây
nên rạn nứt, còn dối trá thì luôn tạo nên đổ vỡ”..............................173
Đề bài 21.Nhà bác học Newton từng nói: “Những điều chúng ta đã
biết ví như giọt nước. Còn những gì chúng ta chưa biết là cả một đại
dương”. Bình luận ý kiến trên?.......................................................180
Đề bài 22.Hãy bình luận nhận định sau của La-Cordare: “Khoa học giúp
chúng ta trở nên thông thái, lý trí giúp ta nên người”.........................185
Phần II: Làm văn.............................................................................196
Đề bài 24.Chứng minh ý kiến sau: “Nhiều người suốt cả đời cứ mãi
đi câu mà không biết rằng cá không phải là thứ mình cần tìm”......200
Đề bài 25.Hãy bình luận nhận định sau: “Cái đáng sợ nhất ở trên đời,
chính là công lý bị tách rời khỏi lòng nhân ái”...............................206
Đề bài 26.Người đời thường nói: “Biết dễ làm khó”, nhưng Tôn Dật
Tiên lại cho rằng “biết khó làm dễ”. Bạn tán thành ý kiến nào?.....214
Đề bài.Hãy bình luận nhận đình sau: “Khoa học giúp chúng ta trở
nên thông thái. Lý trí giúp chúng ta nên người” La Cordaire.........228
Đề bài:“Người thầy thuốc tốt nhất là bản thân thiên nhiên”
(Hippocrates). Từ câu nói của danh y Hi Lạp cổ đại. Anh có suy nghĩ
gì về trách nhiệm bảo vệ môi trường hiện nay ?.............................243
Đề bài.“Người thầy thuốc tốt nhất là bản thân thiên nhiên”
(Hippocrates). Từ câu nói của danh y Hy Lạp cổ đại, anh có suy nghĩ
gì về trách nhiệm bảo vệ môi trường sống hiện nay.......................249
Đề bài: Có người nói rằng: Luật là hàng rào, là đường ray, là phương
tiện giúp ta trở thành người hoàn thiện mỗi ngày”Bạn hiểu thế nào về
câu nói trên?....................................................................................255
Đề bài:Hãy bình luận nhận định sau: “Cái đáng sợ nhất ở trên đời
chính là Công lý bị tách rời khỏi lòng nhân ái”..............................266
Đề bài: Giải thích câu nói: Hạt giống chỉ trở thành hoa khi nó nhận
được ánh mặt trời và nước”.............................................................271
Đề bài: Có ý kiến cho rằng: “Con người không phải thùng nước cần
đổ đầy, mà là ngọn đèn cần thắp sáng” Anh hiểu thế nào về ý kiến
này ?................................................................................................279
Đề bài: Cổ nhân thường dạy “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”.
Nhưng có khi lại khuyên “Bán anh em xa mua láng giềng gần”.Hai ý
kiến trên có mâu thuẫn nhau không? Nêu quan niệm của bạn?......283
Đề bài: “Có một điều không phải ai cũng làm được: Đó là mình ngày
hôm nay phải tốt hơn mình ngày hôm qua”. Theo anh, chúng ta nên
làm gì và làm thế nào để mỗi ngày một tốt hơn?..............................294
Đề bài 35:“Mỗi ngày tôi tự xét ba việc: Làm việc gì cho ai có bất
trung không? Giao thiệp với bạn bè có bất tín không? (Thầy) dạy cho
điều gì có bất tập không?”(Tăng Tử)..............................................300
Đề bài: Thi hào W.Goethe đã từng nói: “Đừng đi qua thời gian mà
không để lại dấu vết. Bao giời cũng phải có một nơi nào để đến: Trí
tuệ trưởng thành trong tĩnh lặng còn tính cách được trưởng thành
trong bão tố”Trình bày suy nghĩ về ý kiến trên?.............................317
Đề tài:“Có một điều không phải ai cũng làm được: đó là mình của ngày
hôm nay phải tốt hơn mình ngày hôm qua” Theo anh, chúng ta nên làm
gì và làm thế nào để mỗi ngày một tốt hơn?.......................................324
Đề bài: “Nếu con người chỉ tử tế vì sợ bị trừng phạt và hy vọng được
ban thưởng thì chúng ta thực sự là những số phận đáng thương”
(A.Enistein) Theo bạn, ta nên sống tử tế vì mục đích nào?............328
Phanxicô Xavie Đinh Mạnh Hùng..................................................339
Đề bài: Chứng minh ý kiến sau:Nhiều người mất cả đời cứ mãi đi câu
mà không biết rằng cá không phải là thứ mình cần tìm......................340
Bình luận ý kiến: “Hãy yêu mến rồi muốn làm gì thì làm”
(Augustino)......................................................................................347
Đề bài:Bình luận câu nói sau: “Hãy yêu mến rồi muốn làm gì thì
làm” (Thánh Augustino)..................................................................355
Đề bài: Chứng minh ý kiến sau: "Nhiều người suốt cả cuộc đời cứ
mãi đi câu mà không biết rằng cá không phải là thứ mình cần tìm."
.........................................................................................................362
Đề bài: Phân tích hiện tượng bạo lực trong xã hội..........................368
Đề bài: Bình luận nhận định sau: “Cái đáng sợ nhất ở đời chính là
công lý bị tách rời khỏi lòng nhân ái”.............................................375
Đề bài: Ước mơ...............................................................................379
Đề bài: Hiện tượng bạo lực trong xã hội.........................................384
Đề bài: Bình giảng câu nói của Nguyễn Bá Học: “Đường đi khó,
không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e
sông”................................................................................................392
Đề bài: Anh/chị hãy bình luận lòng hiếu thảo trong tục ngữ, ca dao
Việt Nam.........................................................................................396
Đề bài: Trình bày hiện tượng bạo lực trong xã hội.........................403
Đề bài:Hãy bình luận câu nói: “hãy yêu đi rồi thì muốn làm gì thì
làm”(thánh Augustinô)....................................................................409
Đề bài: Bình luận ý kiến “Hãy yêu mến rồi muốn làm gì thì làm”.415
Đề bài :Bình luận nhận định sau: “cái đáng sợ nhất trên đời chính là
công lý bị tách rời khỏi lòng nhân ái”.............................................421
Đề bài: Theo anh sống đẹp là thể nào?............................................427
Đề bài: Phân tích hiện tượng bạo lực trong xã hội..........................431
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: “Nếu con người chỉ tử tế vì sợ bị trừng phạt và hy
vọng được ban thưởng thì chúng ta thực sự là những số phận
đáng thương”. Anh (chị) hãy bình luận câu nói trên của Albe
Einstein?
Bài làm:
Hầu như ai cũng thích được ban thưởng trong mọi công việc. Và
đó như là một yếu tố quan trọng kích thích người ta làm việc. Nhưng
Albe Einstein lại nói rằng “ Nếu con người chỉ tử tế vì sợ bị trừng
phạt và hy vọng được ban thưởng thì chúng ta thực sự là những số
phận đáng thương”. Chúng ta nghĩ câu nói trên đúng, sai thế nào?
Cuộc sống con người phải đối mặt rất nhiều trạng huống xảy ra
hàng ngày. Công việc giúp con người bộc lộ khả năng của mình với
môi trường xung quanh. Đồng thời nhờ môi trường làm việc mà con
người hoàn thiện được nhân cách của mình.
“Tử tế” là những hành động, việc làm cẩn thận từ những việc nhỏ
nhặt, là đối nhân xử thế, là cách ứng xử xã giao hàng ngày của con người.
“Lao động” là hành động rất quen thuộc của con người. Lao động
để duy trì sự sống. Nhờ lao động mà con người đạt được những
thành tựu khoa học như ngày nay.Vậy thì làm việc trước hết là vì
mình rồi mới đến người khác. Làm việc không phải chỉ vì lời khen.
Vì, lời khen như bong bóng thổi phồng làm cho người ta cảm thấy
thoải mái ngay lúc đó. Nó cũng có thể là nguồn động lực giúp người
ta tiến thân, có hứng khởi để tiếp tục làm việc.
Làm việc hy vọng được ban thưởng cũng tốt rồi nhưng chưa hoàn
hảo. Tại sao vậy? Vì lời khen, chê không phải của mình mà là của
người khác. Có khi người ta khen đúng, có khi người ta khen sai (khen
lấy lòng, khen xã giao). Đứng ở mỗi góc độ khác nhau, mỗi người có
những nhận định khác nhau. Lời khen, chê rồi cũng sẽ qua đi với thời
gian. Quan trọng hơn cả vẫn là con người thực của mình. Chỉ mình

1
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
mới biết được mục đích làm việc, cách làm việc và khả năng làm việc
của mình vì tiến thân hay vì lời khen, chê của người khác.
Chẳng hạn chúng ta không tham dự Thánh Lễ vì sợ bị Chúa phạt, cho
nên chúng ta cố gắng chúa nhật nào cũng đi dự Lễ đầy đủ.
Vì sợ Chúa phạt nên cố gắng không phạm tội. Điều đó cũng tốt
nhưng đúng hơn chúng ta phải yêu thương Chúa mà tránh xa dịp tội,
không phạm tội. Chúng ta phải ý thức rằng đi xem Lễ, giữ trọn các
giới răn của Chúa là vì yêu mến Người chứ không phải vì sợ bị phạt.
Tại sao người ta sợ bị trừng phạt?
Con người ai cũng muốn sung sướng. Trừng phạt sẽ dẫn đến đau
khổ, cực nhọc không ai thích. Vì thế mà hầu như tất cả mọi người cố
gắng không bị phạt. Trái lại họ thích được khen thưởng. Có những
người càng ban thưởng cho họ, họ càng hăng say làm việc.
Làm việc chỉ vì ban thưởng thì người ta chỉ nghĩ đến bản thân.
Họ chỉ nhắm mục đích lợi ích cá nhân họ chứ không phải vì người
khác. Họ mong được hơn người này, hơn người kia. Vì thế mà họ cố
làm sao để cho nhiều người thấy được việc làm của mình càng tốt.
Họ đã vô tình quên mất cái quan trọng chính là nhân cách, phẩm giá,
ý thức trong công việc của họ.
Nếu ai cũng làm việc chỉ vì lời khen thì xã hội này sẽ như thế
nào. Bởi các phát minh khoa học đều được kết tinh từ những nỗ lực
miệt mài nghiên cứu, tìm kiếm của con người. Họ đã phải trải qua
không biết bao nhiêu thất bại mới đến được thành công.
Léona De Vinci đã phải mất hơn mười năm để vẽ nhân vật Giuđa
trong tác phẩm mười Hai Vị thánh Tông đồ (Tiệc ly). Bởi vì, nơi
khuôn mặt Giuđa hội đủ nhiều yếu tố của một kẻ tham lam, phản bội.
Cho nên tác giả đã bỏ ra không ít thời gian để hoàn thành tác phẩm
của mình.

2
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Trong thông điệp Bác ái trong Chân lý, số 56, ĐGH Bênêditô
XVI đã quả quyết: “Tôn trọng quyền tự do tôn giáo bảo đảm cho một
sự phát triển đích thực và vững bền.” Con người có tự do, ý chí và
hướng thiện, vì thế mà ông cha ta có câu: “con người là hoa đất”.
Con người cần rèn luyện bản thân để càng ngày càng tiến đến gần
hơn với Đấng là Chân Thiện Mỹ.
Đức Giêsu cũng dạy các môn sinh của mình khi cầu nguyện hãy
vào phòng đóng cửa lại hoặc khi bố thí anh em đừng cho tay trái biết
việc tay phải làm. Đừng như Pharisêu khi làm việc lành thích đứng ở
nơi công cộng để mọi người đều thấy...
Chúa Giêsu chữa bệnh cho người bại liệt xong, Người dặn anh
hãy đi đường khác mà về. Ngài không muốn họ biết được phép lạ cá
thể Ngài đã làm, quyền năng của Ngài. Vậy chúng ta làm thế nào để
có được tinh thần làm việc như Chúa Giêsu?
Tập luyện: sống khiêm nhường, làm những việc nhỏ với tinh thần
phục vụ, cầu tiến, làm với bổn phận trách nhiệm như mình phải làm.
Bắt chước gương làm việc của một số nhà thành đạt
Bắt chước gương các thánh như: thánh Thérèse de Jésu, chỉ cần
nhặt một cọng rác vì lòng mến Chúa để cứu rỗi một linh hồn.
Bắt chước gương Chúa Giê su là Thầy của mọi nhân đức. Ngài là
Thầy, là Thiên Chúa mà đã hạ mình rửa chân cho các môn đệ của mình.
Đây là một ý kiến hoàn toàn đúng. Đặc biệt, để nâng cao tinh
thần trách nhiệm trong lao động, chúng ta cần có thái độ đúng đắn để
dám cáng đáng những việc ta làm, cho dẫu chúng ta làm việc trong
môi trường nào chăng nữa, chúng ta cũng phải làm việc với tinh thần
hăng say không phải chỉ vì để được ban thưởng. Khen hay chê chúng
ta cũng phải làm tận tâm tận lực. Làm được như thế mới mong đạt
được hiệu quả cao.

3
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Chúng ta cần lên án thái độ làm việc chỉ vì lời khen. Nhìn chung
nó cũng tốt rồi nhưng chưa hoàn hảo. Làm việc sợ bị phạt, vì lời
khen, chê làm cho người ta thụ động, khó kích thích được trí sáng
tạo, vì nó lệ thuộc vào lời khen, chê. Chắc chắn hiệu quả công việc sẽ
không cao.
Muốn xã hội loài người ngày càng phát triển thì chúng ta phải
chấn chỉnh thái độ làm việc. Làm việc không cần người giám sát, làm
việc không cần dựa vào lời khen, chê. Trước hết và trên hết đối với
những nhà giáo dục phải giáo dục cho thế hệ trẻ có được tinh thần
lao động tự lực tự cường. Biết đặt lợi ích chung trên lợi ích riêng,
dám hy sinh cá nhân để đóng góp cho tập thể. Quên mình phục vụ
người khác cách vô vị lợi.
Trong thông điệp Bác ái trong Chân lý, số 47, ĐGH Bênêditô XVI
khẳng định rằng: “Con người vừa là chủ thể vừa là cùng đích của phát
triển.” Vâng,con người phản chiếu hình ảnh của Nguyên nhân Cứu
cánh vạn vật nên cần phải tử tế với chính mình và với tha nhân.
Ngày nay, có nhiều dịch vụ ra đời để đáp ứng nhu cầu thời đại.
Phần lớn họ thành lập ra để kiếm lợi qua cung cách phục vụ tận tình
của họ. Bên cạnh những dịch vụ này còn có những trung tâm chăm
sóc các trẻ em cơ nhỡ, khuyết tật, tàn tật. Các thành viên trong trung
tâm hầu hết là các nữ tu Công giáo. Họ đã làm việc không phải vì lời
khen, làm việc không chỉ bằng đôi tay, mà họ đã phục vụ bằng cả trái
tim của họ nữa. Ước mong sao xã hội này có nhiều trung tâm, bệnh
viện có được đội ngũ cán bộ có tinh thần làm việc như một số nữ tu.

4
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Câu nói của A.Einstein đã giúp chúng ta ý thức hơn trong lao
động. Nhờ lao động, qua lao động con người khám phá ra nhiều điều
bổ ích. Các công trình khoa học đều được phát xuất từ những con
người có tinh thần làm việc tận tâm tận lực, say mê nghiên cứu. Thế
giới chúng ta đang thừa hưởng những công trình khoa học do các tiền
nhân đã dày công nghiên cứu.
Hơn lúc nào hết, là hậu sinh, là những người thừa kế gia sản
khổng lồ trong thế giới này, chúng ta phải ý thức nhiều hơn trong học
tập, trong lao động không chỉ vì lợi khen. Chúng ta cần hăng say hơn
trong mọi công việc, để qua công việc mình làm hằng ngày có thể
phát minh ra nhiều điều mới lạ, hầu giúp công việc ngày một hiệu
quả hơn..
Phêrô Hoàng Khanh - Nguyễn Văn Hồng

5
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: “Có một điều không phải ai cũng làm được, đó là mình
ngày hôm nay phải tốt hơn mình ngày hôm qua”. Theo anh,
chúng ta nên làm gì và làm như thế nào để mỗi ngày một tốt hơn?
Bài làm
Bất cứ một nhân vị, một “hiện hữu tại thế” nào cũng đều có một
“Terminus a quo – Khởi đầu” và một “Terminus ad quam – Kết
thúc”. Từ khi khởi đầu cho đến lúc kết thúc chính là “hành trình cuộc
đời”. Hành trình này có thể là “ba vạn sáu ngàn ngày” hoặc cũng có
thể chỉ là “một thoáng hiện hữu”. Dẫu như thế nào, cuộc sống dẫu
dài hay ngắn vẫn mang một ý nghĩa, vẫn có một mục đích. Mục đích
hiện hữu này có thể là “mục đích tự thân” do chính sự sống mang lại
vì “sự sống là vô biến – live is immense” (Kinh Upanishad); hay là
“mục đích kiến lập” do chính mỗi người xác định theo những giá trị
mà mình tích hợp được trong hành trình cuộc sống. Trong những giá
trị này thì cái tốt đã trở thành giá trị trung tâm để mỗi một người xác
lập cho mình một mục đích sống tích cực và thích hợp. Hay nói cách
khác, sống tốt luôn là tiêu chí để mỗi một người xác lập cho mình
một mục đích sống tích cực và thích hợp. Hay nói cách khác, sống
tốt luôn là tiêu chí để mỗi một người định vị rồi không ngừng vươn
tới như một hành trình cho sự hoàn thiện. Thế nhưng, hành trình
sống tốt này vẫn có nhiều khó khăn trên hành trình, vẫn còn nhiều
thử thách đòi hỏi một ý chí kiên định và một nghị lực vững mạnh
mới có thể đi hết hành trình được. Vì thế nên có người đã nói: “Có
một điều mà không phải ai cũng làm được, đó là mình ngày hôm nay
phải tốt hơn mình ngày hôm qua”.
Câu nói này mang ý nghĩa nào? Chúng ta phải làm gì và làm như
thế nào để sống tốt hơn mỗi ngày? Thiết nghĩ, một sự lý giải toàn
diện và có hệ thống cho những câu hỏi trên sẽ giúp ta hình thành cho
mình một mục đích tròn đầy, một phương cách sống càng tốt hơn,
hoàn thiện hơn.

6
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Trước hết, chúng ta cần giải thích ý nghĩa của một vài từ trọng
yếu cũng như của câu nói này: “Tốt” là gì? Đại từ điển Vdict dịch
nghĩa: “tốt là phẩm chất cao quý ở bên trong được xã hội đánh giá
qua những biểu hiện bên ngoài như đạo đức luân lý, hành vi, tư cách
và các tương quan”. Qua định nghĩa này, ta có thể rút ra: Tốt là một
giá trị đối lập với xấu – phẩm chất thấp hèn, vì thế tốt thiên về bình
diện lý trí với sự phân định tốt xấu; ai chọn và làm điều tốt thì đó là
người tốt….
Và “tốt hơn” là như thế nào? Nếu “tốt” là một giá trị luân lí thì
“tốt hơn” lại là một sự cố gắng nỗ lực không ngừng của toàn thể
nhân vị dựa trên nền tảng của cái tốt để hướng tới, để vươn lên.
Vậy, một vấn đề đặt ra là sao ta không dừng lại cái tốt hơn thôi
mà phải hướng tới cái “tốt hơn” mỗi ngày? Thiết tưởng, khi mình
nghĩ mình đã “tốt rồi!” thì mình thường sinh lòng tự mãn, và chính
lòng tự mãn sẽ dập tắt ý chí cố gắng vươn lên; mà cuộc sống lại luôn
biến chuyển không ngừng, nếu mình không tiến lên thì sẽ tụt hậu.
Trong chiều kích luân lí cũng vậy, tốt mà cộng hưởng với sự tự mãn
sẽ trở nên xấu xa, tệ hại. Và tất yếu, tốt mà luôn nỗ lực sẽ dẫn đến tốt
hơn, hạnh phúc hơn. Lời cảnh tỉnh sau đây của Napoleon thật xứng
hợp: “Từ đỉnh cao vinh quang đến chỗ thô bỉ chỉ cách nhau một bước
chân”. Thật vậy, khi mình biết “bước lên” sẽ giúp mình vững vị trên
“đỉnh vinh quang” tốt lành. Nhưng nếu mình tự cao, ngạo mạn thì sẽ
sa vào hố thô bỉ thảm hại xấu xa. Cổ học tinh hoa lại quảng diễn điều
này một cách nhẹ nhàng hơn nhưng vẫn đầy sâu sắc: “ngọc không
mài dũa, ba năm cũng thành sỏi đá”.
Tắt một ý, tốt hơn đòi hỏi sự nỗ lực của toàn thể các bình diện
của con người: lý trí, ý chí, nghị lực, kiên trì, dũng cảm, tình yêu,
niềm tin, niềm hy vọng…

7
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Tiếp theo, toàn bộ câu nói này nói lên điều gì? Để có được sự lý
giải thấu tình đạt lý, thiết tưởng cần tách toàn câu ra thành hai đoạn.
Đoạn đầu: “có một điều không phải ai cũng làm được”. Nghĩa là
điều này (tốt hơn mỗi ngày) khó thực hiện chứ không phải là không
thể thực hiện được. Quả vậy, trong dòng lịch sử của nhân loại đã có
rất nhiều người làm được điều này. Đó là những hiền nhân, những vĩ
nhân, những thánh nhân, những anh hùng… thậm chí là những người
rất đỗi bình thường – không tên không tuổi. Vậy, nếu mình muốn
làm được điều đó – tốt hơn mỗi ngày thì thiết nghĩ rất cần học hỏi
kinh nghiệm của những người đi trước. Dĩ nhiên, có rất nhiều quan
niệm sống tốt hơn mỗi ngày, nhưng vì giới hạn tự thân nên chỉ xin
nêu ra một cách sơ lược về ba quan điểm sau đây về vấn nạn sống tốt
hơn mỗi ngày để mỗi người lấy làm tiêu chuẩn để quy chiếu và tham
khảo, học hỏi.
Trước hết là quan niệm của người Ấn Độ cổ đại: Hỡi các Tiểu
ngã (Atman – con người) muốn sống tốt lành thì các người phải suy
tư sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, ý lực dồi dào; niềm tin phải sâu xa,
hành động phải nhiệt thành, tình yêu phải trong suốt để thông biến
cùng Đại Ngã (Brathman) thì sống tốt lành với tất cả biểu hiện là
phương thế chuẩn đạt nhất.
Kế đến là quan niệm của người Trung Hoa cổ đại: Muốn có được
cuộc sống tốt lành, Đức Khổng khuyên dạy: “mắt nhìn phải minh
bạch, tai nghe phải rõ ràng, sắc mặt phải ôn hòa, tướng mạo phải
trang nghiêm, lời nói phải trung thực, việc làm phải cẩn trọng.”
Người học trò Mạnh Tử tóm hết sáu khía cạnh trên thành ba chiều
kích chính: “tâm phải sâu rộng, trí phải sáng suốt, khí phải điều hòa”.
(Kinh Thư, Cửu Trù, Hồng Phạm). Theo quan niệm của người Trung
Hoa thì Tâm - Trí - Khí là ba bình diện của một con người bình diện.
Vậy, có thể nói sống tốt lành là sống toàn diện.

8
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Nếu hai thầy trò Khổng – Mạnh nêu ra chín điều phải làm để
sống tốt thì Tiên sư Lão Tử lại nêu ra sáu điều không được làm để
sống tốt như Đạo – là hiện hữu tốt lành: “Không tự mãn – Không tự
tư – Không phô trương – Không xao động – Không thái quá – Không
bất cập” bởi Đạo là trung dung, sống tốt là sống trung dung – ôn hòa
– quân bình.
Và sau hết là các biểu hiện sống tốt đẹp của người Ki-tô hữu: cư
xử nhã nhặn, đối đãi hiền từ nói năng lịch sự, lí trí khôn ngoan, tâm
hồn công chính, đức tin vững mạnh, đức ái bao dung, đức cậy son
sắt… (x. 2Mcb 15, 12; 2Fx 2, 1; Tb 12, 8; Cn 16, 20). Cả ba quan
niệm trên quả thật có nhiều điểm rất trung hợp, thật là những tiêu chí
tối ưu để chúng ta thu nhận và thâu hóa thành những giá trị cho riêng
mình để đời sông mình ngày càng tốt đẹp và phong phú hơn.
Đoạn cuối: “đó là, mình ngày hôm nay phải tốt hơn mình ngày
hôm qua”.
Trước hết, “ngày hôm nay” chính là giây phút hiện tại, là vị trí và
vị thế để mình “định vị” chính mình.
Sau hết, “ngày hôm qua” trở thành cơ sở - nền tảng để mình
“phản tử” ngay giây phút hiện tại. Quá khứ lúc này trở thành những
kinh nghiệm quý báu giúp cái “mình ngày hôm nay” “dự phóng” tới
tương lai.
Tóm lại, người muốn sống tốt hơn mỗi ngày phải là người xác lập
cho mình được một mục đích ở tương lai. Mục đích này cần đặt nền
tảng ở quá khứ và dựa trên chiều tiến ở hiện tại để tránh sự huyễn
hoặc, xa vời khi xác lập mục đích. Một cách rõ nét hơn, một mục đích
khả thi là một mục đích với những mục tiêu khả dĩ và thiết thực.
Một câu hỏi phát sinh: vì sao việc xác lập mục đích lại trở nên
yếu tố trọng tâm của việc sống tốt hơn mỗi ngày? Bởi vì người sống
không có mục đích sẽ không có động lực sống mà không có định

9
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
hướng thì chắc chắn tương lai cũng chẳng tốt đẹp gì! Nhà văn vĩ đại
người Nga M. Gorki khẳng định: “Người nào không biết đến ngày
mai, kẻ đó là người bất hạnh”. Quả vậy, sẽ là không thể sống tốt hơn
mỗi ngày nếu mình không biết đề ra mục tiêu cho từng ngày để vươn
đến mục đích tốt đẹp trong tương lai!
Trong câu này, từ “mình” cũng mang một ý nghĩa rất quan trọng:
“mình” là điểm quy chiếu, là cơ sở so ví trổi vượt nhất trong việc biết
mình có “tốt hơn” hay không. Vì sao vậy? vì việc mình hay so ví
mình với người khác là một thuộc tính cố hữu và tiêu cực vì “mọi sự
so sánh đều khập khiễng” (Uyliam –Sếchxpia). Khi người khác xấu
hơn mình – mình liền tự cao, khi người khác tốt hơn mình – mình lại
tự ti. Cả hai hệ quả này đều là tiêu cực và khiến cho mình tồi tệ hơn.
Nhà tư tưởng Carlyle đã khẳng định một cách mạnh mẽ: “So sánh
mình với người khác là con đường bất hạnh nhất”. Bởi vậy, ta không
nên so sánh mà nếu có so sánh thì hãy so sánh với mình ở quá khứ
còn người khác thì mình chỉ nên học hỏi, tiếp thu những cái hay, cái
tốt, cái đẹp, cái tích cực để dần hoàn thiện mình.
Tóm kết, việc giải thích cả câu nói trên đã giúp ta hiểu cơ bản để
trả lời cho câu hỏi: ta phải “là gì và làm như thế nào” để sống tốt hơn
mỗi ngày? Nhưng để hiểu biết sâu xa hơn nữa; thiết nghĩ chúng ta
phải cần đi sâu vào những hàm ý của câu nói này qua phần chứng
minh – bình luận.
Tất nhiên, có nhiều khía cạnh, nhiều chiều kích, chiều bình diện để
lý giải, bình luận vấn đề. Nhưng người viết chỉ xin lý giải câu nói này
qua hai bình diện rõ nét nhất để trả lời cho hai yêu cầu – hai câu hỏi của
đề bài là cần “làm gì và làm như thế nào để mỗi ngày một tốt hơn”.
Thứ nhất là bình diện giá trị: như trên đã nói qua, muốn sống tốt
hơn thì mình cần phải xác lập cho mình một hệ thống giá trị vững
chắc như kiềng ba chân vậy. Vì thế nên người viết xin đề ra một

10
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
phương cách để mỗi ngày một tốt hơn, đó là: Kết hợp giá trị sống tốt
với sống thật và sống đẹp. Ông cha ta cũng đã có một lời dạy chí lý
cho sự kết hợp này:
“Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.”
Triết gia người Mỹ William James thì quảng diễn: “lý trí và tình
cảm là nền tảng của ý chí”. Hay nói cách khác sự thật và cái đẹp là
nền tảng vững chắc cho sự tốt lành thăng tiến. Hoặc nó theo ngôn
ngữ cấu trúc thì: sống tốt cộng với sống thật và sống đẹp bằng sống
tốt hơn. Để rõ nghĩa ở đây và ngay lúc này cần tái định vị lại ranh
giới và ý nghĩa của cái thật, cái tốt và cái đẹp.
- Cái thật là cái dúng với bản chất bên trong và đúng với biểu
hiện bên ngoài.
- Cái tốt là cái phẩm chất cao quý của mỗi một con người. Khác
với cái thật khách quan, cái tốt mang tính chủ quan và tính luân lý xã
hội rất nhiều.
- Cái đẹp là cái biểu hiện rạng ngời tỏa sáng của cái thật với cái tốt.
Xét trong tính tương quan giữa cái thật với cái tốt thì nhận định của
triết gia Shopenhaer rất đáng để ta học hỏi: “ý chí chứ không phải là lý trí
mới là yếu tố căn nguyên và nền tảng của nhân vị”.
Xét trong tương quan giữa cái tốt với cái đẹp thì ông cha ta dạy:
“tốt gỗ hơn tốt nước sơn”.
Vậy, nếu cả ba giá trị: thật – tốt – đẹp tạo thành một tam giác đều
thì cái tốt là đỉnh của tam giác ấy. Nghĩa là cái thật mà không hướng
đến cái tốt thì không phải là cái thật đích thực. Cũng vậy, cái đẹp mà
không bao hàm cái tốt và cái thật thì chỉ là cái đẹp giả tạo, vô nghĩa.
Nhưng nếu cái tốt mà tích hợp trong nó cả cái thật và cái đẹp sẽ trở
nên tót hơn và thậm chí là tốt nhất. Từ sự kết hợp này ta có thể đưa ra
các quan niệm sau:

11
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Sống tốt hơn là luôn sống thật với chính mình. Triết gia Neirzche
nêu lên một tuyên ngôn sống: Diviensce que tu es – hãy là cái anh
là”. Nghĩa là, hiện tại – giây phút này, thời khắc này tôi như thế nào
thì hãy sống như thế ấy. Đừng quá hối cổ mà bất an, đừng hướng quá
về tương lai mà bất đạt. Quá khứ chỉ nên là nền tảng tốt cho hiện tại.
Tương lai chỉ cần là đường nối tiếp từ hiện tại. Hiện tại mới đích
thực “là cái anh là”. Quá khứ và tương lai đều là cái đã là và sẽ là.
Tóm lại một cuộc sống trọn vẹn là sống trọn vẹn với hiện tại, là sống
tốt đẹp ngay hiện tại chứ không chỉ là quá khứ hoặc ở trong tương
lai. Điều này được minh định rõ nét qua câu nói rất minh triết – một
thứ minh triết rất giản đơn của Đức Hồng Y – Phanxico Xavie Nguyễn
Văn Thuận: “chấm những chấm thật đều sẽ tạo nên đường thẳng, sống
những giây phút hiện tại thật tốt sẽ tạo nên một đời sống tốt”.
Sống tốt hơn là luôn sống thật với người khác. Báo chí gần đây
nêu lên một tấm gương về sống thành thật của cô sinh viên Nguyễn
Thị Hằng Ni. Ngoài giờ học, cô đi làm tiếp tân khách sạn để giúp
mình trang trải tiền học hành – đây là một việc tốt. Và cô đã làm một
việc tốt hơn khi đã trả lại số tiền hơn 450 USD cho một vị khách
nước ngoài mà ông để quên khi trả phòng. Vâng, xuất phát từ một
tấm lòng thành thật – không giữ những gì vốn không thuộc về mình,
cô đã làm cho mình tốt hơn và giúp cho cuộc sống tốt đẹp, tươi sáng
hơn. Quả là một hành động đẹp rất đáng hoan nghênh và học hỏi.
Sống tốt hơn là (mà thậm chí là tốt nhất) là luôn sống thật cho sự
thật, tức là làm chứng cho sự thật. Đây là đỉnh cao của sống tốt nên
nhiều người tốt đã từng e ngại, thậm chí là thể hiện bằng cách yên
lặng, bất động – một thứ im lặng đồng lõa chết người. Chính vì sự im
lặng khó hiểu này mà mục sư M. L. King đã lên án: “Trong thế giới
này, chúng ta xót xa không chỉ vì lời nói và hành động của những kẻ
xấu, mà còn là sự im lặng đáng sợ của những người tốt”. Chân nhận
ra sự yếu đuối này, chúng ta lại càng cảm phục biết bao với hành

12
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
động rất cao quý, tốt đẹp của anh kỹ sư Lê Văn Tạch. Anh đã có một
việc làm rất tốt ở Công Ty Toyota Việt Nam với tiền lương đủ để
nuôi sống vợ con. Thế nhưng vì sự thật là Công ty Toyota đã sả xuất
ra hàng ngàn chiếc xe thiếu an toàn cho người sử dụng nên anh đã
thông báo cho mọi người biết. Kết quả là công ty đã nhận lỗi và hứa
sẽ truy hồi xe để sửa chữa. Kết cuộc dành cho hàng chục ngàn người
sử dụng xe của Công ty Toyota thật đẹp nhưng riêng bản thân anh
Tạch vẫn bị một số người chế diễu là “khờ dại”. Một số người khác
lại “nghi ngờ” và thậm chí như anh chia sẻ, anh sẽ nghỉ việc để làm
nơi khác vì có thể sự hiện diện của anh làm cho đồng nghiệp khó
chịu. Tuy vậy, hành động dũng cảm của anh làm đã và đang được
những người tốt, những người có lương tâm trong xã hội tán thưởng
và noi gương. Tuy hành động cao đẹp như vậy nhưng khi được hỏi,
anh chỉ nêu lên một quan niệm rất giản đơn nhưng cũng rất thâm
thúy – tốt đẹp: “Biết sai mà không nói là có tội” (Tuổi Trẻ, Chủ nhật
ngày 10 tháng 4 năm 2011, tr. 15).
Sống tốt hơn là sống cao đẹp với trọn con tim, tình yêu và lương
tâm của mình. Trịnh Công Sơn – một con tim đầy “nợ nần trần thế”,
một lương tâm luôn thổn thức “thân phận và tình yêu”. Khi viết thư gởi
cho Giao Ánh, ông đã trích lại câu nói của nhà văn Pháp – Andre Gile
nói về tình yêu cao quý bất diệt như thế này: “Et que la vie peut
souffler desus chaque jouses sans veteindre – và ngày qua ngày, ngọn
gió cuộc đời vẫn thổi nhưng chưa bao giờ thổi tắt được tình yêu”.
Vâng, đúng vậy, “ngọn gió cuộc đời” vừa lành vừa dữ có thể thổi tắt
lòng đất, có thể thổi tung sự thật nhưng tình yêu bất diệt thì mãi còn.
Khi sự hi sinh vẫn còn thì lòng tốt vẫn có đất để hồi phục, thì sự thật
vẫn có cơ may trỗi dậy.
Tóm lại, cái đẹp mà trung tâm là tình yêu sẽ là cái tốt ngày một
triển nở hơn và cùng với cái thật – cả hai sẽ là đôi cách cho cái tốt
bay cao, bay xa; giúp cho cái tốt co vẻ đẹp rạng ngời, có ánh sáng
chân lý lung linh ngời chiếu. Một thứ ánh sáng rất cần cho những góc

13
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
khuất, những nơi tăm tối cả cuộc đời. Nhà tư tưởng vĩ đại
Montesquieu đã có một sự tóm lược súc tích cho sự kết hợp này:
Người tốt là người có phẩm chất đạo đức cao qúy là người biết đối
nhân xử thế đầy thẳng thắn và là người có những cử chỉ giao tiếp
luôn lịch sự.
Thánh Phaolô lại nhận diện sự kết hợp này một cách toàn diện
hơn: “Sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về
mọi phương diện”.
Tạm kết: việc kết hợp giữa ba giá trị tốt - thật - đẹp sẽ là chìa
khóa, là phương cách hữu hiệu nhất giúp ta sống tốt hơn mỗi ngày;
nhờ cả ba giá trị vừa khác biệt vừa tương hợp nên tương, trợ lực cho
nhau thành một hệ giá trị thống nhất, bền vững cho một đời sống
thăng tiến.
Thứ hai, là bình diện nhân vị: mỗi người là một cá nhân độc đáo,
đồng thời là một con người toàn diện xét trong các mối tương quan.
Bởi vậy, mỗi một thuộc tính của con người luôn gắn kết với các
thuộc tính khác để làm nên một chỉnh thể. Vì thế, việc sống tốt hơn
ngoài bình diện các giá trị như thật-giả, thiện-ác, đẹp xấu… còn
mảng bình diện của nhân vị - của tổng thể hiện hữu người, đó là: lý
trí, ý chí, ước mơ, niềm tin, tình yêu, khát vọng, lương tâm, linh
hồn… Xin được đề cập tới một vài chiều kích.
Sống tốt hơn mỗi ngày là sống với lòng kiên nhẫn. Thời đại ngày
nay mang đậm chất hiện đại, thực dụng, hối hả, hấp tấp… Nào là lối
sống nhanh, thức ăn nhanh, kể cả tình yêu…cũng nhanh. Vì nhanh
như vậy nên nhiều người thiếu đi lòng kiên nhẫn, thiếu sự chờ đợi –
là những điều kiện để tạo nên thành công lẫn sự an nhàn trong cuộc
sống. Để tạo lập một sự quân bình, các nhà tâm lý đã đề ra một
phong trào sống chậm và kết quả có nhiều điều tốt đẹp. Hít thở chậm
và sâu sẽ giúp làm giảm quá trình lão hóa. Suy nghĩ chậm rãi sẽ giúp

14
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
tư duy sâu sắc. Lời nói từ tốn sẽ bớt sai lầm và dễ đi vào lòng người
nghe. Bước đi khoan thai sẽ tránh vấp váp. Lái xe chậm rãi sẽ giúp
mình tránh được tai nạn, Sống ung dung thư thái sẽ giúp mình chiêm
ngưỡng được những điều tốt đẹp trong cuộc sống… Nhà tư tưởng
Rumanis đã đúc kết điều này thành một phương ngôn nổi tiếng:
“lòng quyết tâm mang bạn đến gần mục tiêu và sự nhẫn nại, kiên trì
sẽ gạt phăng mọi trở ngại và mở lối cho bạn tiến về phía trước”. Thật
vậy, lòng kiên nhẫn sẽ giúp ta vượt qua những mục tiêu để vươn đến
mục đích một cách tiệm tiến nhưng vững chắc. Hơn nữa, lòng kiên
nhẫn còn tạo nên sự ôn hòa cho các tương quan:
“Dừng một bước trời cao biển rộng,
Nhẫn một chút sóng lặng gió yên.”
Đúng thế, một tương quan ôn hòa sẽ tạo nên một cuộc sống tốt
đẹp, yên bình. Trên hết, lòng kiên nhẫn thể hiện một ý chí vững
mạnh, một nghị lực kiên cường; là những năng lực giúp mình vượt
qua những khó khăn, những trắc trở của cuộc sống để vươn cao lên,
để tiến xa hơn trên hành trình sống tốt: “Chính nhờ thả ngược chiều
gió mà con diều bay cao lên mãi.” (W. Churchill).
Sống tốt hơn mỗi ngày là sống với một tâm hồn luôn khát mong
hạnh phúc, đời người là một hành trình truy cầu hạnh phúc, trong đó
làm việc tốt cũng là phương cách giúp mình được hạnh phúc: “làm
một việc tốt, bạn sẽ được sung sướng hai lần, một lần khi đang làm
việc và một lần khi thấy kết quả.” (Bakhikhanốp). Khi mình cảm
nhận được hạnh phúc trong cuộc sống thì ước mong đem hạnh phúc
đến cho người khác là một điều khả dĩ. Khi đó, tương quan giữa
mình với người khác được mở rộng, tình yêu với cuộc sống thêm
ngọt ngào, lòng tốt mình được định hình rõ nét. Quả vậy đó, mỗi lần
tôi đi làm việc bác ái ở trung tâm mồ côi Thị Nghè hay một nơi nào
đó là mỗi lần tâm hồn càng thêm thân ái, nhẹ nhàng; là ước muốn

15
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
đóng góp một phần nhỏ bé nào đó của mình để các em được vui tươi
hơn, để cuộc sống thấm đượm tình yêu hơn. Lúc này, tôi cảm nhận rõ
nét nhất câu danh ngôn: “không có món quà nào là quá nhỏ bé để ta
trao gởi, là quá đơn sơ để ta đón nhận; một khi được gói ghém bằng
sự quan tâm và được thắtnút bằng tình yêu mến”. Vâng sống cho
người khác sẽ là biểu hiện rõ nét nhất của việc ta sống tốt hơn mỗi
ngày vì “khi cho đi nghĩa là chúng ta được nhận lại”. (Roger. W.
Basson). Vâng cho đi nụ cười sẽ được nhận lại niềm vui, cho niềm
thân ái sẽ nhận được hi vọng, cho loàng tốt sẽ gặp được an bình.
Là một người Công giáo, chúng ta nêu ra một vài cách để sống tốt.
Sống tốt hơn mỗi ngày là sống với một niềm tin vững mạnh. Tại
sao cuộc sống phảicần niềm tin nói chung và đức tin nói riêng? Vì
cuộc sống xã hội và cả đời sống người Kitô hữu không phải lúc nào
cũng suôn sẻ, lúc nào cũng thuận lợi, lúc nào cũng tốt đẹp. Cuộc
sống lúc nào cũng đan xen, nối kết thành công – thất bại, vấp ngã
trước hấp lực của cái xấu rồi đứng lên, vươn dậy làm điều tốt, giúp
ích cho mình cho đời. Qua những lần như vậy ta nhận ra rằng: người
này sống có niềm tin – có một đức tin sẽ là trợ lực vững chắc giúp
mình luôn hướng tới mỗi khi mình chùn bước, luôn đứng dậy mình
khi mình vấp ngã, luôn khát mong điều tốt lành mỗi khi mình vì yếu
đuối mà đã làm điều xấu xa. Chính thực, đức tin nâng cả con người
mình vượt trên bình diện cảm xúc và ý thức thuần túy vượt lên cả sự
yếu đuối bất toàn vì “đức tin là hành động toàn diện của một người
toàn diện”.(J. Henry Necoman). Bởi vậy, hữu thể nào khước từ đức
tin thì cái xấu, cái ác trong chính con người bất toàn sẽ trỗi dậy, lúc
đó “con người đối xử với nhau như bầy lang sói” (Dumbatre trong
tác phẩm bất hủ : Quy Luật Muôn Đời). Vâng, khi chối bỏ đức tin –
con người chỉ còn là một con vật không có linh hồn, không có lòng
tốt và không có tất cả những gì kết tạo nên một hữu thể người. Chúng

16
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
ta có nói quá không? Không đâu, hiện thực xã hội Viê ̣t Nam đã
không ít hoàn cảnh nói lên được việc đánh mất tâm hồn, đanh mất
loàng tốt đó.
Ngay ngày 30 tháng 3 vừa rồi, tài xế ô tô Nguyễn Thế Thông đã
gây ra tai nạn xe thảm khốc với đoàn xe lửa, khiến chín người thiệt
mạng khiến cả xã hội phẫn nộ vì “thói quen tranh thủ” và việc “xem
thường tính mạng người khác”. Hơn nữa chúng ta lo sợ vì trong xã
hội đâu ít tài xế “vô tâm” như vậy!
Sau đó hai ngày, “vụ sập mỏ đá Lèn Cờ” khiến mười tám người
thiệt mạng và nhiều người khác bị thương. Nguyên do cũng vì quá
chú trọng đến lợi nhuận mà các ông chủ khai thác đã bắt những công
nhân khai thác đá sai quy trình, dẫn đến nguy cơ sụp đổ bất cứ lúc
nào. Khi chúng ta nhẩm lại từng lời trong câu nói của Kha – người
trải qua tai nạn từ đầu đến cuối: “Chúng tôi hùa nhau chạy ra khỏi
lèn đá như người mất hồn”. (Tuổi trẻ, ngày 2 tháng 4 năm 2011, tr. 5)
Chúng ta sẽ thấy đau xót vì không những người thợ đá này “mất
hồn” mà dường như các ông chủ và cả xã hội cũng đang “mất hồn”,
mất hồn vì phía bên trong tai nạn ghê rợn này là một sự thật ghê rợn
hơn – sự vô tâm – vô hồn của lòng người. Vâng, chính sự vô hồn này
là nguyên nhân của cái xấu ngày càng lan rộng, của cái chết ngày
càng tăng lên. Vậy ta phải làm gì? Ta phải căm ghét cái vô hồn, lên
án cái xấu xa bằng một tình yêu mạnh mẽ uy hùng. Nhà văn mù Hy
Lạp cổ đại Hirmer khẳng định: “những ai yêu thương tột cùng sẽ căm
ghét tốt độ”. Vâng, chúng ta càng yêu mến những điều tốt đẹp,
những tâm hồn tốt lành bao nhiêu thì chúng ta lại căm ghét những
điều xấu xa vô tâm, vô cảm bấy nhiêu. Và sự căm ghét này phải đi
đôi với việc loại trừ cái xấu, cái ác ra khỏi chính mình và xã hội. Dẫu
đây là hành động vô cùng khó khăn và dai dẳng nhưng tôi luôn vững
tin là mình sẽ là được vì chính Thiên Chúa – Đấng mà tôi đặt niềm

17
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
tin trọn vẹn đã mặc khải cho tôi ý nghĩa của “mầu nhiệm sự dữ -
mysterium inquitatis” (Benedito XVI, Ánh Sáng Muôn Dân). Khởi
đầu, mọi lời thụ tạo đều tốt đẹp: “Thiên Chúa thấy mọi sự người làm
ra quả là rất tốt đẹp!” (St 1, 31). Nghĩa là, con người tự hữu thể là tốt
đẹp vì con người được tạo nên theo và giống với hình ảnh của Đấng
tạo dựng nên mình, nhờ đó con người có lí trí, ý chí, tình cảm và tự
do – những yếu tính tạo nên sự tốt đẹp nơi con người. Nhưng vì lạm
dụng tất cả mà con người gây rối và đánh mất tất cả. Khi xưa Adam
và Eva đã phạm tội, ngày nay con người cũng phạm tội. Xã hội chứa
đầy tội lỗi, Giáo Hội cũng không ít bất trung, lỗi tội. Nào là Giáo Hội
hoàn cầu rơi vào “chủ nghĩa thế tục” mà nổi bật nhất là việc lạm
dụng tính dục ở Mỹ năm 2003, rồi tại Ailen năm 2006… Hay là Giáo
Hội Việt Nam rơi vào khủng hoảng ngay trong Năm Thánh. Đức
Tổng Giuse đã phải ra đi, các thành phần trong Giáo Hội thì đang bất
đồng, chia rẽ… Nhưng như đã nói, nhờ mặc khải của Thiên Chúa mà
người Công Giáo nhìn nhận sự dữ với một ý nghĩa hoàn toàn khác
biệt và tích cực.
Tội lỗi và sự xấu xa nói lên bản tính bất toàn của con người, nhận
rõ điều này nên người Ki tô hữu không trốn chạy mà đối diện với sự
dữ và vượt qua sự dữ nhờ biết “hồi tâm thống hối”, biết cậy dựa vào
Chúa Kitô. Hãy cảm nhận sự vui mừng khác lạ của thánh Phaolô khi
ngài đối diện với sự yếu đuối của mình: “Tôi rất vui mừng và tự hào
vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi.
Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục,
hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu chính là lúc
tôi mạnh.” (2Cr 12, 9-10). Thật vậy, muốn sống tốt hơn mỗi ngày thì
việc tin cậy vào Chúa để rồi hân hoan vượt qua đau khổ, tội lỗi, cái
xấu và cái ác là một phương thế rất hiện sinh và hiện thực, bởi một
sự thật là “mọi thánh nhân đều có quá khứ, mọi tội nhân đều có

18
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
tương lai”. Điều quan trọng là mình phải dũng cảm nhìn nhận mình
tội lỗi, yếu đuối để hoàn toàn tin tưởng vào Chúa và nhớ ơn Chúa,
mình sẽ vượt qua yếu đuối – vươn lên – tốt hơn mỗi ngày.
Cái xấu mà đỉnh cao là cái chết luôn là một lo sợ cố hữu của mỗi
một người nên ta thường lo sợ và tránh né hoặc không biết phải vượt
qua như thế nào vì chính ta đã không ít lần bị choáng ngợp vì cái ác
bao trùm, cái xấu bủa vây, cái chết cận kề. Không ít lần mình bị rơi
vào “ đêm tối của cuộc đời” như bài thơ cổ của Ấn Độ - Linh Thoại
dưới đây đã lột tả rất hay:
“Ta nói với ai đây?Anh em bạc ác, bạn hữu vô tình.
Ta nói với ai đây?Ngày vàng còn đâu nữa, khi bạo tàn bủa vây.
Ta nói với ai đây?Người tốt gặp thảm họa, cái thiện thì xa bay.
Ta nói với ai đây?Linh hồn ngươi chẳng phải, nơi nương tựa hồn
ngươi!!!
(Nhật Chiêu dịch)
Vâng, đúng vậy: “Cuộc sống mặc khải cho ta cái hư không trong
lòng sự hiện hữu, cái chết trong lòng sự sống” (J.P. Sattre). Vâng!
Cuộc sống đời thường lắm lúc ai oán đa đoan là vậy mà cuộc sống
đời tu cũng không ít lần rơi vào “đêm tối đức tin” như thế đâu! Nhiều
khi đối diện trước nhan Chúa mà tâm hồn trống rỗng, niềm tin khô
khan rồi cõi lòng dâng ngập sự cô đơn, nỗi niềm đầy hoang mang lo
sợ… Không biết mình có xứng đáng với tình yêu vô bơ của Chúa
hay không, không rõ mình có vững bước trung thành hay không, hay
là dừng bước – bỏ cuộc giữa chừng. Nhưng rồi mỗi lần nhìn sâu vào
Đấng bị đâm thâu là một lần mình lấy lại được nghị lực để bước tiếp,
sinh lực để vượt qua và ân sủng để vươn tới… Tự thân, sự xấu xa, tội
lỗi mà đỉnh cao là cái chết không thể dẫn tới sự tốt lành. Nhưng
chính Đức Giêsu là Đấng Tốt Lành đã mang lại cho cái chết một sự
tốt lành viên mãn. Ngài là con đường để tôi bước tới. Con đường của

19
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
ngài là con đường “tự hủy” (tcénosics), là con đường “thập giá”
nhưng đích đến của Ngài là “phục sinh”, “hằng hữu”. Làm thế nào để
ta làm được như Ngài? Thiết mong là ta cùng bước đi với Ngài, cần
“đặt trọng tâm của đời sống mình nơi Ngài” (1Cr 2, 2). Vì đây là
hành trình thập giá nên đầy gian nan, không phải ngày một ngày hai
là đến đích mà là suốt cả cuộc đời. Trên hành trình này phải luôn lấy
lời hiệu triệu của Chúa để làm kim chỉ nam, là lời tâm niệm cho sự
dấn bước “Anh em hãy trở nên hoàn thiện như cha anh em trên trời là
Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48).
Sống tốt hơn mỗi ngày bằng cách cậy dựa vào “ân sủng” của
Chúa. Dĩ nhiên, muốn sống mỗi ngày một tốt hơn thì những nỗ lực
không ngừng của bản thân là một điều rất quan trọng nhưng nếu chỉ
cậy dựa vào mình thì quả thật sẽ liên tục thất bại – chán nản. Người
viết đã trải qua điều này nên mới biểu đạt như vậy! Vâng, không có
ơn Chúa thì tôi thấy những cố gắng của mình cũng chỉ hoài công
thôi! Hơn nữa ân sủng của Chúa giúp cố gắng của mình có điểm tựa
vững chắc hơn chứ đâu phải là xóa bỏ cái tôi của mình đi đâu vì “ân
sủng của Chúa không xóa đi bản tính tự nhiên mà còn giúp kiện toàn
bản tính ấy” (S.G.H.T.C.G). Nhưng “ân sủng của Chúa” gồm những
gì? Nhiều lắm, như: đức tin – đức cậy – đức mến… Trong số những
ân sủng này thi “tình yêu” của Chúa là động lực quan trọng nhất để
ta sống tốt hơn mỗi ngày. Động lực nào giúp ta yêu mến một cách
nhưng không, làm điều tốt mà không đòi phải đáp trả, sống sự thật
mà không nghi nan, vấp ngã mà không bỏ cuộc, yếu đuối mà không
nương chiều theo tội, bất tất mà vẫn vững tin, giới hạn mà luôn
hướng về siêu việt… Xin thưa động lực đó không đến từ con người
mà đến từ Thiên Chúa. Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã khẳng
định: “Caritas Chiristi urget nos – chính tình yêu Chúa Kitô thúc
bách tôi!”. Như vậy, ân sủng của Chúa không những giúp ta vươn

20
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
lên; sống tốt hơn mỗi ngày mà còn giúp ta nên thánh – đỉnh cao của
sự tốt lành – cùng đích của cuộc đời.
Tóm lại, việc phân ra hai bình diện trên là để thấy rõ vấn đề và để
trả lời cho hai câu hỏi “làm gì và làm như thế nào để mỗi ngày một
tốt hơn”. Nhưng để thấy toàn diện vấn đề thì phải thống nhất hai bình
diện trên lại. Muốn sông tốt hơn thì trước tiên ta phải kết hợp tạo nên
một chỉnh thể các giá trị vững chắc, kế đến là góp phần tạo nên một
môi trường sống tốt và trên hết là nương dựa vào ân sủng của Chúa
để thực hiện việc vươn lên một cách vừa tiệm tiến vừa vững chắc.
Tắt một lời: Nhân vị và ân sủng cùng hòa quyện với nhau để tạo nên
một môi trường sống trọn lành, tốt đẹp, thánh thiện:
“Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay,
Anh em được sống vui vầy bên nhau.”
(Tv 133, 1)
Sống tốt là một hành trình của cuộc đời. Mỗi chúng ta luôn
muốn vượt qua những mục tiêu trước mắt để vươn tới một mục đích
tối hậu. Điều đó là tốt nhưng sẽ là tốt hơn và là tốt nhất nếu mình
biết phó thác hành trình này cho Chúa. Tất yếu, sự nỗ lực của bản
thân luôn là quan trọng nhưng nếu chưa nâng tâm hồn lên tới Chúa
thì mình chưa thể vượt qua được chính mình. Vượt qua chính mình
là đỉnh cao và là những bước đi cần thiết của mỗi nỗ lực bản thân,
trong đó có nỗ lực sống tốt hơn mỗi ngày. Và mình không thể vượt
qua chính mình nếu mình không biết cậy dựa vào Đấng Vượt Qua.
Xin ghi lại mấy câu thơ cảm khái viết ra khi thực hiện bài viết này
để kết thúc:

21
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
HƯỚNG VỀ CHÚA TÔI
Ba vạn sáu ngàn ngày thoi đưa thấm thoát.
Sao cứ mãi nhọ nhằn, tranh chấp làm chi!
Ai đúng ai sai, hỏi để lại được gì?
Khắc khoải vụt đi … chỉ còn bụi đất.
Canh cánh thế sự, linh hồn vụt mất,
Người tốt kẻ xấu, sâu bọ cùng chôn.
Cây cỏ mọc lên, thân xác lụi tàn,
Màng chi nhân sự, trở về cùng Chúa!!!
Người viết: Gioan Baotixita Nguyễn Trọng Tín
Nhận xét: Bài viết đáp ứng các yêu cầu về nội dung và kiểu vài
với phạm vi tư liệu phong phú, văn phong mang chất trí tuệ. Tuy
nhiên, đôi chỗ cần lập luận đi hơi xa mà lại chưa giải quyết dứt điểm
từng luận cứ.

22
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Người ta thường nói: “Cha mẹ sinh con, trời sinh
tính.” (Tục ngữ). Nhưng lại có ý kiến cho rằng:“Hiền dữ phải đâu
là tính sẵn,/ Phần nhiều do giáo dục mà nên.”Hãy so sánh hai
quan điểm trên. Quan điểm của anh về vấn đề này như thế nào?
Bài làm
Nếu khởi đi từ các mối tương quan trong một gia đình, ta có thể
nhận thấy rằng: mỗi thành viên trong một gia đình, dù lớn hay nhỏ,
dù trai hay gái đều có cách xử sự trước một việc nào đó mang những
hình thái và dáng vẻ khác nhau. Hay nói một cách khác, mỗi người
có một tính riêng biệt để làm nên đặc thù của người đó. Có anh tính
nóng nảy, cọc cằn. Có chị tính tình dịu dàng, dễ thương,v.v... Chính
vì thế, mà trong dân gian người xưa vẫn thường truyền miệng nhau:
“Cha mẹ sinh con, trời sinh tính” để nói lên cái đặc điểm tính cách
riêng biệt của mỗi cá nhân đó. Những tính cách ấy được ông trời ban
cho trong một than thể do cha mẹ tác sinh. Tuy nhiên, quan niệm của
ông bà dường như đang dần được thay thế khi Chủ tịch Hồ Chí Minh
với tư tưởng của Mác-Lênin đã khẳng định những tính tình ấy được
hình thành nên phần nhiều do việc tích lũy, học tập của mỗi cá nhân
mà có được. Ông đã từng nói:
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên.”
Đứng trước hai quan điểm ấy, phải chăng người xưa đã nhận định
sai lầm khi cho rằng tính cách con người khi sinh ra đã được hình
thành bẩm sinh do trời tạo? Hoặc quan điểm giáo dục tạo nên tính
cách con người là một chân lý tuyệt vời? Chúng ta hãy cùng nhau so
sánh hai quan điểm trên để có cái nhìn đúng đắn và đầy đủ; Đồng
thời, cùng nhau rút tỉa những kinh nghiệm quý báu từ những nhận
định ấy mà áp dụng vào thực tiễn, hầu giúp cho mỗi cá chúng ta ngày
càng hoàn thiện nhân cách của mình, đáp ứng những nhu cầu ngày
càng cao trong cuộc sống hiện tại.

23
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Trước hết, ta cùng nhau xem xét cái “tính” nơi con người được
hiểu ra sao? Tính là những đặc điểm tâm lý riêng ổn định của mỗi
người, thường biểu hiện ra trong thái độ , hành vi, cử chỉ. (Theo từ
điển Tiếng Việt phổ thông, Viện ngôn ngữ học, nhà xuất bản Phương
Đông). Như thế, những biểu hiện cụ thể và ổn định của một người
cho ta thấy được tính cách của người đó. Nhưng dường như, trong
cuộc sống ta đều nhận thấy ở mỗi người đều có những biểu hiện riêng
và cách giải quyết vấn đề khác nhau trong một tình huống, một hoàn
cảnh cụ thể nào đó. Và chính những cách biểu hiện ấy, ta nhận ra rằng
mỗi người đều có tố chất riêng tạo nên tính cách, dung mạo và giọng
điệu khác nhau. Từ đó, dẫn đến việc họ có những ứng xử cũng khác
nhau trong đối nhân xử thế.
Từ việc hiểu rằng con người có những tính cách riêng biệt ấy,
đồng thời bằng kinh nghiệm sống, ông cha ta xưa kia đã nhận định:
“Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”. Vậy, phải chăng cái “tính” nơi một
người đã được định sẵn, được sinh ra bởi ông trời?
Từ ngàn xưa, người Việt Nam chúng ta tin có Trời, có Thượng
Đế, có Đấng Tạo Hóa dựng nên muôn loài, muôn vật hữu hình và vô
hình. Và bằng trải nghiệm cuộc sống, ông bà cảm nhận rằng: Trời
không thiên vị, Trời rất công bằng, thương người lành phạt kẻ dữ
( Hoàng Thiên chí công vô tư, Hoàng Thiên bất phụ hảo nhân tâm.
Nghĩa là trời rất công bằng, Trời không phụ người có lòng tốt).
Chúng ta còn nhận thấy quan điểm của người xưa rằng: Thuận với
Trời thì được sống, nghịch với Trời thì chết (Thuận Thiên dã tồn,
nghịch Thiên dã vong). Do đó, những khi gặp nguy hiểm, khốn cùng,
người ta thường kêu Trời như một tiếng than van, cầu khẩn. cũng thế,
trong vai trò làm cha mẹ, khi sinh ra những người con có những tính
tình khác nhau, có đứa khôn kẻ khờ, có đứa lịch thiệp nhưng cũng
không thiếu kẻ vụng về thì sự nhận thấy điều khác biệt trong tính

24
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
cách ấy đã dẫn các cụ đến quan điểm quy cho “trời sinh tính” thật
hữu lý. Và điều này là sự hiển nhiên mà các cụ cho rằng tính tình của
mỗi người tự bản năng mà có được. Thật vậy, quan niệm “ trời sinh
tính” là do bản năng hay do di truyền mà cha mẹ truyền lại cũng có
phần nào đáng tin. Như trong dân gian ta vẫn thường nghe “Cha nào
con nấy” hay “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh” để
chỉ rằng con người khi sinh ra đã có phần nào tố chất của cha mẹ
mình. Và quả thật, trong thực tế ta nhận thấy thường thì cha mẹ là
bác sĩ dường như khuynh hướng của người con rất nhiều khả năng
cũng sẽ thiên hướng về bác sĩ. Hay cha mẹ làm nghệ thuật cũng ít
nhiều đứa trẻ cũng có những năng khiếu riêng biệt về nghệ thuật.
Như thế, để ta thấy rằng, tính tình của một người cũng phần nào do
bẩm sinh mà có được, vì thế các cụ mới gán cho “trời sinh” là thế.
Tuy nhiên, ta cũng nhận thấy không ít trường hợp trong cuộc
sống cha mẹ là kẻ xấu, kẻ ác thì con lại hiền thục xinh đẹp. Còn cha
mẹ ăn ở hiền từ, nhân đức thì lại sinh con hung dữ, bất lương, v.v…
và từ đó cũng có câu: “Cha mẹ cú, đẻ con tiên. Cha mẹ hiền, sinh con
dữ”. Như thế, quan niệm tính tình của một người bẩm sinh do gen di
truyền của cha mẹ cũng chưa hẳn chính xác. Nếu hoàn toàn gán cho
“trời sinh tính”, thì việc việc hình thành tính cách của mỗi người phải
chăng cần đến sự dạy dỗ của cha mẹ? Đều này thật là một nghịch lý.
Bởi lẽ, khi sinh ra một người con, ta nhận thấy cha mẹ luôn ân cần
chăm sóc, dạy dỗ từ cách ăn, cách mặc để cho chúng ngày càng nên
người. Chính vì thế, nếu như cha mẹ không dạy dỗ mà phó mặc cho
“trời sinh tính” thì tại sao thiên hạ lại có câu: “Con hư tại mẹ, cháu
hư tại bà” để nhắc nhở đến vai trò dưỡng dục của các bậc sinh thành?
Hoặc ta cũng thường nghe người xưa căn dặn đến việc phát triển
nhân cách của con em mình: “Dạy con từ thuở lên ba”, đó cũng
là,việc ý thức tính tình của một người cần đến tác nhân dạy dỗ mà

25
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
hình thành nên. Mặt khác, nếu bảo tính tình của con người do “trời
sinh” thì chúng ta dường như chẳng thể nào thay đổi hoặc làm cho
tính ấy trở nên khác đi được, và cũng chẳng cần phải bận tâm cho kế
hoạch “trồng người” làm chi. Thế nhưng, người xưa có từ lâu đã ý
thức đến tầm quan trọng của kế hoạch “trồng người”, như Quản Tử
đã từng thao thức: “Nhất niên chi kế mạc như thọ cốc; thập niên chi
kế mạc như thọ mộc; chung thân chi kế mạc như thọ nhân” (Kế
hoạch một năm không gì bằng trồng lúa; kế hoạch mười năm không
gì bằng trồng cây; kế hoạch trọn đời không gì bằng trồng người.).
Nói như thế, để chúng ta biết rằng việc tính tình một con người,
không chỉ do “trời sinh” mà còn cần đến sự dạy dỗ của mọi người mà
nhất là cha mẹ là những thầy dạy đầu đời của con mình.
Vậy phải chăng, quan niệm: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần
nhiều do giáo dục mà nên” của Hồ Chí Minh là một chân lý trọn
hảo? Trở lại với thời xưa, ta thấy Khổng Tử cũng đã từng đề cập rằng
con người lúc sinh ra, cái tính trời phú cho là giống nhau nhưng
trong quá trình tiếp xúc, học tập,… nó làm cho họ khác nhau, có kẻ
trí người ngu. Và tính tình vốn gần nhau nhưng do tập quán nên xa
nhau (Tính tương cận dã, tập tương viễn dã). Ông cũng quan niệm
nhân tính hòa lẫn giữa thiện và ác. Theo ông, thiện ác của nhân loại
đều do phần giáo dục quyết định, ông khẳng định rằng: “Con người
bằng nỗ lực chủ quan của mình cũng có thể làm thay đổi cái thiên
tính ban đầu”. Do đó, ông nhấn mạnh: “Muốn cho nhân loại gần
bằng nhau thì phải chú ý đến giáo dục, vì giáo dục có thể hóa được
ác thành thiện, cho nên cũng gọi là giáo hóa”, phải có giáo dục để tu
sửa cái đạo làm người (Tu đạo chi vị giáo).
Chính vì thế, giáo dục đóng một vai trò hết sức quan trọng trong
việc hình thành nhân cách. Đứa trẻ sinh ra nếu không được giáo dục
mà cứ để trẻ phát triển tự nhiên thì rất khó kiểm soát và hình thành

26
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
nhân cách tốt được. Thật thế, nhìn vào tấm gương các bậc quân
vương với khí phách anh hùng, lòng nhân ái thương dân như
con,v.v… tất cả những tính tình ấy là hoa trái của biết bao ngày đêm
mà nhà vua phải chù mài kinh sử trong đèn sách. Rồi những quan
thượng phẩm có đức tính tốt được đưa vào cung phục vụ cho triều
đình, họ đều phải trải qua những cuộc thi để chứng tỏ hoa trái của
giáo dục. Hay trong cuộc sống hiện đại này, hầu hết mọi người đều
mong muốn và chạy đôn chạy đáo để mong sao cho con em mình
được học ở những trường nổi tiếng, những trường có bề dày kinh
nghiệm trong giảng dạy với hi vọng con mình sẽ thành nhân, Thế
mới thấy, giáo dục thật quan trọng và hơn cả là giáo dục để hình
thành nên nhân cách còn quan trọng dường bao. Vì vậy, sự hình
thành nhân cách con người không thể không nhấn mạnh đến vai trò
của giáo dục.
Từ những trình bày trên, ta thấy rằng cả nhận định của người xưa
và quan điểm của Hồ Chí Minh đều có những điểm khác nhau.
Người xưa cho rằng “trời sinh tính” để xác định tính cách của con
người khi sinh ra đã có sẵn do bẩm sinh hoặc do di truyền từ cha mẹ.
Còn quan điểm “phần nhiều do giáo dục mà nên” nhấn mạnh đến vai
trò giáo dục hình thành nên tính cách của một người. Mặt khác,
người xưa quy việc hình thành tính cách của một người cho “ông
trời” cũng thể hiện một sự cảm nhận khó khăn trong dạy con, phó
thác vào mệnh trời. Điều đó nhiều khi làm cho con người ỷ lại,
không lo hoàn thiện hơn chính mình.Còn quan niệm của Bác Hồ
mang một tâm thái chủ quan hơn, ý thức hơn vai trò giáo dục để hình
thành nên tính cách, giúp con người có ý hướng tự hoàn thiện tính
cách cho mình nhờ vào giáo dục.
Tuy nhiên, tưởng chừng như hai quan điểm ấy mâu thuẫn về mặt
logic, hình thức đối lập nhau, thế nhưng ta lại nhận thấy hai quan

27
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
niệm ấy có sự bổ sung lẫn nhau. Bởi lẽ, trong cách nhìn nhận “cha
mẹ sinh con, trời sinh tính” đã có sự giáo dục cách nào đó trong sự
dưỡng dục. Ta thấy, theo lẽ thường khi sinh đứa con đầu lòng thì cha
mẹ dễ có khuynh hướng chăm sóc cách đặc biệt, chu đáo và chăm
chút hơn so với những đứa con sau có phần lơ là. Vì đứa con đầu
lòng luôn là món quà đặc biệt và mới mẻ mà những cha mẹ trẻ có
được trong đời sống hôn nhân. Chính sự khác biệt trong cách chăm
sóc ấy đã phần nào tạo ra những tính cách khác biệt nhau trong
những đứa con có cùng cha mẹ. Vậy, cách chăm sóc mà cha mẹ lưu
tâm đó chẳng phải là việc giáo dục để hình thành nên tính cách của
con người sao? Thử hỏi, nếu một đứa trẻ được sinh ra, theo thời gian
nó được tăng trưởng nhưng cha mẹ không dạy cho nó nói, nhìn,… thì
liệu sau này nó có thể biết đọc, biết viết không? Như thế, có chăng
cách nhìn nhận “trời sinh” là do người xưa cảm nhận những yếu tố
hình thành tính tình một cách tự nhiên mà họ chưa nhận diện được
yếu tố giáo dục tác động, thế nên mới có chuyện quy cho “trời”. Còn
quan niệm “phần nhiều do giáo dục mà nên” cũng không phủ nhận
tính cách do bẩm sinh có được. Bởi trong cách đặt nghi vấn: “Hiền
dữ phải đâu là tính sẵn” cho thấy Bác Hồ chỉ đề cao việc giáo dục
quyết định để hình thành tính cách thế nên ông mới nói “phần
nhiều”. Vậy “phần ít” kia phải chăng cũng có yếu tố di truyền trong
đó? Và quả thật, ít nhiều ông cũng cảm nhận mỗi người khi sinh ra
đều có thể trạng khác nhau. Có trẻ mới sinh ra đã khỏe mạnh, bụ
bẫm, có đứa thì èo uột bệnh hoạn, những yếu tố di truyền ấy cũng
ảnh hưởng đến sự hình thành tính cách. Chính vì thế, có lần ông đã
nhắc nhở toàn dân cần phải rèn luyện sức khỏe để trở thành con
người khỏe mạnh, không ngại khó khăn, có niềm tin hơn vào chính
mình và cuộc sống: “Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu
ớt, mỗi người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe”. Đến đây,

28
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
ta thấy rõ cả hai quan điểm đều cùng nhắm đến việc hình thành tính
cách của một con người. Như vậy, khi được sinh ra phần nào con
người có được tố chất, những bản năng bẩm sinh do cha mẹ, thế
nhưng nếu không được giáo dục thì những tố chất ấy không làm nên
nhân cách của người đó. Vì thế, F.Bcon đã từng nói: “Khả năng bẩm
sinh tựa như các loài cây cảnh, cần được chăm tỉa bằng học vấn”.
Thế nhưng, dường như cả hai quan điểm trên đều có những thiếu
xót và chưa hoàn toàn là kim chỉ nam trong việc hướng dẫn hình
thành nhân cách. Bởi trong cuộc sống muôn màu sắc này, ta được
tiếp xúc và gặp gỡ biết bao con người. Từ Bắc chí Nam trải dài trên
khắp đất nước, ta đều cảm nhận dường như mỗi vùng miền lại tạo
cho con người có những tính cách khá riêng biệt. Những con người
đến từ miền Bắc có vẻ như tính tình học chi li, đanh thép hơn so với
những người miền Nam phóng khoáng, cởi mở. Còn những anh chị
trú tại miền Trung, nơi mà quanh năm họ phải sống trong cảnh lũ lụt,
thiên tai thì họ lại có những ưu tư, lo lắng và tính cách cẩn thận hơn
(Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay lo). Vấn đề là tại sao lại có sự
hình thành tính cách khác biệt như thế trong khi họ cũng được giáo
dục như nhau? Nhìn chung, ta thấy chính nơi họ sinh sống gồm các
điều kiện tự nhiên: nước, không khí, đất đai, khí hậu, thời tiết,…
phục vụ cho các hoạt động sinh sống của họ, từ đó đã dần tác động
và hình thành nên những tính cách khác biệt ấy. Chưa hết, ở mỗi
vùng miền lại có những tập tục văn hóa, những yếu tố xã hội lịch sử
khác nhau, kinh tế cũng chênh lệch… từ đó nảy sinh cách thức giao
tiếp và lĩnh hội những giá trị ấy khác nhau dẫn đến việc hình thành
nên tính cách riêng biệt nơi bản xứ. Ta có thể thấy rõ điều này khi
chứng kiến trẻ em ở gia đình khó khăn, cha mẹ không thuộc tầng lớp
tri thức thì tác động đến tính cách của đứa con khiến chúng: rụt rè, tự
ti. Ngược lại, đối với những gia đình khá giả, cha mẹ là những thành

29
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
phần học cao, có nhiều điều kiện quan tâm chăm sóc con cái khiến
chúng có những suy nghĩ tích cực, tính tình mạnh dạn, không ngại
giao tiếp. Hoặc cũng có khi ở nông thôn, con nhà ít học, không được
người lớn quan tâm nhiều nên có thể chúng rất ngoan, dễ dạy; Còn
trẻ em ở thành thị, con nhà trí thức, được “tôn trọng” quá mức nên
chúng trở thành người “lãnh đạo” lại chính các bậc phụ huynh. Như
vậy, ngoài yếu tố bẩm sinh, giáo dục thì ta cũng không thể coi nhẹ
yếu tố môi trường đóng góp tích cực vào việc hình thành tính cách
con người.
Mặt khác, ta nhận thấy rằng dòng chảy của cuộc đời là dòng chảy
không ngừng biến chuyển, chính sự thay đổi của cuộc sống cũng góp
phần làm cho tính cách của ta cũng cần phải thay đổi theo để thích
nghi với cuộc sống. Mọi tác động của các yếu tố trên sẽ không có
hiệu quả nếu cá nhân con người không tiếp nhận tác động đó, nếu họ
không trực tiếp tham gia vào hoạt động để hình thành nhân cách của
mình. Quá trình hình thành và phát triển nhân cách thực chất là sự
tác động qua lại giữa các nhân tố bên trong bên ngoài, các nhân tố
khách quan và chủ quan. Vì vậy, cần có sự nỗ lực, tích cực, tự giác, ý
thức vươn lên, tự hoàn thiện mình của mỗi cá nhân. Điều này được
thể hiện khá rõ nét ở các nước Phương Tây, người ta giáo dục con
em trong tinh thần độc lập, biết tôn trọng từng cá thể, để con người
tự nhận ra những khuyết điểm và đánh giá được bản thân, để tự mình
lướt thắng và vượt qua những trở ngại và sẽ khẳng định được mình.
Tất cả những điều này luôn gắn liền với một niềm tin không hề tranh
cãi. Và cứ thế mãi, con người trưởng thành về thể lý cũng như tâm
lý. Một dân tộc hùng mạnh cũng phát xuất từ nơi đây. Nói như
Edison đã từng cảm nhận: “Thiên tài chỉ có một phần là linh cảm còn
chín mươi chín phần kia là mồ hôi và nước mắt”.

30
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đến đây, ta nhận thấy rằng, nhờ yếu tố bẩm sinh do di truyền,
nhân cách được tiếp tục biến đổi và hoàn thiện dần thông qua việc cá
nhân tự ý thức, rèn luyện, tự giáo dục, tự hoàn thiện nhân cách mình
ở một trình độ cao hơn để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc
sống, của xã hội (Theo Nguyễn Quang Uẩn – Tâm lý học đại cương).
Và đây là toàn bộ kim chỉ nam để hướng dẫn con người hoàn thiện
nhân cách của mình.
Tuy nhiên, thiết tưởng, việc nghiên cứu tâm lý phát triển sẽ giúp
cho nhân cách con người ngày càng hoàn thiện. Vậy mà thực trạng
cuộc sống lại cho ta thấy tình trạng đạo đức, nhân cách ấy hầu như
ngày càng tuột dốc. Phải chăng chúng ta vì quá đặt nặng phát triển
nhân cách bằng những tác động bên ngoài mà đánh giá nhẹ việc trau
dồi và phát triển nội tâm để từ đó giúp con người có động lực hầu
thúc đẩy nhân cách trở nên hoàn thiện? Như thế, chúng ta cần làm gì
đây để đời sống nội tâm ngày càng tiến triển?
Thứ nhất: trên phương diện là người Kitô hữu, muốn phát triển
nhân cách của mình thì có lẽ chọn lựa tốt nhất là phải hướng đến
Đấng trọn hảo trong nhân cách, Đấng ấy là Đức Giêsu, để nhờ Ngài,
ta nuôi dưỡng và ấp ủ những động lực thúc đẩy phát triển nhân cách
mình. Thật vậy, ta thấy rằng: “Chúa Giêsu càng thêm tuổi càng thêm
khôn ngoan, vóc dáng và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt
người ta”. (Lc 3,52) là một lời chứng rằng Ngôi Lời nhập thể đã thật
sự phát triển về thể lý và tinh thần. Nhân tính của Chúa không phải là
một chiếc áo mượn mà Ngài mặc vào để làm một cuộc lữ hành dưới
trần gian này. Đã hẳn, Con Thiên Chúa có thể đến trong thế gian này
ở tuổi trưởng thành mà không cần đến giáo dục và phấn đấu học
hành. Thế nhưng Ngài đã muốn thực sự trở nên một người như
chúng ta. Mặt khác, Mẹ Maria không những là Mẹ Ngài mà còn là
người giáo dục Ngài nữa. Và chính điều đó, nhân tính của Ngài phát

31
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
triển một cách điều hòa, nhờ vào môi trường thuận tiện là gia đình
Nazareth, và một nền giáo dục thích hợp là nền giáo dục của Mẹ
Maria và Thánh Giuse. Bằng chứng là những lời Chúa Giêsu nói,
những điều ngài giảng dạy và cách Ngài hành động đều chứng tỏ một
tính cách trọn hảo trong Ngài. Phải chăng, tính cách ấy được hình
thành nhờ vào một sự hòa hợp tuyệt diệu giữa xúc động và tình cảm.
Tiến sĩ Chautard thích lặp lại câu này: “Chúa Giêsu Kitô chỉ đạt được
sự quân bình hoàn hảo về tình cảm như Phúc Âm làm chứng nhờ
nam tính tuyệt hảo của Thánh Giuse hòa hợp với nữ tính tuyệt diệu
của Mẹ Maria”. Và cũng như Đức Giêsu đã nhờ vào cha mẹ để quân
bình và thúc đẩy nhân cách Ngài phát triển thế nào thì chúng ta cũng
hướng về Đức Giêsu để kín múc nguồn động lực thúc đẩy nhân cách
mình phát triển. Như La Fontaise đã từng cảm nhận: “Bất cứ khi nào
con người tìm được cho mình nguồn động lực thúc đẩy tinh thần, thì
mọi cái không thể đểu trở thành có thể”.
Thứ hai, Mỗi chúng ta cần ý thức rằng mọi sự tốt đẹp đều triển
nở từ đời sống tinh thần để từ đó biết phát huy và trau dồi hơn nữa về
đời sống tinh thần. Khi tinh thần đã trở nên nô lệ cho vật chất thì con
người bị tha hóa. Mọi sự bắt đầu từ bên trong, khi bên trong bị manh
động thì mọi cái bên ngoài trở nên hỗn loạn. Cuộc sống con người
cao đẹp từ chính đời sống tinh thần của họ, nghĩa là trong tâm thế và
phẩm cách của họ. Giá trị của một con người được xác định chính
yếu từ đó. Mọi cái khác như tài năng, chức vụ, chuyên môn, thế giá
xã hội chỉ là phụ thuộc. Lịch sử cho thấy thế giới đầy những con
người tài trí, nhưng tài trí ấy không nằm trong những tâm hông cao
đẹp thì sẽ phát sinh những Hitle của thời đại mới. Bởi vậy, để hoàn
thiện tính cách của một người quan trọng nhất vẫn là đào luyện tâm hồn
con người, là khơi lên chân lý của sự sống đích thật đang tiềm ẩn nơi
họ. Trong ý nghĩa đó, Galileo đã phát biểu mạnh mẽ rằng: “Anh không

32
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
thể dạy một ai cái gì cả, anh chỉ có thể giúp họ tìm thấy điều ấy ở trong
họ mà thôi.”
Thứ ba: mỗi chúng ta cần mở lòng, khiêm tốn và tương quan với
cách thức dấn thân phục vụ mọi người. Bởi lẽ, chính giao tiếp, tương
quan là một trong những con đường cơ bản để hình thành và phát
triển nhân cách. Ta thấy rõ là cuộc sống của Đức Giêsu luôn là sống
cho người khác. Chính vì thế mà những hình ảnh quen thuộc Ngài sử
dụng để nói về đời sống Kitô hữu đều hàm chứa ý nghĩa về một hiện
hữu cho người khác: làm men cho bánh, làm muối cho đời, trở thành
tấm bánh bẻ ra… Điều răn lớn nhất Ngài ban bố là điều răn yêu
thương, và chính Ngài sống trước nên có thể nói với các môn đệ
rằng: “Anhem hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anhem”.
Như thế, khi con người biết mở rộng tâm hồn trước tha nhân và
những nhu cầu của họ thì chính các thiếu hụt của tha nhân là cái
mình cần hoàn thiện, bồi đắp. Và chỉ có đến với tha nhân và yêu mến
họ ta mới ngày càng trở nên người hơn, từ đó nhân cách sẽ hoàn
thiện hơn. Như Tử Cống từng nhận định: “Kẻ trí là kẻ biết người, kẻ
nhân là kẻ yêu người”.
Nói tóm lại, khi so sánh hai quan điểm trên, người xưa cho rằng
tính cách con người do bẩm sinh hay “trời sinh” mà có được và nhận
định của Bác Hồ nhấn mạnh đến vai trò giáo dục hình thành nên
nhân cách thì dường như cả hai quan điểm đều thể hiện cái thao thức
và mong ước sao cho thế hệ sau ngày càng phát triển nhân cách của
mình. Mặt khác, nhờ vào sự phát triển trong nghiên cứu tâm lý con
người, người ta phát hiện nhân cách muốn hoàn thiện thì ngoài hai
quan niệm trên còn cần phải thêm nhiều yếu tố như: môi trường,
hoàn cảnh sống, và ý thức tự rèn luyện phấn đấu của mỗi cá nhân.
Tuy thế, nhân cách con người không phải một sớm một chiều có
được mà đòi hỏi mỗi người hàng ngày phải ý thức tập luyện, trau dồi

33
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
mới hình thành nên. Bởi cuộc đời là một cuộc lữ hành, cuộc lữ hành
càng dài càng đong đầy nước mắt, cuộc lữ hành càng cao càng càng
đòi hỏi nhiều phấn đấu. Trong cuộc lữ hành đó mỗi người cũng phải
tự hoàn thiện chính mình, vươn lên sự trọn lành theo gương Cha trên
trời là Đấng trọn lành, và đích tới đẹp nhất là Thượng Trí như Thánh
Kinh đã dạy: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anhem trên trời
là Đấng hoàn thiện”(Mt 5, 48). Đồng thời ta cũng cảm nhận rằng mỗi
người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Như thế, ta cần phải
làm những phần tốt trong mình nảy nở như hoa mùa xuân và phần
xấu bị mất đi như mùa thu trút lá. Giữa thiện và ác không có ranh
giới tuyệt đối mà ranh giới này mong manh xa tít chân trời gần nơi
góc bể. Nếu sống ở đời mà làm nhiều điều thiện không hại đến ai, có
tình yêu thương con người cộng với trí tuệ thì sẽ tạo nên một thứ
hạnh phúc bất diệt, hạnh phúc ấy chính là món quà mà một người có
được nhờ nhân cách trọn hảo. Vậy, chúng ta hãy là “con người phát
triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần,
trong sáng về đạo đức” để sống văn minh, văn hóa hơn trong một thế
giới hiện đại và phát triển.
Người viết: Giuse Lê Hoàng Tuấn
Nhận xét: Thực hiện tốt các thao tác theo yêu cầu của kiểu bài so
sánh, sau đó trình bày quan điểm rõ ràng; dàn ý mạch lạc, hợp lý.
Nội dung bài viết “rào đón” khá chặt chẽ, chuẩn xác; và có nâng lên
theo quan điểm Kitô giáo với liều lượng vừa phải. Nguồn tư liệu khá
phong phú và đa dạng.

34
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài:
Ca dao Việt Nam có câu:
“Dò sông dò bể dễ dò
Nào ai lấy thước mà đo lòng người.”
Hãy giải thích câu ca dao trên.
Bài làm
Con người không sống một mình, nhưng đời sống của họ luôn là
một chuỗi những mối tương quan từ lúc sinh ra cho đến khi từ giã cõi
đời. Con người có mối tương quan với thiên nhiên, với nhau, và đối
với những ai có niềm tin tôn giáo, mối tương quan với thế giới thần
linh được thể hiện qua những nghi lễ trong các tôn giáo, và đôi khi
lại được thực hiện cách cụ thể qua mối liên hệ giữa người với nhau.
Do đó, mối tương quan người người là mối tương quan hữu hình, cơ
bản và sinh động của đời sống con người. Tuy nhiên, mối liên hệ này
cũng đầy phức tạp, đã từng đem đến cho con người không ít niềm vui
và nỗi buồn. Để diễn tả sự phức tạp này, kho tàng ca dao Việt Nam
có câu:
“Dò sông dò bể dễ dò
Nào ai lấy thước mà đo lòng người.”
Chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa của câu ca dao trên hầu qua đó,
chúng ta rút ra được những nguyên tắc hữu ích giúp thiết lập tương
quan tốt đẹp giữa mình với tha nhân.
Khi đọc và suy gẫm câu ca dao này, hẳn chúng ta khám phá ra
rằng điều trọng tâm mà tác giả muốn nói, muốn nhấn mạnh ở đây là
hai chữ “lòng người”. Vậy, “lòng người” là gì? Từ điển Tiếng Việt
định nghĩa: một là, bụng của con người, bộ phận chứa đựng nói
chung; hai là, bụng của con người, biểu tượng của ý chí, tinh thần
hay ý nghĩ, tình cảm sâu kín (Hoàng Phê, Từ điển Tiếng Việt, Nhà
xuất bản Đà Nẵng 2009, trang 714). Tất nhiên, ở đây chúng ta phải

35
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
hiểu theo nghĩa thứ hai, tức là lòng người biểu tượng cho ý chí, tinh
thần, ý nghĩ và tình cảm sâu kín của con người.
Dường như câu ca dao là lời than thở của một người vừa mới thất
bại trong mối tương quan với người khác. Sự thất bại này chắc hẳn
đã làm cho người đó đau khổ phiền muộn đến độ tác giả vừa đem
lòng của con người so sánh với sông bể mênh mông vừa như đưa ra
lời thách đố: ai có khả năng hiểu được lòng người?
“Nào ai lấy thước mà đo lòng người?”
Nếu biển cả bao la rộng lớn mà con người có thể đo được, có thể
dò được thì tại sao trong tương quan người với người, họ lại không
hiểu, không biết, không “đo được lòng nhau” ? Hiển nhiên, sẽ có rất
nhiều lý do mang tính thuyết phục để lý giải điều này. Ở đây, trong
phạm vi của bài viết này, chúng ta dừng lại để phân tích hai nguyên
nhân sau:
Trước hết, như đã nói ở trên, lòng người là biểu tượng cho ý chí,
tinh thần, ý nghĩ và tình cảm sâu kín của con người. Tất cả những
yếu tố này đều vô hình, nghĩa là con người không thể thấy, không thể
cầm nắm, giữ được. “Lòng người nếu viết theo từ Hán-Việt sẽ là
“nhân tâm”, chữ “tâm” kết hợp với các yếu tố trên cho ta hàng loạt
những từ để nói lên lòng người; tâm đắc, tâm địa, tâm giao, tâm huyết,
tâm khảm, tâm tính, tâm trạng, tâm tư, tâm tưởng, …(Sách đã dẫn,
trang 1111, 1112,1113). Vì vô hình và được thể hiện qua nhiều trạng
thái khác nhau nên lòng người phức tạp và khó đo lường cũng là điều
dễ hiểu, đúng như ông bà ta đã khẳng định:
“Họa hổ, họa bì nan họa cốt
Tri nhân tri diện bất tri tâm.”
Thật vậy, biết người, ta chỉ có thể biết bề ngoài, khó mà biết
được bên trong tâm hồn họ. Chúng ta không phủ nhận sự liên hệ giữa
hai chiều kích bên ngoài-bên trong của con người bởi vì người ta có

36
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
thể dựa vào nét mặt, ánh mắt, nụ cười, dáng đi,… mà hiểu được phần
nào nột tâm của người đó. Tuy nhiên, mối tương quan giữa con
người trở nên trục trặc và xấu đi, điều này gặp nhiều trong thực tế, là
so sự không thống nhất giữa “hình thức” với “nội dung” trong mỗi
người. Đại thi hào Nguyễn Du đã diễn tả sự mâu thuẫn này qua hình
ảnh của nhân vật Tú Bà:
“Bề ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong nham hiểm giết người không dao.”(Truyện Kiều)
Nhân gian thường dùng thành ngữ “Khẩu phật tâm xà” để chỉ
những người có đời sống giả hình, lời nói thì tốt đẹp nhưng bên trong
đầy những tính toán lọc lừa. Chu Du thời Tam Quốc là một đô đốc
có tài, một mặt muốn hợp tác với Gia Cát Lượng để diệt Tào, nhưng
mặt khác lại đố kỵ với tài thao lược của Khổng Minh, đã nhiều lần
bày mưu tính kế để hại ông, đặc biệt qua câu chuyện “Thuyền cỏ
mượn tên” (Thả thuyền tá tiễn), đúng là “Nào ai lấy thước mà đo
lòng người”.
Lòng người vô hình khiến người ta khó biết được thì chớ, nhưng
chưa chịu dừng ở đó, trái lại nó thay đổi không ngừng và làm cho
mối tương quan giữa người với người vốn phức tạp lại cũng phức tạp
hơn, vốn khó hiểu lại càng khó hiểu bội phần.
Khi đặt tên cho cuốn sách của mình nhan đề: “Tâm bất biến giữa
dòng đời vạn biến”, tác giả Trần Thị Giồng như có ý nói đến sự thay
đổi của lòng người gắn liền với sự thay đổi, biến hóa của hoàn cảnh
của thời gian và không gian. Nhìn vào lịch sử nhân loại, vào sinh
hoạt chính trị và nhất là khi lợi ích quốc gia hay cá nhân thay đổi, thì
lòng người cũng đổi thay. Ngày 17-02-1979, Trung Quốc mở cuộc
tấn công vào biên giới phía Bắc Việt Nam trước sự ngỡ ngàng của
nhiều người, nhiều nước. Tình huynh đệ giữa hai nước Trung-Việt
mà bấy lâu được các nhà lãnh đạo vun đắp và được ví von bằng

37
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
thành ngữ “Môi hở răng lạnh” nay hoàn toàn sụp đổ anh em trở
thành kẻ thù. Bởi vì:
“Dò sông dò bể dễ dò
Nào ai lấy thước mà đo lòng người.”
Năm 1995, tổng thống Hoa Kì Bill Clinton đã quyết định bình
thường hóa quan hệ với Việt Nam, chấm dứt hai mươi năm cấm vận
và mở ra một chương mới trong quan hệ Mỹ-Việt. Mấy ai ngờ rằng
hai nước cựu thù lại có thể ngồi với nhau để thảo luận và ký kết
những vấn đề hai nước cùng quan tâm. Đúng là:
“Dò sông dò bể dễ dò
Nào ai lấy thước mà đo lòng người.”
Ngày nay, con người cho rằng mình có thể hiểu được lòng người
với sự giúp đỡ của khoa tâm lý học tức là “môn khoa học nghiên cứu
các hiện tượng tâm lý của con người xuất phát từ những quan sát và
thí nghiệm thực tế trên nhiều lĩnh vực”. (Sách đã dẫn, trang 1112).
Các trung tâm tư vấn được thiết lập ở nhiều nơi, các chuyên mục tư
vấn, thắc mắc xuất hiện hầu hết trên báo, đài, tivi,… Tất cả đều có
chung mục đích là giúp con người hiểu về mình và về nhau hơn.
Nhưng kết quả ra sao? Dường như chẳng mấy khả quan, càng nhiều
trung tâm tư vấn ta lại càng nghe than phiền của thầy cô giáo về tư
cách của học sinh hôm nay: gian giối, vô lễ, bạo lực,… ta cũng nghe
những lời than thở của cha mẹ đối với con cái. Tăng nhiều trung tâm
tư vấn hôn nhân gia đình, ta lại càng chứng kiến hiện tượng ly dị
nhiều hơn. Riêng tại thành phố Hồ Chí Minh, tỉ lệ ly hôn xấp xỉ 50%.
Nhiều người sau khi hôn nhân đổ vỡ phải sống trong cảnh tuyệt vọng
và cuối cùng chọn cho mình cái chết. Tại sao lại có một nghịch lý
như vậy? Đó là vì:
“Dò sông dò bể dễ dò
Nào ai lấy thước mà đo lòng người.”

38
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Câu ca dao sau đây diễn tả sự thay đổi của lòng người khi hoàn
cảnh thay đổi:
“Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng cỏ nội ít nhiều bay đi.”
Xem ra vẫn đúng cho con người thời đại hôm nay.
Tóm lại, chúng ta vừa tìm hiểu và phân tích hai nguyên nhân khiến
con người không hiểu nhau: một là, lòng người vô hình, chỉ có thể
nhận ra bằng những biểu hiện bên ngoài và nhiều khi những biểu hiện
này lại không phản ánh đúng lòng người; hai là, tâm trạng của con
người luôn thay đổi theo thời gian và không gian. Đến đây, một câu
hỏi được đặt ra là: Có phải chúng ta bất lực để nhận biết con người?
hay là, làm thế nào để có mối tương quan chân thật với tha nhân?
Đối với nhiều người, câu hỏi trên thật khó trả lời. Nhưng với
chúng ta là Kitô hữu, chúng ta được Thánh Kinh trả lời cho câu hỏi
này. Thánh Kinh cho biết ban đầu Đức Chúa trời dựng nên vạn vật
và con người trong một liên hệ hết sức tốt đẹp và hài hòa. Nhưng sự
sa ngã của nguyên tổ đã cắt đứt mối tương quan với Thiên Chúa là
Đấng dựng nên mình và do đó đã làm tổn thương mối tương quan
với thiên nhiên và với nhau. Kể từ đó, sự giả dối, thù hằn, ganh ghét
đã trở nên phổ biến trong tương quan giữa người với người và được
che đậy bởi những hình thức đạo đức bề ngoài, vì vậy mà:
“Nào ai lấy thước mà đo lòng người.”
Sự đổ vỡ tương quan người với người đã gây ra không biết bao
nhiêu đau khổ, thất vọng và cả cái chết cho loài người. Nhân loại
không còn hiểu nhau nữa, bởi vì: “Mọi người thảy như chiên lạc, ai
nấy đi theo đường lối mình.” (I-sai-a 53,6). Nhờ triết lý và tôn giáo
con người đã nỗ lực hàn gắn và kiến tạo những điều kiện để con
người có mối tương quan tốt đẹp, nhưng dường như mọi nỗ lực đều

39
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
thất bại, không thỏa mãn khát vọng thâm sâu của con người, nên về
sau này, có người vẫn cất lên lời than thở”
“Dò sông dò bể dễ dò
Nào ai lấy thước mà đo lòng người.”
Kinh Thánh cho biết tương quan giữa người với người chỉ có thể
trở nên tốt đẹp khi sự thương giao giữa con người với Thiên Chúa
được phục hồi. Nhưng cố gắng của con người để tái lập mối liên hệ
với Đấng Sáng Tạo đều gặp thất bại. Nhà tiên tri I-sai-a xác nhận:
“Chúng ta mong ánh sánh, thì này đây bóng tối, mong sáng lạn huy
hoàng, lại bước đi trong mù mịt tối tăm. Tựa như người mù men theo
tường, chúng ta mò mẫm, mò mẫm như người không có mắt. Chúng
ta lảo đảo cả trưa lẫn chiều, đang sung sức mà như người đã chết.”
(Is 59,9-10)
Đang khi chúng ta bó tay tuyệt vọng thì Thiên Chúa ra tay: “Khi
chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì
theo đúng kỳ hạn, Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta(…), Đấng nay đã
hòa giải chúng ta với Thiên Chúa.” (Rm 5,6-11). Chúa Giê-su đến
trần gian để ban cho con người đời sống mới, đời sống thiên thượng,
đó là được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa. Đó là Tin
Mừng cho nhân loại, hàng triệu con người sau khi tiếp nhận Tin
Mừng cứu rỗi của Chúa Giê-su đều được biến đổi, cuộc đời ô nhơ
bới đầy sự giả dối, tính toán, tham lam nay trở thành cuộc đời mới
sản sinh ra nhiều hoa trái Thánh Linh: công bằng, bác ái, hoan lạc, từ
tâm, trung tín,… Kết quả là mối tương quan giữa họ với tha nhân trở
nên tốt đẹp hơn bao giờ hết. Đây là nguyên lý cho mối liên hệ hoàn
hảo giữa người với người.
Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy những bất an, chiến
tranh, khủng bố, gian tham, lọc lừa khiến chúng ta đã từng ít nhất
một lần trong đời than thở như tác giả của câu ca dao mà chúng ta

40
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
phân tích ở trên. Nó bắt nguồn từ sự đổ vỡ trong quan hệ giữa người
với người. Thật ra, nguyên nhân sâu xa hệ tại việc đổ vỡ mối tương
giao giữa nhân loại với Thượng Đế là Đấng Sáng Tạo nên mình.
Dưới ánh sáng của Thánh Kinh là Lời Đức Chúa Trời, khi phân tích
và giải thích câu ca dao trên, chúng ta rút ra được những bài học quý
giá trong mối tương quan với tha nhân. Thứ nhất, chúng ta không
thất vọng, than trách khi gặp phải những người đổi dạ thay lòng,
nhưng biết cảm thông và thứ tha. Thứ hai, đừng đặt niềm trông cậy
vào loài người. Có những tâm hồn tan nát, khổ đau, tuyệt vọng là do
đặt niềm tin vào người khác. Kinh Thánh cho biết chính Thiên Chúa
mới là Đấng mà ta tuyệt đối trông cậy: “Bởi vì Chúa nhân hậu, muôn
ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương qua bao thế hệ, vẫn một niềm
thành tính.” (Tv 100,5). Cuối cùng, bản thân chúng ta phải sống với
một con tim chân thật, không sống hai lòng. Để có thể sống được
như vậy, chúng ta phải đến với Chúa Cứu Thế Giê-su để Ngài ban
cho đời sống mới, vì: “Ai ở trong Đức Ki-tô đều trở nên tạo vật mới.
Cái cũ đã qua, mọi sự đều trở nên mới.” (2Cr 5,17).
Người viết: Đô-mi-ni-cô Lưu Thuận Hiển.
Góp ý: Sau từng luận điểm, luận cứ, khẳng định lại luận đề là
tốt, nhưng nên thay đổi cách khẳng định cho linh hoạt hơn (nên
tránh lặp lại một phương thức: nhắc lại luận đề).
Nhận xét: Kỹ năng viết khá tốt: theo đúng trình tự của kiểu bài
giải thích; các luận điểm đưa ra giải thích chưa nhiều, nhưng cách
lập luận chặt chẽ, sau những lý do-lý lẽ “đời” đã nên một lí do cơ
bản theo Thánh Kinh; kĩ năng dẫn chứng vững vàng không mắc lỗi
diễn đạt; chữ viết rõ ràng.

41
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài:Bình luận ý kiến sau của Baba Ram Dass:“Càng thinh
lặng, chúng ta càng nghe được nhiều hơn.”
Bài làm
Trong xã hội ngày hôm nay, con người đang quay cuồng chạy
theo cuộc sống vội vã. Họ làm việc không có thời gian nghỉ ngơi.
Giá trị cuộc sống của họ được đo lường bằng những thang số có thể
cầm nắm được. Cuộc sống chung quanh họ tràn ngập những tiếng ồn
và cơn sóng thần của thanh này đi đến tận hang cùng, ngõ hẹp. Bị
chìm sâu trong làn sóng từ ngữ, chao đảo theo các ngọn gió truyền
thông, họ không còn nhận ra giá trị thiết thực của sự thinh lặng. Do
đó, để khẳng định lại giá trị vốn có của sự thinh lặng, Baba Ram
Doss đưa ra lời nhận định sau: “Càng thinh lặng, chúng ta càng nghe
được nhiều hơn”. Vậy thinh lặng mang ý nghĩa gì trong đời sống của
mỗi người chúng ta không và tại sao càng thinh lặng thì chúng ta
càng nghe được nhiều hơn.
“Thinh lặng” nghĩa là ở trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, không một
tiếng động. Sự thinh lặng giúp bản thân mỗi người chúng ta biết đối
diện con người bên trong của chính mình trong tương quan với tha
nhân và với Đấng Siêu Việt. Cho nên, khi thinh lặng con người càng
lắng đọng được tâm hồn của mình, khi đó xảy ra cuộc đối thoại nội
tâm của chính mình mà con người cố gắng đọc và hiểu lịch sử quá
khứ, hiện tại và tương lai của mình, cố gắng phân tích những thất bại
và thành công, những ước mơ và thất vọng, những niềm vui nỗi
buồn. Chính vì thế mà khi càng thinh lặng thì con người càng có thể
đọc, nghe về cuộc đời nhiều hơn trên bình diện giá trị, ý nghĩa của
cuộc sống mà mỗi người thu lượm được.
Con người trong xã hội này có khuynh hướng yêu cuồng, sống
vội đặc biệt là ở các bạn trẻ. Mỗi người dễ dàng quên con đường về
căn nhà lương tâm và về mảnh vườn nội tâm của “lòng mình” nếu cứ

42
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
xem thường giá trị của sự thinh lặng. Sự thinh lặng liên hệ không
những đến căn tính của chúng ta, mà còn đến phẩm chất của tương
quan của chúng ta, và đến tương lai của toàn bộ đời sống xã hội.
Không có sự thinh lặng, con người khó lòng trở về với chính bản
thân mình. Họ chạy theo những giá trị bên ngoài, những giá trị không
thêu dệt nên phẩm chất và nhân cách cao thượng bên trong con người
họ. Chúng ta khẳng định rằng,bao lâu con người không có sự thinh
lặng nội tâm thì con người chưa tìm được ý nghĩa của đời mình, con
người đó khó mà sống một cuộc sống tròn đầy. Sự thinh lặng như
những dấu lặng trong một bài trường ca. Nếu không có những dấu
lặng thì bài trường ca nghe rất chói tai, không có trầm không có
bổng. Chính những dấu lặng giúp cho người ta nghỉ lấy hơi để cất lên
những âm thanh trong trẻo mà không có sự dồn dập. Sự thinh lặng
trong mỗi người của chúng ta cũng như vậy, nó cũng giúp chúng ta
lấy lại sức sau khoảng thời gian mệt mỏi, ồn ảo của công việc, của
cuộc sống. Khoảng thời gian thinh lặng này giúp chúng ta lắng nghe
nhịp điệu của cuộc sống, giúp chúng ta lắng nghe tiếng nói của lòng
mình, giúp chúng ta xác định lại mục tiêu đời mình. Sau một tiến
trình của cuộc sống, chúng ta phải biết tìm về với căn nhà nội tâm để
lắng nghe những suy xét đúng, sai; những ý nghĩa của công việc dù
là thành công hay thất bại. Những tiếng nói này chúng ta không thể
nghe được trong cuộc sống vội vàng, ồn ào, tấp nập mà chỉ nghe
được trong thinh lặng của cõi lòng. Ngoài việc lắng nghe tiếng nói
bên trong thì sự thinh lặng còn giúp chúng ta trưởng thành hơn trong
tư tưởng, trong cách nhìn nhận cuộc sống. Đây là yếu tố giúp chúng
ta trưởng thành hơn trong nhân cách, trong cách đối nhân xử thế và
góp phần thành công trong cuộc sống. Sự thinh lặng càng nhiều thì
sự lắng nghe những suy tư về cuộc sống của chúng ta càng tăng lên.
Đứng trước mỗi công việc trong đời thường thì sự thinh lặng giúp

43
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
con người lượng giá đúng hay sai sau khi lắng nghe tiếng nói lý trí.
Vì vậy, chính sự thinh lặng làm cho chúng ta ý thức hơn về giới hạn
của bản thân mà sống kiên nhẫn hơn, điềmđạm hơn, đừng hân hoan
tự đắc mà luôn biết tìm đến sự thinh lặng của ý thức, sự thinh lặng
này vang lên một cuộc tranh chấp giữa nhiều tiếng nói, qua đó sẽ
xuất phát sự lựa chọn, các quyết định của mình, nơi ưu tuyển để thực
thi sự tự do. Sự tranh chấp giữa cái tốt nhiều và cái tốt ít trong chính
mình, giữa các giá trị mà mình chọn lựa hay từ chối. Đây là lúc mà
mình tìm hiểu bí mật về mình, về căn tính đích thực và về vận mệnh
của mình. Ai lẩn tránh vùng này, người ấy đánh mất toàn bộ cuộc
sống ý thức và chỉ phản ứng một cách hời hợt bằng cảm tính, bằng
những cảm xúc ngoài da. Người ấy chiều theo khẩu hiệu, thời trang
và dư luận. Không có nhân vị thực sự nếu không có sự tranh luận nội
tâm trong thinh lặng của ý thức và con người lúc đó không còn là
chính mình nữa.
Khi càng thinh lặng thì con người mới có thể dễ dàng nhận ra và
lắng nghe nỗi lòng xót xa của tha nhân. Lúc đó con người dễ dàng
đồng cảm với những người xung quanh. Con người càng biết thinh
lặng thì sẽ không thờ ơ, vô cảm trước những nỗi đau của người khác.
Bởi vì bản thân người đó đã cảm mến sâu xa nơi chính bản thân họ.
Ý nghĩa cơ bản của sự thinh lặng thể hiện ở thái độ biết thông cảm,
biết lắng nghe nỗi lòng tâm sự của tha nhân. Đồng thời, qua việc lắng
nghe đó sẽ làm thức tỉnh tiếng nói nội tâm và làm cho chúng ta nhận
ra và lắng nghe tiếng gọi sống cho một cuộc đời trọn vẹn. Sự thinh
lặng trong ý nghĩa qui hướng về con người là như vậy, còn khi quy
hướng về Đấng Tối Cao thì nó mang một giá trị vượt bậc, không gì
sánh được. Đó là ân huệ cao quý Thiên Chúa ban cho con người.
Sự thinh lặng giúp chúng ta chuẩn bị cõi lòng để đón nhận điều
Thần khí muốn nói trong chúng ta. Kinh nguyện của Kitô hữu trong

44
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
thinh lặng xuất phát trước hết. Không phải từ một nhu cầu hay một
nỗi sợ của con người mà là từ một tiếng gọi bên trong của Thần Khí.
Kinh nguyện khởi nguồn từ bước trước của Thiên Chúa Tình yêu.
Đấng mong muốn đổ đầy tâm hồn chúng ta bằng sự hiện diện của
người. Trong sự thinh lặng này, chính bản thân chúng ta đối diện với
Thiên Chúa trong sự gắn bó mật thiết và sâu xa. Do đó, làm sao
chúng ta dám đi vào trong sự thinh lặng này, làm sao chúng ta dám
biên trò trong kinh nguyện nếu chúng ta không xác tín rằng mình
được Thần Khí cư ngụ. Ngài chính là “Ý Chúa trong chúng ta.” Khi
càng thinh lặng trước nhan Thiên Chúa thì chúng ta càng lắng nghe
Thánh Ý Chúa trong đời sống thường nhật của chúng ta.
Lời nhận định của Baba Ram Das luôn đúng cho những ai tìm
được ý nghĩa cuộc sống trong sự thinh lặng. Nhưng sự thinh lặng sẽ
đáng lên án đó là sự thinh lặng của sữ sợ hãi, lạnh lùng, ích kỉ, kiêu
căng, hèn nhát hay cam lòng. Đặc biệt, sự thinh lặng sẽ không có ý
nghĩa gì nếu đó là sự thinh lặng trống rỗng của độc thoại cô đơn. Đối
với tôi là người tu sĩ thì sự thinh lặng luôn là hành trang để tôi tìm
kiếm Thánh Ý Thiên Chúa, tìm ý nghĩa cuộc đời trong mối tương
quan với tha nhân. Đồng thời, sự thinh lặng là môi trường mà tôi có
thể lắng nghe, trò chuyện cùng Đấng Siêu Việt, là lẽ sống của đời tôi.
Người viết: Phêrô Trần Đăng Duy
Nhận xét: Lối văn có hình ảnh. Cần viết đề chính xác. Nội dung
bài viết phong phú, thể hiện suy nghĩ và cảm nhận đúng mức, chân
thành. Diễn đạt lưu loát, trôi chảy và giàu cảm xúc.

45
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Bình luận ý kiến sau của Baba Tam Dass:“Càng tĩnh
lặng, chúng ta càng nghe được nhiều hơn.”
Bài làm
Xã hội ngày nay đang trên đà phát triển nhanh chóng, đặc biệt là
sự phát triển của khoa học kỹ thuật tiên tiến, làm cho con người phải
tân dụng mọi cơ hội để theo kịp nhịp tiến ấy của xã hội. Sống trong
một môi trường như thế, con người ngày càng trở nên năng động
hơn, nhanh nhạy hơn. Tuy nhiên, “sự năng dộng đó sẽ không còn giá
trị nếu nó chỉ đơn thuần là một cuộc chạy đua và chạy theo. Cuộc
sống không chỉ là một đường thẳng hay một đường đua vạch sẵn,
nhưng có nhiều điều thú vị và bất ngờ qua những ngã quanh co. Vì
thế, nhận ra những dấu hiệu đổi thay như thế thì quan trọng hơn cứ
mãi chạy mà không biết mình chạy đi đâu”. Làm sao ta có thể nhận
ra những dấu chỉ đó nếu chúng ta không biết được giá trị của sự thinh
lặng, như câu nói của Baba Ram Das:“Càng tĩnh lặng, chúng ta càng
nghe được nhiều hơn”.
Như thế, sự thinh lặng có giá trị như thế nào và sự thinh lặng
giúp ích gì cho ta?... Câu trả lời đơn giản chỉ là sự thinh lặng giúp
chúng ta “nghe được nhiều hơn”. Vậy chúng ta nghe được điều gì khi
chúng ta biết thinh lặng?
Khi chúng ta ném một hòn đá xuống ao nước, chúng ta sẽ nhìn
thấy điều gì? Mặt nước sẽ gợn sóng theo những vòng tròn đồng tâm,
và từ đáy ao sẽ sủi lên những bong bóng. Sự gợn sóng trên mặt nước
làm chúng ta không thấy được lòng ao có những gì. Tâm trí của
chúng ta cũng như mặt ao kia và những đợt sóng là những âm thanh
xô bồ của đời sống bên ngoài tác động vào. Với tác động đó chúng ta
không đủ tỉnh táo để nhìn thấu suốt mọi vấn đề. Những lúc ấy, chỉ có
sự tĩnh lặng mới có thể có thể làm dịu lại tâm tư để chúng ta mới có
thể nhìn xuyên tới tận đáy sâu lòng mình. Nó giúp chúng ta đi sâu

46
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
vào bản chất mà không chịu sự tác động của ngoại cảnh. Hơn nữa, sự
tĩnh lặng còn có thể giúp chúng ta tái khám phá nhịp điệu muôn đời
của cuộc sống. Như vậy, sự tĩnh lặng giúp chúng ta nhìn sâu trong
đáy lòng mình và nó cũng giúp cho chúng ta khám phá ra những nhịp
điệu của cuộc sống. Sự khám phá nội tâm, chứ nó không hệ tại ở
nhịp điệu của cuộc sống bên ngoài với nhiều hoạt động sôi nổi, đầy
những cung bậc khác nhau. Chính vì thế mà có nhiều người tự hỏi tại
sao lại có nhiều người muốn đi tu Chùa, hay tu Dòng bên công giáo
là như vậy. Rồi chúng ta cũng thấy hầu hết các nhà khoa học tại sao
cần làm việc trong một không gian tĩnh lặng? Từ đó chúng ta nhận ra
rằng con người từ xa xưa và cho đến bây giờ vẫn muốn tìm đến
những khoảng không gian lặng để họ có một sự thinh lặng nội tâm.
Các nhà khoa học vì làm việc trong một môi trường thinh lặng mà đã
biết tạo nên những điều kì diệu, các thầy Chùa, thầy Dòng,… cũng từ
trong môi trường ấy mà có được một cuộc sống bình an hơn, thanh
thản hơn. Bên cạnh đó, sự tĩnh lặng giúp chúng ta nhìn nhận ra con
người thật của mình, nhìn nhận ra những yếu đuối và những bất toàn
của bản thân, sự tĩnh lặng còn giúp chúng ta nhận ra hành vi của
mình đối với người khác, giúp chúng ta hàn gắn những rạn nứt do sự
tranh chấp hay hiểu lầm nào đó. Như vậy, cuộc đời của chúng ta sẽ
không mang đậm ý nghĩa nếu chúng ta không có những phút thinh
lặng. “Trong thinh lặng chúng ta lắng nghe và hiểu rõ con người
mình hơn, trong tĩnh lặng tư tưởng được nảy sinh và có chiều sâu;
chúng ta hiểu rõ hơn điều chúng ta muốn nói và điều chúng ta mong
đợi nơi người khác, chúng ta chọn cách thức diễn đạt. Thinh lặng
khiến cho người khác được nói, được bày tỏ, và để ta đừng khư khư
quyết giữ lời nói, ý tưởng của mình mà không đối chiếu một cách
thích đáng. Như thế, sẽ mở ra một không gian để lắng nghe nhau và
một mối tương quan sâu sắc hơn giữa người với người.” (trích thông

47
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
điệp Ngày Thế giới truyền thông xã hội năm 2012). Một điều nữa mà
chúng ta thấy được nữa là hoạt động và thinh lặng trái ngược nhau
nhưng không xung khắc nhau, thực tế nó bổ sung cho nhau. Nếu
chúng ta ví chúng ta là một thùng năng lượng thì những hoạt động là
sự tiêu xài năng lượng, còn thinh lặng là nạp lại năng lượng. Môi
trường sống, hoàn cảnh sống có thể rất ồn ào và gặp nhiều khó khăn
nhưng dù sao nó vẫn có thể giúp chúng ta thinh lặng. Thinh lặng
không đơn thuần chỉ là không nói ta, nhiều lúc ta không nói gì nhưng
lại không tĩnh lặng chút nào. Dù sao chăng nữa sự thinh lặng bên
ngoài nó cũng biểu hiện phần nào đó sự tĩnh lặng bên trong. Tuy
nhiên, con người thực sự nghỉ ngơi để nạp năng lượng nếu họ biết
thinh lặng nội tâm đúng nghĩa. Chúng ta nói rằng sự thinh lặng giúp
chúng ta gặp gỡ người khác một cách tràn đầy hơn. Điều đó thật
đúng, với sự phát triển của kỹ thật tân tiến, con người ngày nay có
thể xích lại gần nhau hơn, thông qua những thiết bị tiên tiến của thời
đại. Tuy nhiên, tương quan bên ngoài cũng cần đến nội tâm hóa bên
trong, tương quan ấy mới gần gũi và bền vững. Công nghệ có thể
thay con người chuyển những sứ điệp tương quan nhưng nó không
thể thay thế con người thinh lặng để cảm nhận tương quan. Đối với
xã hội ngày nay thì sự thinh lặng càng cần thiết hơn nữa để có một
cái nhìn chân thực về con người của mỗi chúng ta và những gì đang
xảy ra trong thế giới này.
Giữa một thế giới đầy dẫy những sự ồn ào và náo động như hiện
nay thì sự thinh lặng có cần thiết không? Và thinh lặng như thế nào
mới là đúng lúc? Thinh lặng là điều dễ làm vì đâu cần phải làm gì để
thinh lặng. Tuy nhiên, thực ra không dễ dàng một chút nào cả. Trong
cuộc sống, có bao nhiêu dịp chúng ta không cho phép mình dành thời
gian cho chính mình. Cuộc sống năng động khiến chúng ta dường
như không thấy được giá trị của sự tĩnh lặng. Chúng ta dường như

48
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
đang bị cái guồng máy của xã hội này điều khiển mà chúng ta không
thoát ra được. Có lẽ bởi vì âm thanh của cuộc sống này quá ồn ào
khiến chúng ta không nghe thấy tiếng lòng mình mách bảo chúng ta
phải suy nghĩ từ cõi lòng mình khi làm việc gì sao? Quả thực sự
thinh lặng cần thiết ở mức không thể thiếu được cho mỗi người
chúng ta trong xã hội ngày nay. Nếu chúng ta không có một sự tĩnh
lặng thì con người chúng ta luôn luôn cảm thấy lo sợ, cũng chính bởi
vì chúng ta không có sự tĩnh lặng cho nên nhiều lần, nhiều lúc chúng
ta làm những hành động sai trái đối với lương tâm, cũng bởi vì không
có một sự tĩnh lặng mà xã hội ngày nay đã càng ngày càng trở nên ồn
ào hơn. Bởi con người sống trong xã hội ấy chẳng ai chịu nghe ai,
không ai chịu lắng nghe nhau, mà họ luôn muốn khẳng định tiếng nói
của mình. Điều đáng sợ hơn là họ đã mất đi sự thinh lặng ấy từ khi
nào không biết nữa, để rồi trong con người họ chỉ là những cơn sóng
dữ dội làm tiêu tan mọi thứ. Bên cạnh đó, chúng ta tĩnh lặng không
có nghĩa là chúng ta nhát sợ hoặc chúng ta không có hiểu biết gì. Tuy
nhiên, chúng ta phải có một sự tĩnh lặng xuất phát từ chính nội tâm
chúng ta chứ không phải chỉ là hình thức bên ngoài.
Nói tóm lại, sự tĩnh lặng không chỉ có nghĩa là chúng ta làm cho
một không gian không có tiếng ồn ào mà nó còn có nhiều giá trị khác
nữa. Những giá trị đó là gì nếu chúng ta chưa có được sự thinh lặng
nội tâm. Vì vậy, chúng ta cần có sự tĩnh lặng để lắng nghe tiếng lòng
mình, để hiểu mình, hiểu người khác, để họ có thể nói được và ta
cũng nghe được nhiều từ họ. Quả thực, sự tĩnh lặng có một giá trị
không thể nào hiểu được nếu ta không tĩnh lặng để cảm nghiệm.
Người viết: Bài viết vận dụng tốt yêu cầu về kiểu bài. Nội dung
bài viết đã phân tích, biện giải về luận đề một cách mạch lạc, chặt
chẽ bằng những suy tư lý thuyết và vốn sống thực tế sinh động.
Diễnđạt lưu loát.

49
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Nguyễn Bỉnh Khiêm tâm sự:“Ta dại ta tìm nơi vắng
vẻ/Người khôn người đến chốn lao xao.”Trần Tế Xương bình
luận:“Thế sự đua nhau nói dại khôn/ Biết ai là dại, biết ai
khôn.”Anh suy nghĩ gì về lẽ dại khôn ở đời?
Bài làm
I –Đặt vấn đề:
-Nghĩ về dòng đời luân chuyển, ta có cảm tưởng mọi sự thật trớ trêu.
-Nguyễn Bỉnh Khiêm …… Trần Tế Xương…….
-Chúng ta hãy suy nghĩ về lẽ dại-khôn ở đời.
II –Giải quyết vấn đề:
1.Giải thích:
1.1.Giải nghĩa từ:
-Dại: kém thông hiểu, nhận thức đúng đắn, lối sống không
lành mạnh.
-Khôn: thấu hiểu tinh tế nhận thức minh bạch, thái độ sống tích cực.
-Nói dại-khôn: nhận thức về giá trị, lối sống của con người.
1.2.Câu:
-Như một lời thức tỉnh về lẽ dại-khôn ở đời.
2.Phân tích, lý giải:
-Đâu là cái dại khôn đích thật.
2.1. Dại của Nguyễn Bỉnh Khiêm là dại của thánh nhân – dại khôn.
-Khôn mà ông bàn tới là cái khôn của lẽ đời – khôn dại.
2.2.Tế Xương:
-Khôn dại: khuyết giá trị đạo đức, nhận thức văn hóa…
-Dại khôn: biết tôn trọng cuộc sống, đề cao cái đẹp.
2.3.Các chủ thuyết: nhân bản, duy vật, hưởng lạc.
III –Bình luận:
1.Nguyễn Bỉnh Khiêm và Tú Xương đã để lại kinh nghiệm đáng
nghiền ngẫm.

50
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
2.Ý thức hệ: các chủ thuyết: nhân bản, duy vật, hưởng lạc.
3.Đâu là khôn thật? -Trên bình diện nhận thức:
-Thế giới quan toàn diện.
-Thế giới quan khách quan.
-Thẩm định đúng đắn các giá trị.
-Trên cuộc sống: -Chọn giá trị hiển sinh.
-Chọn giá trị vĩnh cửu.
-Chọn giá trị cao đẹp.
4.Đâu là dại thật? -Khiếm khuyết hay ngược lại với khôn thật.
-Đảo lộn trật tự thường hằng/ chân lí phổ quát nội tại cuộc sống.
5.Khôn thật đưa con người vượt qua chính mình: tôn giáo.
6.Nâng cao: Kitô giáo
6.1.Khôn: -Dễ hiểu: đạt tới tầm vóc viên mãn.
-bất thường: Khác với lẽ đời-khôn ngoan thập giá.
6.2.Dại: - Hình ảnh trong Tin Mừng: Người thanh niên giàu,
thợ vườn nho, 5 trinh nữ dại.
- Không đi vào trật tự bất thường của Thiên Chúa.
IV.Kết thúc vấn đề:
-Từ những gì luận bàn, ta thấy rõ dại-khôn thật thiên hình vạn trạng.
-Lẽ dại khôn, khôn dại của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Tế Xương
như lời thức tỉnh.
-Liên hệ: Kitô hữu:
-Khôn của Đấng tình yêu – tình yêu treo trên thập giá.
-Luận dại khôn: “Khôn kiểu thế gian là khôn dại
Dại lối Tin Mừng, ấy dại khôn.”

51
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Bài làm
“Người đến người đi rồi người đến
Đến đến, đi đi cứ xoay vần.
Người có người không rồi người có
Có có, không không quả vô thường.”
Ngẫm nghĩ về dòng đời luân chuyển, ta có cảm tưởng như mọi sự
thật trớ trêu: Đến-đi; có-không như những hạt bụi tung bay lơ lửng
trong không gian và thời gian. Hòa vào dòng chảy đó, cái khôn cái dại
cũng thật khôn lường mà cũng thật tương đối, đến nỗi tâm hồn các thi
sĩ phải ngậm ngùi mà thốt lên, như Nguyễn Bỉnh Khiêm tâm sự:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao.”
còn Trần Tế Xương thì bình luận:
“Thế sự đua nhau nói dại khôn
Biết ai là dại, biết ai khôn.”
Cùng những ưu tư đó, chúng ta hãy suy nghĩ về lẽ dại khôn ở đời.
Phải thành thật mà chân nhận, chúng ta hơi bế tắc khi bàn về lẽ
dại khôn. Nó không chỉ được định nghĩa trong vài từ gãy gọn mà nó
còn là một tổng hòa lẽ sống ở đời. Nhưng chúng ta cũng mạo muội
hiểu dại-khôn trong mức độ giới hạn và cho phép. Dại là kém thông
hiểu, là nhận thức thiếu đúng đắn về thế giới quan và bao hàm một
lối sống không lành mạnh, thiếu trưởng thành. Ngược lại, khôn là sự
thấu hiểu tinh tế, nhạy bén, có nhận thức minh bạch về sự vật và thế
sự, đồng thời có thái độ sống tích cực và hướng thượng… Vậy, nói
dại khôn là bàn đến nhận thức về những giá trị của cuộc đời; về quan
điểm, lối sống, chọn lựa của con người… Từ đó, ta thấy rằng hai câu
nói của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Tế Xương như một lời thức tỉnh về
lẽ “dại-khôn thật” ở đời. Vậy đâu là cái dại cái khôn đó?

52
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Hẳn nhiên, một người có tâm hồn bình thường thì sẽ không bao
giờ muốn mình là người dại mà ngược lại, họ muốn mình được thật
khôn. Điều đó có gì phi nghĩa đâu! Nhưng tại sao Nguyễn Bỉnh
Khiêm – một người có thế giá trong xã hội cũng như trong văn
chương, có thể nói là một trong những nhân vật ảnh hưởng trong lịch
sử Việt Nam thế kỉ XVI – lại tình nguyện chọn lấy cái dại, khi tìm về
ở ẩn, để cho người khôn tìm đến nơi đô thị, triều đình?... Đó mới là
vấn đề? Vậy vấn đề ở đây không còn là cái dại-khôn theo “lẽ đời” mà
đâu mới là lẽ dại-khôn “đích thực”, hay được nói một cách văn
chương hơn là cái khôn dại và dại khôn.
Khi nhìn dưới góc độ như thế, ta mới thấy được nội hàm sâu xa
và không kém phần châm biếm nơi câu nói của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Ông đón nhận cái dại ở đây khôn như theo nhận thức cá nhân và lối
sống nương ẩn, đây cũng không nằm ngoài một quyết định tự do: Cái
dại-khôn mà ông nói tới đây là cái dại-khôn của lẽ đời, của những
con người ồ ạt chạy vào guồng máy kiếp nhân sinh với những được-
thua, hơn-mất,…. Đó là một lối sống rất đỗi bình thường nếu không
muốn nói là tầm thường. Còn riêng bản thân ông thì sao?
Nguyễn Bỉnh Khiêm thật xứng với danh hiền tài. Ngoài khả năng
hiếm có – hiểu được mệnh trời; nắm được thời thế - ông còn là người
có tinh thần ôn hòa: Tuy cống hiến đời mình cho nhà Mạc nhưng vẫn
mở lòng giúp đỡ những ai tìm đến ông, như Nguyễn Hoàng – dung
thân ở Hoành Sơn; Trịnh Kiểm – phế vua Lê… Đồng thời, ông còn
là một thi sĩ có tâm hồn thanh cao. Thơ của ông đề cao sự trong sạch
của tâm hồn, lên án thói đời tráo trở và thấm đẫm những bài học triết
lí nhân văn:
“Hoa càng khoe nở hoa thêm rưa
Nước chứa cho đầy nước ắt rơi
Mới biết danh hư đã có số
Ai từng dời được đạo trời ?”

53
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đó là cái nhìn của thời thế khi ông hiểu rằng: mọi việc đều có
lúc, mọi sự đều có thời….
Khi đứng trong bối cảnh như vậy, ta mới thấu hiểu cái dại mà
Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận lấy không phải là cái dại của kẻ thường mà là
cái dại của thánh nhân – dại khôn; còn cái khôn ở đây không phải là cái
khôn của kẻ đã ngộ mà có khi chỉ là cái khôn của kẻ “vô minh”. Chính
vì hiểu sâu sắc điều đó, có lần trong thơ ông đã bộc bạch:
“Khôn mà hiểm độc là khôn dại
Dại mà hiền lành, ấy dại khôn.”
Mỗi người có nhận thức, quan điểm và mục đích khác nhau nên
cái dại-khôn cũng từ đó mà phát sinh, biến-thái. Có lẽ thấu cảm được
phần nào tâm tư của Nguyễn Bỉnh Khiêm, cũng như chứng thực cảnh
suy đồi của xã hội đương thời, khi người ta bán rẻ văn hóa, đạo đức
cũng như lòng tự trọng dân tộc để đổi lấy chút vị thế xã hội, Tế
Xương đã chua chát mà châm biếm về lẽ dại-khôn ở đời:
“Thế sự đua nhau nói dại, khôn
Biết ai là dại, biết ai khôn.”
Ông cũng có cái nhìn không mấy đời thường với lẽ dại-khôn nên
đã bày tỏ quan điểm:
“Khôn nghề cờ bạc là khôn dại
Dại chốn văn chương ấy dại khôn.”
Khôn dại ở đây là cái khôn khuyết đi những giá trị đạo đức, nhận
thức văn hóa hay lối sống lành mạnh; còn cái dại khôn ở đây là cái
dại của người biết trân trọng cuộc sống, biết đề cao cái đẹp và biết
hiện thực lí tưởng đó.
Có thể lắm, dại-khôn được mỗi người cảm nhận rất riêng tư. Vì lẽ
đó, Tế Xương cũng chỉ bàn tới cái khôn dại và dại khôn chứ cái dại
thật thì ông bỏ lửng:
“Biết ai dại, biết ai khôn.”

54
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Vậy, dẫu không có câu trả lời rốt ráo cho dại-khôn, như Nguyễn
Bỉnh Khiêm và Tế Xương đã đưa ra quan điểm cho mình về khôn dại
và dại khôn, đúng hơn là những trải nghiệm mà hai ông đã chọn lựa.
Những kinh nghiệm đó có thể không đúng với hết mọi người, trong
mọi hoàn cảnh, nhưng ít ra cũng là những kinh nghiệm quý báu đáng
để chúng ta học hỏi, nghiền ngẫm…. Bởi đó là những kinh nghiệm
quý báu đáng để chúng ta học hỏi, nghiền ngẫm… Bởi đó là những
kinh nghiệm đã từng nuôi dưỡng những con người xuất chúng, đặc
biệt là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Lẽ nào cái dại khôn (hiền lành) khôn dại
(hiểm độc) của Nguyễn Bỉnh Khiêm lại mất đi ý nghĩa nhân văn của
nó! Hay cái dại khôn (văn chương), khôn dại (cờ bạc) nơi Tú Xương
đã không còn phẩm lượng với tinh thần duy vật hôm nay!... Chúng ta
không ngạc nhiên khi có những câu trả lời trái ngược, nhưng đừng
quên trên bình diện luân lí, đạo đức hay giáo dục thì những kinh
nghiệm đó vẫn là những chuẩn mực thức thời. Dẫu vậy, sự tự do và khác
biệt của mỗi nhân vị hay ý thức hệ không cho phép chúng ta giới hạn mọi
chuẩn mực vào một khuôn khổ duy nhất. Đó là lí do để cho những tiếng
nói dại-khôn khác được bày tỏ nét cá vị riêng biệt của mình.
Ngoài những chọn lựa đơn thuần hơn-thua, được-mất nơi
cuộc sống thường nhật, lữ dại-khôn trong nhưng hệ tư tưởng cũng tác
động không nhỏ vào thế giới quan của con người. Tuy không trực
tiếp nhưng gián tiếp hay vô tình những hệ tư tưởng của các chú
thuyết cũng bày tỏ quan điểm của mình về lẽ dại khôn.
Ý thức hệ “chú thuyết nhân bản” luôn đề cao con người đến
mức thái quá. Với họ, lẽ khôn không gì khác hơn là tìm mọi cách để
nâng cao con người lên, tôn vinh con người những vị thần và bất cứ
điều gì làm cản trở - dẫu tôn giáo hay những giá trị tinh thần – đều
được xem như một sự khờ dại, tha hóa. Còn “chủ thuyết duy vật” thì
khác, vấn đề của ý thức hệ này là kinh tế, xã hội, lịch sử; và cái khôn
ngoan mà họ tìm cách để hóa giải những bi kịch của cuộc sống, con

55
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
người không gì khác hơn là vận dụng sức lao động và thay đổi mối
tương quan xã hội. Trong khi đó, chủ thuyết “hưởng lạc” lại bàn về
một lập trường thật khác biệt. Lẽ khôn ngoan của ý thức hệ này là tận
hưởng bao nhiêu có thể những thú vui mà cuộc sống mang lại, cả tích
cực lẫn tiêu cực như tính dục ngoài hôn nhân, thỏa mãn cảm giác
mạnh…. Với họ, cái dại là đặt ra những rào cản như chuẩn mực luân
lý, đạo đức, tôn giáo để cấm kị con người vui hưởng khoái lạc… Đây
chỉ là ba trong số thật nhiều chủ thuyết đương thời, vậy ta mới thực
cảm được sự phong phú của lẽ dại - khôn mà đôi khi cũng không
kém phần ngây ngô - trong góc độ nhân văn khách quan.
Từ góc nhìn toàn cảnh – quan điểm cá nhân cũng như ý thức hệ -
như thế, ta mới thấy cái dại cái khôn thật khôn tả, khôn lường.
Nhưng giữa biển khơi nhận thức đó, chúng ta cũng phải tìm ra bến
đỗ cho thuyền đời của mình chứ! Vậy đâu mới là khôn thật, dại thật?
Dĩ nhiên, chúng ta đã có nhiều câu trả lời khác nhau đứng trên
góc độ chủ quan; vậy, bổn phận còn lại là ta đưa ra một vài tiêu chí
khách quan có tính phổ quát. Trên bình diện nhận thức, khôn thật là
người có “thế giới quan toàn diện”. nghĩa là có một tầm nhìn vượt ra
ngoài cái tôi chủ thể - những kinh nghiệm, cảm thức riêng tư – để có
thể hòa vào thế giới vĩ mô là tiếng nói có tính trung thực và phổ quát
và thường được thông đạt qua tập thể, cộng đồng, như Hội đồng bảo
an Liên Hợp Quốc, tổ chức phi chính phủ… Chúng ta đừng hiểu thế
giới quan toàn diện đây như một người không có khả năng lấy quyết
định, bị tiếng nói của đám đông đè bẹp; nhưng như một người biết
đón nhận những “khác biệt” và “mở ra” với chân lý khách quan.
Đồng thời, đó là người có “thế giới quan khách quan”, nghĩa là người
có cái nhìn tích cực về biến cố, sự vật, sự việc. Thông thường, chúng
ta mang theo những “kinh nghiệm nghèo nàn” của mình để phóng
chiếu vào thực tại, như âm hưởng trong câu thơ của Truyện Kiều:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.”

56
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Điều này mời gọi chúng ta hãy trả lại cho thực tại “như nó là”
bằng lăng kính khách quan, tích cực. Bên cạnh đó, khôn thật là có
khả năng thẩm định đúng đắn về các giá trị và đặt chúng vào đúng vị
trí của nó. Nơi đó, cuộc sống có những giá trị xấu, tốt, tốt hơn; có
những giá trị tạm thời cũng như bất biến; có những giá trị tương đối
và đồng thời có những giá trị tuyệt đối… Cái khôn ở đây là không
làm méo mó, lệch lạc bản chất nội tại của các giá trị. Vậy, khôn thật
trên bình diện nhận thức không gì khác hơn là thấu hiểu đúng đắn về
thực tại.
Thật là khiếm khuyết nếu chỉ dừng lại trên bình diện nhận thức,
khôn thật cũng cần được tỏ lộ trong cuộc sống đời thường. Trên bình
diện đời sống, khôn thật là người biết chọn những “giá trị hiện sinh”.
Điều này cho phép họ sống và trải nghiệm những “giá trị thực” của
thực tại, chứ không phải là dư âm của trí nhớ về một hồi ức nào đó
hay là sản phẩm của trí tưởng tượng về một giấc mơ trong tương lai.
Chính trong giây phút hiện tại, họ đang sống và đang hiện hữu, một
sự hiện hữu đòi hỏi phải có khả năng “thân-tâm hợp nhất”, nghĩa là
xác ở đâu thì tinh thần phải ở đó. Như vậy, chúng ta có thể cảm nhận
được vị ngọt của thực tại; nếu không được như thế, có khi chúng ta
“đã chết” thật lâu trước khi qua đời. Hơn nữa, khôn thật là người biết
chọn những “giá trị vĩnh cửu”. Nếu những giá trị hiện sinh là đi trong
lịch sử thì những giá trị vĩnh cửu là “vượt qua” lịch sử. Ở đây, nó
giải phóng con người khỏi những thực tại hữu hình để dành chỗ cho
những thực tại vô hình, và đồng thời có thể mở ra cho con người cảm
thức về tôn giáo, là thực tại cứu cánh của con người. Đồng thời, đó
còn là người biết chọn những “giá trị cao đẹp”, nghĩa là người biết
xây dựng đời mình trên những giá trị nhân văn, luân lí, đạo đức,…
Chính nó sẽ dưỡng nuôi con người đúng với phẩm hạnh được phú
bẩm. Tình yêu, sự thật, lòng vị tha, sự trao ban,… sẽ lớn lên cùng với

57
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
con người được gọi là khôn ngoan. Vậy trên bình diện đời sống,
khôn thật là người biết chọn những giá trị hiện sinh và không ngừng
vươn tới những giá trị vĩnh cửu ngang qua những giá trị cao đẹp. Họ
sống trong lịch sử nhưng không ngừng vượt qua lịch sử bằng những
giá trị cao đẹp nhất của lịch sử.
Tưởng như chúng ta đã giải quyết xong khôn thật , còn dại thật là
sao? Trước hết, chúng ta cần tái nhận lại có cái dại thật và cái dại khác
thường. Ranh giới của chúng trong đời sống thực tế có khi thật mong
manh mà tự bản chất thì thật khác biệt: Một bên là cái dại của kẻ “tầm
thường” còn bên kia là cái dại của “thánh nhân”.
Dại thật là sự khiếm khuyết của khôn thật, và đồng thời có thể
ngược lại với khôn thật – những gì ta đã bàn ở trên. Vậy nên, dại thật
là người trong nhận thức cũng như đời sống không có được cái
“logic” của chân lí khách quan, bao hàm những giá trị: sự thật, sự
thiện, tình yêu,… Nó là sự đảo lộn những “trật tự thường hằng” cũng
như những chân lý phổ quát nội tại của cuộc sống. Hơn nữa, dại thật
còn đi “ngược lại” những giá trị bất biến đó. Ta có thể tìm thấy vô
vàn cái dại thật trong cuộc sống hiện sinh. Nơi trật tự thường hằng,
sự sống con người là tuyệt đối, không một ai có quyền tước đoạt
(ngoại trừ tự vệ chính đáng), nếu đi ngược lại định luật đó thì chẳng
phải là cái dại hay sao? Hay nơi những chân lí nội tại của cuộc sống,
con người với tư cách là lột ngôi vị có quyền yêu và được yêu, quyền
tự do tôn giáo,… nếu những quyền lợi đó bị áp đặt, cưỡng chế hay
bác bỏ thì chẳng phải cái dại đang lộng hành lắm sao! Dẫu rằng, cá
nhân hay cộng đồng, lý tưởng hay văn hóa, danh dự hay vật chất,…
có biện luận cho những hành vi đó là khôn ngoan, nhưng thực chất
khi tự đảo ngược trật tự đó, nó (hành vi) vẫn là sự dại thật.
Đến đây, ta mới thấy cái dại – khôn trong cuộc sống hòa quyện
vào nhau. Nó là hai phạm trù hoàn toàn khác biệt nhưng đâu dễ phân

58
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
biệt. Đồng thời, dại-khôn cũng ở trong chính mỗi người. Đó là một
sự có khi hơi bẽ bàng nhưng cũng đừng ảo tưởng mà phủ nhận. Hỏi
có ai mà không một lần cảm thấy cái dại, cái khuyết của mình!... Và
cuộc sống có cái nghịch lí mà chúng ta đáng trân trọng: Ai càng tự
dương mình khôn thật thì hãy còn dại lắm và ai biết cúi đầu nhận
mình dại thì cũng đã nên khôn. Thế nhưng, với tư cách là một con
người, chúng ta không thể để mình bị “ru ngủ” bởi những vẻ hào
nhoáng tầm thường hay “thỏa hiệp” với chủ trương duy tương đối.
Đó là khát vọng nuôi dưỡng chúng ta đi tìm ranh giới giữa dại-khôn
hoặc khôn thật và khôn thường.
Khôn ngoan thật thì không những giúp “tăng tiến” con người mà
còn giúp con người “vượt qua” chính bản thân mình, nghĩa là có khả
năng trả lời ý nghĩa về sự hiện hữu của mình: Nhân sinh hạ tại? Tại
thế hạ như? Hậu thế như hà?... lịch sử đã chứng minh, khôn ngoan
nhân loại – triết thuyết tư tưởng, khoa học-kỹ thuật – chưa tìm được
câu trả lời thỏa đáng cho vấn nạn trên; chỉ trong chiều kích tôn giáo,
người ta mới tìm được câu trả lời rốt ráo. Vậy khôn ngoan đích thực
phải bao hàm cả chiều kích tôn giáo hay nói cách khác hơn, tôn giáo là
sự minh triết của khôn ngoan. Lịch sử nền văn minh nhân loại đã
chứng minh được điều này – tôn giáo luôn đồng hành cùng con người,
và thịnh-suy của tôn giáo cũng tác động đến thịnh suy của con người.
Trong lẽ khôn ngoan đó, Đức Phật (Phật giáo) đã tìm ra con
đường giải thoát con người khỏi bể khổ- Tứ diệu đế; Khổng
Tử(Khổng giáo) đã để lại cho đời một lẽ khôn-nhân trị sau được thay
bằng pháp trị; còn Kitô giáo thì sao?
Lẽ khôn của người Kitô giáo vừa dễ hiểu vừa bất thường. Dễ
hiểu vì những giá trị đó không làm gì khác hơn là giúp con người đạt
tới “ tầm vóc viên mãn” của mình. Bất thường vì con đường đó thật
khác với lẽ khôn ở đời; bài ca trên núi đã phần nào bày tỏ mâu thuẫn

59
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
đó. Lẽ khôn ngoan Kitô giáo khác hẳn với trật tự khôn ngoan của thế
gian, và đó là cái khôn của “thập giá”, ngay khi người Do Thái coi là
ô nhục, người ngoài coi là điên rồ (x. 1Cr 1,23); và chính cái thế gian
cho là điên rồ lại là sự khôn ngoan của người “cúi xuống” phục vụ
(x. Ga 13,14), yêu kẻ ghét mình (x. Mt 5, 44) chấp nhận “chết đi” (x.
Ga 12, 25), … Lẽ khôn ngoan này luôn đòi con người nỗ lực vượt
qua không phải là thực tại nhưng chính là bản thân mình để được giải
phóng bởi “sự sống mới”. Một sự sống đã và đang tiềm tàng ngay
trong cuộc sống đời này. Vì thế, người Kitô hữu không chạy trốn
thực tại nhưng dùng nó như phương tiện để đạt tới cứu cánh.
Trong khi đó, chúng ta có thể tìm thấy cái dại dưới góc nhìn
người Kitô hữu như những hình ảnh: Người thanh niên có nhiều của
cải (x. Mt 19, 16-22), thợ làm vườn nho (x. Mt 20, 1-16) hay năm
trinh nữ khờ dại (x. Mt 25, 1-13),… Đó là những người bị thực tại
cuốn trôi theo những bọt bèo của nó. Hay cụ thể, họ là những người
thay vì lấy mục đích thì lấy phương tiện làm cứu cánh. Đó là những
người không chấp nhận đi vào “trật tự bất thường” của Thiên Chúa.
Từ những gì luận bàn ở trên, ta hiểu được lẽ dại-khôn thật thiên
hình vạn trạng: vừa phong phú nhưng cần chọn lựa, vừa khác biệt
nhưng cần phân biệt, vừa cao sâu nhưng lại thực tế, vừa hiển hiện
nhưng rất đỗi mong manh,… Cái khôn thì nhiều mà cái dại thì không
thiếu. Dẫu vậy, lẽ khôn dại và dại khôn của Nguyễn Bỉnh Khiêm và
Tú Xương vẫn là một chọn lựa có giá trị và cũng là tiếng vang thức
tỉnh để con người không ngủ quên trong cái dại vô lối của mình,…
Ta mới hay, khôn ngoan của con người luôn có giới hạn; trong cái
giới hạn đó cũng có khôn ngoan; và khôn ngoan nhất trong cái giới
hạn đó là con người biết đi tìm cứu cánh của mình. Riêng với người
Kitô hữu, cái khôn ngoan thật là cái khôn của Đấng là tình yêu, đi
trên con đường tình yêu và truyền dạy tình yêu. Đó là một “tình yêu

60
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
treo trên thập giá”, là sự vấp ngã đối với người Do Thái, là điên rồ
đối với người dân ngoại, nhưng là sự khôn ngoan mà các Kitô hữu có
thể tuyên xưng như Thánh Danh: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về
điều gì ngoài thập giá Đức Kitô, Chúa chúng ta”(G1 6, 14). Nếu theo
văn phong của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Tú Xương, người Kitô hữu
có thể luận về dại khôn như sau:
“Khôn đường thế thái là khôn dại
Dại lối Tin Mừng, ấy dại khôn.”
Người viết: Giuse.M Phạm Văn Bình
Nhận xét: Đã giảng nội dung các câu thơ của Nguyễn Bỉnh
Khiêm và Trần Tế Xương khá rõ ràng và vận dụng ở mức độ vừa
phải. Đã suy nghĩ – bàn luận – về lẽ dại khôn rất sâu sắc, và khai
thác đúng trọng tâm: tìm hiểu tiêu chí để phẩm định lẽ dại khôn. Đã
đưa ra nhiều luận điểm, luận cứ đậm chất triết để giải quyết tốt yêu
cầu của luận đề. Dù còn đôi chỗ cần hoàn chỉnh, cách hành văn khá
lưu loát. Nên mạnh dạn dành những khoảng cách giữa các phần
chính của bài và giữa các luận điểm.

61
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Bình giảng câu thơ sau đay trích trong tác phẩm
ĐoạnTrường Tân Thanh của Nguyễn Du:“Tu là cội phúc, tình là
dây oan”.

Dàn ý
I.Đặt vấn đề:
-Tiếng vọng lại (đau khổ) từ kiếp nhân sinh đã chạm đến cõi lòng
Nguyễn Du.
-Tu là cội phúc, tình là dây oan.
-Chúng ta cùng thẩm định lại câu nói trên để làm phong phú hơn.
II.Giải quyết vấn đề:
1.Giải thích:
1.1.-Tu là sửa mình đi để được nên tốt hơn.
-Tình là tình yêu đôi lứa, những tâm tư tình cảm của nhân
tính muốn trao ban.
1.2. Câu: ca ngợi đời tu và như một lời ca thán về đường tình.
2.Phân tích, lí giải:
2.1.Tu là cội phúc:
-Qua kinh nghiệm tu thân của Kiều.
-Qua góc nhìn giáo lý Phật.
2.2.Tình là dây oan:
-Qua kinh nghiệm đường tình của Kiều: Kim Trọng, Thúc Sinh,
Từ Hải
-Qua giáo lý Phật: tứ diệu đế - giải thoát.
III.Bình luận:
-Khẳng định trên – tu là cội phúc, tình là dây oan thật không công
bằng và hụt hẫng.
1.1.Tu là cội phúc:
-Không phải một chọn lựa tiến thân, chạy trốn đau khổ.

62
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
-Đáp trả tình nguyện va tự do trước tiếng gọi khác.
-Hệ quả của một lí tưởng trong sáng cao đẹp.
1.2.Tình là dây oan:
-Duyên ràng buộc bởi sính lễ vật chất, vụ lợi.
-Không đáp ứng sự tự do trao hiến.
-Tổng hòa những yếu tố khác: Duyên, đối tượng,…
2.1.Tu là dây oan:
-Không phải là một dấn thân tự nguyện.
-Nhận biết qua những lệch lạc thái quá,…
2.2. Tình là cội phúc:
-Kinh nghiệm đời thường.
-Chứng từ: Jack-Rose, Romeo-Juliet,…
3.Tu và tình được lồng vào nhau dưới nghĩa rộng:
3.1.Tu có tình:
-Thăng hoa.
-Đối tượng là mọi người.
3.2.Tình có tu:
-Không giảm thiểu mối tương quan để đạt tới tình yêu viên mãn.
4.Nâng cao: Kitô giáo:
-Tu và tình đều là ơn gọi từ Thiên Chúa.
-Giá trị của ơn gọi là sự sống mới trong Thiên Chúa
-Tu và tình vừa được chúc phúc vừa đi qua thập giá.
IV.Kết thúc vấn đề:
1.Tóm lược:
-Câu nói là một kinh nghiệm mà ta có thể cảm nhận được trong
câu nói như một lời than thở từ kiếp trước, khao khát thực tại khác.
2.Liên hệ:
-Người Kitô hữu cung ứng một nhận thức hài hòa, một linh đạo
nhập thế chứ không phải xuất thế.

63
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Bài làm
“Trải qua trăm cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.”
Ngay từ những câu thơ đầu của Truyện Kiều, Nguyễn Du như đã
muốn bộc lộ tâm tư, tình cảm của mình trước những oan khiên của
cuộc sống. Tiếng vọng lại từ những biến cố, những con người nơi
bản hòa tấu của cuộc đời như những giai điệu sâu thẳm làm se thắt
lòng người. Hiện thực đó đã làm bật lên nơi Nguyễn Du một tiếng
kêu não ruột vọng lên trong tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh. Nơi
đó, Nguyễn Du đã mượn lời Tam Hợp đạo cô để thốt lên: “Tu là cội
phúc, tình là dây oan.” Vậy chúng ta cùng thẩm định lại câu cói trên
để hiểu rõ và làm phong phú hơn.
Để bàn về chữ tu và chữ tình, chúng ta có cảm tưởng như đang
bước vào hai chân trời thật rộng lớn. Trước hết, tu cũng như tình bao
hàm những khái niệm rất rộng. Hơn nữa, nó còn lệ thuộc vào thế giới
quan của mỗi người. Hẳn nhiên, tu thì thật rộng nghĩa tùy theo từng
tôn giáo, giáo lý, pháp chế,… mà ấn định nội hàm của chữ “tu”.
Nhưng ở đây, chúng ta hiểu theo tâm thức chung của con người: Tu
là sửa mình, là tôi luyện bản thân để được nên tốt hơn. Cũng vậy,
chữ tình còn nhiêu khê hơn nữa. Theo tâm lí gia C.S Lewis, ông
mượn chữ Hi Lạp để phân ra bốn loại tình: Eros (tình ái), Stage (tình
một nhà), Philia (bằng hữu) và Agape (trao hiến). Vậy ở đây, chúng
ta giới hạn chữ tình trong bối cảnh “Đoạn Trường Tân Thanh”. Nó
(tình) là tình yêu đôi lứa, là những tâm tư, tình cảm của đôi uyên
ương muốn trao tặng cho nhau; hơn nữa, nó còn là đường tình của
một phận người. Từ đó, ta thấy toát lên sự ca ngợi đời tu và đồng
thời như một lời ca thán về đường tình ở câu nói trên. Nhưng tại sao
Nguyễn Du lại bộc lộ những tâm tư trái ngược nhau như thế.

64
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Chúng ta đừng quên rằng câu nói trên phát xuất từ một kiếp đời
trôi dạt có thể nói “chữ tài liền với chữ tai một vần”. Trong những
nỗi đau rất riêng tư, người ta có thể thốt lên chính kinh nghiệm của
mình, và dẫu cho người khác có chấp nhận hay không thì nó vẫn
đúng, ít nhất là đối với chính mình. Nó là một kinh nghiệm chủ quan,
tương đối nhưng là một thực tại có thật và đáng để được mọi người
trân trọng. Vậy đâu là những lí chứng biện minh cho cội phúc trong
đời tu?
Hẳn nhiên, chúng ta không thể bỏ qua kinh nghiệm của Kiều
trong khoảng thời gian được tu thân. Từ vô tình nơi cái am Hoạn Thư
dành cho, cho đến sau lần được Vãi Giác Duyên cứu và đặc biệt khi
Kiều tự nguyện lập một am riêng sau khi đã nối duyên lại Kim
Trọng. Có lẽ chính nơi đây (tu thân), Kiều tìm được bến đỗ sau bao
khoảng thời gian lênh đênh trên biển đời với những đau khổ, dằn vặt,
ưu tư,… Trong tiếng gõ nhẹ đều đặn, trong chén cơm chay, trong bầu
khí thanh tịnh, tâm hồn người tu như tìm lại được sự bình an, là giá
trị nội tại để đo lường một tâm hồn hạnh phúc. Khi bước vào đường
tu, người tu như giũ bỏ mọi bụi trần, dẫu rằng không phải không còn
vấn vương đường tình nhưng cảm thức về đời tu vẫn giúp họ nhẹ
nhàng trút đi những gánh nặng đó.
Hơn nữa, câu nói trên được Nguyễn Du đặt trên miệng của Tam
Hợp đạo cô – là ni cô – thì hẳn nhiên chúng ta phải hiểu khẳng định
đó được lồng vào bối cảnh giáo lý của Phật Giáo. Khi cho rằng đời là
bể khổ, là ảo ảnh, mọi thực tại chỉ là vô thường, con người cần phải
thoát tục, từ bỏ mọi quyến luyến đời tạm này để lo tu nghiệp chứng
quả hầu được giải thoát khỏi kiếp luân hồi. Trong góc độ tôn giáo
(Phật) thì minh nhiên khẳng định “tu là cội phúc” không có gì là quá
khó hiểu.

65
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Có lẽ cũng trong góc độ tôn giáo, chúng ta hóa giải được phần
nào vế sau: Tình là dây oan. Tuy có nhiều tông phái khác nhau
nhưng trọng tâm giáo lí của Phật là “tứ diệu đế”. Nơi chân lí thứ nhất
– khổ đế - chân nhận: Mất cái mình không thích, mang cái mình
không ưa, không đạt được điều mình muốn đó là khổ. Lẽ nào trong
đường tình lại không vướng vào những sự đó. Tình yêu đôi lứa vừa
nâng con người lên , vừa có thể cũng là vực thẳm nhấn chìm con
người trong đau khổ, như kinh nghiệm của Lý Mạc Sầu (Thần Điêu
Đại Hiệp) khi không thành toại trong đường tình đã kêu lên: Hỏi thế
gian tình ái là chi mà khiến con người phải điên đảo.
Bên cạnh đó, tình là dây oan, là một khẳng định của tác giả mà
chúng ta không thể đặt riêng ngoài ngữ cảnh. Cũng như vế trước,
tình là dây oan cần được quảng diễn trên những chặng đường tình
của Kiều. Chỉ trong bối cảnh như vậy, ta mới thấu hiểu phần nào
dòng cảm xúc nghẹn ngào khi Nguyễn Du muốn cảm thương những
số phận mà “chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.” Khi Kiều có tình
yêu sét đánh đầu đời với chàng Kim cũng là lúc Kiều bắt đầu ôm nỗi
tương tư, và nó càng dai dẳng suốt hành trình đời Kiều. Mối tình với
Thúc sinh cũng để lại nơi Kiều một nỗi đau khôn tả, có thể nói như
một cái chết tinh thần vậy:
“Giết nhau chẳng cái lưu cầu
Giết nhau bằng cái ưu sầu đọc chưa.”
Bị Hoạn Thư đánh ghen, tình yêu với Thúc Sinh chỉ chất thêm
lên Kiều những nỗi đau xé lòng. Chuyện với Từ Hải tưởng như thật
thơ mộng xứng với luật nhân quả - ở hiền gặp lành - ; mà ngờ đâu,
cái chết đứng của Từ Hải như nhân đôi nhân ba nỗi đau xót cùng với
sự ray rứt của Kiều:
“Mặt nào trông thấy nhau đây?
Thà liều sống chết một ngày cho xong.”

66
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Từ đó, ta nhận thấy đường tình của Kiều như một nghiệp oan
phải trả.
Nếu như khẳng định trên khép lại ở đây thì chúng ta thấy thật
không công bằng và hụt hẫng. Không công bằng vì đằng sau viễn cảnh
của chữ tu và chữ tình còn có nhiều kinh nghiệm trái ngược. Hụt hẫng
vì lẽ nào tu đã là phúc, tình đã là oan. Để có một kết cục như vậy, hẳn
nhiên có cũng có những lí do riêng; và vì dưới góc độ riêng tư nên
chưa hẳn nó có thể đúng cho mọi trường hợp.
Chính vì những lí do nội tại đó, chúng ta thấy khẳng định trên –
tu là cội phúc, tình là dây oan – vẫn giữ lấy giá trị nội tại của nó,
nhưng cũng phải được đáp ứng hay giới hạn trong một vài tiêu
chuẩn. Tu sĩ là cội phúc khi chọn lựa đời tu không phải là một lối đi
để tiến thân, hay chỉ là một ngã rẽ để nghỉ chân khi đường đời quá
đỗi truân chuyên, khi gánh nặng kiếp nhân sinh đeo đuổi. Tu sẽ là cội
nguồn của phúc khi đó là lời đáp trả tình nguyện và tự do của nội tâm
trước một “tiếng gọi khác”; và đồng thời, đó phải là hệ quả của một lí
tưởng cao đẹp, khi dành trọn đời mình cho những giá trị thiêng liêng
để vươn tới thực tại tuyệt đối,…
Cũng vậy, tình là dây oan khi mối duyên chỉ là sự ràng buộc bởi
sính lễ vật chất hay những tính toán vụ lợi. Bao lâu tình yêu không
phải là hiện thân của sự tự do trao hiến cho nhau thì bấy lâu đường
tình còn là những cuộc chiến chỉ mang đến tang tóc và đau khổ.
Nhưng chúng ta cũng đừng quên sự trao hiến đó không phải hay ít
nhất chưa phải là một giá trị nội tại, nhưng là hành trình tập luyện
để ra khỏi “cái tôi vị kỉ”, và nó cần thanh tẩy không ngừng trong
những chọn lựa và ước muốn cá nhân. Bên cạnh đó, đường tình
không chỉ giới hạn ỏ bản chất tình yêu, nhưng còn là tổng hòa
những yếu tố khác: Duyên số, đối tượng, phương cách,… như lời
thơ của Xuân Diệu:

67
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
“Người ta khổ vì yêu không phải cách
Yêu sai duyên và mến chẳng nhằm người.”
Vậy ra, đời tu có phúc, đường tình có oan cũng là có nguyên do
của nó chứ trên thực tế thì đâu có hẳn là vậy.
Nhận thức trên làm chúng ta tự hỏi: Có lúc nào tu là dây oan mà
tình là cõi phúc? Có lẽ sẽ hơi lúng túng khi chúng ta quả quyết có
hay không. Nhưng chính những kinh nghiệm hiện sinh cũng lí giải
cho chúng ta phần nào vấn nạn đó. Tu là dây oan khi đời tu không
phải là một quyết định dấn thân tự nguyện nhưng chỉ để đáp ứng ước
nguyện của “một ai đó”, có thể là gia đình, người thân hay chuẩn
mực xã hội,… Có lẽ chúng ta cũng nhận ra được thảm trạng này
phần nào nói một vài khuôn mặt biến sắc, nói nhân cách kì dị hay
một vài quan điểm cực đoan của người tu hành; hẳn nhiên, chúng ta
đừng lầm tưởng những con người đó với những bậc thánh nhân, bởi
vì ranh giới giữa chúng thì thật mong manh nhưng kì thực thì rất
khác biệt.
Ngược lại, tình là cội phúc cũng đâu phải là một kinh nghiệm quá
lí tưởng hay xa lạ. Chuyện tình của Jack và Rose được biết đến qua
vụ đắm tàu Titanic, chuyện tình của Romeo và Juliet,… là những
chuyện tình vượt thời gian đi vào lịch sử của nhân loại. Cận kề hơn,
đó có thể là chuyện tình của thân sinh chúng ta… Để cảm nhận tình
là cội phúc một cách hiện thực hơn, chúng ta có thể đọc thấy trong
ánh mắt của những đôi tình nhân niềm hạnh phúc mà họ cảm nhận
được. Hạnh phúc trong đường tình đâu có phải xa vời! Đó có thể là
hai bàn tay gầy guộc vẫn xiết chặt vào nhau đi qua những năm tháng;
có thể là giây phút lắng nghe, cảm thông và chia sẻ cùng người bạn
đời với nỗi đau của mình; có thể là bờ vai bình yên của người yêu để
mình tựa đầu vào,… Và đó có thể là một lời của huyền nhiệm: Anh
yêu em!

68
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Những kinh nghiệm đời thường cũng đủ minh chứng cho ta thấy
có những khác biệt với khẳng định trong Đoạn Trường Tân Thanh –
tu là cội phúc, tình là dây oan. Khác biệt đó có khi dẫn đến những
thái cực hoàn toàn trái ngược. Từ đó, ta hiểu rằng chữ tu, chữ tình
được lồng vào nhau dưới những góc nhìn rộng hơn, nghĩa là trong
đời tu cũng có tình ka trong đường tình cũng có tu.
Đời tu mà loại bỏ chữ tình thì phải chăng đó là những con người
gỗ đá. Không có tình yêu cũng chẳng có cảm xúc thì không thể là
con người đúng nghĩa huống chi lại muốn trở nên một con người
hoàn thiện hơn. Chữ tình trong đời tu cần hiểu theo nghĩa khác, nó
cần được thăng hoa và đối tượng là phổ quát. Thăng hoa để chữ tình
thật trong sáng và cao thượng; đối tượng là phổ quát vì nó là một tình
yêu đại đồng, có thể bao trọn mọi con người, mọi thời đại mà không
bị phân mảnh. Đó là một tình yêu dành hết cho mọi người và dành
trọn cho từng người. Còn đường tình có tu nghĩa là sao?
Hẳn nhiên, chữ tu trong đường tình không có nghĩa là làm giảm
thiểu mối tương quan hay quan hệ, nó là một hành trình giúp đường
tình trở nên trọn hơn. Từ những tương quan thể chất, những quan hệ
ái ân thể xác, chữ tu hướng tình yêu nhục thể đó vươn lên những giá
trị tinh thần cao đẹp hơn và đặc biệt là đạt tới một tình yêu viên mãn
khi biết trao ban cùng cũng như đón nhận trọn vẹn. Nhờ vậy, trong
tình yêu, họ có thể đạt tới đỉnh cao là nên một với nhau. Đó là ý
nghĩa ơn gọi hôn nhân Kitô giáo.
Dưới góc độ Kitô giáo, ta khẳng định trên – tu là cội phúc, tình là
dây oan – thật là giới hạn nếu không muốn nói là hàm hồ. Trước hết,
dưới nhân quan ơn gọi, đời tu hay đường tình không phải là một
chọn lựa cá nhân mà thôi nhưng đó là hai ơn gọi thật sự phát xuất từ
Thiên Chúa. Vì thế, hệ quả không hệ tại ở ơn gọi đời tu hay gia đình
nhưng là bản thân có sống đúng ơn gọi của mình hay không. Hơn

69
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
nữa, giá trị của ơn gọi không giới hạn nơi việc cảm thụ những được-
mất ở đời này, nhưng là được tham gia vào “sự sống mới” mà Thiên
Chúa chúc phúc cho con người trong những ơn gọi khác nhau. Chính
vì thế, đời tu hay đường tình trong Kitô giáo tạo nên những sắc thái
riêng biệt: Vừa là lời “chúc phúc” của Thiên Chúa và đồng thời, đó
còn là một lời mời gọi thông chia “thập giá” cùng Đức Kitô. Vì vậy,
theo lẽ tự nhiên, hai ơn gọi trong đời sống Kitô hữu – thánh hiến, hôn
nhân – đều phải kinh qua đau khổ - khác với chạy trốn đau khổ -
nhưng là những đau khổ cùng với lời hứa hẹn là sự phục sinh. Vậy,
đau khổ trong Kitô giáo có ý nghĩa khác vời đau khổ mà Phật giáo
quan niệm ở đời.
Tóm lại, tu là cội phúc, tình là dây oan là kinh nghiệm thực hữu
mà chúng ta có thể cảm nhận được đâu đó từ một lịch sử vọng lại hay
cá trong hiện thực hôm nay. Nó như một lời than thở vọng lên từ kiếp
sống nhân sinh phải gắn liền với đường tình, và cũng là một khát khao
lí tưởng về một “thực tại khác”, khi đời tu như là dấu chỉ của vẻ đẹp
đó. Trong âm hưởng giáo lí (Phật) giải thoát khỏi cuộc đời là bể khổ,
người Kitô hữu cảm thấy mình có trách nhiệm cung ứng cho nhân loại
một nhận thức hài hòa giữa vật chất và tinh thần, thế tạm và vĩnh cửu,
xác và hồn, đời tu và đường tình… không phải là hai thế giới riêng
biệt và đối lập nhau, nhưng có mối quan hệ và bổ trợ lẫn nhau. Bởi vì
mọi tạo thành đều là công trình kì diệu của Chúa; và chúng ta cần khởi
đi từ cái bất toàn đến toàn diện, từ tương đối đến tuyệt đối.
Người viết: Giuse.M Phạm Văn Bình
Nhận xét: Đã tìm hiểu – khám phá lại – nội dung Truyện Kiều.
Đã vận dụng nội dung văn học một cách vừa phải, nhưng nên dẫn
một vài câu thơ nói lên giá trị của đời tu. Đã trình bày suy nghĩ về
đường tu và đường tình khá hợp lý; nhưng nên tìm thêm những lý lẽ
biện minh cho mặt tích cực của đời tu. Còn có lầm lẫn, chưa phân
biệt rõ đạo cô và ni cô; còn lỗi chính tả.

70
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Chứng minh nhận định sau: “Người có đức hạnh không
phải cứ làm những việc phi thường khác chúng. Làm đầy đủ bổn
phận hàng ngày một cách đều đặn cũng đủ gọi là có đức rồi”.
Bài làm
Ngày nay, mỗi người chúng ta đều cảm nhận và trải nghiệm cuộc
sống với biết bao điều tốt đẹp mà xã hội ban tặng cho chúng ta.
Những thành quả tốt đẹp ấy đã được khởi đi và hình thành từ những
bàn tay, khối óc và tâm tư của biết bao con người dám đi bước trước,
làm nên những điều phi thường để phục vụ cho lẽ sống. Vì thế, là thế
hệ thừa hưởng chúng ta không ngừng lại ở việc hưởng thụ mà còn
phải biết phát huy, sáng tạo và làm cho những giá trị ấy ngày càng tốt
hơn. Chính suy nghĩ ấy làm động lực giúp cho mỗi người chúng ta
nuôi dưỡng và phát huy những thao thức, hoài bão, đem tất cả những
gì mình có để làm nên những thành tựu mới phục vụ cho bản thân và
cho mọi người. Tuy nhiên, có những người nghĩ rằng cần phải làm
những việc phi thường, xuất chúng mới xứng đáng, rồi họ quên đi
những bổn phận xem ra bình thường mà bản thân phải làm. Thậm chí
có những người muốn làm những việc khác lạ, hơn người, bất chấp
tất cả những giá trị đạo đức nền tảng bình thường để đạt cho được
mục đích to lớn. Vì thế, để nhắc nhở lối suy nghĩ nông cạn đó, có
người cho rằng.
“Người có đức hạnh không cứ phải làm những việc phi thường
khác chúng. Làm đầy đủ bổn phận hằng ngày một cách đều đặn cũng
đủ gọi là có đức rồi”.
Vậy nhận định trên có hoàn toàn đúng, chủ trương trên có đi
ngược với xu thế phát triển của xã hội chăng? Chúng ta cùng nhau
làm sáng tỏ nhận định ấy qua thành quả của những con người đã từng
đi vào lịch sử nhân loại.

71
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Trước tiên, ta cần xem xét cái “đức” nơi con người được hiểu ra
sao? Đức là cách cư xử, thái độ tốt đẹp phù hợp với đạo lý xã hội
(Theo từ điển Tiếng Việt, nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin). Như
thế, người có đức hạnh là người có phẩm chất từ bên trong được thể
hiện ra bên người qua cách cư xử, thái độ, việc làm phù hợp với
chuẩn mực đạo đức. Như vậy, một người được đánh giá là có đức
hay không hoàn toàn không phụ thuộc người đó làm việc nhỏ hay
lớn, tầm thường hay phi thường mà điều cốt yếu là ở cái cách người
đó thực hiện công việc ấy trong một thái độ phù hợp với luân lý
chuẩn mực cho phép. Hiểu được như trên, ta dễ dàng nhận thấy một
công việc tầm thường sẽ trở nên phi thường khi người thực hiện công
việc ấy thấm nhuần chính phẩm chất, đức hạnh của mình.
Chính vì lẽ đó, nhận định “người có đức hạnh không cứ phải làm
những việc phi thường khác chúng” thật hữu lý.
Bởi ta biết rằng, một việc được gọi là phi thường khi việc ấy
được thực hiện bằng khả năng tốt và một ý chí can độ. Ta thấy điều
này rất rõ qua nhân vật lịch sử nổi tiếng lịch sử là Tần Thủy Hoàng.
Ông là một vị vua của nước Tần thuộc Trung Hoa, là một con người
có khả năng lãnh đạo thuộc loại nhất và một ý chí cao độ quyết thống
nhất đất nước Trung Hoa thời bấy giờ. Với khả năng và ý chí tuyệt
vời ấy, ông đã làm cho cả thế giới phải biết đến qua công trình vĩ đại
Vạn Lý Trường Thành. Thế nhưng, tiếc thay một công việc phi
thường, vĩ đại ấy lại trả giá bằng biết bao sương máu của hơn ba trăm
ngàn chiến sĩ, tội nhân, những người ông cho là tội phạm phải làm
khổ sai trong cái lạnh buốt của mùa đông, mùa hè thì nóng như nung,
mù mịt cát bụi. Và kết quả là trong dân gian có biết bao tiếng khóc
thương, oán hờn còn vọng mãi cho đến hôm nay và biểu trưng là nỗi
đau khổ tột cùng của nàng Minh Khương, thương nhớ chồng mình bị
chết bi thảm trong khi đi xây thành. Với việc làm như thế, liệu Tần

72
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Thủy Hoàng được người đời coi là có đức hạnh chăng khi ông có
những việc thật phi thường, khác chúng? Thật khó mà có thể coi ông
là người có đức khi ông dùng cái khả năng hơn người của ông đàn áp
dân chúng, coi rẻ mạng sống con người. Với tôi, ông chỉ là một con
người ích kỉ, tham vọng và độc tài. Đó là chưa kể đến việc trước khi
chết ông đã bắt hàng trăm cung tần mỹ nữ cùng chết với ông dưới
lăng mộ để hầu hạ khi ông về bên kia thế giới. Thế đấy, một người có
đức thì không bao giờ có cái cách cư xử vô độ như thế.
Chưa dừng lại ở đó, ta nhận thấy ý nghĩa của mệnh đề trên còn
nhìn nhận giá trị của một việc làm phi thường còn phụ thuộc vào
mục đích tốt đẹp, một động cơ cao thượng đi đôi với một cách thức
thực hiện phù hợp lẽ sống, chuẩn mực đạo đức. Thật vậy, nhìn lại
lịch sử nhân loại trong cuộc đại chiến thế giới thứ hai, ta thấy rõ sự
hồi phục kinh tế của nước Đức dưới sự chỉ đạo của nhân vật lẫy lừng
Hitler là một thành tựu nổi bật, mà trong đảng cũng như các nhà kinh
tế nước ngoài ca ngợi là một phép lạ. Số người thất nghiệp giảm từ
sáu triệu còn không đến một triệu người sau bốn năm. Sản lượng và
thu nhập quốc nội tăng gấp đôi. Chưa hết, tuy Hitler không giỏi về
kinh tế, nhưng ông đã quy tụ được những nhà kinh tế giỏi, đặc biệt là
tiến sĩ Hjalmar Dchacht, được coi như là phù thủy kinh tế. Về quân
sự, từ ở mức một trăm ngàn người, Hitler tăng quân số lên gấp ba
vào cuối năm 1934. Khi tiến công Liên Bang Xô Viết năm 1941,
Hitler đã huy động được trên ba triệu quân tiến ra chiến trường. Tất
cả những thành quả ấy thật là đáng khâm phục và phi thường. Thế
nhưng, nó lại được che giấu bằng một mục đích vô cùng phi đạo đức.
Chính ông đã có những âm mưu thống trị thế giới và muốn đặt quyền
sinh sát nhân loại dưới tay mình. Điều đó thể hiện qua việc hàng triệu
người đã bị giết một cách man rợ và không gớm tay dưới chế độ của
ông. Thế nên, có người đã nhận định rằng: “Đây không phải là một

73
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
cuộc chiến tranh mà là một cuộc tàn sát”. Đấy, những việc làm khác
chúng ấy được ngụy trang bên trong là mục đích đồi bại phải chăng
là những việc phi thường? Không thể được, vì những việc làm ấy
không mang lại giá trị nhân văn cho xã hội, nếu không muốn nói là
những việc làm phi đạo đức với những cách thức diệt chủng con
người, trái với lẽ sống tự nhiên. Thế đấy, muốn làm những việc phi
thường trước tiên cần lắm ở nơi chúng ta phải có một đức hạnh cơ
bản, đồng thời trong chúng ta cần có mục đích chân chính, cao
thượng và tốt đẹp.
Đến đây, ta thử đặt một câu hỏi: liệu một người chúng ta sẽ như
thế nào khi không thể làm được những việc phi thường, bởi những
việc phi thường ấy được làm nên bằng khả năng tốt, ý chí cao độ và
một mục đích cao thượng? Chưa hẳn thế, mỗi người đều có những
khả năng riêng biệt, đều có một ý chí cho phép và cần được thể hiện
bằng một mục đích tốt. Đi-đơ-rô, một trong những nhà văn, nhà tư
tưởng lớn của nước Pháp thế kỷ XVIII đã từng nói: “Bạn sẽ không
làm được gì nếu bạn không có mục đích, bạn cũng không làm được
gì vĩ đại nếu mục đích của bạn tầm thường”. Thật thế, chúng ta hãy
cứ mạnh dạn làm những công việc trong tầm tay và khả năng của
mình, hãy bỏ đi cảm giác tự ti, biếng nhác, buông xuôi trong tất cả
mọi việc. Mặt khác, chúng ta đừng quá cố gắng phải làm cho được
việc lớn mà sức ta thì không đủ đảm đương, như nhà lý luận học nổi
tiếng của Trung Quốc Chu Quang Tiềm đã nói: “Chí khí quá lớn, ý
tưởng quá nhiều, sự thật làm không xuể, kết quả hẳn là thất bại. Chí
khí quá nhỏ, cẩu thả, thờ ơ, chán nản, kết quả hẳn dẫn đến sa đọa”.
Vậy, phải chăng chúng ta cần bắt đầu với một mục đích cao thượng,
một sự kiên trì bền bỉ và hơn hết phải để cái tâm vào trong bất kỳ
một công việc gì dù tầm thường hay phi thường sẽ dẫn đến một kết
quả đáng trân trọng? Thật thế, mục đích cao thượng tuy chỉ bé nhỏ

74
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
như một chiếc lá nhưng dưới bàn tay miệt mài của người quét đường
với cái tâm trong sáng mà bình dị đã cho ta thấy một hình ảnh thật cao
đẹp và vĩ đại: “Một người quét đường hãy quét những con đường như
đại nhạc sư Beethoven đã soạn nhạc, hãy quét những con đường như
đại văn hào Shakespeare đã làm thơ,…” Thế đấy, chính những mục
đích cao thượng ấy sẽ dần được thể hiện ra bên ngoài bằng những việc
làm, cách thức thực hiện phù hợp mà người ta gọi là đức hạnh cho
những công việc thật giản dị nhưng mang đậm giá trị phi thường.
Bởi thế, mệnh đề: “Làm đầy đủ bổn phận hàng ngày một cách
đều đặn cũng đủ gọi là có đức rồi” cũng đáng để chúng ta quan tâm
và suy nghĩ. Chính những công việc bổn phận bình dị ấy được thực
hiện một cách đều đặn và đầy đủ sẽ thể hiện nét đạo đức trong mỗi
người và chất chứa một giá trị phi thường tiềm ẩn từ bên trong.
Lý lẽ trên quả thật hữu lý khi ta thấy rằng, có những chuyện hết
sức tầm thường, đơn giản ở trước mắt chúng ta mà chúng ta không
quan tâm để ý, thế nhưng nó lại ảnh hưởng lên chính cuộc sống của
chúng ta, Chẳng hạn như câu chuyện về chú cá con, chú thường hỏi
mẹ chú rằng: “nước là gì hả mẹ? Sao con không biết nước là gì cả?”.
Mẹ chú không biết giải thích cho chú thế nào, đành nhờ sóng hất chú
lên bờ. Khi nằm giãy giụa trên bờ chú cá nhỏ mới hiểu thế nào là
nước, nước chính là sự sống của chú, điều tưởng chừng bình thường
nhất đó lại có ảnh hưởng đến sự sống của chính mình. Cuộc sống
ngày nay cũng vậy, chỉ cần bạn nhận ra những thứ bình thường và
làm những việc bình thường nhất, bạn sẽ trở nên vĩ đại.
Thật vậy, việc bình thường ấy tồn tại nơi chính bản thân mỗi
người, đó là những phận vụ của mỗi cá nhân. Bổn phận ấy được xem
như là những cộng việc thường ngày mà mỗi chúng ta, từng con
người khi sinh ra đã được xã hội trao ban để thực hiện hầu sinh ra
biết bao điều hữu ích nuôi dưỡng bản thân và giúp ích cho xã hội.

75
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Những người mẹ tần tảo, ngày qua ngày cặm cụi với mớ rau, lát cá
rất đỗi bình thường để đem đến những bữa cơm canh ấm áp không
khí gia đình, nuôi dưỡng biết bao nhân tại lớn phục vụ xã hội. Đó
chẳng phải là những việc làm thật bình dị được chất chứa bên trong
biết bao tình yêu thương, một mục đích cao đẹp đồng thời dem lại
những giá trị hết sức phi thường. Nói như kiểu của Guy De
Larigaudie: “Gọt khoai trong yêu thương cũng có giá trị như xây một
nhà thờ chính tòa”. Một bà mẹ quê mùa tần tảo với tất cả tình yêu
vẫn có giá trị ngang tầm với những người mang trọng trách cao cả.
Chưa hết, ta còn được chiêm ngưỡng đức hạnh của Thánh nữ
Têrêsa Hài Đồng Giêsu được thể hiện qua những công việc hết sức
đơn sơ mà thật phi thường, vĩ đại. Hình ảnh chị Têrêsa cúi xuống
nhặt một viên đá để chị em khỏi vấp ngã, hoặc việc chị chăm chú
quỳ cầu nguyện hàng giờ xin Chúa cứu rỗi các linh hồn, hay chăm
chỉ cần cù trong những việc bổn phận hàng ngày mà bề trên giao cho
như thêu thùa, may vá, giặt giũ,… đã tỏ lộ cho ta thấy nơi chị một
tinh thần trách nhiệm cao, một tình yêu thương dạt dào được nuôi
dưỡng bằng một mục đích cao thượng, tốt đẹp. Đấy, chỉ với những
việc thật bình thường của bổn phận mình nhưng chị đã nhận ra trong
những việc làm bình thường ấy một vẻ đẹp tuyệt vời của tình yêu, để
rồi chị thực hiện chúng một cách đều đặn, đầy đủ bằng lòng mến yêu
trong suốt cuộc đời của chị. Chính vì lẽ đó, mà ngày nay Giáo Hội đã
tôn phong chị lên bậc hiển thánh, một vĩ nhân trong những việc tầm
thường, một con người của tình yêu.
Vâng, thế đấy, chỉ cần những việc làm bình thường thôi chúng ta
cũng có thể tỏ lộ đức hạnh của mình. Thế nhưng, những việc làm
bình thường không có nghĩa là tầm thường, không có thử thách gian
nan. Trái lại, nó cần nơi con người một ý chí chịu khó, kiên nhẫn,
dám vượt qua những khó khăn để thực hiện một cách đều đặn, bền

76
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
đỗ. Hình ảnh một bà mẹ lưng khòng, nghèo nàn, chân chất ngày qua
ngày đi tìm kiếm những con người bệnh tật, bị xã hội quên lãng nơi
những góc khuất của xó chợ, cưu mang về chữa trị, nuôi dưỡng đã
làm cả thế giới phải nghiêng mình, tôn vinh. Đó là chân phước
Têrêsa Calcutta. Mẹ đã vượt qua biết bao thử thách vì sự đàm tiếu
của thiên hạ, mẹ trải qua thật nhiều sóng gió vì thiếu hụt tài chính;
chưa kể đến mẹ phải gánh chịu những đau khổ về mặt tinh thần khi
bị hiểu lầm, bị lợi dụng hầu quyết tâm đòi lại quyền được sống của
con người. Chính vì thế mà mẹ đã từng thốt lên: “Đối với người
nghèo khổ, vấn đề lớn không phải là thiếu thốn tiền bạc, nhưng là
việc người ta từ chối không cho họ quyền làm người và quyền được
yêu thương”. Từ đó, với một trái tim yêu thương, mẹ đã làm những
việc hết sức bình thường, ngày ngày tắm rửa cho bệnh nhân, an ủi kẻ
âu lo, nâng đỡ người tuyệt vọng. Để rồi từ những con người tường
chừng như đã chết nay được trao ban một nguồn sống mới, một hi
vọng mới cho dầu nó chỉ ngắn ngủi nhưng lại là đỉnh điểm của vị
ngọt tình yêu con người. Đấy, chỉ những con người can đảm, dám
vượt qua gian nan, thử thách trong những việc bình thường đã biến
những cái tầm thường thành cái phi thường và tỏa ra biết bao hương
thơm đức hạnh cho vườn hoa cuộc đời.
Đến đây, phần nào chúng ta đã thấy rõ được việc phi thường hay
tầm thường không tạo nên người có đức hạnh, mà hệ tại là ở cái cách
người đó thực hiện công việc ấy trong một thái độ phù hợp với chuẩn
mực đạo đức. Thế nhưng, với những hình ảnh trên, có thể sẽ có ý
kiến cho rằng ngày nay trong xã hội phát triển vũ bão chúng ta khó
mà có đức hạnh trong các công việc được. Không hẳn thế, chúng ta
hãy nhìn lại hình ảnh những con người của đất nước Nhật Bản, mới
đây đã trải qua biết bao khó khăn trong thảm họa động đất, sóng thần
tưởng chừng như đã nhấn chìm họ trong tuyệt vọng. Vậy mà, chỉ

77
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
trong thời gian ngắn ngủi họ đã khắc phục hậu quả một cách phi
thường và nhanh chóng phục hồi, giữ vững vị trí cao về kinh tế trên
thế giới. Vì sao họ làm được những việc phi thường ấy? Nghiệm lại,
ta thấy rằng chính con người Nhật nhờ nghiêm túc, kỷ cương từ
những việc cỏn con như: họ luôn ý thức nơi công cộng, không một
cộng rác, một mẫu thuốc lá rơi vãi trên đường, ngay cả những em bé
nhỏ cũng dám cúi xuống nhặt bỏng ngô đánh rơi cho vào thùng rác,
hay một cụ già đưa tay cầm giấy kẹo đi mấy chục mét bỏ vào thùng
rác cho một thanh niên ngoại quốc. Chưa hết, chúng ta phải rơi nước
mắt xúc động trước nghĩa của một em bé dám hi sinh nhường phần
ăn cứu trợ cho một cụ già chỉ vì một lý do đơn giản là em có thể nhịn
đói được còn cụ già thì không. Thế đấy, đó chẳng phải là đức hạnh
của họ thể hiện trong những việc tưởng chừng như cỏn con, tầm
thường nhưng hết sức phi thường hay sao?
Hơn nữa, là những Kitô hữu, là những con người sống trong tình
yêu của Thiên Chúa, chúng ta còn phải ý thức điều ấy hơn thế nữa.
Thế nhưng, nhiều khi ta chỉ muốn sống như mình mơ ước mà không
thấy được giá trị hiện diện của mình khi đi vào cuộc sống thường
ngày với những bổn phận. Hãy nhớ lại Lời Chúa Giêsu đã từng dạy:
“Việc nhỏ nhất mà anh em còn không làm được, thì anh em lo lắng
về những việc khác làm gì?” (Lc 12, 26) . Ở chỗ khác, Ngài cũng
khẳng định: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong
việc lớn”. (Lc 16, 10). Khi chỉ ham làm những công việc lớn, có tầm
cỡ, mà coi thường những công việc nhỏ, phải chăng người ta rơi vào
tình trạng bất bình thường, phát sinh từ sự non yếu và thiếu hụt trong
đời sống tâm linh. Đời sống đạo đức của một người không hệ tại ở
công việc lớn hay nhỏ, nhưng hệ tại vào những công việc thuộc bổn
phận mình, một bổn phận mang tính cách phục vụ cho lý tưởng cao
hơn: “Vũ trụ nội sự nãi kỷ phận nội sự. Kỷ phận hội sự nãi vũ trụ nội

78
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
sự”. Việc trong vũ trụ là việc trong bổn phận mình; Việc trong bổn
phận mình chính là việc ở trong vũ trụ. (Lục Tượng Sơn).
Nói tóm lại, cả mệnh đề trên dường như là một lời nhắc nhở
chúng ta cần chú tâm hơn đến những việc bổn phận mà ngày qua
ngày chúng ta đã, đang và sẽ thực hiện trong cuộc sống. Như
Mobatma Ganthi – linh hồn của hàng triệu dân Ấn Độ - đã từng nói:
“Nhiều điều ta đang nỗ lực tìm kiếm có thể đang ở ngay dưới chân ta
nhưng vì mải mê lo ngóng nhìn phía chân trời trước mặt mà ta không
nhìn thấy nó”. Như vậy, với những khả năng, ý chí riêng mà chúng ta
trong những việc bổn phận bình thường có những giá trị tuyệt vời
tiềm ẩn mà nhờ trái tim yêu thương, lòng tận tụy kiên trì ta biến cái
tầm thường ấy trở thành cái phi thường, vĩ đại. Chỉ cần như thế, chắc
chắn cuộc đời chúng ta sẽ phát ra thứ ánh sáng kì diệu của đức hạnh.
Và có thể cuộc đời chúng ta không oanh liệt, lẫy lừng nhưng lòng
chúng ta chân thành, nhẹ nhàng với tất cả thế gian này. Đó chẳng
phải là nền tảng của linh đạo “làm những việc nhỏ nhất trong đời”
mà biết bao bậc hiển thánh đã noi gương sống cho chúng ta. Chính
đời sống họ đã minh họa một cách sống động lời của Thánh Phaolô:
“Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tốt cả để
tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cor 10, 31). Câu nói này đã trở thành châm
ngôn của đời sống Kitô giáo, đi liền với câu gửi tín hữu Colossê:
“Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa
Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha.” (Cl 3, 17). Đó
cũng chính là cái đức hạnh mà Chúa Giêsu mong muốn nơi mỗi
người chúng ta để sống và làm chứng về tình yêu bao la của Ngài.
Người viết: Giuse Lê Hoàng Tuấn
Nhận xét: Bài viết tốt; thực hiện khéo léo các yêu cầu của kiểu
bài chứng minh; lập luận chặt chẽ, kín cạnh, mang tính thuyết phục
cao; nội dung bài viết phong phú và nâng dần đến tầm cao của tư
tưởng Kitô giáo ở phần kết luận. Cũng còn một số dạng lỗi diễn đạt
cần khắc phục.

79
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Thi hào W. Goehte đã từng nói:“Đừng đi qua thời
gian mà không để lại dấu vết.Bao giờcũng phải có một nơi nào để
đến. Trí tuệ trưởng thành trong tĩnh lặng, còn tính cách trưởng
thành trong bão tố”.Trình bày suy nghĩ về ý kiến trên.
Bài làm
Thi hào W. Goethe (1749 – 1932) ông là niềm tự hào của cả dân
tộc Đức. Cuộc đời của W. Goethe trở nên lẫy lừng khi ông tham gia
hoạt động và để lại nhiều dấu ấn trên rất nhiều lĩnh vực của cuộc
sống. Nơi ông dường như chung đúc những tài năng suất chúng của
một người nghệ sĩ, một nhà tư tưởng, một nhà lãnh đạo và một khoa
học gia,… Nhưng hơn hết và trước hết ông vẫn là một thi sĩ thực thụ.
Tài năng thơ ca của ông đã chớm nở từ thuở nhỏ, cho đến cuối đời,
ông đã để lại một khối lượng tác phẩm khổng lồ khiến người ta
choáng ngợp. W. Goethe xuất hiện như một vì sao sáng trong bầu
trời văn học còn nhiều mảng tối tĩnh mịch và tầm thường. Trong
những thế kỷ dài đằng đẵng của thời trung cổ, con người bị đè nén,
bị coi thường sống u uất, tủi nhục và bất lực thì thơ của W. Goethe
thể hiện một màu sắc tươi sáng, tươi vui rực rỡ, lạc quan và trẻ trung.
Nổi bật trong cái nhìn của ông đó là tình yêu thiên nhiên, yêu sự tĩnh
lặng và ông đề cao con người hơn mọi bậc thần thánh, các năng lực
siêu nhiên. Có thể nói W. Goethe là con người của thời khai sáng,
của bão táp và xung kích, là hiện thân của niềm khát vọng cá nhân,
của chủ nghĩa nhân văn, của ý thức về vị trí và vận mệnh của đời
mình. Với những trải nghiệm trong cuộc sống ông đã từng nói một
câu để đời rằng: “Đừng đi qua thời gian mà không để lại dấu vết. Bao
giờ cũng phải có một nơi nào để đến. Trí tuệ trưởng thành trong tĩnh
lặng, còn tính cách trưởng thành trong bão tố”. Chúng ta nghĩ sao về
câu nói này? Thử cùng nhau thẩm định xem!

80
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Chúng ta thường nghe đến chữ dấu vết, thời gian, hay dấu vết của
thời gian. Theo định nghĩa của khoa học thì thời gian là một thuộc
tính cơ bản của tự nhiên, nó đặc trưng cho trật tự và mức độ của các
quá trình. Trong đó vật chất chuyển động liên tục không ngừng. Còn
dấu vết tức là cái còn xót lại do kết quả tác động của con người hay
hiện tượng… đã qua.
“Bao giờ cũng phải có nơi nào để đến”, nơi để đến là không gian mà
con người đặt chân tới, một mục đích nào đó mà con người vươn tới.
“Trí tuệ trưởng thành trong tĩnh lặng”, trí tuệ là những hiểu biết,
kiến thức, là trí nhớ hay sự thông minh của con người trong các lĩnh
vực của cuộc sống. Sự tĩnh lặng nói đến một tình trạng của con người
hay không gian yên tĩnh, lặng im không ồn ào. Còn trưởng thành nói
đến một mức độ nhân cách, phẩm chất của con người chín chắn,
chừng mực, hoàn thiện và một cái nhìn đầy đủ về cuộc sống.
Còn câu nói tính cách trưởng thành trong bão tố thì sao? Tính
cách được hiểu là cá tính của mỗi người. Cá tính chính là đặc điểm
nội tâm của một con người. Tính cách thì rất đa dạng ví dụ như
người ta bảo người này hiền lành, người kia dữ, kẻ khác nhát gan,
người nọ lại dũng cảm…
Từ bão tố được hiểu như một hiện tượng tự nhiên nhưng ở đây
theo nghĩa chuyển thì nó được hiểu là “bão tố” cuộc đời tức là những
khó khăn, gian truân, thử thách của cuộc sống con người.
Qua những sơ lược về từng câu chữ trong câu nói của thi hào W.
Goethe, chúng ta thấy tác giả muốn nói đến lí tưởng, mục đích và ý
nghĩa của đời sống mỗi con người khi hiện hữu trong không gian, thời
gian. Sống trong thời gian con người phải xác định được mục đích
hiện hữu của mình và khi thời gian đi qua chúng ta phải để lại cho đời,
cho người những giá trị cao đẹp mà ta đã hết lòng cống hiến. Những
cống hiến có giá trị thực sự khi con người biết trau dồi chính mình
trưởng thành về nhân cách và trí tuệ.

81
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Vậy tại sao “Đừng đi qua thời gian không để lại dấu vết”? Quả
thật chất liệu của cuộc sống được làm bằng thời gian, người ta ví thời
gian như một kho tàng ẩn chứa nhiều thứ quý giá và nhiều điều kỳ
diệu. Nếu ai không “giơ tay đụng chạm” nó thì kho tàng sẽ vuột mất
khỏi tầm với. Tạo hóa ban cho con người thời gian là để con người
sống và sống một cách triển nở, sung mãn nhất. Vì thế đừng bỏ phí
thời gian, đừng lãng phí những ngày tháng của cuộc đời trong sự tầm
thường, vô ích. Đừng bước qua thời gian một cách vô tình, đừng để
thời gian trôi qua một cách uổng phí, vì như thế là ta đang đánh mất
chính mình, đánh mất những khoảnh khắc vô cùng quý giá của cuộc
sống. Sống trong thời gian là phải ghi dấu vào thời gian, ghi dấu
những điều cao quý tốt đẹp nhất để thấy được giá trị của sự hiện hữu
và ý nghĩa cuộc đời. Cũng vậy, ý nghĩa của cuộc đời chỉ có được khi
ta nỗ lực lớn lên và khắc ghi dần dấu ấn trong lòng người trong cuộc
đời. Ý nghĩa đích thực của đời người là khi ta biết quý trọng nâng niu
từng khoảnh khắc mỗi phút giây của cuộc sống.
Sống trong cuộc đời ai cũng muốn lưu dấu ấn với thời gian như
nhà thơ Nguyễn Công Trứ đã từng dõng dạc tuyên bố:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”.
Cái danh ở đây tức là dấu vết còn lại sau một đời tín trung phục
vụ, đó là khí phách của một con người đang đi tìm ý nghĩa cuộc đời,
một con người yêu giang sơn gấm vóc.
Lưu dấy trong cuộc sống là điều quan trọng, dầu ấn sẽ trở nên tốt
đẹp nếu con người đừng phung phí thời gian hiện hữu của mình. Phải
biết khám phá ra ý nghĩa từng phút giây, từng ngày sống của mình. Tuy
nhiên muốn sống một cuộc đời thật giá trị và ý nghĩa, chúng ta cần xác
định cho mình một mục đích lí tưởng sống.

82
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Cho nên “Bao giờ cũng phải có một nơi nào để đến”. Đi tìm cho
mình một mục đích lí tưởng đã là khó, điều khó hơn là ta đeo đuổi nó
và làm cho nó trở thành hiện thực. Cuộc sống luôn dàn trải trước mắt
ta những con đường, những ngã rẽ cho ta lựa chọn. Điều quan trọng
là ta sẽ chọn lựa con đường nào, ngã rẽ nào, có thể là con đường rộng
hay hẹp, con đường tươi sáng hay tối tăm mờ mịt,… Dù sao cuộc
sống không có những con đường cụt chỉ có những con đường người
ta chưa khám phá hay chưa dám đặt chân lên. Cũng chẳng có con
đường vô nghĩa nếu ta nhận thấy giá trị hiện hữu và luôn vươn tới lí
tưởng, mục đích của đời mình. Nếu không có mục đích con người sẽ
luôn ở trong tình trạng nửa vời, an phận thủ thường và dẫn tới một
cuộc sống tầm thường không có ý nghĩa. Không có mục đích, con
người sẽ sống thiếu cố gắng và chôn dấu những tiềm năng sẵn có của
mình, do đó dễ dẫn người ta tới sự thất vọng chán chường. Ngược
lại, sống có mục đích, con người sẽ luôn nỗ lực vươn tới đích nhắm
của của cuộc đời và họ luôn cảm thấy mình có giá trị. Trong cuộc
sống có nhiều người lâm vào hoàn cảnh khó khăn, khốn cùng, họ
tưởng rằng mình đã bị dồn vào chân tường hay đã gặp phải đoạn
đường cụt… Thế nhưng nếu đủ sáng suốt và tinh tế, họ vẫn có thể
thấy còn nhiều con đường, nhiều miền đất lạ họ cần phải bước tới, một
người học trò có mơ ước vào đại học để thực hiện ước mơ của mình.
Đến lúc thi trượt, họ đã nghĩ tương lai đã khép lại và mơ ước bỗng tan
thành mây khói. Thế nhưng thực tế cho thấy, cánh cửa đại học không
phải là con đường duy nhất đưa con người đến thành công, vẫn còn
nhiều con đường để ta thực hiện ước mơ của mình.
Có thiện chí đi tìm ý nghĩa cuộc sống và xác định được mục đích
cần phải vươn tới đó là điều tuyệt vời. Tuy nhiên muốn lưu lại dấu
vết với thời gian và muốn đạt được mục đích của cuộc đời chúng ta
cần đứng vững trên đôi chân của trí tuệ và nhân cách.

83
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Cuộc sống luôn chứa đựng những trạng thái đối nghịch và khác
biệt, lúc thăng lúc trầm, lúc mưa lúc nắng, lúc phong ba bão táp, lúc
thì bình yên. Đó là những diễn tiến của thời gian. Con người sống
trong vũ trụ cũng phụ thuộc vào không gian và thời gian. Nơi con
người đặt chân đến cũng có lúc là nơi yên bình tĩnh lặng có khi là
nơi đầy bão tố. Có lẽ yếu tố khách quan của không gian là điều quan
trọng nhưng quan trọng hơn hết là tâm thế của con người khi đón
nhận nó. Nếu là một con người đầy thiện chí với giá trị của cuộc đời
ta vẫn có thể trưởng thành trong tĩnh lặng hay trong bão tố của cuộc
đời. Vậy tại sao trí tuệ lại trưởng thành trong tĩnh lặng? Cuộc sống
của con người thường ưa sự ồn, nhộn nhịp và xa lạ với những sự tĩnh
lặng. Nhiều người coi sự tĩnh lặng là sự vô ích hay là một thứ xa xỉ
của thời hiện đại. Thế nhưng thực tế của cuộc sống cho ta thấy sự
tĩnh lặng đóng vai trò quan trọng trong sự tiến bộ của con người.
Trong sự tĩnh lặng, con người thường nhận diện mọi vấn đề, mọi
khía cạnh của cuộc sống một cách khách quan và đúng đắn nhất. Về
phương diện tri thức con người thường tiếp thu kiến thức qua người
khác truyền lại. Du đó nếu muốn tiêu hóa tốt hay đào sâu thêm thì
chúng ta phải dành thời gian để ngẫm nghĩ suy tư sáng tạo thêm.
Điều này chúng ta không thể thực hiện hữu hiệu nếu ta ở trong sự ồn
ào. Lý tưởng là cần một không gian yên tĩnh để ta có thể nhận diện
sáng tỏ mọi vấn đề và sáng tạo hoàn thiện nó một cách tốt đẹp nhất.
Có thể nói rằng khi tiếng ồn ào huyên náo lắng dịu con người sẽ
khám phá thấy bao điều ngạc nhiên, bao nhiêu điều thay đổi và tầm
nhìn sẽ rõ ràng sáng suốt hơn. Tâm trí con người như một túi khôn,
khi được ánh sáng của tĩnh lặng vào phản chiếu lúc đó tâm trí sẽ trở
nên linh hoạt và sắc sảo, suy tính việc gì cũng đầy tỉnh táo và khôn
ngoan. Có lẽ tĩnh lặng là nơi trí tuệ dừng chân để từ đó phát sinh ra
bao điều kỳ diệu và cao cả. Trong tĩnh lặng sự xuất hiện vô tình của

84
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
một điều bé nhỏ cũng có thể trở thành điều lớn lao, vĩ đại. Điều này
được bắt gặp nơi nhà vật lí học Newton khi ông đang ngồi yên tĩnh
một mình, bỗng dưng có quả táo trên cây rơi xuống đất… Nơi đây
ông đã phát minh ra định luật vạn vật hấp dẫn. Trong cuộc sống, có
lẽ ông Newton và cả mỗi người chúng ta đã chứng kiến không biết
bao nhiêu “quả táo” rơi xuống đất nhưng chúng ta vẫn nghĩ đó là
chuyện bình thường và đương nhiên, nhưng nhờ sự tĩnh lặng con
người lại khám phá ra cái minh triết của sự đương nhiên đó.
Về phương diện tôn giáo, sự tĩnh lặng là điều vô cùng quan trọng
và có thể nói là điều bất khả khuyết trong việc tiến bộ tâm linh. Ở nơi
cô tịch và thanh vắng, sau bao ngày thiền định dưới gố cây bồ đề Đức
Phật đã giác ngộ. Trong tĩnh lặng Mohammed được mạc khải làm sứ
giả của Thượng Đế. Cuộc đời của Chúa Giêsu cũng được dệt nên bởi
sự ẩn dật, thanh vắng, nơi đây, sự khôn ngoan Thượng trí của Thiên
Chúa được thể hiện trong sứ vụ rao giảng của Ngài trên trần gian.
Nói chung, Tạo Hóa lúc tạo ngày và dựng nên màn đêm, con
người lao động, học hành rồi cũng có lúc nghỉ ngơi, trầm ngâm suy
tư… tất cả đều có mục đích cả. Thời gian của nghỉ ngơi, suy tư hay
màn đêm kéo dài không phải là điều vô ích nhưng là để con người
được tiếp thêm năng lượng và tâm trí trở nên minh sáng hơn. Nhờ đó
trí tuệ con người trở nên trưởng thành hơn. Vậy trong bão tố cuộc đời
tính cách của con người có thể trưởng thành?
Cuộc sống con người thường sợ hãi phong ba bão táp. Hình như
người ta chỉ nghĩ rằng phong ba bão táp chỉ đem đến sự mất mát hủy
diệt. Bản tính tự nhiên của con người ai cũng ngại khó ngại khổ nên
họ cứ ra sức tránh né chạy trốn nó. Thế nhưng, một cuộc sống quá
phẳng lặng bình yên sẽ khó cho con người nhận thấy giá trị của sự cố
gắng, trui rèn tranh đấu… và cũng chẳng thấy tự hào hạnh phúc khi
không được kinh qua gian khổ. Người ta bảo rằng “Ngọc bất trác bất

85
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
thành khí”, một viên ngọc không thể sáng đẹp nếu không được mai
giũa. Một cây bon sai không thể có hình hài dáng dấp đẹp, nếu không
được uốn nắn và cắt tỉa. Con người cũng vậy, nếu cứ sống mãi trong
nhung lụa, chăn ấm nệm êm thì rất khó trở nên một con người trưởng
thành. Một đứa trẻ sống trong một gia đình sung sướng, thích cái gì
được cái ấy, luôn được cưng chiều và chẳng phải làm việc gì thì có
nguy cơ trở thành một đứa lười biếng sống nhờ sống bám và lớn lên
sẽ rất dễ dàng sa ngã, gặp khó khăn thì chán nản, bỏ cuộc. Trái lại
một đứa trẻ khác phải sống trong một gia đình khó khăn thiếu thốn,
cuộc sống phải cố gắng bươn chải để kiếm sống, để học hành thì lớn
lên cứng cáp và trưởng thành. Thực tế cho thấy càng gặp những bất
trắc trong cuộc sống và cố gắng đối diện, vượt qua nó thì con người
càng tăng thêm khả năng xử lý tình huống, giúp ta có cái nhìn và giải
pháp tốt nhất để đối đầu với mọi biến cố xảy đến. Cách đây mấy
năm, trong thảm họa động đất sóng thần ở Nhật Bản, cả thế giới thán
phục bản lĩnh của người Nhật. Giữa thảm cảnh sau trận động đất
sóng thần, người ta vẫn cố gắng bám trụ để dọn dẹp đống đổ nát;
lương thực, nước uống thì bữa được, bữa mất, người có, người
không. Khi đoàn cứu trợ đến thì người ta xếp hàng theo thứ tự để
lãnh phần lương thực không có cảnh chen lấn, giành giật trong khi ai
cũng đói rét. Có những em nhỏ và cụ già được ưu tiên trước để lãnh
phần, nhưng họ lại từ chối vì họ nói rằng trong hoàn cảnh này không
có sự chuẩn chước cho ai cả, mọi người cần tôn trọng và công bằng
với nhau để cùng vượt qua khó khăn. Một đất nước phải trải qua quá
nhiều thiên tai như Nhật Bản, đã tạo nên nơi người dân Nhật một ý
chí đủ mạnh, một tinh thần lạc quan và một con tim đủ lớn. Không
có sự thành công, vinh quang nào mà phải trả giá bằng sự hi sinh mất
mát. Bác Hồ cũng đã từng kinh nghiệm rằng:
“Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông.”

86
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đúng thế vinh quang hạnh phúc cũng cần phải có sự nỗ lực chứ
không phải là chuyện dễ dàng. Chính những chông gai mới tạo nên
những hình hài đẹp và ấn tượng, dù hình hài đó được tạo ra bởi chính
những va đập của bão tố, của những vết thương và sự đớn đau.
Hôm nay, nhìn lên chiếc bóng đèn sợi đốt, ta chợt nhớ lại hình ảnh
của nhà Vật lý Thomas Edison. Thực hiện công trình nghiên cứu phát
minh ra bóng đèn ông đã phải trải qua 10.000 lần thí nghiệm và đều bị
thất bại… Nhưng cuối cùng thành công đã mỉm cười với ông. Có ai có
thể lý giải được tại sao Edison lại bền bỉ đến “liều lĩnh” như thế. Phải
là một con người đầy tố chất mới dám vượt qua 10.000 thử thách để
đem ánh sáng đến cho nhân loại!
Cuộc sống của con người trên trần gian là như vậy, có gian nan,
trui rèn thì mới trưởng thành thực sự. Hình ảnh bụi sương rồng đầy
gai trên sa mạc khô cằn vẫn nở hoa rực rỡ cho ta thấy điều gì? Chắc
nó không giống hình ảnh của cây tầm gửi ăn bám sống nhờ?
Nói chung đã sinh ra trong đời, sống trong thời gian, mình phải ý
thức sự hiện hữu của mình. Phải sống trọn vẹn ý nghĩa của một con
người. Ý nghĩa cuộc đời sẽ được nâng trên đôi cánh của mục đích lý
tưởng và một nhân cách, trí tuệ trưởng thành. Nơi yên lặng hay bão
tố vẫn có thể đem lại ý nghĩa và dấu ấn cho cuộc đời.
Quả thật thi hào W. Goethe đã để lại cho đời một cảm nghiệm
thật sâu sắc khi nói rằng “Đừng đi qua thời gian mà không để lại dấu
vết…” Đã là con người sống trên trần gian, chúng ta phải lệ thuộc
vào dòng chảy của thời gian. Khi thời gian trôi đi, con người cũng
lớn lên, tuổi tác ngày càng nhiều thêm đến lúc về già rồi từ giã cõi
đời này. Một hành trình dài như thế không biết ta đã để lại bao nhiêu
dấu vết trong thời gian. Sống và lệ thuộc trong không gian, thời gian,
ít nhiều gì con người cũng phải để lại một dấu vết gì đó. Ít nữa là dấu
vết của một tiếng khóc lúc chào đời, có thể người ta không biết,

87
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
nhưng đã là một tiếng khóc độc đáo không giống ai. Dấu vết của mỗi
người để lại rất đặc biệt, người thì đậm kẻ thì nhạt; người thì dấu vết
tươi sáng thanh bình kẻ thì tối tăm ảm đạm; người thì dấu vết trường
cửu kẻ khác dấu vết để lại mau chóng nhạt nhòa… Tất cả đều tạo nên
những gam màu phong phú cho bức tranh cuộc đời. Lời nói của thi
hào W. Goethe thật đúng và sâu sắc vì đó hình như là những trải
nghiệm quý giá của đời ông. Nơi ông sở hữu những khả năng thiên
phú. Như đã nói cuộc đời W. Goethe là hiện thân của niềm khát vọng
cá nhân, của chủ nghĩa nhân văn, của ý thức về giá trị của thời gian,
hình như ông đã không để rơi rớt hay làm uổng phí thời gian sống
của mình. Là một nhà thơ lỗi lạc có ảnh hưởng sâu rộng trên cả nền
văn học Âu Châu, nhưng đó không phải là tất cả, ông còn để lại một
khối lượng thật lớn về văn hóa, nghệ thuật, lịch sử, triết học, mỹ
thuật, địa lý; ông nghiên cứu cả nghệ thuật cổ Hi lạp, nắm chắc nhiều
loại ngôn ngữ; ông có nhiều phát minh về cơ thể học, quang học màu
sắc, địa chất học, thực vật học,… Chưa hết, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ
luật ông lại hoạt động trên nhiều lĩnh vực xã hội như sản xuất nông
nghiệp, giao thông, thương mại hải quan, từng nhiều năm làm thượng
thư cho triều đình, giám đốc nhà hát thành phố… Đó! Dường như
ông đã bước chân vào hầu hết mọi lãnh vực của đời sống, cái mà ông
gọi là dấu vết của thời gian. Đó! Cũng là điều ông gọi là “lúc nào
cũng có nơi nào để đến”. Chính vì ý thức được vận mệnh của mình
và xác định rõ mục đích, lý tưởng của cuộc đời nên ông cũng luôn
trân trọng những nơi nào mà ông đặt chân đến, dù ở đó là tĩnh lặng
hay bão táp phong ba. W. Geothe là con người yêu thích và ca tụng
sự tĩnh lặng. Trong những khoảng lặng của cuộc sống, ông luôn dùng
để suy tư, sáng tạo. Ông đã tự tay làm những căn nhà gỗ trong rừng
để thường đến đó suy tư, sáng tác văn học, nghệ thuật… Ông nói
rằng những không gian yên tĩnh đôi khi vắng cả tiếng côn trùng

88
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
nhưng ông lại đặc biệt yêu thích vì nhờ đó tinh thần trí tuệ của ông
trở nên thông sáng hơn. Trong đời, ông cũng giống như bất cứ ai,
từng trải qua những giây phút của yếu đuối, thờ ơ chán chường, có
những ngày bệnh tật thập tử nhất sinh, cũng có lúc cảm giác như thất
vọng, thất bại bủa vây. Nhưng ông đã không hề bi quan, trái lại chính
nhờ những điều mà ông gọi là “bão tố” đó, ông coi là may mắn để
ông trưởng thành hơn trong vóc dáng là một con người vĩ đại.
Những điều đó như để minh chứng thêm giá trị cho lời của ông
đã nói. Để lại dấu vết cho cuộc đời là điều quan trọng và cần thiết.
Dấu vết tốt thì sẽ được người ta trân trọng, học đòi bắt chước và khơi
lên khát vọng vươn tới những điều cao quý tốt đẹp. Còn nếu là dấu
vết xấu thì người ta nhìn vào đó để lánh xa, cảnh giác và không đi
vào vết xe đổ. Dấu vết “đen” cũng có giá trị khi người đi sau lấy làm
bài học kinh nghiệm cho đời mình.
Điều mà W.Geothe muốn nhắn nhủ ta ở đây là “đừng” lãng phí
thời gian. Bởi vì tạo hóa thật công bằng khi ban phát cho con người
đồng đều thời gian, quan trọng là cách chúng ta khi đối diện với thời
gian và thái độ trong từng khoảnh khắc của cuộc đời, đó mới là điều
làm cho ta nên giá trị. Dấu vết của cuộc sống trở nên giá trị hơn khi
con người xác định cho mình một mục đích sống. Ý nghĩa của cuộc
đời phải được đặt nền trên sự trưởng thành của nhân cách và trí tuệ.
Chúng ta vươn tới ý nghĩa cuộc đời bằng đôi chân của trí tuệ và nhân
cách trưởng thành thì dấu vết chúng ta để lại sẽ thật tuyệt vời. Đó là
dấu vết đáng trân trọng và lưu giữ.
Tuy nhiên, trong cuộc sống này không phải ai cũng muốn để lại
dấu vết với thời gian bởi vì cái dấu vết phần nhiều là do sự đánh giá
của người khác chứ có thể chưa phải là giá trị thực của chúng ta. Cái
dấu vết mà người ta gán cho mình có khi lại mang giá trị ảo: “có
danh mà không có thực”. Đối với nhiều người, họ tự nguyện xóa

89
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
mình đi và sống một cuộc đời âm thầm hy sinh, phục vụ. Nhiều
người chỉ chủ trương sống tốt, sống trọn vẹn giây phút hiện tại để
chu toàn bổ phận, thiên chức là một con người trong gia đình, trong
xã hội. Họ dấn thân nhiệt thành để đem lại lợi ích, hạnh phúc ấm no
cho cuộc sống, cho con người là học thấy mãn nguyện; còn dấu vết
có để lại hay không là điều không quan trọng. Trong cuộc sống
chúng ta thấy có nhiều con người hi sinh âm thầm để phục vụ người
nghèo, những người bị xã hội bỏ rơi hay trong các trai phong hủi nơi
những miền đất xa xôi chẳng ai biết tới. Trong đạo Công giáo có rất
nhiều vị Thánh hiện thân của một tinh thần cao thượng như thế như
Thánh Phan-xi-xô Assi, Thánh Tê-rê-xa hài đồng Giêsu, Thánh Ca-
ta-ri-na Siena hay thánh Gioan Tẩy giả “Người phải lớn lên còn tôi
thì phải nhỏ lại”. Các Thánh nhân đã xóa mình một cách vui tươi và
quảng đại để cho tình yêu Đức Ki tô thực sự lớn lên. Còn chúng ta!
Chúng ta có dám “nhỏ lại” trong cái nhìn hẹp hòi ích kỷ, chúng ta có
dám nhỏ lại trong những ham muốn bất chính, chúng ta có dám nhỏ
lại trong sự ganh tị hận thù nhỏ nhen? Có nhiều người có “nhân cách
lớn” họ không để lại dấy vết của trí tuệ mà là dấu vết của con tim vao
dung yêu thương, đồng cảm thứ tha.
Đã sống trong thời gian con người ít nhiều gì cũng để lại dấu vết,
dấu vết đó có thể là tốt cũng có thể là xấu. Có người để lại dấu vết và
được người thời sau trân trọng và lưu giữ. Cũng có nhiều người để
lại dấu vết như một đống tro tàn lịch sử và bị gió cuốn bay như
Hitler, Stalin… Quan trọng nhất là đừng để lại dấu vết của sự ô nhục,
càn thiết để lại những dấu vết để người ta làm rực sáng lên chứ đừng
là dấu vết để người ta phỉ nhổ, xóa mờ.
Có thể nói để lại dấu vết của cuộc đời thì dễ nhưng để lại dấu ấn
với thời gian là điều khó làm hơn.

90
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Nói chung, có chủ trương để lại dấu vết trên cuộc đời hay không
là điều không quan trọng vì do lí tưởng sống của mỗi người. Điều
quan trọng và cần thiết hơn vẫn là thái độ sống của chúng ta trong
dòng chảy bất tận của thời gian. Chúng ta phải biết quý trọng từng
giây phút và mỗi khoảnh khắc của cuộc sống. Đừng để thời gian trôi
qua một cách vô ích mà hãy mặc cho nó một ý nghĩa. Biết quý trọng
thời gian chúng ta sẽ thấy cuộc đời rất đẹp, rất đáng sống dẫu có lúc
thời gian thời gian khiến ta phải sống trong mệt mỏi, đợi chờ. Bước
qua thời gian bằng một tâm thế lạc quan, tin tưởng chắc chắn ta sẽ
bắt gặp những phép màu của cuộc sống. Thời gian làm cho ta phải
sống trong ngóng chờ, nhưng rồi nó lại đền bù bằng những món quà
thật ngọt ngào kỳ diệu. Phải chăng đó là cái mà người ta gọi là vị
ngọt của thời gian.
Tóm lại, con người sinh ra, hiện hữu trên cõi đời này cần tìm cho
cuộc đời mình một ý nghĩa. Qua mục đích và lí tưởng sống lành
mạnh chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa cuộc đời. Thời gian sẽ đưa chúng
ta đi tới nhiều miền đất đôi lúc khiến ta cảm thấy xa lạ và choáng
ngợp. Thế nhưng mỗi miền đất đều có thể sinh hoa trái nếu con
người luôn biết quý trọng nâng niu và vượt qua một cách tươi vui, tin
tưởng. Thời gian có đưa ta đến một khung cảnh bình yên tĩnh lặng
hay một nơi đầy bão tố thì ta cũng không nên lo lắng hoảng sợ, tất cả
đều có giá trị cho sự lớn lên và triển nở cuộc sống của chúng ta.
Quan trọng là chúng ta ý thức được giá trị hiện hữu độc đáo của
mình trong cuộc sống này. Ai trong chúng ta cũng muốn để lại những
dấu ấn để đời hay trở thành những con người làm nên lịch sử, thế
nhưng điều đó có quá xa vời? Có một điều chúng ta phải chân nhận
rằng cái bất hủ, cái dấu ấn để đời chỉ là một bóng mờ đối với cái vĩnh
cửu trong Thiên Chúa tình yêu. Chúng ta chỉ cần ý thức sống trọn
vẹn giá trị hiện hữu của mình trong từng khoảnh khắc mà Thiên
Chúa ban tặng.

91
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Thiên Chúa không tạo dựng tất cả chúng ta đều là thiên tài để ai
cũng có thể để lại cho hậu thế danh thơm tiếng tốt của mình. Tuy
nhiên, tất cả mỗi người đều được tạo dựng như một kiệt tác tuyệt vời
của vũ trụ. Kiệt tác đó sẽ mãi mãi đi vào vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Chúng ta phải biết tận dụng thời gian để xây dựng công trình vĩnh
cửu đó. Mỗi việc làm của chúng ta dù âm thầm vô danh bé nhỏ đến
đâu, nếu làm với tình yêu lớn vẫn mang một giá trị vĩnh cửu.
Người viết: Jean.B.Biển Đức Ngô Đình Lưu
Nhận xét: Bài viết vận dụng đủ các thao tác bình luận. Tuy
nhiên, với một luận đề có nhiều vế, ta nên giải nghĩa gọn hơn; hoặc
có thể kết hợp giải nghĩa và lý giải từng vế, để cho mạch ý tưởng liên
tục hơn. Chúng ta cũng nên quan tâm đến sự cân đối (tương đối) của
hai phần giải thích và bình luận. Phần bình luận là phần trọng tâm
cần được khai triển sâu hơn. Có thể giải thích cô đọng, súc tích,
ngắn gọn hơn. Có nhiều cố gắng tham khảo, tìm hiểu về tác giả, do
đó, lập luận có cơ sở và thuyết phục. Nội dung bài viết thể hiện
nhiều suy nghĩ sâu sắc.

92
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Nguyễn Bỉnh Khiêm tâm sự:“Ta dại ta tìm nơi vắng
vẻ/ Người khôn người đến chốn lao xao.”Trần Tế Xương bình
luận:“Thế sự đua nhau nói dại khôn/ Biết ai là dại biết ai
khôn?”Anh suy nghĩ gì về lẽ dại khôn ở đời?
Bài làm
Cuộc sống con người được dện nên từ một chuỗi những kiếm tìm
và chọn lựa. Có những chọn lựa đưa đến hạnh phúc, có những chọn
lựa đưa tới đau khổ. Có những chọn lựa đưa tới thành công, nhưng
cũng có những chọn lựa đưa tới thất bại. Có những chọn lựa đưa đến
vinh quang và cũng có những chọn lựa đưa đến tủi nhục… Cuộc
sống con người luôn tiềm ẩn những điều trái ngược như thế. Dẫu
vậy, chúng ta cũng không dễ dàng nói được cho rạch ròi thế nào là
hạnh phúc-đau khổ; thế nào là thành công-thất bại; thế nào là vinh
hay nhục. Cũng thế, đã có ai định nghĩa thấu đáo lẽ dại khôn? Kinh
nghiệm sâu sắc về cuộc sống nhân sinh Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã tâm sự:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao.”
Còn Trần Tế Xương bình luận rằng:
“Thế sự đua nhau nói dại khôn
Biết ai là dại biết ai khôn?”
Vậy chúng ta suy nghĩ gì về lẽ dại khôn ở đời?
Tâm sự trên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được rút ra
trọng bài thơ “Nhàn”. Bài thơ thể hiện tư thế ung dung tự tại của
Nguyễn Bỉnh Khiêm, đồng thời cũng thể hiện phẩm hạnh và chỗ
đứng của người kẻ sĩ trong cuộc đời. Dại là thường chỉ về những con
người khờ khạo, ngu ngốc, dốt nát,… Còn khôn có ý chỉ những
người thông minh, sáng suốt, tài giỏi,…

93
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Nơi vắng vẻ là một không gian yên tĩnh, êm đềm. Chốn lao xao
là nơi ồn ào huyên náo, đây có ý nói đến một nơi có nhiều thủ đoạn
phức tạp.
Hai câu thơ như một cách nói ngược của tác giả tức là người “dại”
thường tìm đến nơi thanh tịnh, vắng vẻ êm đềm để thưởng ngoạn cuộc
sống trong sự đơn sơ bình dị. Còn người “khôn” thường tìm những nơi
xô bồ nhiều tranh giành thủ đoạn để tìm kiếm chút lợi danh.
Ở đây, “vắng vẻ”có thể nói đến một không gian, một nơi chốn yên
tĩnh, bình an. Có thể người ta tìm đến nơi vắng vẻ tìm lại sự bình yên
sau bao ngày rong ruổi nơi ồn ào nhiều căng thẳng, áp lực. Có thể người
ta tìm đến nơi vắng vẻ để tìm kiếm, thưởng thức sự sống của thiên nhiên
vạn vật. Cũng có thể người ta tìm đến nơi vắng vẻ tìm kiếm củng cố tri
thức hay tìm cảm hứng cho những sáng tạo nghệ thuật.
Hơn hết, người ta tìm đến nơi vắng vẻ là để thoát ly khỏi mọi đua
chen ồn ào, thoát ly ra khỏi cái “vòng danh lợi cong cong” nhiều rối
rắm. Chen chân vào chợ đời người ta thấy toàn là canh mua bán, đổi
chác, so đo tính toán thiệt hơn. Ở đó người ta thấy phẩm chất tư cách
của mình dễ bị hạ giảm, tâm hồn dễ vấy bẩn bởi bao thứ bon chen.
Tìm nơi vắng vẻ là câu trả lời cho vấn nạn làm sao luôn giữ cho lòng
mình được thanh khiết, bình an. Đến nơi vắng vẻ cuộc sống sẽ trả lại
cho con người sự thanh tịnh, an nhàn, thư thái.
Người “dại” tìm nơi vắng vẻ là để hiện thực hóa khát vọng được
sống sung mãn và triển nở trong những tương quan với vũ trụ với
con người và với chính mình. Cuộc sống đua chen ồn ào khiến người
ta chỉ sống thờ ơ, hời hợt với mọi mối tương quan. Người ta cảm
thấy cuộc sống đơn điệu và tẻ nhạt khi phải vùi đầy vào một thái độ
sống như thế. Khi đến nơi vắng vẻ người ta sẽ sống một cuộc sống có
chiều sâu với nguyên vẹn những giá trị cao đẹp. Nơi vắng vẻ có thể
con người mới sống trọn vẹn một tương quan với vũ trụ, với đồng
loại và với chính mình.

94
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Có một lão ngư phủ quanh năm suốt tháng luôn hài lòng với một
cuộc sống thanh bình yên ả nơi làng chài yêu dấu của ông. Sáng sớm
ông ra ngắm bình minh rồi dong thuyền ra biểu bắt mấy con cá về
cho gia đình. Về nhà ông trò chuyện vui đùa với mấy đứa rồi cùng
giúp vợ việc nhà và cùng nấu bữa ăn ngon. Cuộc sống của ông và gia
đình thật ấm êm hạnh phúc nơi xóm nhỏ bình yên. Bỗng một hôm, có
một ông chủ giàu có và đầy quyền lực của một ngân hàng đầu tư ở
New York đi nghỉ mát và gặp ông. Vị khách lân la trò chuyện với lão
ngư phủ với vẻ đầy ngạc nhiên, nhàm chán vì cuộc sống “tầm
thường” của lão ngư phủ. Vị khách đã vẽ ra nhiều cách thức để lão
ngư làm giàu hầu thoát khỏi cảnh sống nghèo nàn nơi đây. Nhưng
người như phủ đã đáp lời với cặp mắt long lanh:
-Vâng, tôi giàu có, tôi sang trọng và đầy quyền lực nơi đô thành
rồi sau đó có phải ông sẽ khuyên tôi đến một ngôi làng nhỏ yên tĩnh
bên bờ biển, buổi sáng không cần dậy sớm, mỗi ngày chỉ cần bắt
mấy con cá rồi về chơi đùa với mấy đứa trẻ; Tối đi bách bộ với bà xã
gặp bạn bè, ngắm trăng sao, nhấm nháp vài ngụm bia vừa chơi đàn
guitar vừa ca hát.
Có lẽ đó là một cuộc sống hạnh phúc thực sự mà ít ai cảm nhận
được một cuộc sống đầy an lạc không cần phải nơi chốn thành đô
hay phải trở nên những con người giàu có đầy quyền lực. Chính ông
chủ ngân hàng giàu có và quyền lực kia cũng đang đi tìm cuộc sống
bình yên, thư thả mà chính ông cũng vô tình không nhận ra.
Ngày xưa những con người đầy danh giá quyền uy như Nguyễn
Khuyến, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chọn cách lui về chốn làng quê
để ngao du sơn thủy, để tìm thú vui nơi ruộng vườn với từng cánh
hoa ngọn cỏ.Vậy tại sao người “khôn” lại tìm đến chốn lao xao, chốn
lao xao đây là chốn nào?

95
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Chốn “lao xao” có thể là một không gian đông người qua lại ồn
ào huyên náo. Ở đấy, người ta có thề tìm được nhiều âm thanh của
tiếng nói cười, tiếng cãi vã tranh chấp, có nhiều lời hay nhưng cũng
không thiếu những lời lẽ thô thiển, thiếu văn hóa.
“Chốn lao xao” ở đây ý nói đến một cuộc sống đầy những đua
chen tranh giành, thủ đoạn. Vì danh, lợi, sắc người ta tìm mọi cách
để chiếm hữu cho bằng được. Vì lợi ích riêng tư người ta sẵn sàng
làm tổn thương bất cứ ai kể cả một tập thể. Nhiều lúc người ta sử
dụng những thủ đoạn xấu xa, bỉ ổi để đoạt cho được lợi danh.
“Chốn lao xao” cũng có thể là những nơi người ta đến để ăn chơi,
mua vui, tìm trò tiêu khiển. Những chốn hào hoa là điểm đến lý tưởng
của những người cho rằng mình khôn ngoan, rành đời. Ở nơi đó có thể
nói là những cuộc những cuộc chơi làm cho người ta thấy thích thú,
nhưng sau đó nhanh chóng khiến họ lạc lõng , thất vọng.
Trong cuộc sống, ở đâu chúng ta cũng dễ dàng nhìn thấy có
những người thích đến chốn lao xao. Lao xao của quyền lực, lao xao
của tiền bạc, lao xao của những thú vui…
Trong xã hội, thời nào người ta cũng nghe nhắc đến tham quan,
hối lộ tranh quyền đoạt vị, chạy chọt chức tước… Mới đây chúng ta
thấy có rất nhiều quan chức cao cấp của Liên Đoàn bóng đá thế giới
lần lượt bị sa thải vì dính líu đến tiêu cực bóng đá và tội tham nhũng
rửa tiền. Sau đó không lâu ông Sepp Blatter, chủ tịch Fifa cũng tuyên
bố từ chức. Ông đã ngồi trên ghế chủ tịch đến khóa thứ năm. Nhưng
lần này sau khi đắc cử không lâu, ông đã nói lời từ ngai “vì áp lực từ
nhiều phía”.
Qua đó cho ta thấy rằng trong cuộc sống có những người “dại” đã
tìm đến nơi vắng vẻ để thưởng thức một đời sống bình yên. Cũng có
những người “khôn” tìm đến chốn lao xao để phải đương đầu với
muôn rối rắm của cuộc đời.

96
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Ở đây hai câu thơ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lột tả
được phần nào cái lẽ dại khôn của cuộc sống con người. Trạng Trình
đã sử dụng lối nói ngược để thể hiện một tâm sự vừa ngạo nghễ tự
hào chua xót mỉa mai. Ông tự hào vì mình “dại” nhưng thực chất là
khôn, và những kẻ “khôn” lại hóa dại khờ. Nhìn vào cuộc đời của
Nguyễn Bỉnh Khiêm chúng ta thấy sáng lên triết lý sống của ông. Từ
thuở nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm có tiếng là học rộng tài cao, nhưng
ông ưa thích đời sống ẩn dật thanh bình nơi thôn quê, ông không
tham gia thi cử gì cả. Đến năm 45 tuổi bỗng nhiên ông lại đi thi và
đậu đạt, sau đó ra làm quan cho triều Mạc. nhưng vì bất mãn với
triều đình, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lui về ở ẩn tìm nơi “vắng vẻ” để
thoát ly khỏi cảnh đua chen nơi chốn quan trường.
Chúng ta biết rằng con người thì có dại, có khôn, đôi khi dại và
khôn nằm sát cạnh nhau khiến ta cũng khó lòng mà xét đâu là dại đâu
là khôn. Vì thế nhà thơ Trần Tế Xương đã bình luận lẽ dại khôn
rằng:
“Thế sự đua nhau nói dại khôn
Biết ai là dại biết ai khôn.”
Trần Tế Xương lớn lên trong thời cuộc đất nước có nhiều ly loạn
rối ren. Ông không muốn hòa mình vào cuộc sống đua chen ngột
ngạt không lối thoát, ông cũng không muốn hợp tác với cái văn minh
trong thơi kì mất nước. Giữa bao rối rắm mà mọi người tìm cách
chen chân vào thì Tú Xương lại tách mình khỏi đó. Từ đó ta thấy con
người của Tú Xương luôn đề cao và yêu thích sự tự do, không chịu
luồn cúi để làm nô lệ. Có thể nói, nếu đem triết lý sống của Tú
Xương so sánh với các triết lí của các nhà chiến sĩ yêu nước xả thân
vì nước lúc bấy giờ thì triết lý của Tú Xương có phần nhạt nhẽo, vô
vị. Nhưng nói cho cùng, cách sống của Tú Xương đã phần nào phản
ánh được tâm trạng của lớp người sống trong thời buổi không đành

97
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
tâm theo giặc cũng không cầm vũ khí chống giặc. Có thể người đời
sẽ nói là Tú Xương dại nhưng đối với ông “biết ai dại, biết ai khôn?”
Vậy thì người đời quan niệm thế nào về lẽ dại khôn?
Chắc chắn, mỗi người tùy vào hoàn cảnh, nhận thức, tùy vào thời
đại cũng như bối cảnh của nền văn hóa mà có những quan niệm khác
nhau về dại khôn. Có người bảo khôn là kiếm được nhiều tiền, sở
hữu nhiều tiện nghi vật chất; có người lại coi đó là dại, họ cho rằng
người khôn là người sống đơn sơ giản dị nhưng hướng về các giá trị
tinh thần nhiều hơn. Có người bảo khôn là phải làm sao có được
quyền cao chức trọng, tiền hô hậu ủng; người khác thì bảo khôn là an
phận không dính dáng gì đến quyền lực, lợi danh. Có người bảo khôn
là sống lọc lừa, biết luồn cúi để tiến thân; nhưng có người lại bảo
khôn là sống chân thật, ngay chính, chẳng cần luồn cúi để phải sống
nhục. Có người bảo khôn là học rộng tài cao, bằng cấp đầy mình;
người khác lại cho rằng người khôn là người có nhiều đức độ, nhân
hậu và từ bi… Nói chung cuộc sống thì có kẻ dại người khôn, dại
khôn cũng lệ thuộc nhiều yếu tố cấu thành.
Tuy nhiên ranh giới giữa dại và khôn nhiều lúc là rất mong manh,
nó cứ như hai mặt của một đồng tiền vậy. Lắm lúc trong dại có khôn
và trong khôn có dại. Có người đi ra đường gặp cảnh tai nạn vì
thương người nên ra tay cứu chữa cho nạn nhân cách nhiệt tình,
nhưng sau đó lại bị chính nạn nhân vu khống cho người giúp đỡ đó là
kẻ gây ra tai nạn. Thế là có người thì bảo sao mà dại thế ra đường mà
gặp như vậy thì phải tránh cho xa, nhưng có người khác lại nói rằng
đó là một nghĩa cử nhân ái, đó là dấu kẻ khôn. Cũng vậy, có một thời
người ta thấy có những mảnh đất đẹp nơi trung tâm thành phố người
ta đào xới rồi trồng cây. Có nhiều người bảo sao khu đất đẹp như thế
mà mấy ông vô công rồi nghề trồng cây xanh, sao không dùng khu
đất mà xây dựng hạ tầng phát triển kinh tế. Những mấy mươi năm

98
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
sau khu đất giờ đây trở thành công viên với nhiều cây cổ thụ ngút
ngàn. Bấy giờ nó đã trở nên lá phổi của thành phố. Nếu không có nó
thì thành phố sẽ khô nóng như sa mạc. Thế mới biết là ai dại ai khôn?
Thực tế là, nhiều khi cùng một hành vi mà người này cho là dại,
kẻ khác lại bảo khôn. Vậy có tiêu chuẩn nào để đánh giá cho tường
tận lẽ dại khôn?
Có hai yếu tố người ta thường đánh giá dại khôn. Về yếu tố chủ
quan dại hay khôn là do nhận thức và hành động của từng người. Mỗi
người có một quan điểm dại khôn khác nhau. Còn về khách quan dại
hay khôn là do nhận thức đánh giá của dư luận. Cùng một con người
một hành động, có người bảo dại có kẻ nói khôn, kẻ khác lại bảo vừa
dại vừa khôn. Vì thế, tiêu chí đểđánh giá dại khôn rất mơ hồ.
Tiêu chẩn để đánh giá lẽ dại khôn ở đời là tiếng nói của lương
tâm và mọi luân thường đạo lý cũng như mọi quy chuẩn nguyên tắc
luật lệ của xã hội.
Nhà thơ Trần Tế Xương nói rằng:
“Khôn nghề cờ bạc là khôn dại
Dại chốn văn chương là dại khôn.”
Trong cuộc sống con người, có trăm ngàn cái dại khôn như vậy,
có người nói rằng khôn mà gian ác hiểm độc là khôn dại, dại ấy hiền
lành nhường nhịn là dại khôn. Khôn mà sống ích kỷ, hại người là
khôn dại, còn người dại mà rộng lượng, thương dân giúp nước là dại
khôn. Khôn mà mua bằng, chạy chức luồn cúi trước sau là khôn dại,
dại mà đức luyện, tài rèn để trở nên người liêm chính thành thật là
dại khôn. Vậy, chúng ta thấy rằng điều gì hợp với lương tâm, đi đúng
quy chuẩn của luân thường đạo lý là điều khôn, và ngược lại điều gì
trái với lương tâm đi ngược lại với những quy tắc của luân thường
đạo lý là điều dại. Vậy, làm thế nào để bớt dại thêm khôn và làm sao
để dung hợp lẽ dại khôn cho thỏa đáng?

99
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Cuộc sống thì có kẻ dại người khôn và đã là con người thì có lúc
dại cũng có lúc khôn, chẳng có ai dại suốt đời và chẳng có ai khôn
suốt kiếp. Vì thế kẻ dại người khôn đều có một giá trị nhất định trong
tương quan con người với nhau. Thực tế thì có dại mới trở nên khôn,
biết mình dại thế nào rồi khiêm nhường học hỏi, rèn luyện để có
được cái khôn. Cũng vậy, ai khôn là biết mình còn dại, nhờ vậy mới
không ngừng nỗ lực để hoàn thiện cái khôn của mình. Đứng trong
cuộc đời chẳng có ai dám tự hào mình đã thực sự khôn, nhiều lúc
khôn ba năm dại một giờ.
Nhờ có người dại mà ta biết có kẻ khôn, cũng vậy nhờ có kẻ
khôn mà ta biết có kẻ dại. Trong cuộc sống người khôn phải có trách
nhiệm giúp đỡ hướng dẫn cho kẻ dại. Còn kẻ dại thì phải biết mở
lòng để trau dồi học hỏi điều khôn.
Trong cuộc đời lẽ dại khôn luôn có tương quan tương hỗ bù đắp
cho nhau. Ngắm nhìn hình ảnh khu rừng ta thấy có rất nhiều cây cao
lớn và cũng có những loài cây dại, những thảm thực vật ở sát đất. Có
thể nói rằng những cây đại thụ là những cây “khôn” vì chúng vươn
mạnh lên để hướng ánh nắng mặt trời còn những cây nhỏ dưới đấy là
những cây “dại”. Mặt khác những cây đạithụ cao lớn kia lại là những
cây dại vì vươn càng cao thì phải chịu nắng, mưa, phong ba bão táp
nhiều hơn, còn mấy cây nhỏ dại ở dưới đất thì lại trở nên khôn vì
chúng được che mưa, ngăn nắng an toàn., chẳng bị gãy giập hay
thiêu đốt…
Tuy nhiên, hình ảnh của hai loại cây đó lại là một sự sắp đặt có
chủ đích của tạo hóa. Cây đại thụ che chắn nắng mưa cho cây nhỏ thì
cây nhỏ lại giúp gốc cây to khỏi bị xói mòn và tạo nên phân mùn khi
nó phân hủy. Điều đó làm nên sự cân bằng cho cấu trúc hệ sinh
thái.Trong cuộc sống ta thấy những ông chú, cũng có những đầy tớ;
có những người lãnh đạo và cũng có kẻ dấn thân, tranh đấu chốn

100
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
quan trường,… tất cả đều góp phần tạo nên một cuộc sống tốt đẹp,
chẳng quan tâm ai dại ai khôn.
Đời người ai cũng có lúc dại lúc khôn. Chẳng có ai khôn mà chưa
một lần lỡ dại cũng chẳng có ai dại mà chưa một lần nên khôn. Kẻ
nhiều tiền nhiều quyền chắc gì đã không dại và người nghèo khổ hèn
kém hẳn đã không khôn? Ngẫm suy điều đó để mỗi người ý thức
thân phận dại khôn của mình, đồng thời cũng biết trân trọng cái khôn
của người khác và thông cảm, thứ tha cho cái dại của họ. Có thể cái
dại của người hôm nay cũng là cái dại của ta. Sống tôn trọng và tha
thứ cho nhau ta sẽ có thể biến cái dại của người khác nên cái khôn
cho mình và cái khôn của người thành sự hoàn thiện nơi ta.
Quan trọng nhất là đừng bao giờ cho mình là người khôn mà
khinh thường lấn lướt người khác. Những người dại cũng đừng bao
giờ tự ty mặc cảm vì thấy mình vô dụng, bất tài. Trái lại phải luôn
vươn lên, trau dồi nhân cách của mình để trở thành người khôn thực
sự. Dù đôi khi người khác cho ta là dại thì ta vẫn có một giá trị nào
đó trong trời đất này. Chúng ta thấy nhiều lúc cành gỗ vứt đi còn có
người kiếm củi nhặt về, hòn đá cuội có xấu, thợ ngọc vẫn dùng,…
trong trời đất này, không có vật gì là để vứt bỏ, huống chi là con
người tinh khôn hơn vạn vật lẽ nào ta không có chút giá trị nào đó ư?
Hoa A Lưu là chú tiểu đồng giúp việc cho nhà ông Chu Nguyên
Tố. A Lưu ngây ngô đến nỗi, sai đi quét nhà một buổi sáng cũng
không sạch cái phòng nhỏ. Được sai ở nhà đón khách thì chẳng nhớ
mặt, biết tên ai. Chu Nguyên Tố sai A Lưu trông cây liễu mới trồng
trước sân thì lúc vào ăn cơm, cậu lại nhổ cây liễu vào nhà để trông,…
Một người ngây dại như A Lưu tưởng là người vô dụng bỏ đi thế mà
sau này A Lưu đã trở thành danh họa nổi tiếng nhờ thầy Chu Nguyên
Tố biết dụng nhân. Cũng có ai đó đã nói rằng “chớ cậy mình khôn
mà khinh chê kẻ dại vì gặp thời dại cũng hóa thành khôn.”

101
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đối với những người Ki tô hữu, những người tu sĩ chúng ta sống lẽ
dại khôn thế nào đây? Và lẽ khôn ngoan đích thực của chúng ta là gì?
Trong thư thứ nhất của thánh Phao lô tông đồ gửi tín hữu
Côrintô, Ngài quảng diễn rằng: “Thật thế, lời rao giảng về thập giá là
một sự điên rồ đối với những ai đang trên đà hư mất, nhưng đối với
chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của
Thiên Chúa. Vì có lời chép rằng: ta sẽ hủy diệt sự khôn ngoan của kẻ
khôn ngoan và sẽ vứt bỏ sự thông thái của người thông thái. Người
khôn ngoan đâu? Người học thức đâu? Người lý sự thời này đâu?
Thiên Chúa lại đã không để cho sự khôn ngoan của thế gian ra điên
rồ đó sao…” Ngài còn thêm: “Cho nên Thiên Chúa đã muốn dùng lời
rao giảng điên rồ để cứu những người tín trung khi người Do Thái
đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ
khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki tô chịu đóng
đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận và
dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với ai được Thiên Chúa kêu gọi
dù Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy là chính Đức Ki tô, sức mạnh và sự
khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn
cái khôn ngoan của loài người,… Những gì thế gian cho là điên dại
thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan và những
gì thế gian cho là yếu kém thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những
kẻ hùng mạnh…
Bởi theo Đức Kitô chúng ta sẽ bị người đời cho là điên dại và hèn
mạt. Họ bảo rằng tại sao mọi vinh hoa, lợi lộc hưởng thụ thế gian
không chọn lại đi chọn thập giá cho rõ khổ, thật là dại. Tất nhiên đó
là những nhận xét thiếu hiểu biết. Thiên Chúa mà người ta còn cho là
điên dại thì chúng ta là gì. Con người vẫn luôn tự hào mình khôn
ngoan, họ có thể làm được tất cả mọi sự nhưng sự khôn ngoan đó lại
trở nên khờ dại trước mặt Thiên Chúa. Vì đức tin và tình yêu mà

102
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Thiên Chúa đã gieo vào lòng, chúng ta chấp nhận trở nên những
người “điên dại” để có thể cứu vớt những người “khôn ngoan” và
dẫn đưa họ về với cội nguồn khôn ngoan là chính Chúa. Sự khôn
ngoan đích thực phát xuất từ Thiên Chúa là Anpha và Omega, khởi
nguyên và tận cùng của thế giới. Tìm kiếm lẽ khôn của Thiên Chúa
đòi hỏi ta phải thực hiện một cuộc “tẩy não” vì trong ta vẫn còn
nhiều sự khôn ngoan của thế gian. Có được sự khôn ngoan của Chúa
là chúng ta có được ơn cứu độ.
Tóm lại, lẽ dại khôn ở đời cứ như một “cái vòng cong cong”. Vì
thế để đánh giá kẻ dại người khôn là điều rất chủ quan và mơ hồ,
ranh giới giữa cái lẽ dại khôn ở đời là rất mong manh. Con người
chúng ta có một thời khờ dại để một thời được nên khôn. Chê bai
người dại là chúng ta đang hạ giá cái khôn của mình. Là người khôn
chúng ta phải có trách nhiệm đem những gì tốt đẹp nhất để phục vụ
con người phục vụ xã hội. Điều quan trọng chúng ta đừng tự hào
mình khôn rồi muốn làm gì thì làm. Chúng ta có phải là người khôn
khi hành động lời nói việc làm của chúng ta làm cho bao người phải
sống trong tủi nhục đau khổ.
Là người khôn chúng ta đừng dễ dàng đánh giá dại khôn theo dư
luận. Muốn biết dại khôn thì ta phải sống phải trải nghiệm từ đó mới
biết ta biết người. Lẽ dại khôn ở đời là cái nhãn mác mà người khác
dán cho ta. Điều quan trọng là ta phải sống theo tiếng nói của lương
ngay chính và tuân theo mọi chuẩn mực của luân thường đạo lý,
khôn hay dại phát xuất từ chính cõi lòng của ta. Có ai đó đã phát biểu
rất sâu sắc rằng: “cái khôn của con người không phải tính bằng việc
hơn thua bao nhiêu tuổi mà no xoáy vào chiều sâu của cảm nhận mỗi
người, cách nhìn sự việc và xử sự nơi cuộc sống. Có những kẻ sống
gần trăm năm mà tưởng như đã chết từ thuở lọt lòng mẹ!”

103
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Chúng ta là những môn đệ đi theo Chúa Ki tô – đấng đã trở nên
sự khôn ngoan đích thực cho chúng ta. Đó là sự khôn ngoan của thập
giá. Sự khôn ngoan của Chúa Ki tô đã làm cho chúng ta nên công
chính, đã thánh hóa và cứu chuộc chúng ta. Vì thế chúng ta phải biết
khát khao sự khôn ngoan đích thực bằng con đường tự hủy phục vụ
và yêu thương như Chúa. Cuối cùng, sự khôn ngoan ấy sẽ dẫn đưa
chúng ta đến cội nguồn, khôn ngoan đích thực mà vịnh gia đã từng
cảm nghiệm.
Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi
Hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.
Người viết: Biển Đức Nguyễn Đình Lưu
Nhận xét: Bài viết thực hiện đúng phương pháp nghị luận, vận dụng
kỹ năng giảng giải văn chương ở mức độ vừa phải, và sau đó tập trung
bình luận vấn đề. Về nội dung, bài viết đã đưa ra tiêu chí để phân định
lẽ dại khôn, đồng thời nêu rõ suy nghĩ về ranh giới mong manh giữa dại
và khôn. Quan điểm của bản thân còn hàm chứa đôi nét do dự khi phải
phân định. Biết ai dại, biết ai khôn!

104
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Hãy bình luận câu nói sau: “Đỉnh núi chẳng phải là
mục tiêu chinh phục của ta, mà điều ta cần vượt qua là chính
bản thân mình”
Bài làm:
Ông cha xưa đã từng nói: “Dò sông dò biển chứ ai đo được lòng
người”. Nói như thế đủ để thấy rằng bản thân con người tự bản chất
đã là một sự vật không dễ dàng để có thể nhận biết, đánh giá một
cách tường tận. Và cũng chính vì thế mà chúng ta luôn quan niệm
được rằng hiểu biết thấu đáo con người mình để rồi vượt qua cái bản
ngã ấy hầu đạt được những mục đích cao đẹp hơn mới thực là cái
đích mà mỗi người cần phải đạt đến. Vì vậy có người đã từng nói:
“Đỉnh núi chẳng phải là mục tiêu chinh phục của ta, mà điều ta cần
vượt qua là chính bản thân mình”.
Câu nói trên mang nặng một triết lí uyên thâm. Còn với mỗi
người chúng ta, chúng ta nhận định và quan niệm như thế nào về triết
lý ấy và về chính bản thân mỗi con người chúng ta.
Trong cuộc sống, mỗi người đều có một bản ngã riêng trong cuộc
đời mình. Bản ngã ấy đánh dấu sự khác biệt giữa người này với
người kia: “Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh” là thế. Tuy nhiên,
cách thức mà mỗi người nhận định, đánh giá về bản thân mình lại rất
khác nhau. Và đa số mọi người đều phải thừa nhận rằng chính tôi
cũng chưa thực sự biết hết về bản thân tôi. Chính việc khó nhận biết,
đánh giá chính xác về bản chất, con người của mình như thế mà đôi
thì chúng ta đã chọn sai đi mất mục đích và hướng đi cho cuộc đời.
Đây là một trong những suy tư mà tác giả muốn nói tới trong câu nói
trên. “Đỉnh núi” là điểm cao nhất của một ngọn núi, và để chinh phục
được nó đòi hỏi người leo núi phải có một quyết tâm cao, một sự can
đảm mạnh mẽ. “Đỉnh núi” ở đây cũng chỉ những khó khăn, vất vả mà
con người phải vượt qua trong cuộc đời mình. “Bản thân mình” là tất

105
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
cả những gì tồn tại trong mỗi con người, có cả vật chất lẫn tinh thần.
Nơi đó tồn tại rất nhiều những điều kì diệu, có đôi khi bí ẩn, và cả
những bất toàn mà không phải ai cũng dễ dàng khám phá hay vượt
qua được. Câu nói: “Đỉnh núi chẳng phải là mục tiêu chinh phục của
ta, mà điều ta cần vượt qua là chính bản thân mình”, hàm chứa một
triết lí sống rất sâu sắc, rằng trong cuộc sống mỗi người chúng ta,
chắc chắn không thiếu những khó khăn, vất vả phải vượt qua. Tuy
nhiên đó lại chưa phải là mục đích chính của cuộc đời mình. Nhưng
một điều thực sự cần thiết cho hết thảy mọi người là chúng ta biết
nhìn nhận đúng đắn về con người của mình, để rồi từ đó lướt thắng,
hướng tới đạt những mục đích, thành quả cao đẹp hơn.
Như thế, xét trên khía cạnh của đời sống thể chất con người thì
câu nói trên thực sự rất xác đáng. “Đỉnh núi” thực chất là một vật thể
vô tri giác, việc chinh phục nó chỉ là để thỏa mãn nhu cầu của con
người. “Còn bản thân mình”, một vật thể cao hơn về mặt sinh học,
nơi đó tồn tại cả giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần và không dễ dàng
để có thể nhận biết một cách đầy đủ, xác đáng bởi nó biến chuyển
từng ngày, từng giờ. Nó làm cho chính cá nhân con người đó khó
đánh giá và càng khó để vượt qua.
Cuộc sống luôn đòi hỏi con người phải biết phân định các giá trị
một cách chính xác. Ở đây cũng thế, nhận biết, đánh giá chân thành,
khôn ngoan về con người mình, cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực, để
rồi vượt qua mới thực sự là căn nguyên cho những nỗ lực để lượt
thắng những khó khăn ở đời. Hai hình ảnh “đỉnh núi” và “bản thân
ta” đi cùng với hai từ “chinh phục” và “vượt qua” cho ta thấy điều
đó. Khi “chinh phục” một “đỉnh núi” hay những khó khăn trong cuộc
sống, chúng ta sẽ lại phải leo xuống mà không thể tiến thêm nữa.
Thành công và vinh quang đạt được sau những nỗ lực không biết mệt
mỏi của ta cũng thế, cũng sẽ chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định,

106
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
rồi tan biến đi. Nhưng “vượt qua bản thân mình” thì lại khác. Bởi khi
“vượt qua” rồi chúng ta sẽ còn tiếp tục đi, tiến tới những gì đẹp để,
cao cả hơn. Vượt qua được bản ngã, con người mình chúng ta sẽ
vững vàng tiến bước trong cuộc sống. Niềm vui chiến thắng sẽ tồn
tại mãi trong mỗi con người chúng ta. Hơn thế nữa, những nổ lực, cố
gắng mà chúng ta bỏ ra để vượt qua những chông gai, thách đố ở đời
lại phát xuất từ chính nỗ lực vượt thắng con người của mình. Giống
như một vận động viên leo núi, quyết tâm và ý chí can đảm của anh
ta để chinh phục một ngọn núi cao phải xuất phát từ chính nỗ lực
lướt thắng, vượt qua sự sợ hãi của con người mình. Cùng với đó là sự
nhìn nhận, đánh giá về khả năng của bản thân để rồi phát huy, bồi bổ
thêm những gì còn thiếu cho mục đích chinh phục đỉnh núi của mình.
Hấn chúng ta vẫn còn nhớ gương sáng của thầy giáo Nguyễn Ngọc
Ký. Thầy bị liệt hai tay từ nhỏ nên phải tập viết bằng đôi chân của
mình. Để có thể thành công được như thế, chắc chắn một điều rằng
danh tiếng không phải là thứ quan trọng nhất để thầy phấn đấu, để
đạt được nhưng chính sự nhìn nhận, đánh giá và vượt thắng những
mặc cảm nội tại trong con người đã thúc đẩy và trợ lực để thầy kiên
trì đạt được thành công. Những vận động viên khuyết tật trong
paragames cũng thế. Chắc chắn một điều là những vinh quang,
những huy chương không phải là cái cốt lõi làm động lực cho họ cố
gắng, chính phục nhưng chính là ý thức vượt qua chính mặc cảm,
bệnh tật nơi con người mình đã trợ lực, thêm sức cho họ trên bước
đường của cuộc đời.
Như vậy, xét trên khía cạnh của đời sống thể lý thì câu nói: “Đỉnh
núi chẳng phải là mục tiêu chinh phục của ta, mà điều ta cần vượt
qua là chính bản thân mình” mang những ý niệm rất đúng đắn, sâu
sắc. Tuy nhiên, không hẳn lúc nào chúng ta cũng cho rằng “đỉnh núi”
hay những khó khăn trong đời sống hằng ngày không phải là mục

107
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
tiêu để ta chinh phục, vượt qua. Bởi những thành công, hạnh phúc có
được trong cuộc sống dẫu rằng ngắn ngủi, nhưng nó nói lên những
hy sinh, cố gắng của mỗi người trong chúng ta, làm cho cuộc sống
chúng ta thêm phong phú, thi vị. Hơn thế nữa, lướt thắng bản thân
nhưng không thể hiện qua hành động, không có mục tiêu để phấn đấu
xem chừng sự lướt thắng đó vẫn còn gì dở dang, uổng phí.
Trong đời sống tâm linh của chúng ta cũng vậy, không hẳn mỗi
chúng ta chỉ biết vượt qua mình mà thôi là đủ, nhưng còn phải tiến tới
những mục đích cao đẹp hơn nữa đó là nên thánh, là sự sống đời sau.
Là những Thỉnh sinh đang tập bước trên con đường ơn gọi thánh hiến,
nếu chỉ “vượt qua” con người mình mà nhắm tới chức linh mục hòng
mơ tưởng vinh hoa, danh dự mà thôi thì thật là thiếu thiếu xót bởi căn
nguyên của thiên chức ấy phải là phương tiện giúp chúng ta cũng như
những người khác có được sự sống đời đời nơi Thiên Chúa.
Vinh quang và thành công trong cuộc sống là điều mà mỗi người
chúng ta luôn phải nổ lực để đạt được. Nhưng thành quả ấy không
quan trọng cho bằng việc chúng ta biết lướt thắng, vượt qua con người
yếu đuối, bất toàn của mình. Nhận thức đúng đắn được điều đó, chúng
ta sẽ có hướng đi vững chắc, rõ ràng cho cuộc đời mình để những vinh
quang, hạnh phúc của chúng ta được trọn vẹn, lâu bền hơn.
Tên gọi: Gioakim Phạm Văn An

108
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề tài:Câu hỏi: “Nếu con người chỉ tử tế vì sợ bị trừng phạt
và hi vọng được ban thưởng thì chúng ta thực sự là số phận đáng
thương”. (A. Einstein) Theo bạn, chúng ta nên sống tử tế vì mục
đích nào?

Bài làm:
Sau những bộn bề lo toan của một ngày sống, chắc hẳn mỗi
người sẽ đi tìm cho mình một góc riêng để nghỉ ngơi, thư giản, thả
hồn. Những giây phút yên tĩnh, lắng đọng lúc đó sẽ giúp chúng ta dễ
hồi tâm về một ngày sống vội vã trôi qua. Thời gian dường như trôi
chậm lại theo nhịp thở thanh thản của một trái tim bình yên. Sống là
cho hiện tại. Cuộc sống đã đi quá nhanh. Chúng ta vô tình để cho
những điều tốt đẹp theo đó lặng lẽ vụt bay. Một nụ cười, một lời
chào, một cử chỉ yêu thương cũng đủ làm ấm lòng người. Aesop, một
triết gia và là nhà kể chuyện ngụ ngôn lừng danh đã nói: “không có
hành động tử tế nào, dù nhỏ nhặt đến đâu, từng bị xem là phí phạm”.
Chúng ta đừng để ngày mai mới đối xử tốt với nhau, hãy sống trong
giây phút này. Nhưng chúng ta chưa đủ can đảm để bày tỏ tình cảm
một cách chân thành. Một rào cản vô hình đang ngăn chúng ta lại.
Chúng ta phải hiểu rằng: “nếu con người chỉ tử tế vì sợ bị trừng phạt
và hi vọng được ban thưởng thì chúng ta thực sự là số phận đáng
thương”. Nhà bác học lừng danh Einstein đã cảm nghiệm cuộc đời
mình để chia sẻ với đời bài học bổ ích đó. Câu nói làm tôi trầm tư
khá lâu. Đây không chỉ là một lời nói xuất phát từ một trái tim nhạy
bén của nhà bác học mà còn là tiếng nói đánh động bất kì ai.
Câu hỏi đặt ra trong suy nghĩ của tôi ngay sau khi đọc câu nói
này là điều đó có ý nghĩa gì? Tại sao Einstein lại nói như vậy? Tôi
biết Einstein là nhà khoa học lỗi lạc nhưng gặp phải số kiếp chênh
vênh. Vì che giấu thân phận người gốc Do Thái, Einstein phải đeo

109
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
mặt nạ cho chính mình. Ông đã tìm đến với một lối thoát: “nhiệm vụ
của chúng ta là tự giải phóng bản thân bằng cách làm rộng vòng tròn
của lòng trắc ẩn để ôm lấy mọi sinh vật sống (tôi nghĩ trong đó có
con người) và tất cả sắc đẹp của thiên nhiên”. Ông tránh né mọi
thành công để tìm lấy góc riêng sống trầm tư và suy nghĩ về công
việc. Mọi thứ ân thưởng chỉ là vô nghĩa nếu ta chỉ dừng lại ở đỉnh
cao và không bao giờ ngó xuống nữa hay tiến lên nữa. tôi đang nói
về khoa học. Còn đạo đức thì sao? Tử tế ta có thể hiểu là việc “có
được tương đối đầy đủ những gì thường đòi hỏi phải có để được coi
trọng, không phải sơ sài, lôi thôi hoặc thiếu đứng đắn” (Từ điển
Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học 1992). Đó là điều nên làm. Ta đọc
tiếp “tử tế vì sợ bị trừng phạt và hi vọng được ban thưởng”. Tới đây,
ta phải xem xét lại. Điều đó không còn là một chuẩn mực mà trở
thành một đòi hỏi vụ lợi. Ta cũng đừng vội vàng kết án cách sống đó.
Einstein chỉ dừng lại trong cái nhìn về số phận đáng thương”. Con
người ấy nên được xót thương hơn là bị lên án. Bản thân Einstein đã
nếm chịu bị cảnh ấy, bị cảnh của những người đáng thương. Einstein
đang cố gắng giải bày tâm sự với ta. Nếu một chiều vắng, cùng
Einstein đi trên con đường trải nắng vàng của thời giao mùa xuân hạ,
thoang thoảng làn gió mát, thì ta mới hiểu rõ Einstein. Phù vân như
những hạt bụi trôi qua, chỉ còn lại công trình của khối óc và tâm
huyết con người là bất di bất dịch. Hay cùng Einstein chuyện trò bên
bờ sông Rein, nhìn qua mặt nước phẳng lì một chiều trời trong vắt,
nhìn nhà bác học nhút nhát ấy, tôi thấy cuộc sống này đầy mến
thương, sống tử tế là tử tế mà sống.
Trước hết, ta sống tử tế với nhau vì ta là người. Chúng ta tự hào
con người là động vật bậc cao nhất trong vũ trụ. Nhưng càng tiến bộ,
con người càng thích “đeo mặt nạ” cho chính mình. Nhiều khoản luật
được đặt ra để tổ chức và quản lí xã hội, đánh giá nhân phẩm, đo

110
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
lường trí tuệ. Nó trở thành gánh nặng khi làm cho con người sợ hãi.
Chúng ta đang hành hạ nhau chứ không vì “một tương lai tươi sáng”.
Những qui định đó không xuất phát từ trái tim biết lắng nghe, nơi cất
giữ tình yêu tuyệt đỉnh của con người. Cứ thử hỏi mà xem, nếu
không có những điều luật ấy thì con người có còn sống tốt với nhau
không? Ta đã quá nệ vào luật lệ mà quên đi trái tim rung động của
mình. Cách ăn nết ở là thước đo nhân cách con người thì sự chân
thành là “chất kết dính” giúp gìn giữ nhân cách bền vững. Kiểu cách
bề ngoài chỉ là những hành động nhất thời, tâm hồn là “khung hình
thủy tinh” giữ lại hình ảnh của ta lâu nhất. Không ít lần ta đã tận
dụng “cử chỉ đẹp” như một công cụ gây ấn tượng lâu dài trong mắt
người đối diện, trong khi đó ta chẳng có một chút chân thành. Đừng
để những giây phút sống chân thành cho nhau trở thành lớp bụi dễ
bay theo cơn gió thời gian. Hãy dành cho nhau những khoảnh khắc
đáng nhớ của đời người!
Tôi mượn hai câu thơ trong “Bài ca mùa xuân” của Tố Hữu như lời
đề tựa cho bức tranh tình yêu nhân thế tuyệt đẹp trong tâm trí mình:
“ Có gì đẹp trên đời hơn thế,
Người với người sống để yêu nhau”.
Những vầng thơ ấy đã bắt nhịp với chân lí các tôn giáo. Nền tảng
đạo đức của con người ở kiếp lữ hành trần gian là tình yêu với người,
cho người và trong người. Tình yêu lên ngôi, một xã hội với những
trái tim giàu có được thiết lập. Người người đối xử với nhau theo
tiếng gọi của trái tim, hành xử theo sự chỉ dẫn khôn ngoan của lương
tâm ngay lành. Đây là một vương quốc không có sợ hãi, không có
những hình phạt khắt khe, không có chỗ cho vụ lợi. Tất cả cư dân
trong vương quốc này sống chan hòa, yêu thương nhau. Hi vọng lớn
nhất của họ không phải được ân thưởng mà chạm đến tình yêu tròn
đầy. Dường như vương quốc ấy chỉ có trong mơ. Nhưng điều tôi

111
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
chắc chắn là chúng ta có thể làm thế giới này tốt đẹp hơn bằng tình
thương với nhau. Cùng quan điểm này, tôi bắt gặp ý tưởng “xây
dựng nền văn minh tình thương và sự sống”. Thượng đế rất công
bằng khi dựng nên mỗi người mỗi hoàn cảnh để chia sẻ cho nhau. Và
Ngài cũng ban cho mỗi người một “chiếc bánh tình yêu ngọt ngào”
để cùng chia sẻ. Tình yêu trở thành lẽ sống. Các thi nhân đã không
tiếc lời ca ngợi tình yêu. Các họa sĩ đã không tiếc sức tỉ mỉ họa lại
bức tranh đầy màu sắc tình người. Các nhiếp ảnh gia không quản
công đi tìm những tấm ảnh đầy hơi thở của sự sống. Những bản tình
ca sống mãi theo thời gian, những bức họa còn mãi theo năm tháng,
những tấm ảnh vẫn sống như thuở nào. Tất cả đều chất chứa suy tư
về cuộc sống của con người. Cũng vì thế mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
tự vấn: “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”. Ta đi đâu khi cuộc
sống ở ngay trước mắt? Ta đã đi quá xa để sống tử tế và đã quá mất
thời gian để mong đợi ân thưởng từ lòng thương hại. Thật đáng tiếc
là tín hữu Công giáo qua nhiều thế kỉ đã sống theo lối sống đó. Đó là
một điều đáng thương hơn là đáng lên án. Có lẽ họ đã lạc hướng.
Mục đích của cuộc đời chỉ là một vở kịch với chiếc mặt nạ hoàn hảo
và những trích đoạn đầy xúc động. Vở kịch kết thúc, cuộc đời cũng
hạ màn. Điều để lại sẽ là gì? Tôi nghĩ câu trả lời hay nhất chính là
cuộc đời của mỗi người.
Cuộc đời con người lại mỏng manh, vỏn vẹn chỉ mấy mươi năm.
Không ai biết chắc mình sẽ sống được bao lâu trên cõi đời này. Nếu
ta để thời gian trôi qua với nỗi sợ và lòng bị kỉ thì cuộc đời này thật
uổng phí. Đừng dự tính sẽ làm thế này, làm thế kia, cũng đừng để
chính mình phải hối tiếc. Tôi mượn chút suy tư của nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn để thay cho tiếng thở dài nuối tiếc: “Cuộc đời có bao lâu mà
hững hờ” (Mưa hồng). Cuối cùng là sự trở về của trái tim: “Sống trong
đời sống cần có một tấm lòng” (Để gió cuốn đi), đừng để “trái tim

112
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
đang bay theo thời gian, làm chiếc bóng đi rao lời gian dối” (Để gió
cuốn đi) Đừng chờ đợi ân thưởng vì:
“Lợi danh như bóng mây chìm nổi,
Chỉ có tình thương để lại đời”
(Còn gặp nhau – Tôn Nữ Hỷ Khương)
Đó là điều còn lại của cuộc đời này: tình yêu.
Cái nhìn sâu sắc của cố nhạc sĩ họ Trịnh và thi sĩ Tôn Nữ Hỷ
Khương mấy ai kịp dừng lại để chiêm ngắm. Lí trí sẽ đứng lên ngụy
biện: sống hợp tình nhưng cũng phải hợp lí. Cái lí ở đây là lề luật,
qui tắc. Trước hết, ta phải có cái nhìn tích cực: luật giúp con người
sống tốt mỗi ngày, hoàn thiện bản thân. Có thể xem đó là di sản quý
giá của văn minh nhân loại. Có khi nào ta tự hỏi tại sao tôi phải hiếu
thảo với cha mẹ? Tại sao tôi phải trung thực? Tại sao tôi phải giúp
người khác khi họ gặp hoạn nạn, “đèn nhà ai nhà nấy rạng” chứ? Rất
nhiều câu hỏi tự vấn ta mỗi ngày, nhưng ít người để ý trả lời. Ta đã
để cho cuộc sống vội vã kéo vào vòng xoáy thờ ơ nên không còn
nhận ra số phận đáng thương của mình. Luật làm ta trở nên cứng
nhắc, vô hoạt, thậm chí vô cảm. Luật là tinh hoa của lí trí nhưng lại
thiếu vị ngọt ngào của trái tim. Trong khi đó, cuộc sống này cần cả
hai song hành. Luật khi này trở thành một phiên chợ đổi chác hơn là
một tòa giảng để lắng nghe nhu cầu của con người. Chính vì thế, nó
chỉ là sản phẩm của vụ lợi, ích kỉ, tham lam. Nó đánh mất tự do của
con người. Nó biến con người trở thành sinh vật cấp cao có óc nệ
luật. Thật đáng sợ! Thêm vào đó, con người chỉ hi vọng nhận được
lời khen ngợi, việc trả công bội hậu cho những việc mình đã làm vì
tôn trọng luật một cách giả tạo. Tôi nghĩ có công thì có thưởng, đó là
đòi hỏi rất chính đáng. Tôi chợt nhớ, trong Kinh Thánh có chép: “cho
thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20, 35). Tuy nhiên, chúng ta lại sợ cho
đi và thích được nhận. Chúng ta thích hưởng thụ hơn là chia sẻ với

113
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
người khác, “có của thì giữ bo bo”. Thái độ sống như thế thật đáng
lên án. Tuy vậy, xét cho cùng, ta nên cảm thông cho người. Tự do
không muốn như thế, chính cuộc sống đã biến họ thành người như
thế. Cuộc sống vật chất đẩy đưa họ chỉ nghĩ đến mình. Khơi dậy thói
tham lam tiềm ẩn trong họ và xem giá trị vật chất là thước đo tình
cảm con người. Họ quên rằng còn có những điều đem chia sẻ mà
không vơi đi chút nào, lại còn đầy thêm. Niềm vui, hạnh phúc, tình
yêu, bình an là tất cả những gì mà con người cần có trong cuộc sống
tương giao với nhau. Cõi nhân gian không chỉ có mình tôi sống mà
cả tỉ người cùng sống. Bởi thế, nhà thơ Tố Hữu đã khắc họa lại triết
lí ấy một cách sinh động.
“Một người đâu phải nhân gian
Sống chăng một đốm lửa tàn mà thôi”
Đốm lửa tàn ấy cần phải được một làn gió thổi bùng lên. Làn gió
ấy có khác chi những ước mơ, hoài bão vượt lên cả những rào cản
cứng nhắc của luật lệ. Ấy thế, tôi nhớ lại và thán phục cách cư xử
của Nhan Hồi với thầy và các đồng môn. Những bụi bẩn bám lấy bề
mặt nồi cơm thơm ngon mà Nhan Hồi đang nấu, anh đã xới lớp cơm
bẩn đó và dùng trước. Điều đó khiến người học trò gương mẫu ấy
nhận được những ánh mắt thất vọng, thiếu thiện cảm. Chén cơm đầu
tiên ấy lí ra phải được dâng lên cho trời đất tiên tổ, vậy mà nó đã bị
xâm phạm. Sau lời giải thích của Nhan Hồi, mọi chuyện đã sáng tỏ.
Sống còn vì người khác. Đốm lửa yêu thương đã được Nhan Hồi thổi
bùng lên. Chính cái tâm sâu sắc đã vượt ra khỏi những đạo lí nghiêm
ngặt để đẩy con người đến gần nhau hơn.
Và thay vì đến gần nhau, chúng ta vô tình đẩy mình ra xa hơn vì
một nỗi: sợ thật đáng thương!. Chúng ta đang tự lừa dối nhau.
Chúng ta đang cố tỏ ra hạnh phúc nhưng trong lòng đầy dẫy đau
buồn, bi quan, thất vọng. Tôi tự hỏi tôi đã trải qua cảm giác khó chịu

114
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
khi trong lòng buồn mà ngoài mặt tỏ ra vui cười với mọi người? Có
khi nào vì làm hài lòng người khác mà tôi đã nói dối? Có khi nào để
thoát khỏi sự trừng phạt mà tôi đã tính toán đủ mọi cách thay vì chấp
nhận sai phạm? Một lối sống sai lầm. Những lời đãi bôi sáo rỗng. Kẻ
xu nịnh sử dụng chiêu thức này rất điêu luyện. Họ không mắc một lỗi
nào. Mục đích cuối cùng của họ là thoát khỏi nỗi sợ của thất sủng,
mất việc, mất những khoản thưởng hậu hỹ, mất những “chiếc ghế
thơm ngon béo ngậy mùi tham vọng”. Bề ngoài họ tỏ ra cung phụng
chủ, chiều chuộng hết mức nhưng sau lưng là những mưu toan đáng
sợ. Bởi vậy, Denit Diderrot đã nói: “chúng ta tham lam nuốt lấy lời
nói dối tâng bốc, nhưng chúng ta chỉ nhấp miệng từng chút sự thật
đắng cay”. Sự chân thật ở đâu? Lòng chân thành ở chốn nào? Chỉ vì
một nỗi sợ mà chúng ta phải gánh thêm một nỗi sợ khác, sợ bị lừa
dối. Cuộc sống này chỉ toàn là giả dối vì sợ hãi.
Không ít danh nhân lịch sử đã sống cho sự thật để nhận lấy cái
kết đau thương Đức Kitô là một gương chứng hùng hồn. Ngài không
sợ bị trừng phạt nên Ngài luôn làm người Do Thái phải ganh ghét, đố
kị. Ngài đã đối đãi với dân chúng rất tử tế, bằng cả con tim. Ngài
không mong đợi ở lời đáp trả ngọt ngào tử tế từ người Do Thái. Nếu
chúng ta đi qua đồi Gôn-gô-tha để nhìn rõ cái chết đau thương của
Người Tôi Trung ấy, chúng ta chỉ biết chậc lưỡi và nói: “ông ấy thật
đáng thương”. Một câu chuyện tưởng như đùa của một con người
lịch sử chỉ vì tử tế thật lòng và không hi vọng được trao ban một đặc
ân nào để được tha chết. Đó mới là tình yêu đích thực: yêu đến cùng.
Câu chuyện về Đức Kitô hai ngàn năm đã cho tôi cái nhìn về bản
thân sâu sắc. Sống tử tế trước hết là vì chính mình: sống đúng giá trị
của một con người. Đức Kitô đã nêu lên điểm nhân văn sáng chói
này trong cả cuộc đời của Ngài. Tuy là Thiên Chúa nhưng Ngài chấp
nhận mặc lấy xác phàm. Chính vì mang lấy xác phàm, Ngài đã sống

115
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
như người và thành người. Khi sống tử tế mà không phải sợ bị kiềm
chế trong một nguyên tắc nào, cũng là lúc chúng ta sống đúng với giá
trị nhân phẩm của người khác. Ta sống vì họ, chứ không sống vì
những luật lệ dành cho người. Qua đó, chúng ta đang tôn trọng chính
mình và người khác. Cuộc sống này thật đáng sống khi chúng ta dấn
thân cho những lí tưởng cao đẹp. Cuộc sống không còn là chuyện ăn
uống, ngủ nghỉ, vui chơi, hưởng thụ. Mỗi người bước vào cuộc đời
đều mang một sứ vụ thiêng liêng. Một đứa trẻ sinh trùng vào một dịp
lễ quan trọng, hay ngày đó xảy ra một sự kiện đáng nhớ, hoặc đứa trẻ
có những biểu hiện đặc biệt thường được cho là sau này sẽ trở thành
một vĩ nhân, ít nhất cũng làm nên sự nghiệp lớn lao. Niềm tin đó
không làm chúng ta ngạc nhiên. Nói như thế để ta thấy con người cần
phải có tự do để nắm bắt số phận của mình hơn là bị vùi vào vòng
xoáy của nỗi sợ và ngồi chờ lòng thương hại của người khác. Tự do
ấy sẽ để cho lí trí và con tim được hòa điệu, cùng lên tiếng qua đôi
mắt cảm thông, giọng nói an hòa, bàn tay sẻ chia và đôi chân tiến
bước. Những hình ảnh ấy đều được khắc lại từ Giêsu làng Na-da-rét
xứ Do Thái hai ngàn năm trước, người đã làm thay đổi cả thế giới
bằng học thuyết tình yêu. Cái giá cuối cùng cho lòng can đảm dám
bước qua những luật lệ hà khắc của xã hội Do Thái bấy giờ là bản án
tử trên thập giá. Giêsu đã nhận lấy cái kết bi thảm. Đó phải chăng là
công bằng? Không. Đó là trò đùa của số phận vì nó quá nghịch lí.
Đừng giữ lấy con người cũ của hơn năm trăm điều luật. Hãy xây
dựng một con người mới.
Con người đó phải trở nên nhạy bén. Một ngày mới bắt đầu, tỉnh
dậy, ta thấy mình nhanh nhẹn hơn, thông minh hơn và trái tim nhạy
bén hơn. Ta hãy vui mừng vì mình sắp trở thành một sứ giả của công
lí. Tôi nghĩ đến câu chuyện về Đức Thánh Cha Gioan XXIII. Khi
một văn kiện được đưa ra biểu quyết, cả hội nghị bác bỏ và muốn có

116
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
một văn kiện mới. Ngài sẽ xử lí thế nào để không làm bẽ mặt người
đã cất công soạn văn kiện đó trước hội nghị? Một cách khôn ngoan,
Ngài đã cho lập một ủy ban mới và đưa Đức Hồng Y đã soạn văn
kiện đó vào ủy ban này. Một cách xử trí tài tình. Lòng tử tế đã vượt
lên mọi hoài nghi. Một mũi tên bắn trúng hai mục đích. Mũi tên ấy
được mài giữa từ tài trí và trái tim đầy yêu thương của một người
cha. Cũng vì thế Mạnh Tử đã nói: “Chỉ có lòng thiện thì không đủ
sức cai trị, chỉ có luật pháp thì không đủ sức khiến người ta tuân
theo”. Hãy bước ra cuộc sống để ta được thấy rõ. Một ánh mắt dễ
thương cũng đủ làm người khác phải xao lòng. Một ít tiền sẻ chia
cho người ăn xin bên vệ đường trong yêu thương thổi bùng lòng biết
ơn. Hy sinh chấp nhận đứng lên để nhường ghế cho người khác trên
xe buýt sẽ làm cho mệt nhọc cả đôi bên được với đi. Ta hạnh phúc,
người cũng hạnh phúc. Hạnh phúc không có giá cả để trao đổi và
cũng chẳng có tiền lệ phải được trả lại bằng một ân huệ. Hạnh phúc
cho đi để nhận được một tâm hồn đong đầy bình an. Hạnh phúc ở
khắp nơi chỉ cần chúng ta thật sự lưu tâm tìm kiếm. Cuộc đời như một
vùng sa mạc khô cằn chỉ có những bụi rậm của ích kỉ, bất công.
Nhưng nếu cố gắng xới tung nó lên. Chúng ta sẽ tìm thấy mạch nước
ngầm của niềm vui, của lòng thỏa khát, của bóng mát tận hưởng. Và
đừng giữ cho riêng mình. Chúng ta cần cùng nhau khai hoang sa mạc,
làm cho nó trở nên màu mỡ bằng hạt giống yêu thương, công bằng.
Đừng bao giờ ngừng cảm nghiệm cuộc sống bằng trái tim nhạy bén.
Vị sứ giả của công lí không phải là người chỉ dựa vào tiêu chuẩn
có sẵn để chỉ dạy, phê phán, giáo điều người khác. Ta còn phải biết
lắng nghe và suy nghĩ thật nghiêm túc. Một sự thật đáng buồn mà tôi
biết được trên một trang báo của Vietnamnet: người ta đua nhau trở
thành người tử tế, nói bình dân là “đã xấu mà còn đóng vai ác”. Trở
thành người tử tế là một việc tốt, đáng ca ngợi. Tại sao tôi buồn? Vì

117
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
tất cả chỉ là giả dối. Vì sợ bị lên án, người ta không ngần ngại chạy
theo những giá trị ảo. Họ sống vì điều gì? Chân thành hay xu nịnh?
Sự thật hay gian dối? Cộng đồng hay cá nhân? Câu trả lời nằm ở vế
sau: Xu nịnh, gian dối, cá nhân. Họ cùng nhau làm nên “mùa tử tế”.
Vụ mùa ấy thu hoạch lại không có gì khác ngoài đố kị, ganh ghét và
sự suy đồi của xã hội. Dân gian có câu: “hiền lành trước mặt làm
giặc sau lưng” quả không sai. Không chỉ thế, con người đang tự biến
mình thành những kẻ ngu xuẩn, theo lời đức Phật: “sự ngu xuẩn lớn
nhất của con người là dối trá” dành cho họ. Chính vì ngu xuẩn mà
con người không nhận ra đâu là những giá trị thật để giữ lấy. Diderot
đã so sánh: “Những cái lợi của sự dối trá chỉ trong chốc lát, những
cái lợi của sự thật thì vĩnh viễn”. Cái lợi ấy không thu được từ những
bài giáo huấn mà từ lòng khiêm tốn lắng nghe. Chính vì tính hạn hẹp
của nó, Abraham Lincoln nói: “Bạn có thể đánh lừa tất cả mọi người
một thời gian, bạn thậm chí có thể đánh lừa một số người mọi thời
gian, nhưng bạn không thể đánh lừa tất cả mọi người”. Ngay cả triết
gia Socrate cũng nhấn mạnh: “con người cần sự thật như là thân xác
phải ăn các thức ăn thật: nếu ăn phải thức ăn rởm, thức ăn xấu sẽ bị
tháo chảy, hay suy sụp cơ thể. Tinh thần cũng vậy, nếu nó ăn phải
những lọc lừa dối trá gian manh, sẽ bị băng hoại suy đồi”. Chúng ta
còn phải học rất nhiều để trưởng thành, đừng vội trở nên thầy dạy
của kẻ khác. Không cần học những triết lí cao siêu mà học từ trái tim
đến cả tâm trí và ngay ở trong “Lời mẹ dặn” mà nhà thơ Phùng Quán
đã cảm nghiệm:
“Cha con dặn con
Suốt đời phải làm người thành thật
Mẹ ơi! Chân thật là gì?
Con ơi! Một người chân thật
Yêu ai cứ bảo là yêu

118
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Ghét ai cứ bảo là ghét
Bé ơi bé yêu ai nhất
Nhớ lời mẹ tôi trả lời
Bé yêu những người chân thật …”
Chúng ta chỉ mới nhìn về phía người khác. Bản thân ta cũng phải
sống thật lòng. Chẳng phải ông bà ta nói “sự thật mất lòng đấy sao!
Đừng lo nghĩ vì lỗi phạm mà ta bị phạt. Nếu cứ sống mãi trong chiếc
võ bọc ấy thì ta mãi là trẻ con. Nó giống như con sâu bướm không
can đảm phá vỡ tổ kén ấm áp để vươn ra đối đầu với những khó khăn
của thiên nhiên thì người ta sẽ chẳng thể nhìn thấy vẻ đẹp yêu kiều
của nó. Hay như những chú chim non không dám tung cánh thì
chúng chẳng thể lớn thêm nổi, mà cha mẹ chúng không nuôi chúng
suốt đời. Đó là qui luật của thiên nhiên. Chúng ta cũng có qui luật
cho chính mình. Các nhà khoa học nếu không chấp nhận thất bại thì
mãi mãi sẽ chẳng có những phát minh khoa học. Nếu ta không gánh
lấy những trừng phạt thì sẽ hoài vấp phạm. Một lần cho ngàn lần.
Lúc này bạn phải cầu khẩn Thượng đế ban cho trái tim can đảm để
dám đối mặt. Như hoa hướng dương, không loài hoa nào kiêu hãnh
như nó. Nó dám ngước thẳng lên đối diện với mặt trời vĩ đại. Ta
cũng phải học cách dám kiêu hãnh ngước lên chân lí để sống với thái
độ khiêm nhường. Ta sống bình an, thanh thản, lạc quan, chan hòa ấy
là nhờ ta nhận ra giá trị của “mặt trời sự thật”, giống như hướng
dương tìm đến với ánh sáng sự sống.
Lòng khiêm nhường đã phát băng cuộc sống tù túng để vươn tới
tự do, sợ hãi khiến chúng ta bị lệ thuộc trong hàng trăm điều. Những
ánh mắt tò mò chờ đợi cơ hội để đả kích. Những đôi tai luôn mở rộng
chờ đợi sự lỡ lời. Những đôi môi luôn chờ đợi hành động sai trái để
lên án. Hãy bỏ đi con người cũ! Hãy trở nên nhân từ để sẵn sàng tha
thứ cho những sai lầm của người khác. Chúng ta cũng là tác nhân

119
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
làm nên nỗi sợ hãi của bao người. Một khuôn mặt nghiêm nghị sẽ
làm cho những người xung quanh cảm thấy khó gần, mối quan hệ trở
nên càng thẳng. Nhưng một khuôn mặt vui tươi, tràn ngập nụ cười thì
lôi kéo biết bao người. Người với người nên gần gũi, thấu hiểu nhau
hơn. Ta đừng dạy nhau sống hưởng thụ, đừng dạy nhau cách sống
trông chờ vào lòng thương hại và suy nghĩ chỉ muốn được trả công.
Một kinh nghiệm sống mà tôi nhận được.
Einstein nói: “Đừng phấn đấu để thành công mà hãy phấn đấu để
mình có ích”. Ông đã nhìn ra thành công này không bền vững vì hòa
trộn trong đó là những dối trá, không có một chút tình yêu nào đối
với người và việc. Ông đã quay lại với quan điểm phải làm điều gì đó
có ích. Tôi nghe giai điệu của “Khát vọng tuổi trẻ” đang vang lên:
“đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho ta mà ta đã làm gì cho tổ quốc hôm
nay”. Đó mới là lí tưởng sống của tuổi trẻ. Ta không cần ân ban điều
gì hơn nữa vì chính ta đã mắc nợ quá nhiều. Ta nợ mẹ những đêm
giấc ngủ chưa tròn, những gánh hàng mẹ tảo tần trên vai. Ta nợ cha
bàn tay chai cứng vì phải lao động vất vả vì con thơ. Ta nợ bạn bè
những đêm không ngủ bên nhau chuyện trò. Ta nợ cuộc đời những
ngày tháng rong chơi quên lãng. Để khi nhìn lại ta thổn thức “nếu chỉ
còn một ngày để sống”, xin cuộc đời “cho tôi như bóng mây lang
thang qua cõi này. Cho tôi được ngắm sao trên trời giữa hương đồng
cỏ nội. Cho tôi như khúc ca bay đi xa, rất xa…”. Cuộc sống sẽ nên
thơ hơn. Đời người đâu chỉ có sợ và thưởng phạt. Hãy khám phá sự
thật của cuộc sống. Hãy nẩy tảng băng lấp lánh giả tạo để thấy màu
sạm của cuộc sống và chăm bón những bông hoa của hạnh phúc đang
bị chèn nén mà chưa thể trổ sinh. Hãy làm điều có ích.
Những giọt nước mắt sẽ chảy dài khi tiếng lòng mãi thổn thức.
Hạnh phúc thật gần nhưng rất khó giữ. Ta từng bỏ phí thời gian để đi
tìm những gì không thuộc về thế giới của tình thương và sự thật,

120
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
cũng đừng mong chờ điều tốt đẹp nào đến cho mình khi ngoài kia
vẫn còn những người đói khổ đang nằm dài trong cơn mê mệt của
sương gió, trong xó của cô đơn. Họ đang thật sự cần chúng ta, nhưng
chỉ vì sợ bị trừng phạt mà chúng ta đến với họ chỉ bằng lớp vật chất
gạo tiền. Bao nhiêu cho đủ? Họ chỉ cần “lau khô giọt nước mắt trong
lòng … bằng tất cả trái tim con người”. Đó là triết lí sống không một
thứ vật chất nào trong cuộc đời này đổi lấy được. Tôi không quên
câu nói của ông nội. “đừng mắc nợ nhau điều gì ngoài món nợ ân
nghĩa”. Câu nói nghe quen thuộc vì được trích từ thư Rôma của
thánh Phaolô. Đó là món nợ ta phải trả và đừng bao giờ quên ta vẫn
luôn là những kẻ đói khát đang chờ được đón nhận. Ta mong chờ
điều gì? Tình người. Đừng sống mà thiếu tình yêu thương con người.
Đó là sợi dây vô hình mà một lúc nào đó, khi trở về với vùng trời
bình yên của riêng mình, bạn sẽ nhận ra được: kí ức của tôi là chiếc
cầu vồng đầy màu sắc tươi sáng của hạnh phúc. Đừng biến mình
thành kẻ đáng thương để rồi trong cô đơn ta càng thấy cô đơn. Cuộc
sống không chờ đợi người chỉ biết nghĩ đến mình. Còn chờ gì nữa,
hãy sống vội vàng đi! Vội vàng để quên đi những nỗi sợ. Vội vàng
để ta đừng dừng chân đứng lại đợi nhận một món quà. Để như thi sĩ
Xuân Diệu, ta sẽ cất vang hành khúc tuổi trẻ.
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn.
Ta muốn say cánh bướm vơi tình yêu.
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều”
(Vội vàng)
Thiên tài Einstein đã nói: “Không phải là tôi quá thông minh, chỉ
là tôi chịu bỏ nhiều thời gian hơn với rắc rối”. Có vẻ như ông không
rụt rè trước những khó khăn và cũng chẳng tiếc thời gian để đương

121
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
đầu với thử thách. Ông đã bỏ qua vinh quang để tìm đến với những
điều hữu ích hơn, những điều mà ông nghĩ sẽ tốt cho nhân loại. Mục
đích của Einstein là vươn lên không ngừng, tiến một bước đến tri
thức của nhân loại. Cuối cùng, ông nhận ra rằng, trước mặt Thiên
Chúa ai cũng ngu xuẩn như ai. Ông hiểu mình và cuộc sống đẩy đưa
để ông phải thốt lên nỗi lòng. Có lẽ Einstein chưa tìm ra được lối giải
thoát cho sự nô lệ của bản thân trước một xã hội đầy dẫy những cám
dỗ, toan tính. Nhưng chính lúc dập vùi trong những đợt sóng bạo lực
chiến tranh, vật lộn với những con số trong thiên nhiên, Einstein có thể
thấy được chính ông đã khao khát một góc trời riêng cho mình nhiều
đến mức nào. Nơi đó ông sẽ tử tế với chính mình, tử tế với những giờ
phút lao động miệt mài bằng trí tuệ trời phú, tử tế với thiên nhiên khi
vượt ra mọi chân lí trước đó để tìm những chân lí mới. Điều đó, linh
mục Nguyễn Tầm Thường đã khao khát và tìm thấy:
“Chân thành hơn trong yêu thương
Bác ái hơn trong đối thoại
Kiên nhẫn và giàu lòng từ tâm hơn
Bỏ lòng mình những ràng buộc toan tính cho
linh hồn được tự do.
Yêu cuộc đời nhiều hơn
Tha thiết sống trọn vẹn từng giây phút hơn”.
(Cô đơn và sự tự do)
Một đêm tĩnh mịch trong tiết trời se lạnh lướt qua làn da nhẹ
nhàng của vùng cao nguyên Bảo Lộc, thước phim về cuộc đời tôi
hiện ra trước mắt. Cuộc sống đa trôi qua vô ích. Tôi muốn sống cho
một điều gì tốt đẹp hơn, ngay trong phút hiện tại, không đợi đến ngày
mai. Cảm ơn Einstein đã để lại bài học tử tế cho tôi tỉnh giấc. Tôi sẽ
bắt đầu với chính mình. Một cánh hoa nhẹ rung, một chiếc lá khẽ
đong đưa làm tôi giật mình trước sự tử tế quá đỗi của Thiên Chúa.

122
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Tôi phải trân trọng điều đó. Đây là bài học làm người và thành
người. Tử tế rất dễ làm, có khi không cần phải suy nghĩ lâu. Chỉ cần
trái tim tôi rung lên một nhịp trước những điều tốt đẹp, tôi sẽ hiểu
ngay đó là lời nhắc nhở bản thân sống sao cho đẹp. Tôi phải trưởng
thành hơn từ suy nghĩ đi đến hành động. Sống đẹp và sống chân
thành để số phận thay đổi, cuộc đời thăng hoa. Sống bằng khối óc và
trái tim trong công bằng, tự do. Tôi đã biết mình phải làm gì để
chẳng còn sợ bị trừng phạt, để chỉ biết cho đi mà không hi vọng nhận
lại. Bắt đầu một ngày mới trong đời, tôi hạnh phúc thốt lên.
“Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy,
Ta có thêm ngày nữa để yêu thương.”
(Tố Hữu)
TÊN: GIUSE TRẦN VŨ THIÊN LONG

123
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
ĐỂ BÀI: Bình giảng bài ca dao:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng.
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
BÀI LÀM
Đề án chọn hoa sen làm quốc hoa đã chính thức được trình lên
thủ tướng phê duyệt cùng với không ít tranh cãi. Vốn là một loài hoa
bản địa, nhưng ý nghĩa của biểu tượng hoa sen chỉ du nhập vào nước
ta về sau theo Phật giáo, và thấm sâu vào tâm thức của mọi tầng lớp
dân chúng như là một loài hoa thanh cao. Hoa sen đi vào hội họa,
kiến trúc, điêu khắc, trang trí. . . quý phái cũng có, bình dân cũng có,
truyền thống cũng có, hiện đại cũng có. Có lẽ khó ai có thể cưỡng lại
được sức cuốn hút đặc biệt của loại hoa tao nhã này để không đóng
góp một phiếu bình chọn, nếu không phải vì nó đã là quốc hoa của
không ít quốc gia. Rất bình dị, hoa sen cũng đi vào câu hát dân gian:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng.
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Mô tả giản dị vẻ đẹp của sen, bài ca dao còn ẩn chứa một tình
cảm nồng thắm khi trông hoa mà nghĩ đến người.
Ở ngay câu đầu tiên, vị trí của hoa sen đã được xác lập: là hoa
đẹp nhất trong đầm. Từ điển cho biết “đầm” là một khoảng trũng to
và sâu ở giữa đồng để giữ nước. Hình ảnh đầm nước gắn liền với
hình ảnh những vùng nông thôn dân dã, lại là môi trường sống của
một loài hoa thanh tao. Nói cách khác, sen mọc lên trong đầm chứ
không phải trong những khu vườn tao nhã thị thành. Tự xuất xứ, sen
vốn đã bình dị.

124
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Trong đầm nước, thu hút người quan sát ngay từ cái nhìn đầu
tiên, những đóa sen nở rộ với cánh hoa xếp thành tầng và vươn lên
khỏi mặt nước và thảm lá xanh thẳm. Hoa sen không có dạng nhánh
nhưng mọc lan ra, mỗi hoa trên một cành bao chung quanh tả những
cành lá, như một cộng đồng gắn bó, đồng nhất, và cùng nhau khoe
sắc. Nhìn cận cảnh một hoa sen cũng đẹp, vươn tầm mắt ra bao quát
cả đầm sen càng thấy đẹp hơn.
Sau khi nhận định "trong đầm gì đẹp bằng sen", bài ca dao tiếp
tục mô tả vẻ đẹp đó: “lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng”. Vẻ đẹp
của sen là bởi lá, hoa, nhị với tông màu hài hòa: xanh, trắng, vàng.
Khen hoa sen đẹp nhất nhưng mô tả lại khá hững hờ: Lá nào mà
chẳng xanh, thiếu gì bông trắng, và có gì đặc biệt với nhị vàng? Hoa
sen độc đáo trước hết là bởi tạo hình thân, hoa lá. Lá sen rộng, hình
tròn, với viền lá gợn sóng thành hình một chiếc lọng trang nhã. Lá
sen nhìn thô nhưng sờ vào mịn màng do một lớp lông bao phủ. Màu
trắng của hoa sen càng nổi bật hơn trên nền xanh thẳm của những tàu
lá sen. Hoa sen có nhiều màu sắc khác nhau như trắng, vàng, hồng,
đỏ, tím, trong đó sen trắng mang vẻ đẹp tinh khiết nhất. Khi hoa nở,
các cánh sen bầu bĩnh mởra, xếp thành tầng cân đối quanh nhị sen
vàng. Bề mặt cánh sen cũng trông thô mộc nhưng khi chạm tay vào,
ta sẽ cảm nhận được một sự mềm mại, dịu dàng. Lá và hoa sen hình
tròn được cân đối bởi cành sen thon dài, vươn lên cao vút. Hoa sen
đẹp ở từng thành phần, đẹp cả ở tổng thể hoa, cành, lá hài hòa.
Thật không thỏa đáng khi không lột tả được tạo hình đặc sắc của
hoa sen, cho nên bài ca dao dường như hướng đến một quan tâm nào
khác. Ta đọc tiếp:
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

125
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
“À, ra thế …!” người đọc thốt lên. Hoa sen đẹp vì dáng, vì sắc, vì
hương, nhưng đẹp nhất là vì phẩm chất, vẫn tỏa hương thơm trong
"bùn". Bùn là một hỗn hợp sền sệt do đất đai bị ngập nước lâu ngày
tạo thành. Bùn có thể chứa nhiều dinh dưỡng và khoáng chất có ích
cho thực vật lẫn con người. Tuy nhiên trong tâm thức của dân gian,
bùn luôn gắn liền với bần hàn, cơ cực (chân tấm, tay bùn), và vì thế
“lấm bùn” còn hàm ý sa ngã. “Bùn” trong bài ca dao này cũng không
ngoại lệ. Nó tượng trưng cho một môi trường sống đầy bất lợi, xấu
xa, chỉ chực chờ làm vấy bẩn và biến chất những gì tốt đẹp vừa mới
nhú lên. Mùi “hôi tanh” thốc vào mũi diễn tả thích đáng bản chất của
loại môi trường này. Trong hoàn cảnh đó, việc hoa sen có thể vươn
lên khỏi bùn đã là điều thú vị, hoa sen tỏa hương thơm ngát càng làm
ngạc nhiên hơn. Làm thế nào hương sen chẳng chút "mùi bùn"? Một vị
đại sư lí giải rằng, sen có đặc điểm làm cho chỗ nước nơi nó mọc lên
trong lắng lại, vì thế thân cây chẳng dính chút bùn, khi hái lên cũng
không cần phải rửa lại. Mùa hương sen vì thế mà giữ được tinh tuyền.
Bởi các đặc điểm này, hoa sen đã trở thành một biểu tượng thân
thuộc trong triết lí Phật giáo. Hoa sen trắng tượng trưng cho sự tinh
khiết như Phật tính có sẵn trong mỗi con người. Dù sinh ra trong bùn
nhơ, như cuộc đời đắm chìm trong bể khổ, sự tinh khiết ấy vẫn
không bị nhạt nhòa, vẫn chờ đợi người hành giả quay đầu là bờ", để
"kiến tánh thành phật", như búp sen trắng kiên trì chờ đợi mọi điều
kiện thuận lợi để nở hoa sung mãn. Có lẽ chính vì ảnh hưởng của
Phật giáo mà bài ca dao này ra đời, để nhắc nhở chúng sinh về Phật
tính vô nhiễm ở trong lòng mỗi người đang chờ được khám phá. Qua
dòng thời gian, cùng với những thăng trầm của lịch sử đất nước, nó
tiếp tục được nhắc lại nhưng mang một âm hưởng mới để nhắn nhủ
nhau rằng, dù sống trong cơ cực, tăm tối thế nào (như "giấy rách”),
thì cũng phải giữ mình cho thanh sạch (phải "giữ lấy lề") để cho đáng

126
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
phẩm giá con người. Hoa sen tỏa hương trong đầm trở thành biểu
tượng cho một khát vọng sống thanh sạch giữa bao nghịch cảnh.
Trở lại bài ca dao trên, đến đây ta có thể nói rằng lời mô tả của
câu thứ hai không hờ hững chút nào nhưng là có chủ ý. Không tự
dưng mà câu ca dao đề cập đến lá xanh, bông trắng, nhị vàng. Và
cũng không tự dưng mà câu ba nhắc lại các đặc điểm. Với đặc tính
mấu chốt được tiết lộ trong câu cuối, ta có thể đọc thấy ở câu hai và
ba một ẩn ý khác. Bạn nói rằng lá nào mà chẳng xanh, thiếu gì bông
trắng, và có gì đặc biệt với nhị vàng ư? Nhưng hãy ngẫm mà xem, có
mấy loài hoa ở "gần bùn" mà nhị vẫn có thể vàng óng, bông vẫn có
thể trắng tinh, lá vẫn có thể xanh thẳm, và hương vẫn có thể thơm
ngát. Thế đấy, hoa sen đẹp như thế đấy! Lấy cảm hứng từ giáo lý
Phật giáo, dân gian đã lấy ý đặt thành bài hát đơn sơ mộc mạc nhưng
rất dễ đi vào lòng người. Bao thế hệ đã được học và thuộc nằm lòng
bài ca dao này, để tự nhủ mình mỗi khi đọc lại: Hãy nhớ lấy phẩm
giá con người, như hoa sen cành vươn thẳng, hoa nở rộ, tỏa hương
thơm ngát dù mọc trong đầm ở chốn bùn nhơ.
Chủng sinh: Phanxicô Xaviê Nguyễn Hoàng Vũ

127
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề tài: Bình giảng bài ca dao:
“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng.
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
BÀI LÀM
Năm 2010, Bộ văn hóa – Thể thao và Du lịch đã thực hiện “Đề
án nghiên cứu lựa chọn và tôn vinh Quốc hoa Việt Nam” Thời điểm
đó, câu chuyện quốc hoa đã làm nóng dư luận và có nhiều cuộc hội
thảo cũng như các buổi dư luận và có nhiều cuộc hội thảo cũng như
các buổi lấy ý kiến được tổ chức.Trong một cuộc lấy ý kiến trên
mạng internet được công bố vào tháng 11 năm 2011, hoa sen chiếm
tới 62,2% phiếu bầu để thành quốc hoa. Trong khi đó, hoa đào chỉ
đạt 15%, hoa mai đạt 14%, hoa bạn được 4,4% vào một vài loài khác
với tỉ lệ rất ít. Dù hiện nay hoa sen vẫn chưa chính thức trở thành
quốc hoa của nước ta, nhưng với tỉ lệ áp đảo như vậy, đủ thấy đây là
bài hoa được rất nhiều người yêu mến. Đó là vì từ bao đời nay hoa
sen đã trở nên một hình ảnh hết sức quen thuộc với người Việt Nam
ta. Hình ảnh hoa sen xuất hiện từ cuộc sống thường ngày của con
người đến trong các tác phẩm văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo. Và từ rất
lâu, ông bà ta cũng đã ghi lại vẽ đẹp của hoa sen trong các tác phẩm
văn học dân gian. Điển hình như bài ca dao sau:
“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng.
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.”
Bài ca dao nhằm miêu tả vẻ đẹp của hoa sen, đồng thời cũng hàm
ý nêu bật những phẩm chất cao quý của con người. Những phẩm chất
đó là gì?

128
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Trước tiên, chúng ta hãy cùng tìm hiểu vẻ đẹp của hoa sen được
miêu tả qua bài ca dao. Ngay từ câu mở đầu, tác giả dân gian đã dùng
một câu hỏi tu từ để khẳng định vị thế của hoa sen. “Trong đầm gì
đẹp bằng sen?” tuy mang hình thức như câu hỏi nhưng không nhằm
bày tỏ ý nghi vấn mà muốn nêu lên một sự thật: sen là loài hoa đẹp
nhất trong số những loài cây, loài hoa sống trong đầm. Việc sử dụng
hình thức so sánh nhất “gì đẹp bằng” cho thấy vị trí cao nhất của hoa
sen trên bảng xếp hạng bên cạnh đó, tác giả còn dùng từ “đẹp” nhằm
ca ngợi hoa sen cả về dáng vẻ bên ngoài lẫn phẩm chất bên trong.
Nếu thay “đẹp” bằng một từ khác thì có lẽ chúng ta khó cảm nhận
được trọn vẹn sự tuyệt vời của sen mà tác giả muốn nêu bật. Tác giả
đã rất khéo léo khi đưa người đọc vào cùng vị trí của người thưởng
thức để rồi ai cũng sẽ nhận ra nhận định trên là hoàn toàn chính xác.
Sang câu thứ hai, lời khẳng định trên được chứng minh qua hình
ảnh cây sen từ “lá xanh” cho đến “bông trắng” kèm theo những: “nhị
vàng”. Vẻ đẹp của sen đã được miêu tả cách cụ thể bằng hình thức tả
thực. Chúng ta cứ thử tưởng tượng đang đứng trước một đầm sen với
những hoa sen đang khoe cánh mà xem. Một khung cảnh thật đẹp
đang dần hiện lên. Nổi bật trên nền xanh ngắt của lá sen là những
bông sen trắng muốt và điểm xuyết những nhị sen màu vàng. Dĩ
nhiên, sen không chỉ có duy nhất một màu nhưng ở đây, tác giả chọn
hình ảnh “bông trắng” nhằm đề cao sự thanh khiết của sen. Bởi ngay
từ xưa, màu trắng đã được xem là tượng trưng cho những gì không ô
uế, nhơ bẩn và thể hiện sự tinh khiết, ngây thơ, thánh thiện. Lối tả
thực theo kiểu liệt kê “Lá, bông, nhị” tạo ra sự rõ ràng, tách bạch, nơi
cây sen. Ngoài ra, sự đa dạng màu sắc trong các thành phần của sen
được thể hiện qua từ “lại” một cách khéo léo. Cuối cùng, tác giả cho
thấy sự kết hợp hài hòa màu sắc giữa hoa và nhị sen bằng từ “chen”.
Chỉ với một câu tám chữ, hình ảnh tuyệt đẹp của hoa sen đã xuất
hiện, đưa chúng ta đến khung cảnh làng quê thật thanh bình, yên ả.

129
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đến câu thứ ba, chúng ta thấy tác giả lặp lại việc miêu tả cây sen
cũng với đủ các chi tiết: như vàng, bông trắng, lá xanh. Nhưng ở câu
này thì có sự đảo ngược hoàn toàn về mặt kết cấu cho dù nội dung
thông tin không khác gì câu trên. Ở câu hai, việc miêu tả được thực
hiện theo lối từ ngoài vào, bắt đầu từ lá đến hoa rồi qua nhị. Còn ở
câu thứ ba này, lối miêu tả lại từ trong ra ngoài: nhị vàng, bông trắng,
lá xanh. Việc tả đi tả lại tỉ mỉ như vậy cho thấy tác giả đang khẳng
định bằng được vẻ đẹp của sen.
Bài ca dao được kết thúc bằng một câu mang tính phủ định. Đó là
hoa sen tuy “gần bùn” nhưng lại không hề “hôi tanh mùi bùn”. Sự
phủ định nhằm mục đích nêu lên vẻ đẹp phẩm chất của hoa sen. Đây
chính là một trong những đặc tính của hoa sen mà tác giả dân gian đã
ghi nhận rất chính xác. Sen vốn sống với bùn, từ bùn mà lớn lên
nhưng lại không hề bị ô nhiễm bởi bùn, không bị ảnh hưởng bởi mùi
hôi của bùn. Ta thấy giữa bùn và hoa như không can hệ gì với nhau,
hoa sen vẫn giữ được hương thơm tinh khiết vốn có của mình. Hơn
thế nữa, sen còn có đặc tính trừng thanh, hễ mọc ở đâu thì sen lại làm
cho nơi đó nước đục hóa trong. Chính những đặc tính này đã góp
phần giúp cho hoa sen được người đời quý chuộng, tôn vinh và trở
thành một biểu tượng của Phật giáo.
Khi đọc đến câu cuối cùng, có lẽ chúng ta sẽ không dừng lại lâu
để suy nghĩ về ý nghĩa của mặt chữ mà nhanh chóng chuyển sang tìm
hiểu nghĩa hàm ẩn của bài ca dao. Bởi vì đằng sau việc miêu tả vẻ
đẹp của hoa sen, bài ca dao còn ẩn chứa một ý nghĩa sâu xa hơn.
Chính là nêu bật những phẩm chất cao quý của con người. Lúc này,
sen chính là hình ảnh của con người, bùn tanh trong đầm đã biến
thành bùn của cuộc đời và đầm sen chính là xã hội mà con người
đang sinh sống. Những phẩm chất của sen giờ đây trở thành những
phẩm chất cao đẹp của con người.

130
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Con người sống trong một xã hội đầy những nhơ nhóp, xấu xa
nhưng vẫn giữ được sự trong sạch, thanh cao của mình. Miễn nhiễm
với những thói đời xấu xa là một nét đẹp của con người và cũng là
mục tiêu vươn tới của nhiều người. Chúng ta có thể thấy rõ điều này
qua hình ảnh của các bậc chính nhân quân tử ngày trước. Tạo đều có
một điểm chung là sống trong một xã hội đầy rẫy những tệ nạn, gian
tham, độc ác. Thế nhưng, họ vẫn không buông mình theo thói đời,
không đánh mất lòng tự trọng, sự thanh cao của bản thân. Trái lại, họ
luôn thể hiện một tia sáng tuyệt vời trong cảnh âm u của bóng tối
cuộc đời. Sự thanh cao ấy vẫn mãi có giá trị, vẫn được nhiều người
trong xã hội hôm nay rèn luyện và phát huy. Tất cả đều kiên quyết
không để bị nhúng chàm cho dù biết bao người chấp nhận buông
theo để đạt được chút danh lợi. Chính theo cái xấu để rồi chính mình
bị cuốn theo là điều mà người tự trọng không bao giờ chấp nhận.
Không chỉ vậy, con người đích thực còn tìm cách làm cho môi
trường sống của mình nên tốt hơn, tinh sạch hơn. Cũng như hoa sen
có khả năng làm cho nước đục lắng trong, con người cũng có khao
khát làm cho xã hội được nên trong sạch hơn. Mong muốn diệt trừ sự
dữ hơn được khắc ghi trong tâm thức con người và được con người
cố gắng thực hiện khi có thể không cần phải hô hào lại lên mặt dạy
đời. Chúng ta chỉ đơn gian là trở nên gương sáng qua chính đời sống
hằng ngày của mình. Dần dần, chúng ta sẽ biến đổi được những
người mà mình tiếp xúc. Và cứ như vậy, xã hội của chúng ta sẽ dần
“trong” hơn là điều chắc chắn.
Rõ ràng, tác giả dân gian đã rất khéo léo khi ca ngợi phẩm chất
con người thông qua hình ảnh hoa sen. Những phẩm chất ấy luôn
được con người trân trọng và phát huy qua mọi thời đại. Cho dù cuộc
đời có là một vũng bùn nhơ nhớp thì vẫn có biết bao người tìm cách
ngoi lên, không để bị chìm ngập trong sự nhơ nhớp đó. Đó là khí tiết

131
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
của các bậc quân tử trong thời phong kiến. Họ thà bị thiệt thân còn
hơn là đánh mất bản thân chỉ vì chút bả vinh hoa. Đã có bao người
chấp nhận đánh đổi mạng sống để kiên quyết giữ thái độ sống cao
quý của mình. Khi đọc các sách lịch sử, hẳn chúng ta sẽ nhận thấy rất
nhiều tấm gương sáng về điều này. Trong thời kỳ phong kiến thối
nát, tệ nạn mua quan bán chức, luồn cúi để tiến thân dần trở nên một
điều hiển nhiên. Việc thi cử dần trở thành hình thức, vì dù có thực tài
cũng chưa chắc đỗ đạt nếu không biết hối lộ, đút lót. Thế mà ta vẫn
nghe biết về nhiều vị quan thanh liêm chính trực, không xu nịnh,
không tham nhũng. Những vị này tuy không được nhiều lợi lộc hoặc
có khi còn bị hãm hại, thậm chí mất mạng, nhưng phẩm hạnh của họ
thì không có gì chê trách được, và cho tới nay, đó vẫn là những tấm
gương sáng được người đời ca ngợi và học hỏi. Không chỉ ở thời
phong kiến xa xưa. Ngay trong cuộc sống hiện tại của chúng ta với
đầy những tệ nạn vẫn có nhiều người giữ được mình khỏi sa lầy. Đó
là các bạn trẻ biết đứng vững trước những tệ nạn, tiêu cực trong cuộc
sống. Đó là những người lao động chân chính biết tránh xa cám dỗ
danh lợi, gian dối, lừa lọc. Đó là những nhà giáo nhiệt huyết, kiên
quyết nói không với bệnh thành tích, với những tiêu cực trong học
hành, thi cử. Đó là những người buôn bán biết khước từ cám dỗ của
lợi nhuận phi pháp để không gây hại cho người tiêu dùng. Tất cả đều
đáng được coi là can đảm khi dám vượt thẳng sự dữ và vượt thắng
chính mình. Họ sẵn sàng chấp nhận thiệt thòi để giữ cho lòng mình
được thoải mái, nhẹ nhõm. Nếu ngày càng có nhiều người dám sống
như vậy thì bộ mặt xã hội sẽ thay đổi. Như vậy, bài ca dao đã phản
ảnh rất chính xác về phẩm chất cao quý của con người. Giá mình
trong sạch, thanh cao vừa là bản chất của con người vừa là mục tiêu
mà con người cần vươn tới.

132
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Tuy nhiên, trong thực tế chúng ta vẫn thấy nhiều gương mà
gương xấu với những hành vi hoàn toàn ngược lại. Đó là những
người chỉ vì chạy theo giá trị xã hội tầm thường mà đi vào vũng lầy
tăm tối. Họ chỉ biết có lợi ích của bản thân mà bất chấp thủ đoạn, sẵn
sàng làm hại mọi người khác để mình được thăng tiến. Đó chính là
những người dùng tiền để mua học hàm học vị, trong khi bản thân lại
lười biếng, không chịu học hành nghiêm túc. Rồi báo chí gần đây
cũng đăng tin về tiêu cực trong việc tuyển dụng công chức nhà nước.
Những người muốn trúng tuyển phải chịu bỏ ra một số tiền không
nhỏ và xem như đó là chi phí để có một vị trí ổn định lâu dài. Bên
cạnh đó, còn có biết bao điều xấu khác như mua gian bán lận, tham
nhũng, lừa đảo… Thậm chí, nhiều người dù cho rằng phải biết theo
thời thế mới là nhân ngoan. Dần dần, họ đã biến những điều sai thành
chuyện hiển nhiên, trắng đen đảo lộn và quay ra chỉ trích những
người muốn sống ngay thẳng là quân tử dại. Quả là một thực tế đáng
buồn. Tất cả tạo nên một bức tranh xã hội với quá nhiều mảng tối.
Đến nỗi, nhiều người gần như không còn tin vào những giá trị tốt đẹp
trong cuộc sống nữa. Ngay cả trẻ con cũng dễ dàng nhận thấy những
điều này chứ không cần phải là người có con mắt nhìn đời. Có lần,
khi thấy cảnh sát giao thông thổi còi báo hiệu cho một người đi xe
máy dừng lại, một em nhỏ mới học lớp sáu đã nói ngay: “Mấy ổng
lại muốn kiếm tiền kìa”. Đáng trách hơn, nhiều người lao theo những
thói hư tật xấu ấy đã không biết hối hận thì chớ lại quay ra đổ thừa
tại này, tại nọ. Tất cả chỉ là lời ngụy biện, không có chút giá trị nào.
Nếu những người đó hiểu được ý nghĩa của hình tượng hoa sen trong
bài ca dao trên thì họ sẽ xấu hổ lắm.
Bài ca dao được viết theo thể thơ lục bát rất hay và đã miêu tả vẻ
đẹp của hoa sen rất tuyệt vời. Qua đó, tác giả dân gian còn hàm ý ca
ngợi, dù sống trong sự vùi dập của cuộc đời nhưng vẫn biết vươn
mình lên như những bông sen nở tươi và tỏa hương thơm ngát giữa
133
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
đầm lầy. Thế nhưng, cuộc sống không chỉ đơn giản và đi theo một
chiều như vậy vẫn và đâu đó những con người sống buông theo dòng
xoáy của sự dữ, đánh mất chính mình. Nhưng dù thế nào đi nữa thì
những phẩm chất muôn đời cao quý của con người vẫn không bao giờ
thay đổi. Chúng ta hãy cứ lạc quan, tin tưởng vào một xã hội ngày
càng tươi sáng hơn. Nếu mỗi người đều cố gắng từng ngày để thay đổi
thì kết quả tốt đẹp sẽ đến vào một ngày không xa. Khi dạy cho trẻ nhỏ,
chúng ta hãy cứ nhắc đi nhắc lại những giá trị đạo đức ấy, hãy cho các
em thấy vẫn còn rất nhiều gương sáng trong đời để noi theo.
Đặc biệt là một Kitô hữu, chúng ta càng phải nỗ lực hơn trong
vấn đề này. Bởi vì khi làm vậy là chúng ta đang noi theo gương của
thầy Giêsu Chí Thánh, Đấng sống thánh thiện suốt cả cuộc đời tại
thế. Đây cũng là một trong những cách thế giúp chúng ta nên trọn
lành như ý Chúa. Dù sống giữa đời thường nhưng chúng ta phải can
đảm vượt thắng những cám dỗ, cạm bẫy danh vọng, vật chất tầm
thường ấy. Chúng ta cần rèn sao cho tâm của mình ngày càng sáng
và trở thành ánh sáng lan tỏa giữa xã hội này. Mọi vật đều phải qua
đi theo thời gian, nhưng giá trị đạo đức thì mãi trường tồn.
Tóm lại, bài ca dao đã miêu tả rất hay và cụ thể hình ảnh của hoa
sen, không chỉ dừng lại ở vẻ bề ngoài mà còn nêu lên được phẩm
chất của loài hoa tượng trưng cho sự thanh cao này. Qua đó, tác giả
dân gia còn gửi gắm, lòng quý chuộng những phẩm chất tuyệt vời
của con người. Con người sống trong một xã hội đầy gian tà, xảo trá
nhưng vẫn giữ cho mình không bị vẩn đục. không chỉ thế, con người
đích thực còn tìm cách biến đổi môi trường sống nên tốt hơn, trở nên
một môi trường phát triển toàn diện. Đó vừa là bản chất vừa là mục
tiêu mà chúng ta cần vươn tới. Ước mong mỗi người biết cố gắng
không ngừng để trở nên tia sáng giữa đời, biết can đảm “sống giữa
thế gian nhưng không theo thói thế gian” và trở thành “muối cho đời,
ánh sáng cho trần gian”.
Tên: Gioan Baotixita Đặng Đức Duy Khang

134
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
ĐỀ BÀI 14:Bình giảng câu tục ngữ:
“Ăn trông xuống, uống trông lên”
Anh suy nghĩ gì về sự quan tâm trong thời đại hôm nay.
BÀI LÀM:
“Tiên học lễ, hậu học văn” Quả thật, từ xa xưa cha ông ta đã
nhận thức được tầm quan trọng của chữ “lễ” trong cuộc sống hàng
ngày. Đặc biệt hơn đó là cách đối nhân xử thế giữa người dưới với
người trên và ngược lại. Chúng ta phải có thái độ và cách cư xử với
mọi người ra sao. Câu tục ngữ:
“Ăn trông xuống, uống trông lên”
Sẽ là một câu trả lời đầy ý nghĩa và sâu sắc cho mọi trường lớp
trong xã hội.
Vậy, chúng ta hãy cùng nhau phân tích và suy nghĩ xem câu tục
ngữ trên đã hoàn toàn đúng hay chưa, hay nó còn mang một ý nghĩa
nào khác.
Như một quy luật tất yếu của cuộc sống “ăn – uống” là hành
động rất bình thường mà mỗi người trong chúng ta đều phải thực
hiện hàng ngày, để duy trì và đảm bảo sức khỏe cho bản thân. Nhưng
để thực hiện hành động này một cách chuẩn xác, mà không đánh mất
đi “nhân bản” thì không phải điều dễ dàng mà ai cũng làm được. Qua
cách ăn, uống hàng ngày chúng ta còn phải biết gửi gắm sự quan
tâm, cách “đối nhân” trong đó nữa. “Ăn trông xuống” có thể hiểu
đơn giản đó là những người được ngồi “mâm trên” cần phải biết
quan tâm để ý đến những người ngồi ở địa vị thấp kém hơn mình. Và
“uống trông lên” chính là cách nói để nhắc nhở những người ngồi
dưới, tức là những người thấp kém hơn phải biết ý tứ, quan sát xem
những người trên mình “uống” ra sao để rồi mình có cách xử sự cho
đúng lễ nghĩa. Như vậy, chúng ta có thể nhận ra được câu tục ngữ
muốn nhắc nhở mỗi người chúng ta tùy theo bậc sống của mình mà

135
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
có cách nhìn nhận, đối xử, quan tâm đến người khác cho phù hợp.
Những bậc làm trên cần biết quan tâm, để ý đến những người ở địa vị
thấp hơn và ngược lại những người ở địa vị thấp hơn, và ngược lại
những người ở cấp bậc thấp hơn, những thế hệ “hậu sinh” lại càng
phải biết xử sự như thế nào cho phải nghĩa theo địa vị của mình. Câu
tục ngữ là lời nhắc nhở nhẹ nhàng trong cách đối nhân xử thế của
người xưa.
Ngược dòng thời gian, chúng ta thấy địa vị xã hội được phân chia
một cách rõ ràng, có tôn ti trật tự, điều này cũng được thể hiện rõ qua
cách ăn uống hàng ngày. Trong bữa ăn, những mâm cổ có vẻ đầy đủ,
sang trọng hơn thường dành cho bậc vua chúa, quan quyền, trong gia
đình đó là ông bà, cha mẹ. Và những bàn ở bậc phía dưới thường là
dành cho các thường dân, con cái hay người giúp việc. Cha ông ta đã
thật tài tình khi sử dụng hình ảnh rất đỗi quen thuộc, đơn sơ đó là
cách “ăn-uống” hàng ngày để dạy cho con cháu cũng như mọi người
đều phải biết quan tâm lẫn nhau.
Ở vế đầu của câu tục ngữ “Ăn trông xuống”, là lời khuyên răn
nhẹ nhàng cho các bậc làm trên, có thể ở trong địa vị là một vị vua,
một ông quan thì chúng ta cần phải biết “trông xuống” tức chúng ta
cần biết nhìn xuống người dân, nhìn xuống những kẻ thấp kém hơn
mình. Chúng ta để ý xem, ngó xem những người dân đang cần gì,
thiếu gì. Đó phải chăng là miếng cơm, manh áo để nuôi sống bản
thân, gia đình của mỗi người. Hay cũng có thể đó là một lời động
viên khích lệ rất đỗi đơn sơ trong cuộc sống hàng ngày. Cũng vậy,
ông bà, cha mẹ, thầy cô, anh chị là những bậc đi trước cũng cần phải
quan tâm đến con cái, học trò, người em của mình. Và điều này cần
phải được thể hiện rõ qua hành động hàng ngày, có thể đó là những
lời khuyên răn, bảo ban, dạy dỗ đúng với đạo lí, đặc biệt đó là dùng
tình thương để quan tâm, chăm sóc đến bậc “hậu sinh”. Như thế, chỉ

136
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
qua ba từ “ăn trông xuống” tuy rất ngắn nhưng đó lại là một lời nhắc
nhở khéo léo đến các bậc đi trước trong cách xử sự với mọi người,
đặc biệt là những người có địa vị thấp hơn mình hay những kẻ bước
theo sau vế đầu tiên đã rõ, vậy ở vế còn lại cha ông ta muốn gửi gắm
đến chúng ta thông điệp gì.
Khi đọc và tìm hiểu về con lại: “Uống trông lên” đó lại là một lời
khuyên răn bổ ích cho các bậc hậu thế. Là một người đi sau, một kẻ ở
bề dưới, chúng ta phải nhận ra cho được địa vị và bổn phận của mình
để cư xử sao cho đúng với đạo nghĩa. Là một người dân chúng ta cần
phải xưng hô, lễ nghĩa với vua chúa, các vị quan sao cho có tôn ti trật
tự. Là con cái, trong nhà chúng ta cần phải nhìn lên ông bà, cha mẹ,
anh chị, để cư xử làm sao cho đúng với “lễ nghĩa gia phong”. Nhìn
xem hoàn cảnh đất nước, gia đình mình ra sao để đưa ra cho bản thân
một cách sống phù hợp. Đặc biệt hơn là phải biết tôn kính, hiếu thảo,
yêu thương các bậc làm trên hết mực, vì các ngài là những vị đi
trước, sinh thành và dưỡng nuôi ta nên người.
Như vậy, với cách sử dụng hai hành động rất gần gũi đó là “ăn –
uống”, kết hợp với việc sử dụng và hai
Tên Thánh, Tên Gọi: Phao lô Đinh Chí Cung

137
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề 15:Bình luận ý kiến: " Lòng nhân ái chỉ trở thành các
giá trị đạo đức khi chính nó là sự hy sinh vị tha"?
Bài làm.
Tạo hóa đã ban tặng cho ta cách nhưng không một tặng phẩm vô
giá, đó là trái tim biết yêu thương, thổn thức, rung cảm trước hoàn
cảnh sống của tự nhiên và đồng loại. Và hẳn nhiên ai cũng mong
muốn mở rộng con tim để thương yêu và tiếp nhận nguồn lực sung
mãn từ chính tình yêu vô biên ấy. "Lòng nhân ái chỉ trở thành các giá
trị đạo đức khi chính nó là sự hy sinh vị tha". Bằng lý trí, bằng sự hy
sinh vị tha con người sẽ thắp sáng niềm tin nơi tha nhân, bằng hành
động yêu thương, sẽ là sợi chỉ đỏ xuyên suốt gắn kết mọi người trong
tình huynh đệ.
Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết lên một chân lí "Sống trong
đời sống, cần có một tấm lòng". Tấm lòng mà nhạc sĩ muốn nói lên
chắc hẳn đó là lòng nhân ái! Trong mối tương quan giữa người với
người trong xã hội thuật ngữ "lòng nhân ái" được thay thế bằng một
từ ngắn gọn đó là "thương người" hay "yêu người", rộng lớn hơn đó
là tình yêu của con người đối với thiên nhiên và vạn vật. Đó là tình
yêu phổ quát nhất trong mối liên hệ mật thiết của con người với môi
trường sống.
Đối với tình thương giữa người với người hàm chứa một ý nghĩa
rộng lớn trong quan hệ, họ hàng thân thích, bà con lối xóm, dân tộc
và thế giới.
"Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn".
Cha ông ta đã khéo dùng hình ảnh trong cuộc sống gần gũi, để nói
lên sự chia sẻ, sự tương trợ vào nhau, nương tựa nhau để lớn lên và phát
triển. Cũng vậy, con người với con người cần có sự cảm thông, khích lệ,
tương thân tương ái cùng nhau vun đắp cuộc sống.

138
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Cán cân của giá trị đạo đức với lòng nhân ái sẽ trở nên cân bằng
hơn, khi lòng nhân ái có thêm "hy sinh vị tha". Vậy sự hy sinh vị tha
là gì? tại sao phải có nó? Hi sinh là quên mình, là gạt bỏ cái tôi của
bản thân để mưu cầu hạnh phúc cho người khác, một cách vô vị lợi,
đặc biệt góp phần làm cho sức mạnh tập thể được tăng lên. Vị tha đó
là xem mọi người xung quanh như chính mình "ái thân như ái kỷ".
Qua đó để qua qua những thiếu sót, những bất toàn nơi tha nhân.
Nhằm làm cho cuộc sống thêm vui tươi và thêm ý nghĩa.
Giá trị đạo đức là thước đo giá trị con người, trong đó con người
được tôn vinh hay hạ đẳng là do cán cân đạo đức quyết định, từ đó để
trả lời cho câu hỏi tại sao phải có sự hy sinh vị tha. con người sẽ không
đến được với nhau, sẽ không ôm hôn nhau trong cái ôm hôn thánh
thiện, khi tồn tại giữa họ một hố ngắn cách, đó là ích kỷ, ghen tuông,
lười biếng và đề cao chủ nghĩa cá nhân... để chôn lấp hố sâu đó, con
người phải yêu thương chan hòa, gần nhau để hiểu nhau, thông cảm và
chia sẻ với nhau.Bên cạnh đó con người cũng cần trau dồi kiến thức,
bồi bổ cách sống, cố gắng vươn lên làm chủ tri thức nhằm phục vụ lợi
ích cho bản thân và cho xã hội.
Để lòng nhân ái trở nên trọn vẹn đòi hỏi con người phải yêu và
tôn trọng môi trường sống xung quanh. Ngoài con người ra còn có
thiên nhiên, không khí, động vật..."Cuộc sống có dễ chịu và hạnh
phúc hay không đều phải thuộc vào những mối quan hệ với môi
trường xung quanh" (Sydey Jousard) đã khẳng định.
Vâng! cuộc sống con người sẽ đạt được sự trọn vẹn khi lòng nhân
ái được thể hiện ngay chính tình yêu đối với môi trường sống, nhằm
gần đạt đến sự hoàn hảo.
Lòng nhân ái chỉ đi với giá trị của sự hy sinh và vị tha, phát huy
kết quả khi giá trị đó được thực hiện bằng hành động cụ thể thiết
thức, và có ích, lúc đó giá trị càng lớn, tránh thực thi khi lòng nhân ái

139
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
bằng lời nói ngoài môi miệng. Chỉ nói thôi thì chưa đủ, chưa thuyết
phục và tan biến "tốt gỗ hơn tốt nước sơn". Điển hình cho lòng nhân
ái đó là nữ y tá người Mỹ gốc Việt Nina Phạm, đối mặt cơn bệnh
dịch Ebola vô cùng hiểm nguy đang rình rập bên mạng sống của cô,
chỉ vì tình yêu thương, lòng nhân ái cô đã bất chấp tất cả để phục vụ
cho những bệnh nhân đang nhiễm căn bệnh quái ác, cô đã được tổng
thống Mỹ ngợi khen, tôn vinh vì việc làm cao cả của cô.
Bằng chứng lớn nhất đó là Mẹ Têrêxa thành Calcutta vì lòng nhân
ái của Mẹ gắn chặt với sự hy sinh quên mình để phục vụ tha nhân, đặc
biệt những người bệnh tật nguyền, Hay tấm gương sáng chiếu tỏa lòng
nhân ái đó là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Ngài đã đến tận nhà tù
để tha thứ và xin giảm hạn tù cho kẻ mưu sát Ngài.
Như thế, lòng nhân ái chỉ phát huy giá trị đạo đức khi loại bỏ ra
khỏi đời sống luân lí khi chỉ nghĩ về mình hay vì hình thức bên ngoài
mà thôi. Lòng nhân ái đó không chỉ là sự quan tâm hay động viên mà
còn đòi hỏi nâng phẩm giá con người lên, ngang tầm với phẩm giá đạo
đức. Đức Thánh Cha đã từng nói: "Lòng nhân ái phải tự đánh mất
mình cho người khác". Đúng vậy, nếu không quên đi cái tôi của mình
vì người khác, chắc hẳn chúng ta khí đạt đến giá trị đạo đức, như ngọn
nến tan chảy con người muốn cống hiến khả năng và thắp sáng nguồn
tình yêu cho mọi người quanh mình.
Hành động đó không đợi ở ngày mai, hay để dành tương lai, mà
đòi hỏi mỗi chúng ta cần có hành động ngay bây giờ. Đặc biệt, trong
thời đại ngày nay, khi mà lòng nhân ái đang bị làm sai lệch và đánh
mất giá trị, hoặc biến tấu và tự bóp méo nó, một bộ phận con người
lợi dụng lòng nhân ái để mưu lợi cá nhân hay đánh bóng tên tuổi của
tổ chức hoặc đất nước mình, lòng nhân ái không còn có giá trị đạo
đức thì các ý kiến trên là tiếng chuông cảnh tỉnh giúp cho người nhìn
nhận lại mình, để có sự điều chỉnh phù hợp với giá trị đạo đức, trong

140
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
tư suy và trong hành động. Đồng thời, có thái độ tôn trọng, đặc biệt
lòng nhân ái không phải là bố thí mà nó là một sự trao ban giữa
người với người và người với tự nhiên. Giới hạn của sự trao ban đó
không dừng lại ở cá nhân mà nó còn mang tính tập thể, không chỉ
dừng lại ở ranh giới quốc gia mà đòi hỏi toàn thể dân tộc trên thế giới
xích lại gần nhau bình đẳng hợp tác và tôn trọng quyền con người.
Câu nói trên đúng và phù hợp với chúng ta.
Tóm lại, "Lòng nhân ái" gắn chặt với sự hy sinh vị tha, nó làm
nên phẩm giá con người. Hai nhân tố trên sẽ vỡ vụn và tan biến nếu
như không có sự kết hợp mật thiết bổ túc và gắn kết với nhau. Ý kiến
trên là bài học vô cùng giá trị cho mỗi chúng ta, bài học của sự nhân
ái, khiêm nhường vị tha, quên mình vì anh em, để nâng cao phẩm giá
mọi người. Đối với Kitô hữu nói chung và cách riêng đối với mỗi Tu
sĩ, Linh mục, hơn bao giờ hết, ta cần nâng niu và dìu dắt tình yêu
thương, cần kết hợp tình yêu đồng loại trong phạm trù hy sinh vị tha
như Chúa Giêsu đã nghiêng mình cúi xuống rửa chân cho các môn
đệ, cao cả hơn Ngài đã chết cho người mình yêu.

141
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề 16.Bình luận nhận định sau: “Cái đáng sợ nhất trên
đời chính là công lý bị tách rời khỏi lòng nhân ái.”
Bài làm
Có một danh nhân đã từng nói: “… thời gian là nhà cải cách vĩ
đại nhất.” Quả vậy, theo dòng chảy của thời gian mọi sự sẽ được
kiểm chứng, đánh giá và chắc chắn một điều sẽ có sự đào thải những
gì không hợp với hoàn cảnh, với thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, có
một điều mà không bao giờ mất đi, dù cho thời gian có trôi đi, đó
chính là lòng nhân ái.”
Còn gì trên đời đẹp hơn thế.
Người với người sống để yêu nhau.
Lòng nhân ái đẹp tựa như viên ngọc, thơm ngát tựa hương hoa và
bền vững trường tồn. Bởi thế có người đã nhận định rằng: “Cái đánh
sợ nhất trên đời chính là công lý bị tách rời khỏi lòng nhân ái.”
Chúng ta cùng tìm hiểu tại sao tác giả lại không sợ thứ gì hơn mà lại
sợ “công lý” tách rời khỏi “lòng nhân ái”.
Nhưng trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu công lý là gì và lòng nhân
ái là gì. Trải qua mọi thời, mọi nơi, xã hội lòai người luôn luôn tồn
tại một tổ chức quyền lực và họ có nhiệm vụ đảm bảo cho xã hội
phát triển trong một trật tự và công bằng. Những tổ chức này có
nhiệm vụ bảo đảm cho công lý được thực hiện, giữ cho cán cân
quyền lực được ổn định, và xóa bỏ dần những bất công, tránh tình
trạng “người bóc lột người” hay “cá lớn nuốt cá bé”. Từ đó, ta có thể
rút ra được một khái niệm về công lý đó là cái lẽ phải phù hợp với lợi
ích chung của xã hội, cái lẽ phải này đảm bảo cho luật pháp được thi
hành bằng một tổ chức, hay cơ quan có quyền lực.
Còn lòng nhân ái là gì? Đó chính là tấm lòng yêu thương của con
người, là hương thơm tinh túy nhất để kéo con người lại gần nhau, là
nụ cười có thể ban tặng cho bất cứ ai và lòng nhân ái chứ không phải
gì khác làm cho cuộc sống chúng ta đáng sống và có ý nghĩa hơn.

142
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Công lý và lòng nhân ái là hai yếu tố quan trọng nhất đảm bảo
cho một xã hội phát triển bền vững và tốt đẹp. Đó là hai gam màu
đen trắng tưởng chừng như đối lập nhưng nó đã tạo ra một bức tranh
hoàn chỉnh cho cuộc sống chúng ta. Cũng vậy, tác giả muốn nói rằng
thật là khủng khiếp cho con người nếu người ta chỉ lo thực thi công
lý mà bỏ quên đi lòng nhân ái. Khi ấy, bức tranh cuộc sống sẽ toàn
một màu đen và con người sẽ ra sao khi sống trong cảnh không có
ánh sáng của tình người.
Mahatma Ganhdi đã nói: “Những kẻ chỉ biết cậy dựa vào sức
mạnh mà thiếu tình yêu cuối cùng sẽ thất bại”. Từ đó, chúng ta thấy
rộng ra sự thất bại trong một gia đình nếu người cha và người mẹ chỉ
dạy con bằng roi bằng vọt; Một tổ chức quản lý nhân viên bằng
những hình thức kỷ luật; Hay một nhà nước quản lý nhân dân nhân
danh quyền lực và hình phạt mà không có tình người. Rất tiếc là
trong xã hội chúng ta ngày hôm nay người ta đang dùng công lý như
một phương tiện cai trị và giống như một chiếc đinh đóng cố định và
trong đầu những con người quản lý, những tổ chức, những cơ quan
nhà nước. Người ta đọc luật và dựa vào áp dụng như một cái máy mà
không biết con người, hoàn cảnh hay điều kiện thực tế của họ. Hậu
quả là gì? Chúng ta không khó để thấy có nhiều học sinh sau khi bị
kỷ luật thôi học quay lại để trả thù thầy giáo. Người ta nói rằng đuổi
học sinh là thất bại của giáo dục, tuy nhiên chúng ta sẽ bàn sau
những vấn để về những học sinh cá biệt, nhưng trước hết hãy nhìn
vào đội ngũ những người thầy người cô. Tại sao những em học sinh
này bị đuổi học? Phải chăng là chúng ta đang làm đúng nhiệm vụ của
một người theo luật, chúng ta không sai với luật, nhưng sai với chính
lương tâm chúng ta. Thử hỏi những người thầy, người cô đã thực
hiện đúng những điều các em lĩnh hội từ thuở vỡ lòng “cô giáo như
mẹ hiền” chưa? Có thể các em có những sai phạm; thậm chí rất

143
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
nghiêm trọng, nhưng điều các em cần là tình yêu thương chứ không
phải là việc các thầy cô đuổi học cho rảnh tay. Hãy kiên nhẫn hơn và
hãy thương lấy các em. Đó là lòng nhân ái. Còn nữa, khi mà người ta
chỉ nói chuyện với nhau bằng lí mà bỏ quên tình người thì cuộc sống
của chúng ta sẽ mất dần những nụ cười trao cho nhau. Con người suy
cho cùng, dẫu có bôn ba kiếm tìm mọi thứ để vun vén hạnh phúc cho
mình thì cuối cùng điều cần thiết là tình người. Quả vậy mà Bill
Gates từ người giàu nhất thế giới muốn trở thành người đạo đức nhất.
Thế mà nhiều người vẫn chạy theo lý lẽ để lãng quên tình người.
Những cảnh sát, tòa án… đang ngày đêm nhân danh công lí mà thực
thi cũng như đảm bảo cho pháp luật thực hiện. Hẳn một điều luật
trước khi được đưa vào thực tiễn cũng phải cân nhắc, xem xét ý
nghĩa thực tiễn có phù hợp với người dân hay không. Thế nhưng, các
anh nhiều lúc vì thực hiện luật mà bắt một bệnh nhân đang cần cấp
cứu trên đường đưa tới bệnh viện, để cuối cùng bệnh nhân phải chết.
Đó không chỉ là thất bại của anh trong nghề mà anh đang chà đạp lên
đạo lí làm người, bôi xấu cơ quan nhà nước đang quản lí và phụ lòng
nhân dân, người cấp phát lương cho anh. Và như thế, luật pháp mà
anh đang bảo vệ xa rời thực tế của lòng dân, dễ dàng nảy sinh sự bất
tuân trong nhân dân. Phải có lòng dân mới có sức cảm hóa và dễ đi
vào lòng người dù cho bất cứ một điều luật nào như Joya Brothers
từng nói: “Sức mạnh mãnh liệt nhất, phi thường nhất trên thế giới
này chính là sức mạnh của tình yêu thương.”
Tình yêu thường là điều quan trọng trong bổ trợ cho công lí đi
vào thực tại cuộc sống chúng ta. Công lí cần đồng hành với tình yêu
thương trong sư mạng gìn giữ hòa bình trong thế giới chúng ta. Tình
yêu thương để thứ tha, để cảm thông để biến những tâm hồn tội lỗi
quay về cuộc sống đời thường. Các nhà tù chúng ta đã ân xá cho bao
nhiêu phạm nhân trong các dịp lễ lớn. Các phạm nhân ra tù được tạo

144
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
công ăn việc làm, tạo điều kiện hòa nhập trở lại cuộc sống. Thử hỏi
nếu không có lòng nhân ái thì họ sẽ ra sao? Bởi đó mà chúng ta thấy
tác giả thật có lí khi cảnh tỉnh chúng ta biết đừng để công lí rời xa
lòng nhân ái. Mẫu gương về lòng yêu người của Đức cố Giáo Hoàng
Gioan Phaolo II vẫn còn đó và sức mạnh cảm hóa từ cử chỉ vào tận
nhà tù ngay khi tỉnh lại để thăm và an ủi kẻ đã ám sát mình, thật đáng
để thế giới nói chung và những người đang thực thi công lí học tập.
Như danh nhân Xenophone nói: “Chúng ta hãy khoan dung về những
lỗi lầm của người khác và tha thứ đối với kẻ phạm tội thì sẽ lành
mạnh hơn là trừng phạt”.
Tuy nhiên, điều mà chúng ta cũng phải nói đến là vai trò của
“công lí” bên cạnh “lòng nhân ái”. Mạnh Tử viết rằng: “Chỉ có lòng
thiện thì không đủ sức cai trị, chỉ có pháp luật không đủ sức khiến
người ta tuân theo”. Cho nên bên cạnh lòng yêu thương là một công
lí rõ ràng phù hợp với lòng người. Người ta không thể quản lí xã hội
chỉ bằng tình cảm, đó là điều hoàn toàn đúng. Pháp luật, nội quy, quy
định cùng với các tổ chức đảm bảo thực hiện là điều kiện bảo đảm
trật tự xã hội. Chúng ta thấy rằng nếu một gia đình tổ chức hay đất
nước, luật pháp không nghiêm thì sẽ loạn và kéo theo những hệ quả
khác về kinh tế, văn hóa, xã hội. Người ta nói “Kỉ luật là sức mạnh”
là điều kiện duy trì sự nề nếp trong gia đình, nhà trường, xã hội, đảm
bảo sự công bằng cho mọi người dân trong một quốc gia hay vùng
lãnh thổ. Quả vậy, nhà nước lập nên cảnh sát, quân đội, thậm chí nhà
tù để ngăn ngừa, bắt giữ, sửa phạt những người vi phạm pháp luật,
điều này mang ý nghĩa giáo dục những người lầm lỡ hay đã cố tình
phạm tội chống lại nhà nước, chống lại con người. Cơ quan tổ chức
nào cần có nội quy, quy định cũng như thành lập ủy ban kỷ luật
ngoài ý nghĩa xử phạt những cá nhân vi phạm còn có tác dụng ngăn
ngừa vi phạm. Trong trường hợp này pháp luật hay nội quy, quy định

145
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
như hàng rào bảo vệ giữ gìn cho chúng ta tránh khỏi những vi phạm,
tạo lập một tác phong làm việc tự nguyện tự giác mang lại hiệu quả
cho không chỉ chúng ta mà cho toàn xã hội. Bởi đó, chúng ta thấy
công lí và những người đang thực thi công lí không phải là xấu mà là
rất tốt. Nó mang ý nghĩa trong việc duy trì và đảm bảo sự ổn định và
phát triển cho xã hội và là tiền đề để thực thi bác ái và công bình.
Vấn đề của chúng ta là đặt cái tình và cái lí bên cạnh để có hỗ trợ cho
nhau. Franklin nói: “Luật mà không khoan dung thì ít được tuân
theo, luật mà không khắt khe thì ít được thi hành.” Hẳn tác giả cũng
như chúng ta ý thức được rằng cái cần là nên để công lí và lòng bác
ái song song tồn tại để trong xã hội có được cái lí để hiểu nhau từ đó
phát sinh cái tình người để yêu nhau.
Mặc dầu vậy, chúng ta biết rằng cái tình tức tấm lòng bao dung
giữa con người là cái cuối cùng sẽ còn lại. Cha ông ta hẳn không quá
khi nói rằng: “Một bồ cái lí không bằng một tí cái tình”. Cái tình
người lớn hơn rất nhiều so với cái lí đời. Mà cũng bởi lẽ thế mà
Mauricue đã không nói cái đáng sợ trên đời là lòng nhân ái bị tách
rời khỏi công lí. Cũng do điều này mà trước bất kỳ một vụ án dân sự
nào các cơ quan, tổ chức cũng yêu cầu các bên nguyên đơn, bị đơn
hòa giải tức là nói chuyện bằng tình, trước khi ra tòa án xét xử theo
pháp luật. Chúng ta tin rằng trong sâu thẳm tấm lòng mọi người, dù
là tội nhân cỡ nào, vẫn còn những xúc cảm lương thiện vì thế mà
khát khao hướng thiện sẽ bùng cháy nếu chúng ta tạo điều kiện cho
họ. Thế giới này đang cần nhiều hơn “một tý cái tình” để thay đổi bộ
mặt đang xấu dần đi bởi bom đạn, chiến tranh, hận thù và tranh chấp.
Người ta nhân danh công lí để chà đạp một công lí cao cả hơn là tình
yêu. Người ta không thể lấy cứu cánh biện minh cho hành động” vì
suy cho cùng thi con người mới là trong tâm của vũ trụ, không thể
dùng con người làm phương tiện để đạt tới bất cứ một điều gì khác.

146
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Cũng như chúng ta không thể lấy lí do bảo vệ công lí để phản bội lại
tình yêu thương giữa con người với con người.
Mỗi người chúng ta sinh ra trong cuộc đời rồi ra khỏi cuộc đời
như là một định mệnh, như Trịnh Công Sơn viết trong nhạc phẩm
Mưa Hồng “Đời có bao nhiêu mà hững hờ”. Cuộc đời đang ghi công
chúng ta xem chúng ta thực thi đức bác ái thế nào chứ không phải
chúng ta thực thi công lí hay không. Tình yêu, sự tha thứ, quảng đại
là điều lớn nhất ta tìm kiếm dẫu nó còn vương lại những hệ lụy cho
chúng ta. Những hệ lụy đó có thể là sự vị nể người này, người nọ, để
cảm tình lấn át công việc… Tuy nhiên, gạt ra những điều ấy “lòng
nhân ái” sẽ đẹp đẽ và càng đẹp hơn khi ghép vào công lí để tạo nên
một bức tranh cuộc sống hoàn mĩ.
Người viết: Trần Đình Vẹn
Nhận xét: Lập luận chặt chẽ và sắc nét; đảm bảo các yêu cầu
của kỹ năng bình luận. Am hiểu nội dung vấn đề được luận đề nêu
ra, Diễn đạt khá tốt. Tuy nhiên, đôi chỗ xây dựng dùng câu văn chưa
đúng chuẩn ngữ pháp (Cách sử dụng dấu chấm câu, dấu chấm hỏi),
một vài từ chưa được chọn lọc kĩ.

147
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề 17. Theo anh, sống đẹp là sống thế nào?
Bài làm:
Cố nhạc sĩ thiên tài Trịnh Công Sơn đã viết trong nhạc phẩm
"Một cõi đi về" rằng: "Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi, đi đâu loanh
quanh cho đời mỏi mệt..." Quả vậy, con người từ khi cất tiếng khóc
chào đời cho tới khi giã từ cuộc đời là một cuộc hành trình đi tìm lẽ
sống. Chúng ta luông trăn trở suy nghĩ về đời mình sống là sao cho
tốt, cho đẹp. Có những người đã tìm thấy định nghĩa riêng cho mình
và họ đã đem dâng tặng cho cuộc đời những đóa hoa thơm quả ngọt.
Bên cạnh đó cũng có những người đã tìm cho mình một quan niệm
sống, nhưng tiếc thay những hoa quả được họ sinh ra thật không đẹp
chút nào. Ngoài ra có những người loay hoay cả đời mình mà vẫn
chữa tìm ra lời giải cho mình nên phải nuối tiếc. Còn chúng ta, chắc
hẳn mỗi người chúng ta đã, đang và sẽ tìm thấy cho mình một định
nghĩa cho hai từ "sống đẹp". Phần tôi, tôi cũng có những suy tư của
riêng mình.
Như bông hoa luôn hướng về ánh mặt trời, con người chúng ta
sinh ra trong đời trước tiên là cần phải có mục đích, lý tưởng để vươn
lên. Như có câu danh ngôn nói rằng: "Cong người không phải là một
bình nước cần được đổ đầy mà là một ngọn nến cần được thắp sáng".
Chúng ta không chỉ là một cầu thủ chỉ bằng lòng với băng ghế dự bị
nhưng phải luôn chăm chỉ luyện tập để mong được ra sân và cống
hiến cho đội bóng. Sống có mục đích sẽ giúp chúng ta không ngừng
vươn lên, dù cả khi gặp những điều không may trong cuộc sống. Như
dòng sông phải vượt qua bao thác ghềnh để về với biển lớn thế nòa
thì để đạt được mục đích trong đời, chúng ta cũng phải vượt qua
những cạm bẫy ở đời như vậy. Tuy nhiên, lí tưởng, mục đích là sự
thành công, mặc dù nó đang ở phía trước nhưng nó rất đẹp và hấp
dẫn có sức mê hoặc lạ thường. Những ngày còn thơ trong vòng tay

148
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
ba mẹ, đứa con đã mơ ngày nào đó được ra thành phố để tận mắt
chứng kiến cảnh phồn hoa đô hội. Ước mơ thúc đẩy đứa con học
hành chăm chỉ hơn dù cho hoàn cảnh gia đình, quê hương còn rất
thiếu thốn nhưng chỉ có con đường vào đại học mới có cơ hội được
thỏa mãn ước mơ giản dị của tâm hồn tuổi thơ. Và với bao công lao
vất vả, cố gắng đứa con đã thực hiện được ước mơ của mình. Có ai
đó đã nói: "Ước mơ chỉ là khởi điểm." nhưng nếu không có khởi
điểm thì thử hỏi có về đích được không. Thế nhưng mơ ước, sống có
mục đích, lí tưởng cũng phải xây dựng phù hợp với hoàn cảnh thực
tế của bản thân, gia đình, xã hội, tránh tình trạng mơ tưởng hão
huyền, mục đích xa rời thực tế... vì ước mơ, mục đích đó chỉ mãi là
khởi điểm mà thôi. Ngoài ra, khi đã có mục đích ta cần phải bắt tay
vào hàn động thì mới có hi vọng ngày hái quả trên cây trồng mang
tên "ước mơ".
Tuy nhiên, chỉ sống có lí tưởng, có mục đích không thôi e rằng
chưa đủ. Có ích kỉ quá không khi sinh ra trong đời, sống trong cộng
đồng mà ta chỉ tìm hạnh phúc cho riêng mình. Nhà thơ Tố Hữu đã
quan niệm:"Sống là cho đâu chỉ riêng mình."
Có thể nói quan niệm sống đẹp của cố thi nhân có sức thuyết
phục đối với con người mọi thời, mọi nơi. Sống đâu chỉ là nhận, thế
là ích kỉ, là hẹp hòi, là hưởng thụ thành quả của người khác mà lòng
không nghĩ về trách nhiệm. Thế là không đẹp. Sống đẹp là cần phải
cho, cần phải quảng đại trao ban. Đó là góp phần nhỏ bé của mình để
xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Xã hội loài người phát
triển như ngày hôm nay cũng là do loài người chúng ta góp phần tạo
nên. Trên đất nước ta, biết bao nhiêu người đã cho đi tuổi thanh
xuân, tài năng, tương lai của mình để cho đất nước được độc lập,
nhân dân được tự do. Xa hơn nữa, có biết bao nhà bác học vì bảo vệ
quan điểm khoa học của mình mà hi sinh mạng sống. Còn chúng ta,

149
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
chúng ta cho cái gì? Có thể nói ai trong chúng ta cũng có cái để mà
trao ban. Đơn giản chư ta trao cho nhau một nụ cười. Chúng ta trồng
một cây xanh cho mội trường trong lành hơn và còn rất nhiều thứ
chúng ta có thể cho. Dù chỉ là những điều đơn giản, nếu chúng ta biết
cách trao ban thì bạn sẽ không tìm hạnh phúc đâu xa mà ngay trong
chính nghĩa cử đó. Có thể khẳng định cuộc sống là phải trao ban vì
trao ban không chỉ là quyền lợi mà còn là nhiệm vụ. Vì chúng ta
sống trong xã hội với người, nhờ người và cho người, nếu không cho
thì ắt có ngày sẽ bị cô lập trên hòn đảo cô đơn. Nhưng, phải trao ban
hay cho như thế nào, giá trị không phải là món quà mà là cách cho.
Cho vì hình thức, vì cầu lợi, cầu danh là điều không khó để thấy
trong xã hội hôm nay, như thế là hành động đáng lên án. Đừng nhân
danh tình yêu mà trục lợi về cho mình. Âu đó cũng là nhận nhiều hơn
rồi. Mặt khác, cũng không ai cổ vũ cho sự cho đi một cách mù
quáng, tức là cho hết tất cả. Trước tiên phải cho mình đã, sau đó mới
trao ban được, tức mình có sống mới cứu được kẻ khác.
Ngoài ra, sống đẹp còn bao hàm ý kiến nhận về mình những sai
lầm. Con người không thể không có sai lầm và người sống đẹp là
người biết nhận ra lỗi của mình để sửa chữa. Cha mẹ sẽ vui hơn và
gia đình êm ấm hơn nếu con cái biết nhận những lỗi sai. Mở rộng ra
xã hội cũng vậy, sẽ không có sự hiểu nhầm, sẽ không có sự bất hòa
và sẽ loại trừ được những phần tử "Đục nước béo cò" nếu như ai
cũng có tinh thần tự nhận trách nhiệm. Đó cũng là một trong nhiều
tiền đề cho cuộc sống đẹp hơn, ý nghĩa hơn. Người sống đẹp sẽ là
người biết nhận lỗi khi sai, từ chỗ biết nhận lõi, họ có động lực sửa
mình tốt hơn, không trốn trách nhiệm hay đổ lỗi lên người khác hay
tập thể. Nhưng cũng cần tránh tình trạng nhận lỗi tập thể để tránh
hình phạt các nhân, đừng cho rằng rất khó để phạt lỗi một tập thể,
như thế sẽ làm hại cho tập thể đó.

150
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Chúng ta là những người Kitô hữu, giáo lý công giáo dạy gì về
sống đẹp. Tư tưởng lớn là tình yêu, là trao ban. Tình yêu có thể chiến
thắng tất cả như Đức Giêsu Kitô. Người đã trao ban cho nhân loại tất
cả bằng tình yêu chơ không thu vén về cho mình. Tình yêu của Thiên
Chúa vượt qua giới hạn hận thù, tức là "Anh em hãy yêu cả kẻ ngược
đãi anh em". Người công chính hay người sống đẹp cũng là người
sống có mục đích, tức à luôn luôn đi tìm sự thật vẹn toàn nơi Thiên
Chúa. Dù rằng, con đường ta đi tìm sẽ phải trả giá rất đắt. Tuy nhiên,
nếu ta bước đi cùng với Đức Kitô và trong Ngài thì chúng ta sẽ được
nhìn thấy chân lí thực sự, chân lí mà ta đã dày công tìm kiếm.
Sinh ra trong đời, chúng ta ai cũng đi tìm, tìm nhiều thứ để hạnh
phúc. Nhưng cũng không ít người đi tìm con đường để đưa tới hạnh
phúc đso là phải sống làm sao cho ra sống, tức là phải sống sao cho
đẹp. Cuộc sống đó không chỉ là có mục đích, lí tưởng để vươn tới
cho thêm ý nghĩa một con người. Nhưng cuộc sống đó cần phải cho
rất nhiều trước khi chúng ta muốn lãnh nhận. Cuộc sống đó còn là sự
chấp nhận thực tế là những điều lỗi lầm, dám nhận lỗi và sửa chữa
bản thân mình. Có lẽ sống đẹp là quan niệm, không ai giống ai, tuy
nhiên ai cũng mong muốn hoa quả đời sống của mình mang lại
hương thơm bị ngọt bù đắp cho đời.
Người viết: Paul Trần Đình Vẹn
Nhận xét: Bài viết tốt, đúng phương pháp trình bày một vấn đề.
Lí lẽ thuyết phục, chặt chẽ. Hành văn lưu loát, chân tình.

151
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Bình giảng câu nói của Nguyễn Ba Học: "Đường
đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng
người ngại núi e sông".
Bài làm
Có một danh nhân đã từng nói dại ý rằng: Trong tất cả mọi chiến
thắng thì chiến thắng vĩ đại nhất là chiến thắng bản thân mình. Vì sao
vậy? Chúng ta có thể có nhiều câu trả lời khác nhau nhưng có thể nói
rằng giữa muôn vàn khó khăn, bao nhiêu thử thách, bao nhiêu vật
cản trên đường đời thì cái thân xác yếu đuối, tình thần thấp kém
nhiều lúc đã hại chúng ta trên con đường đi tới thành công. Luận bàn
về vấn đề này, thầy giáo Nguyễn Bá Học đã từng nói: "Đường đi
khó, không khó vì ngăn sông cách núi nhưng khó vì lòng người ngại
núi e sông." Chúng ta cùng nhau bình giảng câu nói trên.
Mỗi người chúng ta khi chập chững bước đi thì chúng ta cũng
phải đi theo một con đường, đó có thể là con đường không cụ thể
như từ nhà trên xuống nhà dưới, hay từ nhà ra sân, từ sân vào nhà.
Nhưng khi chúng ta lớn hơn, chúng ta đã đi và sẽ đi qua biết bao con
đường, xa có gần cũng có, đường bằng phẳng, đường gồ ghề, đường
đất, đường nhựa... Đó là những con đường đưa ta đi chơi, đi học, đi
làm... Tuy nhiên, "Đường" trong câu nói của Nguyễn Bá Học, ngoài
ý nghĩa cụ thể nêu trên, còn có ý nghĩa là con đường cuộc sống, là lý
tưởng mà mỗi người theo đuổi. Tuy vậy, dù là đường hiểu theo nghĩa
nào đi nữa thì cũng buộc chúng ta phải đi, mà đã đi thì cũng đồng
nghĩa với vất vả, mệt nhọc đặc biệt đối với những con đường khó
khăn lắm đèo cao, vực sâu,quanh co uốn lượn hay lầy lội. "Đường đi
kho" là vậy, là sông ngăn cách, núi chắn ngang, nhưng theo tác giả
thì không khó. Tác giả đã phủ định lại ngay câu đề mà ông đưa ra
"Đường đi khó, không khó... " thể hiện mọt thái độ dứt khoát như là
ông đang phủ định ý kiến của một người nào khác. Tiếp sau lời phủ

152
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
định ông lại giả thích: "không khó vì ngăn sông cách núi..." Nhưng
tiếp theo tác giả có vẻ như lại giật mình "... nhưng khó vì lòng người
ngại núi e sông". Cách bố trí từ cũng như cách dùng từ của tác giả đã
làm nổi lên ý nghĩa của câu nói rằng. Đường đi dù khó khăn, dù đèo
cao, dù vực sâu, dù ngăn sâng cách núi, thì cũng không khó đối với
những người dám vượt lên, dám đi tới cùng mà không quản ngại.
Tuy nhiên, nếu lòng người mà "ngại núi e sông" thì đường khó thì
thật là một thảm họa vì họ sợ hãi, không dám đi và nếu có đi thì cũng
đầu hàng trước những khó khăn gặp phải trên đường. Câu nói của
danh nhân mang giá trị sư phạm hết sức sâu sắc, ông muốn nói với
chúng ta rằng: Đừng thấy đường khó mà sợ để rồi không đi, nhưng
hãy can đảm bước đi, dù có khó khăn, những khi như thế ta mới thấy
thành quả thật vẻ vang.
Mang những giá trị lời dạy của Nguyễn Bá Học vào cuộc sống,
chúng ta mới thấy hết tác dụng hữu ích. Cuộc đời là những chuyến đi
và trên hành trình của mỗi người, đã không ít lần chúng ta đã thấy
day đã đi vào những con đường khó. Chắc hẳn ai cũng có thể cảm
nghiệm được rằng khi ta thấy hay đi vào những con đường đó thì
không thể tránh khỏi những cảm giác sợ hãi và lo lắng. Ai đã từng đi
qua những con đường ỏ các vùng miền núi của nước ta thì sẽ thấy.
Nhiều khi chúng ta lên đèo dốc mà tưởng chừng như không bao giờ
tới đỉnh, không những dốc mà còn quanh co, ngoằn ngoèo rất nhiều
khúc quanh, dường như tốc độ xe phải giảm hết mức có thể, nhưng
khi xuống dốc thì cũng tưởng chừng như xuống tận hỏa ngục. Chúng
ta mới thấy hết những sự khó khăn dành cho những ai dám bước
chân vào những con đường gian khó. Nhưng, phải nhắc lại ngay rằng
"không khó vì ngăn sông cách núi nhưng kho vì lòng người ngại núi
e sông". Trên thế giới này có bao nhiêu con đường khó, thưa rằng có
rất nhiều. Nhưng tại sao người ta lại đi vào con đường khó trong lúc

153
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
tại sao không làm ngược lại. Có ai đó đã nói bất kỳ con đường nào
trên thế gian này cũng do người ta đi nhiều mới thành đường. Như
vậy, chúng ta thấy là có những con người dẫ từng muốn đi con
đường khó. Câu trả lời là bởi vì những con đường khó là những lối
dẫn đến những nơi có tài nguyên thiên nhiên quý giá để khai thác,
cũng là nơi đưa ta đến những danh lam thắng cảnh nổi tiếng về vể
đẹp thiên nhiên mê hồn của nó. Chúng ta bây giờ cũng có thể tự hỏi
chính mình: nếu không có những con người dám đi khai phá đi tìm
những con đường khó thì thế giới ngày hôm nay sẽ ra sao?
Đó câu chuyện của những con đường đi cụ thể, còn với những
con đường cuộc sống thì sao? Có thể nói rằng có bao nhiêu người
trên trái đất thì cso chừng ấy con đường sống. Quả vậy, chúng ta có
con đường sống của riêng mình và chúng ta cũng biết rằng không có
con đường cuộc sống nào mà thẳng tít tắp là trơn tru cả. Trên con
đường cuộc sống, có nhiều người chùn chân ngay ở điểm xuất phát
vì họ thấy con đường sắp đi quá gai chông. Có những người lại đi
được giữa chừng rồi dừng lại hoặc thụt lùi vì họ không đủ sức mạnh
để đứng dậy sau khi vấp ngã. Những con người ấy họ đã để cho
những chông gai trên đường đời đe dọa và vùi dập, có thể nói như tác
giả là do họ đã "ngại núi e sông". Họ đã không có đủ sức mạnh, nghị
lực, lòng can đảm để vượt qua chính mình, những người như họ
thường đổ lỗi cho hoàn cảnh, gia đình hay xã hội. Có một danh nhân
đã từng nói rằng: "Điều quan trọng trong đời không phải là bạn có
thất bại hay không nhưng là bạn học được gì sau mỗi lần thất bại".
Trên đường đời với muôn ngàn cạm bẫy, chúng ta không thể một đôi
lần phải chôn chân, phải ngã quỵ, hay thậm chí là ngất xỉu đi, nhưng
điều quan trọng là dù trong thất bại, ta vẫn nỗ lực bước đi, thì tất lẽ
một điều thành công ở cuối con đường sẽ chờ đợi ta, vì "Ai nên khôn
mà chẳng dại dôi lần". Chúng ta có thể học được rất nhiều tấm gương

154
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
trong cuộc sống chung quanh ta. Đó có thể là đi từ muôn vàn thất bại
rồi mới có được thành công như Thomas Edison; nhà khoa học làm
ra bóng đèn điện. Hay con đường vươn tới một trong những người
giàu nhất hành tình của Bill Gates. Tỷ phú người Mỹ này đã bắt đầu
từ việc bỏ học dở chừng và buôn bán linh kiện máy tính hỏng. Và
còn bao nhiêu người quanh ta nữa, những con người tật nguyền đã
trở thành những nhà kinh doanh thành đạt, những vận động viên
chuyên nghiệp... có thể trước khi chưa thành công họ cũng không
được nghe thấy câu nói này của Nguyễn Bá Học nhưng họ đã chứng
minh bằng con đường họ đã đi qua.
Những con đường khó luôn là những con đường đẹp nhất và nó
cũng dẫn tới những thành công mỹ mãn nhất. Đó là những con
đường rừng rộn tiếng chim ca, trăm hoa đua nở, vách đá cheo leo,
không thể có được ở dồng bằng. Những người dám bước đi trong
gian khó và đối diện với nó họ sẽ cảm nhận được niềm vui và hạnh
phúc thực sự sau mỗi lần họ vượt qua thử thách. Ngoài ra, ở phía
cuối con đường gian khó sẽ có những niềm hạnh phúc, những đền
đáp xứng đáng nhất.
Chúng ta cũng không quá khi nói rằng đi tu là chúng ta đang đi
trên một con đường khó. Bằng chứng đấy là "con đường chẳng mấy
ai đi". Theo Thầy chí ai Giêsu là bỏ lại ngoài kia những niềm vui
nhân thế. Rất nhiều lúc cô đơn vì không cha mẹ, không người thân.
Có những chiều buồn bã ê chề trong tu viện vắng người. Có những
lúc tìm hoài ý Chúa mà Chúa vẫn lặng thinh. Đó là chưa kể đến
những hiều nhầm sinh ra những lời dị nghị của người đời. Khó là
vậy, nhưng niềm vui rất nhiều . Có lúc ngập tràn trong ân sủng Chúa,
con chi muốn hát mãi bản tình ca Giêsu. Những lúc tình huynh đệ dạt
dào, công việc mục sư đem về cho Chúa thêm nhiều bông hoa, chúng
ta hạnh phúc. Ta nỗ lực bước theo Chúa, nhưng hãy bước cùng Chúa

155
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
thì mới có thể hy vọng nhận được niềm vui trọn vẹn trên con đường
ta đang đi.
Lối về hạnh phúc của chúng ta bắt đầu từ lúc ta khởi hành trên
con đường của mỗi người. Bước vào đời là khó khăn là gian lao
nhưng nếu ta sợ hãi thì ta chẳng đi tới đâu trên con đường của ta.
Nhưng nếu ta nỗ lực bước đi, dù có thể rất khó khăn đấy, nhưng khi
đó ta sẽ chiến thắng được, không chỉ thử thách gian nan mà niềm vui
càng tăng lên bỏi ta đã giành được chiến thắng chính bản thân mình.
Nhận xét: Bài viết tốt, vận dụng linh hoạt và nhuần nhuyễn kiểu
bài bình giảng (mà không bình luận). Trong phần giảng, người viết
đã khai thác cách vận dụng ngôn từ của tác giả để làm toát lên ý
nghĩa sâu sắc của lời khuyên. Trong phần bình, cũng xem xét vấn đề
dưới nhiều góc độ: đường đời, đường tu.
Lập luận chắc chắn, xác đáng. Lời văn lưu loát, chân thành, có
hình ảnh. Đã cẩn trọng hơn trong việc xây dựng câu văn (đủ thành
phần ngữ pháp), nhưng nên dùng thêm dấu phẩy (,); còn vài ba lỗi
chính tả, dùng từ trùng ý.

156
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề tài 18.Bình giảng nhận định sau của Socrate: “Cuộc sống
không ý thức, không đáng sống”.
Tất cả chúng ta đều muốn nhiều thứ cho cuộc sống của mình,
nhưng điều quý nhất mà tận thâm tâm mỗi người vẫn thầm mơ ước là
tự giải thoát chính mình để được tự do, để thanh thoát mà sống cuộc
đời mình cho sâu sắc, thâm thuý và ý nghĩa, đồng thời đến với những
người mà mình thương mình quý, với anh chị em đồng loại. Dù
muốn gì đi nữa – hạnh phúc hay tự do- chúng ta cũng đều phải thông
qua con đường ý thức. Vì có ý thức mới có thể giải thoát mình để đạt
tự do. Một số người có thể cho rằng: “Thà không biết, không ý thức
gì thì hơn, sống như thế đỡ khổ”. Nhưng Socrate lại phát biểu một
cách dứt khoát: “Cuộc sống không ý thức, không đáng sống”. Ý kiến
của nhà đại hiền triết cổ đại gợi mở cho chúng ta suy tư về vai trò
của ý thức trong cuộc sống của từng cá nhân và của từng công đồng.
Các nhà Tâm lí học định nghĩa ý thức là hình thức phản ánh tâm
lý cao nhất chỉ riêng con người mới có, là khả năng con người hiểu
được các tri thức mà con người tiếp nhận được. Tâm lý tổng hợp phân
biệt ba bước nhận thức: nhận biết về thân thể, nhận biết các ý nghĩ,
nhận biết về cảm giác...Ý thức giúp cho ta sống một cuộc sống tròn
đầy, một kiếp người viên mãn. Câu nói“Cuộc sống không ý thức,
không đáng sống” phủ định cuộc sống không ý thức, vì khi đó, cuộc
sống của con người có giá trị trống rỗng, không có ý nghĩa, không
xứng hợp với phẩm giá con người. Lời phủ định ấy lại có giá trị khẳng
định một cách mạnh mẽ tầm quan trọng của ý thức trong cuộc đời mỗi
con người và trong thái độ sống của từng cộng đồng người.
Những bệnh nhân tâm thần, tâm trí trong trạng thái ngủ mê, họ
không phân biệt được thời gian, không gian, không phân biệt được
người này với người kia, không phân biệt được đứng hay sai ....Họ
sống theo bản năng, sống không có ý thức. Cuộc sống của họ không
phải là cuộc sống của con người thực thụ.

157
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Nhưng trong thực tế, nhiều người có đầy đủ năng lực nhận thức và
tư duy, nhưng lại sống như không có ý thức. Họ hành động theo bản
năng, thực hiện nhiều hành vi phi nhân bản, bất chấp luân lý, đạo đức.
Nhiều người trong chúng ta vẫn còn sống cách máy móc, suy
nghĩ máy móc, hành động rập khuôn theo thông lệ, bị cuốn theo nếp
nghĩ của xã hội, làm theo cách người khác làm, phản ứng như thiên
hạ vẫn phản ứng ...
Có nhiều lúc cuộc sống chúng ta cứ tiếp diễn, xô đẩy theo dòng
đời, trong nhờ đục chịu, như bèo giạt, mây trôi, chứ không phải tự
mình nắm thế chủ động, lèo lái đời mình. Một số chúng ta sống
chẳng khác gì “một con lừa”, bị xỏ mũi dắt đi một cách vô ý thức ...
hay như một con thiêu thân, cứ xông vào ánh đèn mà không biết rằng
chính mình đang “tự nguyện” đưa thân vào chỗ chết mà chẳng hay!
Tệ hại hơn, khi cách hành xử thiếu ý thức vượt khỏi chiều kích cá
nhân, mà là nếp nghĩ, nếp sống của cả một cộng đồng, thậm chí lại được
các cá nhân đứng đầu trong cộng đồng cổ võ, thì hậu quả thực khôn
lường. Ai cũng thản nhiên vứt rác ra đường, thản nhiên xả nước thải, ai
cũng giả dối, ai cũng chạy theo thành tích, tìm cách đối phó với luật lệ
giao thông ... Cả một tập thể, một cộng đồng sống thiếu ý thức !
Như vậy, sống thiếu ý thức, sống theo quán tính, không làm chủ
bản thân, không điều khiển được đời mình, không nắm lấy vận mệnh
cuộc sống, mà sống nô lệ , sống như người đang ngủ.... Sống hời hợt,
thậm chí là quên đi ý thức của mình, vô tình, chúng ta trở thành con
người mất ý thức, đánh mất giá trị của chúng ta, làm tổn hại đến các mối
tương quan ...Cuộc sống như thế thật nhạt nhẽo, vô vị, không xứng hợp
với phẩm giá cao quý của con người , với nhân vị, là không đáng sống.
Chúng ta phải tỉnh thức, không thể để mình sống theo kiểu.
“Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ trước gió biết vào tay ai”

158
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Trong đời có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến cuộc đời mình và có
những trường hợp chúng ta không chủ động được. Nhưng nếu cứ
nhắm mặt để đời mình cuốn bay và “rơi vào tay ai” một cách tình cờ,
may rủi như thế không phải là thái độ sống lành mạnh, trưởng thành.
Chúng ta có thể suy nghĩ, chọn lựa, xoay hướng cuộc đời mình. Với
nỗ lực, nhất là với ý thức bản thân, về hoàn cảnh, nội giới và ngoại
giới, chúng ta có thể chủ động điều khiển phần lớn cuộc đời mình.
Trước hết, tìm biết mình là khởi điểm điến tự do. Chúng ta phải
biết được những điều tích cực, tiêu cực, hoặc còn mâu thuẫn trong tư
tưởng, ước mong, tâm tình, hành vi, xu hướng của mình và những gì
đang chi phối những điều ấy. Ta cần vứt bỏ những mặc cảm lệch lạc,
những định kiến sai lầm. Ta tìm hiểu tận gốc các nguyên nhân làm
cho chúng ta khổ đau hay hạnh phúc
Bên cạnh đó ta cố gắng khám phá thế giới nội tâm phong phú
nhưng đầy phức tạp nơi người khác, và cảnh giác với thói quen “suy
bụng ta ra bụng người”. Biết người sẽ giúp ta học điều hay, tránh
điều dở, từ đó xây dựng mối tương quan tốt đẹp với đời.
Cuối cùng, việc nhận thức đúng đắn về các hiện tượng tự nhiên và
xã hội đang diễn ra quanh mình như các trào lưu tư tưởng, xu hướng
chính trị, kinh tế, quân sự ... để từ đó xác định cách sống tốt đẹp nhất
cũng là một yêu cầu cần thiết.Chúng ta cần hiểu, cần biết, cần ý thức
và thay đổi dần dần. Ý thức giúp cho cuộc sống thêm sinh động, đầy
sức sống và thích thú hơn.Bàn về vai trò của ý thức, còn có nhiều vấn
đề như quan hệ giữa ý thức và vô thức, tính tích cực và tiêu cực của ý
thức, hay hệ quả luân lý của ý thức đối với hành vi... mà chúng ta
không có điều kiện để phân tích sâu hơn.
Trong đời sống người Kitô hữu, trên hành trình đời tu, việc nhận
biết thánh ý của Thiên Chúa và sứ vụ của đời mình trên đường đời
cũng là điều chúng ta phải thao thức tìm hiểu, ý thức rõ ràng mà tiến

159
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
bước. Mặt khác, trong đời sống tu đức, việc đánh thức ý thức của
mình khi sống đạo cũng rất cần để giúp chúng ta kết hợp với Thiên
Chúa trong mọi việc, bằng cả con tim, bằng cả trí khôn chứ không
phải chỉ bằng thân xác vô hồn....
Tóm lại, qua câu nói của Socrate, chúng ta đã có dịp ôn lại khái
niệm về ý thức, đồng thời phân tích những hình thái cuộc sống không
ý thức, từ đó khẳng định vai trò quan trọng của ý thức. Nếu không có
ý thức, cuộc sống của chúng ta trống rỗng, chẳng có giá trị cao đẹp
vượt trội hơn quá trình sống của muôn loài, muôn vật. Nhưng nếu ý
thức lệch lạc, thì lại càng không đáng sống hơn. Chúng ta đã phác hoạ
một phương thế để luôn sống có ý thức. Nhưng là người tỉnh thức
không đơn giản, cần nhiều nỗ lực, học hỏi, quyết tâm, biết sống trong
tĩnh lặng, luôn tìm để hiểu và trở nên nhạy bén về mình, về tha nhân và
tạo vật quanh mình. Có như vậy, ta mới thật sự tự giải thoát chính mình
để được tự do và hạnh phúc.

160
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đế tài 19. Sứ điệp Mùa Chay 2012
Anh chị em thân mến,
Một lần nữa Mùa Chay cống hiến cho chúng ta cơ hội suy tư về
nòng cốt đời sống Kitô, đó là đức bác ái. Thực vậy, đây là thời kì
thuận tiện để, nhờ sự trợ giúp của Lời Chúa và các Bí Tích, chúng ta
đổi mới hành trình đức tin, trên bình diện bản thân cũng như cộng
đồng. Đây là một hành trình được đánh dấu bằng kinh nguyện và chia
sẻ, thinh lặng và chay tịnh, trong khi chờ đợi niềm vui Phục Sinh.
Năm nay, tôi muốn đề nghị một vài suy tư dưới ánh sáng một
văn bản ngắn của Kinh Thánh rút từ Thư gửi tín hữu Do Thái:
“Chúng ta hãy quan tâm đối với nhau để khích lệ nhau trong đức bác
ái và trong việc lành” (10,24). Đây là một câu được đưa vào một
đoạn văn trong đó các tác giả sách Thánh nhắn nhủ hãy tín thác nơi
Chúa Giêsu Kitô như vị Thượng Tế. Thành quả việc đón nhận Chúa
Kitô là một đời sống được phát triển theo ba nhân đức hướng thần,
đó là: tiến đến gần Chúa “với con tim chân thành trong sự viên mãn
của đức tin” (c.22), giữ vững “việc tuyên xưng niềm hi vọng của
chúng ta” (c.23) luôn chú ý thi hành “đức bác ái và các việc lành”
(c.24) cùng với các anh em khác. Đoạn này cũng khẳng định rằng để
nâng đỡ cách cư xử theo Tin Mừng như thế, điều quan trọng là tham
dự các buổi gặp gỡ phụng vụ và cầu nguyện của cộng đoàn, hướng
nhìn về mục đích mai hậu là sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa
(c.25). Tôi dừng lại ở câu 24: qua vài chữ, câu này cống hiến một
giáo huấn quí giá và luôn thời sự về ba khía cạnh của đời sống Kitô,
đó là quan tâm đến tha nhân, tính chất hỗ tương và sự thánh thiện
bản thân.
1. “Chúng ta hãy quan tâm”: trách nhiệm đối với người anh em.
Yếu tố đầu tiên là lời mời gọi “hãy quan tâm”, hãy chú ý: động từ
Hi Lạp dùng ở đây là Katanoein, có nghĩa là quan sát kĩ lưỡng, chú ý,

161
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
nhìn một cách có ý thức, nhận thức một thực tại. Chúng ta thấy động
từ này trong Tin Mừng, khi Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy
“quan sát” chim trên trời, tuy không làm việc vất vả, nhưng chúng
vẫn được Chúa Quan Phòng ân cần chăm sóc (Xc Lc 12,24), và hãy
“nhận ra” cái xà trong mắt mình trước khi thấy cọng rơm trong mắt
người anh em (Xc Lc 6,41). Chúng ta cũng thấy động từ ấy trong
một đoạn khác của Thư gửi tín hữu Do Thái, như lời mời gọi “hãy
chú ý đến Chúa Giêsu” (3,1), là Tông đồ và là Thượng Tế của đạo
chúng ta. Vì thế, động từ mở đầu lời nhắn nhủ chúng ta, mời gọi hãy
chăm chú nhìn người khác, trước tiên là nhìn Chúa Giêsu, và chú ý
đối với nhau, đừng tỏ ra là người xa lạ với nhau, đừng dửng dưng về
số phận của các anh em. Thực tế, ta thường thấy thái độ trái ngược:
dửng dưng, không tha thiết, những thái độ này nảy sinh từ lòng ích
kỉ, được che đậy bằng cái vẻ “tôn trọng đời tư của người khác”. Ngày
nay, tiếng Chúa cũng vang dội mạnh mẽ kêu gọi mỗi người chúng ta
trở thành những người canh giữ anh em mình (Xc St. 4,9), thiết lập
những quan hệ ân cần đối với nhau, quan tâm đến thiện ích của tha
nhân và của mọi người. Đại giới răn yêu thương tha nhân đòi hỏi và
yêu cầu hãy ý thức mình có trách nhiệm đối với những người là thụ
tạo và là con Thiên Chúa, giống như ta: là anh em với nhau trong
tương quan là người, và trong nhiều trường hợp, là anh em đồng đạo
với nhau, phải làm cho chúng ta nhìn thấy nơi tha nhân như một bản
thân khác của mình, được Chúa yêu thương vô biên. Nếu chúng ta
vun trồng cái nhìn này về tình huynh đệ, liên đới, công bằng, thì lòng
từ bi và cảm thông sẽ tự nhiên nảy sinh từ con tim chúng ta. Vị tôi tớ
Phaolô VI đã khẳng định rằng thế giới ngày nay đau khổ nhất là vì
thiếu tình huynh đệ: “Thế giới bệnh hoạn. Bệnh của thế giới này
không phải do sự phung phí tài nguyên hoặc vì một số người vơ vét
của cải, nhưng là do thiếu tình huynh đệ giữa con người và các dân tộc
với nhau” (Thông điệp “Phát triển các dân tộc” -26/3/1967-, n.66).

162
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Sự quan tâm đến người khác bao gồm ước muốn cho họ điều
thiện hảo, dưới mọi khía cạnh: thể lý, luân lý và tinh thần. Nền văn
hóa hiện đại dường như đã đánh mất ý thức thiện và ác, giữa lúc cần
phải tái khẳng định mạnh mẽ rằng sự thiện hiện hữu và chiến thắng
vì Thiên Chúa là “Đấng tốt lành và làm điều thiện” (Tv 119, 68). Sự
thiện là điều khơi dậy, bảo vệ và thăng tiến sự sống, tình huynh đệ và
hiệp thông. Trách nhiệm đối với tha nhân như thế có nghĩa là muốn
và làm điều thiện cho họ, mong ước họ cũng được cởi mở đối với
tiêu chuẩn điều thiện; quan tâm đến anh em có nghĩa là mở rộng đôi
mắt trước những thiếu thốn của họ. Kinh Thánh cảnh giác về nguy
cơ con tim chai đá, không con nhạy cảm về tinh thân, làm cho ta mù
quáng trước những đau khổ của tha nhân. Thánh sử Luca kể lại hai
dụ ngôn của Chúa Giêsu trong đó có trình bày hai thí dụ về tình trạng
như thế có thể xảy ra trong tâm hồn con người. Trong dụ ngôn người
Samaritanô nhân lành, vị tư tế và thầy Lêvi “đi tránh qua bên kia”,
dửng dưng đối với người bị cướp bóc lột và đánh đâp (Xc Lc 10,30-
32), và trong dụ ngôn người giàu sụ, người này đầy ứ của cải nên
không nhìn thấy thân phận của ông Lazarô nghèo khổ chết đói trước
của nhà ông (Xc Lc 16,19). Trong cả hai trường hợp chúng ta thấy
thế nào là điều trái ngược với sự “quan tâm”, với cái nhìn yêu thương
và cảm thông. Điều gì ngăn cản cái nhìn nhân đạo và yêu thương như
thế đối với người anh em? Thường thường đó là sự giàu có vật chất
và sự quá đầy đủ, nhưng cũng có thái độ đặt tư lợi và những bận tâm
của mình lên trên hết. Không bao giờ chúng ta được thiếu khả năng
“có lòng từ bi” đối với người đau khổ: không bao giờ con tim chúng
ta được phép bị mất hút trong những sự vật và các vấn đề của mình
đến độ trở nên điếc đối với tiếng kêu của người nghèo. Trái lại, chính
tâm hồn khiêm tốn và kinh nghiệm bản thân về đau khổ có thể tỏ ra
là nguồn mạch sự thức tỉnh nội tâm về sự cảm thông và thương cảm:

163
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
“Người công chính nhìn nhận quyền của người lầm than,trái lại kẻ
gian ác không nghe tiếng nói của lí trí” (Cn 29,7). Như thế ta hiểu
hạnh phúc “của những người khóc lóc” (Mt 5,4), nghĩa là những
người có khả năng ra khỏi chính mình để cảm thông trước đau khổ
của tha nhân. Gặp gỡ với tha nhân và mở rộng con tim đối với nhu
cầu của họ chính là một cơ hội để được cứu độ và hạnh phúc thật.
Sự “quan tâm” đến người anh em như thế cũng bao gồm sự ân
cần đối với thiện ích thiêng liêng của họ. Và ở đây, tôi muốn nhắc
nhở một khía cạnh của đời sống Kitô giáo mà tôi thấy dường như bị
lãng quên: đó là sự sửa lỗi huynh đệ nhắm đến sự sống đời đời. Nói
chung ngày nay người ta rất nhạy cảm đối với những bài nói về sự
chăm sóc và tình bác ái đối với thiện ích thể lí và vật chất của tha
nhân, nhưng người ta lại hầu như hoàn toàn im lặng về trách nhiệm
tinh thần đối với anh em mình. Trong Giáo Hội sơ khai và trong các
cộng đoàn thực sự trưởng thành trong đức tin không có thái độ như
thế, trong các cộng đoàn ấy người ta không những quan tâm đến sức
khỏe thể xác của người anh em, nhưng cả sức khỏe tâm hồn của
người ấy nữa. Trong Kinh Thánh chúng ta đọc thấy rằng: “Hãy khiển
trách người khôn ngoan và họ sẽ biết ơn bạn. Hãy khuyên bảo người
khôn ngoan và càng khôn ngoan hơn; hãy dạy dỗ người công chính
và họ sẽ gia tăng kiến thức” (Cn 9,8ss). Chính Chúa Kitô đã truyền
phải chỉnh đốn người anh em đang phạm tội (Xc Mt 18,15). Động từ
dùng để định nghĩa sự sửa lỗi huynh đệ –elenchein- cũng là động từ
chỉ sứ vụ ngôn sứ tố giác của các Kitô hữu đối với một thế hệ chiếu
theo điều ác (Xc Ep 5,11). Truyền thông của Giáo Hội đã liệt kê việc
khuyên bảo tội nhân vào số những hành động từ bi về tinh thần
(thương linh hồn bảy mối). Điều quan trọng là phục hồi chiều kích
này của đức bác ái Kitô. Không được im lặng trước sự ác. Ở đây tôi
thiết nghĩ đến thái độ của những tín hữu Kitô, vì tôn trọng người

164
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
khác hoặc vì tiện ích, họ chiều theo não trạng chung, thay vì cảnh
giác anh em mình về những lối suy nghĩ và hành động trái ngược với
sự thật và không theo con đường của sự thiện. Nhưng sự khiển trách
theo tinh thần Kitô không bao giờ do sự thúc đẩy của tinh thần kết án
hoặc trách cứ; nhưng luôn do sự thúc đẩy của tình thương và lòng từ
bi, nảy sinh từ sự ân cần thực sự đối với thiện ích của người anh em.
Thánh Phaolô Tông đồ quả quyết: “Nếu có người nào bất chợt bị bắt
gặp phạm lỗi nào, thì anh chị em là những người có Thần Khí hãy
sửa chữa họ với tinh thần dịu dàng. Và bạn hãy cảnh giác đối với
chính mình để chính bạn khỏi bị cám dỗ” (Gl 6,1). Trong thế giới
chúng ta bị thấm nhiễm xu hướng cá nhân chủ nghĩa, cần phải tái
khám phá tầm quan trọng của sự sửa lỗi huynh đệ, để cùng nhau tiến
bước về sự thánh thiện. Thậm chí “người công chính sa ngã bảy lần”
(Cn 24,16) như Kinh Thánh đã nói, và tất cả chúng ta đều là người yếu
đuối và thiết sót (Xc Ga 1,8). Vì thế, thật là hữu ích khi giúp đỡ và để
cho mình được giúp đỡ có cái nhìn chân thức về bản thân mình, để cải
tiến chính cuộc sống của mình và tiến bước ngay thẳng hơn trên con
đường của Chúa. Chúng ta luôn cần có một cái nhìn yêu thương và
sửa chữa, nhận biết và nhìn nhận, phân định và tha thứ (Xc Lc 22,61),
như Thiên Chúa đã và đang làm với mỗi người chúng ta.
2.”Đối với nhau”: ơn hỗ tương với nhau.
Sự “canh giữ” đối với tha nhân như thế tương phản với não trạng
thu hẹp cuộc sống vào chiều kích trần thế, không để ý đến viễn tượng
mai hậu và chấp nhận bất kì chọn lựa luân lý nào nhân danh tự do cá
nhân. Một xã hội như ngày nay có thể trở nên điếc đối với những đau
khổ thể lý cũng như những đòi hỏi tinh thần và luân lý của cuộc
sống. Nhưng cộng đồng Kitô không thể như vậy! Thánh Phaolô Tông
đồ mời gọi tìm kiếm điều dẫn tới “hòa bình và xây dựng lẫn nhau”
(Rm 14,19), giúp đỡ “tha nhân trong điều thiện để xây dựng họ”

165
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
(ibid. 15,2), không tìm tư lợi, “nhưng là lợi ích của nhiều người, để
họ đạt tới ơn cứu độ” (1Cr 10,33). Sự sửa lỗi và khuyên nhủ nhau
trong tinh thần khiêm tốn và bác ái như thế phải là thành phần đời
sống của cộng đoàn Kitô.
Các môn đệ của Chúa, kết hiệp với Chúa Kitô qua Thánh Thể,
sống trong một sự hiệp thông liên kết họ với nhau như chi thể của
cùng một thân mình. Điều này có nghĩa là tha nhân thuộc về tôi, cuộc
sống, phần rỗi của họ liên hệ tới cuộc sống và phần rỗi của tôi. Ở đây
chúng ta đông chạm đến một yếu tố rất sâu xa của tình hiệp thông:
cuộc sống của chúng ta có liên hệ tới cuộc sống của người khác,
trong điều thiện cũng như điều ác; tội lỗi cũng như những việc lành
bác ái đều có một chiều kích xã hội. Trong Giáo Hội, Nhiệm thể của
Chúa Kitô diễn ra sự hỗ tương như thế: cộng đồng không ngừng làm
việc thống hối và kêu cầu ơn tha thứ vì những tội lỗi của con cái
mình, nhưng cũng luôn vui mừng hân hoan vì chúng ta nhân đức và
bác ái được triển nở mọi nơi. Thánh Phaolô quả quyết “Các chi thể
chăm sóc lẫn nhau” (1 Cr 12,25), vì chúng ta là một thân mình. Đức
bác ái đối với anh em, như được diễn tả qua việc làm phúc –là việc
thực hành tiêu biểu trong Mùa Chay, cùng với kinh nguyện và chay
tịnh- ăn rễ sâu trong sự cùng thuộc về thân mình như vậy. Cả khi lo
lắng cụ thể cho những người nghèo khổ nhất, mỗi tín hữu Kitô có thể
biểu lộ sự tham phần của mình vào thân thể duy nhất là Giáo Hội.
Quan tâm đến tha nhân trong tinh thần hỗ tương cũng là nhìn nhận
điều thiện hảo mà Chúa làm nơi họ và cùng với họ cảm tạ vì những
kì công ân phúc mà Thiên Chúa nhân lành và toàn năng tiếp tục thực
hiện nơi các con cái của Ngài. Khi một Kitô hữu nhận thấy nơi tha
nhân hoạt động của Chúa Thánh Linh, thì họ không thể không vui
mừng vì điều đó và tôn vinh Chúa Cha trên trời (Xc Mt 5,16).

166
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
3.”Để khích lệ nhau trong đức bác ái và trong việc lành”: cùng
nhau tiến bước trong sự thánh thiện.
Thành ngữ này của Thư gửi tín hữu Do Thái (10,24) thúc đẩy
chúng ta cứu xét ơn kêu gọi tất cả mọi người nên thánh, hành trình
liên lỉ trong đời sống thiêng liêng, khao khát những đoàn sủng cao cả
hơn và một đức ái ngày càng cao và phong phú hơn (Xc Cr 12,31-
13,13). Sự quan tâm đối với nhau có mục đích là thúc đẩy nhau tiến
đến một tình yêu thương thực sự hữu hiệu ngày càng mạnh mẽ hơn,
“như ánh sáng bình minh gia tăng huy hoàng cho đến chiều” (Cn
4,18), trong khi chờ đợi sống ngày không bao giờ tàn trong Thiên
Chúa. Thời gian được ban cho chúng ta trong cuộc sống thật là quí
giá để khám phá và chu toàn việc lành, trong tình yêu Thiên Chúa.
Như thế chính Giáo Hội tăng trưởng và phát triển để đạt tới sự
trưởng thành trọn vẹn của Chúa Kitô (Xc Ep 4,13). Chính trong viễn
tượng tăng trưởng năng động như thế có lời chúng ta khuyên bảo và
khích lệ nhau đạt tới tình yêu viên mãn và các việc lành.
Đáng tiếc là vẫn luôn có cám dỗ trong nguội lạnh, bóp nghẹt
Thánh Linh, từ khước không làm sinh lợi những nén bạc đã được ban
cho chúng ta để mưu ích cho bản thân và tha nhân (Xc Mt 25,25ss).
Tất cả chúng ta đã nhận lãnh những phong phú tinh thần hoặc thể
chất hữu ích để chu toàn kế hoạch của Chúa, để mưu ích cho Giáo
Hội và phần rỗi bản thân (Xc Lc 12,21b; 1 Tm 6,18). Các bậc thầy
linh đạo nhắc nhớ rằng trong cuộc sống đức tin ai không tiến tức là
lùi. Anh chị em thân mến, chúng ta hãy đón nhận lời mời gọi luôn có
tính chất thời, đó là hướng đến “mức độ cao của đời sống Kitô”
(Gioan Phaolô II, Tông thư Ngàn Năm mới đang đến -6/1/2001-
n.31). Sự khôn ngoan của Giáo Hội –khi nhìn nhận và công bố Chân
phúc và sự thánh thiện của một số Kitô hữu gương mẫu- cũng có
mục đích khơi dậy ước muốn noi gương nhân đức của các vị. Thánh

167
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Phaolô nhắn nhủ: “Anh chị em hãy thi đua quí chuộng lẫn nhau”
(Rm 12,10).
“Đứng trước một thế giới đang đòi hỏi các tín hữu Kitô một
chứng tá được đổi mới về tình yêu thương và lòng trung thành với
Chúa, tất cả chúng ta cảm thấy sự cấp thiết phải nỗ lực thi nhau làm
việc bác ái, phục vụ và làm việc lành (Xc Dt 6,10). Lời kêu gọi này
đặc biệt mạnh mẽ trong mùa thánh chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh”.
Với lời cầu chúc một Mùa Chay thánh thiện và phong phú, tôi phó
thác anh chị em cho Đức Trinh Nữ Maria và thành tâm ban Phép
Lành Tòa Thánh cho tất cả mọi người.
Vatican, ngày 3 tháng 11 năm 2011, Biển Đức 16, Giáo Hoàng
(Trần Đức Anh, OP chuyển ngữ)

168
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề tài 20.Có ý kiến cho rằng : “ Con người không phải là
thùng nước cần đổ đầy, mà là ngọn đèn cần thắp sáng”. Anh hiểu
thế nào về ý kiến này?
Bài làm
Nhà lãnh tụ nổi tiếng Xô Viết – V-Lenin đã từng nói: “Học, học
nữa, học mãi”. Câu nói trứ danh này đã khái quát lên vai trò quan
trọng của việc học tập trong cuộc đời con người. Bởi lẽ, việc hình
thành, phát triển con người vá sự nghiệp cá nhân đều gắn liền với
quá trình học hỏi. Vì thế, việc học được xem là một quá trình cần
phải được coi trọng, đầu tư cách đúng đắn. Học để làm gì? Học bằng
cách nào? Có ý kiến cho rằng: “ Con người không phải là thùng nước
cần đổ đầy, mà là ngọn đèn cần thắp sáng”. Phải chăng, việc học tập
của mỗi người cần phải mang tính sư phạm thời đại?
Trong câu nói trên, chúng ta nhận thấy tác giả đã sử dụng những
hình ảnh quen thuộc với đời sống con người: Thùng nước và ngọn
đèn. Thùng nước là một vật dụng có không gian rỗng, rộng lớn về
mặt cấu tạo, dùng để chứa đựng, tích trứ nước hay một loại chất lỏng
bất kỳ. Ngọn đèn là vật dụng có bầu chứa chất đốt, dùng thắp lửa
nhằm chiếu tỏa ánh sáng vào không gian tối. Như thế, hình ảnh
‘thùng nước” và “ngọn đèn” là hai hình ảnh ẩn dụ, mang tính đối lập
khi nói đến sự bị động và sự chủ động, sự tích trữ và sự cho đi. Khi
nói về con người, ý kiến thể hiện tính sư phạm trong việc học hập
của chúng ta: “Con người không chỉ là một bộ não lớn để tích trữ,
chất đựng sự dung nạp đống kiến thức suông, nhưng cần phải nên
như một hữu thể sáng tạo, biết sử dụng điều mình học, khả năng bản
thân mà làm nên những điều có ích, tốt đẹp cho người và cho đời.
Trước hết, cần phải đề cập đến bản chất cần thiết của việc học.
Nếu chiếc đèn cần có dầu để thắp sáng thế nào thì con người cũng
cần học để phát triển bản thân. Học là biết bắt chước những điều tốt

169
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
từ người khác và biết tìm tòi thêm những điều mình chưa biết. Tính
chủ động trong việc học giúp chúng ta tích cực trong việc đón nhận
tri thức lý thuyết trong thế giới lớn vô hạn này. Khoa học tự nhiên
lẫn khoa học xã hội, và hơn hết học phải đi đôi với hành, việc thực
hành giúp chúng ta vận dụng thành thục và chọn lọc có ích những
điều mình được học. Như thế, việc học mới làm bản thân được đổi
mới, đem lại hiệu quả thực sự cho việc học tập. Ngược lại, nếu chúng
ta chỉ biết học, nhồi nhét tri thức sách vở cho đầy mà không biết vận
dụng, hẳn khả năng lưu trữ của chúng ta sẽ quá tải, kiến thức được
học sẽ hao mòn từng ngày và trở nên vô ích, như nước lâu ngày trong
thùng không ai sử dụng sẽ bị hao mòn bớt đi.
Bên cạnh đó, quá trình học tập bản thân phải gắn liền với vai trò
hướng dẫn phương pháp học và tư duy học của người giáo dục. Sư
phạm không phải là nghề dạy tri thức đơn thuần, nhưng theo tinh
thần cao sáng, sư phạm là nghề sáng tạo nên những con người sáng
tạo. Vì thế, trong cách giáo dục, việc học cần phải được định hướng
đúng đắn cho mỗi người học, cũng giống như cách thức sử dụng
ngọn đèn đúng vai trò của nó theo ý kiến trên. Trước hết, việc học
nhằm mục đích tiếp thu, đón nhận những nguồn tri thức lẫn đạo đức,
nhân bản con người từ người dạy. Việc học góp phần khai sáng,
thông tuệ bản thân, nhờ đó chúng ta sống đúng với vai trò là một hữu
thể xã hội. Học kiến thức khoa học cúng phải song hành với việc học
đạo lễ để phát triển con người nên toàn diện. Đấy chính là vai trò đầu
tiên của sư phạm “Tiên học lễ, hậu học văn”. Mặt khác, chính là chìa
khóa mở cửa tương lai. Con người thông qua sự học để hướng tới lập
nghiệp, giúp đời. Không ai trong chúng ta muốn học cho giỏi, cho
sâu nhưng lại không muốn xây dựng đời sống mai sau bằng những
ngành nghề hữu ích, giúp người giúp đời. Vì thế, vai trò của sư phạm
chính là hướng dẫn người học biết phương pháp học, tư duy học,

170
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
nhằm tự xây dựng cho bản thân cách thức học hiệu quả, vận dụng lý
thuyết thong qua thực hành, quan tâm đến tính thực tiễn và dám suy
nghĩ, sáng tạo, đổi mới việc học. Chúng ta đều biết đến nhà bác học,
nhà phát minh thiên tài người Mỹ- Thomas Edison qua những sáng
tạo, sáng chế của ông: bóng đèn sợi tóc, đầu máy kéo….., nhưng thật
ít ai biết đằng sau những thành công ấy là vô số lần thất bại. Nhưng
đối với ông, những lần thất bại ấy lại là sự thành công, vì qua đó ông
khám phá ra nhiều điều mới lạ qua lý thuyết đồng thời ông càng đam
mê sự sáng tạo, tư duy để quyết thành công. Như thế, chúng ta nhận
ra việc sử dụng chiếc đèn thắp sáng cũng giống như việc chúng ta
học phương pháp sư phạm đúng đắn từ người dạy, để biết học và
thực hành điều được học vào thực tiễn tốt đẹp. Đây cũng chính là câu
hỏi đặt ra cho vấn nạn: học thi đối phó, chạy điểm, mua bằng……
trong nền giáo dục Việt nam ta hiện nay.
Xét đến nền văn hóa Đông phương, việc học còn thể hiện ở khía
cạnh học đạo làm người. Qua đó, chúng ta nhận ra mục đích học của
từng bản thân còn đi liền với quá trình hoàn thiện chính mình, nhằm
xây dựng chính mình nên công dân hữu ích cho cộng đồng, cho xã
hội. Cũng giống như sự đối lập trong hình ảnh “thùng nước” và
“ngọn đèn”, sự vô hạn của đóm lữa nơi ngọn đèn có thể chia sẻ cho
các ngọn đèn khác mà bản thân không bị tiêu hao đi, nhưng lại làm
cho không gian được chiếu sáng lan rộng hơn. Tong khi đó, nước
được chứa trong thùng lại hữu hạn khi chia sẻ. Chính lẽ đó, con
đường học đi liền với sự nghiệp cống hiến và chia sẻ. Nhưng trước
hết, người học cần phải ý thức được tầm quan trọng của việc học làm
người, từ những điều nhỏ bé nhất: chăm chỉ, chịu khó, đến những
việc lớn hơn: dám hy sinh , đồng cảm tha nhân. Như thế, tri thức
chúng ta có không chỉ là công cụ cho đời sống tương lai bản thân mà
còn mà còn là tiếng nói hữu đắc để chia sẻ, bênh vực lợi ích, nhân
phẩm con người. “Người có học là người biết sống đúng phẩm giá
quân tử” (Khổng Tử). Cũng theo tấm gương của mẹ Têrêsa thành

171
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Cancutta, tuy không phải là người giàu có về tri thức mẹ thực sự là
con người giàu có tấm lòng yêu người, thương đời. Đây chắc chắn là
mẫu người có học xứng danh “ngọn đèn cần thắp sáng”.
Qua đây, chúng ta nhận thức rõ vị thế và tầm quan trọng của việc
học, đào tạo con người có sự ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống chính
mình thế nào. Sự nghiệp học vấn của kẻ hưởng thụ luôn gắn liền với
sự nghiệp giáo dục của người đào tạo. Vì thế, vai trò của người giáo
dục cần được ý thức cách đúng đắn trong việc lèo lái đường đi cả thế
hệ con người, không hệ tại ở sự trao truyền tri thức, con điểm hay
những thành tích rực rỡ, bằng cấp long trọng, mà ở chính người
được giáo dục biết đón nhận nguồn tri thức ấy thành “nguồn chất
đốt” của chính mình, sử dụng cách sáng tạo, biết chia sẻ để đem lại
sự lợi ích, điều tốt đẹp cho mọi người và cuộc sống. Chúng ta luôn
đồng ý rằng: sẽ không có một Mạnh Tử đức độ hơn người nếu không
có một Chương Thị hiểu con, và sẽ không có một Trạng Trình,
Nguyễn Bĩnh Khiêm xuất chúng nếu không có một thầy dạy Lương
Đắc Bằng. Cũng giống như hình ảnh thầy Giêsu và mười hai người
tông đồ của Ngài, Các ông sẽ không thể nên những con người can
đảm, khôn ngoan, đạo đức, dám khước từ mọi sự…. nếu không có sự
hướng dẫn của Chúa qua chính đời sống của Ngài “Ánh sáng của anh
em phải được thắp lên nơi cao ráo để mọi người nhìn thấy mọi việc
tốt anh em làm mà tôn vinh Cha anh em trên trời”.
Học tập là một quá trình cần thiết nơi mỗi con người. việc học
không chỉ trau dồi tri thức, xây dựng cuộc đời mà còn là đào tạo
chính bản thân mỗi ngày. Như thế, giáo dục mới thể hiện được sự
sáng tạo đúng chất của nó trong sứ mạng trồng người. Qua đó, ý
kiến: “Con người không phải là thùng nước cần đổ đầy, mà là ngọn
đèn cần thắp sáng”. Chắc hẳn là một phương châm giáo dục giàu tính
hiện thực, đậm chất nhân văn góp phần làm sáng rõ việc học tập của
mỗi người chúng ta trong thời đại hôm nay.
Trung Tâm Mục Vụ TGP Sài gòn
Lớp Chủng Sinh Dự Bị Khóa 10 – Niên khóa: 2014-2015
Tên thánh – Họ tên: Gioan Baotixita Nguyễn Hoàng Sơn

172
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề Bài: Hãy giải thích và chứng minh ý kiến: “Sự thật đôi khi
gây nên rạn nứt, còn dối trá thì luôn tạo nên đổ vỡ”.
Bài làm
Cuộc sống con người như một cuộc tìm kiếm.Có khi con người
tìm kiếm chân lý, sự thật, nhưng cũng có lúc lại đi tìm sự dối trá, lừa
lọc. Con người ngày nay nghiêng về sự hưởng thụ, luôn đi tìm cảm
xúc, những điều dể chịu từ tiện nghi vật chất và sự ngưỡng mộ của
những người xung quanh, nên chăng còn mấy ai ý thức trân quý và
giữ gìn sự thật. Và khi đó hình như sự dối trá lên ngôi. Thế nhưng để
tìm được sự thật hay sự dối trá chúng ta đều phải trả giá, vì như có ai
đó đã từng nói rằng: “Sự thật đôi khi gây nên rạn nứt, còn dối trá thì
luôn tạo nên đổ vỡ”. Câu nói nghe rất hợp lý, nhưng đâu là sự rạn
nứt, đâu là sự đổ vỡ? Rạn nứt và đổ vỡ như thế nào? Chúng ta hãy
thử tìm hiểu xem.
Có ai đó đã từng khẳng định rất mạnh mẽ rằng: “Không có gì đẹp
hơn sự thật và cũng không có gì đáng yêu hơn sự thật”. Vậy sự thật
là gì? Là cái có thật, có xãy ra, nó luôn đúng… Có thể nói sự thật
như là ánh sáng và chân lý.
“Sự thật đôi khi gây nên những rạn nứt” nghĩa là chỉ trong một số
hoàn cảnh, trường hợp đặc biệt nào đó sự thật trớ trêu duyên cớ cho
người ta cảm thấy khó chịu hay vấp ngã. Đôi khi tức là không thường
xuyên, không phải sự thật nào cũng gây nên rạn nứt. Vì vậy đa số sự
thật đem lại cho con người ta ánh sáng chân lý và sự ngọt ngào, dể chịu.
Còn đối nghịch lại với sự thật là sự dối trá tức là sự giả dối, lọc
lừa không phải là sự thật. Thí dụ chúng ta thường hay nói ai đó có
tính dối trá hay người đó là kẻ dối trá. Tự bản chất sự dối trá là điều
xấu, nó không đem lại ánh sáng, sự sống và chân lý. “Dối trá thì luôn
tạo ra sự đổ vỡ” tức là dối trá là bóng tối, là tiêu cực, nó luôn đem lại
sự hủy diệt, phá đổ. Dối trá không có khả năng hàn gắn và xây dựng.

173
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Như vậy qua ý kiến trên cho ta hiểu được rằng sự thật là điều tốt
nhưng đôi khi nó cũng gây nên những bất ổn, những chướng ngại
hay sự khó chịu cho con người. Sự thật là tốt nhưng đôi khi nó tạo
nên những rạn nứt cho con người, không phải sự rạn nứt của một vật
thể nào đó mà là sự rạn nứt trong tương quan giữa con người với
nhau. Còn sự dối trá thì ngược lại, nó là điều xấu, nó không có khả
năng dựng xây, tác tạo hàn gắn nên chỉ đem đến cho người ta sự bất
ổn, hủy hoại. Đây cũng là sự đổ vỡ trong cái tương quan giữa con
người với nhau.
Vậy tại sao sự thật lại gây nên những rạn nứt? Tại sao sự thật, chân
lý lại đem đến cho con người sự khó chịu, sợ hãi và tránh né nó?
Có thể nói rằng tự bản chất, sự thật chẳng bao giờ là xấu cả, mà
nó gây ra những rạn nứt đó là do tư thế đón nhận sự thật của con
người. Bản tính tự nhiên của con người là thích hưởng thụ, thích tìm
những điều dễ chịu từ các tiện nghi vật chất và sự ngưỡng mộ của
những người xunh quanh. Cho nên xu hướng sống của họ là “Tốt thì
khoe ra, xấu thì che lại” Mặt dù ai cũng biết rằng sự thật là chân lý là
điều tốt và ai cũng mong người khác luôn đối xử thành thật với mình,
thế nhưng một khi bị cuốn vào vòng tranh chấp điên đảo bất tận của
cuộc sống thì người ta lại thấy rằng sự thật chính là trở ngại căn bản
để vươn tới để thành công. Đó! Khi người ta quan niệm sai lệch về
các giá trị của cuộc sống thì sự thật trở nên vật cản hay trở thành điều
xa xỉ trong cuộc sống. Do bản tính yếu đuối, nhiều khiếm khuyết,
nhiều tật xấu… nên con người thường né tránh không muốn chấp
nhận sự thật trong cuộc sống, sự thật của người khác hay của chính
mình. Người Việt nam chúng ta thường có câu: “Thuốc đắng dã tật,
sự thật mất lòng”. Muốn khỏi bệnh muốn có sức khỏe thì buộc chúng
ta phải uống thuốc đắng, đây có thể là một thử thách cho nhiều
người. Sự thật được xem như là một thuốc đắng khó nuốt, người ta

174
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
thích được khỏi bệnh nhưng ngại uống thuốc vì đắng; muốn nói lên
sự thật nhưng ngại không dám nói vì sự thật mất lòng. Đây là một
nghịch lý, vì thế đôi khi sự thật bị đẩy ra lề và nếu người ta đón nhận
sự thật thì nó dể gây nên rạn nứt. sự rạn nứt có thể đến từ ý thức
trong thâm cung cõi lòng mỗi người, ai cũng có những yếu đuối,
những khiếm khuyết nhưng chẳng đời nào ai muốn “vạch áo cho
người xem lưng”. Con người thường sợ người khác biết những tính
xấu, khuyết điểm của mình tự nhiên ai cũng muốn người khác quên
đi hay đừng nhắc tới quá khứ không đẹp của mình. Cho nên khi sự
thật của mình bị phát lộ thì chúng ta thường sống bất an sợ hãi, đó là
sự rạn nứt nội tâm. Như một bé gái bị lạm dụng tình dục, đã nhiều
năm trôi qua, bây giờ cô đã là một thiếu nữ đến tuổi yêu đương cưới
chồng. Có thể đó là một vết thương rất lớn, nếu bây giờ có ai đó khơi
lên quá khứ không đẹp đó, cô sẽ sống bất an sợ hãi và có thể nội tâm
bị dày vò, giằng xé suốt đời. Đó là sự thật nhưng hình như nó thật vô
tình đối với một tâm hồn mỏng manh và sự rạn nứt tâm hồn là điều
khó tránh khỏi.
Sự rạn nứt có thể đến từ thái độ truyền đạt sự thật hay người đón
nhận sự thật. Đôi khi vì vô tình hay cố ý vì thiếu tế nhị hay không tôn
trọng người khác thì sự thật có nguy cơ tạo nên những rạn nứt trong
các mối tương quan như một chàng trai thương thầm nhớ trộm một
cô gái vẫn biết rằng hai người chỉ là bạn và cô gái kia vẫn không hề
yêu anh. Chàng trai biết mình chỉ yêu đơn phương, nhưng rồi anh đã
không làm chủ được cảm xúc và nói cho cô gái biết sự tình. Hậu quả
là cô gái tỏ ra hơi khó chịu và bực bội. Chắc chắn đó là sự thật nhưng
sau biến cố này tình cảm giữa hai người đã có vấn đề. Khi thổ lộ tình
cảm không được đối phương đón nhận thì chắc chắn cả hai đã gặp
tổn thương, mối thâm tình trở nên khoảng cách ngượng nghịu và tình
bạn đã không còn trong sáng hồn nhiên như trước nữa.

175
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Hay có trường hợp vì thiếu tế nhị, thiếu tôn trọng người khác, ta
đã nói ra những lỗi lầm, khiếm khuyết của họ giữa chốn đông người,
khi có sự hiện diện của họ. Chắc chắn thái độ thiếu khôn ngoan đó của
ta đa khiến người khác một phen bẻ mặt, như vậy tình cảm giữa ta và
người đó sẽ bị tổn thương, rạn nứt. Đó là sự thật, nhưng cách truyền
đạt sự thật của ta quá thô thiển, thiếu sự tinh tế và tôn trọng. Có nhiều
cách để nói lên sự thật nhưng phải biết nhạy bén chọn lựa không gian,
thời gian, đối tượng, để sự thật đem lại sự nhẹ nhàng, hàn gắn và xây
dựng. Sự thật cần được ở bên cạnh sự tế nhị, tôn trọng và tình yêu
thương. Đó là lợi lộc của sự thật, còn sự dối trá thì sao?
Có ai đó đã từng nói rằng: “Những lợi lộc của dối trá thì nhất
thời, còn lợi lộc của sự thật là vĩnh viễn”. Hình như nhiều người vẫn
thích thứ lợi lộc mau qua, chóng tàn. Họ dám tuyên bố rằng, sống
giữa xã hội bây giờ mà sống theo sự thật thì đó là thái độ rất ngây
thơ. Theo họ, phải khôn khéo và đầy kỹ xảo trong từng lời nói, hành
động mới là kẻ thức thời và mới có hy vọng thành công. Thế rồi
người ta đến với nhau như những diễn viên trên sân khấu cuộc đời họ
cố gắng hóa trang, chải chuốt bóng bẩy để người khác nhìn thấy vẻ
hấp dẫn, lịch lãm của họ. Thế nhưng, chắc chắn khi người ta cố gắng
nhồi nặn mình thành một kẻ khác, sống ngược với chính mình thì họ
sẽ mau chóng gặt được “lợi lộc”, lợi lộc đó là sự đổ vỡ. Bởi cứ sống
dối trá, đến một ngày nào đó khi không còn đủ sức để diễn nữa lớp
vỏ phấn son kia sẽ tự rớt xuống và niềm tin yêu của người ấy cũng sẽ
rơi rụng theo, họ sẽ bị sụp đổ hoàn toàn. Phải khẳng định một cách
mạnh mẽ rằng dối trá thì luôn tạo ra đổ vỡ. Thế thì lợi lộc nó ở đâu
và tại sao nhiều người cứ chạy theo sự dối trá lọc lừa. Như người ta
vẫn thường nói: “thật thà thẳng thắn thường thua thiệt, lọc lừa len lỏi
lại lên lương”. Như đã nói ở trên khi người ta quan điểm sai lạc về
hạnh phúc, người ta thích định cư trú ẩn an toàn nơi tiền tài, danh

176
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
vọng, sắc đẹp. Vẻ hấp dẫn hào nhoáng của các giá trị vật chất đã
khiến họ chấp nhận đổi chác sự thật, lương tâm ngay thẳng để có
được sự hấp dẫn của vật chất cộng với thái độ sống buông thả, thiếu
cố gắng rèn luyện đã khiến con người trở nên yếu nhược hèn nhát để
rồi họ chấp nhận sống dối trá và lọc lừa. Vì thế xã hội ngày càng lan
tràn lối sống gian dối, họ coi gian dối là điều hiển nhiên hay như một
mốt sống thời thượng. Hình như dối trá có mặt khắp nơi, khắp mọi
ngóc ngách hang hẻm của cuộc sống. Báo chí và nhiều phương tiện
truyền thông kêu ca về sự gian dối lọc lừa hình như trong tất cả mọi
ngành nghề lãnh vực của cuộc sống. Mỉa mai thay, sự gian dối lại
thấy xuất hiện nổi cộm trong một số lãnh vực như truyền thông…
trong một số ngành được coi là mẫu mực của xã hội như y tế, giáo
dục...
Truyền thông thì có truyền mà không thông, truyền thông tô vẽ,
bôi nhọ nhiều sự kiện từ đen thành trắng - trắng thành đen, có thành
không - không thành có. Trong ngành y tế, cụm từ “lương y như từ
mẫu” rất ít được sử dụng, thay vào đó người ta sáng tác ra nhiều cụm
từ có vẻ hợp thời hơn như “lương y như từ mặt” hay “lương y bèo
hơn lương tháng”… Gần đây nhất chúng ta thấy báo chí và các
phương tiện truyền thông phanh phui nhiều vấn đề gian dối, lọc lừa
trong ngành y tế: bác sĩ dối trá ăn chặn tiền bảo hiểm y tế của người
dân, có bác sĩ giả khám bệnh cho nhiều người đều cho ra một kết quả
và một đơn thuốc giống nhau… tuy không phải tất cả ngành y tế hay
các bác sĩ đều dối trá, nhưng thực trạng chung đã làm cho xã hội lo
lắng và niềm tin vào các lương y ngày càng giảm sút, đó là sự đổ vỡ
về nhân cách, lương tri.
Trong giáo dục cũng thế, sự dối trá dường như ngày càng lây lan
và phát triển mạnh. Bản chất của giáo dục là trong sáng, là tinh hoa
của bao điều tốt đẹp. Một nền giáo dục đích thực luôn tạo ra những

177
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
con người phát triển tốt đẹp về mọi mặt, thế nhưng một khi dối trá đã
chen chân vào thì sự tác hại lây lan của nó thật khó lường. Thật đáng
buồn khi sự gian dối lại đến từ những người làm giáo dục. Chúng ta
vẫn thường thấy ở đâu đó xãy ra tình trạng “đổi tình lấy nghề”, “đổi
tình lấy điểm” hay có các thầy cô giả, bằng giả, tiến sĩ giả…Từ
những người làm giáo dục lây lan đến các bậc phụ huynh, dù không
có tiền các bậc cha mẹ cũng lo lắng chạy chọt cho con mình có điểm
cao, lót tiền vào các trường điểm, trường chuyên, lớp chọn. Vì thế
các học sinh cũng bị lây nhiễm từ thái độ sống thiếu trung thực của
người lớn, hậu quả là họ sống ỷ lại, học hành đối phó, gian lận trong
học đường, đặc biệt là chuyện thi cử. Phải chăng đó là một sự đổ vỡ
dây chuyền. Quả thật một nền giáo dục dối trá sẽ tạo nên những con
người dối trá. Những gì mà chúng ta đang đối diện hôm nay, phải
chăng đó là hệ lụy từ một nền giáo dục thiếu tính trung thực. Trên
thương trường, nhiều tương quan làm ăn hợp tác bị phá đổ do dối trá
trong kinh doanh, sản xuất hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất
lượng...Trong tình yêu người ta đến với nhau vì vẻ hào nhoáng bề
ngoài, nhiều người lợi dụng tình yêu để tranh quyền đoạt vị, thu vén
tiền của... Vì thế người ta có thể dùng bất cứ thủ đoạn gì kể cả giết
người yêu, chặt người yêu thành nhiều khúc và thủ tiêu. Đó là sự đổ
vỡ ghê sợ nhất, vì lợi lộc vật chất con người trở nên như một thứ gì
đó thật rẻ mạt. Chúng ta không thể liệt kê hết những đổ vỡ của sự dối
trá, nhưng cũng thật dể dàng cho ta nhận ra rằng sự đổ vỡ xảy ra
trước tiên nơi người cưu mang và thực hiện sự dối trá. Người dối trá
là kẻ hèn nhát, họ luôn phải sống trong sự bất an, lo sợ, luôn dồn
năng lực để tìm cách đối phó, che đậy, biện hộ cho hành vi của mình.
Do đó cuộc sống của họ chẳng còn tâm trí để nếm được niềm vui và
hạnh phúc. Đó là sự đổ vỡ rất đáng thương. Tiếp đến sự đổ vỡ đến từ
tương quan với những người xunh quanh với xã hội. Người sống dối

178
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
trá luôn làm cho kẻ khác nghi ngờ, cảnh giác, và bất hạnh nhất là mất
niềm tin tưởng của mọi người. Đến đây chúng ta nhớ đến hình ảnh
chú cuội - một người hay nói dối. Một lần chú hô hoán cháy nhà, dân
làng chạy ra thì bị mắc lừa chú, lần thứ hai cũng vậy chú la có cháy
nhà, dân làng vẫn chạy ra và chẳng thấy gì cả. Đến một ngày kia nhà
chú cháy thật, chú ra sức hô hoán mà chẳng thấy ai, vì lần này người
ta chẳng còn tin chú nữa. vậy là chú đành nhìn ngôi nhà rụi tàn trong
sự bất lực, xót xa.
Nói chung sống sự thật hay dối trá đều có cái giá phải trả. Sự thật
đôi khi gây ra rạn nứt, nhưng có thể nó sẽ làm cho ta sống mạnh mẽ
và triển nở. Còn dối trá luôn tạo ra sự đổ vỡ, bất ổn, hủy hoại… Dối
trá dể đưa con người ta đi vào ngõ cụt của cuộc đời. Người khôn
ngoan là người nói sự thật đúng lúc, đúng chổ, đúng đối tượng và
không nói dối bao giờ.
Nói tóm lại, là con người chúng ta được mời gọi khám phá ra vẻ
đẹp và ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Vẻ đẹp và ý nghĩa đó chỉ có
trong sự thật. Vì thế, chúng hãy luôn theo đuổi và sống cho sự thật và
nói không với dối trá dù có phải trả giá cao. Là người tu sĩ, đan sĩ,
chúng lại càng ý thức hơn điều này khi bước theo Thầy Giêsu là
Đấng đã sống và chết cho “sự thật”. Đó là lý tưởng của chúng ta trên
bước đường theo Ngài. Ngài tha thiết mời gọi chúng ta luôn theo
đuổi và sống chết cho sự thật bởi vì: “Sự thật sẽ giải phóng anh em”.
(Ga 8,32)
Đan viện Biển Đức Thiên Phước
JB-Biển Đức Nguyễn Đình Lưu

179
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài 21.Nhà bác học Newton từng nói: “Những điều chúng
ta đã biết ví như giọt nước. Còn những gì chúng ta chưa biết là
cả một đại dương”. Bình luận ý kiến trên?
I. Lập dàn ý
A. Mở bài
- Giới thiệu vấn đề
- Tri thức con người luôn hạn hẹp đối với vũ trụ bao la.
- Chuyển ý như Newton đã từng nói.
B. Thân bài
- Tri thức là gì?
- Tại sao những điều ta biết lại hạn hẹp với thế giới xunh quanh.
- Con nguời luôn bị giới hạn về nhiều khía cạnh nên sự hiểu biết
cũng thể hiện ở một mức độ khác nhau.
- Kiến thức như đại dương mênh mông và vô tận.
- Điều quan trọng là chúng ta phải biết nhận ra sự yếu kém nơi
mình để đi tìm sự hiếu tri.
C. Kết bài
- Nhận định lại vấn đề
- Mở rộng, mỗi chúng ta phải trau dồi kiến thức để mở rộng sự
hiểu biết của mình.
Bài làm
Sâu thẳm trong mỗi con người là ước muốn đi tìm sự lý giải cho
vạn vật xunh quanh. Mỗi một ngày đàng, con người học một “sàng
khôn”. Nhưng đứng trước thế giới bao la, con người thấy mình quá
nhỏ bé và bất toàn. Càng học cao, mình mới nhận ra con người hữu
hạn, và vũ trụ đang còn là một vấn đề bí nhiệm. Sự hiểu biết của
chúng ta còn quá nhỏ bé hữu hạn so với vũ trụ mênh mông, bao la
rộng lớn. Như nhà bác học Newton đã từng nói: “Những điều chúng
ta đã biết ví như giọt nước. Còn những gì chúng ta chưa biết là cả

180
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
một đại dương”. Phải chăng thân phận con người còn nhỏ bé, trí
thông minh của con người vẫn đang còn bế tắc trước vũ trụ bao la
như đại dương mênh mông vô tận.
Một trong những nỗi khắc khoải của con người đó là sự hiếu
tri,đi tìm sự lý giải cho những bí ẩn của thế giới tự nhiên và siêu
nhiên. Thế nhưng, với sự hữu hạn của con người, làm sao có thể
minh tri được cả một chân trời bao la bí nhiệm. Nhà bác học Newton
đã đưa ra một sự so sánh khập khiễng giữa giọt nước và đại dương,
một sự tương phản rõ ràng để cho chúng ta thấy rõ được những gì
mình đã thủ đắc, chưa đáng là gì so với một “đại dương” huyền bí
đang chờ chúng ta đi tìm sự lý giải. Kiến thức của con người có được
là sự hiểu biết về thế giới xunh quanh. Con người thâu nhận kiến
thức một cách tiệm tiến, qua lao động, học tập, sáng tạo, thời gian.
Nhưng đứng trước đại dương cuộc sống, con người chợt giật mình,
vì thế giới xunh quanh đang là một bí nhiệm, một điều mới mẻ. Từ
cuộc sống xunh quanh chúng ta; cây cối, muông thú cho đến thực
nghiệm mà ông cha ta đã để lại, cao hơn nữa là một thế giới thần
thiêng huyền bí vẫn đang là muôn hình muôn vẻ so với những gì
mình đang có.
Sự minh tri của chúng ta đối với thế giới này là quá nhỏ bé, một
sự khập khiểng như giọt nước và đại dương. Con người vẫn tự hào
“vỗ ngực xưng danh” là mình học cao hiểu rộng, tầm hiểu biết hơn
hẳn mọi người. Nhưng nếu thử đem so sánh với cả chân trời kiến
thức chỉ là “rỗng tuếch” mà thôi. Nhà bác học Newton cũng đã nhấn
mạnh rằng: “Tôi chỉ biết trong việc nghiên cứu khoa học, tôi là đứa
trẻ lang thang trên bãi cát. Thỉnh thoảng, may mắn hơn các bạn, tôi
nhặt được cái ốc và vỏ sò đẹp hơn, nhưng thế giới xung quanh như
đại dương đối với tôi vẫn còn là bí nhiệm”. Nhà bác học Newton rất
khiêm nhường coi mình như “đứa trẻ lang thang” để đi tìm đề tài

181
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
nghiên cứu. Newton cũng nhận thấy sự nhỏ bé và hạn hẹp của con
người để mình cố gắng vươn lên. Dẫu biết rằng những gì ông đang
có như giọt nước hòa vào đại dương. Thế nhưng “giọt nước” đó cũng
có ý nghĩa với đại dương, bởi vì đại dương có được là sự kết hợp của
nhiều giọt nước.
Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, văn minh nhân
loại đang được nâng cao, con người càng phát minh ra những
phương tiện hiện đại, nhưng con người vẫn chưa làm chủ được tự
nhiên và lý giải cho những vấn nạn của cuộc sống con người. Tri
thức nhân loại thật mênh mông vô tận, từ sách vở, thực nghiệm cuộc
sống cho đến những khám phá tìm tòi của mỗi cá nhân. Có ai dám tự
hào mình đã biết tất cả, có ai dám tự hào có thể lý giải sự huyền
nhiệm của cuộc sống tự nhiên, xã hội, có ai dám tự hào mình cảm
nghiệm cảm nhận được thế giới thánh thiêng. Con người cứ cho
mình là “nhất phiếm tri toàn đỉnh”, mới biết một chút đã nghĩ mình
hiểu rõ “thâm căn cố đế” rồi. Như nhà hiền triết Aristote đã nói:
“Người tự cho mình là hiểu biết nhiều là người không biết gì cả” làm
sao con người có thể, hiểu được cuộc sống đặc tính của vạn vật, làm
sao con người có thể được những biến cố cuộc sống với một “giọt
nước” trong đầu.
Để tìm được sự minh tri, chúng ta phải biết nhìn nhận sự yếu kém
nơi mình. Nhận ra sự yếu kém, chúng ta mới thao thức những điều
chân - thiện - mỹ, đi tìm sự lý giải cho vạn vật thế giới xung quanh.
Cho dù chúng ta biết rằng, cuộc sống là một bí nhiệm để chúng ta đi
tìm sự lý giải. Nếu cuộc sống không còn mới mẻ bí ẩn thì cuộc sống
con người không còn ý nghĩa. Dẫu biết rằng một giọt nước chẳng là
gì so với cả đại dương, nhưng thiếu một giọt nước thì nó cũng làm
cho cả đại dương “thiếu thốn”. Vậy chúng ta phải làm gì để đạt tới sự
minh tri, để sự hiếu tri của chúng ta được thỏa mãn. Thiết nghĩ, đó là
con đường học tập, trau dồi nhân phẩm. Qua học tập chúng ta tích góp
182
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
được nhiều “giọt nước” hơn, lý giải được một phần cuộc sống xung
quanh. Như cổ nhân đã từng nói: “Nhân bất học bất tri lý”. Chúng ta
đừng ngạc nhiên trước vũ trụ bao la rộng lớn, để “an phận thủ thường”
cho đó là bí ẩn không cần phải tìm tòi nghiên cứu. Điều mà mỗi chúng
ta cần làm là vươn lên không ngừng cho dù có gặp những khiếm
khuyết nơi bản thân.
Càng tìm tòi học hỏi thì chúng ta mới biết được thân phận yếu
hèn của chúng ta, càng đi sâu nghiên cứu chúng ta mới thấy được
bí nhiệm cuộc sống, từ đó chúng ta mới biết được bàn tay tạo hóa
đang ở trên cuộc đời chúng ta. Chừng nào con người còn biết nhận
ra những bất toàn nơi mình, biết nhận ra sự bí ẩn cuộc cuộc sống
thì khi đó cuộc sống con người còn có ý nghĩa để chập nhận sự
hiện hữu của thần linh. Một giọt nước không thể ôm cả đại dương,
cũng như kiến thức chúng ta nhận được không thể lý giải hết mọi
ngóc ngách của vấn đề nhân sinh. Tuy nhiên, cũng giống như giọt
nước có thể hòa vào đại dương, con người của chúng ta có thể
không choáng ngợp khi nhận ra sự yếu kém nơi bản thân để nhận
biết bàn tay vô hình của Đấng Tối Cao đang điều khiển mọi sự.
Đối với người Kitô hữu, đặc biệt là những người dấn thân phục
vụ thì vấn đề tri thức và nhân bản được đặt ra song song với nhau.
Biết nhận ra thân phận yếu hèn để sống khiêm nhường hơn, biết nhận
ra mình còn yếu kém để cố gắng, biết thắc mắc băn khoăn để đi tìm
sự lý giải. Những gì mình thủ đắc chưa là gì đối với đại dương kiến
thức, những công lao của mình chẳng đáng là gì so với hồng ân
Thiên Chúa ban nhưng không cho chúng ta. Nhận ra thế giới còn bí
nhiệm, để chúng ta biết được có sự hiện diện của Chúa quan phòng,
để biết sống phó thác hơn. Chừng nào chúng ta còn giữ được thái độ
sống như trên thì chúng ta mới bớt tính kiêu ngạo và biết chấp những
mầu nhiệm của Thiên chúa.

183
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Thân phận con người luôn bất toàn và hữu hạn. Những gì mà con
người cho là đã biết thì đối với chân trời kiến thức như là một giọt
nước. Càng đi sâu vào học hỏi, chúng ta càng thấy mình đang còn
“mông muội”. Điều quan trọng, là chúng ta phải biết qua sự mông
muội để biết vươn lên, qua những bí nhiệm của cuộc sống để chúng
ta xác quyết có Đấng Tạo Hóa đang hiện hữu. Biết được thân phận
con người còn bất toàn yếu đuối, chúng ta mới sống khiêm nhường
và phó thác hơn. Cho dù Newton ví sự hiểu biết của chúng ta như
giọt nước với đại dương mênh mông vô tận của kiến thức, nhưng giọt
nước đó cũng có ý nghĩa đối với mỗi chúng ta. Điều quan trọng là
chúng ta phải làm cho “giọt nước” thực sự có ý nghĩa đối với bản
thân, tha nhân và cao hơn là để làm sáng danh Chúa.
Tên Thánh -Tên gọi: GB. Hoàng Công Lực

184
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài 22.Hãy bình luận nhận định sau của La-Cordare: “Khoa
học giúp chúng ta trở nên thông thái, lý trí giúp ta nên người”

Bài làm
Khởi đầu sự bình minh của lịch sử loài người con người đã
biết sử dụng các công cụ lao động thô sơ để săn bắt, hái lượm nhằm
duy trì sự sống. Cùng với sự phát triển của loài người, khoa họ luôn
có những bước đi nhanh chóng, khoa học mở ra cơ hội cho con người
chinh phục thiên nhiêh, khám phá những điều mới lạ ngoài không
gian và ngay cả với chính bản thân con người. Khoa học càng phát
triển đòi hỏi con người phải đổi mới không ngừng, biết suy luận và
lựa chọn. Giữa khoa học và lý trí luôn có mối quan hệ biện chứng.
Điều đó giúp con người chúng ta ngày càng phát triển và hoàn thiện
hơn. Do đó, La-Cordare nói rằng: “Khoa học giúp chúng ta trở nên
thông thái, lý trí giúp ta nên người”. Câu nói tuy ngắn gọn nhưng
chứa đựng trong đó cả một quan điểm sâu xa, quan điểm đó giúp
chúng ta nhận ra được tầm quan trọng của khoa học, lý trí và mối
quan hệ giữa khoa học, lý trí và con người.
Ở thế kỷ XIV khoa học được định nghĩa là trí thức thuộc mọi
lĩnh vực. Ngày nay khoa học được định nghĩa là hệ thống tích lũy
trong quá trình lịch sử và được thực tiển chứng minh, phản ánh
những quy luật khách quan của thế giới bên ngoài cũng như hoạt
động tinh thần của con người giúp con người có khả năng cải tạo thế
giới hiện thực. Vậy khoa học giúp con người trở nên thông thái là
như thế nào? Khoa học giúp chúng ta thông thái bằng cách nào? Một
con người thông thái là người có kiết thức rộng và sâu, nhạy bén hơn
trong lĩnh vực tiếp nhận phát hiện tri thức mới. Kiến thức mà con
người có được là nhờ vào sự khám phá của khoa học cùng với kiến
thức trong đời sống hằng ngày. Trong suốt chiều dài phát triển của

185
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
lịch sử loài người, mỗi thời kỳ lại có những vấn đề khác nhau, đó là
những mong muốn hay là những câu hỏi mà con người đặt ra để giải
quyết. Việc này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu của khoa học. khoa
học nghiên cứu tất cả mọi vấn đề của đời sống xã hội, tự nhiên và
con người. Qua quá trình nghiên cứu khoa học, chúng ta đã tìm ra
những vấn đề khúc mắc, giải đáp các câu hỏi, những kiến thức đó
được kiểm định bằng thực tiển, từ đó con người mở mang thêm nhiều
điều bí ẩn, tháo gỡ những tranh cải đi đến thống nhất quan điểm đúng
đắn. Ở các thế kỷ trước, con người mong muốn đi đến các vùng đất
xa xôi, đến những nơi chưa có dấu chân người nhưng việc di chuyển
rất khó khăn từ đó con người đã tạo ra những con thuyền lớn với
những cánh buồm rộng để lợi dụng sức gió. Nhờ đó, việc đi lại trên
các đại dương dể dàng hơn. Cùng với thời gian các đầu máy bằng hơi
nước, chạy bằng xăng dầu được phát minh đưa ngành hàng hải tiến
xa trên con đường chinh phục vùng đất mới và thông thương buôn
bán. Hay, nếu chúng ta đặt mình vào vị trí của những con người cách
đây vài chục thế kỷ thì thử hỏi tầm hiểu biết của chúng ta sẽ như thế
nào? Việc con người ước mơ được bay như chim là một điều không
tưởng thời đó, nhưng sau nhiều năm nghiên cứu chúng ta đã sản xuất
được máy bay, không những thế chúng ta còn tiến xa hơn bằng việc
bay vào không gian khám phá các hành tinh bên ngoài trái đất. Từ
năm 1966 đến 1972 nhà du hành vũ trụ Eugene Cerman đã bay vào
không gian ba lần trên các con tàu Gemini 9, Apollo 10, Apollo 17
nhờ ông mà chúng ta có câu thành ngữ tuyệt vời “nâng quả đất lên”.
Điều tưởng chừng như không thể thì khoa học đã làm được, chưa ai
biết được bên ngoài trái đất có những gì, hình thù như thế nào. Nhờ
sáng chế ra các con tàu vũ trụ, khoa học đưa con người bay vào
không gian mở ra cho chúng ta những cảm nhận mới khi bay vòng
quanh trái đất Eugene Cerman nói rằng: “Một cảm nhận tôn kính vô

186
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
biên đối với nét đẹp của trái đất, quả đất quay với một lực nhẹ nhàng
lạ lùng trong bóng đêm đen thăm thẳm, như trong vô tận của thời
gian và không gian… Từ lục địa này qua lục địa kia tóm gọn trong
một màu xanh mênh mông của đại dương hay trong màu trắng của
mây và tuyết thế giới quá lớn, quá đẹp”. Không những khám phá các
hành tinh mà khoa học còn nghiên cứu ngay các loại giống cây trồng
đem lại hiệu quả và năng suất cao, cây trồng đóng một vai trò quan
trọng trong việc cung cấp lương thực, thực phẩm nuôi sống con
người. Các nhà khoa học qua nhiều năm nghiên cứu và trồng thử các
giống lúa trên những vùng đất khác nhau để từ đó các nhà khoa học
lai tạo, tạo ra một giống có khả năng chống chịu tốt, phù hợp hết các
vùng khí hậu. Ngay từ khi chiếc tivi đầu tiên ra đời, con người đã
biết cách truyền hình ảnh động từ nơi này qua nơi khác. Ngày nay
khoa học giúp con người dù ở xa cũng có thể trò chuyện với nhau
qua điện thoại, hệ thống internet, vô tuyến… Đặc biệt khoa học
nghiên cứu về cơ thể con người, chức năng của các bộ phận, các hệ
trong cơ thể để từ đó có phương cách giúp chữa bệnh tật.
Có thể nói rằng khoa học là chìa khóa mở kho tàng văn minh,
đưa con người chúng ta bước sang một thời đại mới, thời đại tiến bộ
vượt bậc về khoa học kỹ thuật. Đã từ lâu con người tìm nguồn năng
lượng để tạo ra hoạt động của máy móc, do đó điện đã ra đời, không
ai có thể tin rằng dòng sông bao năm con người sinh sống có thể tạo
ra được sức mạnh lớn lao như thế. Bao nhiêu thế kỷ con người sống
trong bóng tối, phải dùng chất đốt để thắp sáng, điện ra đời không
những mang lại cho con người nguồn năng lượng để thắp sáng mà nó
còn tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Một ngày không có
điện đồng nghĩa với các hoạt động tạm ngưng, mọi hoạt động đều bị
chi phối bởi nguồn điện năng. Sức mạnh mà điện tạo ra rất lớn, điện
giúp cho vệc sản xuất nhanh hơn, hiệu quả và sản phẩm cũng nhiều

187
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
hơn. Ngày nay chúng ta tiếp tục tìm kiếm các nguồn năng lượng mới
để bổ sung cho nguồn năng lượng đang dần cạn kiệt, các nguồn năng
lượng mới như năng lượng mặt trời, nhiệt điện, hạt nhân… Những
điều tưởng chừng như không bao giờ làm được thì nhờ khoa học mà
con người có thể biết những điều không thể thành có thể. Người
máyASIMO của Nhật bản đã ra đời này 31-10-2000 tạo ra đột phá
mạnh mẽ về khoa học nghiên cứu về con người. ASIMO sau mười
bốn năm nghiên cứu, các nhà khoa học Nhật bản cho ra đời thế hệ
người máy với bàn tay năm ngón có thể bắt tay chỉ đường và có thể
trò chuyện, làm một số công việc nhà. Trước đó người máy thế hệ
EO, E1, E2 cũng đã được nghiên cứu, nhưng chỉ di chuyển với
khoảng cách gần, bước đi với hai chân. Khoa học luôn tạo ra những
cái mới, niện đại hơn và hiệu quả hơn, giúp con người thoát khỏi nô
lệ, đói nghèo, bệnh tật và chinh phục thiên nhiên. Với hàng loạt các
máy móc ra đời đã giải phóng sức lao động của con người, ngày nay
hầu hết máy móc được vào sản xuất đặc biệt trong ngành nông
nghiệp và công nghiệp. Bên cạnh đó khoa học nghiên cứu về toán
học, thiên văn học, hóa học, vật lý… các kiến thức này được chúng
ta tiếp thu với sự đúng đắn của nó, chúng ta được mở mang kiến thức
rất nhiều nhờ khoa học, con người dần dần nâng tầm hiểu biết sâu và
rộng về mọi vấn đề trong đời sống xã hôi và tự nhiên. Do đó có thể
khẳng định rằng “khoa học có thể giúp chúng ta trở nên thông thái”.
Để con người ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn thì ngoài kiến
thức nhờ khoa học mang lại, chúng ta cần quan tâm đến khả năng
nhận thức sự vật bằng suy luận, khác với nhận thức bằng cảm giác,
tình cảm, và vấn đề chúng ta cần tìm hiểu ở đây chính là lý trí.
Lý trí là khả năng nhận thức sự vật bằng suy luận, tức là
trước các sự vật hiện tượng, lý trí giúp con người phát tích, mổ xẻ
vấn đề xem xét đúng hay sai, phù hợp hay không phù hợp để từ đó có

188
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
những quyết định cho mình. Lý trí đóng vai trò cực kỳ quan trọng
trong việc hướng chúng ta có những quyết định cho mình, khả năng
xem xét các hoạt động, giúp chúng ta trở thành con người tốt, con
người có ích. Một con người tốt có ích là người có những phẩm chất
đạo đức tốt, biết đối nhân xử thế, biết những điều gì đúng, điều gì sai
và có kiến thức cần thiết để giúp ích cho gia đình, xã hội. Con người
chúng ta luôn luôn có xu hướng phát triển đi lên và ngày càng hoàn
thiện mình, đứng trước một vấn đề, sự việc bất kỳ con người có sự
lựa chọn, suy tư. Một câu chuyện có thật được viết trong cuốn
“không bao giờ bó tay” của nhà xuất bản thông tấn và công ty ICP,
đó là câu chuyện kể về anh Hiệp. Cuộc sống “huy hoàng” của Hiệp
là nhờ công làm ăn buôn bán của cha mẹ: “Hiệp có riêng một chiếc
xe máy đắt tiền, điện thoại mười ba triệu…” nhưng một điều không
may đã ập đến gia đình Hiệp, khi bố của anh đang tập lái xe ô tô cho
mẹ của anh, trong xe còn có đứa em gái: “chỉ trong phút chốc, Hiệp
đã mất tất cả những người trong gia đình”. Đau đớn vì mất người
thân chưa dứt, thì công an đến và niêm phong tài sản bởi vì bố mẹ
anh dính líu đến đường dây buôn lậu lớn. Thế là từ đó “Hiệp chỉ biết
uống cho say để quên đời”. Đau đớn thay cuộc đời của Hiệp! nhưng
sau một đêm trằn trọc, anh suy nghĩ mình phải bắt tay làm lại từ đầu.
Cuối cùng anh quyết định đi làm thuê cho người khác. Sau vài năm
cần cù làm việc, anh mua đất trồng rau và hoa, bây giờ anh đã là ông
chủ của gần một trăm công nhân. Anh đã biết lựa chọn con đường
đúng đắn vượt lên số phận và trở thành một còn người có ích.
Trong những hoàn cảnh cuộc sống lý trí giúp con người
chúng ta sáng suốt để lựa chọn, khơi dậy ý chí trong mỗi con người
chúng ta. Trở thành một con người tốt, có ích không phải là chuyện
dễ dàng, không chỉ nỗ lực tròng một khoảng thời gian mà đó là cả
một sự đấu tranh liên tục suốt cuộc đời. Không ai tự nói mình là đã

189
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
nên người được, chúng ta luôn phải đấu tranh để bài trừ những cái
xấu và tập luyện đức tính tốt, do đó lý trí giúp ta nhận thức một cách
tổng quát và đúng đắn. Nên người là một quá trình, đi từ những điều
nhỏ bé đơn giản, đến những điều lớn lao, lý trí không thể cần nắm
tay bắt nó phải giúp chúng ta chọn lựa cái này hay cái khác, mà lý trí
tồn tại trong mỗi con người chúng ta. Lý trí có rất nhiều thuộc tính để
giúp chúng ta nên người trong đó “biết” là một quá trình tâm lý thuộc
về lý trí.Tức là chúng ta ý thức, nhận thức được bản chất và khái quát
sự vật, thể hiện thái độ con người đối với các sự vật hiện tượng, từ đó
chúng ta dự kiến được kế hoạch hành vi, kết quả của nó làm cho
hành vi mang tính chủ định. Lý Quang Đình đã nói rằng: “biết sợ hãi
mới thành người, biết sỉ nhục mới thành người, biết gian khổ mới
thành người”, biết sợ hãi, biết sỉ nhục, biết gian khổ là những xúc
cảm thuộc về tình cảm và hành động ý chí, những yếu tố đó giúp ta
trở thành con người có lý trí. Tại sao những thanh niên cùng lứa tuổi
nhưng mỗi người lại có những cách lựa chọn khác nhau, trong xã hội
có rất nhiều các bạn trẻ sa vào các tệ nạn xã hội đặt biệt là tiêm chích
ma túy, điều này rất dễ hiểu bởi những người đó họ chỉ biết chiều
theo cảm giác, muốn cảm nhận sự sung sướng khi tiêm chích nhưng
hậu quả đôi khi phải đánh đổi cả cuộc đời. Nhưng ngược lại, có rất
nhiều bạn trẻ khác rất thành công và trở thành người có ích cho xã
hội. Chính sự lựa chọn giúp biết được hậu quả của sự tiêm chích, sẽ
đem con người tránh xa các bệnh tật, tệ nạn xã hội.
Trước những hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống lý trí giúp
chúng ta có ý chí chiến đấu chống lại các tật xấu, và đặc biệt có
thái độ đúng đắn trước các sự việc đó. Có người đã từng nói: “Nếu
không thể thay đổi được thực tại, bạn hãy thay đổi thái độ của
mình”. Vâng nếu trước những hoàn cảnh khó khăn, chúng ta cứ
phàn nàn, trách người này, người khác thì điều đó càng làm cho

190
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
cuộc sống thêm tẻ nhạt, con người từ đó không còn thì giờ để quan
tâm đến những điều tốt đẹp khác. Cũng hoàn cảnh khó khăn đó
nhưng chúng ta vui lòng chấp nhận, chính quyết định đó làm cho sự
việc nhẹ nhàng hơn và từ đó chúng ta sẽ tìm được cách giải quyết
nhanh chóng, đồng thời rèn luyện bản thân đức tính nhẫn nhịn.
“Lý trí giúp ta nên người”. Lý trí giúp chúng ta hoàn thiện bản
thân, rèn luyện các đức tính tốt, giúp chúng ta đào sâu thêm nhiều
kiến thức về khoa học và mọi lĩnh vực trong đời sống để từ đó chúng
ta trở thành một con người hoàn thiện và có ích cho mọi người. Giữa
lý trí và khoa học luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại
lẫn nhau, nhìn bề ngoài thì tưởng chừng như khoa học và lý trí tồn tại
biệt lập, nhưng nếu chúng ta đi sâu tìm hiểu thì thật sự là không phải
như vậy.
Khoa học với những kiến thức tích lũy trong quá trình lịch sử
được thực tế kiểm nghiệm,giúp chúng ta thấy rõ điều mình đang suy
xét đúng hay sai. Một hiện tượng thật đơn giản mà hằng ngày chúng
ta chứng kiến dố là hiện tượng nước sôi và đông thành đá. Nhờ có
khoa học mà chúng ta biết rằng khi nước đạt đến nhiệt độ 100 thì
nước sôi và bốc hơi, ngược lại nếu nhiệt độ ở0 độ nước bắt đầu đóng
thành băng, chính điều này là câu trả lời chính xác cho những câu
hỏi. Vì sao nước lại bốc hơi? Vì sao nước có thể đông cứng?
Khoa học phản ảnh những quy luật khách quan của thế giới bên
ngoài cũng như hoạt động tinh thần của con người, giúp con người
có khả năng cải tạo thế giới hiện thực. Sự phát triển của khoa học đã
tạo ra các tàu ngầm có thể lặn sâu tới hàng trăm kilômét, việc này
giúp con người lặn sâu đến những vùng mà con người chưa đặt chân
đến, việc này đóng một vai trò quan trọng. Qua các mẫu hóa thạch
dưới đáy biển mở ra cho con người thấy đã từng có những loài động
vật kỳ lạ sống trên trái đất ngay từ khi trái đất vừa mới hình thành.

191
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Khoa học giúp nâng tầm phát triển của lý trí cao hơn, tức là trước
một sự vật, hiện tượng con người có cái nhìn tổng quát cao xa hơn.
Nhìn vào các tổ mối nam Châu phi người ta nghiên cứu và thấy rằng
có những tổ mối cao tới hai đến ba mét, trước gió bão mà không bị
sập. Các nhà khoa học dựa vào cấu trúc bên trong để ứng dụng và
làm mô hình xây dựng các tòa tháp cao tới vài trăm mét. Ngoài ra
khoa học giúp lý trí phân tích làm rõ, tìm hiểu ngọn nguồn sâu xa của
sự vật hiện tượng. Các nhà khoa học đã đặt câu hỏi tại sao lại có đồi
núi? và để trả lời cho câu hỏi này, các cuộc nghiên cứu được tiến
hành, cuối cùng các nhà khoa học đã khẳng định đồi núi hình thành
là do một phần tác động của sự không ổn định của vỏ trái đất, nói rõ
hơn là sự nâng lên hạ xuống của vỏ trái đất.
Có thể nói khoa học có sức ảnh hưởng rất lớn đến lý trí, khoa học
chính là thực tế để kiểm nghiệm sự lựa chọn, suy xét của chúng ta.
Khoa học tác động đến lý trí đồng thời lý trí cũng có sự tác động
ngược trở lại đối với khoa học. Nhờ có lý trí nhìn nhận tổng quát
được xu hướng phát triển của khoa học cho nên lý trí giúp khoa học
định hướng phát triển. Chúng ta tạo ra các nhà máy hạt nhân để hỗ
trợ và tạo ra nguồn điện năng đang dần hao hụt, lý trí giúp con người
biết được lợi ích của các nhà máy hạt nhân, nhưng cũng khống chế
một số người lợi dụng hạt nhân nguyên tử để dùng vào những hoạt
động gây hậu quả cho con người. Nhờ dự kiến được kế hoạch hành
vi, kết quả mà lý trí giúp cho khoa học có được các phương pháp tốt,
hiệu quả, các phương pháp nghiên cứu rất cần thiết cho việc sáng
chế, tìm hiểu khoa học. Có được phương pháp tốt, tức là phù hợp với
hoàn cảnh, địa hình, phù hợp với thời điểm thì việc đem lại hiệu quả
nhanh hơn, chất lượng hơn.

192
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Nếu chúng ta chỉ dừng lại ở chỗ khoa học tạo ra các loại máy
móc, công nghệ mà không có kế hoạch sử dụng chúng thì chưa được,
lý trí cho chúng ta thấy cần đem những tiến bộ của khoa học kỷ thuật
vào phục vụ đời sống. Trong chiến tranh thế giới thứ nhất cho đến
bây giờ cả thế giới phải trầm trồ trước sự phát triển như vũ bão của
Nhật bản. Sau ba mươi năm áp dụng khoa học kỹ thuật vào các
ngành sản xuất điện tử, máy móc, mà Nhật bản từ một nước không
mấy nổi tiếng về khoa học kỷ thuật đã phát triển chỉ đứng sau một
vài nước. Đó kết quả của sự vận dụng đúng đắn thành tựu khoa học
kỷ thuật của thế giới đưa Nhật bản đi lên. Lý trí cũng giúp cho khoa
học phát triển phù hợp với thời đại, điều này có nghĩa tạo ra sự ổn
định chính trị toàn cầu và đem lại hòa bình cho thế giới.
Tóm lại giữa khoa học và lý tí có sự tác động qua lại, đó là sự biện
chứng để giúp con người ngày càng phát triển và hoàn thiện.
Chúng ta cùng nhau nhìn lại câu nói của La Cordaire, câu nói
chứa đựng cả một triết lý sống, một quan điểm đúng đắn về mối quan
hệ giữa khoa học và lý trí nhằm phát triển con người.
Trong vài thập niên trở lại đây, sự phát triển của khoa học đã đưa
đời sống của chúng ta ngày càng phát triển và văn minh hơn, nhưng
bên cạnh đó sự lạm dụng khoa học vào những mục đích không đúng
đắn diễn ra rất nhiều. Các nhà cầm quyền của một số nước đang có
xu hướng chạy đua vũ trang, các loại vũ khí tối tân ra đời, mà các vũ
khí này có sức tàn phá rất lớn, giết người hàng loạt, điều này đang đe
dọa đến sự tồn vong của trái đất. Sự phát triển nhanh của khoa học,
tốc độ đô thị hóa tự phát nhanh, các nhà máy mọc lên như nấm, bụi
khói các chất độc không qua xử lý đổ xuống các dòng sông, điều đó
làm ô nhiễm bầu khí quyển, bệnh tật ngày càng nhiều hơn. Hẳn
chúng ta vẫn còn nhớ vụ án của công ty Vedan Việt nam đổ xuống
sông Thị Vải, nước thải không qua xử lý, chất độc gây ô nhiễm cả

193
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
dòng sông và các hộ dân sống xung quanh. Đây là tiếng chuông cảnh
báo cho sự lạm dụng một cách trắng trợn việc sản xuất không có quy
hoạch, quản lý. Thêm vào đó là việc sử dụng Internet một cách tùy tiện
không có kiểm soát đang là vấn nạn của toàn xã hội. Internet thực chất
là nó không xấu nhưng nếu con người không có sự suy xét, chọn lựa thì
vô tình đã biến nó thành một công cụ xấu xa; hàng loạt vụ đâm chém,
hiếp dâm, cướp tài sản đều có một phần nguyên nhân từ Internet. Do
vậy sự phát triển của khoa học giúp con người thông thái hơn và giúp
hoàn thiện con người cả tài lẫn đức có như thế con người mới phát triển
hài hòa, định hướng cho khoa học phát triển, đi đúng hướng.
Cuộc sống phát triển càng đòi hỏi con người cần có kiến thức sâu
rộng do khoa học mang lại, đồng thời lý trí giúp chúng biết vận dụng
đúng đắn các thành tựu khoa học, biết làm chủ cuộc đời mình trở
thành con người có ích, có cả đức lẫn tài. Bên cạnh đó chúng ta kịch
liệt lên án những hành động lợi dụng khoa học vì lợi ích cá nhân
hoặc vì lợi ích nhóm làm ảnh hưởng đến toàn xã hội. Đã đến lúc tất
cả chúng ta cần xem xét một cách nghiêm túc về sự phát triển của
khoa học, ảnh hưởng của nó đến việc hình thành nên những phẩm
chất con người, rút được những bài học đắt giá từ những hậu quả mà
khoa học với việc vận dụng, lựa chọn sai lầm để có phương pháp cải
tiến, sửa chữa góp phần cải tạo tự nhiên, xã hội, làm cho con người
ngày càng phát triển hoàn thiện và văn minh. Khác với những người
khác, là những Kitô hữu, chúng ta phải hiểu rằng khoa học chính là
cánh cửa mở ra cho loài người được thấy bàn tay thần kỳ của Thiên
Chúa, khoa học sẽ phát triển và đưa lại hiệu qủa nếu nó được đặt
dưới ánh sáng của chân lý là Thiên Chúa toàn năng. Mỗi người
chúng ta cần tiếp thu những kiến thức đúng đắn mà khoa học đem
lại đồng thời biết vận dụng nó một cách phù hợp vào đời sống thực
tiễn, làm cho khoa học sinh ra các thành tựu có ích cho con người,

194
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
đồng thời cần không ngừng suy xét, rèn luyện bản thân bằng lý trí để
con người của chúng ta ngày càng phát triển toàn diện và “nên
người” hơn.
Họ và tên: Phanxicô Xavie Đinh Mạnh Hùng

“Mẹ ru cái lẽ ở đời


Sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn”
Hai câu thơ là nỗi niềm của tác giả qua lời mẹ ru con. “Sữa
nuôi phần xác” nói lên giá trị của sự vật bên ngoài “sữa” để nuoi
sống thân xác, đặc biệt hồn đó là những giá trị về mặt tinh thần “hát
ru” bồi dắp dưỡng nuôi “phần hồn” chúng ta. Dòng sữa và lời ru là
hai yếu tố không thể thiếu để nuôi nấng con cái, và tình cảm người
mẹ thường đặt trọn qua hai hình ảnh này.

195
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Phần II
Làm văn
Một trong những xu thế của con người hôm nay đó là thích đi tìm
những điều mới lạ, mà quên mất rằng niềm vui, hạnh phúc và ý nghĩa
của cuộc sống đang nằm ngay dưới chân mình, chứ đâu phải tận mãi
một chốn nào xa xôi. Mỗi sự vật mỗi hoàn cảnh sống đều có những
giá trị riêng của nó. Điều quan trọng là chúng ta có tìm thấy ý nghĩa
và giá trị của chúng hay không. Và công việc cũng thế, như đã có
một ý kiến cho rằng: “Không có công việc nào nhỏ nhoi hay thấp
kém, mà chỉ có người không tìm thấy ý nghĩa trong công việc của
mình mà thôi”.
Vậy đọc và suy tư một chút về ý kiến trên, chúng ta sẽ có những
nhận định riêng về giá trị của “công việc” và sẽ rút ra cho bản thân
những trải nghiệm riêng biệt.
Hai từ “công việc” xem ra rất gần gũi và quen thuộc với chúng ta,
nhưng để hiểu rõ được hết ý nghĩa của cụm từ này thì không dễ chút
nào. Chúng ta có thể hiểu một cách khái quát rằng: “công việc” chính
là những việc làm mà chúng ta thực hiện hằng ngày, đó có thể là
công việc chân tay hay trí óc, công việc lớn hay nhỏ, vất vả hay nhẹ
nhàng thì tùy thuộc vào địa vị, hoàn cảnh của mỗi cá nhân, tập thể
khác nhau. “Nhỏ nhoi hay thấp kém” là những từ để chỉ sự vật, sự
việc không lớn lao, ít được biết đến. Như thế ý kiến trên là một lời
nhắc nhở nhẹ nhàng trong việc nhận thức được giá trị của “công
việc”. Không có công việc nào là nhỏ nhoi, thấp kém cả nhưng
điều quan trọng là chúng ta phải tìm cho được ý nghĩa của từng
công việc. Đi vào tìm hiểu từng khía cạnh của câu ý kiến và áp
dụng trong từng hoàn cảnh. Cụ thể chúng ta sẽ tìm ra được ý nghĩa
sâu xa của ý kiến trên.

196
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Trước hết chúng ta tìm hiểu tại sao “Không có công việc nào nhỏ
nhoi hay thấp kém”. Như đã định nghĩa ở trên “công việc” là những
việc làm hằng ngày mà chúng ta thực hiện. Như vậy chúng ta nhận ra
rằng khi chúng ta làm việc tức là chúng ta sử dụng sức lực, năng
lượng của mình để tạo ra một sản phẩm, một thứ gì đó mới sau một
quá trình, vậy sản phẩm mà chúng ta tạo ra nó luôn mang một ý
nghĩa nào đó, có thể giá trị của nó lớn hay nhỏ, giá trị hay không giá
trị. Mỗi công việc đều có giá trị riêng của nó. Người làm những việc
nhỏ, thực hiện những việc nhỏ nhưng giá trị của công việc chưa chắc
đã phải là “nhỏ nhoi hay thấp kém”, thậm chí là việc nhỏ mà mang
lại những kết to lớn, những giá trị lớn lao. Những công việc lớn lao
cũng vậy, nó có thể tạo ra những sản phẩm đặc biệt, lớn lao nhưng nó
vẫn mang ý nghĩa riêng chứ nó không phải là những điều vô giá trị.
Như vậy, mỗi công việc dù lớn hay nhỏ, đều mang những giá trị
riêng biệt và không có công việc nào là nhỏ nhoi hay thấp kém cả.
Kế đến, tại sao tác giả lại nói “Không có công việc nào nhỏ nhoi hay
thấp kém mà chỉ có người không tìm thấy ý nghĩa trong công việc
của mình mà thôi”.
Cuộc sống của chúng ta mỗi sự vật, sự việc đều có hai mặt của
nó, điều quan trọng là chúng ta có tìm ra được những điểm mạnh,
những điểm tốt để bắt chước và phát huy hay không. Trong công
việc cũng thế, đứng trước một công việc mình sắp làm, liệu chúng ta
có tìm thấy được hạnh phúc, niềm vui trong đó, chúng ta có mỉm
cười trước và sau khi làm một việc, hay chỉ là một thái độ trái ngược.
Không tìm thấy ý nghĩa trong công việc còn là biểu hiện trong cách
suy nghĩ chưa thật là sâu sắc của mình. Có thể khi được giao một
việc rất nhỏ bé, chúng ta có đón nhận và làm một cách vui vẻ, và
xem đó là cơ hội để hoàn thiện bản thân mình. trước một công việc,
chúng ta có nghĩ rằng đây là dịp để chúng ta tránh khỏi tật xấu vì

197
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
“nhàn cư vi bất thiện” mà. Đồng thời, qua những công việc mình
làm, mình có cơ hội làm giàu cho đất nước, làm giàu cho gia đình,
phát triển công danh sự nghiệp cho bản thân. Hơn thế nũa, qua mỗi
việc làm, nếu chúng ta biết đặt tình yêu vào đó, chúng ta sẽ tìm thấy
được những giá trị về tinh thần và mỗi người chúng ta sẽ tự cảm
nhận được.
Như thế, quả thật là không có công việc “nhỏ nhoi hay thấp kém”
nhưng chỉ có những người không tìm được ý nghĩa trong công việc.
Nhận ra được giá trị của công việc, mỗi người chúng ta sẽ có thái độ
và cách sống ra sao qua những công việc hằng ngày.
Dù ở trong bất cứ xã hội nào thì công việc luôn có một chổ đứng
quan trọng. Khi làm việc chúng ta sẽ tìm được những giá trị của
riêng mình. Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tuổi lớn làm việc lớn, tùy theo
hoàn cảnh của mình, và điều quan trọng là mỗi công việc đều có ý
nghĩa riêng và chúng ta phải thực biện công việc đó sao cho có giá
trị. Có những công việc xem ra rất bình thường như các công việc vặt
trong nhà như quét nhà, rửa bát… hay những công việc bổn phận
hằng ngày, bên ngoài trông có vẻ dể làm không có giá trị lớn lao
nhưng suy xét cho kỷ đó lại những công việc có giá trị, không phải
thấy quen, thấy bình thường mà xem là nhỏ nhoi hay thấp kém. Điều
quan trọng qua việc làm hằng ngày chúng ta có nhận ra được ý nghĩa
to lớn của nó qua những cái đơn sơ. Mỗi người chúng ta phải thực
hiện công việc làm sao cho có ý nghĩa. Là cán bộ nhà nước chúng ta
phải tìm cho được cái giá trị của công việc đó là làm cho đất nước
được phát triển, đời sống người dân được ấm no hạnh phúc. Là
những thầy cô giáo với ý nghĩa công việc của mình là dạy học, làm
gương cho các em học sinh. Là ông bà cha mẹ trong gia đình, chúng
ta phải là chổ dựa vững chắc cho con cháu về vật chất lẫn tinh thần.
Là những người con, những học sinh, chúng ta cũng cần phải thực
hiện những nghĩa vụ của mình là học hành và thảo kính, quan tâm
đến ông bà cha mẹ và mọi người. Như vậy, ai ai cũng có công việc

198
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
riêng và không có công việc nào là thấp kém cả, nhưng chúng ta hãy
tìm ra được hạnh phúc, niềm vui trong từng công việc. Hãy xem
công việc là cơ hội để mình hoàn thiện bản thân và trau dồi tri thức.
Đến đây, chúng ta nhận ra rằng ý kiến trên thật có giá trị và đúng đắn
cho mọi thời và cho tất cả mỗi người chúng ta.
Nhưng đến đây chúng ta cũng nhìn lại câu nói, chúng ta thấy câu
nói trên chưa đúng hoàn toàn trên mọi phương diện. Chúng ta đồng ý
với nhau là mỗi công việc thì không có công việc nào là nhỏ nhoi
thấp kém cả. Nhưng có những công việc xấu xa, thấp hèn liệu chúng
có giá trị và có ý nghĩa đúng đắn hay không. Những công việc làm
ảnh hưởng đến người khác, đánh mất giá trị của bản than thì liệu
công việc đó chúng ta có nên làm. Như thế tùy theo từng công việc
tốt xấu mà chúng ta cần xác định và thực hiện, có như vậy chúng ta
mới tìm thấy được ý nghĩa của nó.
Mỗi người Kitô hửu, Đặt biệt là mỗi tu sĩ, chúng ta luôn được
Thiên Chúa mời gọi chu toàn bổn phận và làm việc trong “tình yêu”.
Chúng ta phải nhận ra được những công việc nhỏ nhoi hằng ngày,
qua công việc của cộng đoàn. Chúng ta có tìm được những ý nghĩa
và giá trị của từng công việc. Chúng ta đã đặt tình yêu, tìm được
hạnh phúc, biết đặt nụ cười vào từng công việc hay chưa. Chúng ta
hãy noi gương của Mẹ Thánh Têrêxa Hài Đồng, hay Mẹ Têrêxa
thành Calcuta, đặt biệt là gương sống của Chúa Giêsu Các Ngài luôn
tìm được ý nghĩa trong công việc lớn nhỏ. mong sao mỗi chúng ta
cũng tìm được hạnh phúc, tìm được ý nghĩa qua công việc, qua các
giờ đạo đức hằng ngày.
Tóm lại, trong cuộc sống không có một điều gì là không có giá trị
của nó, chỉ là có giá trị cao hay thấp mà thôi. công việc cũng vậy, nó
cũng có những giá trị riêng, không có những công việc nào là nhỏ
nhoi hay thấp kém, điều quan trọng là chúng ta có tìm được ý nghĩa
trong mỗi công việc của chúng ta hay không. Mong sao câu nói trên
là kim chỉ nam cho chúng ta noi theo trên con đường hoàn thiện bản
thân, trên con đường theo Thầy Giêsu.

199
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài 24.Chứng minh ý kiến sau: “Nhiều người suốt cả đời
cứ mãi đi câu mà không biết rằng cá không phải là thứ mình cần
tìm”.
Bài làm
Trong một kiếp người có một lý tưởng để mình đeo đuổi, có một lẽ
sống cho cuộc đời, đó là hạnh phúc lớn lao nhất của con người trên
trần gian. Những người bất hạnh phải chăng là những người sống mà
không biết tại sao mình sống, sống để làm gì và sống cho ai? Bất hạnh
hơn nữa là người ta xây dựng cuộc sống của mình trên những mục
đích phù phiếm, đi ngược với giá trị đích thật và nhiệm mầu của con
người. Lý tưởng cuộc đời được dệt nên từ những kiếm tìm và chọn
lựa. Có người đã tìm thấy một cuộc đời hạnh phúc viên mãn tràn đầy.
tuy nhiên, có không ít người sau một đời miệt mài tìm kiếm ngoảnh
nhìn lại chỉ thấy thất vọng ê chề, họ hiểu ra rằng những gì mình đang
có, đang đạt được không phải là thứ cần tìm. Vì thế có ý kiến cho
rằng: “Nhiều người suốt cả đời cứ mãi đi câu mà không biết rằng cá
không phải là thứ mình cần tìm”. Đây có phải là điều có thật phải
chăng đó là một thực trạng sống khiến cho chúng ta phải suy nghĩ?
Trong ý kiến trên, chúng ta thấy tác giả ví đời người như một
hành trình đi câu cá. Ở đây xuất hiện hai hình ảnh rất quen thuộc, dân
dã là câu và con cá. Cần câu chính là phương tiện để người ta đi câu
ở ao hồ sông biển. Cá là thành quả mà người đi câu đạt được. Ở đây
người ta không đơn thuần nói về câu việc đi câu và con cá, hai hình
ảnh mang tính ẩn dụ, tượng trưng cho việc làm và mục đích sống của
con người.Ý kiến trên cho chúng ta thấy rằng nhiều người suốt cả
cuộc đời dành bao nhiêu thời gian, năng lực để lo tìm kiếm, tích cóp
nhưng vô tình họ nhận ra cái mình đã miệt mài tìm kiếm không phải
là cái mình cần. Hình như họ đã bị lạc mất hay đã không tìm thấy
nhu cầu và mục đích thật sự của cuộc đời mình. Chúng ta thấy đây là

200
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
một nghịch lý của cuộc sống, một điều oái oăm cho cuộc đời. Ngắm
nhìn cuộc sống quanh ta hình như mọi thứ vần xoay theo một chủ
đích nào đó. Quan sát những những loại vật vô tri như con kiến, con
ong ta thấy nó miệt mài chăm chỉ làm việc để tồn tại, để xây dựng tổ
ấm đem lại nhiều hoa thơm, mật ngọt cho đời. Con người cũng vậy,
nhìn những người nông dân lam lũ trên cánh đồng, ta thấy họ đang
mong chờ đất đai cho nhiều hoa màu bội thu, cho cuộc sống được
cơm no áo ấm. Rộng lớn hơn, trên bình diện quốc gia, quốc tế khi ta
thấy những chính sách phát triển của những chính phủ ta sẽ biết mục
đích họ đang theo đuổi. Nói chung, dù có ý thức hay không, dù vô
tình hay cố ý, cuộc sống của con người vẫn dẫn đến một kết thúc,
một mục đích nào đó. Cũng vậy người đi câu thì con cá là mục đích
chính yếu của họ. Ở đây có một sự thật đầy mâu thuẫn, suốt đời miệt
mài đi câu mà không biết rằng cá không phải thứ họ cần tìm. Tại sao
vậy, tại sao lại có một mâu thuẫn oái oăm như thế? Có khi nào người
đi câu có vấn đề hay là con cá có vấn đề, nói khác đi là con người có
vấn đề hoặc là mục đích của họ có vấn đề?
Nói đến con người thì bao la rộng lớn lắm. Con người là hữu thể
có ý thức nên cái nhìn của họ trong cuộc sống thì muôn màu muôn
vẻ. Đã là con người trên cõi đời này, ai cũng có những nhu cầu,
những mục đích. Nhưng nhu cầu và mục đích nhiều lúc phụ thuộc
vào nhiều yếu tố chủ quan, khách quan khác nhau từ trong gia đình,
xã hội, môi trường hay các nền văn hóa… Ví như một người vô gia
cư, họ cần có một nơi trú ngụ lúc này một túp lều tranh vẫn có giá trị
hơn những lâu đài sang trọng đang trong dự tính xây cất hay một
người trong tình trạng sắp chết đói, một miếng cơm nguội để nhét
vào bụng vẫn cần thiết hơn một hứa hẹn “mâm cao cỗ đầy” vào hôm
sau. Hoàn cảnh có thể tạo nên những nhu cầu và mục đích sống khác
nhau, nhưng phần đông người ta vẫn quan tâm đến những nhu cầu

201
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
vật chất tầm thường trước mắt hơn là những giá trị tinh thần cao xa.
Khi chìm đắm trong cái tôi ích kỷ hay sự thụ hưởng tầm thường, an
toàn bản thân chính là lúc ta thấy cuộc đời mất phương hướng, không
nhận thấy giá trị đích thực của nhu câu và mục đích đời mình. Có hai
hạt giống kia nằm cạnh nhau, một hạt thì nói rằng tôi phải nảy mầm,
sẽ cắm rễ thật sâu xuống lòng đất, sẽ nhô lên khỏi mặt đất để hưởng
lấy làn gió, ánh sáng mặt trời và sẽ trở nên một cái cây cao lớn sum
sê đem lại bóng mát và hoa thơm quả ngọt cho đời. Còn hạt giống
kia thì bảo rằng tôi sẽ sống mãi trong võ bọc an toàn, nảy mầm làm
gì cho phí sức, cắm rễ sâu làm gì cho đau đớn thân mình, ngoi lên
mặt đất làm gì để phải hứng chịu sự gay gắt của nắng, gió hay phải
trở nên miếng mồi cho ốc sên. Thế nhưng đến một ngày hạt giống đã
bị chú gà bới lên và xơi mất. Lúc này hạt giống vô cùng ân hận về
thái độ sống ích kỷ của mình. Có thể trong một hoàn cảnh, môi
trường sống như nhau người ta vẫn có nhu cầu mục đích sống khác
nhau; có thể chọn cho mình một mục đích sống cao cả hoặc tầm
thường. Chính điều này mà có nhiều người đã không tìm thấy ý
nghĩa cuộc sống đích thực của cuộc đời, họ cần một cái gì đó khác
hơn mà họ đã ra công tìm kiếm.
Trong một trào lưu chung tiêu thụ của nền văn minh khoa học kỹ
thuật, con người rất dễ cuốn vào vong xoáy bất tận của thị trường, họ
ít hướng tới tha nhân, ít quan tâm đến những giá trị cao cả của cuộc
sống. Bởi vậy họ dễ bị mất phương hướng, nhiều người biến mình
thành một cái máy biết đi, chạy theo số đông với những ước mơ hời
hợt phù phiếm. Con người vô tình lạc mất chính mình và rồi họ nghĩ
rằng người ta sống sao tôi cũng vậy. Trong gia đình nhiều cha mẹ
cũng rơi vào thực trạng này, họ sinh con để cái nhưng ít quan tâm
chăm sóc, họ lo gầy dựng công danh sự nghiệp, quá coi trọng đến
“an cư lạc nghiệp”. Có thể họ vẫn lo cho con cái bằng cách cho

202
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
chúng thật nhiều tiền, sắm sửa thật nhiều tiện nghi. Vợ chồng cứ miệt
mài tìm kiếm tích cóp không còn thời gian để chia sẻ cuộc sống với
nhau. Đến một ngày nào đó, con cái chời bời, hư hỏng, vợ chồng mệt
mỏi, không hạnh phúc họ nghiệm thấy rằng đây không phải là thứ họ
cần tìm, vật chất đã đánh lừa họ.
Trong cuộc sống thời hiện đại, nhiều người cứ tranh thủ tích cóp
với hy vọng cuộc sống sẽ sung túc hơn, nhưng thật kỳ lạ là càng có
đầy đủ vật chất hơn thì người ta lại càng thấy thiếu thốn. Vất vả lắm
mới mua được căn nhà như ý nhưng lại phải ở ngoài đường hay công
sở suốt ngày. thức ăn chất đầy tủ lạnh nhưng ngày nào ta cũng phải
ăn cơm tiệm. Áo quần không biết bao nhiêu bộ nhưng ta vẫn hối hả
kiếm tìm khắp các cửa hiệu. Đó là chưa kể khi có những biến cố xảy
ra như bệnh tật, con cái hư hỏng, gia đình xào xáo, kẻ xấu quấy
phá… thì tất cả gia tài kia, những gì gọi là an cư lạc nghiệp kia bỗng
chốc trở nên vô nghĩa.
Nhìn lại thực trạng xã hội, chắc ai cũng nhận ra rằng, con người
ngày càng tiến bộ, hiện đại bao nhiêu thì càng ngơ ngác trước số
phận của cuộc đời mình bấy nhiêu. Thế nhưng chuyện đi câu và
chuyện con cá không phải là chỉ chuyện riêng thời đại chúng ta mà là
chuyện của muôn thuở. Cách thời đại chúng ta, ở vương quốc
Macedonia có một vị vua tên là Alexander Đại đế. Là người đã chinh
phục được cả thế giới lúc bấy giờ, một hôm, bỗng dưng ông đóng
cửa phòng ngồi khóc. Các tướng lĩnh của ông lấy làm lo lắng. Điều
gì đã xảy ra? Họ chưa từng thấy ông khóc bao giờ. Ông đâu phải là
người như vậy. Họ đã sát cánh cùng ông trong những giờ phút hiểm
nghèo nhất. Đôi khi cái chết đã gần kề nhưng họ không hề thấy ông
mảy may lo lắng, sợ hải hay tuyệt vọng. Ông luôn là tấm gương về
lòng dũng cảm. Thế là điều gì xảy ra cho người chiến binh bách
chiến bách thắng này khi mà cả thế giới đã bị ông chinh phục? Họ

203
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
xin gặp ông và hỏi: Bẩm Đại vương; Tại sao Đại vương lại khóc?
Điều gì đã xảy ra? Alexander trả lời: Bây giờ khi ta trở thành người
chiến thắng thì ta hiểu rằng ta đã thất bại. Bây giờ trong lòng ta sự
chinh phục vô nghĩa đang trỗi dậy. Điều này chỉ bây giờ ta mới biết,
bởi vì trước đây ta luôn ở trên đường đua, ta có mục đích để tiến về
cho bằng được. Còn bây giờ ta không còn biết đi đâu, tiến về đâu,
nhắm mục đích gì, chinh phục ai…? Ta cảm thấy bên trong mình có
một sự trống rỗng khủng khiếp. Ta đã thất bại!
Đó! con người thường đánh giá qúa cao các giá trị của vật chất; tiền
tài, danh vọng, sắc đẹp… thế nhưng khi chiếm được nó thì cũng là lúc
con người thấy sự vô nghĩa của nó và sự trống rỗng ghê sợ trong tâm
hồn. Có ai đã thành công bằng Alexander? tuổi trẻ, đẹp trai, sung mãn
tinh khí, tài năng, giàu có, quyền lực… vậy mà phát khóc vì thấy sự vô
nghĩa của thành công, nay nhìn lại con người lẫn thành tích, ông thấy tất
cả chỉ là ảo ảnh là “bóng câu qua cửa sổ” là “công dã tràng xe cát biển
đông”. Ở đây chúng ta thấy người đi câu cũng có vấn đề mà “con cá” họ
đạt được cũng có vấn đề.
Xã hội chúng ta hôm nay cũng thế thôi. Con người lo lắng miệt
mài tìm kiếm “đi câu” cho bằng được danh lợi - thú, bất chấp mọi
mánh khóe thủ đoạn, con người sống tàn nhẫn với nhau, bán rẻ lương
tâm, coi thường nhân phẩm, danh dự của người khác và của chính
mình. Nên chúng ta vẫn thường nghe chuyện ca sĩ này, nhạc sĩ nọ kia
tạo ra xì căng đan để được nổi tiếng. Có người nuôi hận thù để rồi đi
đến loại trừ, tiêu diệt người khác. Một số người trẻ lo tìm kiếm lao
mình vào những thú vui độc hại. Khi đã đạt được những điều đó, thì
họ chỉ thấy bất an, đau khổ và tuyệt vọng. Họ đã câu được cá nhưng
họ không biết rằng đó là những loài “cá độc hại” có nhiều màu sắc
sặc sỡ và hấp dẫn, nhưng không phải thứ họ cần. Cá chúng ta cần
miệt mài đi câu là cá của yêu thương, chia sẽ, cảm thông, tha thứ…

204
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đó là những loài cá chắc chắn đem lại ý nghĩa và hạnh phúc cho
cuộc đời.
Bấy nhiêu điều cho ta thấy rằng có không ít người đã lạc mất
chính mình khi không tìm thấy ý nghĩa hạnh phúc trong những nhu
cầu và mục đích họ tìm kiếm trong cuộc đời. Là người Kitô hửu, là
người đan sĩ chúng ta phải ý thức và luôn cảnh tỉnh chính mình về
điều đó. Nhu cầu và mục đích của chúng ta là tìm kiếm Chúa và nên
đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Đấng đã đến và ném ngọn lửa
tình yêu trên trái đất này. Vậy chúng ta cũng phải không ngừng khắc
khoải như Chúa là khao khát và làm cho ngọn lữa ấy “cháy bừng
lên” (Lc 12,49-51)
Đan Viện Biển Đức Thiên Phước Jean. B-Biển Đức Nguyễn Đình Lưu

205
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài 25.Hãy bình luận nhận định sau: “Cái đáng sợ nhất ở
trên đời, chính là công lý bị tách rời khỏi lòng nhân ái”.
Bài làm
Trong bối cảnh đất nước phát triển và hội nhập như hiện nay, bên
cạnh những thành tựu mà chúng ta đạt được về đời sống kinh tế- xã
hội, thì ngày nay, qua các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta
đã chứng kiến biết bao tiêu cực, tình trạng tội ác ngày một gia tăng,.
Cho nên, một yếu tố tất yếu để bảo đảm trật tự xã hội và công bằng
cho con người đó là công lý. Nhưng nếu như, công lý không đi đôi
với lòng nhân ái thì chỉ đem lại bất hạnh cho con người. Vì thế, có ý
kiến đã cho rằng: “Cái đáng sợ nhất ở trên đời, chính là công lý bị
tách rời khỏi lòng nhân ái”.
Chúng ta thử bình luận ý kiến trên.
Trước khi đi vào bình luận, Chúng ta cần hiểu được công lý là
gì? và lòng nhân ái là gì?
Theo cách hiểu thông thường, công lý là nguyên tắc, là lẽ phải
phù hợp với lẽ công bằng và lợi ích chung của toàn xã hội.. Nói cách
khác, công lý là nguyên tắc ……… định phận sự mỗi người trong xã
hội. Bổn phận mỗi người là phải tôn trọng quyền lợi vật chất và tinh
thần của người khác. Người hiểu công lý không xâm phạm tính
mạng, tài sản và không làm tổn thương danh dự, tự do của ai.
Còn lòng nhân ái là đức tính thể hiện sự yêu thương, thông cảm
và tha thứ giữa con người với con người. Không phân biệt giàu
nghèo, màu da hay chủng tộc. Lòng nhân ái còn là phương châm xử
thế, khuyến khích mọi người nên thương kẻ yếu đuối, giúp đỡ kẻ
khốn cùng và tha thứ cho kẻ lầm lỗi. Người giàu lòng nhân ái thường
hy sinh thời gian của mình để xoa dịu nỗi đau của tha nhân và rộng
lượng khoan dung cho người thù nghịch.

206
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Công lý là yếu tố không thể thiếu trong đời sống xã hội, vì nó
đem lại trật tự và công bằng cho xã hội. Một quốc gia dân chủ phải là
một quốc gia luôn tôn trọng công lý, và quốc gia đó phải có những
biện pháp an ninh cũng như hệ thống luật pháp thật vững chắc, để
bảo đảm cuộc sống dân của mình có một cuộc sống an toàn về phương
diện chính trị, nhằm đưa ra những biện pháp thích hợp để sửa phạt
những đối tượng bất chính trong xã hội. Ngược lại quốc gia nào mà ở
đó công lý không được tôn trọng, sự thật bị xem nhẹ, thì ở đó sẽ có
nhiều điều bất công, tiêu cực và xã hội sẽ dần rơi vào tình trạng hỗn
loạn, nghĩa là không có công lý, con người sẽ đối xử với nhau bằng
cách “lấy thịt đè người” hay “cá lớn nuốt cá bé”, vì ở đó chỉ có một
“điều luật” duy nhất “luật rừng”.
Do vậy, công lý là quan trọng, là cần thiết để duy trì kỷ cương
phép tắc cho xã hội.
Lòng nhân ái là tình cảm giữa con người với con người, dựa trên
sự thông cảm và yêu thương, xuất phát từ tấm lòng chân thật của mỗi
cá nhân, là nơi bắt đầu của tình cảm thiêng liêng nhất. Nơi con người
có lòng nhân ái, là nơi người sống trong sự yêu thương. Họ cùng
nhau chia sớt nỗi buồn, khó khăn cho nhau và cùng tận hưởng những
giây phút hạnh phúc. Nơi đó, con người sống trong hòa bình và biết
hy sinh cho nhau vì tình yêu chứ không phải vì vụ lợi hình thức.
Lòng nhân ái là một nhu cầu của con người, đó là nhu cầu được yêu
thương, được tha thứ, được cảm thông chia sẻ và đồng cảm, “tình
thương là sức mạnh vô biên, là điều chia sẻ quý nhất của cuộc sống
con người”. Lòng nhân ái tồn tại ở mọi nơi, đó là mối quan hệ đẹp đẽ
giữa hai người bạn khi họ biết chia vui sẻ buồn, giúp đỡ nhau trong
mọi nghịch cảnh cuộc sống. Khi biết bổ túc cho nhau những thiếu sót
và sẳn sang tha thứ cho nhau những lỗi lầm. Đó là tình thương giữa
ông bà cha mẹ dành cho con cháu. Một mái ấm hạnh phúc là một mái

207
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
ấm mà mọi thành viên biết đối xử với nhau bằng tình thương và lòng
nhân ái, gia đình hạnh phúc sẽ khiến ta bình yên hơn mỗi khi được ở
bên nhau để tận hưởng những giây phút đầm ấm và ngọt ngào bên
cạnh những người thân yêu. Lòng nhân ái còn là sự đồng cảm giữa
những người may mắn và những người kém may mắn, để chia sẽ và
giúp đỡ họ vượt qua khổ đau, sẽ khiến họ vơi đi những bất hạnh và
phần nào giúp họ có được cuộc sống tươi đẹp hơn… Cho nên, cuộc
đời nếu thiếu lòng nhân ái sẽ trở nên tham lam ích kỷ vì chỉ biết nghĩ
cho mình mà không hướng đến tha nhân.
Có thể nói công lý và lòng nhân ái tự bản chất là hai khái niệm
khác nhau, hai lĩnh vực khác nhau. Một cách nào đó cũng có thể nói
được là hai đức tính trái ngược nhau.
Thật vậy, khi nói đến công lý ta sẽ thiên về lý trí, về lý lẽ, những
nguyên tắc mang tính chất áp đặt, nếu ai vì phạm những nguyên tắc
ấy ắt sẽ phải xử lý đích đáng. Ngược lại, khi nói đến lòng nhân ái
chúng ta sẽ thiên về mặt tình cảm, về con tim. đó là những điều mang
tính chất tự nguyện, vì không có quy định hay luật lệ nào bắt ta phải
giúp đỡ người nghèo khó, và cũng không có điều luật nào quy định
chúng ta phải tha thứ cho kẻ địch thù.
Tuy nhiên, hai đức tính này lại bổ túc và có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau không thể tách riêng, vì chúng ta không chỉ sống với lý trí
mà còn phải sống bằng con tim. Người ta nói rằng: “Nơi lạnh lẽo
nhất không phải là Bắc cực mà là nơi không có tình thương”. Trên
thế giới chưa có nơi nào thiếu lòng nhân ái hoàn toàn, nhưng giá như
có một hành tinh nhỏ nào đó mà người ta chỉ biết sống bằng lý trí,
bằng luật lệ, sống bằng lợi ích vật chất và công lý mà quyên đi tình
cảm và lòng nhân ái thì có lẽ nơi đó “lạnh lẽo” và “khắc nghiệt” nhất.
Lạnh vì không có hơi ấm của tình người, khắc nghiệt bởi cuộc sống
bon chen ích kỷ. Công lý mà thiếu lòng nhân ái thì con người khác

208
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
nào những vật vô tri vô giác, bởi vì động vật còn biết yêu thương
nhau, con người cũng chỉ là Rôbốt chỉ biết “hoạt động” theo những
gì người ta đã lập trình sẵn. Nếu chú trọng đến công lý thôi thì người
ta sẽ khó lòng đứng dậy sau những cú ngã đau đớn trong cuộc đời, sẽ
có ít cơ hội để người ta thức tỉnh và sửa chữa những lỗi lầm, và sẽ
đưa họ vào tình trạng bế tắc, khủng hoảng, cô đơn và tuyệt vọng.
Nếu công lý bị tác rời khỏi lòng nhân ái thì đạo đức sẽ bị coi thường.
Một bà cụ qua đường trong lúc xe cộ đông đúc sẽ không có ai giúp
đỡ, một em bé mô côi sẽ không được ai cưu mang, người nghèo khổ
sẽ bị bỏ rơi, người hoạn nạn không ai an ủi, người lỗi lầm không
được khoan dung… Một xã hội như thế thì đời sống sẽ nghẽo nàn,
con người sẽ lạc lõng, cô đơn, con người sẽ mang nhiều bệnh như
trầm cảm, tự kỷ… và dần trở thành những cái xác không hồn, chỉ
biết hành động theo những “phần mềm” đã được “cài đặt” sẵn.
Công lý phải vì con người, phải phục vụ cho hạnh phúc con
người. Nếu công lý được áp dụng một cách máy móc, rập khuôn,
nghĩa là bị tách rời khỏi lòng nhân ái thì sẽ gây ra nhiều hậu quả
nghiêm trọng. Cách đây không lâu đã xảy ra một sự kiện mà làm cho
ai cũng bức xúc, đó là một người con trai đang trên đường đưa mẹ
mình đến bệnh viện, vì bệnh tình bà quá cấp bách nên anh đã không
kịp chuẩn bị đầy đủ các yêu cầu khi tham gia giao thông, và dọc
đường đã không may bị công an dừng lại để xét hỏi, mọi thủ tục phải
thực hiện, một cách nghiêm khắc nên mất rất nhiều thời gian, nên khi
đưa mẹ mình đến bệnh viện thì đã quá muộn. Quá bức xúc nên anh
không còn bình tĩnh được nữa nên anh đã cầm dao đến chém người
công an đó chết ngay tại chỗ.
Do vậy, một xã hội yên vui không thể thiếu lòng nhân ái, chúng
ta sống là cùng nhau, vì nhau và cho nhau. Phải có lòng yêu thương rồi
tha thứ thì cuộc sống mới trở nên tươi đẹp. Nhưng nếu quá chú trọng

209
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
về tình cảm mà xem nhẹ công lý thì xã hội sẽ trở nên bất ổn. Cho nên
công lý và nhân ái phải luôn luôn đi đôi với nhau, bổ túc và hỗ trợ cho
nhau có như thế xã mới bình yên và vui vẻ.
Quan điểm của Kitô giáo là luôn tôn trọng và đề cao công lý,
nhưng công lý là vì con người, và phục vụ cho con người được hạnh
phúc. Chúa Giêsu đã nói: “Ngày Sabat được lập ra vì con người, chứ
không phải con người vì ngày Sabat”. Câu nói: “Cái đáng sợ nhất ở
trên đời, chính là công lý bị tách rời khỏi lòng nhân ái” là một triết lý
sống, một vấn đề mà mọi người trong xã hội phải quan tâm. Mọi cử
chỉ và hành động của chúng ta phải là kết qủa khối óc và con tim,
hãy biết quan tâm và chia với người khác, ta sẽ sống bình an và hạnh
phúc hơn.
Chúng ta có thể học cách chú ý tới những điểm tích cực và cái tốt
nhiều hơn thay vì chỉ nhìn vào những điểm xấu và tiêu cực của bản
thân – bất trung, bất tín, bất tập. Nhìn vào cái tốt luôn tạo cho ta một
tâm lý lạc quan. Nhờ đó, nó giúp ta gửi gắm vào cuộc đời nhiều hứa
hẹn và hi vọng ngay cả khi thế giới quanh ta thật u ám. Biết xét mình
dưới góc độ tích cực giống như ta đang giúp sức cho minh vậy.
Kế đến, có một điểm không kém phần quan trọng là xem mình về
những điểm “cần làm”. Nếu xét mình chỉ khép lại như một bản án để
kết tội bản thân thì thật là khắc nghiệt, có khi ta cũng luôn cả hành
động tốt lành đó (xét mình) vì sợ phải đối diện với con người thật
của mình cùng những yếu đuối và lầm lỗi “đã xảy ra”. Ngoài việc
giúp ta có cái nhìn thấu đáo hơn trước một vấn đề đó, điểm cần làm
còn giúp ta có thêm kinh nghiệm để có thể áp dụng trường hợp khác
tương tự. Trước một thái độ gây hấn của ai đó, thay vì suy xét lại
hạnh kiểm không tốt của mình, chúng ta có thể tin liệu cách hành xử
phù hợp hơn để thực hành lần sau. Làm như ta không bị “kẹt” lại
trong giọt nước mắt và hối tiếc.

210
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đòi hỏi hơn nữa, ngoài góc độ hành động, ta cũng cần mình trong
tư tưởng. Có thể chúng ta không đánh trả người khác nhưng chắc gì
tâm trí cúng ta đã không vẽ lên đủ cách để trả đũa. Xét mình trong tư
tưởng thuộc tầm mức cao hơn vì nó bộc lộ về con người một chách
sâu hơn những hành động phát ra bên ngoài, có trong tâm trí rồi mới
trào ra bên ngoài như lời Kinh Thánh: Lòng đầy thì miệng mới nói
ra. Tuy dưới góc độ dân sự, có hành động bên ngoài mới có bằng
chứng để kết tội; nhưng đối với Thiên Chúa thì khác: Ngay khi nhìn
người phụ nữ mà sinh long ước ao thì đã phạm tội ngoại tình. Chính
vì thế, tu luyện không chỉ giới hạn vào các hành động bên ngoài mà
đòi hỏi còn “thanh tẩy” cả tâm và trí bên trong, nên trong “bát chánh
đạo” của Phật giáo có: Thánh niệm, chánh tư tưởng, chánh kiến.
Ba điểm xét mình trên tự nó là tốt, nhưng nếu máy móc chỉ xét
bản thân mà không xét tới tác động khách quan thì có khi lại trở nên
mù quáng. Thầy mà dạy sai thì ta có nêu thực hành không, ví như
câu chuyện kia. Để thử lòng các học trò sau một thời gian tu luyện,
một thiền sư bèn sai các học trò ra chợ ăn trộm một ít đồ để về sửa
sang lại căn nhà tồi tàn che nắng mưa cho tượng Phật. Chỉ có một
học trò duy nhất đi về tay không cùng với sự lúng túng, vì mỗi khi dơ
tay lấy vật gì thì cậu lại nhớ tới lời Phật dạy giữ sự trong sạch. Rốt
cuộc, chỉ có người học trò đó được tuyên dương trong khi cậu không
làm theo lời thiền sư truyền. Lời thầy truyền mà không chứa đựng sự
thật và thiện hảo thì bất tập lại hóa ra tốt hơn. Cũng vậy, nếu người
bạn với mục đích tà ý lừa gạt hay lạm dụng sự nhẹ dạ của ta thì lúc
đó ta có nên xét mình về sự bất tín không. Hay giúp người mà không
lượng sức mình thì sao. Chẳng những không giúp được gì cho người
có khi còn rước họa vào thân. Thấy người nhảy cầu tự tử mà vội lao
theo không màng tới khả năng giới hạn của mình thì liệu có nên
không. Hẳn nhiên không ai phủ nhận cái tốt lòng quả cảm, nhưng

211
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
nếu chúng phát xuất từ sự nông nỗi thì thật đáng trách hơn cảm phục.
Vậy, ta nên hiểu xét mình một cách linh hoạt, biết cân bằng giữa việc
xét mình và những tác động khách quan. Bời vì tất cả những cái nhìn
cực đoan đều trở nên khập khiễng. “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa” ý
là như vậy, ta cần có cái nhìn quân bình về mọi phương diện.
Chính vì cần một cái nhìn quân bình hơn nên chúng ta cũng tự
thức tỉnh mình xem: Liệu bản xét mình trên có đủ và phù hợp với
mình, với một Kitô hữu còn có tương quan đặc biệt với Thiên Chúa.
Chính Ngài mới là chuẩn mực trọn hảo và có quyền xét xử một cách
tuyệt đối, vì Ngài là đầu và là cuối của tất cả tạo thành. Vì thế, không
chỉ khác về phương pháp xét mình mà còn khác trong bản chất việc
xét mình. Khác về phương pháp thì đều là mình nhiên như có thể xét
theo Mười điều răn, sáu luật điều Hội Thánh... hay xét dưới ba mối
tương quan chính. Thiên Chúa, con người và bản thân. Khác về bản
chất xét mình vì người Kitô hữu không chỉ định lượng theo những
phán đoán tự nhiên nhưng đặc biết là để cho “tiếng nói của Thiên
Chúa” chất vấn. Tiếng nói đó có thể đến từ một lương tâm ngay
thẳng, từ giáo huấn của Giáo Hội, từ Lời Chúa, tạo vật, mọi biến cố
trong cuộc đời... Sự khác biệt tự bản chất đó là vì họ không láy mình
làm chuẩn mực nhưng là tiếng nói của một. Ai khác, cách chắc chắn
hơn cả là huấn quyền của Giáo Hội
Xét mình thôi thì chưa đủ. Nó phải được đẩy tới đỉnh cao là biến
đổi. Xét mình xong rồi để đó. Ngày này qua ngày khác, chúng ta vẫn
như xưa thì nào có ích gì. Xét mình đích thật phải bao gồm một ý chí
ước muốn được thay đổi nên tốt hơn, một quy định cụ thể để biểu lộ
lòng thành đó. Thay đổi không phải một sớm một chiều, có thể cần
một thời gian dài, có thể đến cuối đời. Nó còn lệ thuộc rất nhiều yếu
tố như hoàn cảnh ngoại tại cũng như yếu đuối nội tại nơi bản thân.
Tuy chưa thành toàn ở đây nhưng điều hết sức đáng trân quý là “tinh

212
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
thần phục thiện”. Những ước muốn và những quyết định cụ thể là một
tiếng nói rất sâu thuộc về một hữu thế có lý trí. Chính vì thế, bí tích
hòa giải của người Kitô hữu chỉ thành sự tất nhiên không kể đến năng
quền giải tội của linh mục – khi hối nhân thật lòng: thống hối, xưng tội
và làm việc đền tội. Như thế, chúng ta chỉ chạm đến từ xét mình đích
thực khi những hoa trái của nó cũng được tỏ lộ ra bên ngoài.
Vậy, phương cách xét mình tự nó là rất tốt, không chỉ đúng với
Tăng Tử mà đồng thời cũng là lời thức tỉnh cho con người đương đại.
Khi mà chủ nghĩa duy vật đang đo lường giá trị con người bằng
thành quả vật chất và ý nghĩa cuộc đời bằng tinh thần hưởng thụ thì
xét mình giúp thẩm định lại những chuẩn mực lệch lạc để trả lại đúng
“vị trí” mỗi giá trị, mỗi hành vi. Đồng thời, xét mình là tiếng nói của
nền “luân lí phổ quát”. Nơi đó, mỗi người tìm lại sự thành toàn bản
thân và không ngừng vươn tới sự thiện hảo khách quan – là chính
Thiên Chúa dưới góc nhìn người Kitô giáo. Dẫu không phải là một
tín đồ Kitô , bao lâu còn chỗ đứng cho xét mình thì bấy lâu họ còn để
ngỏ một lối đi cho Thiên Chúa hoạt động. Và vì thế, chúng ta có lý
do để vui mừng, tạ ơn và tin cậy vào lòng thương xót của Thiên Chúa
sẽ ân ban ơn cứu độ phổ quát ngang qua luật thiết định nội tại trong
lương tâm mỗi người. Còn chúng ta – người Kitô hữu – không ngừng
hiện thực hóa lời Chúa. “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
Paul Nguyễn Văn Trung

213
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài 26.Người đời thường nói: “Biết dễ làm khó”, nhưng
Tôn Dật Tiên lại cho rằng “biết khó làm dễ”. Bạn tán thành ý
kiến nào?
Bài làm
Đói với hầu hết công việc trong cuộc sống, chúng ta đều mong
muốn đạt được kết quả, và càng hiệu quả, càng phát triển càng tốt.
Trong khi đó cùng với sự phát triển của xã hội đời sống, công việc
cũng thay đổi, không chỉ đòi hỏi ở vấn đề kinh nghiệm thực tiễn mà
còn ở vấn đề lý thuyết nghiên cứu. Từ đó, yêu câu được đặt ra là
chúng ta phải hiểu như thế nào và vấn đề ra sao mối quan hệ giữa lý
thuyết và thực hành. Người đời thường nói: “Biết dễ làm khó”, nhưng
Tôn Dật Tiên lại cho rằng “biết khó làm dễ”. Giữa hai câu thể hiện
quan điểm khác nhau giữa lý thuyết và thực hành này, chúng ta nên
tán thành ý kiến nào? và chúng ta áp dụng vào thực tiễn như thế nào?
Cả hai câu đều đề cập đến khái niệm lý thuyết và thực hành bằng
hai từ “biết” và “làm”. “Biết” tức là có ý niệm về người, vật hay một
công việc nào đó. Một người muốn biết thì phải học, tìm hiểu, quan
sát, nghiên cứu về vấn, công việc đó. “Biết” tức là mới đến vấn đề lý
thuyết. Còn “làm” trong hai câu này tức là nói đến việc bỏ công sức,
về trí óc hay thể xác, để tạo ra sane phẩm vật chất hay tinh thần nào
đó. “Làm” là đề cập đến phương diện thực hành. Bằng cái nhìn rộng
hơn, chúng ta hiểu “làm” đôi khi cũng là tiến hành thực hiện để kiểm
chứng lý thuyết, để phát triển lý thuyết. Hai câu nói khá ngắn ngủi,
mỗi câu chỉ với bốn chữ đơn sơ, mộc mạc, đề cập đến lý thuyết và
thực hành, kèm theo hai từ “dễ” và “khó”, để phản ánh quan điểm
điều nào quan trọng hơn. Người ta thường nói rằng “biết dễ làm
khó”, tức là quan niệm bình thường cho rằng thực hành bao giờ cũng
khó hơn, phức tạp hơn lý thuyết. Và do vậy, câu nói khuyên chúng ta
nên tập trung làm việc, thực hành nhiều hơn là học lý thuyết. Câu nói

214
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
cho rằng lý thuyết dễ dàng hơn, đơn giãn hơn. Nhưng Tôn Dật Tiên,
một nhà tư tưởng lớn của đất nước Trung Hoa thì lại đề cao quan
điểm hoàn toàn trái ngược. Ông cho rằng lý thuyết mới quan trọng.
Ông khuyến khích việc học tập nghiên cứu để áp dụng vào thực tế.
Theo ông việc áp dụng những thành quả vào cuộc sống thì dễ dàng
hơn việc tìn tòi, nghiên cứu. Cả hai quan điểm đều có lý lẽ riêng của
nó, và chúng ta cần tìm hiểu kỹ lưỡng để biết vận dụng ra sao trong
thời đại ngày nay.
Qua sự tìm hiểu hai câu nói, chúng ta đều thấy được sự khác biết
rõ giữa hai quan điểm. Một câu thì đề cao lý thuyết, còn một câu thì
xem trọng thức hành hơn. Cho dù khác biệt, nhưng cả hai câu đề đề
cập đến lý thuyết và thực hành, tức là hai mặt của các vấn đề, công
việc trong xã hội. Lý thuyết và thực hành đều không thể bỏ qua, đều
phải được để ý tới trong bất kỳ công việc nào. Có khác thì chỉ là sự ưu
tiên dành cho lý thuyết hay thực hành hơn mà thôi.
Để hiểu sự khác nhau này, chúng ta cần nhận thức được bối cảnh
xã hội của hai câu nói. Theo truyền thống mọi người thường nói với
nhau “biết dễ làm khó”. Đó là quan điểm trong bối cảnh xã hội trước
đây với nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lúa nước, nền công
nghiệp dựa vào kỹ năng lao động và sức người là chính. Đó là thời
kỳ chưa có sự ra đời của máy móc hiện đại hỗ trợ sản xuất. Và do
vậy, kỹ năng và sức lao động của con người là động lực chính cho
sản xuất thời đó. Chính thế mà mọi người thường xem trọng thực
hành hơn là lý thuyết. Còn Tôn Dật Tiên là một tri thức, đã từng du
học và đã đi đến nhiều nơi, được tiếp cận với sự phát triển cua khoa
học công nghệ ở nhiều nước phát triển. Do sự hiểu biết rộng và nhận
ra được vai trò của máy mọc kỹ thuật mà Tôn Dật Tiên coi trọng và
đề cao tri thức, sự hiểu biết. Ông cũng thẳng thắn thể hiện quan điểm
của mình bằng câu nói khác hẳn với lối nghĩ truyền thống: “biết khó

215
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
làm dễ”. Tôn Dật Tiên hiểu rằng “biết” không chỉ dừng lại ở việc học
hỏi kỹ năng, tiếp thu kinh nghiệm thực tế mà còn là sáng tạo, tìm tòi
những sáng kiến mới mẻ, có tiềm năng ứng dụng cao trong đời sống
sản xuất. Vì vây, “biết” theo Tôn Dật Tiên hoàn toàn không đơn
giản, dễ dàng mà ngược lại, rất phức tạp, khó khăn, đòi hỏi sự kiên
trì, nghiên cứu khả năng sáng tạo. Khi đã có lý thuyết làm nền tảng,
việc áp dụng vào thực tế sẽ đơn giản, dễ dàng hơn, và còn tạo ra năng
suất cao.
Với lối suy nghĩ “biết dễ làm khó” đặt nặng vấn đề thực hành,
xem nhẹ việc tìm tòi học hỏi lý thuyết sẽ hợp lý trong hoàn cảnh xã
hội chưa phát triển kỹ thuật cao, nội dung lý thuyết còn nghèo nàn
lạc hậu. Trong hoàn cảnh đó, kinh nghiệm sẽ giúp con người đúc rút
những bài học quý báu về sản xuất. Tuy nhiên, nếu xã hội chỉ dừng
lại ở thực hành mà không biết nghiên cứu, tìm ra những phương cách
mới thì xã hội dậm chân tại chỗ, không có bước đột phá để tạo ra
năng suất cao hơn. Những kinh nghiệm từ thực tiển sẽ mất rất nhiều
thời gian và công sức mới có được. Đó là chưa kể những lĩnh vực cứ
thực hiện và rút kinh nghiệm được. Chẳng hạn như ngành Y học, Bác
sĩ không thể lấy bệnh nhân để thử nghiệm được. Ngược lại, các
chuyên gia y khoa phải nghiên cứu kỹ lưỡng từng loại thuốc, từng
phương pháp trị liệu thì mới áp dụng đều trị bệnh nhân. Hơn nữa,
thái độ khinh xuất, coi thường tri thức, học vấn lại là mối nguy cơ
làm cho mọi người. Nhất là các bạn trẻ coi thường việc học tập, ỷ lại
vào câu nói để cho rằng không cần học chăm chỉ khi đang ngồi trên
ghế nhà trường. Quan điểm này là hạ thấp giá trị của học vấn, khoa
học mà chỉ chú trọng đến thực tế làm việc, điều này đôi khi làm cho
con người ngộ nhận về công việc, không tìm thấy bản chất sự việc.
Vì chỉ nhìn thấy bề nổi mà con người không thấy được thiếu sót sai
lầm bên trong. Chẳng hạn việc kinh doanh mà chỉ tập trung vào lợi
nhuận cá nhân, bất chấp giá trị đạo đức, như việc sản xuất hàng giả,

216
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
hàng kém chất lượng sẽ làm ảnh hưởng đễn nền kinh tế, đến người
tiêu dung, làm cho xã hội đi xuống, và ảnh hưởng ngược lại chính
người sản xuất ra hàng kém chất lượng đó. Rõ ràng, chỉ chú trọng
thực tế mà quyên đi nguyên lý nền tảng của cuộc sống cũng không
thể chấp nhận được.
Trong khi đó với sụ hiểu biết chúng ta có thể biết cách tìm ra
những con đường ý tưởng áp dụng vào cuộc sống nhanh và hiệu quả.
Trong lĩnh vực nông nghiệp chẳng hạn, nhờ có đầu tư nghiên cứu,
chúng ta có thể áp dụng những phương pháp canh tác thủy lợi, trồng
trọt có tính toán khoa học kết hợp với máy móc hiện đại, giúp vừa
tiết kiệm sức người sức của, đạt năng xuất cao, lại còn giúp bảo vệ
môi trường...Tôn Dật Tiên có lý khi chú trọng học tập lý thuyết. Bởi
vì lý thuyết không những thống kê một cách trật tự những kinh
nghiệp thực tiển mà con người phát triển, những điều đã biết để đạt
những điều mói hơn, tiên tiến hơn. Các phát minh đều có mắt xích
với nhau. Chẳng hạn từ ý tưởng về bóng đèn tròn, các ý tưởng tiếp
theo ra đời: bóng đèn nê-ông, bóng đèn com-pắc, bóng đèn hình của
tivi... Hay ý tưởng về điện tín phát triển thành điện thoại để bàn, rồi
tiếp đến điện thoại di động... Chú trọng lý thuyết giúp tạo động lực
cho mọi người biết cập nhật kiến thức, học hỏi người khác, không có
thái độ khinh xuất, coi thường khoa học. Khi có kiến thức về mặt
nguyên lý, chúng ta cũng dễ dàng ứng dụng vào thực tế và hiểu bản
chất sự việc. Do vậy, khi có vấn đề xãy ra, chúng ta có thể xử lý
đúng đắn và hiệu quả hơn. Cũng có trường hợp người “biết” không
làm, nhưng có thể hướng dẫn người “làm”. Ví dụ như ở những công
trình xây dựng, những kiến trúc sư là những người có cái nhìn tổng
quát nhất để thiết kế và hướng dẫn công nhân xây dựng thi công
công trình cách hợp lý nhất. Chúng ta thấy được, nắm vững lý thuyết
quả là quan trọng.

217
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Ý nghĩa của lý thuyết quả là rõ ràng. Và Tôn Dật Tiên hợp lý khi
đề cao lý thuyết trong bối cảnh xã hội Trung Quốc cần thiết phải đổi
mới phương cách sản xuất, ông muốm thúc đẩy khoa học kỹ thuật
phát triển. Tuy vây, khi suy xét một cách công bằng, chúng ta không
nên coi thường thực tiễn. Dù sao thành quả cuối cùng cũng từ thành
quả thực tiển mà có. Hơn nữa, lý thuyết chỉ bàn đến vấn đề cơ bản, khi
ứng dụng vào thực tiển sẽ phát sinh nhiều vấn đề mà lý thuyết chưa
thể lường hết được. Và chúng thấy rõ chính việc thực hành đã bổ sung
cho lý thuyết rộng hơn, tiến bộ hơn. Tôn Dật Tiên cho rằng “biết khó
làm dễ”, nhưng đôi khi thực hành không đơn giản chút nào. Nhiều ví
dụ tiêu biểu, như công thức vận tốc ánh sáng sáng chẳng hạn, nhà bác
học lỗi lạc Albert Estein đã tìm ra công thức này. Nhưng để kiểm
chứng công thức này trên thực tế thì vô cùng phức tạp. Nếu chúng ta
coi thường thực hành cũng là một sai lầm nghiêm trọng.
Ngay cả trong lĩnh vực luân lý đạo đức, chúng ta cũng thấy sự
khác nhau giữa vai trò “biết” và “làm”. Chúng ta đều biết được
những đức tính tốt và xấu. Cụ thể hơn, chúng ta có thể dựa vào Mười
điều răn để phân định điều nào nên làm và điều nào không nên làm.
Thế nhưng, thử hỏi có ai giữ được những điều ấy một cách trọn vẹn!
Đó là “biết dễ làm khó”. Cũng có trường hợp “biết” lại không đơn
giản. Chẳng hạn như vấn đề dùng phương pháp tránh thai, đồng tính
luyến ái, sống thử trước hôn nhân, hay luật độc thân linh mục... Vẫn
là những vấn đề còn nhiều tranh cãi giữa các quan điểm khác nhau.
Rõ ràng, việc “biết” trọn vẹn, thấu đáo lúc nào cũng dễ dàng. Nhưng
dù sao, những vấn đề còn tranh luận trong lĩnh vực đạo đức luân lý
không phải là nhiều. Việc giữ gìn những giá trị sống đó còn là một
thách thức không nhỏ trong xã hội thực dụng ngày nay. Do vậy,
trong lĩnh vực này vẫn là “biết dễ làm khó”.

218
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Như vậy, chúng ta cần có thái độ đúng đắn đối với hai mặt này.
cả hai mặt là cần thiết và có mối tương quan bổ sung, hỗ trợ nhau.
Do vậy, việc đề cao mặt này hơn mặt kia cũng phải dựa trên điều
kiện, nhu cầu của hoàn cảnh. Trong xã hội còn lạc hậu thì cần phải
phát huy kỹ năng, kỹ xảo lao động sản xuất trước, vì có muốn phát
triển khoa học thì cũng chưa có điều kiện để làm. Khi xã hội đã có đủ
điều kiện về nhân lực và vật chất thì nên đẩy mạnh và ưu tiên nghiên
cứu khoa học kỹ thuật. Chẳng hạn trong bối cảnh ngày nay, xã hội đã
có đủ điều kiện về người và cơ sở nghiên cứu ứng dụng công nghệ
cao. Khoa học trở thành bàn đạp để sản xuất phát triển cả chất và
lượng. Do đó, việc ưu tiên cho nghiên cứu là cần thiết và nên làm,
song song với việc ứng dụng vào thực tế cuộc sống một cách cụ thể
và hiệu quả. những việc nghiên cứu phải được ưu tiên hơn. Vì càng
đầu tư tìm tòi sáng tạo thì càng nhiều cơ hội cho những phát minh ra
đời. Rồi trong số đó, chúng ta có thể rút ra những phát minh có giá trị
thực tiễn cao, đẩy xã hội lên tầm cao mới.
Hai câu ngắn gọn nêu bật quan điểm khác nhau về khái niệm lý
thuyết – thực hành nhưng lại có thể bổ sung cho nhau. Vì giá trị của
mỗi câu lại tùy vào từng điều kiện nên thật khó nếu chỉ tán thành một
ý kiến. Chúng ta cần hiểu rõ ý nghĩa từng quan điểm và từng hoàn
cảnh cụ thể để áp dụng một cách sáng tạo và hợp lý nhằm đạt hiệu
quả nhất. Ngay cả lý thuyết “Tri hành hợp nhất” của Dương Minh
cũng chưa hẳn đúng vì không phải thấu đáo cả biết và làm thì mới là
tốt nhất. Mặt khác, đôi khi giới hạn của con người chỉ cho phép
người đó hoặc có khả năng nghiên cứu hoặc có khả năng ứng dụng
thực hành mà thôi. Do vậy, đây là hai khái niệm đòi hỏi sự uyển
chuyển, linh động và chúng ta cần biết cân nhắc ưu tiên bên nào hơn
tùy vào từng công việc, hoàn cảnh sống.

219
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Khác hẳn với cuộc chạy đua trên thao trường – dồn hết tâm lực
lao về phía trước – đời nhười lại rất cần những “khoản trống”, những
khoảng trống đủ để con người định vị lại đường đi của mình. Họ
chấp nhận đi chậm mà đến đích còn hơn chạy nhanh mà lạc đường.
Thế nên có lần Tăng Tữ đã bộc bạch:
“Mỗi ngày tôi xét mình ba điều:
Làm việc gì cho người có bất trung không?
Giao tiếp với bạn bè có bất tín không?
Thầy dạy điều gì có bất tập không?
Vậy chúng ta cũng ngẫm nghĩ về phương cách khôn ngoan mà
Tăng Tử đã từng tâm niệm. Thực tế cuộc sống đã giúp cho chúng ta
không mấy khó hiểu về từ ngữ xét mình. Chúng ta có thể đã nghe
đâu đó: Để tôi xét lại xem sao; nếu không vội tại sao chúng ta không
cân nhắc trước đã. Vậy xét mình là thẩm tra lại bản thân trong quá
khứ, hiện tại về lời nói hay việc làm có phù hợp với những chuẩn
mực giá trị luân lý, đạo đức... Riêng với Tăng Tử, ông có ba điểm để
xét mình. Thứ nhất làm việc gì với người mà bất trung sao, nghĩa là
khi giúp người khác mà không tận tâm, không thật lòng hay hết mình
sao. Nó như muốn đánh thức mơi chủ nhân lòng “nhân” là chữ được
xếp đầu và coi như là cốt lõi tư tưởng dạo đức của Đức không trong
“ngũ thường”. Thứ hai, giao tiếp với bạn bè mà bất tín sao, nghĩa là
trong tương quan bằng hữu mà không chân thành, không trung tín
hay giữ lời sao. Nó như một lời răn đe để đánh thức tố chất quân tử
nơi bản thân người quân tử không hai lòng, nói lời phải giữ lời và
dám nói dám làm. Thứ ba, thầy truyền điều gì mà bất tập sao, nghĩa
là thầy dạy điều gì mà không rèn luyện, thực hành cho thấu đạt hay
sao. Câu này như muốn thách thức chữ “nhẫn” nơi tác giả, có thể
chấp nhận khổ luyện để xem nghĩa học và hành không. Từ đó, ta thấy
bật lên nơi câu nói của Tăng Tử. Thói quen của tác giả trong việc

220
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
kiểm điểm của bản thân xét giữa ba mối tương quan chính là thầy,
bạn, người với những đòi hỏi nội tại của nó. Tập, tín và trung.
Ngày hôm nay, nhiều người chủ trương rằng: Hãy quyên đi việc
đã qua và cứ hướng thẳng về phía trước. Nếu hiểu câu này theo nghĩa
mặt chữ thì phải chăng xét mình đã là một phong cách lỗi thời, trong
khi đó tác giả không chỉ xét mình mà còn xét mình mỗi ngày. Tại sao
thế? Trước hết, dưới góc nhìn tâm lý, xét mình là một cách để “phản
tỉnh”. Nó giúp bản thân ý thức để không hành xử theo những thói
quen được “cài đặt sẵn”. Trong khi đó, dưới góc nhìn nhân bản, xét
mình là một tố chất nơi người trưởng thành, vì biết cân nhắc suy xét
và đặt biệt là có trách nhiệm về đời sống của mình. Điều này dẫn
chúng ta đi xa hơn nữa, xét mình giúp chúng ta phân biệt tốt - xấu,
đúng - sai, hay – dở... Về bản thân trên phương diện luân lý. Đặt biệt
cần thiết và thực tế hơn cả, khi xét mình, ta như đã chấp nhận “giới
hạn” của bản thân trước cuộc sống và những đòi hỏi của nó. Hành vi
đó như muốn nói rằng: Tôi cũng là một người như bao người khác
với những yếu đuối và lỗi lầm. Đây là một điều quan trọng, vì nó sẽ
là nền tảng trong việc tu luyện bản thân.
Không phải chỉ xét mình mà còn cần xét mình mỗi ngày vì như
thế sẽ dễ dàng hơn, khi trí nhớ còn chưa quên và cảm xúc còn tác
động. Hơn thế nữa, xét mình mỗi ngày là một “nghệ thuật tu luyện”.
Việc tu luyện cũng như gỡ rối: Phải học cách kiên nhẫn đi từng bước
một, không nên thấy một đống mà thối chí nản lòng. Ta xét xem hôm
nay có hơn hôm qua không, tuần nay có hơn tuần qua không...
Xét mình có muôn ngàn cách, cũng tùy theo tâm tính của mỗi
người, Nhưng ở đây, chúng ta tự hỏi: là một học trò của khổng tử, tại
sao tác giả không xét mình theo ngũ thường- nhân, lễ, nghĩa, trí, tín-
thầy dạy mà lại xét mình dưới ba điểm: Bất trung khi giúp người, bất
tín với bằng hữu, bất tập với lời thầy? phải chăng đây có phải là bất

221
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
tập không? Trước hết, xét mình thuộc về nhận thức các nhân- xét
mình chứ không phải xét người hay người xét- nên người khác không
có quyền áp đặt lên sự tự do chọ lựa của họ. Hơn nữa, ở một phương
diện nào đó (nhận thưc, tâm lý...) chính mình mới là người hiểu mình
nhất, nên liệu người khác có thể thay thế được không! Nhưng tại tác
giả lại xét mình dưới ba điểm trên.
Ngoài sự tự do và nhu yếu, có lẽ tác giả muốn soi lại đời mình
trong ba phạm vi chính- trên, ngang- dưới tương ứng với ba mối
tương quan thường nhật. Thầy, bạn và người khác. Người thầy là
người đã cưu mang và nuôi dưỡng lý tưởng của đời ta, có thể nói là
người đã sinh rata trên phương diện hướng đạo- là ân nhân của ta nên
xứng với phạm vi trên ta. Bạn là người cùng trang lứa đồng hành,
đồng cam cộng khổ để chia sẻ lý tưởng, là người đi cùng hướng với
ta nên cùng chiều ngang với ta- trên phương diện xã hội. Người khác
có thể là tất cả những người ta gặp thấy trên đường đời, cần đến ta
giúp đỡ, là đối tượng của lòng hy sinh quảng đại cách này hay cách
khác nên có thể được gọi là dưới ta- trên phạm vi tương trợ. Từ đó, ta
nhận thấy, xét mình cũng đòi hỏi phải cân nhắc gạn lọc để chọ những
điểm nào vừa phù hợp với bản thân vừa đáp ứng hiệu quả thực tiễn
trong cuộc sống.
Để có những hiệu quả thực tiễn như thế thì chúng ta cũng phải
bứt khỏi đi những thực tế cụ thể: làm thế nào để xét mình? Động tác
đầu tiên phải kể đến là môi trường. Chúng ta cần có một không gian
tĩnh lặng nào đó, có thể sáng sớm hay về đêm, khi mọi bận rộn của
ngày được gác lại và khi tâm hồn được thảnh thơi thì việc xét mình
mới dễ dàng. Đồng thời điều quan trọng hơn nhiều, ta phải huy động
cả lý trí sáng suốt lẫn lòng từ tâm để từ những hiện tượng bên ngoài
ta thấy được chiều sâu bản chất bên trong. Bên cạnh đó, ta cần có sự
hiểu biết, một tầm nhìn xa rộng để thấy những khía cạnh chủ quan

222
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
cũng như khách quan. Không có những điều kiện tối thiểu như vậy,
việc xét mình không phải không gặp những khó khăn.
Quả vậy, qua xét mình riêng mỗi ngày, Tăng Tử đã góp vào cuộc
sống một nét đẹp rất riêng tư. Nó là một điều cần thiết cho bất cứ ai
muốn hoàn thiện chính mình. Một học sinh mà không tự kiểm về
việc học tập của mình thì sao nhỉ? Thật là biếng nhác! một bác sĩ mà
không thẩm định lương tâm có đúng với chuẩn mực luân lý xứng với
phẩm giá con người thì sẽ như thế nào? Hay một Kitô hữu mà không
màng tới bí tích hòa giải thì sẽ đi về đâu! Ai có thể phủ nhận giá trị
của xét mình!
Đặc biệt ba điểm xét mình của Tăng Tử cũng rất có giá trị không
chỉ xưa mà cả nay nữa. Giúp người mà không hết lòng, tận tâm có
khi lại đặt họ vào tình thế khó khăn hơn, hơn thế nữa giúp người mà
không thật lòng lại còn đáng trách hơn. Lợi dụng sự nhẹ dạ của
người để cầu lợi cho bản thân, có khi lại trở nên một kẻ lưu manh
như hình ảnh Hồ Tôn Hiến trong truyện Kiều, như một người mở
đường cho Từ Hải, ông thương lượng với Kiều khuyên Từ Hải đầu
hàng, và rốt cuộc Từ Hải chết đứng trước trò lưu manh đó. Thứ hai,
bạn bè mà bất tín thì xem như “xây nhà trên cát vậy”. Dẫu bề ngoài
có rầm rộ vui cười mà không có lòng tin vào nhau thì chóng chầy
cũng sẽ tan rã. Thầy dạy mà không thực hành thì cũng như “xôi hỏng
bỏng không”. Học đi đôi với hành vậy, học mà không hành thì không
chỉ không trọn mà việc học cũng xem như không vậy. Dẫu là những
nét rất riêng tư của tác giả nhưng ba điểm trên cũng đáng cho mọi
người suy xét. Đồng thời, chúng ta cũng có thể bổ túc cho bảng xét
mình trên một vài phương diện cho đầy đủ hơn.
Chúng ta có thể học cách chú ý tới những điểm tích cực và cái tốt
nhiều hơn, thay vì chỉ nhìn vào điểm xấu và tiêu cực của bản thân –
bất trung, bất tín, bất tập, Nhìn vào cái tốt luôn tạo cho ta một tâm lý

223
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
lạc quan. Nhờ đó, nó giúp ta gởi gắm vào cuộc đời nhiều hứa hẹn và
hy vọng ngay cả khi thế giới quanh ta thật u ám. Biết xét mình dưới
góc độ tích cực giống như ta đang giúp sức cho mình vậy.
Kế đến, có một điểm không kém phần quan trọng là xét mình về
những điểm “cần làm”. Nếu xét mình chỉ khép lại như một bản án để
kết tội bản thân thì thật là khắc nghiệt, có khi ta cũng luôn cả hành
động tốt lành đó (xét mình) vì sợ phải đối diện với con người thật
của mình cùng những yếu đuối và lầm lỗi “đã xãy ra”. Ngoài việc
giúp ta có cái nhìn thấu đáo hơn trước một vấn đề, điểm cần làm còn
giúp ta có thêm kinh nghiệm để có thể áp dụng trường hợp khác
tương tự. Trước một thái độ gây hấn của ai đó, thay vì suy xét lại
hạnh kiểm không tốt của mình, chúng ta có thể tự liệu cách hành xử
phù hợp hơn để thực hành lần sau. Làm như ta không bị “kẹt” lại
trong giọt nước mắt và hối tiếc.
Đòi hỏi hơn nữa, ngoài góc độ hành động, ta cũng cần xét mình
trong tư tưởng. có thể chúng ta không đánh trả người khác nhưng
chắc gì trong tâm trí chúng ta không vẽ lên đủ cách để trả đũa. Xét
mình trong tư tưởng thuộc tầm mức cao hơn vì nó bộc lộ về con
người một cách sâu xa hơn những hành động phát ra bên ngoài. Có
trong tâm trí rồi mới trào ra bên ngoài như lời kinh thánh: “Lòng đầy
thì miệng mới nói ra”. Tuy dưới góc độ dân sự, có hành động bên
ngoài thì mới có hành động kết tội, nhưng đối với Thiên Chúa thì
khác. ngay khi nhìn người phụ nữ mà sinh long ước ao thì đã phạm
tội ngoại tình. Chính vì thế, tu luyện không chỉ giới hạn vào các hành
động bên ngoài mà đòi hỏi còn “thanh tẩy” cả tâm và trí bên trong,
nên trong “bát chánh đạo” của Phật giáo có: Chánh niệm, chánh tư
tưởng, chánh kiến.
Ba điểm xét mình trên tự nó là tốt, nhưng nếu máy móc chỉ
xét bản thân mà không xét tới tác động khách quan thì có khi lại trở

224
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
nên mù quáng. Thầy mà dạy sai thì ta có nên thực hành không, ví
như câu chuyện kia. Để thử lòng các học trò sau một thời gian tu
luyện, một thiền sư bèn sai các học trò ra chợ ăn trộm một ít đồ để về
sửa sang lại căn nhà tồi tàn che nắng che mưa cho tượng phật. Chỉ có
một học trò duy nhất đi về tay không cùng với sự lúng túng, vì mỗi
khi giơ tay lấy vật gì thì cậu lại nhớ tới lời Phật dạy giữ sự trong
sạch. Rốt cuộc, chỉ có người học trò đó được tuyên dương trong khi
cậu không làm theo lời thiền sư truyền. Lời thầy truyền mà không
chứa đựng sự thật và thiện hảo thì bất tập lại hóa ra tốt hơn. Cũng
vậy, nếu người bạn với mục đích tà ý lừa gạt hay lạm dụng sự nhẹ dạ
của ta thì lúc đó ta có nên xét mình về sự bất tín không. Hay giúp
người mà không lượng sức mình thì sao. Chẳng những không giúp gì
được cho người có khi còn rước họa vào thân. Thấy người nhảy cầu
tự tử mà vội lao theo không màng tới khả năng giới hạn của mình thì
liệu có nên không. Hẳn nhiên không ai phủ nhận cái tốt, lòng quả
cảm nhưng nếu chúng phát xuất từ sự nông nổi thì thật đáng trách
hơn cảm phục. Vậy, ta nên hiểu xét mình một cách linh hoạt biết cân
bằng giữa việc xét mình và những tác động khác quan. Bởi vì tất cả
những cái nhìn cực đoan đều trở nên khập khiễng. “Thiên thời, địa
lợi, nhân hòa” ý là như vậy, ta cần có cái nhìn quân bình về mọi
phương diện.
Chính vì cần một cái nhìn quân bình hơn nên chúng ta cũng cần
tự thức tĩnh mình xem. Liệu bản xét mình trên có đủ và phù hợp với
mình, với một Kitô hữu hay một tu sĩ không? Một người Kitô hữu có
thể xét mình như thế nào? Hẳn nhiên người Kitô hữu xét mình có sự
khác biệt rất nhiều. Ngoài phạm vi cá nhân và xã hội người Kitô hữu
còn có tương quan đặt biệt với Thiên Chúa. Chính Ngài mới là chuẩn
mực trọn hảo và có quyền xét xử một cách tuyệt đối, vì Ngài là đầu
và là cuối của tất cả tạo thành. Vì thế, không chỉ khác về phương

225
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
pháp xét mình mà còn khác trong bản chất việc xét mình. Khác về
phương pháp thì đã là hiển nhiên những có thể xét theo mười điều
răn, sáu điều luật hội thánh... hay xét dưới ba mối tương quan chính.
Thiên Chúa, con người và bản thân. Khác về bản chất xét mình vì
người Kitô hữu không chỉ định lượng theo những phán đoán tự nhiên
nhưng đặc biệt là để cho “tiếng nói của Thiên Chúa” chất vấn. Tiếng
nói đó có thể đến từ một lương tâm ngay thẳng, từ giáo huấn của Giáo
hội, từ lời Chúa tạo vật, mọi biến cố trong cuộc đời... Sự khác từ bản
chất đó là vì họ không lấy mình làm chuẩn mực nhưng là tiếng nói của
một ai khác, cách chắc chắn hơn cả là huấn quyền của giáo hội.
Xét mình thôi thì chưa đủ, có phải được đẩy tới đỉnh cao là biến
đổi. Xét mình xong rồi để đó. Ngày này qua ngày khác, chúng ta vẫn
như xưa thì nào có ích gì. xét mình đích thực phải bao gồm một ý chí
ước muốn được thay đổi nên tốt hơn, một quy định cụ thể để biểu lộ
lòng thành đó. Thay đổi không phải một sớm một chiều, có thể cần
một thời gian dài, có thể đến cuối đời. Nó còn lệ thuộc rất nhiều yếu tố
như hoàn cảnh ngoại tại cũng như nội tại yếu đuối nơi bản thân. Tuy
chưa thành toàn ở đây nhưng điều hết sức đáng trân quý là “tinh thần
phục thiện”. Những ước muốn và những quyết định cụ thể là một tiếng
nói rất sâu thuộc về một hữu thể có lý trí. Chính vì thế, bí tích hòa giải
của người Kitô hữu chỉ thành sự- tất nhiên không kể đến quyền năng
giải tội của linh mục khi hối hận thật lòng; Thống hối, xưng tội và làm
việc đền tội. Như thế, chúng ta chỉ chạm đến từ xét mình đích thực khi
những hoa trái của nó cũng được tỏ lộ ra bên ngoài.
Vậy, phương cách xét mình tự nó là rất tốt, không chỉ đúng với
Tăng Tử mà đồng thời cũng là lời thức tỉnh cho con người đương đại.
Khi mà chủ nghĩa duy vật đang đo lường giá trị con người bằng
thành quả vật chất và ý nghĩa cuộc đời bằng tinh thần hưởng thụ thì
xét mình giúp thẩm định lại những chuẩn mực lệch lạc để trả lại đúng

226
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
“vị trí” mỗi giá trị, mỗi hành vi. Đồng thời, xét mình là tiếng nói của
nền “luân lý phổ quát”. Nơi đó, mỗi người tìm lại sự thanh thản bản
thân và không ngừng vươn tới sự thiện hảo khách quan- là chính
Thiên Chúa dưới góc nhìn người Kitô hữu. Dẫu không phải là một
tín đồ Kitô, bao lâu còn chỗ đứng cho xét mình thì bấy lâu họ còn để
ngỏ một lối đi cho Thiên Chúa hoạt động. Và vì thế, chúng ta người
Kitô hữu có lý do để vui mừng, tạ ơn và tin cậy vào lòng thương xót
của Thiên Chúa sẽ ân ban ơn cứu độ phổ quát ngang qua luật thiết
định nội tại trong lương tâm mỗi người. Còn chúng ta người Kitô
hữu không ngừng hiện thực hóa lời Chúa: “hãy sám hối và tin vào tin
mừng”.
Dòng Hiền Sĩ Đức Mẹ Vô Nhiễm (Q.M.1). Tên Thánh – Họ và
tên: Gioan B Đào Đức Minh

227
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài.Hãy bình luận nhận đình sau: “Khoa học giúp chúng
ta trở nên thông thái. Lý trí giúp chúng ta nên người” La
Cordaire.
Bài làm:
Thế giới chúng ta không ngừng vận động và phát triển, vì vậy mà
cuộc sống xã hội loài người cũng ngày càng phát triển mạnh mẽ. Cho
đến nay, không thể phủ nhận vai trò của khoa học trong đời sống con
người. Chính những phát minh vĩ đại đã đem đến cho nhân loại nhiều
giá trị vật chất và tinh thần hết sức đa dạng và phong phú. Hơn lúc nào
hết con người nhận ra tầm quan trọng của khoa học đối với sự phát
triển xã hội và con người. Khoa học chính là một mắt xích then chốt
trong chuỗi xích phát triển xã hội. Tuy vậy, một vấn đề không kém
phần quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách của con
người đó là lý trí. Vì thế mà La Cordiare đã khẳng định rằng: “Khoa
học giúp chúng ta trở nên thông thái. Lý trí giúp chúng ta nên người”.
Có thể nói La Cordaire đã sớm nhận ra vai trò của khoa học, của
lý trí đối với con người. Ông hiểu được rẳng khoa học là phục vụ con
người, phục vụ nhân loại, giúp ích cho đời sống. Qua đó làm cho con
con người ngày càng thông thái hơn, hiểu biết thế giới xung quanh
hơn. Trước đây, khoa học được định nghĩa một cách khá chuyên biệt
chủ yếu là trong triết tục. Người ta cho rằng triết học là khoa học của
mọi khoa học. Nhưng càng phát triển về sau quan niệm này dần được
thay đỏi để phù hợp với xu thế và hoàn cảnh. Khoa học ngày nay
được hiểu là hệ thống tri thức ở mọi lĩnh vực, là các nỗ lực thực hiện
các phát minh và tăng lượng tri thức hiểu biết của con người về cách
thức hoạt động của thế giới vật chất xung quanh. Tri thức khoa học
chính là toàn bộ lượng thông tin mà các nghiên cứu đã tích lũy được.
Còn lý trí là năng lực suy luận và phán đoán. Tuy nhiên, lý trí
nhận thức khái niệm thế giới trên cơ sở xử lý chất liệu cảm tình do

228
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
các cảm giác mang lại, và do đó mà lý trí khong vượt qua phạm vi
linh nghiệm nhưng nhờ linh nghiệm mà hiện ra phán đoán, nhận định
rồi đi đến chọn lựa hành động. Con người khác con vật ở chỗ là con
người có lý trí và có ly trí nên con người hành động theo lý trí điều
khiển. Còn con vật không có lý trí nó hành động theo bản năng, theo
nhu cầu ham muốn của cơ thể. Ví dụ như đói thì ăn, khát uống… còn
con người không như vậy. Hơn nữa, vì có lý trí nên con người có khả
năng đúc rút kinh nghiệm để đúc kết tri thức và chuyển giao cho các
thế hệ sau. Và lý trí còn giúp cho con người nhận ra vai trò của khoa
học đối với đời sống xã hội và đặc biệt là giúp cho con người thông
thái hơn.
Khoa học giống như chiếc chìa khóa mở cánh cửa văn minh, đưa
nhân loại bước sang trang sử mới, thoát khỏi bóng đen của đêm
tường mông muội và lạc hậu. Khoa học phát triển đã giúp cho con
người nhận thức được thế giới để rồi khá phá thế gới, và chính khoa
học giúp con người hiểu được bản chất của các quy luật tự nhiên, sự
kỳ diệu của vũ trụ. Trước đây, người ta quan niệm rằng Trái Đất là
trung tâm của vũ trụ. Vì thế mà họ thỏa mãn về quan niệm đó.
Nhưng có một người đã dám đứng lên dùng khoa học thiên văn xé
tan quan niệm lệch lạc sai lầm đã ngự trị hàng trăm năm ở Châu Âu
đó là Cô-péc-ních. Ở thời đại của ông, người ta nghĩ rằng Trái Đất
là trung tâm, Mặt Trời và các tinh tú quay xung quanh Trái Đất.
Ngay từ khi mới nghiên cứu thiên văn, ông đã thấy ý kiến này sai.
Ông cho rằng : Trái Đất quay xung quanh Mặt Trời, đồng thời nó
cũng tự quay quanh nó.
Không chỉ khoa học giúp con người hiểu quy luật tự nhiên mà
còn làm cho con người biết khai thác với ứng dụng thiên nhiên và
sản xuất phục vụ đời sống con người. Nhờ điện mà chúng ta có dòng
điện thắp sáng như hôm nay chính là nhờ khoa học đã biết ngăn dòng

229
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
nước lại, lợi dụng sức nước làm quay tua-bin và tạo nên dòng điện.
Hết khai thác dạng ứng dụng thiên nhiên, con người còn đi xa hơn
nữa đó là hạn chế sự tàn phá của thiên tai. Người ta cũng đã ý thức
rằng thiên nhiên là vô song, thiên tai là dữ dội, chúng ta không thể
chống cự hay quy phục thiên nhiên được, sự tàn phá của thiên tai là
hết sức to lớn. Trước đây mỗi khi có mưa bão là người ta lại kinh sợ
trước những luồng sét dữ dằn không kiêng nể bất kì vật gì. Nhiều
công trình đồ sộ, nhiều tòa nhà cao lớn và nhất là nhiều người đã bị
sét đánh chết, phá hoại gây bao tổn thất về vật chất và tinh thần. Khi
chưa khám phá ra cột thu lôi người ta thấy những người bị sét đánh
chết cho là bị trời phạt, nhà kia ăn ở thất đức, hay bị báo oán.
Nhưng rồi Benjamin Franklin đã phát minh ra cột thu lôi hạn chế
được sức tàn phá của sấm sét … kẻ biết phần nào quan niệm sai lầm
và sự sợ hãi của con người
Khoa học không chỉ dừng lại ở đó mà giúp còn giúp cho con
người nhận ra bản thân mình là ai, thấy được những khả năng tiềm
tàng đang ẩn giấu trong mỗi cơ thể. Cũng giống như vũ trụ vậy, con
người là một thế giới thu nhỏ đầy phức tạp nhưng cũng đầy khả năng
diệu kỳ. Chính nhà bác học Men Des đã phát minh ra định luật di
truyền học sau này. Chính nhờ định luật này mà người ta giải thích
được những tính trạng, đặc điểm của con cái giống với bố mẹ. Louis
Paster, nhà hóa học người Pháp, đã phát minh ra phương pháp tiệt
trùng – phương pháp ngừa bệnh lao, đưa ngành y học phát triển lên
một tầm cao mới, giảm thiểu được số nạn nhân chết vì nhiễm trùng.
Khoa học đã giúp chúng ta nhận ra mối quan hệ giữa người với
người là mối quan hệ tác động qua lại. Các mối quan hệ này gắn chặt
với nhau tạo thành một thể thống nhất gọi là xã hội. Trong đó, con
người nhận thấy rõ vai trò của mình. Không chỉ với khoa học mà đối
với thiên nhiên và sự vật xung quanh. Vai trò của khoa học vì vậy mà

230
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
được khẳng định một cách chắc chắn hơn. Chính khoa học đã giúp
con người thông thái, thông minh hơn và hoàn thiện hơn. Chúng ta
thử suy gẫm lại vấn đề không có khoa học liệu chúng ta có ngày hôm
nay hay không ? Con người làm chủ khoa học và sáng tạo không
ngừng đã thúc bách con người không ngừng tìm tòi và khám phá để
phục vụ bản tân và phát triển xã hội. Ngược lại khoa học lại giúp con
người nhận ra mình, thế giới con người hiểu biết hơn, thông thái hơn.
Như vậy, khoa học và con người có mối quan hệ chặt chẽ và hỗ trợ
không ngừng cho nhau. Bên cạnh, vai trò của khoa học đối với con
người khoa học cũng đã tác động không nhỏ tới xã hội.
Khoa học làm thay đổi diện mạo của xã hội. Khoa học phát triển
đồng nghĩa với việc giải phóng con người khỏi cuộc sống đói nghèo.
Khỏi phải động chân tay cực nhọc bằng việc phát minh ra những dây
chuyền, những cỗ máy làm thay hàng trăm công nhân mà kết quả và
năng suất lao động còn hơn cả lao động thủ công. Những cỗ máy ra
đời thay thế sức lao động công nhân tạo ra nhiều sản phẩm mà trước
đây không thể có được.
Thế kỷ XVIII, thế giới đã chứng kiến cuộc cách mạng khoa học
kỹ thuật đưa nhân loại bước sang một trang sử mới. Chính cuộc cách
mạng đó đã đánh dấu sự ra đời của máy hơi nước và động cơ điện.
Thời kỳ này kéo dài trên hai trăm năm đã đưa kinh tế thế giới tiến
bước với những thành quả vật chất mà những chế độ xã hội trước
cộng lại cũng không bằng. Cuộc cách mạng này diễn ra đầu tiên ở
nước Anh đã làm cho nước Anh thời đó trở thành một cường quốc về
công nghiệp làm cho các nước khác phải thèm muốn và run sợ.
Khi khoa học ra đời với mục đích phục vụ con người, phục vụ
cuộc sống thì khoa học len lỏi vào mọi lĩnh vực của xã hội, làm cho
xã hội biến đổi phát triển về mọi mặt. Về công nghiệp đã có những
cỗ máy và dây chuyền hiện đại như Michael Faraday phát minh ra

231
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
máy phát điện. Thomas Alia Edison phát minh ra bóng đèn điện.
Trong nông nghiệp đó là sự ra đời của các hạt giống cây cho năng
suất và chất lượng cao như Condus Linnaeus đã khám phascacs loại
hoa và đặt tên cho chúng chẳng hạn như hoa bướm còn được gọi là
Pen séc tên tiếng Anh là « pansy » mà ở Việt Nam, Đà Lạt là xứ sở
của hoa này.
Đặc biệt và nổi bật là trong ngành thiên văn học, xưa kia người ta
nhìn ngắm bầu trời và chỉ ước rằng giá như mình là chú cuội hay chị
Hằng Nga để được du ngoạn lên cung trăng. Nhưng gần đây, mơ ước
đó đã thành hiện thực không chỉ nhìn ngắm rõ ràng từ kính thiên văn
mà người ta còn du hành lên đó để đi du lịch. Vinh dự cho Việt Nam
là có người đã du hành vũ trụ khám phá mặt trăng đó là anh hùng
Phạm Tuân đem lại niềm tự hào cho chúng ta.
Ở bất cứ lĩnh vực nào khoa học cũng góp phần đắc lực với những
đội ngũ nhà bác học và chuyên gia giáo sư hùng hậu
Bên cạnh khoa học hàn lâm mà chúng ta kể trên còn có khoa
học bình dân, gắn liền và dễ tiếp thu với đời sống nhân dân đặc biệt
là người nông dân.
Khoa học bình dân hay dân gian đó là những kinh nghiệm sản
xuất, kinh nghiệm về thời tiết… được đúc kết từ đời này qua đời
khác. Như ông cha ta quan sát đã biết được rằng:
Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng bay vừa thì râm.
Thấy hiện tượng lặp đi lặp lại nhiều lần nư vậy nên họ mới đúc
kết để dạy cho con cháy để kịp đối phó. Chẳng hạn với như sự
chuyện mùa từ mùa xuân sang mùa hạ ông cha ta dạy rằng:
Bao giờ cho đến tháng ba
Hoa gạo rụng xuống là già cất chăn.

232
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Tuy khoa học bình dân không được đúng đắn bằng khoa học bác
học nhưng nó cũng giúp ích cho người dân rất nhiều trong sản xuất
nông nghiệp.
Ở nước ta, tiêu biểu đầu tiên cho tri thức khoa học bình dân đó là
nhà bác học Quý Đôn. Chính nhờ trí thông minh siêu phàm của ông
mà không ít lần làm cho sứ giả Trung Hoa bẽ mặt, xấu hổ. Thời đó
làm gì có chiếc cân lớn mà cân nặng con voi, nhưng ông đã cân
được, rồi đo độ dày của trang giấy, tính chu vi của tam giác vuông để
xây dựng cầu bắc qua sông. Di sản mà ông để lại cho dân tộc ta là bộ
Đại hành Toán pháp, bộ sách nói về toán học đầu tiên của nước ta.
Để qua đó cho hậu thế biết rằng: Cha ông ta xưa không chỉ giỏi về
văn chương, chiến đấu bảo vệ đánh đuổi quân xâm lược mà còn giỏi
về khoa học. Ngày nay nước ta cũng đang có nhiều nhà khoa học
cũng đang ngày đêm miệt mài nghiên cứu để làm cho đất nước nâng
cao đời sống người dân như: Giáo sư Phạm Minh Hạc chuyên ngành
tâm lý, Giáo sư sử học Lê Văn Lan và gần đây là giáo sư toán học Lê
Bảo Châu đã làm cho thế giới kinh ngạc về trí tuệ Việt Nam.
Trong cuộc đời không có con đường nào là bằng phẳng dễ dãi
để chúng ta bước đi, việc nghiên cứu khoa học cũng vậy, luôn gặp
nhiều gian nan thử thách như có người đã từng nói:
Hồng nào mà chẳng có gai
Việc nào mà chẳng có vài khó khăn.
Để có khoa học để trở thành thông thái không phải ngẫu nhiên
hay một sớm một chiều mà có được. Công trình khoa học ra đời phải
đánh đổi bằng sự hi sinh vất vả và gian lao, có khi phải đánh đổi
bằng cả tính mạng để tìm tòi nghiên cứu. Bởi vì họ hiểu được rằng:
“Trên bước đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng”.
Có những lúc họ tưởng chừng thất bại nhưng nhờ lý trí kiên định, ý
chí vững vàng, lòng quyết tâm, họ đứng lên sau những lần thất bại.

233
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Có một lần phòng thí nghiệm của ông vua sáng chế nước Mỹ
Thomas Edixon bị cháy; bà vợ ông khóc lóc than phiền trong tiếc
nuối. Nhưng ông an ủi vợ rằng: “Chính ngọn lửa đã đốt cháy đi
những sai lầm của tôi trong nghiên cứu để từ nay tôi sẽ có những kết
quả đúng đắn hơn”.
Đúng như vậy, nhờ sự kiên trì bền bỉ qua bao thử nghiệm các loại
dây tóc bóng đèn, ông đã cho ra sản phẩm bóng đèn điện thắp sáng
dây tóc để chúng ta có ngày hôm nay. Không những bóng đèn điện
của ông đã xua đi bóng đêm tăm tối mà còn thắp lên ánh sáng trong lý
trí và tâm hồn của mỗi người. Để lý trí ta nhận ra rằng kiên trì là sự
cộng hưởng của một phần trăm của bẩm sinh và chín mươi chín phần
trăm là sự khổ luyện mà có. Chính nhờ có lý trí như vậy đã định hướng
và dẫn dắt hành động chúng ta.
Tạo hóa đã cho chúng ta sống trên đời có tự do chọn lựa hành
động cho mình, tuy nhiên, mẹ tạo hóa cũng đã khéo đặt lý trí vào tâm
hồn chúng ta để dẫn dắt đến hành động chúng ta đi cho đúng hướng
Nhờ có lý trí mà chúng ta nhận định phán đoán được cái việc
gì không nên làm. Lý trí sẽ soi dẫn chúng ta chứ không phải là bản
năng lôi kéo.
Trong các mối quan hệ hàng ngày, nếu không có lý trí thì chúng
ta dễ sa vào những hành động dại dột mù quáng, xem thường đạo lý
bất chấp công lý. Sống chung với nhau mỗi người mỗi nết, mỗi tính,
tất nhiên là không tránh khỏi va chạm. Những lúc đó nếu lý trí chiến
thắng cảm xúc thì sẽ là “dĩ hòa vi quý” bình an cho cả đôi bên. Vai
trò của lý trí đối với con người là vô cùng quan trọng, và chính lý trí
giúp cho chúng ta nên người. Lý trí giúp con người hướng đến các
phẩm chất đạo đức như khoan dung, nhịn nhục, vị tha, bác ái...
nhưng nổi bật nhất đó là sự phán đoán và quyết định. Và cũng chính
lý trí không những giúp chúng ta thấy rõ mối quan hệ giữa người với

234
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
người mà sau đó là mối quan hệ giữa con người với môi trường thiên
nhiên, môi trường xã hội.
Với môi trương tự nhiên lý trí giúp ta nhận biết vai trò của môi
trường cây xanh như là lá phổi sống giúp điều hòa không khí làm cho
không khí được trong lành hơn. Vì vậy, lý trí cho chúng ta biết rằng
phải cùng nhau hành động chung tay bảo vệ môi trường, nhất là các
con sông đang bị ô nhiễm nặng như hiên nay, nhiều cánh rừng bị
chặt phá, khai that bừa bải. Lên án hành vi của các cá nhân hay tổ
chức làm hủy hoại môi trường.
Với môi trường xã hội, lý trí giúp chúng ta nhận thấy nhiều giá trị
ngày nay đang bị xem thường thay vào đó là những lối sống đồi trụy
hay xa hoa của một số bộ phận đang làm băng hoại xã hội. Những
giá trị như: nhân phẩm, đạo đức, hôn nhân gia đình đang bị xem nhẹ.
Chúng ta nhận thức rõ và thấy được hậu quả đó để tránh không bắt
chước theo.
Nhưng sống giữa một môi trường đang bị ô nhiễm nặng nề về lối
sống hưởng thụ, coi trọng vật chất thật khó cho chúng ta giữ được mình
Nhất là trong tình yêu, khi yêu người ta đặt cho mình nhiều quy
ước, nhiều dự định đúng đắn, nhiều hành động phù hợp để làm cho
tình yêu được luôn bền vững. Nhưng càng yêu thì lý trí càng bị lu mờ
và cảm xúc thì ngày càng dâng tiến, áng ngự.
Bởi tình yêu là muôn hình vạn trạng và luôn xảy ra bất ngờ. Điển
hình nhất là yếu tố ghen trong tình yêu, ghen đó là một gia vị làm
cho tình yêu thêm đậm đà, cốt làm cho đối phương chú ý mình hơn,
ghen một chút thì rất tốt nhưng nếu lạm dụng, khi đó lý trí đâu còn
điều khiển được nữa. Khi đó, cảm xúc giận dữ và ý định trả thù sẽ
điều khiển hành động bất chấp hậu quả. Vì vậy mà đã xảy ra nhiều
vụ đánh ghen khủng khiếp. Không chỉ trong đời sống cộng đồng mà

235
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
ở các học sinh, sinh viên cũng khủng khiếp không kém đến nỗi phải
có người thốt lên rằng: “Hoạn Thư ngày xưa còn thua xa”.
Trước những ham muốn dục vọng, tiền tài, vật chất, cám dỗ đòi
hỏi lý trí chúng ta phải sáng suốt soi dẫn cho hành động được đúng
đắn phù hợp hơn. Trong mâu thuẫn xung đột lý trí giúp chúng ta
kiềm chế. Trước cám dỗ rủ rê thói xấu, lý trí giúp chúng ta chối từ.
Với bổn phận của mình lý trí cho ta thấy rằng phải nỗ lực hết mình
để hoàn thành công việc.
Là học sinh phải chăm ngoan học giỏi, là công nhân phải làm
tròn công việc được giao, là bác sĩ lý trí cho biết phải tận tình và tâm
niệm “Lương y như từ mẫu” , là con cái lý trí chỉ rõ phải báo hiếu
với cha mẹ. Và với con người lý trí nhắc nhở phải yêu thương nhau.
Những hành động của chúng ta mà để lý trí tốt điều khiển thì
mang những ý nghĩ to lớn kết quả tốt đẹp. Làm mọi việc vì yêu
thương, vì trách nhiệm. Còn nếu chúng ta gạt bỏ lý trí để bản năng
điều khiển hành động chúng ta, thì hậu quả khôn lường. Lúc đó, xã
hội đầy dẫy bất công, tranh chấp và hận thù. Thế giới là một guồng
máy của tham vọng mà thôi. Con người khi ấy khác chi con vật.
Nhưng thật may cho mỗi bản thân chúng ta là có lý trí để chế ngự,
những hành động ngông cuồng đầy tính mưu sát và hủy hoại.
Tuy nhiên, không phải lúc nào chúng ta cũng có lý trí tốt. Đứng
trước nhiều chọn lựa giằng co trong cuộc sống nhiều khi lý trí chúng
ta sai lầm và dẫn đến hành động sai lầm. Vì thế mà trong các mối
quan hệ như tình bạn hay tình yêu, hôn nhân gia đình chúng ta vẫn
gặp các thất bại. Sau những thất bại đó vì lý trí nhu nhược, hay chậm
trễ, mù quáng,... chúng ta rút ra được kinh nghiệm xương máu cho
bản thân. Từ đó mà không đi vào vết bánh xe đổ. Nhưng thật đáng
tiếc là nhiều người không chịu nhận ra thất bại sai lầm của kẻ khác
để làm bài học cho mình, mà cứ hành động theo bản năng không ít

236
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
vụ án giết người hiện nay đang minh chứng cho người đó nhất là
trong tình yêu của giới trẻ.
Đứng trước những thách đố, những cám dỗ của cuộc sống như
vậy đặt ra cho chúng ta câu hỏi làm thế nào để có lý trí tốt đây? Đây
không phải chỉ là mối bận tâm của các nhà tâm lý, đạo đức học và
giáo dục học nhưng là câu hỏi chung cho tất cả mọi người. Điều này
phải được xuất phát từ nền tảng giáo dục gia đình, vì chính gia đình
là môi trường giáo dục đầu tiên mà con người đón nhận. Cha mẹ có
trách nhiệm giáo dục con cái biết những giá trị cao quý của con
người như yêu thương, vị tha, khiêm nhường,... bên cạnh đó là không
ngừng cảnh tỉnh con cái bởi những nguy cơ tệ nạn đang tiềm ẩn rình
rập, đe dọa tâm hồn non nớt của trẻ.
Nhà trường không chỉ chú trọng đến trang bị kiến thức khoa học
mà còn biết giáo dục cho học sinh biết cách làm người bởi người xưa
đã dạy: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Thầy cô phải là người gương
mẫu giáo dục cho các em các giá trị nhân bản của con người đặc biệt
là lòng thương người, tính kiềm chế trước những xúc động biết hòa
nhập là đối với các em nam vào lứa tuổi dậy thì. Vì đây là lứa tuổi
mà quá trình hưng phấn cao hơn ức chế, dễ nổi nóng và thể hiện
mình bất chấp đúng sai. Đối với các em nữ, giáo dục lý trí cho các
em đó là sự cảnh giác biết chối từ trước những cám dỗ, và lời nói
ngon ngọt có cánh của những gã sở khanh. Giúp các em phán đoán
tốt trước những tình huống, có nhận định suy xét trước khi hành
động để các em dần lớn lên thành con người toàn diện có ích cho xã
hội. Qua đây cho chúng ta biết chắc rằng “Lý trí giúp chúng ta nên
người và khoa học giúp chúng ta thông thái”. Vậy giữa khoa học và
lý trí có liên quan đến nhau không?
Việc phát triển khoa học đã giúp cho con người thoát khỏi đói
nghèo, bệnh tật đi xa hơn là chinh phục thiên nhiên và vũ trụ nhưng

237
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
cũng đồng thời đẩy con người lún sâu vào những tham vọng ích kỷ.
Đó chính là hai hướng phát triển khác biệt giữa một bên là khoa học
không có lý trí và một bên là khoa học có lý trí soi đường dẫn dắt.
Khoa học mà có lý trí tốt soi đường là kim chỉ nam cho hành
động thì khoa học đó là khoa học vì nhân sinh. Hướng đến mục đích
cao đẹp là phục vụ con người. Đó là một nền khoa học mang màu sắc
sự sống
Còn khoa học mà không có lý trí dẫn đưa hay lý trí sai lầm mù
quáng thì thật là một đại họa. Tự bản thân nó biến thành một cỗ máy
tham vọng, ích kỷ và cuối cùng là hủy diệt. Chính nhà văn, nhà tư
tưởng nhân văn chủ nghĩa Rabelais đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh
cho thế giới bằng câu nói: “Khoa học mà không có lương tâm là sự tàn
lụi của tâm hồn” Dù không làm cho thế giới thay đổi nhưng cũng làm
cho nhiều người phải giật mình. Nếu làm khoa học mà không có lý trí
soi sáng thì dễ biến thành những công cụ đắc lực cho những tổ chức
đầy tham vọng hủy diệt mà thôi.
Ngày nay thế giới vẫn chưa hết bàng hoàng kinh hãi bởi dư âm
của hai quả bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống hai thành phố của
Nhật Bản ngày 6/8/1945, trong lúc cuộc chiến tranh thế giới thứ hai
sắp đến hồi kết thúc, phe phát xít đang dần thất bại trên các chiến
trường, thì Mỹ ném quả bom nguyên tử đầu tiên xuống thành phố
Hiroshima làm tám vạn người chết. Không dừng lại ở đó, ngày hôm
sau 9/8/1945 Mỹ tiếp tục ném quả bom thứ hai xuống thành phố
Nagasaki làm chết hai vạn người. Cùng cảnh ngộ với người dân
Nhật, người dân Việt Nam cũng đã gánh chịu một thứ chất độc hại
không kém gì bom nguyên tử. Chất đó có tên là Đioxin hay còn gọi
là chất độc màu da cam. Đế quốc Mỹ đã để lại cho người dân vô tội
người Việt Nam một nỗi đau dai dẳng đến bây giờ vẫn còn nhức nhối
tâm hồn. Chính nhà bác học Nobel đã hối hận khi ông tạo ra thuốc
nổ. Mục đích ông phát minh ra không phải để hủy diệt, nhằm vào
238
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
mục đích quân sự, mà chỉ để giúp những người công nhân khai thác
đá bớt vất vả và nguy hiểm. Nào ngờ chính những tay tài phiệt quân
sự đã lợi dụng nó vào mục đích hủy diệt con người.
Tất cả đó là những minh chứng hùng hồn cho tác hại một thứ
khoa học không gắn liền với lý trí.
Ngày hôm nay khoa học phát triển như vũ bão nhưng lý trí con
người xem ra phát triển có vẻ mơ hồ hay đang giậm chân tại chỗ.
Thật đáng buồn là người ta đã nhân giống được nhiều giống chó tốt,
chó đẹp. Người ta quý trọng đến mức lập một hiệp hội chăm sóc và
bảo vệ động vật. Thế nhưng đối với nạo phá thai hủy diệt sự sống
con người vô tội thì người ta ban hành cả một đạo luật cho phép phá
thai. Chính mạng sống chúng ta do tạo hóa ban cho, con người không
có quyền lấy đi thế mà người ta sẵn sàng tiêm một liều thuốc êm dịu
cho người bệnh mau về chốn vĩnh hằng.
Chính những điều này đã được Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II cực lực lên án và phản đối. Một văn hóa sự chết, văn minh hủy diệt
đang lan tràn thế giới.
Nền khoa học thế giới hiện nay đang phát triển như vũ bảo, ngày
càng có nhiều phát minh, sáng chế ra đời giúp ích cho cuộc sống.
Nhưng bên cạnh đó là tiềm ẩn một sự khủng hoảng về đạo lý, bởi
người ta ngày càng xem nhẹ tình trạng con người các giá trị nhân
phẩm và sự sống. Càng phát triể càng giỏi dang người ta dể dang
kiêu ngạo, xem mình làm được tất cả mọi sự. Con người dựa vào sự
kiêu ngạo đó để phủ nhận vai trò của Thiên Chúa là Đấng tạo nên vũ
trụ cho con người. Chính con người phải đặt khoa học dưới ánh sáng
lời Chúa chứ không phải dùng khoa học để chống lại Thiên Chúa.
Chống lại Thiên Chúa tức là chống lại sự sống vì Chúa đã phán “Ta
là sự sống”. Con người dùng khoa học để tôn vinh, ca ngợi Thiên
Chúa thì khoa học sẽ đi đúng hướng.

239
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Chính nhiều nhà bác học đã xuất thân từ Kitô giáo như nhà bác
học Men đen là một tu sĩ. Ông là người mở đầu cho ngành khoa học
di truyền. Coopernicus cha đẻ của ngành thiên văn học hiện đại xuất
thân là một giáo sĩ nhà thờ Frauenburg tại Ba Lan. Louis Pasteur,
Isaac Newton, Charles Dawin và nhiều nhà khoa học lừng danh khác
nữa là những người tin vào Thiên Chúa. Chính họ đã dung khoa học
để tán dương Ngài. Khi khám phá ra chân lý, họ thấy vũ trụ thật bao
la, tuyệt mỹ, xoay vần đều đặn theo một trật, quy luât. Vì sao được
như vậy? Thưa rằng phải do một bàn tay quyền năng tài tình xếp đặt
mới ổn định như thế. Họ trầm trồ thán phục vũ trụ là vô song nhưng
Thiên Chúa đấng sáng tạo ra vũ trụ lại vô song hơn.
Trên đây là bức tranh chỉ phát họa được đôi nét về khoa học thế
giới, về vai trò của nó đối với con người với xã hội, về giá trị nhân
phẩm lý trí của con người. Còn nền khoa học của chính nước ta sẽ
phát triển ra sao, đã phát triển chưa? Lý trí và giá trị con người có
được xem trọng không?
Nhìn vào thực trạng nước ta hôm nay đang dần phát triển, cuộc
sống người dân đang ngày được cải thiện. Đó là dấu hiệu đáng mừng.
Nhưng cũng thẳng thắn mà nhìn nhận rằng so với các nước trong khu
vực và trên thế giới thì nước ta đang lạc hậu và thua xa. Chúng ta còn
qua ít những người như giáo sư Lê Bảo Châu, Tôn Thất Bách, Tôn
Thất Tùng, Lương Đình Của... đừng vội nhìn vào những thành công
ít ỏi đó mà tự hào, thỏa mãn với những gì đã có nhưng hãy nỗ lực
hơn nữa để đưa đát nước đi lên. Chúng ta thử tìm hiểu xem một số
nguyên nhân làm cho nền khoa học nước ta chưa phát triển. Đầu tiên
đó là giáo dục chưa phát triển, chậm đổi mới và trì trệ. Tiếp theo đó
là chưa có sự đầu tư, thu hút và đãi ngộ nhân tài, điều này được các
nước Phương Tây hết sức chú trọng. Một nguyên nhân cũng không
kém phần quan trọng đó là nạn chảy máu chất xám, những người tài
giỏi ra nước ngoài làm việc vì cở sở điều kiện trong nước không đáp
ứng cho họ. Khoa học chưa phát triển kéo theo những điều phức tạp

240
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
khác nảy sinh trong đó tư duy, lý trí con người. Việc ý kiến và nhìn
nhận các vấn đề đang ở tầm thấp, nhất là các giá trị đạo lý con người
đang bị xem nhẹ. Lý trí con người dường như bị sai làm hay mù
quáng trươc mọi vấn đề, chẳng hạn ý thức bảo vệ môi trường và chấp
hành luật giao thông ở Việt Nam đang rất thấp. Trong các vấn đề con
người như nạo phá thai thì lý trí dường như lại lệch lạc hơn nữa.
Nhất là đối với lớp trẻ, họ coi thường sự sống từ khi mới hình thành.
Vì thế nướ ta đang có thành tích bất hảo là đứng thứ ba thế giới về nạn
phá thai. Một thực trạng làm cho nhiều người giật mình. Mỗi ngày có
biết bao nhiêu là sinh linh bị lấy đi sự sống một cách vô tội. Người ta
dường như đã vô cảm trước tội ác này. Điều này làm cho lương tâm ra
chai lì và lý trí ra mù quán. Phải chăng giới trẻ Việt nam đang nằm
trong trục ma quỷ hủy diệt sự sống.
Các nhà trường hiện nay phần lớn truyền đạt trang bị tri thức cho
các em mà xem nhẹ vấn đề định hướng lý trí. Rèn luyện lý trí cho giới
trẻ. Không chỉ dạy văn hóa mà thôi mà song song với việc đó là phải
giúp các em có được lý trí suy luận, chọn lựa đúng trước các vấn đề.
Bởi vì môi trương xung quanh các em đang đày dẫy những cám dỗ
của lối sống đua đòi hưởng thụ, sùng bái đồng tiền. Trào lưu tục hóa
các giá trị nhân bản đang lan rộng. Trước những thách thức và cạm
bẫy đó, các em phải có một lý trí sáng suốt soi đường để dẫn dắt các
em có một hành động đúng đắn. Nếu không, càng chú trọng trau dồi
kiến thức mà xem nhẹ rèn luyện lý chí thì chỉ xây thêm nhiều nhà tù
và đồn bốt cảnh sát mà thôi.
Thông các hoạt động như văn nghệ, thể thao, tiểu phẩm giúp các
em thấy việc gì nên làm và việc gì nên tránh. Xã hôi kết hợp với
Giáo hội, với gia đình, ba lực lượng nong cốt trong việc giáo dục lý
trí cho các em, để các em có một lý trí tốt dẫn dắt các em nên người
có ích cho xã hội, giáo hội và cho đất nước.
Đối với các bậc nam nữ tu sĩ nói riêng, thì câu nói của Lacordare
vẫn ảnh hưởng sâu rộng và mạnh mẽ. Là tu sĩ chúng ta cũng phải
nghiên cứu khoa học bằng nhiều cách và nhiều nguồn khác nhau. Để
trau dồi kiến thức, làm cho bản thân không bị lạc hậu trước sự phát

241
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
triển của xã hội và làm cho tu sĩ ngày càng thông thái hơn. Những tấm
gương sáng như tu sĩ Men- Đen, Linh mục thừa sai người Pháp La
Cordier... luôn làm cho người tu sĩ noi theo. Tu sĩ nghiên cứu khoa học
không chỉ giúp cho bản thân nhưng còn giúp cho hội dòng, cho Giáo
hội và cho xã hội. Bằng việc tìm ra những cách thức, sáng chế mới,
phát minh mới đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
Bên cạnh đó việc trau dồi lý trí dưới ánh sáng lời Chúa là việc tối
ưu của người tu sĩ. Nhờ Chúa Thánh Thần tu sĩ có lý trí tốt trong vấn
đề dâng hiến cũng như có đủ sáng suốt để khướt từ những cám dỗ
dục vọng của thế gian.
Xã hội ngày nay ghi nhận sự tiến bộ không ngừng của khoa học
kỹ thuật cũng như vai trò của nó trong đời sống xã hội và đời sống
con người. Nhưng chúng ta cũng nên lưu ý rằng dân số thế giới
không ngừng tăng nhanh, kéo theo đó là các vấn đề đất đai, nhà ở, ô
nhiễm môi trường và tài nguyên đang dần cạn kiệt. Thấy được thực
trạng đó các nhà khoa học, chuyên gia đang không ngừng tìm tòi
nghiên cứu để tìm ra nguồn năng lượng mới thay thế bù đắp năng
lượng tài nguyên đã mất. Đó không chỉ là trách nhiệm riêng của mỗi
nhà khoa học nhưng là lời kêu gọi chung dành cho mọi người. Tuy
không phải là chuyên ngành nhưng chúng ta hưởng ứng ủng hộ và ý
thức về vấn đề này. Chúng ta có thể góp một ý tưởng, một lời động
viên chia sẽ đến với những người làm công tác khoa học sẽ làm cho
họ được ấm lòng. Bắt đầu những ý tưởng chừng như nhỏ nhoi, tầm
thường ấy lại là khởi đầu cho một phát minh vĩ đại thì sao?
Khoa học giúp chúng ta trở nên thông thái. Lý trí giúp chúng
ta nên người thật là một lời nhắc nhở đúng đắn và sâu sắc đối với
chúng ta. Đó như là hồi chuông báo động cho chúng ta ý thức về vấn
đề khoa học phải gắn liền với lý trí sáng suốt dẫn đường. Xã hội
không ngừng tiến bộ nhưng trong vấn đề lý trí- đạo đức con người
hầu như đang đứng yên hay có lúc thụt lùi. Chính điều này đang đe
dọa chúng ta, bởi trong mọi hành động chúng ta phải để lý trí đúng
đắn và tốt lành làm chủ, có như vậy chúng ta mới thành người đúng
với con người đích thực.

242
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài:“Người thầy thuốc tốt nhất là bản thân thiên nhiên”
(Hippocrates). Từ câu nói của danh y Hi Lạp cổ đại. Anh có suy
nghĩ gì về trách nhiệm bảo vệ môi trường hiện nay ?
Bài làm
“Sinh lão bệnh tử” là quy luật tất yếu của đời người. Do vậy, từ
cổ chí kim, con người vẫn ra sức tìm mọi cách chế, mọi phương
thuốc để duy trì sự sống hoặc chí ít cũng có thể chế ngự bệnh tật. Y
học ra đời và ngày càng phát triển, nhiều danh y xuất hiện với những
phương thuốc tốt để chế ngự bệnh tật. Tuy vậy, theo danh y
Hippocrates thì “Thầy thuốc tốt nhất là bản thân thiên nhiên”. Thiên
nhiên có vai trò quan trọng thế nào đối với đời sống và sức khỏe con
người mà khiến người “cha đẻ của nghề y” phải khiêm tốn thừa nhận
thầy thuốc tốt nhất là thiên nhiên ?.
Trước tiên ta cần phải khẳng định rằng thiên nhiên là một công
trình sáng tạo của Thiên Chúa. Và bởi vì thiên nhiên được sáng tạo
bởi Thiên Chúa nên tự bản chất là tốt đẹp. Đồng thời, Thiên Chúa
cũng giao cho con người làm chủ thiên nhiên, sử dụng và chịu trách
nhiệm về toàn thể thụ tạo để sao cho thụ tạo được hài hòa và phát
triển. Có thể nói, trong thiên nhiên và qua thiên nhiên. Thiên Chúa
cho ta thấy quyền năng và tình thương, sự quan phòng của Thiên
Chúa đối với nhân loại. Thiên nhiên, mà điển hình là không khí, ánh
sáng, mặt trời, nước, đất đai, động thực vật…là những điều kiện vật
chất cơ bản cho sự sinh tồn của loài người. Hình ảnh người thầy
thuốc gợi lên trong ta hình ảnh một người giúp ta giữ gìn, bảo vệ sức
khỏe và duy trì sự sống. Khoa học hiện nay đã chứng minh rằng rèn
luyện thân thể bằng các yếu tố thiên nhiên một cách đúng đắn là biện
pháp khoa học mang tính chủ động tích cực để nâng cao khả năng
thích nghi của cơ thể và giúp chống đỡ bệnh tật. Quả vậy, cuộc sống
và sự sinh tồn của con người phụ thuộc vào khả năng thích nghi với

243
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
thiên nhiên. Chính danh y Hippocrates là người thầy thuốc cho rằng
có thể lành bệnh tự nhiên thông qua nghỉ ngơi, chế độ dinh dưỡng
hợp lý, không khí trong lành và sự sạch sẽ. Người ta sử dụng ánh
nắng mặt trời như một phương pháp chữa bệnh. Các tia “cực tím”
trong ánh nắng khi chiếu xuống mặt đất không chỉ có tác dụng rèn
luyện làn da mà qua da ảnh hưởng đến việc tuần hoàn máu, trao đổi
chất trong tế bào, đến xương và nội tạng, góp phần củng cố và nâng
cao sức khỏe. Ngoài ra, không khí với tỉ lệ oxy thấp hơn bình thường
ở các vùng núi cao cũng là một điều kiện tốt để rèn luyện, nghỉ
dưỡng cho người bệnh hen phế quản, tim mạch. Sự tiếp xúc thường
xuyên với không khí và ánh nắng sẽ kích thích sự tạo máu, thúc đẩy
sự hợp thành vitamin D, làm cho người ta ăn, uống, ngủ tốt, giảm sự
cảm nhiễm về đường hô hấp. Bên cạnh đó, nước khoáng, bùn trị liệu,
nước biển cũng được sử dụng như một phương pháp chữa bệnh tổng
quát. Nhiều bệnh có thể nhờ các biện pháp tự nhiên giải quyết mà có
khi y học sinh học hiện đại không thể giải quyết tận gốc như các
bệnh tiêu hóa, tim mạch, hô hấp. Nói đến thiên nhiên là người thầy
thuốc tốt nhất, ta cũng không thể không nhắc đến việc sử dụng động
thực vật như những bài thuốc chữa bệnh. Thậm chí, Hippocrates
cũng khuyên: “Hãy dùng thực phẩm như dược phẩm” Một số bài
thuốc cổ truyền có nguồn gốc từ thiên nhiên như cây thiên lý có thể
dùng để chữa chứng mất ngủ, ăn tỏi sống có thể chữa đau họng, tinh
dầu bưởi trị hói, nghệ chữa viêm loét dạ dày…
Trên thực tế, chúng ta dễ dàng chọn mua các thực phẩm, thuốc
men có nguồn gốc hay được chiết xuất từ thiên nhiên hơn so với các
sản phẩm chế xuất từ hóa học. Bởi các sản phẩm có nguồn gốc từ
thiên nhiên thì an tâm hơn.
Cộng đồng Vatincan II tái khẳng định: “Con người được dựng
nên theo hình ảnh Thiên Chúa, đã nhận được mệnh lệnh chinh phục

244
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
trái đất và mọi sự chứa đựng trong đó, đồng thời cai trị thế giới trong
công lý và thánh thiện”. Tuy nhiên, một điều đáng buồn là con người
đã “sử dụng trái đất một cách tùy tiện, bắt nó phục tùng ý muốn của
mình một cách vô hạn, như thể nó không có những yêu cầu riềng và
không có một mục tiêu mà Thiên Chúa đã ban cho từ trước, một mục
tiêu mà con người quả thật có thể triển khai nhưng không được phép
phản bội”. “Con người thay vì thi hành vai trò của người cộng tác với
Chúa trong công trình sáng tạo, sẽ tự đặt mình thay thế Chúa và rốt
cuộc làm cho thiên nhiên phản lại, vì con người đã hành hạ hơn là cai
quản thiên nhiên: Hệ quả của việc khai thác “vô tội vạ” các tài
nguyên thiên nhiên vô cùng nghiêm trọng. Rừng sinh thái được xem
là lá phổi của trái đất bị tàn phá nghiêm trọng. Từ năm 1972, gần 20
tỉ hecta rừng bị biến mất. Hệ sinh thái đang che chở cho khoảng 50
đến 70 phần trăm các giống loài trên cạn của thế giới bị phát quang
và suy thoái nhanh hơn bao giờ hết. Sự đa dạng sinh học vốn là một
đảm bảo an toàn cho môi trường và con người nay đang bị nghèo nàn
đi. Sự mất cân bằng sinh thái ngày càng rõ rệt. Đức Giáo hoàng
Benedict XVI nhận định: “Từ thuở xa xưa, nước vẫn luôn được nhìn
nhận như một sự thiện nhân bản hàng đầu và là một tài nguyên thiên
nhiên không thể thiếu được”. Thế mà hiện nay nguồn nước bị ô
nhiễm trầm trọng. Bên cạnh đó, việc thiếu nước sạch cũng đang là
một nguy cơ lớn cho sự sinh tồn của hành tỉ người. Theo tổ chức
Liên Hợp Quốc, có khoảng 80 quốc gia đang khốn đốn vì thiếu nước
sinh hoạt, hơn 1,7 tỉ người không có tiện nghi vệ sinh xứng đáng.
Chất thải của các nhà máy, xí nghiệp khiến các con sông, con kênh bị
ô nhiễm. Từ đó phát sinh nhiều bệnh tật hơn nữa. Hiện tượng ấm dần
lên của trái đất không chỉ làm cho mực nước biển dâng cao, đe dọa
sự biến mất của một số thành phố mà còn khiên sức khỏe của con
người bị đe dọa. Theo tạp chí Lancet (Anh) “khi nhiệt độ tăng cao

245
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
bầu không khí sẽ chứa nhiều hơi ẩm hơn, giúp các loại côn trùng
mang bệnh truyền nhiễm như bọ chét gây bệnh Lyme loại bệnh nguy
hiểm gây tê liệt, phong thấp, bệnh tim mạch, phát triển nhanh tương
tự, khí hậu nóng sẽ khiên các căn bệnh do muỗi lây truyền như sốt
rét, sốt xuất huyết, sốt vàng da, viêm màng não lây lan nhanh
chóng”. Các thiên tai khủng khiếp gây thiệt hại hàng trăm tỉ đô la
mỗi năm và cướp đi hàng trăm ngàn sinh linh như sóng thần ở
Indonesia, động đất ở Chilê, đại hồng thủy ở Thái Lan, cháy rừng ở
Mỹ, đợt nóng khủng khiếp ở Nga…cũng là những hệ quả của việc
thiên nhiên bị tàn phá.
Giáo Hội Công Giáo đã chỉ ra rằng những vấn đề trên cơ sở chỉ
xảy ra là do con người không tôn trọng quy luật Thiên Chúa. Chính
Người đã dựng nên Trái Đất nên chỉ có Người mới có quyền thống
trị tuyệt đối với Trái Đất. Nguyên nhân sâu xa là do tham vọng của
con người. Vấn đề phải làm gì để cứu lấy hành tinh của chúng ta trở
thành đề tài sôi nổi trong các cuộc họp báo, hội nghị trên khắp toàn
cầu. Không có một xã hội nào ngày nay không bị ảnh hưởng bởi
những vấn đề lớn về môi trường. Các quốc gia đang ngồi lại với nhau
và đưa ra những bộ luật để bảo vệ môi trường. thế giới không ngừng
lên tiếng kêu gọi mỗi người hãy ý thức vai trò, trách nhiệm của mỗi
người hãy ý thức vai trò, trách nhiệm của mỗi người vào việc xây
dựng và bảo vệ ngôi nhà chung”. Ta là một con người, tuy có vượt
trên mọi tạo vật khác nhưng ta không độc lập với vũ trụ, thế giới. Ta
là thành viên trong “ngôi nhà chung ấy”. Căn nhà sụp đổ thì ta cũng
không có chỗ dung thân. Vì thế, ta không thể dưng dưng trước vấn
nạn này.
Hơn nữa, trách nhiệm bảo vệ môi trường không chỉ mang chiều
kích xã hội mà còn mang chiều kích thiêng liêng. Bảo vệ môi trường
là việc công tác vào công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Bảo vệ môi

246
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
trường sạch đẹp để mọi người được hưởng dùng đồng thời qua đó
con người tôn vinh Thiên Chúa. Đức Giáo Hoàng Benedict XVI mời
gọi: “Thiên nhiên có trước chúng ta, và là vì khung cảnh cho cuộc
sống chúng ta, nên nó phải được sử dụng một cách có trách nhiệm,
bằng cách tôn trọng sự quân bình nội tại của nó. Như một biểu thức
tình yêu và chân lý của Đáng Tạo Hóa, thiêng nhiên phải được nhìn
nhận chứa đựng một thứ văn phạm có mục đích xác định ra mục tiêu
và tiêu chuẩn hướng dẫn việc sử dụng nó một cách khôn ngoan chứ
không khai thác nó một cách bất cẩn. Chính vì lý do này, qua đức tin
của mình, người Kitô hữu được mời gọi tham dự vào việc cung hiến
cho thế giới một chứng tá đáng tin về tinh thần trách nhiệm trong
việc gìn giữ, bảo quản tạo vật công tác bằng mọi cách hầu bảo đảm
trái đất chúng ta có thể giữ nguyên sự hùng vĩ, vẻ đẹp và hào phóng
Thiên Chúa đã ban cho nó “Học thuyết xã hội của Giáo Hội Công
giáo cũng đưa ra những đường hướng trong việc góp phần bảo vệ
môi trường là một tài sản tập thể mà mỗi người đều phải tôn trọng
cũng như sử dụng một cách có trách nhiệm. Kế đến, việc sử dụng
công nghệ sinh học phải phù hợp với quan điểm luân lý quan tâm
đến những hậu quả chúng có thể gây ra cho sức khỏe, môi trường và
kinh tế. Bên cạnh đó, Giáo Hội cũng nhắc nhở rằng của cải trên Trái
đất là do Thiên Chúa tạo thành để mọi người sử dụng cách khôn
ngoan và phải được chia sẻ một cách công bằng, phù hợp với công lý
và bác ái. Cuối cùng trong việc bảo vệ môi trường sinh thái Giáo Hội
đòi hỏi mọi người thay đổi hữu hiệu cách suy nghĩ và lối sống để đón
nhận những lối sống mới được xây dựng trên những đức tinh tham
đạm, điều độ.
Dù trên bình diện xã hội hay Giáo Hội, ta nhận thấy được trách
nhiệm, sứ mạng quan trọng cần thiết của mỗi người trong việc bảo vệ
môi trường, người thầy thuốc tốt nhất của chúng ta. Một cách cụ thể,

247
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
ta phải nhận thức được rằng tài nguyên thiên nhiên là tài sản chung
và có hạn. Do đó, cần sử dụng các tài nguyên điện, nước, đất đai…
một cách hợp lý, chống lãng phí. Ngoài việc bảo vệ môi trường cách
thụ động là tránh mọi hành vi gây ô nhiễm môi trường ta cần phải
tích cực chủ động cải tạo môi trường bằng cách trồng rừng, dọn dẹp
môi trường xung quanh chúng ta. Tham gia các hoạt động, phong
trào tuyên truyền ý thức bảo vệ môi trường cho mọi người cũng là
một hành động tích cực. Chia sẻ, bác ái với những người xung quanh
là động thái tốt để đi từ xây dựng môi trường sinh thái tốt đẹp đến
xây dựng môi trường xã hội văn minh. Điều kiện tiên quyết của mỗi
cá nhân là thay đổi lối sống sao cho hòa hợp với thiên nhiên và công
đồng hơn. Bảo vệ môi trường thiên nhiên là phương pháp hữu hiệu
để bảo vệ sức khỏe bản thân.
Hippocrates không hổ danh là cha đẻ của ngành y khi ông đã đưa
ra cái nhìn đúng đắn về vai trò của thiên nhiên đối với sức khỏe con
người khi nhận định “người thầy thuốc tốt nhất là bản thân thiên
nhiên”. Thiên nhiên bảo vệ con người, thiên nhiên là phương thuốc
chữa lành nhiều bệnh tật của con người. Chính vì lẻ đó, ta càng phải
có nghĩa vụ, trách nhiệm bảo vệ môi trường, bảo vệ sự đa dạng sinh
vật trong bối cảnh môi trường đang bị đe dọa nghiêm trọng hiện nay.
Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của mỗi con người sống trong
“ngôi nhà chung” này. Đồng thời bảo vệ môi trường cũng là thể hiện
sự trưởng thành nhân bản và thiêng liêng của mỗi Kitô hữu trong
việc góp phần cộng tác với Thiên Chúa trong công trình tạo dựng và
tôn vinh Ngài.
Dòng Hiến Sĩ Đức Mẹ Vô Nhiễm (Q.M.l)
Tên thánh – Họ và tên: Francis Xavier Vũ Minh Hiếu

248
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài.“Người thầy thuốc tốt nhất là bản thân thiên nhiên”
(Hippocrates). Từ câu nói của danh y Hy Lạp cổ đại, anh có suy
nghĩ gì về trách nhiệm bảo vệ môi trường sống hiện nay.
Bài làm
Với sự phát triển của khoa học công nghệ, chưa bao giờ con
người có thể bay xa, bay cao vào vũ trụ, khoan sâu vào lòng đất, lặn
xuống đáy đại dương như hiện nay. Con người đã vẽ được bản đồ
gen, nhân bản được tế bào gốc, tổ chức những chuyến tham quan,
khám phá bên ngoài vũ trụ và làm cho cả thế giới rộng lớn trở nên
nhỏ bé. Nhưng cũng chưa bao giờ nhân loại phải đối mặt với nhiều
tai họa khủng khiếp đến như vậy: động đất, sóng thần, hạn hán, bão
lụt. Những “căn bệnh thiên tai” của thiên nhiên mang đến cho con
người ngày càng thường xuyên hơn với những triệu chứng phức tạp
và đau đơn hơn. Để chữa lành hay chí ít là hạn chế đến mức có thể
hậu quả của những căn bệnh kể trên, con người cũng phải cần đến
thầy thuốc. Theo Hippcrates thì “người thầy thuốc tốt nhất là bản
thân thiên nhiên”. Câu nói này của vị danh y người Hy Lạp cổ đại
gợi lên cho ta nhiều suy tư, nhất là trong bối cảnh toàn thế giới đang
cố gắng hết sức cho nỗ lực bảo vệ môi trường hiện nay.
Sống vào khoảng thế kỷ thứ V-IV Trước Công Nguyên,
Hippocrates được biết đến là một danh y nổi tiếng. Tiếng tăm của
ông không chỉ lan tỏa bởi tài năng chữa bệnh xuất chúng mà còn từ
đạo đức của người thầy thuốc. Ông đã rất đề cao vai trò của thiên
nhiên và coi thiên nhiên là người thầy vĩ đại nhất, còn thầy thuốc chỉ
là kẻ nô bộc. Xét về lĩnh vực y học, vị danh y này cho rằng mọi bệnh
tật đều có căn nguyên tự nhiên của nó. Theo ông, bệnh tật là một
hiện tượng tự nhiên của cơ thể, vì vậy việc theo dõi bệnh cũng giống
như theo dõi một hiện tượng tự nhiên. Ông rất quan tâm đến sức đề
kháng tự nhiên của con người: Cách mà ông chữa bệnh là cách thức

249
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
tĩnh, khôi phục sức đề kháng hầu đem lại sức khỏe thông qua việc ăn
uống, nghỉ ngơi hợp lí. Bên cạnh đó, hippocrates tận dụng những
thảo luận sẵn có của tự nhiên để nghiên cứu và tạo nên các phương
thuốc hữu hiệu cho việc chữa bệnh. Từ những đóng góp và sự đặc
trưng của mình, nền y học Hippocrates. Còn được coi là nền y học tự
nhiên. Như vậy từ vài nét chấm phá kể trên cũng phần nào giúp ta
hiểu được vì sao ông lại coi “bản thân thiên nhiên” là “người thấy
thuốc tốt nhất”. Tuy nhiên, không chỉ gói gọn trong lĩnh vực y học,
câu nói của Hippocrates cần được hiểu theo một nghĩa rộng lớn, liên
quan đến vai trò của thiên nhiên đối với cuộc sống loài người.
Nếu như thầy thuốc có chức năng chữa lành và đem lại một sức
khỏe lành mạnh cho bệnh nhân thì thiên nhiên là nhân tố quyết định
đến sự sống còn của con người. Đối với thiên nhiên, con người có
được những gì là thiết yếu nhất cho cuộc sống thường ngày: không
khí để thở, nước để uống, lương thực, thực phẩm…Tất cả xem ra
bình thường nhưng nếu không có những thứ đó thì con người không
thể tồn tại được. Đi xa hơn, những gì liên quan đến sinh hoạt, đến lao
động sản xuất hay những nhu cầu về đới sống tinh thần của con
người đều tìm đến nguồn cung từ tự nhiên. Hơn nữa, loài người cũng
là một thành phần không thể tách rời khỏi môi trường tự nhiên. Mặt
khác tự nhiên không chỉ là những gì xung quanh ta mà còn là cả vũ
trụ bao la này. Một cách nào đó, thiên nhiên có thể được coi là thầy
dạy của con người. Từ những tương tác trong ứng xử với thiên nhiên
giúp con người ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn. Nhiều quy
luật hay kinh nghiệm được các nhà khoa học khám phá ra vốn dĩ là
các từ hữu trong thiên nhiên. Một cách khái quát, tự nhiên với những
gì vốn có của mình đều có thể đem lại lợi ích cho cuộc sống nếu như
loài người biết tôn trọng và sử dụng cách hợp lý.

250
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Tuy nhiên, một vấn đề được đặt ra là phải chăng lúc nào thiên
nhiên cũng đóng vai trò của một “đại lương y”, lúc nào cũng có
những tác động tốt đến cuộc sống nhân loại ? Câu trả lời chắc ai cũng
đã rõ. Có những lúc thay vì là thầy thuốc thì chính tự nhiên lại là
nguồn gốc làm phát sinh bệnh tật với các trận dịch, có tốc độ lây lan
nhanh đến chóng mặt và hậu quả là sự chết chóc, tang thương không
chừa một ai. Cũng có lúc, thay vì cung cấp mọi thứ cho con người thì
thiên nhiên với những cơn thịnh nộ của mình, đã lấy đi tất cả những
gì mà con người có, ngay cả cái tầm thường nhất của con người
nghèo khổ…
Tại sao lại như vậy? Bởi vì những lúc đó, người thầy thuốc ấy đã
bị tổn thương. Chính bản thân nó giờ cũng là một bệnh nhân cần
được chữa lành. Cái mà ta gọi là thiên tai ấy chính là những triệu
chứng biểu hiện đau đớn, quằn quại của căn bệnh mà thiên nhiên
đang mắc phải. Trong quá khứ, không ít lần chúng ta được biết đến
những đợt biến đổi khí hậu lớn làm thay đổi hoàn toàn diện mạo của
thế giới, trong đó có sự hủy diệt và có sự tái sinh. Đó là những lúc tự
nhiên tự điều trị cho chính mình thông qua qui luật đào thải và đấu
tranh sinh tồn. Đó là những lúc thiên nhiên với sức đề kháng mạnh
mẽ đã tự điều chỉnh tự cân bằng và phục hồi lại sức khỏe của chính
nó. Thế nhưng, tình hình hiện nay đã có nhiều đổi khác. Thiên nhiên
đang bị tổn thất nặng nề mà với sức đề kháng bị suy giảm, thiên
nhiên khó có thể tự chữa lành, thiên nhiên đang cần đến sự trợ giúp
từ bên ngoài, đó là sự trợ giúp của con người, thiên nhiên cần được
bảo vệ.
Có lẽ ở thời kỳ của Hippocrates sống, vấn đề về bảo vệ môi
trường không mang tính cấp thiết như hiện nay. Đi ngược dòng lịch
sử, ta sẽ thấy có một sự chuyển biến lớn, ngay cả trong nhận thức về
mối tương quan giữa con người với tự nhiên. Từ chỗ sống hoàn toàn

251
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
phụ thuộc vào thiên nhiên với đời sống hái lượm, săn bắt, từ chỗ thụ
động coi các hiện tượng tự nhiên là điều thần bí, con người dần
chuyên sang chủ động và thâu tóm. Cả thế giới vào trong tầm tay và
sự hiểu biết của mình. Từ chỗ thiên nhiên như là ông chủ tốt bụng
đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu của con người thì chính con người dần
biến thiên nhiên thành nô lệ đáp ứng mọi đòi hỏi của mình. Thế
nhưng, thật trớ trêu thay thì con người có cảm tưởng chế ngự được
tất cả thì cũng chính là lúc con người trở nên mong manh và bất lực
nhất. Một sự ví von theo cách nói của là: như con người tự cho là
mình thắng được thiên nhiên một lúc thì ngay lập tức, con người phải
nhận lấy tai họa. Vì lợi ích của mình, con người đã lấy đi của thiên
nhiên những gì vốn có. Đổi lại, con người trả lại cho môi trường bao
nhiêu rác thải, khí thải độc hại. Con người đã lấy đi màu xanh của
những cánh rừng bạt ngàn để thay vào đó là màu xám của bê tông
hay là màu đỏ của những...Chính sự phồn vinh hiện nay của nhân
loại đã góp phần làm tàn lụi, nhanh hơn vẻ đẹp tình.
Nếu như đại đa số nhân loại coi những bộ lạc người da đỏ ở Chây
Mỹ, những thổ dân ở Phi Châu hay những tộc người thiểu số ở Đông
Nam (trong đó có Việt Nam) là những con người lạc hậu…Nhưng xin
thưa rằng, họ chính là những bậc thầy đáng để cho chúng ta học hỏi về
cung cách đối xử với thiên nhiên. Cuộc sống của họ gắn kết một cách
thân thiện, hài hòa với rừng, với sông suối. Trong khi đó phần lớn còn
lại của thế giới ngoài việc lấy đi của thiên nhiên một cách không
thương tiếc mà những sản phẩm không cần thiết của cuộc sống con
người thải ra, đang gây mầm bệnh cho môi trường tự nhiên.
Hơn bao giờ hết việc bảo vệ môi trường, bảo vệ thiên nhiên lại
trở lên nóng bỏng như hiện nay. Vấn đề ô nhiễm môi trường, mất cân
bằng sinh thái, sự biến đổi của khí hậu. Không còn là chuyện của một
cá nhân, một tập thể, quốc gia hay khu vực mà trở thành những vấn

252
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
đề mang tính toàn cầu. Nhân loại có trách nhiệm chung đối với việc
bảo vệ môi trường tự nhiên. Nhiều tổ chức, đoàn thể như: Quỹ bảo
vệ môi trường, tổ chức bảo tồn thiên nhiên hoang dã…được thành
lập khắp nơi nhằm bảo vệ môi trường sống của chúng ta. Liên quan
đến vấn đề này, Giáo Hội cũng đã không ngần ngại nói lên quan
điểm của mình…
Đọc lại Kinh Thánh từ Cựu Ước, Tân ước đến các thông điệp của
nhiều Đức Giáo Hoàng, các văn kiện của các cộng đồng…Có thể
thấy vấn đề về môi trường đã được. Giáo Hội đặt ra từ rất sớm. Giáo
Hội không chỉ ban hành: nhiều văn bản nói về môi trường mà còn
trực tiếp đề cao những tấm gương thân thiện với môi trường. Chính
vì vậy, Giáo Hội, đã tôn phong thánh Francisco làm vị thánh bảo trợ
nuôi trường. Bên cạnh đó, trong cuốn “Tóm lược học thuyết xã hội
công giáo” đã giành trọn chương 10 để bàn về môi trường, điều đó
càng chứng tỏ thêm mối quan tâm của Giáo Hội đối với vấn đề này.
Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI đã nhấn mạnh: Trái đất này là
món quà quí giá của Đáng Tạo Hóa, và chúng ta phải cư xử như
những người quản lí công trình sáng tạo của Ngài. Chính vì nhận
thức như vậy, Giáo Hội coi những vấn đề liên quan đến môi trường
việc bảo vệ môi trường có liên hệ sâu xa với đề tài phát triển con
người toàn diện. Đồng thời, có một nhu cầu luân lý cấp bách phải
canh tân tinh thần liên đới, không chỉ đối với các vấn đề chính trị, xã
hội mà còn đối với môi trường.
Cảm nhận được việc đồng trách nhiệm đối với tạo vật, Giáo Hội
không chỉ dấn thân thúc đẩy việc bảo vệ đất, trời và biển mà trên hết,
Giáo Hội quyết tâm bảo vệ con người khỏi đi đến chỗ hủy diệt chính
mình. Chính vì khi “môi sinh của nhân loại” được tôn trọng thì “môi
sinh của môi trường” cũng được hưởng lợi. Người ta bắt đầu sử dụng
tạo vật một cách vô thức khi Thiên Chúa bị gạt ra ngoài lề.

253
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Giáo Hội đã nhắc đến vị trí của con người trong vũ trụ, được Thiên
Chúa thương ban và đặt làm chủ mọi loài vật. Tuy nhiên, con người
với sự tự do của mình đã dử dụng thiên nhiên đồng thời kêu gọi cộng
đồng nhân loại ý thức về trách nhiệm của mình vì những gì đã gây ra
cho môi trường, trong đó có vấn đề ứng dụng khoa học công nghệ hiện
đại. Trong tương lai, Giáo Hội sẽ tiếp tục thể hiện rõ hơn lập trường
của mình trong việc bảo vệ môi trường tự nhiên. Bởi vì theo quan
điểm của Giáo Hội, ở đâu thiên nhiên được tôn trọng thì ở đó Thiên
Chúa càng được tôn vinh. Ngành Thần học sinh thái của Giáo Hội mới
nảy sinh hứa hẹn sẽ góp phần lại Giáo Hội những tiếng nói hùng hồn
hơn trong công cuộc bảo vệ công trình tạo dựng của Chúa.
Như vậy ngày càng ý thức hơn về tầm quan trọng của thiên nhiên
đối với cuộc sống. Nhân loại cần biết trân trọng, biết cảm ơn thiên nhiên
vì những gì tốt đẹp mà thiên nhiên đã đem lại cho mình. Dẫu cho tương
lai của thế giới đang bị thách thức bởi những vấn đề lớn, trong đó có
thiên tai, nguy cơ về việc một phần trái đất bị nhấn chìm trong biển
nước, nguy cơ về thiếu các nguồn tài nguyên cho những nhu cầu ngày
càng cao của con người để tránh đi đến sự tự diệt vong do những hậu
quả mà mình đã gây ra đối với môi trường, nhân loại cầu chung tay để
cùng nhau trả lại cho thiên nhiên những gì vốn thuộc về nó. Đó cũng
chính là con đường phát triển bền vững đảm bảo một tương lai tươi
sáng cho hành tinh của chúng ta bởi vì tạo vật được Thiên Chúa sắp đặt
cách khôn ngoan và được Ngài trao phó cho con người coi sóc một cách
có trách nhiệm. Con người có thể chủ động diễu giải và biến đổi nó
nhưng không được coi mình như Chủ sở hữu tuyết đối. Nhân loại có thể
đảm nhận được nhiệm vụ trọng đại là trao cho những thế hệ hậu sinh
một trái đất mà đến lượt những thế hệ này cũng sẽ có thể sống một cách
xứng đáng và vun đắp thêm cho nó. Để làm được điều này, con người
phải hành động với nhận thức rằng: Chúng ta xuất phát từ Thiên Chúa
và sẽ trở lại cùng Ngài.
Họ và tên: Antôn Nguyễn Văn Thắng
Tên dòng: Đức Mẹ Lên Trời (AA)
254
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Có người nói rằng: Luật là hàng rào, là đường ray, là
phương tiện giúp ta trở thành người hoàn thiện mỗi ngày”Bạn
hiểu thế nào về câu nói trên?
Bài làm
Xã hội mà chúng ta đang sống ngày hôm nay đang ngày càng
phát triển, cuộc sống người dân đang được nâng cao. Nước ta được
các nước trong khu vực và trên thế giới đánh giá là khá ổn định về
kinh tế, chính trị và an ninh. Sở dĩ, để có được sự ổn định đó, bên
cạnh sự nổ lực của toàn dân, trên mọi lĩnh vực thì phải kế đến sự
đóng góp rất lớn của hệ thống luật pháp. Vì vậy, chúng ta không thể
phủ nhận được vai trò của luật đối với sự ổn định, phát triển của xã
hội cũng nhủ sự phát triển toàn diện của con người. Thử hỏi, một xã
hội, đất nước sẽ như thế nào nếu không có luật để chi phối bản năng
của bản thân. Nhận ra tầm quan trọng đó, có người đã nói rằng “Luật
là hàng rào, là đường ray, là phương tiện giúp ta trở thành người
hoàn thiện mỗi ngày.
Để hiểu rõ hơn về vai trò của luật đối với sự phát triển của xã hội
cũng như sự hoàn thiện của mỗi người chúng ta cần biết những khái
niệm về luật cũng như sự ra đời và chi phối của nó trong hoạt động
sống của con người. Tuy nhiên chúng ta sẽ không đi sâu làm rõ vai trò
của hệ thống luật pháp của nước ta hay của một nước nào đó ảnh
hưởng đến sự phát triển quốc gia, và trong bài viết này chúng ta sẽ tập
trung đi sâu vào làm rõ tác động của luật giúp ta hoàn thiện mỗi ngày
mà đặc biệt hơn là đối với các tu sĩ và những người sống đời tận hiến.
Hơn ai hết mỗi chúng ta khi mang trong mình trách nhiệm của một
công dân đối với xã hội, một tín hữu đối với Giáo Hội và một tu sĩ đối
với Hội Dòng thì ta phải có một sự am hiểu nhất định về luật.
Vậy luật là gì? và tại sao no lại có tác động, ảnh hưởng lớn
đến sự hoàn thiện phần “người” trong chúng ta như vậy ?

255
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Luật là những điều quy định riêng buộc mọi người phải tuân theo
trong một hoạt động, một môi trường nào đó.
Xã hội con người không ngừng phát triển từ thấp đến cao từ chế
độ này đến chế độ khác, mỗi chế độ, hình thái xã hội đều mang một
bản sắc, đặc điểm riêng và cũng mang một hệ thống luật phù hợp với
chế độ xã hội đó. Từ khi xuất hiện xã hội con người thì luật pháp
cũng ra đời để chi phối hoạt động con người trong xã hội đó. Hình
thái xã hội đầu tiên đó là công xã nguyên thủy, đây là xã sơ khai tồn
tại chủ yếu dựa vào săn bán và hái lượm. Qua cuộc sống hàng ngày
họ nhận ra rằng, để tồn tại họ phải đoàn kết với nhau để chống lại kẻ
thù và thú dữ. Từ yêu cầu cấp bách của vấn đề sống còn đó, họ buộc
phải đưa ra những quy định chung để có sự thống nhất giữa mọi
thành viên trong cộng đồng. Như vậy, ta có thể thấy đó là hình thức
giản đơn của luật pháp. Luật ra đời từ chính nhu cầu của con người,
nhu cầu sống tồn tại và ổn định phát triển. Bộ luật nguyên thủy lúc
này cũng rất đơn giản và mọi người ai cũng có thể hiểu được và làm
theo, nó không cồng kềnh, đồ sộ lắm điều nhiều khoản như bây giờ.
Thời đó người quy định những sản phẩm của săn bắn, săn bắt và hái
lượm đều được dùng chung, mà ngày nay chúng ta gọi là sở hữu tập
thể, sỡ hữu cộng đồng hay là không được tư hữu. Có kẻ thù cùng
nhau chiến đấu có thiên tai dịch họa cùng nhau vượt qua. Vì chưa có
tư hữu nên xã hội lúc này chưa có giai cấp và mọi người bình đẳng
như nhau. Nhưng dần dần con người ngày càng đi lên, cùng với lao
động, trí thông minh sáng tạo ngày càng phát triển. Công cụ lao đồng
dần được thay thế làm cho năng suất được nâng cao và sản phẩm
ngày càng nhiều. Con người dần thoát khỏi sự hoang sơ và mê muội
của mình. Trí thông minh đã làm cho họ khỏi lệ thuộc vào thiên
nhiên nhưng kéo theo đó là tính ích kỉ và tư hữu, tham lam bắt đầu
xuất hiện và phát triển một cách nhanh chóng đến không ngờ. Một số

256
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
người trong cộng đồng bắt đầu chiếm hữu của cải riêng cho mình và
ngày càng dàu mạnh lên. Họ tách ra khỏi cộng động và trở thành
những ông chủ với tài sản và đất đai rộng lớn. Những người nghèo
khổ phải đi làm thuê chịu sự bóc lột của người dàu. Tầng lớp thống
trị và bị trị ra đời và xã hội chiếm hữu nô lệ đã xuất hiện. Một chế độ
xã hội mà được nhiều sử gia đánh giá là thời kỳ dã man của con
người. Tại sao lại dã man ? bởi vì con người thời đó được xem như là
những công cụ lao động biết nói, đó là tên gọi cho những người no lệ
bây giờ. Tầng lớp chủ nô là những kẻ thống trị đã đặt ra hệ thống luật
pháp nhằm để bảo vệ quyền lợi cho mình: Như con cái nô lệ không
được đi học, không được hưởng một sự giáo dục nào. Mạng sống nô
lệ nằm trong tay ông chủ, mua hay bán cho ai tùy ý ông chủ. Nô lệ
phải phục tùng ông chủ một cách vô điều kiện…và vô vàn những
luật lệ hà khắc và bất công khác. Nhân phẩm và giá trị con người thời
đó bị chà đạp và xem thường một cách thậm tệ. Thân xác bị đày đọa
dưới những trận đòn và cực hình tàn ác; Nô lê bị đưa ra mua bán như
một món hàng và có hẳn một chợ buôn bán nô lệ tha hồ cho chủ nô
lựa chọn, trao đổi. Những nô lệ thời đó đã đi đến tận cùng của sự đau
khổ. Họ bị xem là công cụ lao động đồng hóa với những súc vật,
khắp nơi tràn ngập tiếng ca thán đau thương vang thấu tận trời xanh.
Như vậy, luật thời đó không giúp con người hoàn thiện nhưng là một
công cụ sắc bén giết người nằm trong những bàn tay khát máu.
Bị thống trị và bóc lột đến tận xương tủy, họ đã đứng giậy đấu
tranh đòi quyền sống cho mình. Tiêu biểu cho cuộc nổi dậy đó là
khởi nghĩa của Xa – pac – ta – cut, nhưng rồi cũng bị dập tắt và dìm
trong bể máu. Ngày nay các đạo diễn với sự tài tình và sự hỗ trọ của
phương tiện kỹ thuật đã tái hiện lại thời kỳ dã man này cho hậu thế
một cách sinh động. Một trong những tác phẩm nổi tiếng đó là
“Chuyện tình người nô lệ” đã nói lên khát vọng sống, khát vọng tình

257
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
yêu và hạnh phúc của con người trong chốn cùng cực nhất của cuộc
sống thời đó.
Qua mỗi chế độ xã hội, luật pháp lại được ra đời, hình thức có vẻ
thay đổi nhưng bản chất thì khó mà đổi thay. Tầng lớp thống trị luôn
sử dụng luật nhằm để bảo vệ và duy trì sự thống trị của mình. Đối
với nhà cầm quyền thì luật là công cụ sắc bén, vũ khí hữu hiệu để
đàn áp và củng cố quyền lực. Đây là một thức tế không thể phủ nhận
được, chế độ xã hội nào cũng có. Xã hội phong kiến thì luật pháp
nằm trong tay Vua, quan lại và địa chủ. Xã hội tồn tại với hình thức
chuyên chế, Vua được xem là Thiên tử thay trời trị dân mà muốn trị
được thì phải có luật. Như vậy, luật đã góp phần đắc lực vào sự ổn
định của xã hội. Sang xã hội tư bản thì luật lại bảo vệ cho tầng lớp tư
sản những tài phiệt và ông chủ giàu có. Người công nhân vẫn là
những người chịu bất công và thiệt thòi.
Trên đây chúng ta vừa phác họa một cái nhìn chung cho sự ra đời
của luật, tác động của nó đến với sự ổn định của xã hội. Luật giúp
cho xã hội ổn định và nó chỉ bất công khi con người lợi dụng để bóc
lột để thỏa mãn cái tôi ích kỷ và tham lam của mình. Còn luật đối với
chúng ta thì sao?.
Về vấn đề này chúng ta cần có một cách nhìn thoáng và cởi mở
về tác động của luật đối với sự hoàn thiện nhân cách mỗi ngày, nếu
không ta sẽ dễ xem luật là sự áp đặt hà khắc chứ không phải là
phương tiện giúp ta thành người.
Trong xã hội, luật đã ghi rõ về trách nhiệm và nghĩa vụ công dân
của mỗi người. Nếu chúng ta giữ đúng luật thì ta sẽ trở thành công
dân có ích cho xã hội. Lợi ích của luật đó là giúp ta đi đúng hướng
phù hợp với những chuẩn mực của xã hội. Luật cấm không được giết
người, không được trộm cắp… Ở mỗi lĩnh vực đều có luật, về lao
động thì có luật lao động, về môi trường thì có luật môi trường, nói

258
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
đến kinh tế thì có luật kinh tế, rồi đến luật hình sự…Mọi hoạt động
của con người đều có luật chi phối tự do của họ nếu không có luật
chi phối thì người ta sẽ lợi dụng tự do của bản năng ham muốn để
thỏa mãn nhu cầu bất chính của mình.
Như vậy luật được xem như hàng rào để bảo vệ con người khỏi
những tác động xấu. Hàng rào đó sẽ ngăn lại không cho hành động
của con người vượt qua ranh giới đã cấm.
Nếu chúng vượt qua ranh giới, hàng rào cấm đó thì chúng ta đã
phạm luật hay lỗi luật. Khi phạm luật thì chúng ta phải trả giá cho
hành vi của mình tùy theo mức độ vi phạm mà có những xử phạt hợp
lí. Là hàng rào không chỉ bảo vệ chúng ta mà còn ngăn cản những
thứ ham muốn của chúng ta. Mỗi người đều có mỗi hàng rào như thế,
chúng ta không tôn trọng hàng rào của mình, của người khác thì
chúng ta đã tự gây đảo lộn cuộc sống của mình và của những người
xung quanh. Khi đó, sự ổn định trong cuộc sống sẽ không còn. Ai
cũng vượt rào, “đạp đổ hàng rào” để xâm phạm nhau thì cuộc sống
xã hội sẽ mất ổn định. Bình yên trong tâm hồn không có mà bình yên
trong xã hội cũng dần bị triệt tiêu.
Như thế ổn định của xã hội tùy thuộc vào mỗi công dân có ý thức
chấp hành luật pháp hay không. Nếu mỗi người có ý thức chấp hành
luật tốt thì xã hội sẽ ổn định, còn không thì nhà tù sẽ mọc nhiều hơn
trường học.
Luật không chỉ là hàng rào, mà nó còn được xem như là đường
ray cho hành động của chúng ta được xem như là những con tàu đang
chạy trên hành trình cuộc đời. Con tàu đó có cập bến được một cách
an toàn hay không, không chỉ là phụ thuộc vào người lái tàu nhưng
còn phụ thuộc rất lớn vào đường ray. Chính đường ray sẽ dẫn con tàu
đi đâu và đi như thế nào, đường ray đó được xem là luật đối với mọi
người. Luật nó giống như đường ray vậy, nó chấn chỉnh cố định cho

259
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
những hành vi, nó là con đường nếu chúng ta đi đúng đường thì sẽ
được an toàn và bình an hơn. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể
phủ nhận những tình huống bất ngờ, những rủi ro hay, tai học mà
người khác gây ra cho mình. Cuộc đời nó là hành trình và một chuỗi
đầy những tình huống bất ngờ mà chúng ta phải chấp nhận mặc dù
mình cảm thấy không hợp lí, không đáng với mình chút nào.
Đối với mỗi người công giáo và đặc biệt là tu sĩ thì luật của
Thiên Chúa và Giáo hội đóng một vai trò quan trọng trong việc hoàn
thiện bản thân mỗi ngày. Luật của Chúa cũng như Giáo hội đó là
đường ray vững chắc nhất cho chúng ta về với bến bờ yêu thương là
Thiên Chúa. Nhưng có một thiên tai đáng buồn là nhiều người không
cập bến yêu thương đó trái lại còn bị tai nạn ngay từ lúc khởi đầu, rồi
có người lại đi về hướng khác bất trắc và rủi ro hơn. Tại sao vậy?.
Thưa rằng luật Chúa là luật yêu thương, là đường ray dẫn chúng
ta về quê trời. Đi trên đường ray đó nghĩa là chúng ta phải thi hành
luật Chúa ngay trong đời sống mỗi ngày. Luật đó sẽ chi phối hành
động bản năng của chúng ta, kiềm chế những ham muốn và “ép” cái
tôi tự do thỏa mãn đi vào đường ray ngay chính. Ví dụ như giới luật
thứ tư trong mười giới luật Chúa dạy rằng: Phải thảo kính cha mẹ.
Giới luật này dạy mỗi người con phải làm tròn bổn phận trách
nhiệm đối với cha mẹ, là những bậc sinh thành ra mình. Không chỉ
phù hợp với mỗi Kitô hữu giới luật này còn phù hợp với tất cả mọi
người và với đạo lý truyền thống dân tộc vấn đề cao đạo hiếu thờ cha
kính mẹ. Thế nhưng trong xã hội đầy biến động như ngày nay khi
các giá trị đạo đức chuẩn mực bị xem nhẹ thì việc giữ đạo hiếu như
một chuyện xa vời. Nhiều bậc cha làm mẹ đã rất đau long khi thấy sự
bất hiếu sơ lượt của con cái. Chúng ta đừng vội lên cân “người đời”,
nhưng ngay những người công giáo cũng có những người bất hiếu
không kém. Những câu chuyện về hất hủi mẹ già, cha yếu, bỏ rơi,

260
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
khinh thường có khi là đánh đập…là bình thường và xảy ra như cơm
bữa vậy. Ngày xưa “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” còn ngày nay
“con đặt đâu cha mẹ phải ngồi đấy” Đâu đó vẫn vang lên câu thơ dài
não nề cho thực trạng đáng buồn này:
Cha mẹ sinh con bằng trời bằng bể
Con thương cha mẹ kể tháng kể ngày.
Luật đó là đường ray là phương tiện nhưng nhiều người vẫn
không đi theo mà đi theo một đường khác dễ dãi phù hợp với bản
năng. Chính lối đi này sẽ dẫn tới sự đổ vỡ cho tâm hồn cho lương tri
và mầm họa cho Giáo hội và xã hội. Những giới luật của Thiên Chúa
đã dạy rất rõ và chỉ cho ta cách sống để trở thành người hoàn thiện.
Nếu chúng ta giữ luật và khuyên dạy người khác giữ luật, thì chúng
ta đàng cùng nhau nắm tay đi về Thiên Đàng, còn chúng ta đi ngược
lại thì đang tiến dần tới sự diết đời đời.
Luật không chỉ là hàng rào, là đường ray nhưng còn là phương
tiện để giúp ta đạt mục đích sống cao cả của mình. Đối với xã hội thì
luật là phương tiện để giúp xã hội đạt tới sự ổn định về mọi mặt,
bằng và các chế tài có khi là cưỡng bức buộc các công dân phải thực
hiện. Còn đối với mỗi người thì luật cũng là phương tiện để giúp ta
đạp bỏ cái tôi xấu xa không phù hợp với bản thân.
Vì luật là phương tiện để dẹp bỏ cái không phù hợp. Điều này nó
được thể hiện rất rõ ràng đối với mỗi tu sĩ. Ngoài giữ luật Chúa luật
Giáo Hội, luật xã hội thì tu sĩ còn phải giữ luật của Hội Dòng. Xem ra
có vẻ nặng nề nhưng nếu chúng ta có cái nhìn thoáng và cởi mở thì
luật xã hội, Giáo Hội cũng không đến nỗi nặng nề vì nó phù hợp với
tính thiện lương trong mỗi người và với chuẩn mực đạo đức của dân
tộc. Chính luật dòng mới thực sự đi sát và tận căn đối với tính cách
con người. Nếu người ngoài không hiểu những luật đó thì cho là
ngược đời hay vô lí. Chẳng hạn luật thinh lặng…con người ta cần giao

261
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
tiếp với nhau sao lại bắt người thinh lặng;…Biết bao nhiêu luật mà tu
sĩ phải giữ, luật tuân phục, luật khiết tịnh…chỉ có bản thân những
người trong cuộc mới biết rõ tường tận, lợi ích tại sao lại phải giữ.
Tu sĩ khi đã hiểu giá trị tại sao lại giữ và phải giữ thì việc giữ luật
không còn nặng nề nhưng chấp nhận với một tinh thần sẵn sàng và
vui nhộn. Tu sĩ tự ý thức và tự giác giữ luật với mục đích và ý hướng
là nhằm gọt dũa bản thân để trở thành người hoàn thực mỗi ngày.
Chính những luật này tác động rất lớn đến tính cách và bản năng
từng người. Luật chỉnh bản năng và thói quen của chúng ta hàng
ngày như luật tuân phục buộc tôi phải vâng lời, luật khiết tịnh buộc
tôi phải giữ mình không được chiều theo bản năng dục vọng…Thế
nhưng chúng ta đừng lầm tưởng là ai cũng tốt cả. Luật chỉ phát huy
tác dụng khi mỗi tu sĩ biết tôn trọng giữ luật. Vì vậy mới có câu:
“con giữ luật, luật giữ con”. Cũng có những điều luật ấy nhưng có
người thì giữ được có người thì không! Tại sao vậy ? Để trả lời cho
câu hỏi này thì có rất nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân sâu xa
và bao quát là phụ thuộc vào ý thức của từng người. Người mà không
muốn sửa mình không có ý thức tu thế làm sao giữ được luật. Đối
với họ tu việc là nơi bình yên để học tránh đời chứ không phải thực
sự đi theo Chúa. Tu việc là môi trường rất thuận tiện để bản thân
chúng ta sửa mình hoàn thiện nhân cách nhưng thành công hay
không có do mình quyết định. Nhiều người lại thấy luật quá nhiều tôi
không chịu được nghiêm ngặt quá, từ đó họ sẽ sang một lựa chọn
khác dễ dàng hơn. Vì vậy mà cảnh ứng sinh vào tự nhiên nhưng xuất
dòng cũng không ít đã quá quen thuộc. Chỉ có những người vào thiện
du và thực sự đi theo Chúa, quyết thay đổi bản thân mới đứng vững
trong ơn gọi được. “Chúa cũng đã nói: Ai bền đỗ tới cùng người đó
sẽ thắng”.

262
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Việc giữ luật đâu phải chuyện dễ, ngày một ngày hai mà đó là cả
quá trình, cả đời người. Giữ được luật tốt thì cần phải sự nổ lực quyết
tâm rất nhiều. Mà chúng ta cũng cần phải thay đổi cách nhìn nhận về
luật, đó là sống luật, chứ không phải giữ luật. Giữ luật nó mang một
ấn tượng hay định kiến về áp chế hơn là sống luật. Sống luật với ý
hướng thuộc về tự do chọn lựa, tự do trong thi hành hơn. Trong
chúng ta không ai dám khẳng định là tôi không phạm luật, lỡ luật,
điều đó cho chúng ta thấy được sự yếu đuối và hữu hạn của con
người. Việc thay đổi một thói quen xấu, áp chế bản năng đâu phải là
chuyện dễ dàng. Cuộc chiến với bản năng với thói quen nó diễn ra rất
cam go, nó cứ âm ỉ ngày nay qua ngày khác buộc chúng ta phải dứt
khoát kiên quyết, nếu không ta sẽ thất bại. Có những lúc thì ta đầy
hăng hái phấn khởi sống luật và giữ được một thời gian, vì lúc đó ta
đầy tràn khí thế quyết tâm và điều kiện thuận lợi. Nhưng khi gặp thử
thách hay khi ở một mình thì khó mà giữ được. Ví dụ như thói quen
hút thuốc chẳng hạn, luật dòng đã cấm tu sĩ không được hút thuốc.
Thực sự thì luật này nó cũng đưa lại cho tu sĩ lợi ích về sức khỏe, vì
ai cũng thừa biết rằng thuốc lá chẳng ích lợ gì khi trong mỗi điếu
thuốc nó chưa hơn 4000 chất độc hại cho cơ thể. Biết là thế và bắt
đầu bỏ thuốc nhưng khi không có ai thì lại lỡ luật với ý nghĩ “có ai
thấy đâu, một điếu thôi mà”. Những tác động của ngoại cảnh cũng
như sự thay đổi thất thường của bản thân làm cho chúng ta buồn vô
cớ. Những hình ảnh của một thời oanh liệt nay còn đâu “của vang
bóng một thời” mà nay ta phải bó gối, thế là buồn và giải sầu bằng
thuốc, khi không tìm được một anh em để tâm sự sẻ chia. Có những
chuyện buồn nó đến, tự dưng thấy không vui mà không hiểu vì lý do
gì, anh em đến, thay vì trả thì ngâm nga câu thơ.
Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn

263
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Thay vì lấy công việc bổn phận làm niềm vui thì tìm đến điếu
thuốc như người bạn bạn tri kỉ để giải tỏa. Theo sự nhận định của các
nhà tâm lý thì những người buồn mà hút thuốc thì rất khó bỏ hơn là
những người nghiện thuốc theo thói quen…Nói đến việc hút thuốc
thì có rất nhiều nguyên nhân nhưng đây là nguyên nhân điển hình.
Tuy nhiên việc gì cũng có phương pháp, nếu chúng đã thực hiện
theo phương pháp với ý chí nỗ lực quyết tâm giữ luật để loại bỏ tính
xấu thì sẽ thành công và thực tế đã có một số người làm được điều
này, những nhà giáo dục hay bề trên cần ghi nhận sự nỗ lực của họ,
bằng sự động viên hay khích lệ người đó thì sẽ làm cho họ thấy được
sự quan tâm và tạo động lực cho họ giữ luật càng tốt hơn.
Việc giữ luật không phải là chuyện dễ nhưng đó không phải là lý
do để cho chúng ta ngụy biện hay chống chế mỗi khi vi phạm. Mà
qua đây chúng ta nhận thức rằng đừng nản chí khi gặp thất bại nhưng
hãy biết đứng lên sau những lần thất bại đó. Ngạn ngữ Ấn Độ có câu:
“Bạn đừng nên nhìn ra nguyên nhân vì sao mình lỗi luật thì chúng ta
sẽ dễ khắc phục hơn. Thực tế trong cuộc sống tu trì, không ít người
đã tỏ ra “lách luật” nhằm để thỏa mãn một nhu cầu nào đó. Điều này
chứng tỏ bản thân người đó chưa trưởng thành vì giữ luật sẽ tốt cho
bản thân mình và hơn nữa trước mặt Thiên Chúa mình phải trả giá
cho việc làm đó. Chúng ta nên ý thức rằng giữ luật Thiên Chúa, hay
luật dòng là vì yêu mến Thiên Chúa và yêu mến anh em, đó là mục
đích tối thượng cho việc đi theo Chúa. Cũng có một số người giữ luật
với mục đích không tốt đẹp như để đối phó, gây chú ý và để che mắt
bề trên…Chính Chúa Giêsu cũng đã lên án mạnh mẽ các Kinh Sư,
Pha-ri-siêu chỉ biết giữ luật Môsê một cách giả hình trong khi đó họ
lại không có tình thương đối với những người xung quanh. Họ chất
lên vai người ta những gánh nặng trong khi đó họ lại không chạm
ngón tay đến. Họ chú ý giữ các tập tục của tiền nhân mà loại bỏ giới

264
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
luật yêu thương của Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đến để dạy họ
biết giữ luật yêu thương và công bình nhưng họ lại lầm tưởng Ngài
đến để xóa bỏ luật MôSê và các ngôn sứ. Luật do Thái thời đó có
hơn sáu trăm điều thực sự là một gánh nặng cho dân chúng.
Thực sự nếu chúng ta giữ luật tốt mỗi ngày thì ta sẽ ngày càng
hoàn thiện. Khi phạm luật không chỉ dùng ta đã lỗi luật không tuân
phục mà điều đó còn bị lương tâm lên án. Vì nhờ lương tâm lề luật
được thực hiện trong sự yêu mến Thiên Chúa và anh em và được
biểu lộ cách kỳ diệu, bởi chúng ta biết rằng yêu thương thì chu toàn
lề luật và luật yêu thương bao hàm mọi lề luật và chi phối mọi lĩnh
vực của cuộc sống.
Họ và tên: Phêrô Phạm Văn Hoàn

265
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài:Hãy bình luận nhận định sau: “Cái đáng sợ nhất ở
trên đời chính là Công lý bị tách rời khỏi lòng nhân ái”
Bài làm:
Trong cuộc sống, mọi thứ lắm lúc thật mong manh, được - mất
sướng – khổ đôi khi chỉ là gang tức. Và trong cái xã hội đầy nghiệt
ngã này, người ta thấy chữ tình mới quan trọng làm sao. Áo tình ta
biết sống vì nhau, tình đã cạn mọi thứ sẽ sụp đổ. Chính vì thế mà
trong một lần tham dự lễ khánh thành viện bảo tàng mang tên “lòng
bao dung” Trong, Tổng thư ký liên hiệp quốc cofianal đã nói rằng:
“Nhân loại ngày nay sống thiếu bao dung, bởi vì con người trong nền
văn minh huy hoàng cực thịnh sắp tới, lại sống với nhau đầy thù hận
và khô héo tình người”. Mỗi khi người ta sẵn sàng sống với nhau
bằng “dao búa” bằng “luật rừng” để hơn thua như một mảnh thú, thì
chính lúc đó ta lại nhận ra cái tình người cần thiết biết bao. Luật pháp
để mà làm gì nếu không phải để phục vụ lợi ích chung cho con
người. Hiểu rõ cái tình trong mỗi công việc nên có kẻ đã nói rằng:
“Cái đáng sợ nhất ở trên đời chính là Công lý bị tách rời khỏi lòng
nhân ái”.
Ý kiến trên thật đáng để cho chúng ta suy gẫm. Chỉ nhắc đến hai
chữ “Công lý” người ta thường nghĩ đến sự công bằng, văn minh
trong từng công việc. Thế nhưng ý kiến trên lại không nghĩ vậy. Cái
đáng sợ nhất nghĩa là có hàng muôn vàn cái đáng sợ, nhưng cái đáng
sợ nhất theo họ vẫn là công lý bị tách khỏi lòng nhân ái. Tại sao
vậy ? Chúng ta hãy cùng nhau nghe các nhà tư tưởng lớn nói về công
lý ra sao. Nhà ngôn ngữ học Đào Duy Anh, cho rằng: “Công lý là cái
lẽ phù hợp với đạo lý và lợi ích chung của xã hội”. Còn Giáo Sư
Jolin Rewwads trường đại học Harward Mỹ nói: “Công lý là đức
hạnh thứ nhất cho các định chế xã hội, cũng như chân lý là của các
hệ thống tư tưởng. Cơ sở của công lý phải được đặt trên quyền của

266
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
con người. Mỗi người đều có quyền bất khả xâm phạm trên nền tảng
công lý và không thể bị phủ quyết cho dù vì quyền lợi của xã hội.
Trong những đức hạnh hàng đầu của sinh hoạt con người, chân lý và
công lý là hai điều không thể bị nhân nhượng”. Như thế, công lý là
phải được đảm bảo sự công bằng và hợp với đạo lý. Công lý phải
được xây dựng trên nền tảng đạo đức đó là lòng nhân ái.
Vậy tại sao công lý lại tách ra khỏi lòng nhân ái ?. Bản chất của
công lý là tốt phù hợp với sự phát triển chung của nhân loại. Nhưng
cái đáng nói ở đây là con người đã làm cho công lý “méo mó” đi để
phục vụ cho lợi ích đen tối của họ. Công lý uốn nắn con người hay
con người uốn nắn công lý? đó là một trong những lý do công lý bị
tách rời khỏi lòng nhân ái. Lúc đó điều đáng sợ không phải là luật mà
là người thi hành công lý. Khi người ta có mọi quyền lực, nắm trong
tay cán cân công lý thì người ta có thể đổi trắng thay đen, từ không
sang có rất dễ dàng. Chính lúc này là lúc công lý đã bị tách khỏi lòng
nhân ái. Điều gì sẽ xảy ra đau khổ, oan uổng và có khi mất mạng là
chuyện có thể xảy ra.
Đành rằng, con người không thể thoát khỏi được những giới hạn
bất toàn của mình đó là “tham - sân - si”. Nhưng đôi khi họ lại lợi
dụng cái bất toàn đó để làm càn, gây đau khổ cho kẻ khác là chuyện
không thể chấp nhận. Người ta đã nói với nhau rằng: “Một trong
những tội ác lớn của con người là đem đến đau khổ cho người khác”.
Và biết đâu cái đau khổ đó được gây nên bởi công lý không có lòng
nhân ái ?.
Tình người quan trọng vô cùng. Trái đất này chẳng có nghĩa lý gì
khi không có sự xuất hiện của con người. Khi người ta đối xử với
nhau bằng yêu thương, bằng lòng nhân thì chắc chắn mọi thứ sẽ đáng
trân trọng biết bao.

267
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đến đây, ta nhớ lại câu chuyện trong lịch sử Việt Nam, đã cho
thấy một nhân vật mà có lẽ mỗi khi nhắc đến ai cũng biết và không
khỏi ngưỡng mộ lòng nhân của ông: Nhà Vua Trần Nhân Tông. Khi
Trần Nhân Tông đánh đuổi quân Nguyên Mông ra khỏi bờ cõi, trở về
thành thấy cả một thùng thư xin đầu hàng giặc để làm quan, Trần
Nhân Tông cho đốt hết. Ông nghĩ rằng đất nước điêu linh, có những
kẻ lận lầm, có không ít kẻ hèn nhát, cũng chẳng thiếu kẻ gian tham.
Nhưng nếu đem ra xét xử rồi phải chém đầu hàng loạt thì không thể
và không nên. Là nhà Vua trên tột đỉnh vinh quang, nắm trong tay
mọi quyền lực ông có thể chém đầu bất cứ ai vi phạm luật pháp,
nhưng Trần Nhân Tông không làm thế, bởi trong ông luôn có tâm
của Phật. Vì thế, khi con là Trần Anh Tông lên làm Vua, bố chức quá
nhiều, ông đau đớn mà thốt lên rằng: “Đất nước bé bằng bàn tay,
quan nhiều như thế, dân làm sao sống nổi”. Hiểu được nỗi thống khổ
của người dân và tin chắc rằng một chính quyền tốt nhất phải là
chính quyền cai trị ít nhất – ít quan nhất có thể.
Khi công lý đã không còn hình người thì quả thật không có cái
đúng sợ nào cho bằng. Người ta sẽ xử lý nhau bằng “luật rừng”,
mạnh ai nấy thắng và kẻ chịu thiệt thòi nhất vẫn là những con người
thấp cổ bé họng. Đôi khi phải còng lưng ra để giành lấy cái bất công
giáng xuống trên đầu mình.
Điều chúng ta muốn nói ở đây là cái “Tình người” trong việc
thực thi công lý. Bởi đã có quá nhiều việc đổi trắng thay đen, từ
chính những con người thực thi công lý. Mỗi khi tình người đã bị
tách ra khỏi công lý thì công lý nhiều khi sẽ trở thành bất công.
Chúng ta cần phải có những con người như “Bao Công” xử án xưa,
để đảm bảo cái có lý và có tình trong việc thực thi pháp luật. Trong
xã hội dĩ nhiên và cần phải có công lý, có luật pháp để giữ vững an
ninh xã hội và quyền con người. Nhưng nếu công lý chỉ là công lý

268
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
mà thôi thì chưa hẳn đã đem lại sự công bằng trong xã hội. Bởi công
lý quá cứng nhắc liệu có được mấy ai hoan nghênh: Cũng vậy, chúng
ta không thể xử lý những áp bức bất công bằng tình nhân ái, nếu thế
thì có thể bị loạn bởi những con người, luôn biết lợi dụng lòng tốt
của kẻ khác để mưu lợi cho cá nhân. Ta không muốn công lý làm hại
đến kẻ ngay và cũng không mong một xã hội không có nền công lý.
Nhưng phải là một nền công lý đảm bảo công bằng và phù hợp với
đạo lý loài người, đó là công bằng và bác ái. Công lý đó phải được
trao vào tay những người biết làm vì lợi của con người chứ không
phải vì lợi ích cá nhân.
Ý kiến trên quá thật xác đáng. Chúng ta cần phải suy nghĩ làm
thế nào để công lý không bị tách rời khỏi lòng nhân ái. Câu trả lời
đều phụ thuộc vào chính bản thân mỗi chúng ta. Điều mà chúng ta có
thể học được ở người xưa những bài học về lòng nhân ái trong từng
công việc để rồi chúng ta biết xây dựng một công lý về con người. Sẽ
không còn điều đáng sợ nhất khi công lý được gắn kết với tình
người. Từ đó mà chúng ta nhận ra rằng ý kiến trên là hoàn toàn đúng.
Đã là chân lý ắt hẳn phải hội đủ hai yếu tố cần thiết, đó là cái lý và
cái tình. Cái lý để phân định đúng sai, cái tình để mà thông cảm mà
chia sẽ mà tha thứ cho nhau. Có lý có tình thì công việc sẽ trở nên
nhẹ nhàng hơn, hiệu quả công việc tốt hơn và dễ dàng cảm hóa được
những kẻ vi phạm luật pháp…
Tuy nhiên, để thực thi cái lý cái tình đó không phải dễ và
không phải ai cũng làm được. Nhiều lúc họ biết làm là đem đến
nỗi đau cho người khác, nhưng vẫn làm bởi vì cái “danh – lợi –
dục” luôn là miếng mồi hấp dẫn cho con người, miễn sao đem lại
cho bản thân thật nhiều tiền của thì sao lại không. Dẫu sao thì kẻ
chiến thắng bao giờ cũng là kẻ có lòng nhân ái, ít nữa là họ luôn ở
trong trái tim con người.

269
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
“Dĩ đức báo oán” đó là lời dạy của Phật dành cho các chúng sinh
tử. Phải biết lấy lòng nhân từ độ lượng để báo oán, hầu mới hy vọng
cảm hóa được kẻ thù. Ngày xưa Nguyễn Trãi sống trong chế độ áp
bức bất công, nhưng ông vẫn nhận ra rằng:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân mà thay cường bạo.
Tình người quý giá làm sao! Chúng ta sợ không phải vì công lý
mà sợ vì công lý không có tình người.
Cuộc đời con người ngắn ngủi lắm thay, nhiều lúc chúng ta cứ
loay hoay đi tìm nơi người anh em đồng loại sự bất toàn mà quên đi
rằng cái đúng trân trọng nhất chúng ta phải tìm và cho nhau đó là
tình người. Có lẽ Trần Nhân Tông đã thấy được tình người cần thiết
biết bao khi ông viết những vần thơ đầy xúc động:
Số đời một màn kéo,
Tình người đôi mắt ngân.
Tôn nữ Hỷ Khương đã viết:
Lợi danh như bóng mây chìm nổi,
Chỉ có tình người ở lại trong ta.
Nhân – Nghĩa – Lễ- Trí – Tín là bài học đầu tiên mà cha ông xưa
dạy cho con cháu, nếu muốn trở nên người có ích trong xã hội. Chữ
“Nhân” người ta đặt lên đứng hàng đầu, để nói rằng trong bất cứ mỗi
công việc phải biết lấy chữ “Nhân” để hành động.
Ngày xưa, Huệ Vương hỏi Mạnh Tử có cách gì để làm lợi cho
nước ông không? Mạnh Tử gạt phăng nói: “Vua cần gì phải nói tới
cái lợi? chỉ nên nói đến nhân nghĩa mà thôi”. Một lần khác Tương
Vương hỏi Mạnh Tử: “làm sao thống nhất được thiên hạ” Mạnh Tử
trả lời: “Ai không giết người thì thống nhất được thiên hạ”.Chúng ta
đừng là nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp làm cho công lý bị tách
rời khỏi lòng nhân ái. Nếu làm thế, vô tình chúng ta đã đem đau khổ
đến cho kẻ khác.
Họ và tên: Võ Quốc Chính

270
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Giải thích câu nói: Hạt giống chỉ trở thành hoa
khi nó nhận được ánh mặt trời và nước”.
Bài làm
Thời gian gần đây, người ta thường nhắc đến sự phát triển và
hoàn thiện nhân cách con người vì những biến động suy thoái đạo
đức. Bên cạnh việc tự thân vận động để vươn lên hoàn thiện mình
của các chủ thể thì cùng với những tác nhân kích thích và hỗ trợ từ
bên ngoài, cả hai tạo thành những làn sóng liên tiếp vỗ vào bờ nhân
cách mỗi người. Những hình ảnh đó khiến tôi nhớ đến câu nói nổi
tiếng của nhà sử học người Mĩ Lauis Gottschalk: “Hạt giống chỉ trở
thành hoa khi nó nhận được ánh mặt trời và nước”. Chắc chắn đây
không chỉ là một câu nói riêng, hẳn ông Gottschalk đã phải trải
nghiệm được nó nhờ hình ảnh rất đỗi bình thường về một hiện tượng
tự nhiên để suy tư về những mối tương quan trong cuộc sống được
bắt đầu bằng một “hạt giống” con người.
Sự phát triển của từng cá thể trong cuộc sống làm nên những thay
đổi và phát triển mạnh mẽ của đời sống con người, đó là một quy luật
tất yếu. Hạt giống, bông hoa ánh sáng mặt trời, nước…là những cá
thể trong quá trình đó nên không thể không tuân theo quy luật này,
tuy nhiên có những cá thể là những chủ thể cho sự tự thân vận động
vươn lên trở thành những cá thể hoàn thiện hơn, cũng có những cá
thể chính là những tác nhân quan trọng cho sự phát triển và hoàn
thiện đó. Chúng ta cần có những khái niệm cơ bản về những cá thể
trong chuỗi phát triển của tự nhiên. Đầu tiên ta sẽ nói đến những cá
thể là nhận vật chính trong quá trình này, đó là hạt giống và bông
hoa. Hạt giống luôn mang trong mình mầm mống để phát triển, đó
chính là điều kiện cần của bất cứ quá trình vận động nào, phát triển
những cá thể mới để duy trì những bản sắc cũng như làm nhân tố
chính cho sự phát triển. Nói cách khác người ta gieo những hạt giống

271
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
với hy vọng sẽ làm phong phú hơn đời sống tự nhiên lẫn con người.
Từ những hạt giống bé nhỏ tưởng chừng như vô ích, những mầm
sống bắt đầu phát triển theo quy luật tự nhiên để một ngày kia trở
thành những bông hoa đẹp đẽ vươn lên lớn dậy góp phần làm phong
phú cho cuộc sống và cho quy luật phát triển chung của nhân loại.
Đó là một quá trình xem ra không hề ngắn và dễ dàng cho bất cứ hạt
giống nào. Chúng phải tự mình bước ra khởi vỏ bọc bảo vệ để chính
thức hòa nhập vào cuộc sống, cũng không thể không đón nhận những
tác nhân bên ngoài trợ giúp để đón lấy nguồn cảm hứng, nguồn sống
cho mỗi hạt giống tiếp tục phát triển. Vì thế chúng cần đón nhận một
cách có chọn lọc sao cho phù hợp với chính mình để sự nảy mầm
được diễn ra suôn sẻ và nhanh chóng.
Những yếu tố bên ngoài góp phần quan trọng vào sự phát triển và
hoàn thiện cá thể. Ánh sáng mặt trời là tác nhân không thể thiếu cho
sự phát triển. Trước khi được gieo vào lòng đất, khi còn nằm trong
kho dự trữ, hạt giống đã cần đến ánh sáng mặt trời để nó giết đi
những ẩm mốc, vi khuẩn đàng chờ chực phá hủy lớp vỏ mỏng manh
kia, nếu không hạt giống chắc chắn sẽ không có được “sức khỏe” đủ
để bước vào một quá trình trọng đại nhất đời nó. Khi bắt đầu gieo
mình xuống đất và bước ra khỏi lớp vỏ từng giờ từng phút điều hạt
giống mong mỏi nhất sau đêm dài trong lòng đất là làm sao vươn lên
đón nhận những tia nắng ấm áp đầu tiên từ mặt trời, tác nhân tạo nên
sự trao đổi chất và những biến đổi quan trọng mầm sống của hạt
giống kia. Vì thế ánh sáng mặt trời luôn là nguồn cảm hứng cho hạt
giống kia sinh sôi nảy nở và phát triển với nỗ lực trở thành những
bông hoa đẹp và hoàn hảo nhất trong thế giới tự nhiên. Ngoài ánh
sáng mặt trời, chúng ta cũng cân nhắc đến “công lao” của một điều
kiện tự nhiên vô cùng thiết yếu, nguồn sống cho mọi sinh linh trên
trái đất. Nước – điều tuyệt diệu nhất trên trái đất này đã được Đáng

272
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Tạo Hóa ban cho ta. Cũng giống như ánh sáng mặt trời, nước đóng
vai trò quan trọng cho sự hình thành một bông hoa đẹp. Một số hạt
giống do đặc điểm sinh học riêng nên cần phải ngâm nước ấm để làm
vỏ hạt dễ tách và nảy mầm nhanh hơn. Ngoài ra, nước ấm sẽ giúp rễ
tiêu diệt một số nấm mốc và mầm bệnh cho hạt giống. Tuy nhiên nếu
như ánh sáng mặt trời là tác nhân khi hạt giống đả trở thành những
chồi non thì khi còn nằm trong lòng đất, hạt giống được nước cung
cấp cũng như giúp trao đổi chất để hạt giống đã được nước cung cấp
cung như trao đổi chất để hạt giống tiếp nhận được những chất dinh
dưỡng làm bệ phóng cho sự phát triển tuyệt diệu đó. Ánh sáng mặt
trời cũng như nước không phải là hai yếu tố duy chỉ có trong quá
trình phát triển, nhưng còn có sự hiện diện của các yếu tố khác như
không khí, các chất dinh dưỡng trong đất, các sinh vật…Nhưng nếu
xét trong câu nói của triết gia Gottechalk, thiết nghĩ muốn nhấn mạnh
đến những tác động chính yếu từ bên ngoài mà chúng ta có thể dễ
dàng nhận thấy được.
Hạt giống thật sự phát triển nếu biết tự mình vận động theo
hướng thích nghi và đến nhận những điều kiện hỗ trợ quan trọng góp
phần cho sự ổn định trong quá trình biến đổi này. Nói đến đây, thiết
nghĩ chúng ta đã có những tư tưởng sâu xa hơn mà không chỉ dừng
lại ở ý nghĩa mặt chữ. Sẽ có nhiều người đồng tình với tôi nhưng
cũng có nhiều người muôn suy tư theo hướng phong phú và mới lạ
hơn. Tôi muốn nói chuỗi phát triển của hạt giống cũng tương tự như
một quá trình hình thành phát triển và hoàn thiện nhân cách của con
người. Có những điểm tương đồng trong những mối tương quan đối
với nhau giữa cuộc sống tự nhiên và xã hội loài người, không ai có
thể phát triển nhân cách nếu không cần đến bất cứ sự hỗ trợ của tác
nhân bên ngoài vì bản chất con người mang tính xã hội. Nhân cách là
kết quả của quá trình tương tác suốt đời giữa cơ thể và môi trường

273
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
(JW Benny; Y H Bert M.H.Segall & P.R. Dasen). Ngay từ sự phát
triển bước đầu của mỗi hạt giống nhân cách đều có sự hiện diện và
hỗ trợ giúp đắc lực của ánh sáng mặt trời và nước là những trợ giúp
của những người có trách nhiệm đối với mỗi con người. Hạt giống
nhân cách cần được phơi dưới ánh sáng là những sự hướng dẫn, dạy
dỗ, ánh sáng của những giá trị đạo đức con người và những điều thiện
hảo trên đời; cũng như cần được ngâm trong nước ấm áp là sự bao
bọc, che chở của gia đình trường học và xã hội. Nếu cứ được những sự
chuẩn bị tốt như thế thì “hạt giống nhân cách” chắc chắn sẽ có những
bước chạy đà cần thiết để bắt đầu một cuộc bức phá được xem là “kỳ
diệu” nhất trong việc phát triển và hoàn thiện nhân cách.
Hành trình bắt đầu:
Con người và nhân cách của họ được thai nghén “trong môi
trường sẽ cung cấp những thứ căn bản và thiết yếu cho sự thoát khỏi
cái vỏ bọc của mình. Chắc chắn để sinh tồn trong lòng đất tối tăm
kia, nó phải tiếp nhận những nền tảng đạo đức căn bản của xã hội,
những giá trị truyền thống của người đi trước để làm thước đo, bậc
thang giá trị cho bản thân bắt đầu từ gia đình, nhà trường, khu xóm…
và khi đã tiếp nhận tất cả cho mình, mỗi người sẽ sử dụng nó làm
một dụng cụ đắc hiệu để phá đi vỏ bọc của cái tôi chật chội này
nhằm giúp nhân cách có cơ hội được bước ra một cuộc sống với “hạt
giống nhân cách” sẽ cảm nhận một cuộc “lột xác” và bắt đầu một
giai đoạn mới, giai đoạn hoàn thiện chính mình, chúng ta thử tưởng
tượng rằng đến một ngày nọ, hạt giống kia như những chồi non bé
xíu từ từ ngoi lên khỏi mặt đất để đón nhận cuộc sống trong con
người, những chủ thể đã có nền tảng nhân cách để bắt đầu chinh
phục cuộc sống. Chắc chắn lúc này nó vẫn còn rất bỡ ngỡ vì những
thứ lạ lẫm xung quanh nhưng kèm theo đó là một hứng thú khám phá
mọi điều vẫn còn mới mẻ. Như hạt giống vươn lên những chồi non

274
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
và đón lấy ánh mặt trời cùng lần mây mưa mát dịu, nhân cách con
ngươi khi đã hình thành nền tảng nhưng vẩn cần phải tiếp nhận thêm
ánh sáng của những chân lý, giá trị đạo đức xã hội cùng những hạt
nước mát mẻ của biết bao sự hướng dẫn, trợ giúp, động viên…cho
nhân cách ngày một lớn dần lớn dần. Nhưng có một điều chúng ta sẽ
thấy rõ, “hạt giống nhân cách” không còn tiếp nhận vì lối và thay vào
đó là những chọn lọc cơ bản cũng như phù với đặc điểm từng hạt
giống để nó thích nghi cũng như có được một sự phát triển và hoàn
thiện tốt nhất. Nó vẫn cần ánh sáng để chiếu những giá trị đạo đức,
chân lý cuộc sống lên chính bản chất của nó để nó “quang hợp” thứ
ánh sáng đó giúp đào thải những điều không cần thiết, những thói
xấu làm băng hoại xã hội và tiếp nhận nguồn “diệp lục” mới. Nhưng
nếu những bậc thang giá trị đó đè nặng con người ấy một cách thiếu
suy xét thì những “hạt giống nhân cách” sẽ nóng lên vì quá tải và sẽ
héo khô, vả lại nếu chỉ có một thứ ánh sáng yếu thì nhân cách mà
chúng ta ấp ủ bấy lâu sẽ có một màu nhợt nhạt và thiếu sức sống.
Không thể khoe sắc và nổi bật giữa một rừng hoa đẹp. Tương tự như
thế, những “chồi non nhân cách” cũng cần tiếp nhận một cách vừa đủ
nguồn nước để nuôi sống chính nó, đến kho trở thành một “bông hoa
nhân cách” hẳn hoi chắc chắn nó vẫn cần có dòng nước từ những
người mang thiện ý đến giúp ta để giữ cho thân mình luôn đầy sức
sống. Vậy chúng ta éo thể khẳng định rằng: chính nhờ có những giá
trị, chân lý, thước đo những chuẩn mực cuộc sống cùng với những sự
dạy dỗ, hướng dẫn, động viên…của những người có trách nhiệm
trong việc tự thân vận động của chính bản thân con người sẽ làm cho
quá trình chuẩn bị hạt giống, gieo giống vào lòng đất, chăm sóc
những chồi non cho đến khi trở thành một bông hoa thơm ngát trong
rừng được suôn sẻ và hiệu quả.

275
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Nếu ta để vấn đề đi xa hơn. Một khi chúng ta không biết cách
đón nhận hay không chút đón nhận những chất dinh dưỡng cho sự
phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình thì không thể trở nên
trường thành và sống đúng với phẩm giá con người. Chúng ta đang
khước từ những sự trợ giúp từ bên ngoài chính chúng ta loại bỏ chính
mình trong tình liên đối với người khác. Vì với tính xã hội, chúng ta
sống là sống chung sống với người khác và không ai là một hòn
đảo. Những giá trị đạo đức xã hội ở mọi thời, mọi nơi là một quá
trình phát triển và thay đổi. Dù muốn hay không mỗi người chúng
ta là những chủ thể hoạch định và làm nên lịch sử cho chính mình.
Chúng ta càng giam mình và từ chối tất cả sự giúp đỡ trong cái tôi
ích kỷ, chúng ta sẽ càng cần đến những tác động từ bên ngoài.
Người càng sống ích kỷ, người càng nghiền ngẫm cái tôi hèn hạ,
người đó càng hạ giảm nhân cách của chính mình.
Có hai hạt giống nọ được giữ làm giống cho vụ sai vì cả hai đều
là những hạt giống tốt đều to khỏe và chắc mẩy. Một hôm ông chủ
định đem chúng gieo trên cánh đồng của mình. Hạt giống thứ nhất
nhủ thầm. Dại gì ta phải theo ông chủ ra đồng. Ta không muốn cả
thân mình phải nát tan trong đất. Tốt nhất là hãy giữ lại tất cả chất
dinh dưỡng trong lớp vỏ này và tìm một nơi lý tưởng để trú ngụ: Thế
là nó chọn một góc khuất trong kho để lăn vào đó. Còn hạt giống thứ
hai thì ngày đêm mong được ông chủ mang gieo xuống đất. Nó thật
sự sung sướng khi được bắt đầu một cuộc đời mới. Thời gian trôi
qua, hạt giống thứ nhất bị héo khô nơi góc nhà bởi vì nó chẳng nhận
được ánh sáng và nước. Lúc này chát dinh dưỡng chẳng giúp ích
được gì, nó chết dần chết mòn. Trong khi đó, hạt giống thứ hai dù nát
tan trong đất nhưng nó đã từng thốt lên rằng. “Tôi muốn lớn lên! Tôi
muốn rễ của tôi phải ăn sâu xuống lòng đất, mầm của tôi sẽ vươn lên
vỏ đất cứng bên trên. Tôi muốn giương nhành lộc non như tấm băng

276
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
rộn báo hiệu mùa xuân về tôi muốn cảm nhận cái ấm áp của mặt trời
chảy dài trên khuôn mặt, và cái tinh khiết của sương mai trên những
cánh hoa. Và nó đã lớn lên trở thành bông hoa góp lên một bản giao
hưởng. Mùa xuân với đủ màu sắc thắm xinh tươi. Đừng bao giờ khép
mình trong lớp vỏ chắc chắn để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa mà
hãy can đảm từ bỏ cái tôi ích kỹ, âm thầm chịu nát tan để đón nhận
những thứ tinh túy của đất trời, những điều quý giá mà không thể
đón nhận ở đâu khác. Tôi hy vọng đó cũng sẽ là lựa chọn của bạn và
tôi khi đứng trước cánh đồng cuộc đời bao la này.
Hạt giống cần phải trải qua một quá trình “lột xác và bức phá” để
tự phát triển và hoàn thiện chính mình nhưng nó không thể lẻ loi một
mình nó cần đến sự trợ giúp và tác động của các điều kiện tự nhiên là
ánh sáng và nước. Nhân cách của mỗi người cũng cần được nuôi
dưỡng, phát triển và hoàn thiện nhờ biết tìm kiếm và hướng theo
chân lý, những giá trị đạo đức xã hội để được chiếu sáng; cũng như
nó càn được những đợt sóng là hình ảnh của những lời dạy dỗ, hướng
dẫn của gia đình, nhà trường và xã hội từng phút trông giây “vỗ vào
bờ nhân cách” như muốn tác động và tạo nguồn cảm hứng cho nhân
cách mỗi người trở nên những bông hoa đẹp giữa rừng hoa. Vì vậy
chúng ta cần thoát ra khỏi cái tôi ích kỹ để biết đón nhận những quà
tặng từ cuộc sống. Ngày nay chúng ta chứng kiến chủ nghĩa thực
dụng và hưởng thụ cá nhân phát triển và bành trường khắp cùng cuộc
sống con người. Nó len lỏi đến tận những tư tưởng sâu thẩm của
chúng ta và nó khiến chúng ta mất phương hướng, không còn khả
năng xác định và điều chỉnh nhân cách của mình phù hợp với chân lý
và các chuẩn mực đạo đức. Chủ nghĩa thực dụng và hưởng thụ cá
nhân làm chúng ta có suy nghĩ rằng tôi cần được quan tâm, chăm sóc
và phục vụ với nhu cầu của tôi vì tôi đả trả công xứng đáng cho việc
đó. Không một chút cảm nhận biết ơn và tỏ lòng tôn trọng công của

277
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
người khác, lương tâm của chúng ta đã bị bào mòn bởi suy nghĩ quy
ngã mang tính thực trạng. Họ quên mất rằng bông hoa kia sẽ chẳng
thể nào lớn lên và trở nên hoàn hảo nếu không nhận được những trợ
giúp của ánh sáng mặt trời và nước. Học thuyết xã hội Công Giáo đã
chỉ ra nguyên tắc giữa con người đòi hỏi họ phải ngày càng nhận
thức rõ hơn rằng họ chính là người mắc nợ xã hội mà trong đó họ là
thành viên. Nhạc ơi Trinh Công Sơn cũng diễn tả một hình ảnh tương
trợ trong câu hát “Xưa hãy cho mưa qua miền đất rộng, ngày sau sỏi
đá cũng cần có nhau”. Tôi và bạn hãy cùng tưởng tượng viễn cảnh
một thế giới trong tương lai chỉ toàn ý nghĩ thực dụng và chủ nghĩa
hưởng thụ cá nhân, liệu tình liên đới giữa con người với nhau có còn
vững bền?.

TRUNG TÂM MỤC VỤ - TỔNG GIÁO PHẬN SÀI GÒN


NHÀ CHỦNG SINH DỰ BỊ - KHÓA VII
MÔN: VIỆT VĂN
Tên: Giuse Phạm Thanh Tài

278
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Có ý kiến cho rằng: “Con người không phải thùng
nước cần đổ đầy, mà là ngọn đèn cần thắp sáng” Anh hiểu thế
nào về ý kiến này ?
Bài làm
Nhà lãnh tụ nổi tiếng Xô Viết – V.Lenin đã từng nói: “Học học
nữa, học mãi” câu nói trứ danh này đã khái quát lên vai trò quan
trọng của việc học tập trong cuộc đời con người. Bởi lẽ, việc hình
thành, phát triển con người và sự nghiệp cá nhân đều gắn liền với
quá trình học hỏi. Vì thế, việc học được xem như là một quá trình
cần phải được coi trọng đầu tư cách đúng đắn. Học để làm gì ? Học
bằng cách nào ? ý kiến cho rằng: “Con người không phải là một
thùng nước cần đổ đầy, mà là ngọn đèn cần thắp sáng” Phải chăng
việc học tập của mỗi người cần phải mang tính sư phạm thời địa ?.
Trong câu nói trên, chúng ta nhận thấy tác giả đã sử dụng những
hình ảnh quen thuộc với đời sống con người: Thùng nước và ngọn
đèn. Thùng nước là một vật dụng có không gian rỗng rộng lớn về
mặt cấu tạo, dùng để chứa đựng, tích trữ nước hay một loại chất lỏng
bất kỳ. Ngọn đèn là vật dụng có bầu chứa chất đốt, dùng thắp lửa
nhằm chiếu tỏa ánh sáng vào không gian tối. Như thế, hình ảnh
“thùng nước” và “ngọn đèn” là hai hình ảnh ẩn dụ mang tính đối lập
khi nói đến sự bị động và sự chủ động, sự tích trữ và sự cho đi. Khi
nói về con người, ý kiến trên thể hiện tính sư phạm trong việc học
tập của chúng ta: Con người không chỉ là một bộ não lớn để tích trữ,
chất đựng sự dung nạp đống kiến thức xuống, nhưng cần phản nên
như một hữu thể sáng tạo biết sử dụng điều mình học khả năng bản
thân mà làm nên những điều có ích, tốt đẹp cho người và cho đời.
Trước hết cần phải đề cập đến bản chất cần thiết của việc học.
Nếu chiếc đèn cần có dầu để thắp sáng thế nào thì con người cũng
cần học để phát triển bản thân. Học là biết bắt chước những điều tốt

279
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
hay từ người khác và biết tìm tòi thêm những điều mình chưa biết.
Tính chủ động trong việc học giúp chúng ta tích cực việc đón nhận
trí thức lý thuyết trong thế giới lớn vô hạn này: Khoa học tự nhiện
lẫn khoa học xã hội và hơn hết học phải đi đôi với hành việc thực
hành giúp chúng ta vận dùng thành thục và chọn lọc có ích những
điều mình được học. Như thế, việc học mới làm bản thân được đổi
mới, đem lại hiệu quả thực sự cho việc học tập. Ngược lại, nếu chúng
ta chỉ biết học, nhồi nhét trí thức sách vở cho đầy mà không biết vận
dụng, hẳn khả năng lưu trữ của chúng ta sẽ quá tải, kiến thức được
học sẽ bị hao mòn từng ngày và nên vô ích, như nước lâu ngày trong
thùng không sử dụng sẽ bị hao bớt đi.
Bên cạnh đó, quá trình học tập bản thân phải gắn liền với vai trò
hướng dẫn phương pháp học vô tư duy học của người giáo dục: Sư
phạm không phải là nghề dạy trí thức đơn thuần, nhưng theo tinh
thần cao sáng, sư phạm là nghề sáng tạo nên những con người sáng
tạo. Vì thế trong cách giáo dục, việc học cần phải được định hướng
đúng đắn cho mỗi người học, cũng giống như cách thức sử dụng
ngọn đèn đúng vai trò của nó theo ý kiến trên. Trước hết, việc học
nhằm mục đích tiếp thu, đón nhận những nguồn tri thức lẫn đạo đức,
nhân bản con người từ người dạy. Việc học góp phần khai sáng,
thông tiện bản thân, nhờ đó chúng ta sống đúng với vai trò là một
hữu thể xã hội “Học kiến thức khoa học cùng phải song hành với
việc học đạo lễ để phát triển con người nên toàn diện. Đấy chính là
vai trò đầu tiên của sư phạm “Tiên học lễ, hậu học văn”. Mặt khác,
việc học chính là chìa khóa mở cửa tương lai con người thông qua
học để hướng tới lập nghiệp, giúp đời không ai trong chúng ta muốn
học cho giỏi, cho sâu nhưng lại không muốn xây dựng đời sống mai
sau bằng những ngành nghề hữu ích, giúp người giúp đời. Vì thế, vai
trò của sư phạm chính là hướng dẫn người học biết phương pháp học,
tư duy học nhằm tự xây dựng cho bản thân cách thức học hiệu quả,

280
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
vận dụng lý thuyết thông qua thực hành, quan tâm đến tính thực tiễn
và dám suy nghĩ, sáng tạo, đổi mới việc học. Chúng ta đều biết đến
nhà bác học, phát minh thiên tài người Mỹ - Thomas Edison qua
những sáng tạo, sáng chế của ông: bóng đèn sợi tóc, đầu máy kéo…
nhưng thật ít ai biết sau những thành công ấy là vô số lần thất bại.
Nhưng đối với ông, những lần thất bại ấy lại là sự thành công, vì qua
đó ông khám phá ra nhiều điều mới lạ qua lý thuyết và đồng thời ông
càng đam mê sự sáng tạo, tư duy để quyết thành công. Như thế,
chúng ta nhận ra việc sử dụng phương pháp sư phạm đúng đắn từ
người dạy, để biết học và thực hành điều được học vào thực tiễn tốt
đẹp. Đây cũng chính câu hỏi đặt ra cho vấn nạn: học thì đối phí, chạy
điểm, mua bằng…trong nền giáo dục Việt Nam ta hiện nay.
Xét đến nền văn hóa Đông phương, việc học còn thể hiện ở khía
cạnh học đạo làm người. Qua đó, chúng ta nhận ra mục đich học của
từng bản thân còn đi liền với quá trình hoàn thiện chính mình nhằm
xây dựng chính mình nên công dân hữu ích cho cộng đồng, cho xã
hội. Cũng giống như sự đối lập trong hình ảnh “thùng nước” và
“ngọn đèn” sự vô hạn của đóm lửa nơi ngọn đèn có thể chia sẻ cho
các ngọn đèn khác mà bản thân không bị tiêu hao đi, nhưng lại làm
cho không gian được chiếu sáng lan rộng hơn. Trong khi đó, nước
được chứa trong thùng lại hữu hạn khi chia sẻ. Nhưng trước hết,
người học cần phải ý thức được tầm quan trọng của việc học làm
người, từ những điều nhỏ bé nhất: chăm chỉ, chịu khó, đến những
việc lớn hơn: dám hy sinh, đồng cảm tha nhân. Như thế trí thức
chúng ta có không chỉ là công cụ cho đời sống tương lai bản thân mà
còn là tiếng nói hữu đắc để chia sẻ, bênh vực lợi ích, nhân phẩm con
người. “Người có học là người hết sống đúng phảm giá quân tử
“Khổng Tử”. Cũng theo tấm gương của mẹ Têrêsa Cancutta, tuy
không phải là người giàu có về trí thức nhưng mẹ là thực sự là con
người có học xứng danh “ngọn đèn cần thắp sáng”.

281
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Qua đây chúng ta nhận thức rõ được vị thế và tầm quan trọng của
việc học, đào tạo con người có sự ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống
chính mình thế nào. Sự nghiệp học vấn của kẻ thụ hưởng luôn gắn
liền với sự nghiệp giáo dục của người đào tạo. Vì thế vai trò của
người giáo dục cần được ý thức cách đúng đắn trong việc lèo lái
đường đi cho thế hệ con người không hệ tại ở sự trao truyền trí thức,
con điểm hay những thành tích rực rỡ, bằng cấp long trọng mà ở
chính người được giáo dục biết đón nhận nguồn tri thức ấy thành
“nguồn chất đốt” của chính mình, sử dụng cách sáng tạo, biết chia sẻ
để đem lại sự lợi ích, điều tốt đẹp cho mọi người và cuộc sống.
Chúng ta luôn đồng ý rằng sẽ không có một Mạnh Tử đức độ hơn
người nếu không có một Chương thị hiểu con và cũng sẽ không có
Trạng Trình: Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất chúng nếu không có thầy dạy
Lương Đăc Bằng. Cũng giống như hình ảnh thấy Giêsu và mười hai
người tông đồ của Ngài các ông sẽ không thể nên những con người
can đảm, khôn ngoan, đạo đức, dám từ khước mọi sự…nếu như
không có sự hướng dẫn cùa Chúa qua chính đời sống của Ngài “Ánh
sáng của anh em phải được thắp lên ở nơi cao ráo, để mọi người nhìn
thấy mọi việc tốt anh em làm mà tôn vinh Cha anh em trên trời”.
Học tập là một quá trình cần thiết nơi mỗi con người. Việc học
không chỉ để trao dồi trí thức, xây dựng cuộc đời mà còn là đào
tạo chính bản thân mỗi ngày. Như thế, giáo dục mới thể hiện được
sự sáng tạo đúng chất của nó trong sứ mạng trồng người. Qua đó,
ý kiến “Con người không phải là một thùng nước cần đổ đầy, mà
là ngọn đèn cần thắp sáng” chắc hẳn là một phương châm giáo dục
giàu tính hiện thực, đậm chất nhân văn góp phần làm sáng rõ việc
học tập của mỗi người chúng ta trong thời đại hôm nay.
Trung tâm Mục vụ TGP Sài Gòn
Lớp Chủng sinh dự bị Khóa 10 – Niên khóa: 2014 – 2015
Tên Thánh – Họ và tên: Gioan Baotixita Nguyễn Hoàng Sơn

282
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Cổ nhân thường dạy “Một giọt máu đào hơn ao
nước lã”. Nhưng có khi lại khuyên “Bán anh em xa mua láng
giềng gần”.Hai ý kiến trên có mâu thuẫn nhau không? Nêu quan
niệm của bạn?
Bài làm:
Trong quá trình hình thành và phát triển của các loài cây, tự nó
không thể tạo nên những bông thơm trái ngọt cho đời. Vì vậy, trong
quá trình phát triển, nó phải cần đến sự tương tác của nhiều yếu tố,
nhiều năng lực trực tiếp hay gián tiếp của vũ trụ, lúc này một nụ hoa
là sự kết tinh của bao tinh túy trời đất. Con người sống trong vũ trụ
này cũng vậy, không ai là một hòn đảo, cũng không ai là một con
người thực sự nếu chỉ sống riêng một mình. Sống là tương quan,
tương quan với chính mình, với họ hàng huyết thống hay xa hơn là
tình yêu đại đồng. Vì thế, có lời cố nhân thường dạy “Một giọt máu
đào hơn ao nước lã”. Nhưng có khi lại khuyên “Bán anh em xa mua
láng giềng gần”. Có phải hai lời khuyên này mâu thuẫn với nhau?
Nếu không, quan niệm của chúng ta như thế nào về tính ưu việt của
chúng trong xã hội hôm nay.
Trong kho tàng tục ngữ - ca dao Việt Nam có câu “Có người có
ta”. Con người sinh ra nhờ người khác và để sống vì người khác,
không ai tự mình hiện hữu để tự mình sống đơn độc. Vì thế, sống
trên cõi đời này đòi hỏi con người phải vượt ra khỏi mình để sống
cho người khác và vì người khác. Trong dòng chảy của nền văn hóa
Đông phương nói chung và cảm thức của nền văn hóa Việt Nam
người ta luôn đề cao các mối tương quan giữa người với người. Đó là
mối tương quan phát xuất từ con tim, từ cái tình. Cái tình không thể
nào vắng bóng trong các mối tương quan đến nỗi người ta có thể thốt
ra “Nhiều áo thì ấm, nhiều người thì vui”. Sống có người khác ta sẽ
thấy được hơi ấm của sự bao bọc, nâng đỡ của lòng nhân ái…Như
vậy cuộc đời sẽ có nhiều niềm vui.

283
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Nói đến tương quan giữa bà con ruột thịt hay người dưng nước
lã, ông cha cũng dạy ta rất nhiều điều. Có người thì dạy rằng “Một
giọt máu đào hơn ao nước lã”. Ở đây người ta đề cao tương quan con
người theo huyết thống, cốt nhục. Tức là có quan hệ họ hàng cùng
huyết thống dù rất xa cũng quý hơn người ngoài. Ở đây không hạ
thấp người dưng nhưng trong quan hệ hằng ngày, họ hàng máu mủ
đáng được ta quan tâm, yêu mến trước. Bởi vì sự có mặt của ta đó là
kết tinh của cả ông bà, cha mẹ và cả giống nòi. Họ yêu thương mình,
cưu mang, nuôi nấng mình thì bây giờ mình phải đền đáp mối ân
tình. Vì thế trong cuộc sống, trong nhiều ưu tiên ta chọn dành cho họ
hàng anh em cốt nhục của mình, chúng ta phải có trách nhiệm che
chở, nâng đỡ cuộc sống của họ. Anh em họ hàng có niềm vui, ta là
người cùng chạy đến chia vui; khi họ gặp khó khăn thử thách, ta phải
là người có mặt trước hết để cùng an ủi, để nâng họ vượt qua. Đến
đây chúng ta hình dung đến bao tấm lòng cao cả mà những người
thân dành cho nhau. Hình ảnh người cha người mẹ suốt đời lam lũ
khổ đau để lo cho cuộc sống cơm áo học hành cho các con, nhất là
những khi con cái bị bệnh tật hiểm nghèo, có nhiều cha mẹ đã chấp
nhận chết hay hiến các cơ phận để cho con được sống. Có một câu
chuyện có thật được kể lại rất cảm động như sau: Trong một trận
sóng thần hung dữ đã nhấn chìm nhiều tàu thuyền, có nhiều người đã
bị cuốn theo dòng nước. Thế nhưng sau trận cuồng phong người ta
tìm thấy có một bà mẹ ôm đứa con mình nằm trên một tảng đá ở gần
bờ biển. Số là trong cơn sóng biển dữ dội bà mẹ đã cố gắng ôm bằng
được người con của mình, bà chấp nhận vật lộn với sóng biển dữ dội.
May mắn thay con sóng đã hất tung hai mẹ con trên một tảng đá.
Trong tình trạng kiệt sức, bà mẹ thấy đứa con mình khát nước nên bà
đã cắn ngón tay của mình để lấy máu cho con đỡ khát và bà đã qua
đời, còn người con được cứu sống.

284
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đó là một trong nhiều sự hy sinh cao đẹp của tình thân máu mủ.
Có thể cha mẹ dành cho con cái hay con cái dành cho cha mẹ hoặc là
giữa anh em với nhau. Điển hình như có một bé ốm yếu xanh xao
cõng trên lưng đứa em trong bộ dạng rất nặng nề. Thấy vậy người ta
mới hỏi cậu bé sao lại phải cõng một đứa trẻ vất vả như vậy. Nhưng
cậu bé ôn tồn đáp lại: không nặng nề vất vả chút nào cả, vì đó là em
của cháu. Quả thật, nhiều lúc ta cảm thấy sự vất vả nặng nề trong
những hy sinh của người khác dành cho nhau, nhưng quả thật, đối
với họ thì mọi thứ trở nên nhẹ nhàng dễ chịu vì đó là máu thịt, là
khúc ruột gắn liền với mình.
Tất nhiên, anh em ruột thịt là quý hơn người dưng nhưng không
vì thế mà chúng ta không cần hay hạ giá người dưng. Nhưng ở đây
tại sao người ta lại đề cao quan hệ với họ hàng ruột thịt? Ngoài lý do
vừa trình bày trên là bị sự xuất hiện của ta mang theo niềm vinh dự
của cả giống nòi nên ta phải sống làm sao đáp trả với ân huệ đó, có lẽ
còn nhiều lý do khác nữa. Thực tế tương quan với người thân ruột rà
bao giờ cũng đem đến cho ta một cảm giác linh thiêng và an toàn
hơn. Linh thiêng vì chúng ta cùng mang một huyết nhục, dòng máu
châu lưu trong con người mình cũng có ở trong tổ tiên ông bà cha mẹ
hay anh chị em ta. Chúng ta cảm thấy an toàn bởi vì người cùng máu
mủ thường đối xử với nhau đơn sơ chân thành, ta ít sợ bị gian dối lừa
gạt, đó cũng là điều rất tự nhiên của con người.Người cùng huyết
thống yêu thương tôn trọng nhau vì để gầy dựng tình đoàn kết trong
truyền thống văn hóa gia đình dòng tộc. Khi đó chúng ta có thể tự
hào vì tương quan cao đẹp của dòng họ mình. Ngoài ra, thường thì
người trong một nhà, cùng máu mủ dễ hiểu nhau hơn, sống hòa đồng
hơn và dễ dàng thông cảm tha thứ cho nhau.
Như vậy tương quan giữa những giọt máu đào tuy nhỏ bé nhưng
nó lại mang một giá trị nhân văn rất sâu sắc. Đã là người họ hàng

285
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
máu mủ với nhau thì phải yêu thương tôn trọng, đùm bọc đỡ nâng để
cùng nhau xây dựng một đại gia đình cao đẹp.
Như vậy thì lời khuyên “Bán anh em xa mua láng giềng gần” có
giá trị gì đây?
Cao dao – tục ngữ vẫn thường diễn tả “Tứ hải giai huynh đệ”
nghĩa là người bốn biển đều là anh em. Câu nói “Bán anh em xa mua
láng giềng gần” diễn tả một tình yêu hay mối tương quan đại đồng,
có ý đề cao mối tương quan đối với những ai ở gần mình. Anh em họ
hàng thân thích nhưng ở xa không có điều kiện giúp đỡ thì cũng
không bằng người dưng ở gần mình.
Thói thường, mối tương quan của chúng ta thường bị giới hạn
trong người thân họ hàng ruột thịt. Chúng ta biết họ rất tốt với mình
và họ là một phần không thể thiếu trong cuộc sống mỗi người. Tuy
nhiên thực tế cuộc sống cho thấy dù họ đối xử với ta thế nào thì ta
vẫn mãi không ở suốt đời với họ được. Có những hoàn cảnh, những
biến cố của cuộc đời khiến ta phải lìa xa họ, hay lớn lên còn phải lo
học hành, sự nghiệp…thì người thân máu mủ bây giờ, xét về một
khía cạnh nào đó không thể bằng người sống quanh mình, gần mình
được. Có những biến cố của gia đình, của đất nước hay phạm vi thế
giới làm cho người thân ly cách là chuyện bình thường. Vậy thì khi
sống xa gia đình người thân ta sẽ phải làm sao? Lúc này đúng là ta
phải “bán” tình thân máu mủ để mua lấy láng giềng. Bán ở đây
không phải là quên, là từ bỏ nhưng là một sự thay đổi tương quan để
thích nghi với hoàn cảnh để cuộc sống được triển nở hơn. Trong quá
khứ của cuộc đời mỗi người, ít nhiều chúng ta được chứng kiến bao
sự chia ly nặng nợ ân tình và rơi nhiều nước mắt. Dù quyến luyến
nhau đến mấy thì hoàn cảnh cũng không cho phép ta ở mãi bên người
thân. Do đó, khi đến nơi ở mới con người cũng không ôm mãi ân tình
với người thân bằng một cuộc sống cô độc mà ở nơi đây họ sẽ phải

286
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
xây dựng cho mình mối tương quan mới, kết giao với mọi người
chung quanh. Như một người con gái về làm dâu bên nhà chồng, biết
rằng cô vẫn phải tương giao và yêu mến cha mẹ anh em ruột thịt với
mình. Thế nhưng cô vẫn phải ý thức rằng giờ đây cô lại phải đón
nhận và dựng xây tương giao mới, tình thương của cô phải dồn vào
nhà chồng và hàng xóm mới. Lúc này môi trường sống mới phải đặt
lên trên, phải ưu tiên hơn máu mủ của cô.
Nhưng vì sao người ta lại quan điểm bán anh em xa mua láng
giềng gần?
Đương nhiên con người luôn mang trong mình mầm mống xã hội
tính, sống là phải tương quan hết thảy mọi người, không phân biệt
chủng tộc, giai cấp hay tôn giáo. Tương quan trở nên một yếu tố bất
khả khuyết của con người. Ngoài kẻ thân người thích, thì con người
luôn nới rộng tương quan để cùng liên đới và chia sẻ cuộc sống với
nhau. Để xây dựng những mối tương quan mới lắm lúc chúng ta phải
gặp rất nhiều chướng ngại; chướng ngại về quan đểm sống, sự khác
biệt về màu da, giai cấp hay tín ngưỡng. Dù sao để cuộc sống triển
nở mỗi người cần biết hy sinh cái của mình, đón nhận cái của người
khác, cần phải biết hy sinh một số quyền lợi của mình để hướng tới
lợi ích chung như thế tương quan sẽ ngày càng trở nên phong phú và
triển nở.
Một lý do khiến cho chúng ta nhiều lúc phải “bán” anh em để
“mua” láng giềng là vì khi sống xa người thân thích ta cảm thấy mình
gần như bơ vơ lạc lõng trong dòng đời mà dù thân thích mấy thì anh em
cũng chẳng chia sẻ hết những điều ta cần đến. Lúc này ta cần có người
bên cạnh, những người trực tiếp chia sẻ cuộc sống với ta.
Nếu không có người bên cạnh để chia sẻ cuộc sống thì cuộc đời
thật là tẻ nhạt. Khi ta thành công ai chia vui với ta, khi ta buồn ai ở
bên cạnh để an ủi đỡ nâng? Có nhiều người có điều kiện sống tương

287
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
đối tốt, lắm lúc họ tự mãn bất cần đời. Có thể khi cuộc sống êm trôi thì
họ vẫn có thể đứng vững, nhưng khi sóng gió cuộc đời nổi lên thì
không biết họ sẽ nghiêng ngả về đâu. Lúc đó chắc họ sẽ thấm thía một
cuộc sống “hàng xóm láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau”. Đó cũng là
điều mà chúng ta bắt gặp nơi bức tranh “Dến mèn phiêu lưu ký” của
nhà văn Tô Hoài: Con dế đã phải chấp nhận một số phận hẩm hiu khi
sống ích kỷ, từ chối chia sẻ, từ chối trao ban cho hàng xóm.
Trong cuốn sách “Hiểu về trái tim” tác giả Minh Niệm đã có mấy
lời thơ như sau:
“Đi như một bầy chim
Vượt vùng trời băng giá
Đừng một mình ra khơi
Biển đời nhiều sóng cả”
Quả thật, đường đời nhiều sóng gió, đừng bao giờ khờ dại mà
bước đi lầm lũi một mình. Trong thiên nhiên, chú ý quan sát ta sẽ
thấy mọi loài sinh vật sống nương tựa với nhau: cỏ mọc từng đám, cá
bơi từng bầy, đặc biệt quan sát các loài chim di cư ta thấy không bao
giờ nó bay một mình mà luôn đi theo đàn hình chữ V. Với đội hình
như thế nhịp vỗ cánh của con bay trước sẽ giúp con bay sau tiết kiệm
được 10% sức lực so với khi chỉ bay một mình. Vì thế mà các loài
chim có thể thực hiện những cuộc di cư vĩ đại từ phương Bắc về
phương Nam với đoạn đường dài có khi cả chục ngàn dặm.
Cuối cùng, nhiều lúc con người bán anh em xa để mua láng giềng
gần vì để thắt chặt thêm mối tương quan giữa người với người bằng
một tình yêu thương đại đồng. Trong cuộc sống dù giàu hay nghèo,
tài năng hay dốt nát…mỗi người đều mang một giá trị rất riêng biệt
mà không ai có thể thay thế. Vì vậy khi con người tương quan chân
thành với nhau sẽ tạo nên một sức mạnh hợp quần vô cùng lớn. Mọi
người tạo lập cho mình những mối tương quan, những người hàng

288
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
xóm chân chính sẽ làm cho cuộc sống của mình luôn được đảm bảo.
Đảm bảo được sẻ chia, an ủi, đảm bảo được nâng đỡ chở che. Vì thế
hạnh phúc, bình an cũng luôn được đảm bảo.
Vậy đâu là điểm tương đồng, đâu là điều dị biệt của hai ý kiến trên?
Có thể nói điểm tương đồng ở đây là đều nói lên mối tương
quan trong cuộc sống hằng ngày. Là người, ai cũng cần yêu mến
và đề cao những người có cùng giọt máu, huyết thống với mình
bởi vì dù sao người dưng cũng không sâu sắc, linh thiêng cho bằng
máu mủ, họ chỉ như những ao nước nhạt nhẽo. Mặt khác, chúng ta
cũng đừng vì thế mà co cụm nơi ruột thịt, mà phải ra sức xây dựng
mối tương quan với hết mọi người nhất là người ở gần, ở bên cạnh
ta.
Cả hai ý kiến đều thể hiện một sự hy sinh, cắt tỉa của chúng ta
trong các mối tương quan. Dù sao, có lúc vì hoàn cảnh chịu cắt tỉa hy
sinh tình cảm máu mủ ruột rà và ngược lại có lúc vì gia đình máu mủ
ta cũng phải hy sinh khước từ xóm giềng để quay chăm sóc họ hàng,
huyết nhục.
Nói chung, cả hai ý kiến đều muốn dạy con người phải yêu
thương tôn trọng người khác bằng tình người, tình liên đới.
Cái khác ở đây rất rõ, có lẽ ở vào một môi trường, hoàn cảnh nào
đó, có lúc người ta lại đề cao tình máu mủ, nhưng có lúc lại nêu cao
tình làng nghĩa xóm, những người thân cận mình. Đề cao tình máu
mủ cũng đồng nghĩa với việc nhắn nhủ mỗi người phải biết yêu
thương, quý chuộng người dưng nhằm được đỡ nâng và nương tựa
trong cuộc sống.
Hai ý kiến trên, xét về một góc độ nào đó nó hơi khác biệt nhau
một chút, sự khác biệt này không tạo nên sự mâu thuẫn đối chọi nhau
mà nó bổ khuyết cho nhau, bởi xét về mặt nhân sinh quan, con người
sống trong xã hội đều cần cả hai quan niệm này. Sự khác biệt ở đây

289
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
là do môi trường, hoàn cảnh sống khác nhau người ta rút ra kinh
nghiệm sống cho mình và cho đồng loại. Chắc chắn chút khác biệt là
do hai câu nói được xuất phát từ những thời gian khác nhau, không
gian cũng khác nhau. Khi hoàn cảnh thay đổi kéo theo nhu cầu cuộc
sống thay đổi tương quan giữa người với nhau phải thay đổi để hòa
nhập và thăng tiến cuộc sống mới. Sự thay đổi đó là cần thiết để đáp
ứng những nhu cầu hiện thực của cuộc sống. Trong cuộc sống không
phải lúc nào ta cũng ở bên cạnh để nhận sự quan tâm săn sóc của cha
mẹ, anh em ruột thịt, mà có lúc ta cũng cần “bán”, cần hy sinh tình
anh em máu mủ để sống và cống hiến cho một tình yêu đại đồng. Khi
sống cho tha nhân ta không phải lo sợ tình máu mủ phai nhạt, bởi
tương quan máu mủ là một tương quan rất sâu đậm và linh thiêng, nó
luôn chảy trong huyết quản của ta. Khi hướng tới tha nhân chính là
lúc ta nêu cao và làm triển nở tình yêu đối với huyết nhục của mình.
Nhu cầu trong tương quan của chúng ta là thế, xưa nay vẫn thế và
mãi mãi vẫn là như thế. Một điều nữa rất quan trọng là con người
thường đề cao và trân trọng mối tương quan với ai sống bên mình,
trực tiếp chi phối đời sống của mình, đó có thể là một cái nhìn hơi
nông cạn. Tức là ta phải luôn có thái độ tôn trọng tất cả mọi người
ngoài gia đình của mình, ngoài xóm giềng của mình để dễ dàng đi tới
mọi phương trời, những nơi xa lạ đang cần ta chia sẻ cuộc sống.
Chúng ta cần phải vượt lên khỏi cái tương theo thể lý, vật chất
bình thường để hướng tới cái tương quan cao đẹp trong tinh thần.
Hằng ngày đi đường gặp gỡ người này người kia, chúng ta cần phải
biết nhạy bén trước những nhu cầu của người khác: đem một ánh
nhìn trìu mến khi chẳng có gì để bố thí cho kẻ ăn mày, giúp đỡ một
em bé, một cụ già qua đường… hay xem các phương tiện truyền
thông ta biết được ở đâu đó trên đất nước này, ta vẫn có thể chia sẻ
với họ bằng nhiều cách “vui với người vui, khóc với người khóc”.

290
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Khi đỡ nâng người khác chắc chắn chúng ta cũng được nâng đỡ.
Truyền thống của cha ông ta vẫn luôn đề cao tình liên đới, tình yêu
thương đại đồng, họ luôn nhắc nhở và mời gọi chúng ta rằng: “Bầu
ơi thương lấy bí cùng/Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Hai lời khuyên trên đều là hai chân lý sống cần được nâng niu và
bồi đắp. Đó là hai mối tương quan bất khả khuyết trong đời sống
chúng ta, chỉ có cả hai mới giúp đời sống ta thăng tiến và triển nở.
Nếu ai đó tự chọn cho mình một quan niệm, chắc chắn đó là sự lựa
chọn sai lầm và thiếu sót. Kinh nghiệm của dân gian cho ta thấy
“sông có khúc, người có lúc”, sống hài hòa giữa hai quan niệm sẽ
làm cho cuộc đời chúng ta đáng sống và ý nghĩa hơn.
Nhìn vào hiện thực của thời đại hôm nay, đặc biệt trong đất nước
Việt Nam thân yêu của chúng ta, các giá trị văn hóa truyền thống đã
trở nên phai nhạt, đặc biệt thể hiện rõ nơi số đông các bạn trẻ. Do lối
sống hưởng thụ, chủ nghĩa cá nhân lên ngôi, các bạn trẻ luôn tìm
cách thoát ly khỏi gia đình. Họ nghĩ rằng, đó là cơ hội để tiến thân và
cũng để thỏa mãn khát vọng được sống tự do và không còn bị giám
sát, kìm kẹp hay khiển trách. Rồi khi họ bị lôi cuốn vào các đam mê
tình cảm hay vật chất thì ý niệm về mái ấm gia đình hay tình làng
nghĩa xóm không còn đánh động lương tâm họ nữa. Thậm chí, nhiều
người trẻ còn tuyên bố rằng “trong từ điển của tôi không có hai tiếng
gia đình, làng quê”. Họ thoát ly khỏi gia đình như thoát ly khỏi lao
ngục vậy. Và kể từ đó họ sống như kẻ không có quê nhà.
Trong gia đình anh em ruột thịt nhiều lúc “xào xáo” nhau vì cha
mẹ chia đất không công bằng hay nịnh bợ, thoái thác cho nhau trách
nhiệm chăm sóc cha mẹ già.
Có một phần không nhỏ những người trưởng giả họ dư thừa các
tiện nghi vật chất nhưng lại quan niệm lệch lạc về giá trị sống nên họ
sống bất cần đời, họ kính nể anh em ruột thịt và cũng chẳng coi ai là

291
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
gì. Ở thành phố do đặc thù về nghề nghiệp, cuộc sống đua chen…nên
người ta nhiều lúc chỉ sống với gia đình mà chẳng cần quan tâm đến
ai khác, thậm chí gia đình hàng xóm bên cạnh mình cũng chẳng biết
là ai.
Tất cả những thực trạng đó đang réo gọi mỗi người chúng ta hãy
ra sức vực dậy và làm triển nở những giá trị của tình huyết nhục, tình
làng nghĩa xóm và xa hơn nữa là tình yêu dành cho hết mọi người.
Như vậy xã hội tương lai của chúng ta mới mong đứng vững trong,
trước bao “con sóng” của thời đại.
Đối với niềm tin Công giáo, chúng ta được mời gọi tất cả mọi
người dù là huyết nhục hay người dưng nước lã đều không quan
trọng, quan trọng chúng ta là con cái Chúa, tất cả chúng ta đều là chi
thể trong Đức Giêsu Kitô. Trong Đức Kitô chúng ta trở nên máu mủ,
huyết nhục với nhau. Trong huyền nhiệm về con người, chúng ta
phải chấp nhận một thực tại là dù tương quan, huyết nhục hay người
dưng thì đều có thể kéo theo nhiều hệ lụy trong đó bởi vì đã là con
người thì chẳng mấy ai hoàn hảo. Vì thế chúng ta luôn phải chấp
nhận những hệ lụy đến từ những rạn nứt đổ vỡ trong tương quan,
không có những con người hoàn hảo nên cũng chẳng có những tương
quan bền vững hoàn hảo. Thực tế cho ta thấy “huynh đệ vẫn tương
tàn” hay có khi “tha nhân là địa ngục”. Dù sao chúng ta cũng phải ra
sức dấn thân để xây dựng những mối tương quan tốt đẹp cho chính
bản thân và xa hơn chúng ta luôn trở thành trung gian, trở thành mối
dây và hiện thân của tình hiệp thông, tình liên đới. Có khi dấn thân
cho Thiên Chúa, cho con người, nhiều khi chúng ta cũng phải chấp
nhận hy sinh và trả giá đắt như lời vịnh gia đã giãi bày với Chúa:
“Âu cũng vì Ngài mà con bị người đời thóa mạ
Chịu nhuốc nhơ phủ lấp mặt mày
Anh em nhà kế con như người dưng nước lã

292
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Hàng máu mủ xem con bằng khách lạ mà thôi” (TV 89, 8 – 9)
Chúng ta cảm thấy cuộc đời, con người có lúc vô tâm, phũ phàng
hay nhiều khắc nghiệt, nhưng không sao, vì Ngài, vì tình yêu Thiên
Chúa, vì ơn cứu độ, chúng ta chấp nhận hết!
Cuối cùng, chúng ta phải chấp nhận rằng cuộc sống dễ thay đổi,
tình đời cũng dễ đổi thay, nhưng chúng ta vẫn luôn được cha ông
truyền lại cho nhiều kinh nghiệm sống quý giá để sống tình tương
thân tương ái và để chống chọi với nhiều thứ văn hóa độc hại. Chúng
ta đang sống trong một xã hội dễ bị chao đảo, suy thoái của các giá
trị đạo đức nền tảng. Vì vậy con người phải biết trở về nguồn cội để
tìm lại cái căn cốt của đời sống tinh thần, đó là tình máu mủ, tình
làng nghĩa xóm và cao sâu hơn nữa là tương quan liên đới trong tinh
thần để cùng nhau chia sẻ, tận hưởng hạnh phúc cuộc đời. Đó là
những kinh nghiệm tinh túy mà cha ông đã lo liệu cho thế hệ trẻ
bước vào tương lai một cách vững vàng hơn.
Đan Viện Biển Đức Thiên Phước
Jean.B – Biển Đức Nguyễn Đình Lưu

293
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: “Có một điều không phải ai cũng làm được: Đó là
mình ngày hôm nay phải tốt hơn mình ngày hôm qua”. Theo anh,
chúng ta nên làm gì và làm thế nào để mỗi ngày một tốt hơn?
Bài làm:
Cuộc sống con người là một cuộc hành trình rèn luyện bản thân
không ngừng. Trong hành trình đó mỗi lời nói, cử chỉ, hành động,
việc làm của bản thân…sẽ làm nên trang sử cho đời mình. Trang sử
đó mỗi khi đã viết ra trên dòng đời thì không thể nào tẩy xóa được.
Những điều xấu, điều tốt vẫn cứ hiển hiện âm thầm trong ký ức của
chúng ta. Vì vậy, để cho trang sử của mình được thơm hương đẹp đẽ
làm tấm gương sáng cho hậu thế thì mỗi bản thân chúng ta phải hoàn
thiện mỗi ngày, phải ý thức rằng: “Đó là mình ngày hôm nay phải tốt
hơn ngày hôm qua”.
Thế giới xung quanh ta vẫn luôn vận động không ngừng và biến
đổi. Thời gian cứ vùn vụt trôi nhưng bóng câu qua cửa sổ nếu chúng
ta không biết tận dụng thời gian để sửa đổi bản thân thì một ngày nào
đó mình phải ngậm ngùi tiếc nuối.
Ngày hôm nay tức là hiện tại mình đang sống, tức là ngay lúc này
đây mình đang nói, đang làm, đang ý thức, đó chính mới là đời sống
thực của chúng ta. Trong hiện tại này mình không phải là một ốc đào
đơn lẻ nhưng đang thực hiện mối tương quan với mọi người. Đang
cùng với mọi người vui đắp, xây dựng cuộc sống cho ngày càng tốt
đẹp hơn. Cuộc sống chúng ta là bức tranh muôn màu mà bản thân
mình cũng làm nên một gam màu trong đó. Nếu mỗi người đều mang
những gam màu sáng, màu sắc rực rỡ thì bức tranh sẽ tươi đẹp giàu
sức sống. Gam màu sáng đó là những giá trị đẹp, cao quý như yêu
thương, chia sẻ, vị tha…Còn gam màu tối là những nết xấu như tham
lam, ích kỷ, kiêu ngạo và đầy dục vọng…thì sẽ làm cho bức tranh
cuộc sống đầy màu đen tối, xám xịt và u buồn. Thế giới lúc đó chỉ có
tranh chấp, hận thù mà không có yêu thương.

294
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Giây phút hiện tại thật là quý giá biết bao. Vì chỉ có lúc này
chúng ta mới thực hiện được công việc và dự tính của mình. Tương
lai thì nó chưa đến còn quá khứ thì đã qua. Làm tốt công việc bổn
phận của bản thân ở ngay giây phút hiện tại chính là chúng ta đang
đón chờ tương lai.
Thế nhưng nhiều người đã không ý thức được tầm quan trọng của
giây phút này. Họ sống mơ mộng và ảo tưởng tâm hồn, cứ “mơ theo
trăng và vớ vẩn cùng mây”, nhìn xa xăm ở một phương hướng nào
đó mà không chịu hành động. Họ trông chờ may mắn ở tương lai
nhưng tương lai của họ đem lại cho họ chỉ toàn điều thất vọng. Họ
không biết tận dụng thời gian để thay đổi và rèn luyện bản thân
mình. Để rồi ngày qua ngày họ chẳng có gì thay đổi. Con người họ,
bản tính họ vẫn cứ như ban đầu.
Còn ngày hôm qua đó chính là quá khứ rồi. Những việc làm ở
quá khức thì mình không thể thay đổi được. Nó như một dấu son gắn
chặt lên trang sử cuộc đời. Những sai lầm ở quá khứ dù có tiếc nuối,
hối hận thì cũng không thay đổi được. Quý khứ đó chính là bài học
đắt giá và thấm thía cho hiện tại. Ví dụ như một người con đi xa cha
mẹ, xa quê hương để làm ăn. Ngày đêm cha mẹ mong mỏi, ngóng
trông con về đoàn tụ gia đình. Nhưng người con cứ hẹn lần này đến
lần khác vì mãi làm ăn, kiếm cho được thật nhiều tiền. Đến khi về thì
cha mẹ không còn nữa, lúc đó chỉ biết hối hận và ăn năn, giá như…
thì đã quá muộn rồi
Hoa này tàn thì hoa khác nở
Mất mẹ rồi biết thuở tìm đâu
Tuy nhiên sai lầm của ngày hôm qua đó là bước tiến cho ngày
hôm nay. Chúng ta không thể cứ nhìn vào quá khứ mà phàn nàn bản
thân, đay nghiến cuộc đời, nhưng để từ những vấp ngã đó mà chúng
ta lớn lên, hoàn thiện nhân cách mìnhs.

295
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Ngày hôm nay mình phải tốt hơn mình ngày hôm qua là lời nhắc
nhủ bản thân là chúng ta phải sống thật tốt ở giây phút hiện tại, phải
sống tốt hơn ngày hôm qua. Ngày hôm qua mình chưa yêu thương thì
hôm nay mình phải yêu thương, hôm qua mình chưa chia sẻ với mọi
nguời thì hôm nay mình phải quãng đại. Hôm qua mình còn khép kín
chưa đón nhận mọi người thì hôm nay mình phải rộng mở trái tim.
Ý thức được mình hôm nay phải tốt hơn ngày hôm qua chính là
một bước tiến bộ trong nhận thức về bản thân mình rồi. Đó là một
điều tốt, nhưng chúng ta không dừng lại ở ý thức mà thôi, từ ý thức
chúng ta phải đưa đến những hành động thực sự, việc làm cụ thể.
Yêu thương mà không có hành động thì đó là yêu thương đầu môi
chót lưỡi. Đức tin mà không có việc làm thì là đức tin chết. Chúa
Giêsu cũng đã dạy rằng “Không phải cứ nói lạy Chúa, lạy Chúa là
được vào nước trời cả đâu. Nhưng những ai thi hành ý muốn của Cha
Thầy là Đấng ngự trên Trời mới được vào mà thôi” (MT 7, 21-22).
Chính Thiên Chúa cũng muốn chúng ta hành động làm theo Lời
Chúa, đưa Lời Chúa vào cuộc sống chứ không muốn chúng ta nghe
suông mà để đó.
Vậy phải làm như thế nào để mình ngày hôm nay phải tốt hơn
mình ngày hôm qua. Đây vẫn là nỗi băn khoăn và thao thức của
những người muốn thay đổi, hoàn thiện bản thân mình.
Trong thực tế cũng có nhiều người có thiện chí muốn hoàn thiện
mình, họ hăng hái và lạc quan nhưng chỉ một thời gian ngắn họ lại bỏ
cuộc và hành trình họ lại dang dở. Vì sao vậy? Thưa rằng, vì họ không
có phương pháp để thực hiện. Bất cứ công việc vì dù lớn hay bé thì nó
đều có cách thức và phương pháp thực hiện. Đơn giản như chuyện ăn
uống cũng phải có phương pháp cụ thể nếu không sẽ phát sinh ra bệnh
tật. Không làm cho cơ thể khỏe mạnh mà còn làm cho nó yếu dần đi.
Một việc xem ra nhỏ như vậy mà còn đòi hỏi phương pháp như vậy
huống chi là việc thay đổi bản thân trọng đại của con người.
296
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Nhà triết học Socrates nói “hãy tự biết mình” nghĩa là ta phải ý
thức được về bản thân ta đang làm gì và đang ở đâu. Chúng ta phải tự
đặt câu hỏi cho bản thân mình rằng: Ta sinh ra bằng cách nào, sống
để làm gì và chết rồi đi đâu? Để chúng ta biết trân trọng cuộc sống,
nhận ra giá trị và bổn phận của bản thân trong cuộc đời này.
Khi đã nhận thức vấn đề xong chúng ta bắt tay vào hành động.
Lên một lịch trình cụ thể, rõ ràng, xem tật xấu nào cần phải loại bỏ
trước, tật xấu nào dễ bỏ thì ta làm trước. Chẳng hạn như tính lười
biếng thì ta phải ghi ra từng việc phải làm trong ngày mà ta phải
hoàn thành từ việc nhỏ đến việc lớn.
Khi làm việc sẽ giúp cho ta phát huy thêm tính sáng tạo và góp
phần rất tích cực loại bỏ những tư tưởng xấu. “Nhàn cư vi bất thiện”,
người xưa đã dạy thì đâu có sai. Lười biếng là cha đẻ mọi mọi thói
hư tật xấu.
Việc loại bỏ một tật xấu thì kèm theo đó là rèn luyện một nhân
đức tốt. Loại bỏ tính keo kiệt, bủn xỉn thì ta sẽ có được tính quảng
đại, biết chia sẻ với mọi người nhất là đối với người nghèo khổ. Bởi
chúng ta tâm niệm rằng:
“Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”
Ngày hôm nay mình phải tốt hơn ngày hôm qua. Chính giây phút
hiện tại mình sắp sửa nói, sắp sửa làm là cơ hội để chúng ta sửa đổi
bản thân. Từng giây từng phút sống tốt thì cuộc đời sẽ tốt. Hãy trân
trọng hiện tại, hãy trân trọng ngày hôm nay mình đang sống và hãy
tận dụng hết khả năng và điều kiện có thể để làm một cuộc cách
mạng thay đổi bản thân.
Tuy nhiên chúng ta cũng nên biết rằng: “trên bước đường thành
công không có dấu chân của kẻ lười biếng”, nghĩa là chúng ta phải
hành động liên lỉ, kiên trì nhẫn nại và thận trọng thì kết quả sẽ đến

297
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
với chúng ta sau mỗi hành động, sau mỗi ngày sống của chúng ta.
Những ai có thói quen viết nhật ký thì sẽ thấy rõ điều nàu: Sau một
ngày vất vả, nỗ lực, đêm xuống là lúc nghỉ ngơi, chúng ta ngồi lại
xem ngày hôm nay mình đã sống tốt hơn ngày hôm qua chưa. Họ
nhìn lại ngày sống trong thinh lặng, họ suy tư về việc mình làm, phân
tích, tìm ra lời giải cho việc dang dở để ngày mai họ tiếp tục hoàn
thành những việc còn dở dang.
Tấm gương cho chúng ta noi theo trong việc nổ lực hoàn thiện
bản thân đó là Mẹ Tê-rê-sa Can-cút-ta. Cuộc đời của Mẹ đã dành hết
tình yêu thương cho những người nghèo khổ, bần cùng của xã hội.
Mẹ đã không ngừng sống tốt mỗi này, mỗi ngày của Mẹ là đầy ắp
tình yêu thương và phục vụ. Qua ngày mới Mẹ lại mong muốn hiến
dâng, phục vụ và yêu thương cho người nghèo nhiều hơn.
Chính thiên tài âm nhạc Ludwig Van Beethoven lúc về già đã bị
điếc đó là một nỗi bất hạnh lớn lao cho ông. Một nhạc sĩ sống với âm
nhạc mà bây giờ không còn nghe được nữa thì thật đau khổ biết bao.
Nhưng với nỗ lực, ý chí nghị lực phi thường, ông đã vươn lên mỗi ngày
để sáng tác ra bản giao hưởng định mệnh làm rung động cả thế giới.
Dale Carnegie một nhà diễn thuyết hùng biện đại tài nhưng mấy
ai biết rằng lúc nhỏ ông là một cậu bé nói lắp. Nhưng với ước mơ và
ý chí vươn lên mỗi ngày ông đã chiến thắng được bản thân trở thanh
một nhà hùng biện nổi tiếng, không dừng lại ở đó, ông còn cống hiến
cho nhân loại những tác phẩm rất sâu sắc, tiêu biểu nhất đó là cuốn
sách “Đắc nhân tâm”.
Tục ngữ Việt Nam có câu:
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền”
Trong quá trình sống tốt mỗi ngày, chúng ta sẽ gặp không ít gian
nan thử thách, đó là sự nặng nề của thân xác của môi trường chung

298
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
quanh đầy cám dỗ. Nhưng cho dù thế nào thì chúng ta cũng phải kiên
trì, bến bỉ, trung thành với đường ta đã đi. Nếu chúng ta bỏ cuộc thì
xem ra chúng ta đã nãn chí, mà có thử thách như vậy, chúng ta mới
thấy rõ bản thân mình.
Vì phỏng đường bằng phẳng cả
Anh hùng hào kiệt có hơn ai.
Trong bối cảnh xã hội hiện nay, nhiều người vẫn chưa ý thức rõ
tầm quan trọng của việc sống tốt mỗi ngày. Mà thay vào đó là chạy
đua với thời gian với công việc để làm sao có được một cuộc sống dư
giả, đầy đủ. Trong con ngừi, khi một mặt kia được hoạt động nhiều
thì mặt này sẽ giảm lại. Giá trị vật chất được chú trọng thì giá trị tinh
thần đạo đức bị xem nhẹ lại. Nhất là với lớp trẻ ngày nay chỉ biết học
chữ để giỏi thêm hay công việc cho nhiều tiền mà quên đi trau dồi
rèn luyện đạo đức cho bản thân.
Đối với mỗi bản thân người công giáo nói chung và tu sĩ nói
riêng thì việc sống tốt mỗi ngày là chúng ta đang chu toàn bổn phận
mình đối với Chúa. Chúng ta cố gắng sống tốt mỗi ngày là chúng ta
đang Phúc âm hóa, đem Lời Chúa vào cuộc sống chúng ta. Trong sự
nổ lực đó chúng ta không ngừng đặt hết niềm tin yêu phó thác vào
Chúa quan phòng, đồng thời xin Chúa bổ trợ giúp sức cho từng nổ
lực của chúng ta. Khi chúng ta sống tốt ở hiện tại, sống tốt hơn ở quá
khứ là chúng ta đang trân trọng món quà của Chúa ban cho chúng ta
đó là thời gian.
Lời nhắc nhủ mình hôm nay phải tốt hơn mình ngày hôm qua
luôn vang vọng trong mỗi chúng ta. Như hồi chuông cảnh tỉnh chúng
ta xem lại đời sống mình đang sống. Nếu chúng ta đã góp phần làm
cho xã hội này cuộc sống này ngày càng tốt đẹp hơn.
Phêrô Phạm Văn Hoàn

299
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài 35:“Mỗi ngày tôi tự xét ba việc: Làm việc gì cho ai có
bất trung không? Giao thiệp với bạn bè có bất tín không? (Thầy)
dạy cho điều gì có bất tập không?”(Tăng Tử)
Bài làm:
Một ngày nào đó khi hoàn hôn của đời người xế bóng, liệu có
một ai trong chúng ta dám tự hào cho rằng mình đã sống một cuộc
đời hoàn hảo. Quả thực, mỗi một người chúng ta đều có những hoàn
cảnh, địa vị hay trình độ khác nhau, và khi chúng ta có thể đạt tới
đỉnh vinh quang hay chỉ dừng lại ở một giới hạn nhất định thì chúng
ta vẫn thấy mình còn có nhiều khiếm khuyết. Chính vì thế việc nhìn
lại bản thân sau mỗi ngày sống là điều hết sức cần thiết để xem xét
mình đã sống như thế nào. Tăng Tử - một nhà nho học rộng và thành
thật thì tâm sự rằng:
Vậy, mỗi người chúng ta thì sao, chúng ta có “tự xét” như Tăng
Tử hay không, và liệu câu nói của ông có còn có ý nghĩa và phù hợp
với xã hội hôm nay.
Câu nói của Tăng Tử đưa ra cho chúng ta ba câu hỏi rất rõ ràng
giống như “bảng xét mình”, ẩn sâu trong ba câu hỏi ấy là ba phẩm
chất quan trọng để xây dựng các mối quan hệ đó là: “trung” chính là
sự tận tình, hết lòng trong mỗi việc, “tín” đó chính là sự tin tưởng lẫn
nhau trong cuộc sống và “tập” chính là việc thực hành một cách
thông thạo dựa trên tiền đề cho sẵn. Như vậy, câu nói của tác giả nêu
trên có thể ví được như ba mũi tên, nhưng cùng hướng về một đích
điểm đó là việc tự xét bản thân mỗi ngày. Và điểm nhấn ở đây chính
là việc “tôi tự xét bản thân tôi ba việc”. Câu nói gợi mở cho chúng ta
phương cách hoàn thiện bản thân mỗi ngày.
Có một ai đó đã đưa ra nhận định rằng: “Có một điều không phải
ai cũng làm được đó là mình ngày hôm nay phải tốt hơn mình ngày
hôm qua”. Đúng thế,việc hoàn thiện bản thân không phải là điều dễ,

300
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
cho nên bản thân mỗi người chúng ta cần phải tự xét bản thân mình
mỗi ngày. Để qua việc xét mình này, chúng ta sẽ nhìn rõ con người
thật của mình. Cũng giống như người kinh doanh, buôn bán, hàng
ngày, hàng tháng họ cũng phải ngồi lại kiểm soát xem liệu ngày hôm
nay mình làm ăn lời hay thua lỗ, mình có gây được thiện cảm và sự
tin tưởng nơi khách hàng. Cũng vậy, việc “tự xét” bản thân tựa như
chiếu gương chiếu lại hành trình sống của mỗi người. Khi hoàng hôn
buông xuống, nhìn vào tấm gương, chúng ta dễ dàng nhận ra mình đã
“gặt hái” được gì, và quan trọng hơn là mình còn có những thiếu sót,
hạn chế nào để rồi từ đó tự bản thân mỗi người sẽ đưa ra quyết tâm,
vạch ra một phương hướng tốt hơn cho những chặng đường kế tiếp.
Đây chính là “bệ phóng” để chúng ta hoàn thiện bản thân mỗi ngày.
Các đội quân, các tướng lãnh hay mỗi chiến binh sau mỗi trận
đánh cũng sẽ phải kiểm duyệt lại đội quân của mìnhm xem xét liệu
đội quân của mình có hao tổn gì không, kế sách liệu có ổn thỏa hay
không. Để từ đó đưa ra những chiến lược mới cho trận đánh sắp tới.
Nhận ra được tầm quan trọng của việc tự xét mình qua mỗi ngày
sống như thế, nhưng liệu chúng ta đã biết mình cần phải xét những gì
hay chưa. Tăng Tử đã đưa ra cho chúng ta ba vấn đề rõ ràng để
chúng ta xét mình.
Trước hết, chúng ta phải xét xem: “Làm việc gì cho ai, có bất
trung không?” một câu chất vấn thật rõ ràng và dứt khoát. Như chúng
ta đã cắt nghĩa ở trên, “trung” chính là sự tận tâm, luôn hết mình
trong mọi công việc. Như thế việc chúng ta xem xét đầu tiên đó là
bản thân mình khi làm việc cho ai đó đã hết lòng hay chưa? Dừng lại
trong giây lát chắc chắn mỗi chúng ta sẽ có câu trả lời xác thực cho
bản thân mình. Vậy khi làm việc cho ai mà bất trung thì hậu quả sẽ
như thế nào? Đây chính là điều chúng ta phải lưu tâm hơn cả. Trước
hết, khi chúng ta làm việc cho ai đó mà không giữ được chữ “trung”

301
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
thì bản thân tôi sẽ mất đi niềm tin từ người khác, bản thân mình sẽ
đánh mất chính mình. Sau nữa, chúng ta sẽ gây thiệt hại cho người
khác và kết quả của công việc sẽ không cao.
Điều xét mình thứ hai đó là: “Giao thiệp với bạn bè có bất tín
không?” Cũng vậy, khi chúng ta đánh mất chữ “tín” dù ở trong bất cứ
mối quan hệ nào thì cũng dãn đến những mất mát nhất định. Mà trong
trường hợp nêu trên, khi chúng ta giao thiệp với bạn bè mà bất tín,
chúng ta mất đi một người bạn, mất đi sự tin tưởng từ nhiều người
khác nữa, vì “một lần bất tín, vạn lần bất tin” là như vậy.
Điều xét mình cuối cùng mà Tăng Tử đề ra cho chúng ta đó là:
“(Thầy) dạy cho điều gì có bất tập không?” Có lẽ ai trong chúng ta
cũng có một sở thích riêng cho mình. Đặc biệt là trong các môn thể
thao, và chúng ta dễ dàng nhận ra một điều đó là chúng ta phải tập
luyện đều đặn, nếu chúng ta muốn giỏi một bộ môn nào đó. Như thế
việc chúng ta “bất tập” sẽ là một cản trở rất lớn trong việc thông thạo
bất cứ một công việc gì, vì: “ngọc bất trắc bất thành khí”. Đồng thời
việc luyện tập mà không có sự chăm chỉ, kiên trì, đều đặn thì khi đó
chúng ta đã phụ lòng những vị “thầy” của mình.
Qua ba từ: “trung – tín – tập” được nhấn mạnh qua ba câu hỏi,
Tăng Tử đã đưa ra cho chúng ta một bảng xét mình để chúng ta nhìn
vào đó mà xét lại bản thân mỗi ngày. Mỗi người tùy theo địa vị và
hoàn cảnh khác nhau đều có thể dựa vào ba điều này để gọt giũa, trau
dồi bản thân.
Mặc dầu, câu nói của Tăng tử đã được cảm nghiệm từ rất lâu,
nhưng giá trị của nó vẫn có ý nghĩa và tồn tại mãi với thời gian.
Dù sống trong bất cứ thời đại nào, đã là con người thì luôn mang
những thiếu sót, “nhân vô thập toàn”, có ai là tuyệt đối, là hoàn hảo
đâu. Bản thân mỗi người chúng ta đều phải xét mình hàng ngày, mà
điểm quan trọng ở đây là “tôi tự xét tôi”. Tại sao vậy? Có ai đó đã

302
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
cảm nghiệm được rằng: “Chiến thẳng hiển hách nhất đó là chiến
thắng bản thân mình”. Đúng vậy, trên đời này, mỗi người luôn mang
trong mình những nét riêng biệt, mỗi người có một nét đẹp, một khả
năng riêng mà người khác không có. “Tôi phải tự xét tôi” vì tôi muốn
sống tốt hơn, vì tôi muốn sống đúng thật với con người mình, tôi
nhận ra được yếu điểm để khắc phục, biết sai để sửa sai. Chính lúc
này, tôi sẽ tìm được chính mình. Qua việc xét mình mỗi ngày, chúng
ta sẽ cảm thấy mình gọt tỉa, có thể chúng ta sẽ cảm thấy không hài
lòng, lắm lúc là khó chịu, nhưng thành quả chúng ta sẽ nhận được sẽ
là phần thưởng cao quý mà phần thưởng này chỉ dành cho những ai
biết can đảm, dám chấp nhận, dám hy sinh để đánh đổi. Ba điều xét
mình mà Tăng Tử đưa ra cũng mang một sức nặng rất lớn trong con
đường “tu thân” của mỗi người. Cuộc sống của chúng ta là những
mối tương quan, vì không có ai là một hòn đảo. Dù ở bậc sống nào,
chúng ta cũng phải sống ba phẩm chất: trung – tín – tập. Hiểu và cố
gắng sống theo ba đức tính này chúng ta sẽ sống một cuộc đời có ý
nghĩa và có giá trị thực sự.
Đến đây, chúng ta có thể thấy được rằng, câu nói của Tăng Tử
luôn có giá trị và mang ý nghĩa thật sâu xa trong việc hoàn thiện bản
thân, cho dẫu chúng ta đang sống trong thời đại nào.
Nhưng, chúng ta cũng cần nhìn lại vấn đề một chút, liệu câu nói
của Tăng Tử đã đúng và phù hợp hoàn toàn hay chưa. Khi xem xét
nội dung tự xét bản thân mà Tăng Tử nêu ra, chúng ta thấy ba điều
mà ông đưa ra còn quá sơ lược và còn nhiều thiếu sót. Cuộc sống của
chúng ta còn biết bao nhiêu điều, còn biết bao nhiêu đức tính nữa mà
chúng ta phải xem xét, kiểm điểm. Và thói quen tự xét mình sau mỗi
ngày sống không phải là điều ai cũng có thể thực hiện một cách đều
đặn và đầy đủ.

303
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Mỗi một người chúng ta tùy theo bậc sống và hoàn cảnh của
mình cần tìm ra một phương cách hợp lý nhất. Chúng ta cần nâng
cao ý thức tu dưỡng bản thân thường xuyên, nên tạo cho mình thói
quen xét mình mỗi ngày. Đồng thời, chúng ta cần đưa ra một bản xét
mình thật đầy đủ, có nội dung cụ thể, toàn diện trong tất cả các mối
tương quan. Có được như thế, chúng ta mới tiến bộ hàng ngày.
Mở rộng vấn đề, chúng ta còn nhận thấy được rằng việc xét mình
không chỉ gói gọn trong việc trau dồi bản thân, nhưng đó còn là việc
cho các tập thể, từng cộng đoàn và toàn thể xã hội đều phải thực
hiện. Từng cơ quan, xí nghiệp, công ty cần phải xem xét mình có làm
việc chỉ vì riêng cá nhân, riêng cho tập thể mình hay không. Phải
chăng chúng ta làm việc chỉ vì hoa lợi chứ không có đạo đức nghề
nghệp, không quan tâm đến nhu cầu của khách hàng.
Là một Kitô hữu, là một người đang sống trong đời sống Thánh
hiến, chúng ta cũng cần phải xét mình mỗi ngày. Qua mỗi ngày sống,
chúng ta xem xét khi chúng ta làm việc cho anh em chúng ta có bất
trung không, đối với bạn bè chúng ta có làm mất lòng tin nơi họ và
khi được bảo ban dạy dỗ, đặt biệt là những lời nhắc nhở, chỉ bảo của
bề trên chúng ta có mau mắn thực hiện?
Trong tương quan với chính bản thân mình, liệu chúng ta có luôn
tự suy xét hàng ngày hay chúng ta chỉ lo xét đoán, tìm những yếu
kém của anh em xung quanh mà thôi. Và việc xét mình của chúng ta
có đều đặn hay không, hay chỉ có bữa có bữa không. Và quan trọng
nhất là chúng ta có mối tương quan như thế nào đối với Thiên Chúa.
Một trong những điểm nhấn mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đề
cập trong Sứ điệp Mùa Chay năm 2015 đó là “hiện tượng toàn cầu
hóa thói vô cảm, vô cảm với tha nhân, vô cảm với Thiên Chúa”.
Chính vì thế việc nhìn lại bản thân là hết sức quan trọng và cấp thiết.
Qua việc xét, mình, chúng ta hướng về Thiên Chúa với lời tạ lỗi chân

304
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
thành. Đồng thời, chúng ta hãy đưa ra những quyết tâm, những định
hướng mới, có thể đó là chúng ta sống yêu thương, bác ái hơn với
anh em, luôn kết hiệp với Chúa mỗi ngày. Có làm được như thế thì
mỗi tình của chúng ta đối với Thiên Chúa sẽ ngày càng thắm thiết,
sâu đậm. Không những chúng ta xét mình theo cá nhân, nhưng chúng
ta cũng cần phải xét mình theo từng đơn vị, từng cộng đoàn. Khi làm
được điều này chắc chắn cộng đoàn và Hội dòng của chúng ta sẽ
luôn đầy tình thương và đầy ắp tiếng cười.
Tóm lại, câu nói của Tăng Tử tuy ngắn gọn, nhưng nó thật đúng
và sức nặng trong việc tu thân. Quả thật, mỗi một người cần phải tự
suy xét lại bản thân mình mỗi ngày, qua ba tiêu chuẩn mà Tăng Tử
đã đặt ra cho chúng ta đó là: trung – tín – tạp. Đồng thời tùy theo
từng địa vị, hoàn cảnh sống khác nhau mà mỗi người cũng đưa ra
những việc vần suy xét khác sau mỗi ngày sống. Với ơn Chúa, cùng
với nỗ lực của bản thân, hy vọng, chúng ta sẽ gặt được nhiều thành
quả trong việc tu thân khi chúng ta đọc và suy tư về câu nói trên.
Phaolô Đinh Chí Cung

305
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Giữa trăm ngàn khó khăn
Chỉ cần anh vững bước
Ngẩng đầu cao hướng trước
Vững tin, ắt công thành!
Trong cuộc sống ngày nay, có lẽ điều thay đổi lớn nhất ở thế hệ
trẻ không phải là tài năng về mặt kỹ thuật hay công nghệ, mà là ở
lòng tin. Quả thật, dựa trên sự phân hóa về lòng tin giữa từng người,
từng nhóm người mà thế giới phát triển và bị chia cắt theo môt nghĩa
nào đó, đến mức sự chênh lệch tạo ra giữa những người hay nhóm
người này mỗi lúc một lớn. Nhiều nghiên cứu cho thấy sự khác biệt
này, cụ thể như một số nghiên cứu về” Self-Esteem” ở Đức và Mỹ
cho thấy rõ nhóm người có điểm tự tin cao thì khả năng và tỷ lệ
thành công trong cuộc sống cao hơn rõ rệt so với những người thấp
điểm. Như thế, quả là các bậc tiền nhân nói không sai khi nhận định:
“Niềm tin là cốt tủy của thành công”. Hơn nữa, ngạn ngữ Ba Lan
cũng có câu: “Lòng tin dù lớn hay nhỏ, cũng có thể làm nên những
điều kỳ diệu nhất”. Để khái quát và đi sâu hơn khía cạnh quan trọng
này về lòng tin, ta cùng bình luận câu ngạn ngữ ấy.
Trước hết, ta phải định nghĩa rõ ràng thế nào là “tin”, từ đó xem
xét các chiều kích khác nhau của khái niệm ấy. Ắt hẳn, tin là sự quy
hướng về mặt cảm xúc, nhận thức và hành động của một chủ thể đối
với một đối tượng nào đó, đối tượng ấy có thể là chính bản thân chủ
thể, cũng có thể là một Đấng, một người, thậm chí là một vật nào đó
trong mức độ chủ thể nhận biết được. Nói đến đây, ta cần phải hiểu
sự quy hướng là gì? Quy hướng, nói một cách ngắn gọn, là việc dồn
một thứ hay nhiều thứ (mà ở đây chính là cảm xúc, nhận thức, hành
vi chủ thể) vào một đối tượng, chỉ vì đối tượng ấy trong tương quan
với những đối tượng khác mà phấn đấu và phát triển. Như thế, khi
một ai quy hướng về ddiefu gì, người đó sẽ đặt điều ấy làm trung tâm

306
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
trong cuộc sống của họ. Cũng vậy, khi một ai tin tưởng điều gì,
người đó sẽ dùng, sẽ nhận điều ấy như xuất phát điểm và động lực
thúc đẩy họ trong suốt cuộc đời, hoặc trong thời gian bao lâu mà họ
còn tin tưởng điều ấy. Nhận ra thế, chắc hẳn ta có thể mường tượng
sức mạnh của lòng tin lớn đến chừng nào!
Tuy nhiên, cũng như mọi trạng thái khác, lòng tin cũng có mức
độ của nó và “lớn hay nhỏ” thì phụ thuộc rất nhiều lý do, nhưng
chung quy lại, phần lớn phụ thuộc vào bản thân người tin. Quả thật,
nếu một người có cảm xúc không ổn định hay thay đổi thì lòng tin
của họ cũng dễ thay đổi trước biến động của môi trường, hoàn cảnh
xung quanh. Hơn nữa, nếu một người có nhận thức cao khả năng lý
luận tốt có thể dẫn đến một lòng tin mạnh mẽ, nhưng cũng có thể
nâng cao sự hoài nghi vào mọi thứ khiến lòng tin giảm manh. Rõ là
không điều chi là cụ thể và hoàn toàn đúng được trong mọi trạng
huống, nhưng hiển nhiên dù có sự khác biệt mấy đi nữa thì câu ngạn
ngữ Ba Lan cũng không sai một phần nào: “Lòng tin dù lớn hay nhỏ
cũng có thể làm nên những điều kỳ diện nhất”. Vaangm đối với ai có
lòng tin, dù nhỏ vô cùng (chỉ như một hạt cải) hay lớn vô vàn (như
sông như núi), thì quanh họ sẽ luôn có những “điều kỳ diệu”! Có thể
chỉ là một điểm số cao, có thể chỉ là một cái bánh không bị cháy
khét, hay thậm chí chỉ là một nụ hoa rất nhỏ của chậu cay trước
nhà…tất cả chính là những “điều kỳ diệu”! Và những điều kỳ diện ấy
do đâu mà có? Thưa, bởi lòng tin của một ai đó trong cuộc sống này!
Nếu ta đi sâu hơn, ta càng thấy câu ngạn ngữ ấy hay hơn nhiều
lần nữa! Thực sự, khi một ai đó có lòng tin, tự chính nơi họ sẽ phát
sinh một năng lực khiến họ dấn thân phấn đấu theo tiếng gọi của lòng
tin đó thúc đẩy. Với lòng tin là vũ khí, họ sẵn sàng chiến đấu với mọi
thử thách trong đời mình với sự kiên nhẫn, hy vọng và ở mức nào đó,
là sự lạc quan, vui tính. Nghĩ như thế, lòng tin là tiền đề tất yếu cho

307
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
cuộc tranh đấu để mở ra những thay đổi, những điều kỳ diệu! Nhưng
còn xa hơn thế, lòng tin còn là hệ quả tất yếu được củng cố và nâng
cao hơn ngay từ trong những điều kỳ diệu. Tin là một chu trình xoắn
ốc, liên tục mở ra những vòng xoay mới lớn lao và ấn tượng. Qua
cách chuyển trao sức mạnh của nó thông qua cảm xúc và nhận thức
của mỗi người, lòng tin tự vui đắp cho chính nó bằng những hành
động tuyệt vời và lạ lùng vô cùng! Hỏi có ai trên đời, nhất là những
người khiếm thính, khiếm thị lại không biết đến Heinrich Schliena
hoặc một tín đồ Phật tử nào mà lại chẳng nhớ đến Đường Huyền
Trang – Đường Tam Tạng? Những con người ấy chính là hiện thân
của “vỏ ốc nhiềm tin” trong cuộc sống thực này! Quả thật, nếu cô
giáo khiếm thị chữa mắt 7 lần là Anne Sullivan đã không tuyệt đối
tin tưởng rằng cô học trò ương bướng mù, câm, điếc Helen Keller
của mình có thể học được ngôn ngữ ký hiệu, thì có lẽ cô đã không
lao vào một cuộc chiến “thực sự từng ngày với Helen: có lúc trên bàn
ăn, có lúc trong phòng ngủ, trong nhà kho, thậm chí là khắp mọi nơi
trong căn nhà đã được ủy thác cho cô vậy! Máu và những vết thương
trên khắp người cô và trò lại trở thành biểu chứng tuyệt vời của lòng
tin và có ai tin được rằng một đứa trẻ như Helen lại phát âm được
chữ “nước” (water), lại ngoan ngoãn và vui thú với cái thế giới ngôn
ngữ đã “chết” trong em từ khi rất trẻ? Và có ai tin rằng Helen trở
thành một văn sĩ vĩ đại nổi tiếng cả thế giới khi trước đây cô chỉ là
một đứa trẻ quậy phá, hằn học? Đó chính là kỳ tích, là điều kỳ diệu
chứ còn đâu xa nữa!
Hay nếu ta cần một ví dụ khác ta có thể nghĩ đến Heinrich
Schliena. Xuất thân nghèo khó, chỉ một lòng khao khát sẽ đào được
di tích thành Troy vì quá yêu nhà thơ vĩ đại Homero của Hy Lạp,
Schiena luôn phấn đầu không ngừng từng ngày với niềm tin rằng ước
mơ mình sẽ thành sự thật. Cùng với người bạn gái ấu thơ Mina, ông

308
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
ngày càng vun đắp cho niềm tin ấy. Vất vả, long đong nhưng mỗi khi
nghĩ đến ước mơ và mỗi khi nhớ đến người bạn gái thuở nhỏ, ông lại
nhắc mình phấn đấu và phấn đấu. Không khi nào ông quên rằng
“mình sẽ thành công nếu tin tưởng!”. Ông tin người bạn luôn động
viên mình dù đã xa cách, ông tin cả ngay khi chẳng ai cho là ông
bình thường! Nhưng chính lòng tin đã thúc đẩy ông, cứ sáu tháng học
xong một ngoại ngữ, nhịn ăn tích góp và bước vào kinh doanh, để rồi
gây nên một gia tài lớn mà từ đó ước mơ khảo cổ của ông được thực
hiện. Ông tìm được Troy trước sự ngỡ ngàng của cả thế giới, rồi tìm
được thành cổ Miyoncé mà sau này các thế hệ nối tiếp phát hiện
được cả nền văn minh Égee tiền Hy Lạp! Ông hy sinh, quần quật làm
việc và chưa lần nào ông nghĩ mình không làm được ! Và kết quả thì
sao? Ông thực sự làm được.
Rõ ràng, những con người ấy, Anne Sullivan hay Helen Keller,
Schiemam hay Đường Tam Tạng (người đã nhọc công một mình
sang Ấn để thỉnh kinh Phật về cho nước nhà), đều là những người
làm nên kỳ tích “bởi lòng tin”. Chính niềm tin nuôi dưỡng ước mơ và
hy vọng, chính niềm tin giúp họ vượt qua chông gai thử thách và
chính niềm tin củng cố niềm tin nơi họ. Có thể nói, lòng tin với họ
trước là tin vào bản thân mình, sau là tin vào những người xung
quanh cổ động họ. Chính từ đây mà lòng tin kết nối con người họ với
nhau và với một vài người khác, để kỳ tích lại tiếp tục vươn lên từ
những mối nối ấy.
Tuy nhiên, đối với những người Công giáo, dù là cô trò Anne –
Hellen hay Schiemam đi nữa cũng chưa thể sánh với người Cha của
nhiều dân tọc Abraham và Mẹ Chí thánh Maria! Quả thật, nếu những
người kí chỉ đặt niềm tin nơi bản thân hay người khác thì tổ phụ
Abraham và Mẹ Maria có một niềm tin trao trọn vẹn nơi Thiên Chúa.
Abraham đã ra đi mà không biết mình đi đâu, chỉ tin rằng Chúa sẽ

309
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
dẫn ông đi, tin rằng ông sẽ là tổ phụ của một dân tộc “đông như sao
trên trời, như cát dưới biển”. Abraham là ai mà dám không tin điều
Thiên Chúa phán? Ông trả lời Hagai thẳng thừng khi bà có ý phủ bác
Lời hứa của Thiên Chúa trên Sarah. Ông tin đến độ trao hiến con trai
mình làm của lễ hiến tế để từ đó nhận lại người con ấy. Ông tin và
chính vì tin mà ông được kể như là người công chính. Như thế ở đây,
Abraham đã vượt qua cái hạn hẹp của lòng tin con người để vươn lên
với Thiên Chúa và chính Chúa đã làm cho ông muôn điều kỳ diệu.
Còn với Mẹ Maria, từ khi chấp nhận tiếng “xin vâng” cho đến khi
thấy con treo trên Thập giá, khi tất cả đã gần như xa lánh, chạy trốn,
mất hết hy vọng thì Mẹ vẫn tuyệt đối vững tin và từ đó Mẹ trở thành
Mẹ Hội thánh, Mẹ nhân loại. Đối với Mẹ “Đấng toàn năng đã làm
cho tôi biết bao điều cao cả” là câu nói Mẹ luôn dành để ca ngợi
Chúa. Và rồi, nơi Mẹ là muôn điều kỳ diện vì tất cả ý hướng của Mẹ,
cả tình yêu, cả lý trí, cả hành động của Mẹ đều quy hướng về Chúa,
dành trọn cho Người.
Như vậy, lòng tin có hai chiều kích: Hướng Thần và Hướng
Nhân. Cái xã hội này có chính là sự hướng nhân, quy về con người,
có thể là về bản thân (hướng kỷ), cũng có thể về người khác (hướng
tha). Nhưng dù là hướng kỷ hay hương tha, lòng tin vẫn chỉ giới hạn
trong những điều nhỏ bé trần thế, những điều mà dù là kỳ diệu,
không thể trở nên thiêng liêng. Tuy nhiên, đối với lòng tin hướng
Thần, mà theo mỗi Kitô hữu là hướng về Thiên Chúa, thì lòng tin ấy
là một an ban đi kèm và bênh đỡ các ân ban khác, vì cứ như David,
với Chúa mà chiến đấu chống lại Goliat; lòng tin đặt nơi Thiên Chúa
sẽ làm nên điều kỳ diệu lớn lao nhất! Bởi chưng, không phải con
người làm được sự gì, nhưng vì tình yêu mà Thiên Chúa làm nên tất
cả, và đối với Ngài, mọi sự sáng tạo đều là “tốt đẹp”, là kỳ diệu!

310
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Nói tóm lại, lòng tin quả thật là một món quà tuyệt vời mà Thiên
Chúa trao ban cho nhân loại. Lòng tin ấy là nguồn mạch của nhiều
phẩm chất khác, từ tin mà sinh ra hy vọng, vì tin mà kiên cường dấn
thân, nhờ tin mà vượt thắng tất cả, để rồi sinh hoa lợi là những điều
diệu kỳ, tuyệt vời, vĩ đại! Có thể còn đấy những ngã lòng, còn đấy
những hoài nghi nhưng chỉ còn một chút tin tưởng, như tàn lửa còn
sáng giữa rừng cây, thì tất cả sẽ chóng bùng lên và phát sinh kỳ tích.
Rồi, kỳ tích ấy lại củng cố lòng tin và vòng xoắn ốc ngày càng đi lên,
cho đến khi tất cả hiểu ra rằng: lòng tin chính là kỳ tích, là điều kỳ
diệu nhất.
Chúa Giêsu đã phán: “Nếu anh em có lòng tin như hạt cải, thì anh
em có bảo núi này xuống biển kia mà mọc, thì sự cũng sẽ thành cho
anh em”. Như thế, trong cuộc sống, ngoài việc tự tin vào bản thân
mình, ta còn và phải luôn còn đặt niềm tin trọn vẹn vào Chúa, vì từ
nơi Ngời, mới thực sự có những điều kỳ diệu, tuyệt vời nhất. Khi nào
còn Chúa bên ta, thì khi đó ta còn kiên cường tiếp bước. Ước gì mỗi
người chúng ta, những Kitô hữu, luôn có những kỳ tích từ nơi Thiên
Chúa, nhờ tin tưởng vào Ngài, như Thánh Vịnh 36, 5 có nói:
Hãy ký thác đường đời cho Đức Chúa
Tin tưởng vào Ngài, Ngài sẽ ra tay
Và kết với Lời của Sứ thần Gabriel trong Luca 1, 37:
“Vì đối với Ngài, không có gì là không thể làm được”.
Giuse Nguyễn Trung Hiếu

311
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Bài làm:
“Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”, đó là lời mà Đấng
Phục Sinh đã phán để kiên cường đức tin của Thánh Tôma – vị Tông
đồ đã tỏ ra cứng lòng tin trước việc Ngài đã sống lại. Lòng tin trong
cuộc sống là một nhân tố có khả năng tạo nên những điều rất kì diệu
và vĩ đại trong cuộc sống con người. Chẳng thế mà người Ba Lan đã
có câu ngạn ngữ: “Lòng tin dù lớn hay nhỏ cũng có thể làm nên
những điều kỳ diệu nhất”.
Như vậy, lòng tin là gì? Nói cách nôm na, lòng tin là sự chấp
nhận, công nhận về một chân lí, một sự thật trong cuộc sống, có thể
di kinh nghiệm của tập thể hay kinh nghiệm của cá nhân. Trong lĩnh
vực Tôn giáo, lòng tin còn được siêu nhiên hóa để trở thành “đức tin”
khi đối tượng của lòng tin nàu là “đối Thần”, nghĩa là hướng về
Thiên Chúa. Thiếu lòng tin trong cuộc sống, người ta không tìm thấy
bình an, lẽ sống và niềm vui, mọi dự định và kế hoạch cũng trở nên
bất khả thi hoặc nếu có được thực hiện đi nữa thì cũng không có
được kết quả như mong muốn. Nhờ có lòng tin vào Thiên Chúa, lòng
tin vào chính mình mà tin vào người khác, mà biết bao nhiêu điều kỳ
diệu đã xảy ra. Câu ngạn ngữ trên đã xác quyết về một chân lý rất
đúng đắn.
Chúng ta hãy tìm hiểu một cách cụ thể về vai trò và tác động của
niềm tin trong cuộc sống qua ba mối tương quan: lòng tin vào Thiên
Chúa, lòng tin vào chính mình và lòng tin vào tha nhân.
Đầu tiên là lòng tin vào Thiên Chúa có sức thay đổi và thánh hóa
cả cuộc đời một con người. Kinh Thánh dạy chúng ta về hai mẫu
gương sáng chói trong việc đức tin trong cuộc sống thường ngày, đó
là gương của Tổ phụ Abraham và gương của Đức Trinh Nữ Maria.
Một vị đại diện cho Cựu Ước, một vị đại diện cho Tân Ước, nhưng
điểm chung là hai vị đều tin một cách có thể nói là “buông mình” cho

312
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
sự quan phòng của Thiên Chúa nhân lành. Abraham, người đã trở
nên “Cha của những kẻ tin”, vì niềm tin sắt đá của ông nơi Thiên
Chúa, cho dẫu mọi sự quá khó tin và khó thực hiện. Được kêu gọi từ
bỏ quê hương xứ sở để lên đường mà không biết đi về đâu bởi một
Thiên Chúa mà ông không hề biết mặt, rồi vẫn tin tưởng không nao
núng khi thời gian đã qua mà vẫn không thấy hậu duệ nối dõi, và sau
đó sẵn sàng tin vào Lời Chúa để rồi có con trong cái tuổi không ai
ngời. Và tồi dù phải dằn vặt và chịu đau khổ xâu xé biết bao nhiêu,
ông vẫn một lòng vẹn nghĩa với Chúa khi chấp nhận sát tế đứa con
một cho Chúa. Đức Trinh nữ Maria cũng trở nên quản mẫu và là Mẹ
của toàn thể nhân loại vì đức tin kiên vững của Mẹ, Đấng mà bà
Elizabeth đã vui mừng tôn vinh: “Em thật là người có phúc, vì tin và
những Lời Chúa đã nói với em sẽ được thực hiện”. Từ tiếng xin vâng
để trong giây phút trọng đại ấy suốt cả đời mình. Lời xin vâng khi
đối diện với sự lạ mình đang cưu mang Con Thiên Chúa trước những
thắc mắc và đàm tiếu của thế gian, lời xin vâng khi hân hoan chọn
cảnh sống nghèo khó và tự hạ trong suốt chiều dài năm tháng và đỉnh
điểm của lời xin vâng ấy là khi đang đứng dưới chân Thập giá đẫm
máu của Con Người. Chính giây phút đó mà khiến tiếng xin vâng trở
nên quý giá hơn bao giờ hết. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu, khi Ngài
làm phép cho những kẻ đến với Ngài, thứ điều kiện mà Ngàu đòi hỏi
nơi họ là “Anh có tin không?” hau “Chính đức tin của con đã cứu
con”. Như vậy, chính đức tin đã đem lại ơn cứu độ cho những ai đặt
tin tưởng nơi Thiên Chúa. Đức tin là điều kiện tối cần thiết để được
hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Không dừng lại ở đó, lòng tin còn giúp chính bản thân con người
trong cuộc sống của mình. Lòng tin vào chính mình – tự tin luôn là
nhân tố giúp con người thành đạt trong cuộc sống. Có phải chăng vì
mất niềm tin nơi chính mình, cho rằng mình bất lực và không thể giải

313
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
quyết được vấn đề của chính mình mà tỉ lệ tự tử nơi người trẻ hiện
nay là đáng báo động, trong những quốc gia được coi là phát triển và
giàu sang như Hàn Quốc, Nhật Bản? Nhiều lý do được đưa ra như
những áp lực trong cuộc sống, dễ vỡ trong những mối tương quan, va
chạm những cú sốc tâm lý và những sang chấn tinh thần, nhưng
không thể quên yếu tố rất quan trọng là sự phá sản niềm tin nơi chính
mình. Lòng tin vào chính mình giúp người ta có thể giải quyết những
vấn đề của chính mình, bởi vì đánh mất niềm tin nơi chính mình là sự
mất mát vô cùng to lớn. Giuđa là một điển hình rõ ràng.
Hơn nữa, lòng tin nơi than nhân còn là một điều rất thiết yếu để
duy trì và phát triển đời sống xã hội. Con người có xã hội tính, vốn dĩ
không thể sống như những ốc đảo riêng biệt được. Như thế, phải có
niềm tin nơi nhau thì mới có thể xây dựng những mối tương quan
được, và nhớ đó mà xã hội được duy trì và phát triển. Cuối tháng
mười một vừa rồi, chúng con, những sinh viên khoa Xã hội học
trường Khoa học Xã hội và Nhân văn có đi khảo sát thực tế để làm
bào cáo tốt nghiệp. Đề tại là: “Vốn xã hội của người dân tại Xuyên
Mộc, Bà Rịa – Vũng Tàu”. “Vốn xã hội” chính là niềm tin tưởng lẫn
nhau của những con người trong xã hội như một thứ keo dán để nối
kết con người nhằm tạo khả năng cộng tác và xây dựng xã hội. Kết
quả nghiên cứu đó chỉ ra tính thiết yếu và vai trò quan trọng của
niềm tin lẫn nhau - “vốn xã hội”- vào cuộc sống. Thiếu nợ, tương
quan người với người sẽ chỉ là giả dối, đề phòng và sợ sệt. Lòng tin
vào than nhân là điều rất quan trọng để mỗi người được trưởng
thành, được xã hội hóa. Tất nhiên, lòng tin này cũng phải thích hợp
và chín chắn để không gây ra những hậu quả không mong đợi.
Như vậy, lòng tin trong cuộc sống đã đem lại những hiệu quả rất
lớn lao trong đời sống con người. Lòng tin đem lại ơn cứu độ cho
Abraham và lời hứa với ông được thực hiện: “một dòng dõi đông

314
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
như sao trên trời, như cát dưới biển”. Và với Đức Maria, một người
phụ nữ có đức tin không lay chuyển giữa bao phong ba bão táp và
phũ phàng của cuộc đời. Nhờ đó đã trở thành người đầu tiên lãnh
nhận ơn cứu độ mà Con Thiên Chúa trao ban. Chính Chúa Giêsu
cũng đã sống niềm tin ấy, trong giây phút khổ đau cùng cực trên cây
Thánh Giá, dù thấy mình như bị Chúa Cha bỏ rơi, Ngài vẫn luôn tin
tưởng và phó thác nơi Cha Ngài. Và lòng tin không chỉ đem đến ơn
chứ độ mà còn làm cho tương quan giữa người với người trở nên tốt
lành và đem lại hạnh phúc, điều mà hiện nay nhân loại đang dần mất
đi khi họ mất niềm tin với nhau. Thiếu tin tưởng lẫn nhau vì nhận ra
sự gian dối của người khác, phải phòng thủ và dè chừng với những
người chung quanh, sẵn sàng “xù lông nhím” với cuộc đời khi bị phũ
phàng vùi dập, chẳng phải là tình trạng quá phổ biến hiện nay hay
sao? Lòng tin tưởng lẫn nhau là điều cần được phát huy, để cùng
nhau bồ đắp nền văn hóa sự sống và nền văn minh tình thương, điều
mà Thư chung Hậu Đại hội Dân Chúa 2011 đã nhắc đến. Lòng tin
vào chính mình cũng là nhiên liệu để tiếp sức cho cuộc đời mỗi
người được triển nở và viên mãn theo ý Chúa muốn, làm cho ta hạnh
phúc và bình an hơn. Chính việc cố gắng thực hiện những việc dù
nhỏ hay lớn niềm tin vào Thiên Chúa, tự tin vào chính mình và chân
thành với người khác là điều cần thiết và hữu ích để làm cho cuộc
sống của mỗi người càng ngày càng có ý nghĩa và hữu ích hơn, vì
chính Chúa Giêsu đã phán “Nếu anh em có lòng tin chỉ bằng hạt cải
thôi, thì nếu anh em bảo núi này dời xuống biển đi nó cũng sẽ vâng
lời anh em”.
Tắt một lời, niềm tin trong cuộc sống là điều rất cần thiết để làm
cho đời sống con người có được niềm vui, hạnh phúc và bình an.
Niềm tin nơi Thiên Chúa giúp con người bình an và biết Thiên Chúa
luôn lo lắng và yêu thương mình. Lòng tin nơi bản thân giúp con

315
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
người tìm thấy hạnh phúc vì luôn tìm cách vượt qua giới hạn của
chính mình nhờ sức mạnh Chúa ban để tìm ra những chân trời mới.
Và lòng tin cũng giúp con người tìm thấy niềm vui khi cuộc sống
được chia sẻ, trao ban trong tình liên đới với mọi người. Chúa Giêsu
đã xác nhận câu ngạn ngữ trên, ta có thể nói vậy bằng Lời Ngài nói:
“Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống; Ai tin Thầy sẽ được sự
sống đời đời”.
Giuse. Martino Hồ Quốc Vịnh

316
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Thi hào W.Goethe đã từng nói: “Đừng đi qua thời
gian mà không để lại dấu vết. Bao giời cũng phải có một nơi nào
để đến: Trí tuệ trưởng thành trong tĩnh lặng còn tính cách được
trưởng thành trong bão tố”Trình bày suy nghĩ về ý kiến trên?
Bài làm
Trong cuộc đời, ít làm một lần chúng ta có dịp được chiêm ngắm
vẻ đẹp của một phong cảnh nào đó của cánh rừng hay cánh đồng xa
xa…nơi ấy làm cho ta rung động cảm xúc bởi sự kết hợp hài hòa của
thiên nhiên cây cỏ, mỗi loài luôn có một vai trò nhất định, dù là một
cây cỏ dại. Như người họa sĩ luôn cần đầy đủ mọi gam màu sáng tối
để vẽ nên một bức tranh hoàn hảo. Cũng thế, có khi nào chúng ta
thầm cảm ơn trời đất đã cho ta được sinh ra trên cõi đời này, và trở
nên một thành phần của vũ trụ, dù nhỏ bé thôi, nhưng chất chứa biết
bao là ý nghĩa, sự hiện hữu linh thiêng ấy nhắc nhở chúng ta phải
sống như thế nào, để làm cho cuộc sống có giá trị và mang nét đẹp
sâu xa nào đó ghi dấu trên cõi đời. Như thi hào W.Goethe đã từng
nói: “Đừng đi qua thời gian mà không để lại dấu vế. Bao giờ cũng
phải có một nơi nào để đến. Trí tuệ trưởng thành trong tĩnh lặng, còn
tính cách được trưởng thành trong bão tố”. Chúng ta cùng suy tư vấn
đề này để rút tỉa cho mình những bài học quý báu trong cuộc sống.
Trước hết, chúng ta tìm hiểu ý nghĩa của câu nói “Đừng đi qua
thời gian mà không để lại dấu vết”. Chúng ta đừng lãng phí thời gian,
vì thời gian đi qua và sẽ không bao giờ trở lại, nên chúng ta đừng
đánh mất những khoảnh khắc tốt đẹp và thuận lợi trong cuộc đời để
làm một điều gì đó. Nói đúng hơn, chúng ta đừng sống trên đời mà
không mang một ý nghĩa nào, đừng biến cuộc đời trở nên vô nghĩa.
Đứng trên phương diện của một người đa tài như Goethe, chúng ta
hiểu ông muốn nói với chúng ta là hãy dùng hết những khả năng, tài
thuật của mình mà cống hiến cho đời những thành quả mà ta làm

317
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
được để giúp ích cho nhân loại. Chắc hẳn, tác giả không dừng lại ở ý
nghĩa hạn hẹp như thế. Nếu như chúng ta là một người kém tài, vụng
về thì không thể làm cho cuộc đời có giá trị sao? Nghĩ như thế thì
cuộc đời chúng ta sẽ rơi vào một thảm cảnh của sự tuyệt vọn và chôn
mình trong sự vô nghĩa. Có một ai đó đã từng nói: “Khi bạn sinh ra
đời, bạn khóc còn mọi người xung quanh cười, hãy sống sao cho đến
khi bạn qua đời, mọi người khóc còn bạn mỉm cười”. Điều chúng ta
để lại không chỉ là những thành quả của những sáng kiến, nhưng là
những gì chúng ta lưu lại và in sâu vào lòng người khác, đó là những
phẩm chất đức hạnh của ta. Chúng ta hãy dùng, không những khả
năng của trí tuệ mà còn phải dùng những khả năng của tâm hồn để
làm nên những dấu vết cuộc đời. Chính Mẹ Têrêxa cho ta thấy điều
đó. Thật thế, để làm được điều ấy thì “Bao giờ cũng phải có một nơi
nào để đến”. Chúng ta cần phải có một đích điểm để đến, đó chính là
mục đích và lý tưởng sống của ta. Khi chúng ta tìm lấy cho mình một
mục đích, thì chúng ta sẽ cảm thấy vững tin hơn để bước đi, chúng ta
sẽ không cảm thất bỡ ngỡ, lạc lõng, nản chí khi phải đối diện với
nghịch cảnh. Nếu chúng ta không có mục đích rõ ràng chắc chắn sẽ
bị lạc lối, môi trường hoàn cảnh sẽ lèo lái ta. Chúng ta sẽ trở thành
con người dễ thay đổi rồi mọi sự chẳng đi tới đâu. Khi chúng ta có
được mục đích thì sự tập chú và tâm huyết của ta đặt vào đó nhiều
hơn, không bị phân tán bởi những điều vô bổ, thì sự thành công cũng
dễ đến với ta. Như con tàu cần một bánh lại, cuộc đời chúng ta cũng
vậy thôi, không có mục đích gió bão cuộc đời sẽ đẩy đưa mà không
biết tương lai về đâu, rồi cuối cùng cũng tan vỡ.
Đặt ra mục đích là điều cần thiết, nhưng chúng ta cần có sự hiểu
biết và nhân cách để làm cho mục đích ấy trở nên trong sáng, cao
thượng hơn. Để được vậy ta phải nhận thấy rằng “Trí tuệ trưởng
thành trong tĩnh lặng”. Sự hiểu biết và những kiến thức chúng ta đạt

318
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
được sẽ hoàn thiện trong sự im lăng, không ồn áo. Tĩnh lặng ở đây
gắn liền với những suy tư. Chỉ trong sự tĩnh lặng đầu óc chúng ta
mới không bị quấy động bởi điều này điều kia mà ta có thể tập trung
một cách cao độ hơn, những tư tưởng cũng dễ phát sinh và luôn
mang sự chín chắn sâu sắc, trong việc cân chắc, phân tích một vấn đề
nào đó. Tĩnh lặng giúp ta tiếp thu được những kinh nghiệm, kiến
thức do người khác truyền lại và cả những kiến thức qua các sự vật
việc không thể hiện bằng ngôn từ nữa. Một nhà nghiên cứu sẽ khó
mà thành công nếu không có không gian tĩnh lặng để suy tư hay một
nhà thơ nhà văn sẽ không có được những tác phẩm để đời, nếu không
biết dùng chất liệu tĩnh lặng để suy tư tạo ra những cảm xúc. Còn
“tính cách trưởng thành trong bão tố” thì sao? Cá tính, cách ứng xử
của ta sẽ hoàn thiện hơn khi ta đối diện với bão tố, bão tố ở đây là
những nghịch cảnh trong cuộc sống. Trong hoàn cảnh khó khăn, đau
khổ chúng ta mới có thể phát huy được những khả năng tiềm ẩn,
hoàn cảnh cuộc sống dạy cho ta những bài học, những phương cách
để đối phó và làm cho ta thêm mạnh mẽ can đảm hơn. Sự trải nghiệm
của ta còn giúp ta biết cảm thông chia sẻ cho những ai đau khổ. Dù là
một người không tay không chân như Nick Vujicic, anh ta có thể rơi
nào một cuộc sống tủi hổ và đau khổ, nhưng không, anh ta đã dùng
sự kém may mắn của mình để chinh phục hoàn cảnh. Anh ta vui
sướng và hạnh phúc khi khẳng định rằng: Nhờ sự khiếm khuyết này
mà tôi có được như ngày hôm nay.
Hoàn cảnh của Nick Vujicic nói trên cũng là một thông điệp cho
chúng ta về ý nghĩa cuộc sống. Xukhomlinski từng nói: “Con người
sinh ra không phải để tan biến đi như một hạt cát vô danh. Họ sinh ra
để in lại trên mặt đất, tin dấu lại trong trái tim người khác”. Câu nói
giúp chúng ta ý thức hơn về cuộc sống, về những điều mình sẽ làm.
Con người ai cũng một lần sinh ra và chết đi, vậy chúng ta không nên

319
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
phung phí thời gian, vì chất liệu cuộc sống được làm bằng thời gian
và thời gian cũng không bao giờ là muộn cho những ai bắt đầu làm
lại cuộc đời. Cuộc sống hôm nay văn minh, hiện đại, tiện nghi cũng
là nhờ những con người đã biết dùng thời gian cuộc đời để nghiên
cứu chế tạo nhiều ứng dụng có ích phục vụ con người, họ đã cống
hiện cho thế giới này bớt đi những vất vả gánh nặng. Chúng ta không
phải là một thiên tài, nhưng chúng ta có thể là những người may mắn
hơn biết bao người, tại sao chúng ta lại không thể làm được điều gì
đó ý nghĩa cho cuộc đời. Chúng ta không nên lấp mình trong một ý
nghĩa tiêu cực nào đó, mà không thấy được những tiềm năng của bản
thân. Chúng ta nhìn vào một cánh rừng vẻ huy hoàng, còn những cây
cỏ dại kia chỉ là thứ vô nghĩa, chúng ta nên biết rằng những cây cỏ
dại lại có vai trò để giữ ấm và chống xoi mòn để cho những cây đại
thụ kia phát triển. Nếu chúng ta nghĩ mình là một người nhỏ bé,
không thể làm được điều gì có ích cho đời thì đó là một sai lầm, biết
đâu chúng ta đang tự bào chữa cho mình vì lý do này hay lý do khác,
có khi hợp lý có khi thật buồn cười. Chúng ta biết Charles Dicken,
một người gắn liền với bệnh tật, nhưng trong những cuốn tiếu thuyết,
nhưng trong những cuốn tiểu thuyết, ông đã xây dựng những nhân
vật lành mạnh cho thế giới, ý niệm sống ấy thật ý nghĩa cho ta học
tập. Chúng ta không thể trở thành một nhà khoa học, nhà văn lừng
lẫy…nhưng chúng ta có thể trở thành những con người mang đến
cho người khác niềm tin, niềm an ủi, sự khích lệ và tình yêu thương
trong cuộc sống, điều này còn quý giá và đáng trân trọng biết bao.
Câu chuyện có thật kể về một cậu bé nghèo đi ăn xin, được một cô bé
bố thí cho ly sữa, cảm nhận được tình người ấy, từ đó cậu thêm tin
tưởng vào cuộc sống và thêm nghị lực để vượt qua những khó khăn
trong cuộc đời. Sau này cậu trở thành một vị bác sĩ giỏi đầy lòng
thương người. Đến một ngày cậu gặp lại cô bé năm xưa đang lâm

320
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
vào cảnh khốn cùng của bệnh tật, và chính cậu có dịp chữa chạy cho
cô để đáp trả lòng biết ơn của mình. Nghe câu chuyện chúng ta
không thể không khâm phục về cậu bé nghèo có một nghị lực và một
ý chí kiên cường để vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, cậu
đã biến cuộc đời mình trở nên hữu ích để chia sẻ tình thường cho mọi
người, chúng ta đánh giá cao về cậu, còn đối với cậu có thể cô bé ấy
là người vĩ đại nhất, đã cho cậu những cảm nhận sâu sắc về tình yêu
thương, sự cảm thông, sự trìu mến…và cả những giá trị trong cuộc
sống. Qua đó, chúng ta cũng tin rằng “luật nhân quả” là điều có thực
trong cuộc sống, chúng ta sẽ được đền đáp nếu chúng ta biết sống
yêu thương, quãng đại. Chúng ta không nên đi tìm sự đền đáp, nhưng
cần tìm cách để đền đáp cuộc đời, đó là lý tưởng sống, biết quên
mình, khi đó những việc mình làm sẽ thêm ý nghĩa hơn. Để được
vậy, ta cần có mục đích lý tưởng sống để tạo nên sức mạnh vượt qua
mọi khó khăn, đặt ra một mục tiêu để phấn đấu và tiến bước, chúng
ta sẽ không có thành công khi không tìm cho mình ý nghĩa của mục
đích ấy, chúng ta sẽ không có đủ nghị lực để đứng vững trên lập
trường của mình đặc biệt là khi những khó khăn ập tới ta dễ buông
xuôi và lịa đi tìm một con đường khác, cứ thế, cứ thế…Cuộc đời ta
sẽ rơi vào vòng luẩn quẩn và chìm đắm trong biển khổ của sự tuyệt
vọng, ta cho rằng chẳng có gì trên đời đáng để cho mình tha thiết cả.
Bên cạnh những người buông xuôi cuộc sống, chúng ta cũng gặp
thấy những con người tràn trề sức sống và sự khát khao mãnh liệt,
bởi họ có được sự hiểu biết, nhận thức chín chắn qua sự tĩnh lặng.
Nhờ sự tĩnh lặng họ có thể khám phá được chính mình và đánh giá
mọi vấn đề khách quan, thực tế hơn, để bớt sai lầm trong đời và tránh
làm tổn thương người khác nữa.
Những trở ngại trong cuộc sống chẳng có ai muốn nó xảy đến với
mình cả, nhưng thực tế khó khăn đau khổ vẫn tồn tại và trở thành

321
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
một phần của cuộc sống, bắt buộc ta phải đối diện. Chúng ta sẽ mãi
khổ đau khi cứ ngồi than phiền về nó, hãy đứng lên và tìm ra những
ý nghĩa trong hoàn cảnh bất trắc ấy. Chúng ta sẽ thấy được sự thi vị
và những giá trị tuyệt vời trong đó. Bão tố cuộc đời sẽ tôi luyện con
người ta từ một người mềm yếu trở nên cứng cáp hơn, từ một người
khô khan trở thành một người đầy lòng từ bi yêu thương.
Cuộc đời ai cũng cần phải để lại cho đời những dấu vết “chết mà
danh lưu truyền cho hậu thế thì ta nên chết, sống mà chuốc lấy ô
danh thì thà chết còn hơn” (Nguyễn Thái Học) thường việc lành sẽ đi
theo với danh tiếng. Vậy, lưu danh cho đời có thực sự cần thiết
không? Sống cuộc đời có hữu ích có lẽ quan trọng hơn bội phần,
danh tiếng như Hitler cũng chỉ để người ta khinh miệt thêm mà thôi.
Trong cuộc sống chúng ta chứng kiến biết bao người cha người mẹ
tần tảo chân lấm tay bùn nuôi con cái được ăn học nên người, những
việc làm bình dị âm thầm không ai để ý tới lại là việc làm vĩ đại sản
sinh ra những con người cho tương lai thế giới. Chúng ta có thể bắt
đầu từ những việc nhỏ mọn nhất tùy vào khả năng của mình, đặt ra
cho mình những mục tiêu là tốt đấy, nhưng đừng đặt quá nhiều mục
tiêu hay mục tiêu đó quá cao so với thực lực của mình, để rồi một khi
gánh vác không nổi thì bỏ bê giữa chừng. Chúng ta nên tránh sự ảo
tưởng đó. Để có những mục tiêu hợp lý, chúng ta cần có những giây
phút tĩnh lặng để trang bị cho mình thêm những kiến thức, hiểu biết
của việc suy tư, nhưng có lúc chúng ta phải vương mình ra khỏi sự
tĩnh lặng của mình, để học hỏi thêm những điều hay cái đẹp nơi
người khác và cả trong cuộc sống này. Chúng ta cần thấy được cuộc
đời là một trường học, sóng gió cuộc đời sẽ trở thành những bài học
giúp ta trưởng thành, ngược lại nếu chúng ta không biết dùng ý chí,
sức mạnh và trải lòng mình để đón lấy bài học ấy, thì câu nói “tính
cách trưởng thành trong bão tố” chỉ là điều viễn vông mà thôi.

322
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Mỗi người có một cuộc sống khác nhau, là người tu sĩ phải lấy
việc đi theo Chúa là lý tưởng duy nhất của cuộc đời, vì thế mọi việc
làm, cách sống của ta phải mang một ý nghĩa cao cả hơn. Như Thánh
Têrêxa luôn ý thức từng việc nhỏ của mình để cứu vớt các linh hồn
hay còn nhiều vị Thánh khác nữa chỉ xin Chúa gia tăng đau khổ để
được đồng hình đồng dạng với Chúa. Dù là việc nhỏ mọn ta cũng ý
thức để quy hướng về Chúa và thực hiện trong âm thầm như Chúa
Giêsu nói: “Khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm”. Ta
không nên đi tìm mình nhưng ta phải trở nên tấm gương sống để làm
vinh danh Chúa mà thôi. Điều mà Thánh Gioan Tẩy Giả đã thực
hiện: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”.
Câu nói của Goethe đánh thức tất cả những ai đang sống cuộc đời
buông thả không có một định hướng nào đi tới và phấn đấu vươn lên,
đừng sống một cuộc đời vô nghĩa thế, hãy biết quý trọng những phút
giây cuộc sống, đừng để những lúc ra đi trên cõi đời này, chúng ta
cảm thấy khổ đau vì luyến tiếc đã không làm, không sống một cuộc
đời ý nghĩa, giá trị, không cảm mến được hương vị cuộc sống. Cuộc
sống luôn lôi kéo, cám dỗ ta sống chỉ biết quy hướng về mình mà
không biết vươn ra với một tấm lòng cao thượng là sống cho người
khác. Tấm lòng quảng đại sẽ giúp ta gạt bỏ những ghen ghét, ích kỷ
và cho ta niềm vui khi được nhìn thấy người khác hạnh phúc. Để
tặng ban cho đời những thành tựu tốt đẹp đó, chúng ta cần có trí tuệ
nên những dấu vết đẹp, ý nghĩa trong cuộc đời.

323
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề tài:“Có một điều không phải ai cũng làm được: đó là mình của
ngày hôm nay phải tốt hơn mình ngày hôm qua” Theo anh, chúng ta nên
làm gì và làm thế nào để mỗi ngày một tốt hơn?
Bài làm
Hoàn thiện từng ngày để nên hoàn hảo là ước muốn của mỗi cá
nhân trong cuộc sống hôm nay. Song, để trở nên một con người hoàn
hảo không phải dễ dàng như mình mong ước. Bởi lẽ, cuộc sống luôn
đưa con người tới những đầm lầy của sự tiêu cực trong xã hội, và rồi
từ đây, họ mang trong mình một ảo tưởng rằng: “họ đang chiếm lĩnh
những điều họ cho là hạnh phúc của trần gian” nhờ những tiện nhgi
của cải vật chất đang nằm trong tầm tay của họ. Nhưng đâu ngờ rằng,
một ngày nào đó, họ mất tất cả trong chốc lát chỉ vì những thứ “phù
du” đó đang chôn vui họ trong “thế giới ham hố vật chất” mà quên đi
sự rèn luyện bản thân trở nên một con người tốt, con người hoàn thiện,
có ích cho xã hội. Không thế, sao nhân gian vẫn luôn khuyên dạy cho
nhau rằng: “Có một điều không phải ai cũng làm được: đó là mình của
ngày hôm nay phải tốt hơn mình ngày hôm qua”. Vậy để làm được
điều đó, chúng ta hãy cùng nhau đi tìm hiểu lời khuyên dạy trên.
“Tốt” là cái đáng quý và được đánh giá cao trong cuộc sống ngày
nay. Trong một xã hội, bất cứ trong lĩnh vực nào mỗi khi được đánh
giá “tốt” nghĩa là bản chất nó đã mang trong mình giá trị mà con
người mong muốn. Như là đối với học sinh, mỗi lần tổng kết cuối
năm, thầy cô cần phải đánh giá kết quả học tập cũng như hạnh kiểm
của từng học trò của mình. Nếu trong học bạ ghi nhận kết quả học
tập và hạnh kiểm tốt, thì đồng nghĩa với việc người học sinh đó là
một con người tốt, đáng để được khen thưởng. Trong lĩnh vực y khoa
cũng vậy, một bác sĩ có tay nghề cao, có trình độ học vấn “tầm cỡ”
quốc gia hay quốc tế, thì đó là những bác sĩ giỏi và có cái “tốt” cũng
nằm trong đó…Tuy thế, “tốt” không chỉ dừng lại ở đó. Như đã nói ở

324
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
trên, đã là một con người, chúng ta cần phải từng ngày trở nên một
con người hoàn thiện. Hoàn thiện cả về mặt vật chất cũng như tâm
hồn, nói một cách nôm na dễ hiểu là cả cái bề ngoài lẫn bên trong
luôn hướng về cái hoàn thiện. Để làm được điều đó, chúng ta có thể
“lái con thuyền của đời mình đi bằng nhiều con đường khác nhau”,
nhưng thiết nghĩ, điểm xuất phát của nó chính là “mình ngày hôm
nay phải tốt hơn mình ngày hôm qua”. Từ cái “tốt” đi tới cái “tốt
hơn” và từ cái “mình hôm qua” tới cái “mình hôm nay”. Mới nghe
qua, nhiều người nghĩ điều đó thật dễ dàng, cứ để mặc thời gian nó
sẽ từ từ vận chuyển tới cái “hơn” trong cuộc đời. Nhưng quả thật,
không phải ai cũng làm được điều đó. Bởi lẽ thực tiễn đã cho thấy:
trên thế giới có biết bao lương y – bác sĩ là những con người được
mệnh danh là tại giỏi, là tốt nhưng nào ngờ họ lợi dụng chính cái
“tốt” trong cái gọi là “lương y như từ mẫu” để chiếm đoạt, bóc lột
đồng tiền trên những bệnh nhân nghèo đang đau đớn về thể xác mà
đang cần đến những bàn tay của lương y đó cứu chữa mình. Rồi ngay
cả trong giới hàng tu sĩ, linh mục của “thời đại”, họ cũng là những
con người được thiên hạ ban tặng cho danh xưng là “Mục tử tốt
lành” và chính cái được gọi là “tốt” đó mà một số phần tử nhỏ của
hàng “mục tử” đã rơi vào tình trạng làm ông vua của một họ đạo lớn,
và vô tình hay cố ý quyên rằng mình là “đầy tớ của những đầy tớ của
Thiên Chúa” (Gioan Phaolô Đệ Nhị)…Đó là những cái chuyển
“mình ngày hôm nay” khác “mình ngày hôm qua” đáng phê phán
trong xã hội ngày nay.
Mặc dù thế, đã là con người, chúng ta luôn cần tới sự nỗ lực để
vươn lên trong cuộc sống. Đích điểm của chúng ta không chỉ dừng
lại ở cái “tốt” nhưng là cái “tốt hơn”, có như thế chúng ta mới trở
thành một con người biết chuyển mình trong thế giới “tốt hơn” và
mang lợi ích cho cuộc sống của chính mình cũng như những con

325
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
người đang sống xung quanh ta. Để làm được điều đó, thiết nghĩ phải
tạo cho mình một lối sống có trách nhiệm trong xã hội cũng như
Giáo hội. Đã là một học sinh – sinh viên, thì nhiệm vụ hàng đầu đó là
phấn đấu học tập, để tìm tòi kiến thức trong đại dương bao la của nó,
có như thế mới giúp ích cho tương lai của chúng ta sau này – đó là
cách để “mình ngày hôm nay tốt hơn mình ngày hôm qua” trong đời
học sinh – sinh viên của mình. Là một nhà giáo, không chỉ đơn thuần
là “ngân hàng sinh lãi kiến thức cho học sinh” nhưng bên cạnh đó, họ
cần phải trao ban hết tâm huyết của một nhà giáo chân chính, hầu
giúp các bạn trẻ ngày hôm nay tìm kiếm tương lai đúng đắn cho mai
sau – đó là cái “tốt” chuyển sang “tốt hơn” và đáng quý trong nghề
nhà giáo. Là một nam nữ tu sĩ hay linh mục, chúng ta hãy luôn mang
trong mình hình ảnh của Đức Kitô, chúng ta hãy luôn mang trong
mình hình ảnh của Đức Kitô – một con người khiêm hạ (cúi xuống
rửa chân cho môn đệ của mình), con người biết dâng trao tình yêu
cho tha nhân (Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm),
và cũng là con người biết chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với người khác.
Đặc biệt là những con người cùng khốn trong xã hội…có như thế
mới trở thành những “mục tử tốt lành” đúng nghĩa, để từ đây ra đi
với những gói hành tranh đơn sơ và khiêm hạ mà phục vụ “đoàn
chiên của Thầy” đã được trao phó.
Như thế mới cứng là sự chuyển “mình ngày hôm qua tốt hơn
mình ngày hôm nay” trong đời dâng hiến.Song, không phải ngày một
mà chúng ta có thể chuyển mình một cách dễ dàng được. Để những
điều trên được trở nên hiện thực, chúng ta phải cần bước đi từng
bước một trong cuộc sống, nói đúng hơn là cần rèn luyện bản thân và
sống với sự nỗ lực để hầu chiến thắng sự yếu hèn của thân xác. Đừng
để những thế lực “đen tối” bên ngoài tác động làm chúng ta buông
xuôi tất cả, hãy luôn là chính mình, phải là chính “mình ngày hôm

326
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
nay” chứ không phải là chính “mình ngày hôm qua”. Thiết nghĩ là
một con người Công giáo, mỗi chúng ta cần xin ơn Chúa giúp đỡ để
chiến thắng sự yếu hèn trong con người của mình, kế đến hãy tập làm
những nhân đức khiêm nhu và đơn sơ như là giúp đỡ một ai đó, dù là
việc nhỏ mọn mà họ đang cần sự nâng đỡ của chúng ta; rồi có thể
yêu thương những người bạn đang thù ghét mình…Những việc làm
đơn sơ nhỏ bé đó chính là dịp để “mỗi ngày một tốt hơn” cho chúng
ta rèn luyện. Ước chi với nỗ lực của bản thân, cộng với sự rèn luyện
có nghị lực, một ngày nào đó chúng ta sẽ là những con người “tốt” và
“tốt hơn” cho thế giới này.
Lời nhận định “có một điều không phải ai cũng làm được: đó là
ngày hôm nay phải tốt hơn mình ngày hôm qua” quả là một lời nhận
định đúng đắn, đồng thời nó cũng thức tỉnh cho những ai đã và đang
sa chân lỡ bước trong thế giới ảo tưởng phù du của trần thế, hãy sớm
quay lại và làm một con người tốt, có ích cho xã hội cũng như Giáo
hội đang chờ mong, mời gọi họ trở về. Không chỉ dừng lại ở cái “tốt”
mà tất cả chúng ta hãy cùng nắm lấy tay nhau và cùng xây dựng nên
một thế giới chứa đựng cái “tốt hơn” cho đời mình. Một khi điều đó
từng bước chuyển dịch, thì cũng đồng nghĩa với việc bản thân mỗi
con người chúng ta đang dần hoàn thiện mình, với những nỗ lực để
vươn lên trong cuộc sống. Và việc “mỗi ngày một tốt hơn” cũng là
việc mỗi ngày chúng ta đang đi tới đỉnh điểm của sự “nên Thánh”
như lời mời gọi của Đức Kitô: “Hãy nên Thánh, vì Ta là Đấng
Thánh” ( Lv 11,45).
P.T Nguyễn Văn Việt

327
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: “Nếu con người chỉ tử tế vì sợ bị trừng phạt và hy
vọng được ban thưởng thì chúng ta thực sự là những số phận
đáng thương” (A.Enistein) Theo bạn, ta nên sống tử tế vì mục
đích nào?
Bài làm
Một trong những cách huấn luyện thú vật để biểu diễn xiếc là cái
roi và thức ăn. Dù là chúa sơn lâm đi nữa thì cũng phải khuất phục
trước cây roi. Trái lại, nếu ngoan ngoãn biểu diễn thì lại được ném cho
ít thức ăn làm phần thưởng. Dĩ nhiên, những con vật dũng mãnh ấy
đều bị nhốt trong lồng sắt vì chúng đã bị khuất phục thay vì được tự do
nơi rừng sâu. Hình ảnh này có thể minh họa cho câu nói đầy ngụ ý của
A.Eiastein:“Nếu con người chỉ tử tế vì sợ bị trừng phạt và hy vọng
được ban thưởng thì chúng ta thực sự là những số phận đáng thương”
Thế thì ta phải sống tử tế vì mục đích gì? Ở đây, xin nêu ra hai
điểm làm mục đích cho việc sống tử tế: đó là sự tự do và tình yêu đi
sâu vào bài viết, ta sẽ hiểu rõ hơn tại sao hai điểm này lại giúp ta
tránh việc trở thành những số phận đáng thương.
Người tử tế là người tỏ ra có lòng tốt khi đối xử với người khác
(Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, giáo sư Hoàng Phê chủ
biên, nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, trang 1373). Và dù cho người
đó tử tế với người khác vì sợ bị trừng phạt hay hy vọng được ban
thưởng thì vẫn là điều tốt. Bởi xét ở khía cạnh nào đó thì lòng tốt do
gượng ép vẫn còn hơn và không có gì. Tuy nhiên, vì lòng tốt này
mang ý nghĩa thụ động hay thiếu tính tích cực nên nó gây ra những
số phận đáng thương cho những ai thực hiện nó. Xin đơn cử một vài
điều gây ra sự đáng thương: sự miễn cưỡng, sự sợ hãi, sự trống rỗng,
có khi là sự giả dối nữa. Tất cả những điều này làm cho lòng tốt ra
nặng nề và không vươn tới được mục tiêu cao cả hơn. Hành động tử
tế đi kèm với sự trong sáng và chân thành mới thật sự cao thượng và

328
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
đáng quý. Đây không phải là sự phủ nhận lòng tốt được thực hiện dù
là gượng ép hay thiếu tích cực trong ý hướng; nhưng vì con người
luôn muốn hướng về chân, thiện, mỹ nên phải vượt lên trên những
điều còn mang ý nghĩa tiêu cực để đạt tới những điều tốt đẹp hơn.
Điều đầu tiên mà ta nói đến chính là sự tự do của con người,
không ai có thể phủ nhận được sự khao khát được sống tự do của con
người. Sự tự do được đề cập trong rất nhiều bản hiến pháp, hiến
chương, luật pháp của hầu hết các quốc gia, các tổ chức. Tự do là
quyền căn bản của con người. Tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do
lương tâm…tất cả những điều này giúp con người trở nên người hơn
và hạnh phúc hơn. Sự đáng thương sẽ xảy ra khi sự tự do bị thu hẹp
dần bởi nổi sợ. Hậu quả là người ta sẽ giống như chú chim bị nhốt
trong lồng và không thể bay nhảy như trước. Chúng không còn được
tùy ý đậu trên những cành cây mà chúng lại thích hay bay đến những
cánh rừng tươi đẹp nữa.
Sự sợ hãi nơi con người khiến cho mọi thứ họ làm ra không đạt
được vẻ đẹp cao nhất mà đáng ra nó có thể đạt tới. Nhà họa sĩ hay
nhà văn mà sáng tác trong sợ hãi thì không thể bay bổng với các ý
tưởng nghệ thuật. Họ không thể thả hồn cùng với các tư tưởng sáng
tạo ở mức cao nhất, vì như một con diều, họ đã bị sợi dây vô hình
của sợ hãi cột chặt. Trở lại với đời sống thường nhật, sự tử tế phát
xuất từ nỗi sợ hay sự mong mỏi phần thưởng chẳng thể đem lại ý
nghĩa gì hơn là một hành động bắt buộc. Vậy đâu là ý hướng của
lòng tốt gượng ép? Ta làm việc tốt nhưng không nhắm đến tha nhân
nhưng chỉ hướng về mình. Hy vọng đạt được phần thưởng khi làm
điều tốt cũng là một dạng khác của sự sợ hãi. Ta sợ không nhận được
những điều mà ta đang mong mỏi, khao khát. Có lẽ đây là một cuộc
trao đổi hơn là một sự cho đi. Ngoài ra, việc đánh mất tự do trong nỗi
sợ dường như cũng hạ thấp phẩm giá con người. Ta là hữu thể có tự

329
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
do thế mà bây giờ lại bị trói buộc bởi những sợi dây hợ hãi vô hình.
Khi ấy, hình ảnh những con hổ trong lồng sắt chính là hình ảnh của
ta, những con người với phẩm giá cao quý được tạo hóa ban tặng lại
trở thành nô lệ ngay trong chính cuộc đời mình. Ta chỉ tự do khi
được làm những gì mình thực sự muốn và dám nhận trách nhiệm về
những hành động đó.
Vì thế, sự tự do phải là mục đích đầu tiên mà ta nhắm tới khi đối
xử tử tế với người khác. Sự tự do trong mục đích và cách thức hành
động sẽ làm cho hành vi của ta trở nên ý nghĩa hơn. Nhờ tự do, sự tử
tế vượt lên những điều bình thường mà trở thành hành vi cao quý của
một tâm hồn cao thượng. Một cử chỉ tử tế mà ta thực sự không muốn
thực hiện không những gây đau khổ, khó chịu cho chính ta mà còn
làm tổn thương cho người khác nếu họ biết được sự thật.
Mục đích thứ hai mà ta phải nhắm đến khi đối xử tử tế với người
khác đó chính là tình yêu, sự chân thành. Có câu hói “Của cho không
bằng cách cho”, cùng một hành vi, một lời nói nhưng hiệu quả sẽ
khác nhau hoàn toàn do ý hướng của người thực hiện.
“Nếu không có tình yêu,
Bổn phận khiến người ta dễ nóng giận.
Nếu không có tình yêu,
Trách nhiệm đẩy người ta tới chỗ bất nhã.
Nếu không có tình yêu,
Công bằng làm cho người ta đâm ra tàn nhẫn.
Nếu không có tình yêu,
Sự thật biến người ta thành kẻ ưa xoi mói.
Nếu không có tình yêu,
Sự khôn ngoan dẫn dắt bạn tới chỗ láu cá.
Nếu không có tình yêu,
Sự đon đả biến người ta thành kẻ giả dối.

330
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Nếu không có tình yêu,
Sự am hiểu đẩy bạn trở thành kẻ cố chấp.
Nếu không có tình yêu,
Quyền lực khiến người ta trở thành kẻ áp bức.
Nếu không có tình yêu,
Danh tiếng làm bạn trở thành kẻ kiêu ngạo.
Nếu không có tình yêu,
Của cải làm con người ta trở nên tham lam.
Nếu không có tình yêu,
Lòng tin biến bạn thành kẻ cuồng tín.
Nếu không có tình yêu,
Trên đời này bạn không là gì cả”.
(St)
Khi ai đó nghĩ rằng: “Tôi giúp đỡ người nghèo để tránh bị xui
xẻo hoặc cầu may, hay như là một cách đánh bóng hình ảnh, tên tuổi
của tôi” thì hành động này có ý nghĩa gì hơn là sự tìm kiếm lợi ích cá
nhân, “bỏ con săn sắt, bắt con cá rô”. Đâu là chủ ý của người hành
động tử tế? Nó có xuất phát từ lòng nhân ái không? Ta được sinh ra
vì một mục đích còn lớn hơn thế nhiều yêu và được yêu. Trái tim con
người luôn chứa đựng tình yêu. Do đó mà con tim luôn khao khát
được quan tâm, được yêu thương, được đón nhận và trao ban những
tình cảm chân thành. Ngày nào con tim không còn yêu thương nghĩa
là nó không còn sống nữa. Có những con tim tuy vẫn đập nhưng thật
ra nó đã chết từ lâu rồi, vì nó không còn được nuôi dưỡng bởi tình
yêu. Máu nuôi dưỡng thể xác, tình yêu nuôi dưỡng tâm hồn. Trong
sự yêu thương, ta thấy và cảm nghiệm được ý nghĩa của hạnh phúc
thật. Hạnh phúc là hoa trái của tình yêu. Hạnh phúc biết bao khi ta
biết trao và biết nhận với tất cả con tim chân thành.

331
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Khi Mẹ Têrêsa đang rửa những vết thương đã lỡ loét cho một
người sắp chết trên đường phố Canculta, một người đàn ông đi ngang
qua nhìn thấy cảnh đó liền thốt lên rằng: “Có cho tôi một triệu đô la
tôi cũng sẽ không làm việc đó”, “Tôi cũng vậy” mẹ đáp “Nhưng vì
yêu mến Thiên Chúa mà tôi làm việc này”.Phải rồi! vì yêu mà Mẹ
Têrêsa dám làm những viếc mà một triệu đô la cũng không mua nổi
lòng nhân ái nơi người đàn ông kia. Khi yêu, người ta không còn sợ
hãi, khi yêu người ta không chờ mong phần thưởng. Bởi lẽ, phần
thưởng lớn nhất mà tình yêu đem lại chính là hạnh phúc trong tâm
hồn của cả người cho và người nhận. Khi tình yêu chân thành là đích
nhắm của hành động thì hành động đó sẽ trở nên nhẹ nhàng, thoải
mái, vui tươi. Dẫu cho phương cách thực hiện có đau khổ, gian truân
đến mức nào. Tình yêu là cơn gió nâng tâm hồn lên cao. Tình yêu
làm trổ sinh cây cối xanh tươi trong những tâm hồn đã khô cằn vì sợ
hãi và tính toán.
Tuy nhiên, ta không thể sống tự do và hạnh phúc trong tình yêu
nếu không có sự dũng cảm. Tác giả cuốn sách món quà của người lữ
hành là Andy Andrews đã nhận định như sau về lòng can đảm:“Có
một sự thật không thể chối cãi là: một đàn cừu được dẫn dắt bởi một
con sư tử lúc nào cũng có thể đánh bại một đàn sư tử được dẫn đầu
bởi một con cừu!”.
Con người sẽ đánh mất chính mình khi để cho sợi dây sợ hãi cột
chặt. Tình yêu không thể bay thật xa nếu bị giam cầm trong chiếc
lồng của sự sợ hãi và tính toán. Tự do ở đâu nếu mỗi bước chân của
ta là mỗi bước ngập ngừng vì sợ. Tình yêu ở đâu nếu ta chỉ nghĩ đến
lợi ích bản thân. Tự do và tình yêu là động cơ của chiếc xe đưa con
người đến những vùng đất hạnh phúc và lòng can đảm chính là nút
khởi động.

332
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II – một người Balan đã trải qua
ách thống trị của Phát xít và Cộng sản – luôn cổ vũ tinh thần dũng
cảm nơi mọi người với câu nói nổi tiếng: “Don’t be afraid”. Đời sống
can đảm của ngài là sự nâng đỡ và tiếp sức cho nhiều thế hệ đang
sống trong nỗi sợ. Nếu sự sỡ hãi là đêm đen thù lòng can đảm là ánh
đuốc. Nếu sự toan tính thiệt hơn là sa mạc khô cằn thì lòng can đảm
sẽ đưa ta tới ốc đảo xanh tươi. Thông thường, người ta không chết vì
sa mạc cằn cỗi, nhưng chết vì đã từ bỏ mọi hy vọng. Lòng can đảm
đồng hành cùng sự hy vọng sẽ dẫn tới tự do và hạnh phúc.
Hơn hết, đối với người Kitô hữu thì đâu là mục đích cho sự tử tế
của ta? Ta tử tế vì sợ sự trừng phạt của Thiên Chúa hay tử tế để đạt
phần thưởng Nước Trời? Ta xem Thiên Chúa là ông chủ khó tính hay
là tình yêu (1Ga4,7)? Một khẳng định chắc chắn rằng “làm điều tốt
vì sợ hình phạt hay mong đợi phần thưởng vẫn là một phương thế tốt
để giúp người Kitô hữu sống thánh thiện khi họ chưa biết yêu mến
Thiên Chúa là như thế nào” (Gương Chúa Giêsu). Dĩ nhiên, điều này
vẫn chưa đạt tới mức độ trọn hảo của sự lành Thánh. Khi ta làm điều
tốt mà không màng đến gì nó đem lại cho tinh thần và thể xác của ta
thì điều tốt đó mới thực sự có ý nghĩa: “Con ơi! Con cần lưu ý điều
này bất cứ ở đâu, bất luận làm gì hay hoạt động nào, con phải có tinh
thần tự do, tự chủ luôn, làm sao cho mọi sự tùy thuộc con mà con
không tùy thuộc sự gì” (Gương Chúa Giêsu). Hay như Thánh Phaolô
làm mọi sự vì “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2 Cc 5,14).
Như thế, người Kitô hữu trưởng thành sẽ sống tử tế vì một lẽ để
trở nên giống Thiên Chúa qua việc làm theo lời Ngài dạy, luật yêu
thương là giới luật lớn nhất trong mọi giới luật. Yêu thương vô điều
kiện để cảm nghiệm được tình thương Chúa dành cho mỗi người
chúng ta, dù là công chính hay bất chính, không phải ta chỉ yêu
thương, đối xử tốt với những ai yêu thương ta mà phải yêu tất cả mọi

333
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
người, kể cả những ai xem ta như kẻ thù (Mt5.43-48). Đỉnh cao của
tình yêu này là cái chết của Đấng vô tội trên Thập giá. Ngài không có
gì phải sợ cũng không cần một phần thưởng nào, vì Ngài là Chúa Tể
mọi loài, là nguồn ban phát mọi ân sủng. Nhưng Ngài lại chết để cho
con người được sống, Đấng vô tội lại chết thay cho kẻ tội lỗi. Tất cả
chỉ vì yêu và yêu đến cùng.
Tóm lại, qua câu nói của A.Einetein, ta có thế thấy sự tự do và
tình yêu trong hành động tử tế là điều mà tác giả ngầm nói tới. Chẳng
có gì đáng thương hơn một kẻ tự nhốt chặt mình trong hàng loạt
những nỗi sợ và toan tính. Đời sống này sẽ như thế nào nếu ta chỉ
sống trong bóng đêm của sự sợ hãi, của việc được gì và mất gì. Mỗi
hành động làm sẽ mang ý nghĩa tốt đẹp hơn, cao cả hơn nếu ta dám
can đảm vượt lên trên nỗi sợ và toan tính hơn thiệt để trao ban tất cả
cho tha nhân. Vì không còn điều nào có thể bay xa hơn sợi dây đã cột
nó, cũng như không ai có thể tự do mà sống yêu thương nếu không tự
mình chặt đứt sợi dây sợ hãi.
Giuse Vũ Hoàng Thanh

334
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Trong thế giới tự nhiên muôn màu, muôn vẻ có rất nhiều loài
cùng chung sống với nhau. Trong đó có thực vật gồm các loài cỏ cây
hoa lá đóng vai trò quan trọng trong sự sinh tồn của những loài khác.
Cây hấp thụ ánh nắng mặt trời qua lá, hút khí cabonicd và phả khí
oxy, chính nhờ đó mà muôn loài có không khí để thở, ngược lại cây
có cacbonic để tổng hợp chất dinh dưỡng nuôi sống mình. Trong môi
trường xã hội, con người đóng vai trò trung tâm, các cá nhân đều có
mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Mối quan hệ đó được thể hiện
qua quan niệm sống, thái độ sống của mỗi người, bàn về vấn đề này
có ý kiến cho rằng: “Con người không phải là bình nước cần đổ đầy
mà là một ngọn nến cần thắp sáng”.
Vậy ý kiến trên đúng hay sai và có ý nghĩa như thế nào trong đời
sống?
Một bình nước được đổ đầy, càng thêm thì nó chỉ chứa trong
phạm vi khuôn khổ của cái ly ấy, chứ nó cũng không mất đi dù chỉ là
một giọt nước. Nhưng một ngọn nến bình thường khi chưa được thắp
sáng thì cây nến đó vẫn giữ nguyên, một khi đã được thắp sáng lên,
ngọn nến cháy dần, cháy cho đến khi nào không thể cháy được nữa.
Trong quá trình nến cháy, ai cũng nhận ra rằng. Nến cháy giúp cho ta
thấy đường, có sức nóng của nến làm cho không khí thêm ấm áp.
Sống trong xã hội mà con người phải nương tựa vào nhau qua hệ
qua lại, giúp nhau cùng phát triển thì hình ảnh của bình nước được
đổ đầy và ngọn nến được thắp sáng khi có mối quan hệ liên tưởng.
Sống là sống làm sao cho bản thân mình được sung sướng, hưởng
thụ những thành quả mà mình tạo ra, không chú ý đến mọi người
xung quanh, bàng quan trước những số phận đau khổ trong xã hội, đó
chính là thái độ sống của những con người ích kỷ, sống không chia
sẻ với mọi người xung quanh. Chúng ta thử nhìn vào trong xã hội
chúng ta đang sống thì sẽ thấp vô vàn, những con người như vậy.

335
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Biết bao nhiêu người là quan chức, có địa vị chỉ biết dùng những số
tiền kiếm được bằng những mưu mô, trò xảo trá, chiếm đoạt tài sản
người khác, lấy của chung làm của riêng. Rõ ràng nhất trong ngành
giáo dục, sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường cầm tấm bằng trên
tay tưởng chừng như đã xin được việc làm, ai ngờ đằng sau đó còn
phải cần những khoản tiền hai, ba chục triệu may ra mới xin được.
Bên cạnh đó còn có những vụ tham ô công quỹ của một bộ phận cán
bộ có chức, có quyền trong bộ máy nhà nước. Họ chỉ biết thu vào, rót
vào cho đầy “ly nước tiền bạc” của họ, chắc họ cũng thấy những con
người nghèo khổ sống xung quanh bơ vơ, bất vất nhưng họ đâu có
quan tâm “mình sướng là được rồi”.
Thật đáng buồn, còn rất rất nhiều những vụ việc, những sai phạm
nữa không thể kể hết, điều đó càng chứng tỏ thái độ sống cá nhân của
một bộ phận người trong xã hội.
Như vậy cũng không phải đã hết những con người biết hy sinh
cho người khác. Như một ngọn nến cháy sáng trong đêm tối, còn có
nhiều người trong xã hội đang ngày đêm tỏa sáng sưởi ấm những con
người xung quanh bằng những việc làm cụ thể và thiết thực. Đã bao
giờ chúng ta mũi lòng cảm thông trước những con người đau ốm,
bệnh tật, trẻ em lang thang đường phố chưa? Và thật bất ngờ và may
mắn tôi đã bắt gặp một con người biết dùng tình yêu thương để hoán
cải một thiếu niên lang thang. Đó là một chủ hiệu cơm gần chợ, (khi
thấy) Bắc Lý – Quảng Bình, khi thấy cậu besd này hay ăn trộm ở
trong chợ, hằng ngày cậu đi đánh giày để kiếm sống. Nhìn thấy hoàn
cảnh đáng thương đó Bác đã nhận cháu vào làm phụ bàn trong quán
cơm, thấy được đức tính thật thà, chất phác của cậu, Bác đã nhận
cháu làm con. Thật cảm động biết bao, một tấm lòng bao dung đã
sưởi ấm một tấm lòng thơ dại, buồn bã, tự ti của cậu bé không cha
không mẹ.

336
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Có biết bao mảnh đời, biết bao tâm hồn đang cần những tình yêu
xuất phát từ chính trái tim yêu thương của những người xung quanh.
Nếu chúng ta vào trong các trại phong, trại trẻ mồ côi hình ảnh của
các sơ, các thầy ngày đêm chăm lo từ việc ăn uống, ngủ nghĩ cho đến
việc học hành, vui chơi của các em. Các sơ, các thầy đã hy sinh cuộc
đời mình để phục vụ những con người đó. Đó chính là những ngọn
nến cháy mãi tình yêu, sưởi ấm tâm hồn lạnh lẽo của rất nhiều con
người bất hạnh.
Thái độ sống, cách đối xử với những người xung quanh tùy thuộc
vào quan niệm sống của mỗi người. Quan niệm sống có ảnh hưởng
đến thái độ, hành vi, việc làm của mỗi người. Như dân gian Việt Nam
thì “nghĩ sao, làm vậy”. Chính những suy nghĩ, quan niệm sống lành
mạnh, sống cho người khác, quan tâm đến những người xung quanh.
Mẹ Teresa Calcutta là mẫu gương tuyệt vời về cuộc đời dâng hiến, chỉ
biết phục vụ những người nghèo khổ, những người sống bơ vơ trên
khắp các đường phố. Mẹ kêu gọi không chỉ những chị em trong dòng
mà ngoài ra Mẹ còn kêu gọi tất cả mọi người trên toàn thế giới hãy
quan tâm đến bao số phận đau khổ xung quanh. Mẹ đi đến từng ngõ
phố, đưa các trẻ em, người già về sống trong dòng rồi tìm cho họ công
việc, do đó đã có rất nhiều người thoát khỏi hoàn cảnh nghèo khổ, đau
buồn tiến đến một tương lai tốt đẹp và chính những con người đã đi
qua màn đêm u tối lại quay sang thắp lên tia hy vọng, phá than màn
đêm đưa những người nghèo khổ thoát ra bóng tối.
Sống là cho đi, sống là cống hiến, bởi vì chính lúc cho đi là lúc
được nhận lãnh, trao ban. Cuộc đời chúng ta sẽ có ý nghĩa khi ta
sống cho người khác, mặc dù chúng ta giúp đỡ những người khác vô
vị lợi, chúng ta không nghĩ đến mình sẽ được gì khi làm việc đó,
nhưng điều bất ngờ lại đến một cách bất ngờ, đó chính là niềm hạnh
phúc một thứ tài sản vô giá không gì mua được.

337
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Chúng ta vẫn không quên một con người vĩ đại trên tất cả những
con người vĩ đại, đã yêu thương chúng ta đến đỗi (đã) hy sinh mạng
sống mình. Đó là ai? Chính là Chúa Giêsu con Thiên Chúa. Cuộc
sống chỉ vỏn vẹn ba mươi ba năm nhưng đã thay đổi hoàn toàn cuộc
sống của hàng tỷ người, trên trần gian này. Người sống yêu thương,
quan tâm đến tất cả mọi người, người đã cho đi tất cả, cho đi chính
mạng sống mình trên thập giá. Trên cây thập giá thấp trên kia đã xảy
ra máu và nước từ trái tim rất châu báu, của Chúa Giêsu. Thật tuyệt
vời viết bao khi chúng ta nhìn vào đó và hiểu ra chân lý yêu thương
tuyệt vời của Người để mỗi người chúng ta hôm nay cũng có thêm
quan niệm sống và hiểu ra rằng: sống là cho đi, là thắp sáng, đốt
nóng lên sưởi ấm những người xung quanh mình.
Đến đây chúng ta cũng nhìn lại ý kiến “Con người không phải là
bình nước đổ đầy mà là một ngọn nến cần thắp sáng” ý kiến thật
đúng đắn, đem lại cho tất cả những ai khi đọc nó sẽ phải suy nghĩ và
hiểu ra nhiều điều về cuộc sống.
Ý thức được tầm quan trọng đó, ngay trong hoạt động giáo dục
phải đưa ra những môn học gắn liền với đạo đức làm người để giảng
dạy, thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học ngày càng gần gũi
với cuộc sống hơn. Chỉ có con đường giáo dục mới giúp cho thế hệ
trẻ là người làm chủ tương lai hiểu ra chân lý cuộc sống, sống là cho
đi, là hiến dâng vô vị lợi, lên án quan niệm sống cá nhân, sống chỉ lo
cho mình không quan tâm đến những người xung quanh. Có như vậy
tình yêu thương giữa người với người ngày càng được củng cố mạnh
mẽ, xã hội chúng ta đã và đang sống sẽ là xã hội yêu thương, bác ái.
Là những con người tiếp bước theo chân Chúa Giêsu, lên đường
rao giảng lời Chúa, sống vì tha nhân, sống đem tình bác ái đến với tất
cả mọi người, chúng ta phải ý thức sâu sắc được ý nghĩa của con
đường cao đẹp mà chúng ta đang theo đuổi. Chúng ta sống vì anh

338
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
em, những người gần gũi với ta nhất, sau đó là tha nhân những con
người mà sau này chúng ta sẽ trực tiếp đến với họ. Yêu thương, giúp
đỡ không đi đâu xa xôi, đó chính là những công việc thường ngày,
gần gũi nhất, như thánh Teresa hài đồng Giêsu đã nói: “Hãy làm
những việc tầm thường một cách phi thường”. Hãy làm cho cái tôi
nhỏ lại, để cái ta lớn lên, nhờ đó chúng ta sống giữa mọi người loan
báo tin Mừng, đem cái linh hồn về với Chúa là Cha nhân lành, để
mọi người cùng chung hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên đàng, để
“Tôi sống không phải là tôi sống mà chính là đức Kitô sống trong
tôi” như thánh Phaolô đã nói.
Phanxicô Xavie Đinh Mạnh Hùng.

339
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Chứng minh ý kiến sau:Nhiều người mất cả đời cứ mãi
đi câu mà không biết rằng cá không phải là thứ mình cần tìm.
Dàn ý.
I. Đặt vấn đề.
- Hiện hữu trong cuộc sống, con người luôn luôn chuyển động
hoặc có ý thức hay không có ý thức.
- Nhiều người mất cả đời cứ mãi đi câu mà không biết rằng cá
không phải là thứ mình cần tìm.
- Làm sáng tỏ ý nghĩa của câu nói trên.
II. Giải quyết vấn đề.
A. Giải nghĩa.
Nghĩa đen: mất thời gian đi câu mà không biết mình không cần cá.
Nghĩa trắng: Phê phán thái độ sống không có mục đích và lý tưởng.
B. Chứng minh – phân tích – lý giải.
1) Tại sao chúng ta sống không có mục đích>
a/ Chủ quan:
- Thiếu nhận biết về bản thân và sự việc.
- Không có can đảm.
- Không có lập trường.
b/ Khách quan:
- Xã hội + bị ru ngủ bởi các tiện nghi vật chất.
+ bị phân tascn bởi tiếng ồn.
- Giáo dục + Gia đình
+ trường học
+ học đường.
2) Sống không mục đích thể hiện ở những góc độ nào?
- Lối sống hằng ngày.
- Bước vào cuộc sống.
III. Kết thúc vấn đề.
- Tóm tắt.
- Liên hệ thực tiễn.

340
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Bài làm
“Không ai tắm hai lần trong một dòng sông”. Tư tưởng của đại
triết gia Socrates diễn tả một thực tại: cuộc sống là một chuyển động
không ngừng và luôn luôn thay đổi. Hiện hữu trong dòng chảy thời
gian đó, con người cũng luôn ở trạng thái chuyển động và biến đổi,
dẫu có ý thức hay không ý thức. Giây phút hiện tại đặt vào tâm thức
con người một khắc khoải về tương lai hay vận mệnh của mình. Và
tuy sống trong hiện tại nhưng con người vẫn không ngừng dõi theo
tương lai ngang qua những ước mơ và những nẻo đường được vạch
sẵn. Khi thao thức về mối bận tâm đó và soi vào cuộc sống con
người đương thời, Henry David The reau đã phải thốt lên: “Nhiều
người suốt cả cuộc đời cứ mãi đi câu mà không hề biết cá không phải
là thứ mình cần tìm”. Vậy chúng ta cùng làm sáng tỏ nhận định trên
dưới một vài góc độ trong cuộc sống.
Ngoài nghĩa đen – nhiều người mất cả đời đi câu mà không biết
thứ mình cần không phải là cá – câu nói trên hàm ý phản ánh một
thái độ sống không có mục đích và lý tưởng. Đúng vậy, như lời của
M.Montaigne: “Thước đo cuộc đời không phải ở chỗ nó dài hay
ngắn, mà ở chỗ bạn đã sử dụng nó như thế nào”. Có thể nói Đấng
Tạo Hóa phú bẩm cho mọi người những nét khác biệt nhau về thể
chất hay tinh thần, nhưng Ngài ban cho mọi người thời gian trong
ngày sống như nhau. Ai cũng có hai mươi bốn giờ một ngày, nhưng
sử dụng thời gian đó như thế nào thì tùy thuộc vào tự do của mỗi
người. Có những người đã chọn cho mình thái độ sống tích cực, lành
mạnh; cũng không hay, không ít người đã kéo lê cuộc đời mình như
một gánh nặng buộc họ mang lấy. Dẫu trường đời có nhiều khi thật
khắc nghiệt, nhưng đó là bài học thật giá trị để đào luyện con người
chúng ta. Vậy dẫu sao đi nữa, sống không có mục đích tự nó vẫn là

341
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
một lời kết án cho ý nghĩa về sự hiện hữu của mình. Sống không có
mục đích nghĩa là gì?
Sống không có mụcđích là một thái độ sống buông thả cho số phận
đẩy đưa, không có ước mơ, lý tưởng để vươn tới cũng chẳng có ý thức,
nghị lực để vươn lên. Cuộc sống đó tựa như cánh bèo trôi dạt giữa dòng
sông, mặc sức cho dòng nước cuốn đi theo dòng chảy của nó.
Khác với cánh bèo, khác với con vật sống theo bản năng, con vật
sống theo bản năng, con người có lý trí, ý chí, tự do để hoạch định và
theo đuổi mục đích cách ý thức. Đây hẳn nhiên là điều chỉ có con
người mới thực hiện được. Vậy điều gì đã đánh cắp mắt nơi con
người một cuộc sống cao đẹp – sống có mục đích – như vậy?
Trước hết, ta phải kể đến những lý do chủ quan. Bản thân đương
sự không ý thức hay đúng hơn không nhận biết cách đúng đắn và đầy
đủ về mình. Họ tự ti, mặc cảm về một khuyết điểm nào đó nơi bản
thân mà không nhận ra có vô vàn khả năng, tiềm năng mà họ chưa
phát huy. Thay vì cố gắng phát triển các tích cực, họ co cụm lại trong
cái giới hạn. Đây cũng là hệ lụy để kéo theo nguyên nhân tiếp theo là
thiếu can đảm. Họ nhìn thấy cuộc sống mở ra muôn ngàn lối, với
những khó khăn thử thách thử thách ngay cả những hiểm nguy trong
khi thấy bản thân mình quá bé nhỏ, thế nên, họ không đủ tự tin, can
đảm để trải nghiệm cuộc đời và đón nhận lấy trách nhiệm về cuộc
sống đó. Ở đây, ta nhớ tới câu nói của ai đó, người thành công nhìn
thấy cơ hội trong khó khăn, người thất bại nhìn thấy khó khăn trong
cơ hội. Hẳn rằng, không phải ai cũng có thái độ tích cực trước những
giới hạn về bản thân hay sự việc, nhưng đó lại là chìa khóa mở ra
những chân trời mới.
Dường như ngược lại với thái độ tiêu cực, co cụm và khép kín,
thiếu lập trường cũng là một nguyên nhân dẫn đến cuộc sống không
có mục đích. Ở đây, họ đánh mất bản thân mình trong thế giới xung

342
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
quanh, với những thái độ sống khác nhau, những định mức của người
khác và xã hội. Họ hòa mình vào xã hội cũng đồng thời “hòa tan”
luôn chính mình. Không dám chọn cho mình một con đường riêng,
họ lẫn vào đám đông không như đóng góp cho tiếng nói của tập thể,
nhưng là dịp để tìm cho mình cái an phận thủ thường.
Ngoài những lý do chủ quan, ta củng cần kể đến cả những lý do
khách quan về mặt xã hội cũng như giáo dục. Trong xã hội được mệnh
danh tân tiến hôm nay, con người như đang đắm mình trong các tiện
nghi vật chất. Lối sống hưởng thụ xa hoa phung phí đang ru ngủ họ
trong những giấc mơ hạnh phúc giả tạo. Họ say sưa cái no đủ êm ấm
bên ngoài vì cảm thấy mãn nguyện về những giá trị vật chất hứa hẹn
cho họ. Họ lãng quên những giá trị tinh thần cũng như những thực tại
xung quanh. Đôi mắt họ không thể mở ra – vì “chủ nghĩa duy vật” đã
ôm ấp và ru ngủ họ - để nhìn thấy cuộc sống bên kia bầu trời thì làm
sao họ có thể gieo vào đó những ước mơ và lý tưởng.
Nếu mục đích sống có thể bị bóp nghẹt do “lời ra” của vật chất
thì cũng thật trớ trêu thay, “tiếng ồn” của thế giới văn minh cũng
mang đến hậu quả như thế. Chúng ta có cảm tưởng bầu không khí
càng ngày càng ồn ào hơn. Đâu còn cảnh thanh bình của làng quê
năm xưa! Thay vì cánh đồng bát ngát cò bay, nay đô thị mọc lên như
nấm; thay vì câu ca xứ Nghệ, nay chỉ nghe tiếng ồn ào của động cơ
máy móc…Dường như con người đang “bận rộn” hơn và tiết tấu
cuộc sống cũng “dồn dập” hơn. Không còn những “dấu lặng” để con
người trớ về với chính mình. Bị phân tán bởi muôn vàn âm thanh dội
lại, họ không còn lắng nghe được giai điệu của riêng mình. Họ trở
nên như con thiêu thân bôn ba giữa chợ đời, không định vị được mục
tiêu cho mình. Những người chôn mình trong quán bar, vũ trường
hay lao vào các tệ nạn ma túy…Phải chăng họ đang chạy trốn cái
trống rỗng trong nội tâm – một cuộc sống không mục đích. Cái trống
rỗng mà Bertelt Bceclt đã nói nó đáng sợ hơn cả cái chết.

343
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Bên cạnh những lý do về xã hội, giáo dục cũng là một lý do dẫn
đến thái độ sống không có mục đích không thể không nói đến, bởi vì
giáo dục là một trong những yếu tố chính giúp xây dựng và phát triển
con người cũng như xã hội. Trong đó, giáo dục trong gia đình là môi
trường đầu tiêu giúp con người làm quen với cuộc sống thực tế. Từ
trong những việc nhỏ nhặt như quét nhà, rửa chén, dọn dẹp, ta cũng ý
thức được mục đích của việc làm để phụ giúp hơn nữa là tỏ lòng hiếu
thảo với cha mẹ, chứ không thể chỉ làm và bị bó buộc.
Tiếp đến, giáo dục nơi nhà trường nếu chỉ giới hạn vào những bộ
môn tự nhiên hay những kiến thức duy lý, mà không hướng con người
tới cái nhìn toàn vẹn về những giá trị tinh thần, đạo lý yêu thương, tình
liên đới…thì làm sao mà họ không cảm thấy hụt hững khi bước vào
đời với hành trang khập khiễng và thiếu quân bình như vậy.
Đi xa hơn hữa, ta thấy vấn đề học đường cũng là một trở ngại
không nhỏ dẫn đến lối sống trên. Giới trẻ ồ ạt chạy theo các trào lưu
của thời hiện đại: đam mê đến cuồng mộ chạy các cầu thủ, thần
tượng các ngôi sao nhạc Hàn, gieo mình vào thế giới không tưởng
của Internet…Những điều này cuốn cong con người bay vào thế giới
của những “siêu nhân” và họ “lãng quên” thực tại.
Nếu có những lý do dẫn đến thái độ sống không mục đích thì nó
cũng biểu lộ dưới những góc độ khác nhau như trong đời sống hằng
ngày, khi bước vào đời, về ý nghĩa chung cuộc…
Nhiều người như bị “tê liệt” trong cuộc sống quen thuộc hằng
ngày. Một học sinh đi học ngày này qua ngày khác chỉ như để chu
toàn thời khóa biểu mỗi ngày. Nhiều người muốn băng qua cuộc đời
này cách nhanh chóng như muốn giảm đi những bất hạnh và đau khổ.
Ở nơi khác, có những cụ ông, cụ bà sống trong nhà hưu dưỡng cách
tuyệt vọng như thể đang chờ đợi thần chết đến gõ cửa…

344
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Từ những sinh hoạt hằng ngày – không ít người như cổ máy được
cài đặt hệ thống chương trình sẵn – đến góc độ khi bước vào cuộc
sống, có người khi được hỏi tại sao chọn công việc ngày, câu trả lời
chỉ đơn giản là cho đỡ buồn, hay có khi họ cũng vịn vào một vài lý
do nào đó để biện minh cho cái trống rỗng nơi mình. Một nhà giáo
quên đi được việc giáo dục giới trẻ, một bác sĩ không màng tới việc
cứu người, một người tu hành không tìm cầu nét chân tu thì thử hỏi
mọi sự sẽ ra rao! Đáng tiếc thay! Đó là chính phần nào thực trạng
của xã hội hiện nay. Nhà giáo chỉ nhìn vào đồng lương ít ỏi mà họ
không nhìn thấy giới trẻ là tương lai của xã hội, lương y không còn
như từ mẫu mà đôi khi mất hết cả y đức, cái tục hóa cũng dần dần đi
vào cuộc sống người tu hành…Nếu không ý thức, mỗi người cũng dễ
đánh mất căn tính nghề nghiệp của mình. Như vậy, chẳng hóa ra
đánh mất đi mục đích của mình rồi hay sao?...
Sau cùng, sống không mục đích được biểu lộ trong góc độ ý
nghĩa chung cuộc. Phải giải thích như thế nào cho những cái chết bí
ẩn của những người được xem là nổi tiếng trước ống kính truyền
hình, con số người tự tử ngày càng gia tăng, đặc biệt tại nước Nhật
có khoảng 30.000 người tự tử trên một năm. Một con số khổng lồ!
Điều này làm cho chúng ta nhớ lại lời của Nill: “Thế giới này có thói
quen dành chỗ cho những người mà hành động của họ cho thấy họ
biết mình đang đi đâu”. Đúng vậy, con người từ bao thời đại vẫn
luôn luôn khắc khoải về vấn nạn xung quanh ý nghĩa về cuộc đời:
Tôi là ai? Tôi sinh ra để làm gì? Chết sẽ đi về đâu? Nếu như có ai đó
không thỏa mãn với đỉnh cao danh vọng, cũng chán ghét với cuộc
sống duy vật vô hồn và khi thất vọng xâm chiếm đến mức cực độ, tự
tử sẽ là một phương cách giải quyết tuy hèn nhát nhưng cũng dễ chịu
hơn cái vô vọng của một cuộc sống không có ý nghĩa.

345
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Tóm lại, ta nhận thấy có thật nhiều lý do dẫn đến một thái độ
sống không có mục đích, từ cái thiếu hiểu biết hay những giới hạn
nơi chủ quan đương sự cho tới những tác động trực tiếp hay gián tiếp
của xã hội đương thời, ngay cả những lỗ hổng trong hành trình giáo
dục và học đường. Điều này – sống không mục đích – còn được biểu
lộ nơi những cung bậc khác nhau trong cuộc sống, từ cái nhỏ nhặt
đơn điệu hằng ngày đến mục đích tối hậu của cuộc đời. Thực trạng
này làm đánh thức nơi chúng ta lời kêu gọi của Chúa Giêsu: “Trước
hết hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và đức công chính của Người,
còn tất cả những thứ khác, người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Người Kitô
hữu không chỉ được mời gọi sống có mục đích để trở nên con người
toàn diện, nhưng hơn thế nữa, họ được thúc bách đẩy mục đích đến
thực tại tối hậu là tìm kiếm Nước trời ngay trong cuộc sống này, để
xứng đáng với phẩm giá làm con Cha trên trời.
Giuse.M. Phạm Văn Bình

346
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Bình luận ý kiến: “Hãy yêu mến rồi muốn làm gì thì làm”
(Augustino)
Bài làm
“Làm sao sống được mà không yêu,
Không nhớ, không thương một kẻ nào?”.
Hai câu thơ trên trong Bài thơ Tuổi Nhỏ của Xuân Diệu. Chắc
hẳn không xa lạ gì với mỗi người chúng ta, cách riêng những người
yêu thơ và những bạn trẻ đang yêu. Quả thật, có thể nói tình yêu là
giá trị mà không có gì có thể so sánh được trong cuộc sống của con
người, hay nói cách khác, chính tình yêu làm tăng giá trị cuộc sống
của một con người hiện diện trong kiếp nhân sinh. Nhiều loài vật
cũng có cách thể hiện tình yêu cho nhau qua việc vuốt ve và nghịch
đùa với nhau, tuy nhiên những cử chỉ đó cũng chỉ là những bản năng
vốn có của chúng. Tuyệt diệu hơn hẳn, tình yêu mà con người trao
ban cho nhau thì rất đa dạng và đặc sắc. Mỗi người có muôn hình
vạn trạng cách thức thể hiện tình yêu nhưng tất cả đều phát xuất từ
trái tim. Một hành động xuất phát từ con tim thì luôn để lại ít nhiều
những giá trị và ý nghĩa nhất định cả nơi người trao ban lẫn nơi
người đón nhận nó. Cảm nhận được những giá trị cao cả của tình
yêu, đồng thời với những trải nghiệm thực tế của việc sống tình yêu,
Augustino, một vị thánh tiến sĩ của Giáo hội Công giáo, đã đưa ra
một câu châm ngôn sống không chỉ cho mình, mà con là điều đáng
cho chúng ta học hỏi: “Hãy yêu mến rồi muốn làm gì thì làm” Chúng
ta hãy cùng nhau khám phá những nét đặc sắc của câu nói trên qua
việc hiểu thế nào là “yêu” và “làm”, và những hệ quả trong tương
quan của hai từ này.
Chỉ trong một câu ngắn gọn nhưng thánh Augustion đã đưa ra hai
động từ, mà theo triết học đây là hai hoạt động cốt lõi trong đời
người. Theo ý nghĩa mà bản dịch tiếng việt mang lại, chúng ta có thể

347
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
thấy hai động từ này là hai hành động nối tiếp nhau, hành động “yêu”
xảy ra trước và là yếu tố quyết định cho hành động theo sau nó là
“làm” nếu “yêu” người, thì “làm” lại là những biểu hiện cụ thể bên
ngoài qua lời nói và hành động. Từ hai động từ này chúng ta đi đến
hai danh từ tương ứng là tình yêu và việc làm, hay hành động. Với
câu nói của thánh Augustino, chúng ta hiểu rằng, tình yêu đóng một
vai trò rất quan trọng và quyết định cho mọi hành động và việc làm
mà chúng ta thực hiện, vì vậy trước hết hay có sự yêu mến rồi thì
mọi việc tự bản chất sẽ dẫn đến một kết quả tốt đẹp. Nói cách khác,
có tình yêu con người có thể có được nhiều thứ khác ngoài sự mong
đợi. Về điểm này, chúng ta nhớ lại câu chuyện của “Ba ông lão”, khi
họ đến gõ của nhà một đôi vợ chồng trẻ. Người vợ mời cả ba ông cụ
vào nhà nghỉ ngơi, nhưng sự kì lạ ở chỗ nếu mời ông này thì hai ông
còn lại không được vào, chỉ có duy nhất một ông mà khi được mời
vào thì cả hai ông còn lại cũng vào theo. Đó là ông nào trong nhóm
3T: Thành công – Tiền Tài – Tình yêu. Sau nhiều tranh luận và đắn
đo, hai vợ chồng trẻ quyết định mời ông lão mang tên Tình yêu, và
họ đã lựa chọn đúng, và kết quả là hai ông còn lại cũng bước vào
nhà. Câu chuyện kết thúc chắc hẳn để lạ cho chúng ta nhiều suy nghĩ.
Quả thật, thành công và tiền tài là những thứ mà chúng ta có thể tìm
kiếm được và cũng mang giá trị nhất thời, nhưng tình yêu không phải
ai cũng tìm thấy, và khi đã xuất hiện thì mang giá trị vĩnh cửu và tồn
tại mãi mãi.
Nói về sự tồn tại và sức mạnh của tình yêu, cũng như ảnh hưởng
của tình yêu trên hành động của mỗi người, chúng ta tìm thấy chuyện
tình cảm động của đôi vợ chồng hạnh phúc trong câu chuyện “Tách
cà phê muối” Anh và chị quen nhau do mai mối. Một lần nọ hai anh
chị vào uống nước trong quán cà phê. Sự ngại ngùng và bối rối đã
khiến anh buột miệng xin thêm chút muối cho cà phê, nhưng cũng

348
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
chính sự cố này mà hai anh chị bắt đầu có chủ đề cho cuộc trò
chuyện, đồng thời chị khám phá nơi anh một tình cảm đặc biệt, cũng
như tính trách nhiệm đối với gia đình của anh. Cuộc sống hạnh phúc
của họ kéo dài suốt bốn mươi năm, với việc mỗi sáng chị pha cho
anh một tách cà phê mang chút vị mặn của biển, nơi anh sinh ra, và
được anh đón nhận với nụ cười thật ngọt ngào, cho tới ngày anh ra đi
với bức thư dành riêng cho chị. Lời giải thích của anh về lời nói dối
bất chợt ngày đầu tiên đi uống nước có lẽ chẳng có ý nghĩa gì, khi
chị biết rằng mình đã yêu anh bằng cả con tim và được anh yêu cũng
bằng cả tâm hồn. Hãy cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm, dù cho đó là
một hành động lầm lỗi rất đáng trách thì trong tình yêu nó trở nên
thật nhẹ nhàng, và đáng được tha thứ.
Jimmy là cậu bé nới bảy tuổi, còn chị của cậu là Lisa lớn hơn cậu
gấp đôi, nhưng lại hay thích chọc phá em trai mình. Tuy nhiên việc
học hỏi Lời Chúa đã dạy Jimmy phải biết tha thứ bảy mươi lần bảy,
và cậu đã nhắc nhở Lisa sẽ tha thứ cho chị bằng việc kẻ một khung
có bốn trăm chín mươi ô, và khi nào các ô được đánh dấu thết thì chị
Lisa không được làm lỗi với em nữa. Nhưng rồi với việc tức giận bạn
trai, Lisa đã vô tình làm vỡ khung ảnh mà cậu em trai yêu quý nhất.
Đây phải chăng đã là lần thứ bốn trăm chín mươi, cô chợt nhận ra, và
trong sự bối rối, hoang mang cô đã bỏ nhà ra đi. Trở về nhà sau hai
năm, cô nhận được một tin sét đánh khi nghe người thân kể lại. Một
lần do nhìn nhầm người khác ra chị Lisa, Jimmy đã băng vội qua
đường và bị xe đâm trúng. Lời cuối cùng còn nghe được trên môi của
Jimmy là “Lisa, em sẽ mãi tha thứ cho chị” Câu chuyện khép lại với
hình ảnh chị Lisa đứng bên khung kẻ ô, không đánh dấu ô lần thứ
bốn trăm chín mươi, mà còn được vẽ thêm bốn trăm chín mươi ô
trống nữa. Điều duy nhất đọng lại trong chúng ta lúc này có lẽ là sự
cảm phục về sức mạnh tuyệt vời của tình yêu. Chỉ có tình yêu thực

349
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
sự phát xuất từ con tim mới có thể giúp chúng ta vượt qua những
ngăn trở và rào cản tưởng chừng như vô tận để làm những việc diệu
kì, vậy nên hãy cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm.
Tình yêu thật đẹp biết bao, và những việc làm bắt nguồn từ tình
yêu cũng thật cao vợi biết dường nào. Không chỉ riêng chúng ta mà
rất nhiều người từng trải nghiệm cũng phải thốt lên giá trị kì diệu của
tình yêu, chẳng hạn như nhận định “Chân lí cuối cùng của cuộc đời
này: Tình yêu có nghĩa là sống, và sống là yêu” (Voltaine) hay “yêu
có nghĩa là đối xử với một ai đó tốt hơn tất cả mọi người, tốt hơn với
cả chính bản thân mình” (Victor Hugo), hoặc “Hạnh phúc của tình
yêu là trong hành động” (Wenlit), hoặc (Geoges Granville) “những
gì cho ta đi một cách thật lòng thì mãi mãi là của ta”, và nếu đi sâu
vào đời sống đức tin Kitô giáo, một tôn giáo được gọi bằng một cái
tên khác là Đạo yêu thương thì chúng ta sẽ còn rất nhiều cái nhìn
tương quan giữa tình yêu và hành động phù hợp cần có, ví dụ như
tình yêu đòi hỏi sự tha thứ, trong trích đoạn Matthêu, chương 18 câu
21 và 22; yêu thương là phục vụ vô vị lợi, trong Tin Mừng của thánh
Matthêu, chương 20, câu 28, hoặc yêu thương đồng nghĩa với việc
chấp nhận hy sinh bản thân mình, trong thư thứ nhất của thánh
Phêrô, chương 2 câu 2. Mỗi người có mỗi cách thể hiện ngôn từ khác
nhau nhưng đều tựu trung ở một điểm là “hãy yêu mến rồi muốn làm
gì thì làm”.
Một điểm nhỏ mà chúng ta cũng nên tìm hiểu, đó là từ “yêu
mến”. Nếu nhắc đến tình yêu đồng loại, đồng bào, tình yêu gia đình,
tình yêu nam nữ, nhưng khi nhìn ở khía cạnh lòng mến, thì tình yêu
vượt ra khỏi những giới hạn bó buộc mà nó vươn xa tới những giá trị
hiện hữu dù rất nhỏ bé như không khí, cây cỏ, hoa lá, các loài động
vật…Và cho từng công việc tưởng chừng như rất bình thường, đôi
lúc bị xem như tầm thường như nhặt rác, quét sân, giặt giũ quần áo,

350
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
…Những tấm gương điển hình cho lòng mến nồng nàn này chúng ta
có thể tìm thấy rất nhiều nơi các vị thánh hay những bậc tu trì như
thánh Phanxicô Assisi, Têrêsa Hài Đồng Giêsu hay Martin de Pores.
Chuyện kể rằng, có anh thanh niên đi tìm thầy để học làm thế nào có
được tình yêu thực sự. Anh gặp được một nhà sư sống ẩn tích, và vị
sư hứa sẽ truyền dạy với điều kiện anh phải đi bộ gánh nước từ suối
về nhà mỗi ngày. Chàng thanh niên đồng ý, nhưng không biết rằng
vị sư chùa đã cố tình khoét một lỗ nhỏ để nước rỉ ra. Mặc dù rất khó
chịu nhưng anh vẫn phải chấp nhận việc nước chỉ còn lại rất ít khi
anh về đến nơi. Thời gian trôi qua anh chợt nhận ra không biết từ lúc
nào những mầm cây tươi tốt đã mọc xanh um và ra hoa sặc sỡ suốt
đoạn đường anh đi gánh nước. Từ một công việc tưởng chừng như
nhàm chán và vô nghĩa, thì giờ đây anh đã làm với tất cả niềm say
mê, và thích thú với những thành quả từ công việc của mình. Câu
chuyện này xem chừng như đi ngược lại với điều mà chúng ta đang
làm rõ từ đầu đến giờ, vì theo bản dịch thì tình yêu là cái có trước rồi
mới dẫn đến hành động tương ứng, nhưng trong câu chuyện này,
hành động lại là điều tiên khởi để từ đó nhận ra giá trị tình yêu trong
việc làm mà mình thực hiện. Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ lưỡng trong
nguyên bản tiếng La tinh: “Ama et fac quad vis” và trong bản dịch
tiếng anh “Love and do what you wish” thì dường như không có sự
phân biệt trước sau, nhưng là hai hoạt động cùng lúc và song hành
cùng nhau. Quả thật, trong thực tế khó có thể tìm thấy ranh giới rõ rệt
giữa hai động từ này nhưng chỉ có thể xác định dựa vào kết quả mà
chúng đem lại. Càng yêu mến nhiều thì, càng tìm mọi phương thế để
thực hiện điều đó cách tốt nhất và hiệu quả nhất, hay nói cách khác
chính qua cách thức và thái độ thực hiện sẽ cho thấy chúng ta dành
bao nhiêu tâm huyết và lòng yêu mến cho công việc mình đang làm
có câu chuyện về đại văn hào người Nga Tolstoy như sau: Nạn đói
lan tràn lãnh thổ. Một người ăn xin nơi góc phố tiến tới gần Tolstoy.

351
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Nhà văn dừng lại, sờ khắp mọi túi nhưng không tìm được đồng nào.
Thật lòng thương cảm, ông nói: “Xin đừng giận tôi, người anh em ạ,
tôi không có đồng nào ở đây” Người ăn xin ngước mặt đáp: “Ông gọi
tôi là người anh em thì cũng là món quà lớn lắm rồi” Với việc dành
tất cả tình yêu mến và sự chân thành mà mọi việc chúng ta làm, dù
có thể không mang đến giá trị vật chất, cũng trở nên thật ý nghĩa, và
để lại một giá trị tinh thần tuyệt vời.
Tình yêu tự bản chất vốn dĩ là tốt đẹp, nói theo Giáo lý Công giáo
vì nó xuất phát từ Thiên Chúa, hay Thiên Chúa là tình yêu, (xem thư
thứ nhất của thánh Gioan, chương 4, câu 8). Tuy nhiên một số người
lại có cái nhìn sai lệch về tình yêu, và từ đó tự cho mình quyền để
quyết định tự do và chọn lựa tình yêu của người khác. Báo công an
số 2075, ra ngày mùng 6 tháng 11 năm 2014 có đăng tin vắn: Sáng
ngày mùng 4 tháng 11 năm 2014, chị Đoàn Thị Xuân Anh, sinh năm
1983, được phát hiện chết tại nhà, và anh Lâm Hoàng Sơn, chồng của
chị chết do treo cổ. Theo nhận định của cơ quan điều tră, do ghen
tuông trong tình yêu người chồng đã giết chết vợ mình, rồi tự tử.
Ngoài ra khi tìm hiểu cá trang báo online, chẳng hạn như
news.zing.vn, hay vào google.com, đánh từ khóa “những thảm án
cuồng yêu”, chúng ta sẽ bắt gặp hàng trăm trường hợp tương tự của
các đôi vợ chồng trẻ, hay những đôi lứa yêu nhau nhưng không tìm
hiểu sâu sắc. Nghe thì thật vô lý, khi tình yêu tưởng chừng là điều đem
lại hạnh phúc, thì giờ đây lại đưa đến những thảm kịch đau thương cho
những con người, mà tự bản chất mang trong mình chữ “nhân” của
nhân hậu, nhân từ, nhân nghĩa, nhân ái…Nói thế không có nghĩa là
chúng ta trở nên thất vọng và không còn tin tưởng vào tình yêu chân
chính. Tuy một số cá nhân chưa có nhận thức đúng đắn, để từ đó giúp
họ định hướng cuộc sống của mình một cách tốt hơn nhằm đem lại
hạnh phúc cho chính mình và những người xung quanh.

352
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Tình yêu thật tuyệt đẹp biết bao vì nó là tặng phẩm của Đấng Tạo
Hóa dành riêng cho loài người, nên mỗi người chúng ta có trách
nhiệm phải gìn giữ và trân trọng món quà vô giá đó, đồng thời cũng
biết trao ban quà tặng yêu thương này đến với tất cả mọi người, dù
không quen biết. Minh họa cho điều này, chúng ta nhớ lại câu
chuyện của anh lính sĩ quan khi vào bệnh viện thăm người thân. Do
vô tình hay duyên sự mà anh đã giúp cho một cụ già mù được ra đi
bình an khi tin rằng người con trai đi lính mà ông hằng thương nhớ
đang hiện diện bên mình. Trong hành trình cuộc sống, với những tình
huống tương tự, liệu chúng ta có dám có những nghĩa cử như anh
lính trong câu chuyện, hay chúng ta tìm cách từ chối với những lý do
được xem như hợp lý, hoặc tỏ ra thờ ơ, vô cảm trước những con
người khốn khổ và nghèo hèn. Chúng ta nhớ lại một câu nói của một
triết gia nào đó: “Bạn cho đi điều gì, bạn sẽ nhận lại điều tương tự”
Hãy cho đi tình yêu mến, để chúng ta sẽ nhận lại sự yêu mến.
Một điểm khác mà chúng ta thấy có rất nhiều sự đồng cảm trong
định nghĩa về tình yêu, đó là yêu thương thì không cần ngôn ngữ lời
nói, hay theo quan điểm của Caxtilônê: “Ai yêu mãnh liệt, kẻ ấy ít
lời”. Quả thật, tình yêu xuất phát từ trái tim, chứ không phải từ bao
tử hay lá phổi nên việc hiểu thấu tình yêu đơn giản chỉ qua những
cảm nhận của cử chỉ, ánh mắt, nụ cười…hay chỉ với một dòng chữ
nghệch ngoạc. Trở về nhà sau một ngày làm việc mệt mỏi, được
người giúp việc báo lại cu Tí ở nhà vẽ chữ đầy trên tường phòng ngủ,
không nói không rằng, mẹ Lan lôi cu Tí ra đánh một trận xối xả. Cu
Tí khóc lớn rồi nín thinh. Bước vào phòng, mẹ nhận ra nét chữ
nguệch ngoạc của cậu con trai mới năm tuổi với nội dung: “Con yêu
Mẹ!” Mẹ Lan thật hạnh phúc vì có được tình yêu của đứa con trai bé
bỏng. Chúng ta không đề cập đến việc đúng hay sai trong cách hành
xử, nhưng cần nhìn ở khía cạnh hiệu quả trong từng cách thức mà
tình yêu đem lại, để từ đó nhận ra sức mạnh diệu kì của chữ “mến”.

353
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
“Hãy yêu mến rồi muốn làm gì thì làm”, có lẽ đây sẽ là câu nói
để lại nhiều ấn tượng và suy nghĩ trong cách sống của chúng ta. Ước
mong sao đây cũng sẽ là châm ngôn sống cho nhiều bạn trẻ ngày
nay, nhưng cần thiết là phải nhìn theo hướng tích cực để đem lại
hạnh phúc, niềm vui và bình an cho những người xung quanh. Không
được phép nhìn nó với suy nghĩ chủ quan, độc đoán và méo mó, chỉ
có như thế, chúng ta mới cảm thấy cuộc sống thật đẹp và ý nghĩa.
Trước khi khép lại, chúng ta cùng đọng lại nội dung của bài viết với
những chia sẻ và trải nghiệm của tác giả trong nhìn nhận về giá trị
tuyệt vời của tình yêu thương. Yêu thương không phân biệt người
thân hay người lại, yêu thương là chấp nhận phần thiệt thòi thuộc về
mình, yêu thương không cần ngôn ngữ của lời nói. Yêu thương là
khởi điểm cho mọi điều tốt lành.
Phêrô Nguyễn Đức Nghiệp

354
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài:Bình luận câu nói sau: “Hãy yêu mến rồi muốn làm gì
thì làm” (Thánh Augustino)
Bài làm
Con người chúng ta luôn có một khát vọng lớn lao đó là được
hạnh phúc. Không có hạnh phúc nếu không có tình yêu, và không có
tình yêu nếu không có tự do. Tự do để hành động và hành động là
hành động có ý thức, có mục tiêu. Tình yêu thúc đẩy chúng ta hành
động. Thánh Augustino trong tác phẩm Tự thuật đã viết “Hãy yêu
mến rồi muốn làm gì thì làm” có tình yêu, có mục đích nhưng liệu
như thế là đã đủ để đi tới những hành động hay nó cần đến một yếu
tố khác nào nữa khi đặt trong bối cảnh thê giới ngày hôm nay.
Trước khi bình luận câu nói của Thánh Augustino: “Hãy yêu mến
rồi muốn làm gì thì làm” chúng ta cũng phải hiểu về con người của
thánh nhân qua cuộc đời của Ngài. Thánh Augustino là một vị thánh
rất nổi tiếng của Giáo Hội, là tiến sĩ Hội Thánh nhưng điều làm cho
người khác nhớ đến Ngài nhất là Ngài đã trở lại đạo, với những lời
cầu nguyện của Mẹ ngài là thánh nữ và sự ảnh hưởng của thánh
Ambrosio, thoát khỏi cuộc sống phóng túng. Ngài trở thành Giám
mục thành Hippo và mất vào năm 430, được tuyên phong Hiểu
Thánh ngày năm 1303 dưới thời Giáo hoàng Bonifacio VIII. Thánh
nhân đã để lại nhiều tác phẩm, bài giảng ó giá trị to lớn cho Giáo hội,
trong đó nổi tiếng nhất là hai tác phẩm Tự thuật và Thành Đô Thiên
Chúa. Dù khi sống lầm lạc hay khi quay trở về, ta điều nhận thấy nơi
ngài một tình yêu, một khao khát chân lý để đi đến hành động của
mình. Điều đó đã được thể hiện qua câu “Hãy yêu mến rồi muốn làm
gì thì làm”.
Nguyên gốc tiếng Latin của câu nói trên là “Ama et jac quad vis”
mà ta có thể dịch sát nghĩa hơn là “Hãy yêu mến và làm điều gì bạn
muốn”. Từ đó, ta thấy câu nói cho ta ba điều cần phải giải thích làm

355
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
rõ là tình yêu, hành động và mục đích. Tình yêu như đã nói là để con
người có hạnh phúc và tìm một định nghĩa xác đáng cho tình yêu
cũng khó như việc định nghĩa Thiên Chúa để từ đó ta thấy và cảm
nghiệm câu nói của Thánh Gioan Tông Đồ “Thiên Chúa là tình yêu”
thật sâu xa và diệu vợi. Tình yêu của con người khác tình yêu của
loài vật ở chồ không chỉ duy trì nòi giống mà là để con người mưu
cầu hạnh phúc. Trong nổ lực tìm một khái niệm nào đó để hiểu tình
yêu thì trong tiếng Hy lạp chia tình yêu làm ba loại éros, philia và
agápe được viết là. Tình yêu đầu tiên là éros là tình yêu chiếm đoạt,
điều này mang tính tiêu cực nhưng luôn hiện hữu một chút gì đó
trong những mối quan hệ đặc biệt là trong tình bạn giữa người nam
và một người nữ. Tình yêu thứ hai là philia là tình yêu tri thức, thiên
nhiên thường thấy nơi người nam và cuối cùng là agape là tình yêu
dâng hiến, tình yêu đẹp nhất mà ta dễ nhận ra nơi tình mẫu tử, nơi
tình yêu Thiên Chúa với con người chúng ta. Hành động là những
hoạt động mà ở đây ta thấy rõ khi nói về hành động hay hoạt động thì
có sự phân loại là hành động có ý thức và vô ý thức tức là hành động
có mục đích và không có hay không rõ mục đích. Bởi ta đang xét
trong phạm vi câu nói của Thánh Augustino nên ta có thể tạm bỏ qua
một loại hoạt động là hoạt động theo nhu cầu bao gồm các việc như
ăn uống, ngủ nghỉ, ăn mặc…Cuối cùng, đó là mục đích. Mục đích là
điều con người chúng ta theo đuổi bao gồm những điều trừu tượng
như lý tưởng, tri thức đến những điều ta có thể nhận ra rõ ràng như
địa vị, danh vọng. Mục đích sống làm cho con người chúng ta có ý
nghĩa về đời sống chưa xét đến mặt tốt xấu và góp phần hình thành
nên con người chúng ta.
“Hãy yêu mến rồi muốn làm gì thì làm” hay khi ta dịch sát nghĩa
hơn là “Hãy yêu mến và làm điều bạn muốn” điều chỉ cho chúng ta
thấy giá trị của công việc, của hoạt động mà con người chúng ta

356
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
thực hiện muốn trọn vẹn tốt đẹp, mang lại năng suất và cả niềm vui
thì không thể thiếu lòng yêu mến. Lẽ dĩ nhiên trong công việc người
ta có thể làm mà không cần sự yêu mến nhưng điều đó theo thời gian
làm cho năng suất công việc giảm sút. Chính vì thế mà ở các công ty
lớn, người ta luôn cố gắng xây dựng một bầu khí gia đình và thúc
đẩy nâng cao lòng yêu mến công việc, công ty của nhân viên bằng
chính sách đãi ngộ hấp dẫn nhất là với dàn trụ cột, nhân tài của công
ty. Trong việc giải trí, lễ hội ta thấy rõ ràng rằng ý nghĩa thật sự của
những lễ hội là mang lại niềm vui, khơi dậy lòng yêu mến cuộc sống,
chứ không phải là để tìm kiếm lợi nhuận. Trong đời sống gia đình là
nơi mà giá trị của tình yêu phải là nền tảng, ta lại thấy câu nói của
thánh nhân là vô cùng chí lý. Để ta thấy rằng việc giáo dục con cái
trong gia đình nếu thiếu vắng tình yêu sẽ trở thành một thảm họa. Nó
sẽ trở thành một kiểu giáo dục tàn bạo gây những tổn thương sâu sắc
đến tinh thần của trẻ nhỏ hoặc sẽ trở thành một thứ giáo dục không
hiệu quả khi cậy dựa hoặc phó thác hoàn toàn vào nhà trường hoặc
tiền bạc. Nhưng nếu yếu tố tình yêu là nền tảng cho việc giáo dục
con cái thì chắc rằng, đứa trẻ sẽ phát triển cách toàn diện thành một
người hữu ích cho xã hội và cộng đồng. Trong quan hệ vợ chồng nếu
không có tình yêu thì dễ dẫn tới đỡ vỡ và khi đó cả hai không còn tôn
trọng lẫn nhau và sống chỉ là chịu đựng lẫn nhau. Ngược lại nếu tình
yêu là mối dây liên kết hai người thì mọi công việc cả hai làm đều
thành công và mang lại hạnh phúc. Trong kho tàng ca dao tục ngữ
nước ta có câu ca dao “Đồng vợ đồng chồng tát biển Đông cũng cạn”
là để nói lên nhờ tình yêu mà hành động của vợ chồng có hiệu quả to
lớn. Trong vấn đề giáo dục nơi nhà trường và xã hội, ta sẽ thấy rõ
hiệu quả của một giáo viên chỉ hoàn thành nhiệm vụ được giao và
một người khác đặt hoàn toàn tâm trí của mình vào công việc. Người
đó sẽ không chỉ hoàn thành công việc được giao mà còn chiếm được

357
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
cảm tình của các em học sinh trong lớp và không khí lớp học tự
nhiên sẽ khác hẳn. Có một câu chuyện mang tên Đôi bàn tay đã minh
họa đầy đủ cho điều vừa nhắc đến. Câu chuyện đó diễn ra trong giờ
Mỹ thuật, cô giáo yêu cầu các em học sinh vẽ điều các em thích nhất
trong đời. Cô những tưởng các em ai cũng sẽ vẽ những ly kem,
những món đồ chơi nhưng cô đã bất ngờ khi có một đứa bé chỉ vẽ
một đôi bàn tay. Bức tranh mang tính biểu tượng đó đã làm cho cô và
các học sinh khác tò mò. Có em cho rằng đó là bàn tay của bác sĩ,
của công nhân,… nhưng tác giả bức vẽ đã cho cả lớp biết đó là bàn
tay của cô giáo. Em vẽ bức tranh bị một khuyết tật nhỏ ở tay và vì
thế mà thường mặc cảm, chính bàn tay của cô đã dắt em ra để em hòa
nhập với các bạn khác. Đôi bàn tay đó là biểu tượng của tình yêu
thương. Trong tình yêu đôi lứa, đặc biệt là trong thời kỳ bị những
định kiến khắc nghiệt như thời phong kiến thì tình yêu đi đến hành
động là những tình yêu hết sức cao đẹp đã được thể hiện qua nhiều
áng văn tuyệt tác hay được mô tả như Romeo và Juliet. Tình yêu say
đắm dẫn đến hành động đã nói lên sức mạnh của tình yêu, xóa đi
những lằn ranh của kỳ thị, phân biệt dù nỗ lực đó có khi kết thúc bi
thảm nhưng tình yêu tồn tại mãi, hành động đáng ca ngợi.
Thế nhưng, ta cũng thường nghe câu chuyện thế này. Một cô bé
nọ phát hiện hai chú chim non bị thương. Và yêu thương mà cô bé đã
mang hai chú chim non đó về chăm sóc, chữa trị. Đến khi hai chú
chim lành, cô mang chú chim đầu tiên ra thả, chú chim cất cánh bay
lên vui sướng và đậu vào tay cô. Cô bé ôm chặt lại và làm cho chú
chim nhỏ chết. Cô bé hối hận và thả tiếp chú chim thứ hai, lần này cô
nhẹ nhàng thả ra, cô bé không ôm chặt lấy chú chim nữa và chú chim
khi đậu trên cánh tay cô đã cất cánh bay đi. Cô bé mới nhận ra rằng
tình yêu mến không đúng cách sẽ gây ra những hậu quả đau thương
như cái chết của chú chim thứ nhất. Từ câu nói đó, ta mới thấy rằng

358
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
câu nói của thánh Augustino có thể chưa hoàn toàn đúng, nhất là
trong thế giới hôm nay, có một số công việc không phải chỉ có cái
tâm là có thể làm được. Giả như khi xây nhà, cái tâm của ta ao ước,
yêu mến, khát khao muốn xây, để gia đình ta an cư nhưng ta cũng
cần phải tính đến vật tư, thợ thuyền và gia đình sẽ ở đâu trong thời
gian xây dựng; hay như một người thợ may giỏi ngoài tính toán khéo
léo để biết một cái áo, một cái quần tốn bao nhiêu mét vải. Nếu thiếu
những điều đó sẽ gây ra một sự lãng phí không hề nhỏ. Con người
muốn yêu thương và được yêu, nhưng trong thế giới tục hóa, đề cao
vật chất hôm nay, thì tình yêu thay vì dẫn đến những hành động cao
cả như hiến mìn cho người mình yêu dường như chỉ còn tồn tại nơi
các tiểu thuyết lãng mạn hay truyện xưa tích cũ. Tình yêu ngày hôm
nay cũng đang bị tục hóa, yêu nhau không phải là muốn bổ túc, che
chở nhau mà tính dục. Tính dục không còn là biểu hiện của tình yêu
mà giờ trở thành một hoạt động phải có của tình yêu, không cần qua
hôn nhân. Đó là nạn sống thử, yêu thử trong xã hội Việt Nam ngày
hôm nay. Ngay cả trong đời sống hôn nhân, người ta cũng có thể dễ
làm tổn thương nhau vì một việc mình nghĩ làm vậy là tốt cho người
mình yêu. Những mảng đời bất hạnh của đơn côi tuổi già từ các ông
cụ, bà cụ trong viện dưỡng lão cũng từ đó mà ra do con cháu nghĩ
làm vậy là tốt. Tệ hại hơn là là quan niệm về tình yêu sai lầm dẫn đến
hành động tệ hại. Đó là trường hợp các thiếu nữ lỡ mang thai và đi
phá thai. Đa phần để lấp liếm tội lỗi của mình họ bịa ra vô số lý do
như làm vậy không phải là tội mà vì muốn tốt cho đứa con trong
bụng, sợ sinh ra sẽ không nuôi, không lo tốt được. Tình yêu thay vì
dẫn đến hành động hiến thân, hy sinh đã bị lợi dụng để che đậy cho
những hành vi tội lỗi. Nơi gia đình, việc quá nuông chiều con cháu
bằng vật chất cũng dễ làm hư trẻ. Bởi thế dân gia có câu “Con hư tại
mẹ, cháu hư tại bà”. Đôi khi tình yêu còn được thể hiện bằng khuôn

359
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
phép, bằng nề nếp. Trong việc giáo dục, ta đều biết đến căn bệnh
thành tích, đó cũng là một trong những việc chiều chuộng, yêu học
sinh không đúng cách, sợ học sinh của mình buồn. Một thực trạng
nổi cộm của Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, đó là về vấn
dề hôn nhân đồng tính mà theo xu hướng thì càng có nhiều quốc gia
đồng thuận. Đây là một việc hết sức sai lầm vì họ cũng nên dẫn lý do
tình yêu, tự do để ủng hộ. Họ hiểu sai đi ý nghĩa thật sự của tình yêu,
hôn nhân và tự do và khi con người đi ngược lại những quy luật của
Đấng Tạo Hóa thì chỉ có một con đường là diệt vong. Đó là khi ta đặt
câu nói của thánh Augustino giữa một thế giới trật tự nhưng xem ra
hỗn loạn, văn minh che đậy cho lạc hậu và nô lệ núp bóng tự do.
Thế nhưng, khi đặt câu nói của thánh Augustino trong thế giới
tôn giáo, trong lòng Giáo hội Công giáo, ta thấy lời của thánh nhân
thật là chí lý. Tôn giáo là gì nếu không mang lại hạnh phúc, tình yêu
hướng dẫn con người đi tới đó bằng nhiều hoạt động tế tự, phụng vụ
và bác ái. Chúa Giêsu khi Người đến thế gian, Người chỉ dạy con
người chúng ta hãy yêu thương và Người ban cho chúng ta luật cao
cả và duy nhất là mến Chúa và yêu người. Bởi đức tin và đức cậy
theo Thánh Phaolô sẽ qua đi khi ta về với Chúa, điều còn lại duy nhất
chính là đức mến. Nếu thiếu vắng tình thương, tình yêu chiều dọc từ
Thập Giá Đức Kitô và tình yêu lan tỏa từ người sang người bởi tác
động của Chúa Thánh Thần, thì Giáo hội có khác chi một tổ chức phi
chính phủ. Việc tế tự, phụng vụ có ý nghĩa gì nếu thiếu vắng tình yêu
đáp trả từ con người với Chúa. Tình yêu Thiên Chúa sẽ thúc đẩy con
người ta giữ các điều luật Chúa dạy với tâm thức khác. Đó không còn
là gánh nặng nhưng là để thể hiện sự đáp lại trong tình yêu. Một
người đang yêu thì không nề hà bất cứ chuyện gì người mình yêu
mong muốn.

360
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Tóm lại, câu nói của Thánh Augustino “Hãy yêu mến rồi muốn
làm gì thì làm” mang đến cho ta những suy nghĩ về tình yêu, về cách
thể hiện, những biểu hiện tốt và chưa tốt trong cuộc sống hôm nay
bên cạnh đời sống tôn giáo để trước khi hành động ta có thể xét xem
ta đã có đủ yêu mến chưa và tình yêu ta có chính đáng, đúng đắn hay
không, nhất là khi ta đặt tình yêu đó trong tình yêu của Chúa Kitô để
suy xét và phán đoàn. Tình yêu đó chính là “Không có lòng mến nào
lớn hơn là thí mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15,13)
Giuse Trương Hiệp Bình

361
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Chứng minh ý kiến sau: "Nhiều người suốt cả cuộc
đời cứ mãi đi câu mà không biết rằng cá không phải là thứ mình
cần tìm."
Bài làm
Trong một kiếp người, có một lý tưởng để đeo đuổi, có một lẽ
sống cho cuộc đời, đó là niềm hạnh phúc lớn lao nhất của con người
trên trần gian. Những người bất hạnh phả chăng là những người sống
mà không biết tại sao mình sống, sống để làm gì và sống cho ai? Bất
hạnh hơn nữa là người ta xây dựng cuộc sống để làm gì và sống cho
ai? Bất hạnh hơn nữa là người ta xây dựng cuộc sống vủa mình trên
những mục đích phù phiếm. đi ngược với giá trị đích thật và nhiệm
mầu của con người. Lý tưởng cuộc đời được dệt nên từ những kiếm
tìm và chọn lựa. Có người đã tìm thấy một cuộc đời hạnh phúc viên
mãn tròn đầy. Tuy nhiên, có không ít người sau một đời miệt mài tìm
kiếm, ngoảnh nhìn lại chỉ thấy thất vọng ê chề, họ ngỡ ra rằng những
gì mình đang có, đang đạt được không phải là thứ cần tìm. Vì thế, có
ý kiến rằng: " Có nhiều người suốt cả cuộc đời cứ mãi đi câu mà
không biết rằng: cá không phải là thứ mình cần tìm." Đây có phải là
điều có thật? Phải chăng đó là một thực trạng sống khiến cho chúng
ta phải suy nghĩ?
Trong ý kiến trên, chúng ta thấy tác giả ví đời người như một
hành trình đi câu cá. Ở đây xuất hiện hai hình ảnh rất quen thuộc, dân
dã là cái câu và con cá. Cần câu chính là phương tiện để người ta đi
câu ở ao hồ sông biển. Cá lại là thành quả mà người đi câu đạt được.
ở đây người ta không đơn thuần nói về cái câu và con cá, hai hình
ảnh mang tính ẩn dụ, tượng trưng cho việc làm và mục đích sống của
con người. Ý kiến trên cho chúng ta thấy rằng nhiều người suốt cả
cuộc đời dành bao nhiêu thời gian, năng lực để lo tìm kiếm, tích góp
nhưng vô tình, họ nhận ra cái mình đã miệt mài tìm kiếm không phải

362
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
là cái mình cần. Hình như họ đã bị lạc mất hay đã không tìm thấy
nhu cầu và mục đích thực sự của cuộc đời mình. Chúng ta thấy đây
là một nghịch lý của cuộc sống, một điều oái ăm cho cuộc đời. Ngắm
nhìn cuộc sống quanh ta hình như mọi thứ vần xoay theo một chủ
đích nào đó. Quan sát những loài vật vô tri như con kiến, con ong ta
vẫn thấy nó miệt mài chăm chỉ làm việc để tồn tại, để xây dựng tổ
ấm và đem lại nhiều hoa thơm, mật ngọt cho đời. Con người cũng
vậy, nhìn những người nông dân lam lũ trên cánh đồng, ta thấy họ
đang mong chờ đất đai cho nhiều hoa màu bội thu, cho cuộc sống
được cơm no, áo ấm. Rộng lớn hơn, trên bình diện quốc gia, quốc tế,
khi ta thấy những chính sách phát triển của một chính phủ ta sẽ biết
mục đích mà họ đang theo đuổi. Nói chung, dù có ý thức hay không,
dù vô tình hay cố ý, cuộc sống của con ngưởi vẫn dẫn đến một kết
thúc, một mục đích nào đó. Cũng vậy, người đi câu thì con cá phải là
mục đích chính yếu của họ. Ở đây có một sự thất đầy mâu thuẫn:
suốt đời miệt mài đi câu mà họ không biết rằng cá không phải là thứ
họ cần tìm. Tại sao vậy, tại sao lại có một mâu thuẫn oái ăm như thế?
Có khi nào người đi câu cso vấn đề hay là con cá có vấn đề, nói khác
đi là con người có vấn đề hoặc là mục đích của họ có vấn đề?
Nói đến con người thì bao la, rộng lớn lắm! Con người là hữu thể
có ý thức nên cái nhìn của họ trong cuộc sống thì muôn màu muôn
vẻ. Đã là con người trên cõi đời này, ai cũng có những nhu cầu,
những mục đích. Nhưng nhu cầu và mục đích nhiều lúc lại phụ thuộc
vào nhiều yếu tố chủ quan, khách quan khác nhau từ trong gia đình,
xã hội, môi trường hay các nền văn hóa... Ví như một người vô gia
cư, họ cần có một nơi trú ngụ, lúc này một túp lều tranh vẫn có giá trị
hơn những lâu đài sang trọng đang trong dự tính xây cất, hay một
người trong tình trạnh sắp chết đói, một miếng cơm nguội để nhét
vào bụng vẫn cần thiết hơn một hứa hẹn mâm cao cỗ đầy vào hôm

363
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
sau. Hoàn cảnh có thể tạo nên những nhu cầu và mục đích sống khác
nhau, nhưng phần đông người ta vẫn quan tâm đến những nhu cầu
vật chất tầm thường trước mắt hơn là những giá trị tinh thần cao xa.
Khi chìm đắm trong cái tôi ích kỉ hay sự hưởng thụ tầm thường, an
toàn bản thân, chính là lúc ta thấy cuộc đời mất phương hướng,
không nhận thấy giá trị đích thực của nhu cầu và mục đích đời mình.
Có hai hạt giống kia nằm cạnh nhau, một hạt thì nói rằng tôi phải nảy
mầm, sẽ cắm rễ thật sâu xuống lòng đất, sẽ nhô lên khỏi mặt đất để
hưởng lấy làn gió, ánh nắng mặt trời và sẽ trở nên một cái cây cao
lớn xum sê đem lại bóng mát và hoa thơm quả ngọt cho đời. Còn hạt
giống kia thì bảo tôi sẽ sống mãi trong vỏ bọc an toàn, nảy mầm làm
gì cho phí sức, cắm rễ sâu làm gì cho đau đớn thân mình, ngoi lên
mặt đát làm gì để phải hứng chịu sự gay gắt của nắng gió hay phải
trở nên miếng mồi cho ốc sên. Thế nhưng, đến một ngày hạt giống bị
chú gà bới lên và xơi mất. Lúc này hạt giống vô cùng ân hận về thái
độ sống ích kỷ của mình. Có thể trong một hoàn cảnh, môi trường
sống như nhau người ta vẫn có những nhu cầu và mục đích sống
khác nhau: có thể chọn cho mình một mục đích sống cao cả hoặc tầm
thường. Chính điều này mà có nhiều người đã không tìm thấy ý
nghĩa đích thực của cuộc đời, họ cần một cái gì khác hơn cái mà họ
đã ra công tìm kiếm.
Trong một trào lưu duy tiêu thụ của nên văn minh khoa học kỹ
thuật, con người rất dễ cuốn vào vòng xoáy bất tận của thị trường, họ
ít hướng tới tha nhân, ít quan tâm đến những giá trị cao cả của cuộc
sống. Bởi vậy, họ dễ bị mất phương hướng, nhiều người biến mình
thành một cái máy biết đi; chay theo số đông với những ước mơ hời
hợt phù phiếm, con người vô tình lạc mất chính mình và rồi họ nghĩ
rằng người ta sống sao tôi vậy. Trong gia đình, nhiều cha mẹ cũng
rơi vào thực trạnh này, họ sinh con đẻ các nhưng ít quan tâm chăm

364
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
sóc, họ lo gây dựng công danh sự nghiệp, quá coi trọng đến "an cư
lạc nghiệp". Có thể họ vẫn lo cho con cái bằng cách cho chúng thật
nhiều tiền, sắm sửa thật nhiều tiện nghi... Vợ chồng cứ miệt mài tìm
kiếm tích góp. Không còn thời gian để chia sẻ cuộc sống với nhau.
Đến một ngày nào đó, con cái chơi bời, hư hỏng, vợ chồng mệt mỏi,
không hạnh phúc, họ nghiệm thấy rằng đây không phải là thứ họ cần
tìm, vật chất đã đánh lừa họ.
Trong cuộc sống thời hiện đại, nhiều người cứ tranh thủ tích góp
với hi vọng cuộc sống sẽ sung túc hơn, nhưng thật kỳ lạ là càng có
đầy đủ vật chất hơn thì người ta lại càng thấy thiếu thốn. Vất vả lắm
mới mua được căn nhà như ý nhưng lại phải ở ngoài đường hay công
sở suốt ngày. Thức ăn chất đầy tủ lạnh nhưng ngày nào cũng ăn cơm
tiệm. Áo quần không biết bao nhiêu bộ nhưng ta vẫn hối hả kiếm tìm
khắp các cửa hiệu. Đó là chưa kể khi có những biến cố xảy ra như
bệnh tật, con cái hư hỏng, gia đình xào xáo, kẻ xấy quấy phá... thì tất
cả gia tài kia, những gì gọi là an cư lạc nghiệp kia bỗng chốc trở nên
vô nghĩa.
Nhìn lại thực trạng xã hội, chắc ai cũng nhận ra rằng con người
ngày càng tiến bộ, hiện đại bao nhiêu thì càng ngơ ngác trước số
phận của cuộc đời mình bấy nhiêu. Thế nhưng chuyện đi câu và
chuyện con cá không phải chỉ là chuyện của riêng thời đại chúng ta
mà là chuyện của muôn thuở. Cách xa thời đại chúng ta, ở Vương
quốc Maccdonia, có một vị vua tên là Alexander Đại Đế. Ông là
người đã chinh phục được cả thế giới lúc bấy giờ, một hôm, bỗng
dưng ông đóng cửa phòng ngồi khóc. Các tướng lĩnh của ông lấy làm
lo lắng. Điều gì đã xảy ra? Họ chưa thấy ông khác bao giờ! Ông đâu
có phải là người như vậy. Họ đã sát cánh cùng ông trong những giờ
phút hiểm nghèo nhất. Đôi khi cái chết đã gần kề nhưng họ không hề
thấy mảy may lo lắng, sợ hãi hay tuyệt vọng. Ông luôn là tấm gương

365
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
về lòng dũng cảm. Thế mà điều gì đã xảy ra cho chiến binh bách
chiến bách thắng này khi mà cả thế giới đã bị ông chinh phục? Họ
xin gặp ông và hỏi: Bẩm Đại vương! Tại sao Đại vương lại khóc?
Điều gì đã xảy ra?
Alexander trả lời: Bây giờ, khi ta trở thành người chiến thắng thì
ta hiểu rằng ta đã thất bại. Bây giờ trong lòng ta sự chinh phục vô
nghĩa đang trỗi dậy. Điều này chỉ bây giờ ta mới biết, bởi vì trước
đây ta luôn ở trên đường đua, ta có mục đích để tiến về cho bằng
được. Còn bây giờ ta không còn biết đi đâu, tiến về đâu, nhằm mục
đích gì, chinh phục ai...? Ta cảm thấy bên trong lòng mình có một sự
trống rỗng khủng khiếp. Ta đã thất bại!
Đó! con người thường đánh giá quá cao các giá trị của vật chất:
tiền tài, danh vọng, sắc đẹp... Thế nhưng khi chiếm được nó thì cũng
là lúc con người cảm thấy sự vô nghĩa của nó và sự trống rỗng ghê sợ
trong tâm hồn. Có ai đã thành công bằng Alexander? Tuổi trẻ, đẹp
trai, sung mãn tinh khí, tài năng, giàu có, quyền lực... Vậy mà phát
khóc vì thấy sự vô nghĩa của thành công, nay nhìn lại con người lẫn
thành tích, ông thấy tất cả chỉ là ảo ảnh là "bóng cây qua cửa sổ" là
"công dã tràng xe cát biển Đông". Ở đây chúng ta thấy người đi câu
cũng có vấn đề mà "con cá" họ đạt được cũng có vấn đề.
Xã hội chúng ta hôm nay cũng thế thôi, con người lo lắng miệt
mài tìm kiếm cái "đi câu" cho bằng được danh-lợi-thú, bất chấp mọi
mánh khóe thủ đoạn, con người sống tàn nhẫn với nhau, bán rẻ lương
tâm, coi thường nhân phẩm, danh dự của người khác và của chính
mình. Nên chúng ta vẫn thường nghe chuyện ca sĩ này, nhạc sĩ kia
tạo xì căng đan để được nổi tiếng. Có nhiều người nuôi hận thù để rồi
đi đến loại trừ, tiêu diệt người khác. Một số người chỉ lo kiếm tìm,
lao mình vào những thú vui độc hại. Khi đã đạt được những điều đó,
thì họ chỉ thấy bất an đau khổ và tuyệt vọng. Họ đã câu được cá

366
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
nhưng họ không biết rằng đó là những "loài cá độc" có nhiều màu
sắc sặc sỡ và hấp dẫn nhưng không phải thứ họ cần. Cá chúng ta cần
miệt mài đi câu là cá của yêu thương, chia sẻ, cảm thông, tha thứ...
Đó là những loài cá chắc chắn đem lại ý nghĩa và hạnh phúc cho
cuộc đời.
Bấy nhiêu điều cho ta thấy rằng có không ít người đã lạc mất
chính mình khi không tìm thấy ý nghĩa hạnh phúc trong những nhu
cầu và mục đích họ tìm kiếm trong cuộc đời. Là người Kitô hữu, là
người đan sĩ chúng ta phải ý thức và luôn cảnh tỉnh chính mình về
điều đó. Nhu cầu và mục đích của chúng ta là tìm kiếm Chúa và nên
đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Đấng đã đến và ném ngọn lửa
tình yêu trên trái đất này. Vậy chúng ta cũng phải không ngừng khắc
khoải như Chúa là khao khát và làm làm ngọn lửa ấy "cháy bừng
lên" (x Lc 12, 49-51)
Người viết: Jean.B Biển Đức Nguyễn Đình Lưu
Nhận xét: Cần lập dàn ý trước khi làm bài. Hiểu nội dung, ý
nghĩa của luận đề và thực hiện được các thao tác chứng minh. Khi
giải nghĩa, chúng ta chỉ giải nghĩa những từ, ngữ có trong câu trích
dẫn hay trong đề bài, không nên "sáng tạo" thêm! lý giải và chứng
minh đan kết với nhau chặt chẽ, giải quyết khá tốt yêu cầu của luận
đề. Tuy nhiên, nếu tách biệt rõ từng nguyên nhân và săp xếp thành
một hệ thống lập luận mạch lạc, thì hiệu quả bài viết sẽ tốt hơn.

367
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Phân tích hiện tượng bạo lực trong xã hội.
Bài làm
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
Bài ca dao là lời mời gọi yêu thương được mở rộng cho tất cả
mọi người, mọi thành phần trong xã hội và mọi quốc gia trên thế
giới, ai cũng có quyền được yêu thương và cũng có trách nhiệm thể
hiện tình yêu thương ấy bằng lời nói và việc làm. Nhìn ra ngoài xã
hội, chúng ta đều động lòng trước bao tấm lòng quảng đại của những
người dám hy sinh tinh thần lẫn vật chất để nâng đỡ, động viên
những người đau khổ bất hạnh, để họ có nghị lực vươn lên trong
cuộc sống. Đó là hình ảnh đẹp về trái tim yêu thương của nhân loại,
là điều chúng ta khi nhìn thấy họ đều tự hào và trân quý. Nhưng bên
cạnh những người đang dấn thân hy sinh cho lý tưởng và hành động
cao đẹp thì cũng tồn tại những con người mù quáng, ra sức dập tắt
ngọn lửa yêu thương ấy bằng những hành động thiếu tình người, làm
cho người khác phải đau khổ. Phải chăng đó là “hiện tượng bạo lực”
mà chúng ta đã và đang thấy xung quanh mình. Chúng ta hãy cùng
nhau tìm hiểu thực trạng ấy diễn ra như thế nào, nguyên nhân cũng
như hậu quả và tìm ra hướng giải quyết, để góp phần làm cho nền
văn minh nhân loại trở nên tốt đẹp hơn.
Trước hết, theo cách hiểu của chúng ta thì: bạo lực đó là hành động
của cá nhân hay tập thể, dùng sức mạnh và các lợi thế của mình để xúc
phạm đến con người bằng hành vi đánh đập, đồng thời cũng xúc phạm
đến phẩm giá làm người của họ. Còn theo bản “Tóm lược Học Thuyết
xã hội Công Giáo” thì: bạo lực là một tội ác, là điều không xứng đáng
với con người, bạo lực chính là sự dối trá, nó phá hủy tất cả những gì nó
bảo vệ, từ phẩm giá cho đến sự tự do của con người.

368
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Vì vậy, bạo lực là một hành vi xấu, nói lên sự tha hóa nhân cách
của con người, và là một hành động xúc phạm đến nhân loại, nó cần
được bài trừ trong xã hội hôm nay.
Thật thế, xã hội đang phơi bày cho chúng ta biết bao nhiêu những
hình thức bạo lực mà con người gây ra cho nhau, từ môi trường gia
đình, nơi mà đáng ra con người phải yêu thương nhau, quý trọng
nhau nhiều nhất, thì con người lại trở nên địa ngục cho nhau bằng
những vụ cãi vã, đánh đập, giết nhau; cho đến môi trường rộng lớn
hơn là sự đụng độ giữa các quốc gia mạnh với nhau, hay giữa những
quốc gia phát triển với các quốc gia chậm phát triển. Đầu tiên chúng
ta cùng nhau nhận thấy, thực trạng bạo lực diễn ra nhiều ở các gia
đình, giữa vợ chồng con cái, mất đi dấu chỉ yêu thương tình thân
trong gia đình, chỉ vì bất đồng quan điểm dẫn đến sô sát nhau. Chồng
đánh vợ vợ đánh chồng, vợ chồng giết nhau, con giết cha mẹ, cha mẹ
giết con, đánh con một cách nhẫn tâm, xích con vào cột điện. Những
hình ảnh này, chúng ta thấy ở các báo pháp luật và tuổi trẻ đề cập
đến rất nhiều. Mở rộng hơn một chút qua môi trường gia đình, chúng
ta lại chứng kiến thấy ở môi trường học đường, môi trường giáo dục
là nơi đào tạo nhân cách của con người từ bé thơ, nhưng nhiều lúc
các nhà đào tạo đã vô tình hay hữu ý, để lại trong trí óc và tâm lý trẻ
con một sự khiếp sợ với những cái tát, nhưng roi đòn bầm tím trên
thân mình chỉ vì không học bài, hay trình độ học của học sinh đó chỉ
có giới hạn. Nhiều bạn học sinh, sợ không dám đến trường vì sợ bị
đòn. Bạo lực không chỉ là hành động một số nhà đào tạo gây ra cho
những người thụ huấn, nhưng bạo lực ấy, còn là hành động xấu của
các học sinh với nhau, một chút hiểu lầm, ganh tị dẫn đến đánh nhau,
giết nhau, kể cả nam lẫn nữ. Và điều thứ ba chúng ta nhận thấy, ở
môi trường rộng lớn hơn là ngoài xã hội, trong những công việc, có
rất nhiều người bị đối xử tệ bạc, bất công, họ phải làm việc nhiều giờ

369
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
và vất vả, nếu không làm việc sẽ bị đánh đập, không trả lương, đó là
lý do mà ta thấy ở các công trường, xí nghiệp có nhiều các cuộc
“đình công, biểu tình” của công nhân đòi quyền lao động chính đáng
với việc mà họ đã làm. Trong xã hội, còn tồn tại những con người
chuyên đi lừa gạt phụ nữ, bán vào các quán bar, nhà chứa, để thực
hiện cho các ông chủ, bà chủ quán những yêu cầu bất chính của họ,
nhằm đem lại lợi nhuận cao, nếu không thực hiện sẽ bị đe dọa đến
tính mạng.
Tuy nhiên, những thực trạng ở trên, chúng ta chỉ thấy được phần
nhỏ của bạo lực là nghiêng về sức mạnh thể chất, nhưng nhìn cách xa
hơn, bạo lực còn là sức mạnh của tiền bạc, của sự phát triển kinh tế,
quân sự,người ta lợi dụng các lợi thế này để gây nên những cuộc đàn
áp, bóc lột và hủy diệt con người, như hai cuộc chiến tranh thế giới
1914-1918 và 1939-1945 đã gây biết bao đau thương và tổn thất
nặng lề cho cộng đồng thế giới về tinh thần như vật chất. Hay cuộc
chiến đấu dai dẳng giữa các nước Trung Đông và Mỹ hiện nay, làm
cho con người sống trong cảnh “mà trời chiếu đất”, sự chết luôn luôn
đe dọa những con người bất hạnh ở Trung Đông. Tiếp đến nhân loại
đang đối diện với biết bao nguy hiểm của nạn khủng bố, tiêu diệt thế
giới bằng vũ khí hạt nhân của những quốc gia mạnh.
Chúng ta, có thể thấy rằng, bạo lực càng lớn bao nhiêu thì hậu
quả của bạo lực để lại, lại càng trầm trọng và nguy hiểm bấy nhiêu.
Theo bản Tóm lược Học Thuyết xã hội Công giáo “Bạo lực là hình
thức tàn ác nhất gây kinh hoàng cho cộng đồng thế giới, thôi thúc
người ta báo thù và trả thù”. Như vậy, cái đầu tiên bạo lực gây ra là
sự mất bình an cho con người và dẫn đến sự chết. Dù là người gây
nên bạo lực hay là nạn nhân của bạo lực thì họ cũng đều là những
người đáng thương nhất, như vụ sập tòa nhà lớn nhất ở Mỹ vào ngày
11-9-2001 cho đến bây giờ khi nghĩ đến người ta vẫn thấy bàng

370
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
hoàng sợ hãi, khi biết bao người chết đột ngột ở đó, họ không chạy
thoát vì nó xảy đến quá nhanh. Chiến tranh cũng là một hình thức
của bạo lực, như vậy điều thứ hai phải kể đến đó là bạo lực gây nên
sự hủy hoại tương lai của con người, điển hình là chiến tranh ở Việt
Nam, do các đế quốc Pháp, Mỹ. Khi chiến tranh không chỉ người
chết, ảnh hưởng đến kinh tế mà việc con người mang trong mình
những thương tích dị tật khi chiến đấu, và con cháu họ phải chịu ảnh
hưởng của chất độc màu da cam, có người mất tay, mất chân, mù
mắt, điếc…
Sau nữa, bạo lực gây nên sự đổ vỡ, nhất là trong gia đình, vì có
bạo lực trong gia đình, mà vợ chồng, con cái mỗi người một ngả. Vì
khi người ta, dùng sức mạnh, thói gia trưởng quá lớn, làm cho sự thật
không được lên tiếng, không được nói lên quan điểm và suy nghĩ của
mình mà chỉ sống trong sự khép kín, chịu đựng nhiều quá thì sẽ “tức
nước vỡ bờ”. Một xã hội, không thể gọi là phát triển nếu như cách
lãnh đạo là bạo lực và trong xã hội tồn tại nhiều hình thức bạo lực chà
đạp lên quyền sống, quyền làm người của nhau. Vì vậy mà trong
thông điệp ngày thế giới hòa bình Đức Thánh Cha Gioan Phao lô II có
viết: “Hòa bình không làm mất gì, nhưng chiến tranh làm mất tất cả.”
Sau cùng, bạo lực làm cho con người bị mất niềm tin vào cuộc
sống, nên dễ dàng tuyệt vọng và đi vào ngõ cụt của cuộc đời, rơi vào
tình trạng bất cần đời, muốn làm gì thì làm không quan tâm đến ai
như thế nào và sống ra sao. Bạo lực là dấu chỉ của nền đạo đức nhân
loại đang trên đà xuống dốc. Thật vậy nếu như nền đạo đức không
còn, con người sẽ sống với nhau như những loài thú hoang dại, bên
nào mạnh thì bên ấy thắng và cuộc tàn sát những người Do Thái và
diệt chủng Châu Phi là một điển hình. Như vậy, bạo lực chỉ đưa con
người đến chỗ khổ đau mà thôi, nó không hề đem lại cho con người
hạn phúc, sẽ chỉ là những hận thù nối tiếp nhau.

371
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Tuy không thể kể hết được những hậu quả mà bạo lực đã và đang
để lại, nhưng chúng ta cần đi sâu vào cốt lõi của bạo lực để tìm ra
nguyên nhân dẫn đến những bạo lực ấy.
Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến, đó là tham vọng của con
người quá lớn, tham vọng không xấu, nhưng nếu quá đề cao tham
vọng thì nó trở nên xấu. Vì tham vọng quá lớn nên bất chấp mọi thủ
đoạn, mánh khóe để hại người, sãn sàng chà đạp lên quyền sống của
những con người vô tội. Từ tham vọng sẽ dẫn đến tham lam, ích kỉ
chỉ muốn vun vén cho bản thân, đạt được mục đích một cách bất
chính khi sống trên mồ hôi, nước mắt, xương máu của người khác.
Nguyên nhân thứ hai, con người bị ảnh hưởng bởi lối sống bạo
lực trong gia đình, môi trường sống của mình. Có người: gần bùn mà
chẳng hôi tanh mùi bùn. Nhưng cũng nhiều người: “gần mực thì đen,
gần đèn thì rạng”. Khi con người không làm chủ được bản thân sẽ
dẫn đến những đụng độ, gây khó dễ cho nhau và bạo lực xảy ra.
Được hưởng một nền giáo dục lành mạnh từ môi trường gia đình đến
xã hội là điều rất quan trọng. Khi xem các tin tức trên truyền hình vầ
thế giới kể về việc những người đàn ông Hồi giáo đang dạy cho con
mình từ hai tuổi trở nên đã biết cầm súng để tập bắn nhau. Có lẽ ai
trong chúng ta cũng không khỏi xót xa và đau lòng pha lẫn sợ hãi khi
nhìn thấy những hình ảnh ấy.
Nguyên nhân thứ ba có thể kể đến là do tầm nhìn hạn hẹp, và
kém hiểu biết của con người, họ cứ nghĩ rằng bạo lực là cách giải
quyết tốt nhất cho những tranh chấp hơn là bình tĩnh cả đôi bên để
cùng đối thoại. Đối với thế hệ trẻ ngày nay, do còn ảnh hưởng của
phim ảnh, các trò chơi điện tử, với thế giới thực và ảo trong các trò
chơi nên lẫn lộn trong cuộc sống với việc xem chơi điện tử và thực
hành luôn những gì mà chúng đã chơi.

372
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Nguyên nhân cuối cùng có thể kể đến đó là có nhiều người sống
thiếu sự quan tâm của gia đình và xã hội. Vì nghèo nên người ta làm
liều, biết sai vẫn cứ làm, và người ta gọi đó là hoàn cảnh đẩy đưa,
mặc dù họ không muốn. Tác phẩm “Đời thừa” của Nam Cao, kể về
cái nghèo khổ của đôi vợ chồng trẻ là Từ và Hộ với một đàn con
đông đúc, tuổi nhỏ san sát nhau. Thương vợ, thương con, nhưng
nhiều lúc vì cùng quẫn quá, mà Hộ đã đánh đập vợ mình một cách
thô bạo trong cơn say rượu.
Chúng ta thấy rằng, để có thể giảm bớt được nỗi đau trong nhân
loại về thực trạng bạo lực đang diễn ra hôm nay, thì mỗi người phải
biết can đảm nhìn vào sự thật là những tai hại mà bạo lực để lại cho
nhân loại, để cùng liên đới lại với nhau chung tay xây dựng nền hòa
bình đích thực. Mỗi người thắp một que diêm nhỏ, thì những người
sống trong bóng tối sẽ có ánh sang. Bạo lực sẽ không hiện diện và
tan biến đi, nếu như trong nhân loại tồn tại lòng quảng đại là sự tha
thứ mà con người dành cho nhau. Chúng ta hãy làm cho môi trường
sống của chúng ta tràn ngập tình yêu thương, tập sống yêu thương và
có lòng nhân. Ai trong chúng ta cũng có những thú tính của riêng
mình, đừng tiêu diệt nhưng hãy thuần hóa nó thì có lợi cho chúng ta
rất nhiều. Như vậy “kẻ mạnh không phải kẻ giẫm lên vai kẻ khác để
thỏa lòng vị kỉ, kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của
mình”. (Đời Thừa- Nam Cao). Điều cần thiết nữa là phải có sự tôn
trọng nhau, tôn trọng các quyền của mỗi người và phải có tinh thần
trách nhiệm.
Nói tóm lại, khi tìm hiểu về bạo lực chúng ta thấy rằng bạo lực là
một tội ác, hành vi gian dối, chỉ gây cho con người những đau khổ,
chết chóc mà không hề đem lại hạnh phúc cho con người. Và mỗi
người đều phải chung tay góp sức, lên tiếng để bảo vệ xây dựng một
nền văn minh nhân loại đích thực tràn ngập tình yêu thương. Là

373
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
những tu sĩ, thì việc đầu tiên gom góp cho nền hòa bình chống bạo
lực đó là cầu nguyện với Chúa, để Người cứu giúp và ban bình an
cho nhân loại. Cầu nguyện được đặt lên hàng đầu tiên của tu sĩ, là vì:
chúng ta phải tập nói với Thiên Chúa, trước khi nói về Thiên Chúa
với mọi người. Không chỉ bằng lời cầu nguyện mà còn cả hành động
nữa, đó là việc dấn thân một cách vô vị lợi trong các môi trường sống
và hoạt động của mình. Và mỗi người hãy thực hiện lời của Thánh
Phao-lô: “Anh em hãy mau nghe, chứ đừng vội nói và khoan nóng
giận. Vì khi nóng giận con người không thực thi đường lối của Thiên
Chúa”.
Ninh Phạm Thị Nguyệt

374
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Bình luận nhận định sau: “Cái đáng sợ nhất ở đời
chính là công lý bị tách rời khỏi lòng nhân ái”
Bài làm
Hòa mình vào dòng người hối hả, tấp nập hằng ngày. Trong tất cả
chúng ta, có ai đã từng lặng mình để suy gẫn: cuộc sống đã mang lại
gì cho ta? Nó mang lại tình thương, lòng vị tha hay là mang lại một
lối sống ích kỉ; một lối sống thờ ơ, lạnh nhạt. Chỉ nghĩ cho mình và
chạy theo chủ nghĩa vật chất. Chính vì lẽ đó mà có ý kiến nói rằng:
“Cái đáng sợ nhất ở trên đời chính là công lí bị tách rời khỏi lòng
nhân ái.”
Công lý là gì? Nhiều người định nghĩa rằng “công lý” nghĩa là
phù hợp với đạo lý và lợi ích chung của xã hội. Còn nếu nhìn từ phía
chủ thể, công lý là thái độ xuất phát từ chỗ muốn nhìn nhận người
khác như một ngôi vị; còn nếu nhìn từ phía khách thể công lý tạo nên
những tiêu chuẩn mang tính quyết định cho biết giá trị luân lý của
một hành vi trong quan hệ liên chủ thể và xã hội. Thật vậy, công lý
không phải chỉ là một sự thỏa thuận suông giữa con người với nhau,
vì muốn biết điều gì là “công lý” thì trước tiên chúng ta không dựa
vào sự ổn định của Luật lệ, mà phải xem điều đó có phù hợp với bản
chất sâu xa của con người hay không.
Còn “lòng nhân ái” là gì? Theo cách hiểu thông thường “nhân” là
người, “ái” là thương yêu. Như vậy, lòng nhân ái chính là tình
thương yêu của con người với con người trong cộng đồng, được thể
hiện bằng quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ, sẻ chia khi người khác bị
gặp phải những chuyện bất trắc.
Tóm lại, công lý trở nên quan trọng trong bối cảnh hiện nay, giúp
con người sống bình đẳng với nhau. Công lý cũng không thể tách rời
với lòng nhân ái. Nếu như chỉ có công lý thì nhân loại hay xã hội
không thể văn minh tiến bộ được. nếu như triết lý dùng sức mạnh

375
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
không được thay thế bằng triết lý dùng lòng nhân ái. Lòng nhân ái
cũng quan trọng trong cuộc sống của mỗi con người.
Tại sao cái đáng sợ nhất ở trên đời chính là công lý bị tách rời
khỏi lòng nhân ái? Thật vậy, nếu chỉ có công lý thôi thì xã hội sẽ ra
sao đây? Có tiến bộ được hay không? Công lý dù đã được khẳng
định nhiều- vẫn đang bị đe dọa trầm trọng bởi khuynh hướng phổ
biến muốn áp dụng tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá. Tức là họ chỉ
sống cho mình, mình đúng là được rồi, ai sai mặc kệ. Chẳng hạn khi
đi trên xe buýt, mình ngồi lên ghế trước, một cụ già lên sau không có
ghế ngồi, nếu như có lòng nhân ái thì ta sẽ nhường chỗ đó cho cụ già
ngồi. Còn theo lẽ thường tình thì ai lên trước thì được ngồi còn ai lên
sau thì đứng. Dẫn đến ta thiếu lối sống văn minh, thiếu phẩm chất
đạo đức. Dần dần mọi người sẽ xa lánh họ. “bánh ít trao đi, bánh chì
trao lại”, ân oán là nguyên tắc sống ở đời sẽ “đáp lễ” họ một cách rõ
ràng. Thật vậy, các mối quan hệ giữa người với người không thể chỉ
được xử lý bằng tiêu chuẩn công lý. Như vậy chỉ mình công lý mà
thôi thì chưa đủ, thậm chí có thể đi xa tới mức chối bỏ và hủy hoại
chính công lý nữa… Và lịch sử đã đưa người ta tới chỗ phải đưa ra
câu cách ngôn sau: “Càng đòi công lý, càng nhiều bất công”. Trong
bối cảnh đó Franklin có câu “Luật mà khoan dung thì ít được tuân
theo, Luật mà khắt khe thì ít được thi hành”.
Và nếu như chỉ có lòng nhân ái mà không có công lý thì xã hội,
con người sẽ như thế nào? Như đã có câu nói: “Nếu con người chỉ tử
tế vì sợ bị trừng phạt và hy vọng được ban thưởng thì chúng ta thật
sự là những số phận đáng thương”. Đây chỉ là vẻ hào nhoáng bên
ngoài và xem ra rất tốt đẹp nhưng bên trong thì rỗng tuếch. Những
năm gần đây, các phương tiện thông tin đại chúng thường đưa tin
chính phủ phát động phong trào quyên góp ủng hộ bà con nghèo đói,
bị lũ lụt thiên tai. Những cái đó được đưa ra để người ta khen ngợi là

376
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
chính phủ quan tâm, biết chia sẻ những bất hạnh, lầm than của người
dân. Thế nhưng, người dân chỉ nghe mà không được nhận, không chỉ
làm dân khổ mà càng làm cho họ thêm căm ghét nữa. và nó đang
từng ngày từng giờ vẫn đang tiếp tục phát triển, lây lan và len lỏi ở
khắp nơi. Như thế, lòng nhân ái chỉ dựa trên người khác để tìm tư lợi,
tìm vinh quang cho mình, tìm một chỗ đứng tốt thì không thể đạt tới
sự hoàn hảo trong đức ái được. Nó chỉ là vẻ bên ngoài “ngoài miệng
thì niệm nam mô, trong lòng thì một bồ dao găm”.
Vậy thì làm thế nào để công lý và lòng nhân ái không bị tách rời?
Một mình công lý thì chưa đủ! Một lòng nhân ái thì chưa trọn vẹn, vì
thế mà công lý không thể tách rời khỏi lòng nhân ái. Khi công lý kết
hợp với lòng nhân ái thì con người được sống trong cảnh thái bình,
không có chiến tranh, thì quyền con người được bảo vệ, được tự do
giao lưu, phảm giá của con người được tôn trọng, tình huynh đệ được
thực thi. Con người sẽ yêu thương nhau, biết giúp nhau khi hoạn nạn,
tạo tình đoàn kết thân ái, tránh được mầm mống chia rẽ, gây xung
đột. Chẳng hạn, trong lớp học biết quan tâm giúp đỡ bạn bè nghèo
khó cũng như bạn bè học còn yếu kém để nâng cao ý thức học tập,
giúp bạn vượt qua kì thi tốt đẹp. Ngoài xã hội, chúng ta phải tích cực
tham gia các hoạt động cứu trợ những người nghèo khổ, cô đơn…
giúp họ vượt lên số phận để đứng vững trên đường đời. Như vậy sự
quan tâm, chia sẻ khi người khác gặp chuyện bất trắc với lòng yêu
thương và vị tha trong tâm hồn thì sẽ xây dựng một xã hội bình đẳng,
thân ái.
Tuy nhiên, chúng ta cần đánh giá đúng tinh thần về câu nhận
định “cái đáng sợ nhất chính là công lý bị tách rời khỏi lòng nhân
ái”. Công lý đã được khẳng định, nhưng vẫn còn thiếu sót. Quyền lợi
của người khác được bảo đảm, thế nhưng nếu không có lòng nhân ái
thì quyền lợi đó chỉ trong cái luật lệ mà thôi. “chỉ có lòng thiện thì

377
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
không đủ sức cai trị, chỉ có luật pháp thì không đủ sức khiến người ta
tuân theo” (Mạnh Tử). Qua đó nói rằng “lòng nhân ái không được
giả hình giả bộ”- giúp đỡ người yếu đuối, khó khăn là bổn phận cần
thiết, nhưng hành động ấy không được xuất phát từ động cơ cá nhân,
không phải lối ban ơn trịch thượng mà phải bắt nguồn từ tình cảm
chân thành và yêu thương, thông cảm giữa người với người. Và ngược
lại, người được giúp đỡ, chia sẻ, quan tâm cũng không nên ỷ lại, sống
nhờ vào người khác để trở nên lười biếng thụ động. Cần phải vươn lên
tự giúp đỡ, quan tâm đến mình có thể mới hình thành được quan điểm
bình đẳng, tốt đẹp, phù hợp với đạo lý và lợi ích chung của xã hội,
đem lại cho xã hội một nền văn minh tiến bộ- kinh tế phát triển, con
người sống trong tình yêu thương và bảo vệ cho nhau.
Nói tóm lại, công lý và lòng nhân ái phải đi đôi với nhau, vì đó là
sự hòa bình của xã hội, làm cho xã hội, con người phát triển, được
sống trong cảnh thái bình thịnh vượng, phẩm giá (giá trị) của con
người được tôn trọng cách xứng đáng, có lòng yêu thương và giúp đỡ
nhau thật sự để cùng nhau đi lên trong một xã hội đang trên đà phát
triển này.
Trần Xuân An

378
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Ước mơ
Bài làm
“Ước mơ”. Hai chữ tuy ngắn gọn nhưng chứa đựng biết bao khát
vọng của mỗi người. Khi sinh ra và lớn lên, mỗi người đều có những
ước mơ, như: trở thành kĩ sư, bác sĩ, giáo viên, nhà khoa học… ước
mơ thì thật nhiều nhưng làm sao để ước mơ đó trở thành hiện thực là
một điều hoàn toàn khác. Hiểu được ý nghĩa cao đẹp của ước mơ,
chúng ta sẽ có cái nhìn đúng đắn về cách suy nghĩ và lựa chọn cho
mình một ước mơ.
Đã có rất nhiều ý kiến nói về ước mơ, theo Walt Disney thì “Hết
thảy mọi ước mơ của chúng ta đều có thể trở thành hiện thực nếu ta đủ
sức can trường mà theo đuổi nó đến cùng” Còn Gene Simmons nói
rằng: “Không hề có giới hạn cho bất cứ ước mơ nào của chúng ta”.
Còn rất nhiều ý kiến khác nhau về ước mơ nhưng hiểu theo nghĩa
chung nhất thì ước mơ là những điều chúng ta muốn thực hiện được.
Có hai loại ước mơ: ước mơ tốt và ước mơ xấu. Ước mơ tốt
chính là những mong muốn chính đáng, tốt đẹp, ước mơ về cuộc
sống bình yên, công việc ổn định, ước mơ cho những người xung
quanh yêu thương nhau…Ngược lại, ước mơ xấu là ước mơ thể hiện
tính cá nhân, ước mơ thực dụng, ước mơ đạt mục tiêu xấu xa.
Không ai sống mà không có ước mơ cả, những ước mơ cho dù
nhỏ bé, hay lớn lao thì đó cũng là những điều chúng ta mong muốn
đạt được. Những học sinh trung học phổ thông ước mơ sau khi đậu
tốt nghiệp sẽ bước chân vào trường đại học, được cắp sách tới
trường, được mang danh hiệu là sinh viên. Người nông dân suốt ngày
“bán mặt cho đất, bán lung cho trời” những mong có được hạt lúa, họ
ước mơ có những loại máy móc hiện đại để giảm bớt vất vả. Người
công nhân ước mơ có được mái nhà đầm ấm, có công việc ổn định.
Tất cả những con người yêu chuộng hòa bình ước mơ thế giới không

379
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
còn chiến tranh, khủng bố, cướp bóc. Tất cả những ước mơ từ bình dị
đến những ước mơ cao quý, mang tầm vóc quốc gia, thế giới cũng là
mục đích mà tất cả chúng ta hướng đến.
Chính từ ước mơ, chúng ta vạch ra cho mình con đường đi đến
ước mơ đó, chúng ta hy vọng, khao khát đạt được mục đích mà mình
đang mong muốn. Niềm hy vọng đó chính là con đường như Đức
Hồng y Suereus đã nói: “Niềm hy vọng không phải là ước mơ nhưng
là cách thức để biến ước mơ trở thành hiện thực”. Với ước mơ muốn
trở thành một nhà soạn nhạc nổi tiếng thế giới, ngay từ nhỏ Moza đã
say mê âm nhạc, ông thường nghe các nhạc sĩ lớn biểu diễn. Nhờ tài
trí thông minh, năng khiếu cộng với ý chí quyết tâm Moza đã biến
ước mơ của mình thành hiện thực. Ngày nay những tác phẩm của
ông được các nhạc sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng biểu diễn và đưa vào giảng
dạy trong các học viện trên toàn thế giới.
Không ai cấm chúng ta ước mơ, chúng ta có quyền được ước mơ,
ước mơ nằm trong suy nghĩ của mỗi người. Tất cả mọi người cần tôn
trọng ước mơ của nhau, tôn trọng ước mơ là tôn trọng cách suy nghĩ
của người khác. Chúng ta tôn trọng không có nghĩa là chúng ta đồng
ý hoàn toàn với ước mơ của người khác, quan trọng ở đây là ước mơ
đó mang lại cho bản thân, gia đình, xã hội điều gì. Ước mơ vươn tới
sự no ấm, đầy đủ, yêu thương… sẽ giúp gắn kết con người với nhau.
Ước mơ chính đáng đẹp đẽ luôn hướng về người khác tạo động lực
mạnh mẽ giúp chúng ta trải lòng ra với mọi người. Còn ngược lại nếu
ước mơ chỉ vì vụ lợi, thực dụng, họ ước mơ những điều sai trái, làm
ảnh hưởng đến mọi người thì chính ước mơ đó lại kéo họ xa tập thể
mọi người xung quanh sẽ có khoảng cách với họ; đồng thời nếu họ
hành động theo ước mơ đó, có thể làm cho mọi người xung quanh
phải khổ sở, xã hội trở nên lộn xộn. Chẳng hạn một người ước mơ
thật nhiều tiền để thỏa mãn những thú vui, làm những điều sai trái,

380
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
dùng đồng tiền để uy hiếp người khác. Tóm lại, ước mơ mang lợi ích
gì cho bản thân, gia đình, xã hội là những ước mơ tốt đẹp, nhờ đó
hướng con người đến những điều tốt đẹp.
Chúng ta ai cũng có ước mơ, nhưng mỗi ước mơ lại xuất phát từ
những hoàn cảnh khác nhau. Có thể ước mơ đó xuất phát từ lòng yêu
thích, say mê, hay từ thực tại cuộc sống đem lại. Nhìn vào gương Mẹ
Tê-rê-sa thành Calcutta chúng ta thấy được điều đó, ước muốn của
Mẹ là làm sao quy tụ được những người nghèo, bệnh tật vào một
ngôi nhà chung rồi từ đó giúp họ sống tốt hơn, yêu mến Chúa hơn.
Mẹ có được ước muốn đó bởi vì Mẹ nhìn thấy bao người nằm trên
các hè phố, trong đó có những người đau ốm tưởng chừng như không
thể sống được nữa, ngoài ra còn có các em nhỏ không cha không mẹ,
sống vất vưởng trong những khu ổ chuột. Chính hoàn cảnh và lòng
yêu mến Chúa đã giúp Mẹ có được ước mơ đó.
Động lực thì thật nhiều nhưng không một động lực nào lớn lao,
mạnh mẽ như lòng yêu mến Chúa. Lòng yêu mến Chúa có một phép
lạ phi thường, vượt ra khỏi suy nghĩ tầm thường của con người.
thánh Phao-lô vị tông đồ có lòng yêu mến Chúa vô bờ, thánh nhân đã
từng nói: “ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì ngoài thập giá Đức
Ki-tô” (Gl 6, 14). Mọi đau khổ thánh nhân phải chịu thật khủng
khiếp nhưng thánh nhân vẫn một lòng yêu mến quả quyết rằng: “Vì
Đức Ki-tô mà tôi mang xiềng xích” (Pl 1,13). Ước muốn làm cho Tin
Mừng được loan báo khắp thế giới, Thánh Phao-lô đã đi khắp nơi,
chịu đựng gian khổ: “bao lần suýt chết, năm lần bị người Do thái
đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba
lần bị đắm tàu, một ngày một đêm lênh đênh giữa biển khơi…” để
rồi cuối cùng sau một chặng đường nhìn lại những thành quả của
Thánh nhân mà chúng ta phải thốt lên rằng: ôi! Thật vĩ đại.

381
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Xuất phát từ suy nghĩ của bản thân, từ hoàn cảnh của xã hội,
Giáo Hội mà mỗi người được ước mơ, nhưng một điều quan trọng là
chúng ta phải làm gì để biến ước mơ tốt đẹp ấy thành hiện thực.
Để ước mơ là đích đến cho điều ta mong muốn thì ý chí mạnh
mẽ, quyết tâm rất quan trọng, đòi hỏi mỗi người cần có sự nhìn nhận
đúng đắn, vạch ra cho mình được hướng đi tốt nhất. Ý chí quyết tâm
tức là luôn nhìn về mục đích phía trước, chấp nhận những rủi ro, mất
mát tầm thường, biết vượt qua khó khăn đau khổ như Đức Giáo
Hoàng Gioan XXIII nói: “Đừng để nỗi sợ hãi lèo lái bạn song hãy để
niềm hy vọng và những hoài bão dẫn dắt bạn đi.”
Ý chí quyết tâm cộng với niềm hy vọng, lạc quan sẽ giúp chúng
ta tăng thêm ý chí. Một ví dụ rất đơn giản để thấy được điều này, một
học sinh thi đại học trượt năm đâu tiên, phần đa nếu ai đã từng vấp
phải sẽ không chọn đúng đắn, suy nghĩ luẩn quẩn, chán nản, rồi họ
quyết định không thi nữa. Ngược lại học sinh có quyết tâm, ước mơ
bước chân vào trường đại học, sẽ nhìn đến đích của mình, dành hết
tâm trí để ôn thi lại và kết quả đậu đại học sẽ cao hơn.
Ngoài ý chí, tinh thần lạc quan, chúng ta cũng phải luôn trau dồi
kiến thức, học hỏi và rèn luyện bản thân. Chính những hiểu biết sẽ
tạo điều kiện cho chúng ta vạch ra được bước đi đúng đắn, từng bước
biến ước mơ thành hiện thực.
Là những ki tô hữu trong thời đại mới, nhiều khi chúng ta có
những ước mơ như: trở thành một tín hữu tốt, một tu sĩ, linh mục hay
một người giáo dân hết mình vì Giáo hội, nhưng trên hết đó là ước
mơ nên thánh. Nên thánh còn cao hơn cả ước mơ, ước mơ chỉ là điều
chúng ta có thể làm được hay không làm được, còn nên thánh đó là
lý tưởng cho tất cả mọi ki tô hữu. Đó là con đường chúng ta cần đi
đến, bởi vì con đường đó giúp mỗi người chúng ta tiến gần đến Chúa
hơn. Mỗi người Ki- tô hữu là những chứng nhân thực sự giữa cuộc

382
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
đời, chúng ta nên thánh trong những công việc hằng ngày như: đọc
kinh, cầu nguyện, sống tình bác ái, yêu thương, làm việc nhà Chúa,
lo tròn bổn phận của mình đồng thời giúp những người xung quanh
sống tốt hơn. Như thánh nữ Tê-rê-xa Hài đồng Giê su đã từng sống,
Thánh nữ làm tất cả mọi việc vì lòng yêu mến Chúa, chu toàn bổn
phận một cách tuyệt vời. Mỗi người Ki-tô hữu luôn có ước mơ
hướng đến đời sống kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Do đó chúng
ta hãy thực hiện ngay từ bây giờ, chính tại thời điểm này, trước hết
hãy thực hiện ý tưởng đó qua những người bên cạnh mình, trong gia
đình mình, trong giáo hội, trong giao xứ để cho tất cả mọi người
cùng đi trên con đường chung về quê trời, cho Tin Mừng lan tỏa
khắp mọi nơi, cho danh Chúa vang dội khắp hoàn cầu để mọi người
đều hưởng ơn cứu độ để tất cả ước mơ của chúng ta cũng như ước
mơ của Thánh Phao-lô: “Ước ao của tôi là ra đi để được ở với Đức
Ki-tô” (Pl 1, 23).
Đinh Mạnh Hùng

383
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Hiện tượng bạo lực trong xã hội
Bài làm
Trong thông điệp Tin Mừng Sự Sống Đức Thánh Cha Gioan
Phao lô II đã nói đã nói đến nền văn minh thời đại ngày nay là: “văn
hóa của sự chết” điều Đức Thánh Cha nói đến phản ánh thực sự thế
giới ngày nay; sự dữ, bạo lực đang hoành hành khắp nơi và được
ngụy trang dưới nhiều hình thức khác nhau, dường như không một
ngày nào mà con người được sống bình an, lúc nào cũng phải nơm
nớp lo sợ tai họa sẽ đến với bản thân gia đình. Tại sao bao lực lại trở
nên vấn đề cấp thiết của đời sống con người như thế? Chúng ta hãy
cùng đi tìm lời giải đáp cho hiện tượng này.
Bạo lực hay còn gọi là bạo hành là hành động hung ác và bất
công, gây đau đớn thể xác hay tinh thần, xúc phạm đến tự do và nhân
phẩm của con người. Bạo lực là sự hung hăng quá đà vô căn cứ,
thường đi đôi với bóc lột, áp chế, hủy hoại, tàn phá và khủng bố. Bạo
lực có thể là bạo lực thể chất hay tinh thần. Bạo lực thể chất là hành
vi sử dụng sức mạnh thể lý với mục đích gây thương vong, tổn hại
đến người khác, bạo lực thể chất là điểm tột đỉnh của các cuộc xung
đột với nhau. Bạo lực tinh thần gây ra sức ép tâm lý, tổn hại cho
người khác gây ra sự trầm cảm, uất ức và lo sợ. Mức độ của bạo lực
tinh thần lớn hơn nhiều so với bạo lực thể chất, để lại hậu quả nặng
nề với người bị hại.
Bạo lực xã hội bao gồm phạm vi rất lớn trong cuộc sống ngày
nay từ bạo lực học đường, bạo lực gia đình, bạo lực tình dục, bạo lực
quốc gia… Bạo lực học đường xuất phát từ những mâu thuẫn trong
học tập của các em học sinh, tương quan giữa các em ngày càng đi
xuống với mức độ ngày càng tăng. Dường như các bậc phụ huynh và
chính bản thân các em đều lo sợ trước tình huống đó. Trước đây, chỉ
có nam sinh mới tham gia vào các vụ bạo lực, đánh nhau, giải quyết

384
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
ân oán đậm chất côn đồ, mà ngày nay, còn có cả nữ sinh tham gia với
mức độ nghiêm trọng hơn, hình ảnh người học sinh hồn nhiên, trong
sáng, vui tươi như thuở nào không còn nữa. Nhắc đến học sinh người
ta chỉ nói: “Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò”, nét hồn nhiên, vui tươi
của học sinh được đem ra so sánh là những trò đùa nghịch ngợm mà
bạo lực, ẩu đả ngày càng nghiêm trọng. Các vụ bạo lực, bạo hành gia
đình ngày càng lan rộng, hầu như ở đâu cũng có thể thấy mà hầu hết
nạn nhân là người vợ, người con trong gia đình. Hình ảnh người vợ
thương tích đầy mình, bị coi là “một đồ vật” để hứng chịu cơn giận
của người chồng. Tâm lý, tinh thần của họ bị tổn thương nghiêm
trọng và sa sút nặng nề dẫn đến những vụ tự tử, điển hình là những
cô dâu Hàn hay những vụ trả thù đẫm máu, của những chồng cuồng
sát vì họ cho là phản bội. Những con người trong gia đình cũng chịu
bị tổn thương về thể chất cũng như tinh thần do những hành vi bạo
hành của cha mẹ. Những đứa trẻ ngây thơ, cần sự chăm sóc lại bị bắt
ra đường ăn xin còn cha mẹ chúng thì ở nhà, nếu không có tiền thì sẽ
bị đánh đập, bị đói. Tuổi thơ các em đáng lẽ phải được ăn học, được
sự yêu thương của cha mẹ thì các em lại phải chịu những cảnh tuổi
thơ bất hạnh. Các cụ già cũng không ngoại lệ. Ở tuổi các cụ, đáng lẽ
được sự yêu thương, hiếu thảo của con cháu thì chính họ lại trở thành
công cụ kiếm tiền cho những đứa con, đứa cháu bất hiếu của mình.
Những lời mắng nhiếc, xỉ nhục và bạo hành của con cái với các cụ là
nỗi đau tinh thần khó phai nhòa trong lòng các cụ. Hiện tượng bạo
lực ngoài xã hội ngày nay lan tràn đến mức báo động xảy ra ở khắp
mọi nơi và chưa có biện pháp ngăn chặn hiệu quả. Đôi lúc bạo lực
khiến cho con người cảm thấy chuyện đó là bình thường, miễn sao
cũng không có liên quan đến bản thân mình. Những băng nhóm xã
hội đen, đòi nợ thuê với những thanh mã tấu dài và sắc bén sẵn sàng
đâm chém bất cứ ai mà chúng cho là cản trở những gì chúng làm.

385
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Thậm chí chúng còn lao vào nhà dân mà đâm chém người mà chúng
được chỉ định. Phương châm của những con người xã hội đen là “thà
giết lầm còn hơn bỏ sót” khiến cho ai nghe thấy cũng phải lo sợ.
Ngày nay, với những vũ khí hiện đại và nguy hiểm với mức sát
thương lớn cũng được những con người xấu sử dụng cho hành vi bạo
lực của mình. Những vụ tạt Axit giải quyết những vụ đánh ghen xảy
ra hàng ngày. Tranh giành địa bàn, buôn bán, bảo kê, cướp giật… có
thể bắt gặp ở bất cứ đâu. Những gì con người không giải quyết bằng
lời nói thì bạo lực được cho là hiệu quả với những người xấu như
vậy. Tin tức thời sự ngày nay luôn khiến cho người xem lo lắng
trước tình hình thời nay sao quá bất an như vậy. Chắc chúng ta vẫn
chưa quên hình ảnh chàng thiếu niên chưa đủ 18 tuổi, Lê Văn Luyện
đã không ngần ngại giết cả một gia đình khiến cho dư luận bàng
hoàng. Một chàng trai đầy sức sống, sức trẻ dâng trào sao lại làm
những việc động trời như thế. Số phận sau này của cậu sẽ như thế
nào, một “vết nhơ” sẽ theo suốt con đường tương lại của cậu. Tình
yêu trở nên thù oán, vì không được đáp trả cũng được giải quyết
bằng bạo lực. Tại sao khi yêu nhau người ta sẵn sàng dâng hiến, tha
thứ cho nhau tất cả, nhưng khi chia tay họ sẵn sàng đáp trả bằng bạo
lực? Hình ảnh một chàng trai thư sinh đã nhẫn tâm giết cả người yêu,
cắt thi thể thành nhiều mảnh và đem đi thủ tiêu ở nơi khác, khiến cho
người thân của mình và người yêu phải ngỡ ngàng, sửng sốt. Trên
đường phố, nơi những quán nhậu tấp nập người ra, kẻ vào cũng xảy
ra biết bao cảnh bạo lực. Rượu vào, lời ra tiếng vào, chỉ cần một câu
nói bang quơ cũng đủ khiến cho hai bên không tự chủ mình, xảy ra
ẩu đả, không nể nang gì tình bạn hữu bấy lâu. Một cái nhìn cũng đủ
khiến cho bạo lực nảy sinh, đôi co, ẩu đả xảy ra. Trên đường phố
huyên náo, ồn ào của xe cộ, những cảnh va quệt vì không ai chịu
nhường ai, họ cũng sẵn sàng giải quyết bằng bạo lực. Những hành vi

386
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
bạo lực tính dục luôn là nỗi đau chua xót, khó quên của những cô
gái, trẻ em bị lạm dụng. Vụ bạo hành gần đây nhất ở Ấn Độ làm cho
những ai xem thấy phải rùng mình và khiếp sợ trước hành vi bạo lực
của con người. Nỗi khiếp sợ ấy vẫn hàng ngày đeo bám người bị hại
khiến họ e dè, không dám tiếp xúc với ai. Cả cuộc đời họ chỉ chìm
đắm trong bóng tối của sợ hãi. Giữa những quốc gia với nhau, bạo
lực, xung đột, tranh chấp là điều khó tránh khỏi khi điều kiện, yêu
sách của một trong hai bên chưa được bên kia tán thành dẫn đến
những cuộc xung đột không cần thiết. Sự kiện Trung Quốc xây dựng
giàn khoan HD 981 trên quần đảo Hoàng Sa luôn làm dấy lên những
quan ngại, lo lắng trước chiến tranh giữa hai nước. Chiến tranh đến
bây giờ vẫn chưa chấm dứt, trên giải Gaza mỗi ngày có biết bao
người vô tội phải mất mạng. Chỉ vì những ân oán nhỏ nhặt hay vì
quyền lợi trước mắt mà họ sẵn sàng sử dụng những vũ khi hủy diệt
để thực hiện được mục đích của mình. Chỉ cần một cái nhấn nút kích
hoạt bom hạt nhân cũng đủ khiến cho một quốc gia bị xóa số. Bạo
lực tinh thần ngày càng phổ biến, khiến cho người bị hại phải sống
trong lo sợ. Những lời nói đe dọa qua tin nhắn hằng ngày trên điện
thoại càng phổ biến. Những lời nói đầy bạo lực của người lớn ngày
càng ảnh hưởng xấu đến trẻ em, khiến cho những con người đơn sơ,
hồn nhiên như các em cũng bị cuốn hút vào vòng xoáy của bạo lực.
Hậu quả của bạo lực để lại vô cùng nặng nề cho cả hai bên, không
những về thể xác mà còn cả về tinh thần. Người bị thương tật vĩnh
viễn, người chết, người bị trầm cảm, lo sợ, trở nên điên dại. Vào bất
cứ một bệnh viện nào, ta cũng có thể thấy đa số người bị thương do
bạo lực nhiều hơn các người bệnh tật. Số ca tử vong vì bạo lực cũng
nhiều hơn do mức nguy hiểm, sát thương của các vụ bạo lực ngày
càng lớn hơn. Những con người mạnh khỏe ngày nào với bao tương
lai, triển vọng rực sáng nhưng phải khép lại cánh cửa đó trên chiếu

387
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
giường bệnh, gắn bó với nó suốt cả đời hay phải kết thúc quãng đời
còn lại trong ngục tù tăm tối. Bạo lực khiến cho người vô tội hay
những người không liên can gì bị cuốn vào. Mức ảnh hưởng của bạo
lực không chỉ là ân oán giữa hai người mà là rất nhiều người xung
quanh, điển hình là cuộc chiến tranh có thể khiến cho hàng triệu
người phải chết. Bạo lực luôn là nỗi ám ảnh của nhân loại, sẽ là sự
diệt vong của nhân loại nếu chúng ta không tìm ra nguyên nhân hay
giải pháp cấp thiết.
Bạo lực xuất hiện do sự xung đột giữa con người với nhau. Sự
xung đột bắt nguồn từ những mâu thuẫn hay những nhu cầu không
được người khác đáp ứng. Đó có thể là nhu cầu chính đáng hay
không chính đáng, bạo lực hướng đến những nhu cầu không chính
đáng nhiều hơn. Tại sao con người lại có những nhu cầu cho riêng
mình? Nhu cầu là một trong những yếu tố cấu thành nhân cách con
người, là xu hướng bẩm sinh hướng tới hành động và có xu hướng
thể hiện ra bên ngoài. Theo Maslow, nhu cầu con người bao gồm nhu
cầu sinh lý, nhu cầu an toàn, nhu cầu yêu thương và được thuộc về,
nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu tự khẳng định bản thân. Nhu cầu
sinh lý và an toàn là nhu cầu bậc thấp của con người mà con người
cần để phát triển bản thân. Tuy nhiên, nếu không được đáp ứng con
người sẽ phản ứng lại theo chiều hướng xấu bằng bạo lực, để giành
lại những gì cần cho nhu cầu bản thân. Điều đó chúng ta cũng có thể
thấy rõ, khi thiếu thức ăn, nước uống con người sẽ giành giật, cướp
bóc. Khi bị đe dọa, con người cũng sử dụng bạo lực để chống trả lại.
Các nhu cầu được công nhận, được tôn trọng và được tự khẳng định
bản thân là nhu cầu bậc cao của con người. Trong xã hội để đạt đến
nhu cầu bậc cao không phải dễ, vì thế con người hay có suy nghĩ
thiếu chin chắn dẫn đến hành vi nông nổi để tự thể hiện mình, họ
dùng bạo lực như là hình thức để được người khác công nhận, tôn

388
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
trọng và họ tự khẳng định cái tôi của mình trên sự sợ hãi của người
khác. Những nhu cầu của con người đều là những hành vi mang lại
lợi ích cho bản thân cũng nhu của người khác, được mọi người tôn
trọng và giúp đỡ. Bạo lực lại xuất phát từ những nhu cầu không
chính đáng chỉ làm thỏa mãn những đam mê, ham muốn của bản thân
nhưng lại gây hại, tổn thương, bôi nhọ danh dự và nhân phẩm con
người. Đáp ứng những nhu cầu cho con người; tạo môi trường lành
mạnh là việc làm cấp thiết để giúp con người rời xa bạo lực, hàn gắn
con người với nhau. Tuy nhiên, với sự phân hóa giàu nghèo, học
thức, hiểu biết ngày càng lớn thì khó có thể thực hiện được. Bên cạnh
đó luật pháp ngày nay càng được mở rộng và khắt khe hơn chế tài
bạo lực, đe dọa những ai vi phạm bằng những biện pháp, kỉ luật khắt
khe. Nhưng luật pháp thực sự có hiệu quả? Bạo lực vẫn xảy ra, người
ta luôn tìm cách lách luật để thực hiện những hành vi bạo lực với
người khác hoặc dùng tiền để che đậy sự thật của hành vi bạo lực.
Mỗi người chúng ta đều có toàn án lương tâm trong lòng, khi thực
hiện một hành vi bạo lực, chính tòa án lương tâm sẽ kết án, dằn vặt
hành vi bạo lực ta làm cho đến khi ta thực sự ăn năn, đền bù cho
những thiệt hại gây ra. Tuy nhiên, lương tâm con người ngày càng
trở nên “trơ như đá” và “không cảm xúc” khi thực hiện hành vi bạo
lực. Điển hình là những vụ giết người dã man, thủ phạm ra tay tàn
nhẫn giống như trong các phim ảnh bạo lực. Sau đó, thủ phạm vẫn có
thể làm việc, sinh hoạt bình thường như không có gì xảy ra. Dường
như họ không còn nghĩ về những việc mình làm, không còn suy tính
gì cho tội ác mà mình gây ra. Bạo lực giết chết óc tưởng tượng của
con người và tội ác sẽ sinh thêm tội ác khác.
Vì thế, đem lại hòa bình cho con người luôn là vấn đề cấp thiết
của nhân loại. Một nền hòa bình đích thực chỉ có thể được kiến tạo
bằng sự tha thứ và hòa giải. Có biết bao con người đã hy sinh cả cuộc

389
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
đời để mang lại hòa bình cho con người như Nelson Mandela, Mẹ
thánh Tê-rê-xa…giải Nobel Hòa bình nhằm tôn vinh những con
người luôn biết xây dựng hòa bình, tẩy trừ bạo lực, phân biệt giai cấp
giữa con người với nhau. Con người vẫn luôn nỗ lực giảm tác hại của
bạo lực bằng sự yêu thương, giúp đỡ người xung quanh. Giáo dục
con người ngay từ nhỏ về tình yêu thương, không chỉ mang lại nền
tảng của niềm vui, hạnh phúc mà còn chính nơi tâm hồn các thế hệ
trẻ được ươm mầm của sự hòa bình yêu thương. Trong cuộc sống
tương giao hằng ngày, mỗi người hãy chung tay xây dựng một tổ ấm
hạnh phúc, bởi sự yêu thương, quan tâm lẫn nhau trong gia đình.
Trong xã hội, giao tiếp với nhau trong tình đối thoại thân mật tránh
sự nóng giận mà dẫn đến xung đột không cần thiết. Nâng cao tầm tri
thức, khám phá bản thân trong tương quan tình liên đới. Sống không
chỉ là cho riêng mình mà con cho người khác nữa. Hãy cùng ngước
nhìn lên thập giá, chính Đức Ki-tô cũng là nạn nhân của sự bạo lực,
nhưng tình yêu tha thứ của Người đã gieo mầm sự sống ngay giữa
lòng cái chết vốn là hậu quả của bạo lực. Của lễ hy sinh trên thập giá
của Chúa Giê-su đã trọn khi Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin
tha thứ cho chúng, vì chúng lầm không biết việc chúng làm” (Lc 23,
3). Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất mà
con người dành cho nhau. Tha thứ là nét đẹp nhất của lòng người, là
tuyệt đỉnh của lòng yêu thương vì yêu chính kẻ thù mình; càng tha
thứ, con người càng nên giống Thiên Chúa. Sự tha thứ của thánh nữ
Maria Goretti đã ươm mầm sự yêu thương, hoán cải trong tâm hồn
đầy oán thù, bạo lực của chàng thanh niên Alessandro. Sự quan tâm,
chăm sóc ân cần và kiên trì của Cha Gioan Bosco như dòng suối mát
lấp đầy sự khô khan, nguội lạnh của hận thù nơi những chàng thanh
niên trong nhà tù. Không những thế, thánh nhân luôn kiên nhẫn
không ngừng dạy dỗ, giúp các em nhận thức được giá trị con người

390
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
mình để trở nên là con người có ích cho xã hội. Thù oán, ghen ghét
dẫn đến bạo lực. Chỉ có sự tha thứ và yêu thương mới hóa giải được
thù oán, ghen ghét nơi con người và như thế sẽ không còn cảnh bạo
lực nữa. Vì thế, mỗi người chúng ta, nhất là những người Ki-tô hữu,
hãy tỉnh thức và canh tân chính đời sống của mình, hãy để ánh sáng
của Tin Mừng soi rọi vào góc khuất của bạo lực trong tâm hồn. Hơn
nữa, chúng ta phải hành động, cùng chung tay mang ánh sáng Tin
Mừng của tha thứ và yêu thương, xóa mờ bóng tối của sự dữ, của bạo
lực nơi những con người đang sống trong thù oán và ghen ghét.
“Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để
con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục,
đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm”. Lời
kinh Hòa bình của Thánh Phan xi cô Assisi nhạc sĩ Kim Long phổ
nhạc vẫn luôn vang vọng trong tâm hồn từng người chúng ta. Lời
kinh đó như lời động viên thúc đẩy chúng ta mạnh mẽ tiến bước trên
con đường của bạo lực, của sự dữ đang cần đến ánh sáng chiếu soi
của hạnh phúc, của hòa bình. Thế giới này đang rất cần từng người,
từng người hãy luôn biết sống cho đi, cho đi chính cả bản thân mình.
“Sống trong đời cần có một tấm lòng. Để gió cuốn đi”. Hãy để cơn
gió của sự tha thứ cuốn đi những thù oán, ghen ghét nơi con người,
chỉ để lại tình yêu thương, lòng trao ban của sự mến yêu, hạnh phúc
mà thôi.
Đỗ Trọng Luân

391
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Bình giảng câu nói của Nguyễn Bá Học: “Đường đi
khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại
núi e sông”.
Bài làm
Có một danh nhân từng nói đại ý rằng: “Trong tất cả mọi chiến
thắng thì chiến thắng vĩ đại nhất là chiến thắng bản thân mình”. Vì
sao vậy? Chúng ta có thể có nhiều câu trả lời khác nhau nhưng có thể
nói rằng giữa muôn vàn khó khăn, bao nhiêu thử thách, bao nhiêu vật
cản trên đường đời thì cái thân xác yếu đuối, tinh thần thấp kém
nhiều lúc đã hại chúng ta trên con đường đi tơi thành công. Luận bàn
về vấn đề này, cố nhân Nguyễn Bá Học đã từng nói: “Đường đi khó,
không khó vì ngăn sông cách núi nhưng khó vì lòng người ngại núi e
sông”. Chúng ta cùng nhau bình giảng câu nói trên.
Mỗi người chúng ta khi chập chững bước đi thì chúng ta cũng
phải đi theo một con đường, đó có thể là những con đường không cụ
thể như từ nhà trên xuống nhà dưới, hay từ nhà ra sân, từ sân vào
nhà… Nhưng khi chúng ta lớn chúng ta đã đi và sẽ đi qua biết bao
nhiêu con đường, xa có, gần cũng có, đường bằng phẳng, đường gồ
ghề, đường đất, đường nhựa… Đó là những con đường đưa ta đi
chơi, đi học, đi làm… Tuy nhiên, “đường” trong câu nói của Nguyễn
Bá Học, ngoài ý nghĩa cụ thể nêu trên, còn có nghĩa là con đường
cuộc sống, là lý tưởng mà mỗi người theo đuổi. Tuy vậy, dù là đường
hiểu theo nghĩa nào đi nữa thì cũng buộc chúng ta phải đi, mà đã đi
thì cũng đồng nghĩa với những vất vả mệt nhọc đặc biệt đối với
những con đường khó lắm đèo cao, vực sâu, quanh co uốn lượn hay
lầy lội. “Đường đi khó” là vậy, là sông ngăn cách, núi chắn ngang
nhưng theo tác giả thì không khó. Tác giả đã phủ định lại ngay câu
đề mà ông đưa ra.”Đường đi khó, không khó…” thể hiện một thái độ
dứt khoát như là ông đang phủ định lại ý kiến của một người nào

392
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
khác. Tiếp sau lời phủ định ông lại giải thích “không khó vì ngăn
sông cách núi…” Nhưng tiếp theo tác giả có vẻ như lại giật mình “…
nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”. Cách bố trí từ cũng nhu
cách dùng từ của tác giả đã làm nổi lên ý nghĩa của câu nói rằng:
Đường đi dù khó khăn, dù đèo cao, dù vực sâu, dù ngăn sông cách
núi thì cũng không khó đối với những người dám vượt qua, dám đi
tới cùng mà không quản ngại. Tuy nhiên, nếu lòng người mà “ngại núi
e sông” thì đường khó thì thật là một thảm họa vì họ sợ hãi, không
dám đi và nếu có đi thì cũng đầu hàng trước những khó khăn gặp phải
trên đường. Câu nói của danh nhân mang giá trị sư phạm hết sức sâu
sắc, ông muốn nói với chúng ta rằng: Đừng thấy đường khó mà sợ để
rồi không đi, nhưng hãy can đảm bước đi dù khó khăn những khi như
thế ta mới thấy con đường dù khó cũng hóa nên dễ dàng.
Mang những giá trị lời dạy của Nguyễn Bá Học vào cuộc sống,
chúng ta mới thấy hết giá trị của nó. Cuộc đời là những chuyến đi và
trên hành trình của mỗi người chúng ta đã không ít lần chúng ta đã
thấy hay đã đi vào những con đường khó khăn. Chắc hẳn ai cũng có
thể cảm nghiệm được rằng khi ta thấy hay đi vào những con đường
đó thì không tránh khỏi những cảm giác sợ hãi và lo lắng. Ai đã từng
đi qua những con đường ở các vùng miền núi của nước ta thì sẽ thấy.
Nhiều khi chúng ta lên dèo dốc mà tưởng chừng như không bao giờ
tới đỉnh, không những dốc mà còn quanh co, ngoằn ngoèo rất nhiều
khúc quanh, dường như tốc độ xe phải giảm hết mức có thể, nhưng
khi xuống dốc thì cũng tưởng chừng như xuống tận hỏa ngục. Chúng
ta mới thấy hết những sự khó khăn dành cho những ai dám bước
chân vào những con đường gian khó. Nhưng, phải nhắc lại ngay rằng
“không khó vì ngăn sông cách núi nhưng khó vì lòng người ngại núi
e sông”. Trên thế giới này có bao nhiêu con đường khó, thưa rằng có
rất nhiều. Nhưng tại sao người ta lại đi vào con đường khó trong lúc

393
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
tại sao không làm ngược lại. Có ai đó nói bất kì con đường nào trên
thế gian này cũng do người ta đi nhiều mới thành đường. Như vậy,
chúng ta thấy là có những con người đã từng muốn đi con đường
khó. Câu trả lời là bởi vì những con đường khó là những lối dẫn đến
những nơi có tài nguyên thiên nhiên quý giá để khai thác, cũng là nơi
đưa ta đến những danh lam thắng cảnh nổi tiếng về vẻ đẹp mê hồn
của nó. Chúng ta bây giờ cũng có thể tự hỏi chính mình nếu không
có những con người dám đi khai phá đi tìm những con đường khó thì
thế giới ngày hôm nay sẽ ra sao?
Đó là câu chuyện của những con đường đi cụ thể còn với những
con đường cuộc sống thì sao? Có thể nói rằng có bao nhiêu người đi
trên tráu đất thì có chừng ấy con đường sống. Quả vậy, chúng ta có
con đường sống của riêng mình và chúng ta cũng biết rằng không có
con đường cuộc sống nào mà thẳng tít tắp là trơn tru cả. Trên con
đường cuộc sống có nhiều người chùn chân ngay ở điểm xuất phát vì
họ thấy con đường sắp đi quá gai chông. Có những người lại đi được
giữa chừng rồi dừng lại hoặc thụt lùi vì họ không đủ sức mạnh để
đứng dậy sau khi vấp ngã. Những con người ấy họ đã để cho những
trông gai trên đường đời đe dọa và vùi dập, có thể nói như tác giả là
do họ đã “ngại núi e sông”. Họ đã không có đủ sức mạnh, nghị lực,
lòng can đảm để vượt qua chính mình, những người như họ thường
đổ lỗi cho hoàn cảnh, gia đình hay xã hội. Có một danh nhân đã từng
nói rằng: “Điều quan trọng trong đời không phải là bạn có thất bại
hay không nhưng là bạn học được gì sau mỗi thất bại”. Trên đường
đời với muôn ngàn cạm bẫy chúng ta không thể một đôi lần phải
chùn chân phải ngã quỵ hay thậm chí là ngất xỉu đi nhưng điều quan
trọng là dù trong thất bại ta vẫn nỗ lực bước đi thì tất lẽ một điều
thành công ở cuối con đường sẽ chờ đợi ta vì “Ai nên khôn mà chẳng
dại một đôi lần”. Chúng ta có thể học được rất nhiều tấm gương
trong cuộc sống quanh ta. Đó có thể là đi từ muôn vàn thất bại rồi
mới thành công như Thomas Edison nhà khoa học làm ra đèn điện.
hay con đường vươn tới một trong những người giàu nhất hành tinh

394
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Bill Gate. Tỷ phú người Mỹ này đã bắt đầu từ việc bỏ học dở chừng và
buôn bán linh kiện máy tinh hỏng. Và còn bao nhiêu người quanh ta
nữa, những con người tật nguyền đã trở thành những nhà kinh doanh
thành đạt, những vận động viên chuyên nghiệp…có thể trước khi chưa
thành công họ cũng không được nghe tới câu nói này của Nguyễn Bá
Học nhưng họ đã minh chứng bằng con đường họ đã đi qua.
Những con đường khó luôn là những con đường đẹp nhất và nó
cũng dẫn tới những thành công mỹ mãn nhất. Đó là những con đường
rừng rộn tiếng chim ca, tram hoa đua nở, vách đá cheo leo, không thể có
được ở đồng bằng. Những người dám bước đi trong gian khó và đối
diện với nó sẽ cảm nhận được niềm vui và hạnh phúc thực sự sau mỗi
lần họ vượt qua thử thách. Ngoài ra, ở phía cuối con đường gian khổ sẽ
có những niềm hạnh phúc, những đền đáp xứng đáng nhất.
Chúng ta cũng không quá khi nói rằng đi tu là chúng ta đang đi
trên một con đường khó. Bằng chứng là “con đường chẳng mấy ai đi”.
Theo Thầy chí ái Giê-su là bỏ lại ngoài kia những niềm vui nhân thế.
Rất nhiều lúc cô đơn vì không cha mẹ, không người thân. Có những
chiều buồn bã ê chề trong tu viện vắng người. Có những lúc tìm hoài ý
Chúa mà Chúa vẫn lặng thinh. Đó là chưa kể đến những hiểu lầm sinh
ra những lời dị nghị của người đời. Khó là vậy, nhưng niềm vui rất
nhiều. Có lúc ngập tràn trong ân sủng Chúa, con chỉ muốn hát mãi bản
tình ca Giê-su. Những lúc tình huynh đệ dạt dào, công việc mục vụ
đem về cho Chúa thêm nhiều bông hoa, chúng ta hạnh phúc. Ta nỗ lực
bước theo Chúa, nhưng hãy bước cùng Chúa thì mới có thể hy vọng
nhận được niềm vui trọn vẹn trên con đường ta đang đi.
Lối về hạnh phúc của chúng ta bắt đầu từ lúc ta khởi hành trên
con đường của mỗi người. Bước vào đời là khó khăn gian lao nhưng
nếu ta sợ hãi thì ta chẳng đi tới đâu trên con đường của ta. Nhưng
nếu ta nỗ lực bước đi dù có thể rất khó khăn đấy, nhưng khi đó ta sẽ
chiến thắng được không chỉ thử thách gian nan mà niềm vui càng
tăng lên bởi ta đã giành được chiến thắng chính bản thân mình.
Trần Đình Vẹn

395
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Anh/chị hãy bình luận lòng hiếu thảo trong tục ngữ,
ca dao Việt Nam.
Bài làm
Dù sống trong hoàn cảnh nào, dù ở phương trời nào trên địa cầu
này, mỗi người chúng ta đều có những ước mơ hoài bão riêng.
Nhưng những ai đã từng sinh ra và lớn lên trên đất Việt đều có chung
một tâm tình hoài niệm tuổi thơ đã được lắng nghe từ những câu ca
dao tục ngữ bình dị thắm tình người. Những câu tục ngữ ca dao như
đã ngấm vào máu thịt không biết bao nhiêu thế hệ và nó vẫn còn
vang mãi cho đến ngày hôm nay. Những câu tục ngữ ca dao thể hiện
đa sắc đa diện trong đời sống tinh thần cũng như vật chất của con
người, diễn tả tình yêu thiên nhiên vạn vật, tình đồng chí, tình yêu
đất nước con người, lòng hiếu thảo đối với mẹ cha.
Chúng ta suy nghĩ gì về lòng hiếu thảo trong tục ngữ ca dao Việt
Nam, từ đó chúng ta có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân.
Trước tiên chúng ta hiểu “lòng hiếu thảo” là gì? “Hiếu” có nghĩa
là lòng kính yêu và biết ơn đối với cha mẹ, và nói lên mối tương
quan tốt đẹp giữa con cái và cha mẹ. Còn “thảo” là rộng rãi, tốt lành,
biết quan tâm chăm sóc cha mẹ và những người trên trong gia đình.
Như vậy, “lòng hiếu thảo” là nói lên tương quan hết lòng kính yêu
cha mẹ, cách ăn ở có phú có hậu của con cái đối với cha mẹ. “Lòng
hiếu thảo” này được thể hiện trong những câu tục ngữ ca dao súc
tích, ngắn gọn nhưng vẫn lột tả được tính nhân văn của con người
Việt về lòng hiếu thảo. Tại sao lòng hiếu thảo lại được thể hiện trong
tục ngữ ca dao? Có lẽ văn hóa người Việt gắn liền với văn hóa lúa
nước, từ việc lao động chân tay của cha ông chúng ta đã bao đời nay
mà đã đúc rút, chắt lọc qua những kinh nghiệm thực tiễn cuộc sống.
Hơn nữa, để dạy cho con cái cháu chắt những điều dễ hiểu, dễ học,
không cần phải sách vở rườm rà, điều kiện không cho phép, nhưng

396
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
chỉ cần những câu tục ngữ, ca dao ngắn gọn dễ nhớ vẫn chuyển tải
được đầy đủ nội dung cho người nhận.
Vì thế, khi tỏ lòng biết ơn công lao to lớn của cha được ví như
núi cao vời vợi. Còn nghĩa mẹ dạt dào như biển Đông không bao giờ
cạn, chúng ta gặp trong câu tục ngữ sau:
“Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông”
Tình cha nghĩa mẹ sâu nặng, cao dày, phận làm con phải biết
vâng nghe những lời chỉ bảo của các ngài, coi những lời chỉ dạy đó
như luân thường đạo lí phải thực hành:
“Mẹ cha là biển là đời
Phận con đâu dám cưỡng lời mẹ cha”
Cha mẹ nào cũng muốn con cái của mình nên người. Vì thế mà
con cái không thể dùng tự do hiểu biết “đôi chút” của mình về sự đời
để tỏ ra thái độn phản hồi cãi lại.
“Cá không ăn muối cá ươn
Con cãi cha mẹ tram đường con hư”
Cho dù chúng ta có làm chức vụ gì trong xã hội đi nữa, nếu chúng ta
có thái độ phản kháng, thiếu tuân phục cha mẹ thì chúng ta không thể là
một người tốt được. Cho nên tục ngữ đã khuyên dạy rằng:
“Con ơi muốn nên thân người
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.”
Hay:
“Con ngoan giữ lấy lời cha
Thi hành lời mẹ ắt là nên khôn.”
Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, sinh con nuôi dạy cho
lớn khôn quả thật là công lao vất vả tảo tần của cha mẹ. Có những
đêm con không ngon giấc mẹ phải thức trọn với những lời ru êm ái
ngọt ngào mong sao con ngủ ngon giấc chóng lớn:

397
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
“Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chày thức đủ năm canh”
Khi lớn khôn nên người, con cái đi vào đời, từng trải mùi gian
lao vất vả khó nhọc, họ mới thấm thía được công ơn sinh thành
dưỡng dục của mẹ cha. Đến giờ họ mới hiểu được tại sao tóc của mẹ
mỗi ngày thêm nhiều sợi trắng, da của mẹ cha không còn căng tròn
như xưa. Mắt của mẹ có nhiều quầng thâm sâu, má của cha tóp vào
vì lo lắng cho con. Ý thức được công lao dày của mẹ cha, phận làm
con phải biết đền đáp chăm lo phụng dưỡng cha mẹ trong lúc tuổi già
xế bóng, từ bữa cơm bát cháo, từ giấc ngủ, tấm chăn để các ngài tăng
thêm tinh thần sống với con cháu trong mọi hoàn cảnh:
“Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ hai thân
Thức khuya dậy sớm cho cần
Quạt nồng ấp lạnh giữ phần đạo con”
Cho dù con cái có cố gắng đến đâu cũng không thể đền đáp được
công ơn cha mẹ nuôi ta nên người. Vì thế mà phận làm con phải cố
gắng hết sức khi cha mẹ còn sống. Báo hiếu khi các ngài còn có sức
để đón nhận:
“Sáng cơm trưa cháo chiều trà
Chăm cha chăm mẹ tuổi già xa xăm”
Hay:
“Tôm càng lột bỏ đầu đuôi
Lúa nhe giã trắng dành nuôi mẹ già”
Người ta thường nói “Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”. Cho
dù phải sống trong hoàn cảnh nào, mối tương quan của cha mẹ với
con cái cũng bền chặt. Bổn phận con cái không chỉ lo cho cha mẹ về

398
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
của cải vật chất mà thôi, mà đỡ nâng về tinh thần cho các ngài chúng
ta cũng không nên quên lãng:
“Mẹ già ở túp lều tranh
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con”
Hay chẳng may chúng ta phải gặp cảnh túng quẫn, cũng không vì
thế mà lơ là đạo hiếu. Trái lại chúng ta phải tận tâm tận lực thể hiện
một lòng giữ trọn chữ hiếu:
“Cầm cần câu cá ngược xuôi
Nấu canh rau bợ mà nuôi mẹ già”
Hoặc là:
“Đói lòng ăn đọt chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng”
Cha mẹ vui sướng làm sao, hạnh phúc chừng nào khi có được
dâu hiền rể thảo! Giàu nghèo không là vấn đề, cha mẹ như được tăng
sức sống vì được cả hai vợ chồng đồng lòng kính yêu phụng dưỡng:
“Em thì đi cấy ruộng bông
Anh đi cắt lúa để chung một nhà
Đem về phụng dưỡng mẹ cha
Muôn đời tiếng “hiếu” người ta còn truyền”
Một cách báo hiếu sâu xa người có tín ngưỡng hay làm, bất luận
giàu nghèo, ở xa hay gần con cái đều có thể chu toàn chữ hiếu. Vì
hạnh phúc nhất của con cái là còn có cha mẹ để phụng dưỡng, để
được lắng nghe lời răn dạy của các ngài. Dẫu biết rằng quy luật sinh-
lão- bệnh- tử không ai có thể đi ngược lại, cho nên mong ước của con
cái rằng:
Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con

399
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Và khi lòng kính yêu cha mẹ được thấu đạt, con cái có tìm
cho được đấng vạn năng- Đức Phật để có thể cho cha mẹ mình được
sống mãi với lũ cháu đàn con:
“Lâm râm khấn Phật vái trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con”
Đặc biệt với những người xa xứ tìm kế sinh nhai, hoặc vì
nhiều lí do khác không thể sống gần cha mẹ, nỗi nhớ thương cha mẹ
ông bà càng quặn đau. Cũng có lúc thấy một ai đó giống cha mẹ
mình, lưng còng, tóc bạc đang sống lây lất như không có con cháu.
Chính những lúc đó ta ước mong sao được ở gần cha mẹ để phụng
dưỡng các ngài suốt cả đời ta. Có khi chúng ta nghe tin tức ở quê nhà
phải hứng chịu thiệt hại do thiên tai gây ra, chúng ta lo lắng, bồn
chồn tự hỏi lòng rằng mẹ cha ta hiện giờ ra sao. Lòng chúng ta bâng
khuâng không sao tả được khi hoàng hôn trở lại:
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều”
Có lúc chúng ta nghe thoang thoảng tiếng đưa nôi ru con nhà
hàng xóm, đã gợi lên trong kí ức chúng ta biết bao kỉ niệm tuổi thơ.
Nhất là chúng ta đã có một tuổi thơ tinh nghịch khó nuôi, làm cha mẹ
hao mòn sinh lực:
“Thoảng nghe hai tiếng à ơi
Lòng con chạnh nhớ những lời ấu thơ”
Dẫu biết rằng công đức sinh thành phận làm con không bao
giờ bù đắp được. Nhưng để phần nào an tâm con cái có thể kính nhớ
thờ cúng khi các ngài đã an giấc nơi chín suối. Cầu nguyện, xin Lễ
để các ngài sớm gia nhập với triều thần thiên quốc mà ca tụng Thiên
Chúa. Lòng đơn thành đó cũng có thể tỏ bày qua việc lập am, miếu
để thuận lợi cho việc thờ cúng mỗi khi dịp lễ giỗ hay tết nhất:
“…Đi về lập miếu thờ cha
Cất chùa thờ mẹ lập trang thờ bà.”

400
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Hay là:
“Quyết lòng lập miếu chạm rồng
Đền ơn phụ mẫu ẵm bồng ngày xưa”
Việc phượng thờ hiếu kính không phải là làm theo hứng, thích thì
làm, không thích thì nghỉ. Vả lại đây là bổn phận không thể lơ là tùy
tiện, mà cần phải thực hành thể hiện cách nghiêm túc, làm gương
sáng cho con cháu bắt chước nữa:
“Đạo làm con chớ hững hờ
Phải đem hiếu kính mà thờ tổ tiên”
Bên cạnh những câu tục ngữ ca dao đề cao tấm lòng hiếu thảo
của con cái đối với cha mẹ, ca ngợi công đức sinh thành dưỡng dục
của các ngài. Cũng không thiếu những câu mỉa mai châm biếm
những đứa con chưa chu toàn đạo hiếu, thiếu hy sinh thiếu tình mẫu
tử chưa ý thức đủ bổn phận làm con:
“Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể
Con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày”
Và cũng không thiếu những đứa con làm trò cười cho thiên hạ
trong khi cha mẹ còn sống chẳng dám cho cha mẹ ăn, chờ đến khi
cha mẹ đau ốm không ăn nổi mới mua về “tấp” đầy bàn để “khè”
thiên hạ. Tệ hơn nữa là khi cha mẹ quy tiên, làm đám ma linh đình,
họ còn thuê cả đội kèn, đội trống để ca hát inh ỏi, làm cho người quá
cố thật đau lòng:
“Cha mẹ còn sống thì chẳng cho ăn
Đến khi thác xuống làm văn tế ruồi”
Hỡi những ai còn cha mẹ đừng để các ngài phải buồn tủi vì
chúng ta. Thời gian không chờ đợi bất cứ ai. Quy luật “Hoa nở, hoa
tàn” là điều tất yếu. Báo hiếu đáp đền công ơn sinh thành là việc cần
kíp thiết thực. Những ai mau mắn thi hành là những người khôn
ngoan tỉnh thức đang bước đi trong ánh sáng và hy vọng vào ngày

401
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
nào đó mình cũng sẽ được đối đãi tốt lành của con cháu. Vì người ta
thường nói: “Ở hiền gặp lành”. Và người ta hay chế nhạo những
người sống không biết hiếu kính với các bậc sinh thành rằng “Sóng
trước đổ đâu, sóng sau đổ đó” hay “Đời cha ăn mặn, đời con khát
nước”. Đó chính là thực tế từ xưa đến nay vẫn diễn ra đâu đó khắp
mọi nơi mọi thời.
Vậy chúng ta là những người đã được học sâu hiểu rộng, nếu
chúng ta không làm được gì tốt để báo hiếu cho ông bà cha mẹ thì ít
ra chúng ta cũng không nên làm những gì tai tiếng để các ngài phải
đau khổ tổn thọ vì ta.
Báo hiếu là bổn phận của con cái đối với cha mẹ ông bà tổ tiên.
Có lẽ sống cho nên người là điều cha mẹ nào cũng ước ao cho con
cái mình. Trái lại, cũng không có gì đau khổ cho bằng cha mẹ có
những đứa con hư hỏng, trộm cắp, gây tai tiếng cho đời, làm mất
thanh danh cha mẹ.
Tục ngữ ca dao Việt Nam đã để lại cho hậu thế bao kinh nghiệm
về nhiều lãnh vực trong cuộc sống, đặc biệt về lòng hiếu kính đối với
tổ tiên. Chúng ta nguyện khắc ghi những lời giáo huấn sâu sắc đó.
Nhất là chúng ta áp dụng nó vào thực tế cuộc sống. Có như thế chúng
ta mới thực sự là những người con đất Việt.
Nguyễn Văn Hồng

402
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Trình bày hiện tượng bạo lực trong xã hội
Bài làm
Đang ngồi đọc báo, anh Lân ngỡ ngàng bị đứa cháu gái học
lớp bảy chạy đến khoe với anh cái Ipad mà ba nó mới mua tặng hôm
sinh nhật nó tuần trước, trong đó đang phát một clip trên
youtube.com cảnh một học sinh cấp hai đang bị ba nữ sinh khác đánh
đập cách tàn nhẫn, kèm theo lời giải thích : “cậu ơi, mấy đứa này học
trong trường con nè!”. Thằng bé em học lớp một cũng chạy đến xem
cùng và tỏ vẻ khoái chí, hoan hô “dzô dzô”. Anh Lâm dù không xa lạ
gì với cảnh tượng này trên các trang mạng nhưng bất chợt cũng rùng
mình và nhẹ nhàng với cô cháu gái chuyển qua trang khác với lời hỏi
khéo đứa cháu trai về việc học trên trường. Với câu chuyện trên,
chúng ta không đánh giá hay nhận xét về cách xử lý tình huống của
anh Lâm, nhưng vấn đề mà chúng ta cần quan tâm sâu sắc chính là
hiện tượng bạo lực trong xã hội, một vấn nạn không phải là mới,
nhưng là một thực trạng không dễ để tìm được cách giải quyết triệt để.
Tra cứu từ điển tiếng Việt của nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 1996,
bạo lực được giải thích một cách sơ sài là hành vi dùng sức mạnh để
lấn át đối phương. Tuy nhiên, trong thực tế, bạo lực hay bạo hành
không chỉ gói gọn trong việc dùng sức mạnh để gây thương tổn, mà
chỉ với một thái độ, cử chỉ, lời nói cũng có thể là hành vi mang tính
bạo lực tác động và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến thể lý, tâm lý
và tinh thần của người khác. Nói về hiện tượng bạo lực trong xã hội
thì nổi cộm hơn cả, cũng như thường được đề cập đến trên các trang
báo điện tử hay các phương tiện truyền thông đại chúng thì chúng ta
dễ dàng bắt gặp những tình huống bạo lực mà nạn nhân chủ yếu là
trẻ em, phụ nữ, hay thậm chí cả nam giới với các hình thức như bạo
lực học đường, bạo lực tình dục, bạo lực gia đình, bạo lực trẻ em…
Tại Việt Nam nói riêng, theo số liệu được bộ Giáo Dục và Đạo tạo

403
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
đưa ra gần đây nhất, trong một năm học, toàn quốc xảy ra gần 1600
vụ việc học sinh đánh nhau trong và ngoài trường học (bình quân 5
vụ/ngày). Theo khảo sát của hội Liên hiệp Phụ nữ thì năm 2008 có
23% số gia đình được hỏi có hành vi bạo hành về thể chất, 30% bạo
lực tình dục, và 25% số gia đình có hành vi bạo lực về tinh thần
trong đó 97% nạn nhân là phụ nữ. Một vài con số thống kê như thế
cho chúng ta một cái nhìn cũng như những suy nghĩ về một vấn nạn
khá đau lòng không chỉ tại Việt Nam mà còn diễn ra trên các nước
khác. Tìm hiểu về vấn đề này, lướt qua các trang web nước ngoài, cụ
thể như trên trang gov.nl/VPI/types chúng ta tìm được một sự phân
chia khá rõ ràng và chi tiết các hình thức bạo lực trên các phương
diện khác nhau. Dựa vào bảng tổng kết, chúng ta có chín hình thức
bạo lực. Thứ nhất là bạo lực thể lý (Physical violence), là việc dùng
một phần thân thể như tay, chân hay những vật dụng như gậy, dao để
điều khiển hành động của người khác. Thứ hai là bạo lực tình dục
(sexual violence), khi một người bị ép buộc thực hiện hành vi mang
tính tình dục mà người đó không muốn. Ba là bạo lực về cảm xúc
(emotional violence) khi sử dụng lời lẽ hay hành động làm cho đối
phương cảm thấy bị xem thường và không còn giá trị. Thứ bốn là bạo
lực tâm lý (psychological violence) là việc dùng những hình thức đe
dọa và làm cho người khác sợ hãi để nắm quyền kiểm soát họ. Thứ
năm là bạo lực tinh thần hay tôn giáo (spiritual violence) là hành
động dùng niềm tin, tín ngưỡng cá nhân để lôi kéo, tạo ảnh hưởng và
điều khiển người khác. Thứ sáu là bạo lực văn hóa (cultural
violence) là việc một cá nhân bị hãm hại chỉ vì họ thực hiện những
lối sống văn hóa hay truyền thống riêng. Thứ bảy là bạo lực ngôn từ
(verbal abuse) là việc dùng ngôn ngữ nói hay chữ viết để gây thiệt
hại cho người khác. Thứ tám là bạo lực tài chính (financial abuse) là
việc chi phối hay lạm dụng nguồn tài chính của người khác mà

404
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
không có sự ưng thuận của người sở hữu. Và thứ chín là bạo lực từ
sự vô tâm (neglect), hay sự thờ ơ, dửng dung, khi một người được
giao trách nhiệm quan tâm, chăm sóc cho người khác nhưng đã
không thực hiện. Nghiên cứu chi tiết từng loại, chúng ta sẽ nhận thấy
bài viết liệt kê cho chúng ta hàng loạt những dẫn chứng minh họa cụ
thể cho từng hình thức bạo hành. Một câu hỏi đặt ra cho chúng ta là
bạo hành xuất hiện từ lúc nào?
Tìm về căn nguyên của hành vi bạo lực, trước hết mỗi người
chúng ta hãy tìm về quá khứ, chúng ta sẽ nhận thấy chấn men nguy
hại này xuất hiện ngay từ những ngày đầu của lịch sử nhân loại. Kinh
Thánh Cựu ước của công giáo trong những chương đầu của sách
Sáng thế kí đã kể về việc vì hơn thua và muốn chiếm ưu thế mà ông
tổ Cain đã dùng bạo lực giết chết chính người em ruột mình là Aben.
Chúng ta có thể xem đây như là minh chứng cho thấy tính bạo lực là
một bản năng tồn tại tiềm ẩn trong tất cả mỗi người như một lượng
thuốc nổ chỉ đợi chất kích thích để bùng phát. Vậy đâu là nguyên
nhân kích thích các hành vi bạo lực? Tìm đọc các trang mạng với
nhận định của các chuyên viên tư vấn, chúng ta có được một số cách
lí giải sau: do tuyệt vọng khi bị áp bức, phân biệt đối xử, tách biệt
khỏi xã hội, hoặc cảm thấy bị dồn vào bước đường cùng, do hùa theo
đám đông, như thường thấy trong các sự kiện thể thao, được ví như
hiệu ứng đô-mi-nô với việc hành động cách vô thức và tự phát; do
hận thù và đố kị như trường hợp của Cain; do nghiện rượu và ma túy,
làm hại thể chất, tinh thần, gây ức chế trung tâm thần kinh não bộ
nên dễ hung bạo hơn khi bị khiêu khích; do hệ thống pháp lý lỏng
lẻo, không đưa ra được những biện pháp đúng mực; do nhận thức tôn
giáo sai lệch dẫn đến bạo lực giữa các giáo phái và nạn khủng bố do
phân biệt chủng tộc cực đoan và cuồng tín. Những nguyên nhân đưa
ra ở trên dường như vẫn chưa đủ để làm thỏa mãn chúng ta, vì thực

405
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
tế cho thấy nguyên nhân bạo lực diễn ra bất biến theo một chu kì
không nhận định và để hiểu được nó cách đầy đủ chỉ có thể xem xét
ở từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, với cái nhìn chung từ góc độ
tâm lý, theo nhận định của tiến sĩ Gershen Kaufman, việc một cá
nhân thực hiện hành vi bạo lực xuất phát từ việc người đó cảm thấy
xấu hổ. Sự xấu hổ, mặc cảm hay tự ti về bản thân khiến cho cá nhân
người đó lúc nào cũng cảm thấy bị coi thường, dẫn đến hành động và
suy nghĩ phải làm mọi cách để lật đổ người khác, chiếm ưu thế và
điều khiển họ theo những cách thức có thể làm được bất chấp những
chuẩn mực và quy định của xã hội.
Với việc không còn để những nguyên tắc xã hội chi phối và tác
động, người thực hiện hành vi bạo lực để lại nhiều hậu quả không
hay, nếu không muốn nói là nguy hiểm, trước hết là cho người bị bạo
hành, kế đến là cho cộng đồng, xã hội và cuối cùng cho cả bản thân
người thực hiện. Nạn nhân của những vụ bạo lực thường bị tổn
thương nghiêm trọng về thể lý, sức khỏe, tâm lý, tinh thần, thậm chí
còn bị giết hoặc tự tử. Những đứa trẻ bị bạo lực, nhất là bạo lực về
tinh thần, bạo lực về ngôn từ thường cảm thấy bị tổn thương tâm lý,
chán nản, lo âu, cô đơn, suy sụp tinh thần. Sự sợ hãi hoặc nỗi ám ảnh
làm thế nào để đối phó những kẻ bắt nạt khiến trẻ bị stress, thậm chí,
tình trạng này có thể kéo dài suốt cuộc đời. Với cái nhìn từ cộng
đồng xã hội, hành vi bạo lực là đáng bị lên án, tuy nhiên vô tình nó
cũng là động lực tiếp thêm chất men kích thích cho một số cá nhân
tiềm ẩn trong mình sự nổi loạn và thích thể hiện bản thân theo một
nhận thức sai lầm. Chúng ta có thể nhận thấy điều này rõ ràng với
việc một số bộ phận giới trẻ ngày nay dễ bị ảnh hưởng bởi tính bạo
lực bởi phim ảnh, các trò chơi, cũng như các sản phẩm văn hóa mang
tính không phù hợp từ các nước và các nền văn hóa khác. Cũng xin
nói thêm, bản chất của văn hóa là tốt đẹp, nhưng với cách nhìn nhận

406
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
sai lạc sẽ dẫn đến những hành động sai lầm và tai hại. Hậu quả để lại
nơi người thực hiện hành vi bạo lực chia làm hai hướng. Thứ nhất,
nếu không có biện pháp ngăn ngừa và quản chế, cá nhân thực hiện
hành vi bạo lực sẽ trở nên khó điều khiển hơn với những cách thức
tinh vi và nguy hiểm hơn. Trái lại, nếu được nhận diện và kiểm soát
kịp thời với các biện pháp tâm lý cũng như cưỡng chế theo pháp luật
thì nhìn chung kết quả có thể thay đổi theo chiều hướng tích cực và
khả quan.
Đứng trước một thực trạng và vấn nạn của xã hội như thế chúng
ta buộc phải sống với thực tế, dù đã có những quy định xử phạt về
hành vi bạo lực, chẳng hạn như đọc qua quy định pháp lý về hành vi
bạo lực gia đình, chúng ta cũng chỉ có thể nhìn thấy các thức xử lý
chung duy nhất là xử phạt hành chính theo từng mức độ. Liệu giải
pháp như thế có mang tính hiệu quả? Bản chất của bạo lực luôn là
điều xấu, nói như Mahatma Gandhi: “Tôi phản đối bạo lực vì khi nó
định làm điều thiện, điều thiện chỉ là tạm thời, còn cái ác nó gây ra là
vĩnh viễn”. Nhận diện được bản chất thật của bạo lực, từ đó mỗi
người chúng ta suy nghĩ và chung tay cùng cộng đồng để loại trừ
những hành vi bạo lực trong mọi cách thức có thể, chứ không nên
dung túng cho những hành vi như thế. Một trong những giải pháp tối
ưu là “lấy nước trị lửa” và “lấy nhu diệt cương”. Đối lập với bạo lực
là hòa bình và tình yêu. Chỉ với việc giúp tìm lại tình yêu với các giá
trị cuộc sống, chúng ta mới hy vọng thay đổi được nhận thức của
người thích thú với bạo lực. Điều này phù hợp với quan điểm của
Deepak Chopa: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là biến đổi
ý thức của mình để bạo lực không còn là một lựa chọn trong cuộc
sống cá nhân, để hiểu rằng một thế giới hòa bình chỉ có thể có được
nếu chúng ta coi nhau như những con người hòa bình, từng cá nhân
một”. Nói đến điểm này, chúng ta nhớ đến một khung cảnh rất đẹp

407
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
trích trong sách Isaia chương 11, từ câu 6 đến câu 8 với nội dung về
một thế giới hòa bình khi mà con người và vạn vật cùng vui sống
trong hạnh phúc và yêu thương. Nhiều người sẽ nói rằng đây chỉ là
khung cảnh mơ mộng và viễn tưởng, nhưng điều gì ngăn cấm chúng
ta ước vọng về một thế giới tốt đẹp, thay vì chán nản và thất vọng với
thực tế cuộc sống còn nhiều bạo lực và đau khổ.
Để khép lại bài viết, một lần nữa chúng ta cùng nhìn lại thực
trạng của vấn đề mà chúng ta nói tới với nhận xét của Abanar
Rooseve: “Hận thù và bạo lực không thể chỉ ở một phần của thế giới
mà không gây ảnh hưởng lên phần còn lại.”. Trong thế giới vật chất
luôn tồn tại hai mặt đối lập, tốt và xấu, và bạo lực là một khía cạnh
hoàn toàn xấu, với những hệ quả ảnh hưởng đến bản chất tốt đẹp vốn
có của thế giới. Có người sẽ lập luận rằng việc sử dụng bạo lực nhằm
đem lại sự trật tự và hòa bình, theo quan điểm của bạo lực chính trị,
vũ trang. Tuy nhiên đó cũng chỉ là vỏ bọc bên ngoài, vì hòa bình
thực sự thì không bao giờ đem đến chiến tranh hay chết chóc, mà
theo Ralph Waldo Emerson hòa bình chỉ có thể đạt được qua sự chia
sẻ và hiểu biết lẫn nhau. Với cái nhìn lạc quan, chúng ta hãy luôn tin
tưởng và tìm thấy những giá trị tốt đẹp ngay cả trong những hành vi
bạo lực để nhận ra sự đa dạng và vẻ đẹp của cuộc sống mà chúng ta
đang được hưởng dùng, vì đó là món quà tặng vô giá và sẽ không có
cơ hội để nếm trải lần hai.
Nguyễn Đức Nghiệp

408
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài:Hãy bình luận câu nói: “hãy yêu đi rồi thì muốn làm
gì thì làm”(thánh Augustinô)
Bài làm
Trải qua những năm tháng của cuộc đời, có thể thật ít người đưa
ra một định nghĩa cách trọn hảo về tình yêu. Dù bằng chính kinh
nghiệm của bản thân hay mảnh đời khác, con người vẫn khao khát
một tình yêu đích thực. Bởi lẽ, chỉ có tình yêu mới khóa lấp tâm hồn
và làm thăng hoa cuọc đời họ. Thánh Augustinô một vị thánh tài ba
của Giáo Hội Công giáo đã giám đưa ra ý kiến “Hãy yêu rồi muốn
làm gì thì làm”để khẳng định con đường thỏa mãn nỗi khao khát lớn
lao ấy của con người. Bằng những thăng trầm của cuộc đời, biến cố
được thi ân và tấm lòng tri ân, thánh nhân quả quyết về cuộc đời
hạnh phúc đích thực , là được yêu và được làm. Như thế, thời đại
chúng ta ngày nay có thích hợp với cách sống ấy chăng, khi câu nói
này đã trải qua bao thể kỷ?
Trước hết, chúng ta cần phải nhìn nhận cách khách quan về giá
trị của tình yêu trong đời sống con người. Cũng như mối liên hệ mật
thiết giữa tình yêu và hành động dưới nhãn quan hiện thực.
“Yêu” chỉ trạng thái tâm lý của con người. Mà ở đấy, con người
cảm thấy dễ chịu, hạnh phúc khi tiếp xúc, gắng bó với một đối tượng,
một sự vật nào đó. Như thế, yêu chính là một nhu cầu tinh thần
không thể thiếu đối với con người, khi cuộc sống không phải là sự
tồn tại độc lập của một cá nhân bất kỳ, mà chính là sự đồng hành
giữa con người với con người. Điều này thể hiện ở cách sống, nghĩa
là con người biết hành động để thể hiện tình yêu của chính mình cho
người khác. Qua đó, câu nói của Augustinô đã nhấn mạnh đến vai trò
của tình yêu trong đời sống, yêu gắn liền với hành động. Cách mạnh
mẽ hơn, mọi ước muốn và mọi hành vi của con người.

409
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Với suy nghĩ của mình, tác giả đã đề cao và dành vị trí đệ nhất của
“tình yêu” trong cuộc sống, vì thực tế cho thấy, con người sống là vì
yêu. Vậy, tại sao con người phải cần có tình yêu? Có thể chúng ta
nghiệm ra tình yêu là một điều cao quý và thiêng liêng mà Đấng Tạo
Hóa đã dồn năn trong mỗi người chúng ta. Con người biết yêu và khả
năng ấy có sức mạnh mãnh liệt đến nỗi khiến họ vượt qua nhưng rào
cản, trở ngại của bản thân. Mà đối với tác giả, thánh nhân cảm nghiệm
sâu sắc về điều này từ tình yêu của Thiên Chúa. Lòng muốn, khát khao
được yêu của Người khiến người vượt qua ranh giới thần thánh phàm
nhân để để đem cho con người tình yêu, như một vị thánh đã từng nói
“ Thiên Chúa hạ mình xuống làm người để nâng con người lên Thiên
Chúa”. Như thế, yêu chính là khả năng lớn lao để con người khám phá
ra giá trị tốt đẹp của bản thân và của người khác.
Đàng khác, con người thừa hưởng sự phong phú của tình yêu từ
nơi Thiên Chúa, để mang trong mình nhu cầu yêu và được yêu. Yêu
không phải chỉ là làm mọi thử, nhều cách để kiếm dành cho bản thân
niềm vui hạnh phúc, nhưng yêu còn chính là làm để người khác được
hạnh phúc. Và đấy chính là sự hi sinh tự hiến trong tình yêu. Yêu
thực sự làm cho mọi suy nghĩ, việc làm của mỗi con người quên đi
cái tôi ích kỷ, nhưng nhu cầu tự đắc để rồi nên khiêm tốn hơn, vị tha
hơn, dồi dào hơn. Hãy nhìn hình ảnh đứa con thơ nép mình bên lông
người mẹ để cảm nghiệm về yêu và sống! Không phải chỉ đơn thuần
nơi bầu sữa ngọt lành hay tiếng ru “à ơi”của người mẹ, nhưng do
chính tình yêu đích thực mà bà đã dành cho nó qua mọi cử chỉ, việc
chăm sóc, nâng đỡ, đến nỗi nó chỉ “bén hơi” bà chứ không phải ở một
người mẹ khác. Như Đức kitô, yêu chính là làm tất cả bằng trạng thái
nội tâm để lôi kéo và gắn kết con người lại với nhau. Vô hình trung,
khi chúng ta làm mọi điều có chứa đựng tình yêu, không chỉ chính bản
thân mà người được trao gửi hành động đó cũng đều hạnh phúc.

410
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Vậy, hành động mang lấy tình yêu có giá trị như thể nào trong
cuộc sống ngày hôm nay? thiết nghĩ, không chỉ ở cuộc sống hiện tại,
mà ở mọi thời đại tử cổ chỉ kim. “Hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì
làm” vẫn luôn đúng bởi nó phán ánh rõ nét chất hiện sinh của con
người và cuộc đời. Hắn chúng ta vẫn còn không hết bàng hoàng và
đau xót về sự kiện nhà báo trẻ james Foley bị nhà nước Hồi giáo(is)
tử hình các dã man vào 19/08/2014 vừa qua. Chúng ta tự hỏi. “Sao
anh ta can đảm chấp nhận cái chết ấy mà lòng không sợ hãi, thoái lùi
như thế?” Và câu trả lời có thể nhận ra chính tình yêu tiếp sức mạnh
cho anh để anh dám đương đầu cách kiên cường hành động cảm tử
ấy không là điên rồ, vô nghĩa khi anh muốn dùng cái chết ấy để nói
lên tình yêu của bản thân đối với đất nước, gia đình và tình yêu của
con người khao khát công lý hòa bình. Qua đó, chúng ta nhận ra yêu
không làm mờ mắt, lạc lối con người nếu đó là yêu đích thực. Tình
yêu chứa đựng trong hành động giúp con người bất chấp cách khôn
ngoan cho tất cả, để từ bỏ những gì là của chính mình, kể cả lợi ích
và tính mạng, nhằm ch điều mình yêu, việc mình quý và đối tượng
mình mến được trọn vẹn ý nghĩa và hạnh phúc. Giá trí của việc làm
thể hiện ở cường độ yêu thương. Tình yêu sẽ mách nước cho chúng
ta biết phải làm gì để mang lại những điều tốt đẹp cho người mình
yêu thương và cho xã hội.
Từ đây, chúng ta sẽ cảm nhận rõ sự khác biệt giữa tình yêu có
hành động và tình yêu không hành động, Yêu rồi để làm thể hiện sự
tăng tiến ý thức của con người về sự vô lợi nhuận trong tình yêu. Họ
sẽ làm điều họ muốn một cách hăng say, miệt mài, đầy khôn ngoan
và sáng suốt. Cách nào đó, họ biết quên mình, hi sinh tư lợi và sống
cho ước mơ, lý tưởng hay người mình yêu mến. Đấy chính là tâm
huyết, hi vọng và hạnh phúc của tình yêu chân thực. Ngược lại, người
yêu mà không dám làm là người sợ mình phải hao mòn, thua thiệt khi

411
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
hết yêu và hi sinh. Người ấy chỉ biết giữ khăng khăng điều gì là tốt
cho riêng mình, chỉ biết thu vét cách ích kỷ từ người khác. Và đó
chính là tình yêu vô nghĩa, hiểu sai, vì yêu phải sống, phải làm.
Như thể, chúng ta phải làm gì để yêu cho đúng? Vì khi yêu đúng
cúng ta sẽ làm đúng để hạnh phúc được trào tràn trong cuộc đời mỗi
người. Vì thế, tình yêu nơi chúng ta cần phải được học hỏi để nó
được nuôi dưỡng và lớn lên trong mỗi người. Việc học hỏi ấy không
thuần ở ngồi bàn, đọc sách, nghe giảng nhưng hệ tại ở việc con người
được bòi đắp tình yêu nơi gia đình, nhà trường, xã hội ngay từ khi
còn nhỏ. Chính sự đáp ứng nhu cầu được yêu sẽ giúp con người phát
triển khả năng yêu tha nhân, củng cố niềm tin nơi con người vào ý
nghĩa tốt đẹp của cuộc sống, sống hòa hợp với thiên nhiên và cộng
đồng Ngay thừ đó, gia đình cần có tình yêu, làng xóm, xứ đạo và xã
hội cũng cần có tình yêu. Vì đây không chỉ là nơi vun đắp tình yêu
cho con người mà còn là nơi mà con người biết yêu thương, gắn kết,
chia sx và sống tiến bước cùng nhau vì tương lai tốt đẹp. Như chính
cố tổng thống Apbramham Lincoln(1809-1865) khi đã dạy con mình
biết yêu quý sự thật, phẩm giá bản thân và người khác trước khi yêu
việc học tri thức để sống có ích. Cũng thế, chẳng có bài giảng về tình
yêu và làm hay hơn cho bằng việc Đức Thánh Giáo hoàng
Phaolo(1920-2005) đã dám bán đi chiếc nhẫn như phú quý giá để
giúp mẹ Têrêxa chăm sóc người nghèo ở Ấn Độ. Vì thế, để yêu đúng
con người cần biết học hỏi về cuộc đời, về ước muốn, nhu cầu của
con người nhằm thấu đạt về tình yêu. Đó là cách duy nhất đem lại
lợi ích, hạnh phúc đích thực cho con người, chứ không thuần tại tâm
bản thân.
Theo tâm lý của Augustino, tình yêu dẫn trước cho việc làm của
con người. Đúng hơn, tình yêu làm cho con người hành động, sống
đúng để cuộc sống mình và người khác có ý nghĩa. Bài ca đức mến

412
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
của thánh Phaolo tông đồ cũng nói lên tình yêu đích thực là thể nào
“Giá như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân
xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng có
ích gì cho tôi”(Cr 13,3). Như thế, trong bối cảnh ngày nay, tình yêu
đích thực được hiểu trên nền tảng tâm ý của thánh nhân là thứ tình
yêu được hành động vì được đặt để nơi đối tượng khác, ngoài bản
thân, sự thật với bề dày của truyền thống tình yêu quê hương, phụ tử,
phu thê đã chứng minh điều ấy. Con người dám quên đi cá nhân để
hướng đến nhu cầu, lợi ích rộng lớn hơn. Não trạng về đời sống tình
yêu sai lạc là thách đố lớn trong thời đại ngày hôm nay, vì nó đi
ngược lại ý muốn của Thiên Chúa và lẽ tự nhiên của con người.
Không ít thanh thiếu niên chỉ biết yêu để thỏa mãn nhu cầu thân xác,
đáp ứng khát vọng bản thân và làm tổn thương người khác. Việc đề
cao chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tiêu thụ…khiến con người thiên
lệch về bản thân chú trọng đến quyền lợi trước tiên cho mình. Có lẽ,
thật sai lầm nếu chúng ta chỉ chú trọng đến “làm” là điều chính yếu
“làm để vì yêu”. Bởi vì, chúng ta sẽ quên hẳn đi sự hi sinh, cho đi của
việc yêu trong hành động và kết quả xảy ra chắc chắn là sự đổ vỡ, tan
nát niềm vui, hy vọng, hạnh phúc của bản thân và tha nhân. Với bao
con người đi qua nhưng danh thơm tiếng tốt của họ vẫn để cho đời về
một tình yêu dám hành động: Công nương Piana Martin Luther King,
sư tổ Huệ Năng, và nhất là chính Đức Kitô. Chắc hẳn, người là Đấng
tình yêu cho thế gian và cho chính mỗi người chúng ta, những người
được mời gọi sống đời dâng hiến vì tình yêu con người.
Dù ở thời đại nào, con người cũng đều khao khát tình yêu và
sống cho tình yêu-vì đấy là hạnh phúc đích thực. nhưng con người sẽ
chẳng bao giờ đạt đến ý tưởng ấy nếu họ không biết hành động hay
chỉ làm cho chính mình. Vì thế, câu nói của thánh Augustino: “hãy
yêu đi rồi muốn làm gì thì làm” vẫn luôn là một lời khuyên đúng đắn,

413
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
sâu sắc. Vì thánh nhân khôg chỉ đề cao tầm quan trọng của tình yêu
mến mà ở tầm vĩ mô. Yêu và biêt sống mới làm nên một cuộc sống
đích thực. Yêu và biết làm chính là tình yêu chân chính, như Đức
thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo đã nói: “tình yêu chân chính không
phải là mớ tình cảm hỗn độn hay những nỗi đam mê mù quảng, mà là
toàn bộ trạng thái nội tâm nhằm lôi kéo một con người, biến họ thành
con người của hạnh phúc và biết yêu thương bằng chính đời sống của
mình” (vượt qua ngưỡng cửa hy vọng).
GB Nguyễn Hoàng Sơn

414
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Bình luận ý kiến “Hãy yêu mến rồi muốn làm gì
thì làm”
Bài làm
Có người nói: “Con người là một hữu thể có tương quan” thật
vậy, cuộc đời được tạo nên từ một chuỗi những mối tương qua. Con
người ta chỉ được gọi là thành công trên đời khi chúng ta thành công
trong các mối tương quan. Chúng ta, ai cũng muốn yêu và được yêu.
Và khi yêu, chúng ta cũng đặt vào tình yêu một mối tương quan hay
nói cách khác, chúng ta đặt vào tình yêu một mối quan hệ biện chứng
giữ tình yêu và hành động. Có tình yêu vì tư lợi, đặt nền tảng trên sự
giá cả, họ đặt lợi ích của mình trên tình yêu. Cũng có tình yêu đặt
trên tương quan nền tảng của sự chân thành, cảm mến. Thánh
Augustino nói: “Hãy yêu mến rồi muốn làm gì thì làm”.
Vậy nhận định của Thánh nhân có đúng và hợp thời không?
Chúng ta phải hiểu nhận định này như thế nào? Có những cách hiểu
nào và ta cần hiểu nhận định này như thế nào?
Hỏi ai định nghĩa được tình yêu là gì? Thật vậy, tình yêu là một
phạm trù tình cảm vô cùng mông lung trừu tượng và rất khó hiểu mà
chỉ có người trong cuộc mới hiểu và định nghĩa được mà thôi. Chúng
ta có thể định nghĩa cách khái quát yêu mến là trạng thái tình cảm tha
thiết, cảm thấy dễ chịu khi tiếp xúc với người mình yêu, muốn gần
gũi, quan tâm và luôn sẵn sàng và luôn hết lòng vì họ. Muốn làm là
ước muốn làm một việc gì đó, là đắp vào những việc gì đó, có thể
những công việc đó khác nhau, nhưng nhắm đến một mục đích nhất
định nào đó.
Hãy yêu mến rồi muốn làm gì thì làm mang ý nghĩa, hãy có tình
yêu, đặt tình yêu cho việc đó trước khi làm việc. Từ việc đặp tình yêu
vào công việc thì tự tình yêu sẽ chỉ lối đưa đường cho công việc và
khi đó, tình yêu sẽ thúc đẩy công việc của chúng ta. Một tình yêu

415
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
chân chính sẽ có những hành động chân chính và rồi lúc đó ta muốn
làm gì thì làm.
Tình yêu hay yêu mến là một nhu cầu mà ai cũng cần có. Nó là
thứ tình cảm tuy vô hình nhưng hằng hữu, không nhìn thấy nhưng
cảm nhận rất rõ rệt. Chúng ta nhìn thấy điều này nơi tình yêu của đôi
nam nữ, cho dù không nói ra, hai bên chưa thổ lộ với nhau, nhưng
những người thân cận của họ đều thấy được họ đang yêu nhau. Nhà
văn Nam Cao trong tác phẩm “Đời thừa” đã khẳng định : “Tình
thương là lẽ sống, là tiêu chuẩn làm người lớn nhất. Một con người
có lòng yêu mến là phải biết quan tâm, chăm sóc những người thân
yêu nhất của mình.”
Chúng ta thấy được, khi yêu ai, chúng ta thường có hai khuynh
hướng hoặc là “hưởng thụ” hoặc là “quỵ ngã”.
Tình yêu hưởng thụ, nghĩa là tình yêu đặt người mình yêu là trên
hết, một tình yêu thực sự chúng ta sẽ dể dàng thấy họ sẽ làm mọi sự
cho người mình yêu mến được vui vẻ, hạnh phúc, cảm thấy được yêu
chiều chuộng, được quan tâm. Chính những việc chúng ta làm cho
người mình yêu mến thì mọi người có thể cảm thấy, nhìn thấy. Thật
thế, khi yêu mến thật lòng, chúng ta có những hành động và những
việc làm chính chúng ta không hiểu nỗi. Đây là tình yêu, sự yêu mến
mà ai cũng muốn hưởng và có quyền được hưởng. Trong thơ của tác
giả Tố Hữu có câu:
“Có gì đẹp trên trời hơn thế
Người với người sống để yêu nhau”
Thật thế, mối tương quan, tình liên đới của con người với nhau là
điều thiết thực và chính là điều thể hiện tính người nhất. Khi chúng ta
sống “hưởng thụ” chúng ta thấy quả thực khi yêu rồi thì người ta có
thể “Muốn làm gì thì làm” miễn sao người chúng ta yêu mến được
vui vẻ. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải chú ý người quanh ta, vì thế

416
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
giới này không phải chỉ có “hai chúng mình”. Khi chúng ta đặt tình
yêu vào công việc thì chúng ta dễ dàng tìm được niềm vui trong việc
ta làm và chắc chắn chúng ta làm sẽ không so đo tính toán, ta sẽ cảm
thấy thoải mái, bình an và vui vẽ trong kinh nghiệm yêu và được yêu,
ta cũng dễ dàng thấy cuộc đời này có nghĩa hơn.
Đức thánh cha Benedicto XVI của chúng ta trong một bài giảng
lễ đã nói : “Chúng ta luôn cố gắng cải thiện khả năng tri thức của
chúng ta nhanh chóng và dễ dàng hơn khả năng yêu thương của
chúng ta, bởi vì kiến thức tự động nó sẽ biến thành sức mạnh, còn
tình yêu thì tự biến thành phục vụ”. Đức thánh cha cho chúng ta thấy
khi yêu thương thì tự nó sẽ biến yêu thương thành hành động và tình
yêu mến là nguồn gốc của sự hiệp nhất. Mẹ Terexa thường lặp đi lặp
lại câu : “tình yêu tự nó không giữ lại được cho mình, nếu khác đi thì
nó không có nghĩa. Tình yêu phải biến thành hành động và hành
động đó là phục vụ”. Hoặc theo Đức Giám mục Pet Nguyễn Văn
Khảm: “Tình yêu hủy mình ra không, tình yêu chấp nhận hy sinh,
tình yêu thôi thúc phục vụ, tình yêu dẫn lối cuộc đời”.
Vậy thì chúng ta còn gì phải nghĩ về sự đúng hay sai của nhận
định của thánh Augustio: “Hãy yêu mến đi rồi muốn làm gì thì làm”.
Mẹ Terexa thành Calcutta xác quyết điều này như sau: “ Tôi muốn
bạn, sự hiện diện của bạn kìa. Hãy để sự hiện diện của bạn chiếu tỏa
tình yêu dành cho Thiên Chúa, bởi vì công việc là cái gì? Việc chúng
ta làm là gì? Đó là tình yêu dành cho Chúa biến thành hành động.
Tôi dâng hiến cuộc đời tôi cho Chúa, tôi yêu Chúa như thế nào? Tôi
không thể phung phí cả ngày để nói: “Lạy Chúa, tôi yêu mến Chúa”.
Lời đó thì chưa đủ, nhưng việc làm, việc phục vụ những người bất
hạnh, tật nguyền mới là tình yêu của tôi dành cho Chúa trong hành
động”. Đối với chúng ta cũng thế, trong gia đình, chúng ta yêu nhau
như thế nào? Chỉ nói thôi sao? Chắc chắn là không rồi. Chúng ta phải

417
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
làm mọt điều gì đó và điều chúng ta làm là điều dành cho Chúa và
tha nhân. Vì vậy, chúng ta thấy được mối quan hệ biện chứng giữa
tình yêu mến với việc làm. Và câu nói của thánh Augustino như một
âm vang phủ quát của tình yêu và đi vào đời sống cách gần gũi.
Mối quan hệ giữa tình yêu và hành động thì chúng ta đã phần nào
hiểu được , nhưng cũng có những người nhân danh “tình yêu” để làm
những điều trái với luân thường đạo lý.
Trong tình yêu nam nữ người ta nhân danh “tình yêu” để đòi hỏi
quá đúng. Họ đòi cho mình cái quyền thỏa mãn nhu cầu thực tại mà
quên mất tình yêu không phải những điều đó là cùng đích. Họ nhân
danh “tình yêu” để biện minh cho thái độ sống buông thả của mình
và hậu quả của một tình yêu bồng bột là một hậu quả vô cùng lớn.
Những điểm đã nêu lên trong thời đại ngày nay, thời đại của công
nghệ và văn minh, nhưng lại mang trog đó những trào lưu đối nghịch
với sự sống, một xã hội đề cao chủ nghĩa cá nhân tuyệt đối. Họ đã
can thiệp để đảo lộn tính tự nhiên. Họ can thiệp vào sự sống, phải
tỉnh, vào hình thể tự nhiên của con người. Từ đó phá vỡ tình yêu hôn
nhân tự nhiên là sự kết hợp tự nhiên của một người nam và một
người nữ. Biểu hiện là phá thai, kết hôn đồng tính…Vậy thì có phải:
“Hãy yêu mến đi rồi muốn làm gì thì làm” không? Ngày nay, mỗi
người đang chủ trương làm điều mình thích, nên người ta hoặc không
yêu ai ngoài cá nhân mình hoặc không yêu gì cả. Như vậy, hôn nhân
gia đình còn nghĩa lý gì nữa đối với họ. Họ tự cho mình áp dụng
khoa học, vận dụng khoa học sáng tạo ra trăm cách để sưởi ấm vào
mùa đông, bằng cách đặt máy sưởi, máy điều hòa mà quên mất rằng,
ở bên nhau thôi là cách sưởi ấm tốt nhất. Người ta khổ vì thương
không phải cách yêu sai và mến chẳng nhầm người, có kho tàng
nhưng tặng chẳng tùy người và người khổ vì xin không phải chỗ.

418
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Cũng có câu “yêu là đấu tranh”, phải dành lấy hạnh cho bản thân,
nhưng nó không đồng nghĩa với việc đập phá, dành giật hạnh phúc
của người khác làm của mình. Nhiều người trẻ ngày nay vứt bỏ cái sĩ
diện vào thùng rác. Họ hiên ngang cướp lấy hạnh phúc của người
khác và cho mình là người mạnh, mình tài giỏi. Họ đã nhân danh
“tình yêu” để đạp vỡ hạnh phúc của người khác. “Thừa nước đục thả
câu” thì không phải là tình yêu.
Chúng ta cũng nhắc đến một khía cạnh của cuộc sống khá nhức
nhối hiện nay đó là nhiều người, tổ chức nhân danh tình yêu để bóc
lột sức lao động của các em nhỏ, những người tàn tật, già cả. Họ che
đậy bộ mặt xấu xa của họ bằng nhiều cách để “muốn làm gì thì làm”
và như thế thì họ đã không yêu trước khi làm.
Trong đời ta chúng ta phải sống và làm việc vì yêu mến Đức Giê-
su trước. Chúng ta phải yêu như Đức Giê-su yêu, một tình yêu trao
ban chính mạng sống người mình yêu. Trong thư của Thánh Gioan
đã nói “Anh em hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên
Chúa”(1Ga 4,7). Và Thiên Chúa đã sai con một Ngài đến làm của lễ
đền tội cho chúng ta. Thiên Chúa yêu chúng ta như thế nào, chúng ta
cũng phải yêu thương nhau như vậy (1 Ga 4,10-11). Tình yêu của
Đức Giê-su là tình yêu tuyệt đối, tình yêu của người hy sinh tính
mạng vì bạn hữu (Ga 15,13).
Tình yêu, thứ tình cảm hình như khó hiểu nhưng đẹp. Nó đẹp ở
bản chất và sinh ra hành động. Từ tình yêu, người ta có thể làm thơ,
viết kịch, đàn hát vẽ về nó. Có nhiều cách diễn tả tình yêu. Có ngừoi
nói có nhiều cách diễn đạt khác nhau để nói lên cùng một sự việc.
Trong trường hợp câu nói của Thánh Augustino thì ngược lại, cùng
một nội dung là yêu thương, yên mến mà mỗi người có một cách
hiểu khác nhau. Và chúng ta phải thấy tùy thuộc vào cách hiểu về
tình yêu mà có những hành động khác nhau. Chúng ta có thể hiểu

419
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
nhận định của Thánh Augustino ngắn gọn như sau: “Hành động
nào của con người cũng vì yêu thương, nhưng vấn đề là mỗi con
người hiểu yêu thương một cách đúng đắn nhất mà thôi” và nhận
định của Thánh Augustino luôn đúng và đúng trong mọi tình yêu
và mọi thời đại.
Trong đời tu, tôi luôn đặt tình yêu của mình và cố gắng rập
khuôn đời mình theo gương Thầy Giê-su, để đời sống hiện tại và sau
này phản ánh một Đức Kitô khác nơi bản thân tôi. Và Đức Giê-su nói
“ Triều đại Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta” (Lc 17,21). Nên chúng
ta phải sao cho tình yêu của chúng ta luôn cho mọi người thấy họ
đang sống trong nước trời.
Jos Trần Văn Chinh

420
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài :Bình luận nhận định sau: “cái đáng sợ nhất trên
đời chính là công lý bị tách rời khỏi lòng nhân ái”.
Bài làm
Có một danh nhân đã từng nói: “Thời gian là nhà cải cách vĩ đại
nhất”. Quả vậy, theo dòng chảy của thời gian mọi sự sẽ được kiểm
chứng, đánh giá và chắc chắn một điều sẽ có sự đào thải những gì
không hợp với hoàn cảnh, với thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, có một
điều mà không bao giờ mất đi, dù cho thời gian có trôi đi, đó chính
là lòng nhân ái”.
Còn gì trên đời đẹp hơn thế
Người với người sống để yêu nhau
Lòng nhân ái đọc tự viên ngọc, thơm ngát tựa hương hoa và bền
vững trường tồn. Bởi thế có người đã nhận dịnh rằng: “Cai đáng sợ
nhất trên đời chính là công lý bị tách rời khỏi lòng nhân ái”. Chúng
ta cùng tìm hiểu tại sao tác giả lại không sợ thứ gì hơn mà lại sợ
“Cong lý”tách rời khỏi “ lòng nhân ái”.
Nhưng trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu công lý là gì? và lòng nhân
ái là gì? trải qua mọi thời, mọi nơi, xã hội loài người luôn luôn tồn tại
một tổ chức quyền lực và họ có nhiệm vụ bảo đảm cho xã hội phát
triển trong một trật tự và công bằng. những tổ chức này có nhiệm vụ
bảo đảm cho công lý được thực hiện, giữ cho cán cân quyền lực ổn
định, và xóa bỏ dần những bất công, tránh tình trạng “người bóc lột
người” hay “cá lớn nuốt cá bé”. Từ đó, ta có thể rút ra được một khái
niệm về công lý đó là cái lẽ phải phù hợp với cái lợi ích chung của xã
hội, cái lẽ phải này đảm bảo cho luật pháp được thi hành bằng một tổ
chức, hay cơ quan có quyền lực.
Còn lòng nhân ái là gì? đó chính là tấm lòng yêu thương của con
người, là hương thơm tinh túy nhất để kéo con người lại gần với
nhau là nụ cười có thể ban tặng cho bất cứ ai vào lonhf nhân ái chứ

421
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
không phải gì khác làm cho cuộc sống chúng ta đáng sống và có ý
nghĩa hơn.
Công lý và lòng nhân ái là hai yếu tố quan trọng nhất đảm bảo
cho một xã hội phát triển bền vững và tốt đẹp. Đó là hai gam màu
đen trắng tưởng chừng như đối lập nhưng nó đã tạo ra một bức tranh
hoàn chỉnh cho cuộc sống chúng ta. Cũng vậy, tác giả muốn nói rằng
thật là khủng khiếp cho con người nếu người ta chỉ lo thực thi công
lý mà bỏ quên đi lòng nhân ái. Khi ấy, bức tranh cuộc sống sẽ toàn
một màu đen và con người sẽ ra sao khi sống trong ánh sáng không
có tình người.
Mahatma Ganhdi đã nói: “những kẻ chỉ biết cậy dựa vào sức
mạnh mà thiếu tình yêu cuối cùng sẽ thất bại”. Từ đó, chúng ta thấy
rộng ra sự thất bại nếu người cha người mẹ trong một gia đình chỉ
dạy con bằng roi bằng vọt; một ttỏ chức quản lý nhân viên bằng
những hình thức kỷ luật. Hay một nhà nước quản lý nhân dân danh
quyền lực và hình phạt mà không có tình người. Rất tiếc là trong xã
hội ngày hôm nay người ta đang dùng công lý như một phương tiện
để cai trị và giống như một chiếc đinh đóng cố định và trong đầu
những con người quản lý, những tổ chức,những cơ quan nhà nước.
Người ta đọc luật và đưa vào áp dụng như một cái máy và không
phân biệt con người hoàn cảnh hay điều kiện thực tế của họ. Hậu quả
là gì? Chúng ta không khó để thấy có những học sinh sau khi bị kỷ
luật buộc thôi học quay lại trả thù thầy giáo. Người ta nói rằng tuổi
học sinh là thất bại của giáo dục, tuy nhiên chúng ta sẽ bàn sau
những vấn đề về những học sinh cá biệt, nhưng trước hết hãy nhìn
vào đội ngũ những người thầy, người cô. Tại sao những học sinh này
bị đuổi học? Phải chăng là chúng ta đang làm đúng nhiệm vụ của
một người theo luật, chúng ta không sai với luật, nhưng sai với chính
lương tâm chúng ta. Thử hỏi những người thầy, người cô đã thực

422
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
hiện đúng những điều các em lĩnh hội từ thuở vỡ lòng “cô giáo như
mẹ hiền” chưa? Có thể các em có những sai phạm, thậm chí là rất
nghiêm trọng, nhưng điều các em cần là tình yêu thương chứ không
phải là việc các thầy cô đuổi học cho rảnh tay. Hãy kiên nhẫn hơn và
hãy thương lấy các em. Đó là lòng nhân ái. Còn nữa, khi mà người ta
chỉ nói chuyện với nhau bằng lí mà bỏ quên tình người thì cuộc sống
chúng ta sẽ mất dần những nụ cười trao cho nhau. Con người suy cho
cùng, dẫu có buôn ba tìm mọi thứ để vun vén hạnh phúc cho mình thì
cuối cùng điều cần thiết là tình người. Quả vậy mà Bill Gates từ
người giàu nhất thế giới muốn trở thành người đạo đức nhất. Thế mà
nhiều người vẫn chạy theo các lí lẽ để lãng quên tình người. Những
cảnh sát toàn án…Đang ngày đêm công lý mà thực thi cũng như đảm
bảo cho pháp luật thực hiện. Hẳn một điều luật trước khi được đưa
vào thực tiễn cũng phải cân nhắc, xem xét ý nghĩa thực tiễn và có
phù hợp với người dân hay không. Thế nhưng, các anh nhiều lúc vì
thực hiện luật mà bắt một bệnh nhân đang cần cấp cứu trên đường
đưa tới bệnh viện, để cuối cùng bệnh nhân phải chết. Đó không chỉ là
thất bại của anh trong nghề, mà anh đang chà đạp lên đạo lí làm
người, bôi xấu cơ quan nhà nước đang quản lí và phụ lòng nhân dân
người phát lương cho anh. Và như thế, luật pháp mà anh đang bảo vệ
đã xa rời thực tế của lòng dân, dễ dàng này sinh sự bất tuân trong
nhân dân. Phải có lòng dân mới có sức cảm hóa và dễ đi vào lòng
người dù cho bất cứ một điều luật nào như Joya Brothers từng nói:
“Sức mạnh mãnh liệt nhất, phi thường nhất trên thế giới này chính là
sức mạnh của tình yêu thương”.
Tình yêu thương là điều quan trọng bổ trợ cho công lí đi vào thực
tại cuộc sống chúng ta. Công lí cần đồng hành với tình yêu thương
trong sứ mạng gìn giữ hòa bình trong thế giới chúng ta. Tình yêu
thương để thứ tha, để cảm thông, để biến những tâm hồn tội lỗi, quay

423
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
về cuộc sống đời thường. Các nhà tù chúng ta đã ân xá cho bao nhiêu
phạm nhân trong các dịp lễ lớn, các phạm nhân ra tù được tạo công
ăn việc làm, tạo điều kiện hòa nhập trở lại cuộc sống. Thử hỏi nếu
không có lòng nhân ái thì họ sẽ ra sao? Bởi đó mà chúng ta thấy tác
giả thật có lí khi cảnh tỉnh cho chúng ta biết đừng để công lí rời xa
lòng nhân ái. Mẫu gương về lòng nhân ái của Thánh Giáo hoàng
Gioan Paul II vẫn còn đó và sức mạnh cảm hóa từ cử chỉ vào tận nha
tù ngay khi tỉnh lại để thăm và an ủi kẻ ám sát mình, thật đáng để thế
giới nói chung và những người đang thực thi công lí học tập. Như
danh nhân Xenophone nói: “Chúng ta hãy khoan dung về những lỗi
lầm của người khác và tha thứ cho kẻ phạm tội thì sẽ lành mạnh hơn
là trừng phạt”.
Tuy nhiên, điều mà chúng ta cũng phải nói đến là vai trò của
“công lí” bên cạnh lòng nhân ái. Mạnh Tử viết rằng: “Chỉ có lòng
thiện thì không đủ sức cai trị, chỉ có pháp luật không đủ sức khiến
người ta tuân theo”. Cho nên bên cạnh lòng yêu thương là một công
lí rõ ràng phù hợp với lòng người. Người ta không thể quản lí xã hội
chỉ bằng tình cảm, đó là điều hoàn toàn đúng. Pháp luật, nội qui, qui
định cùng với các tổ chức đảm bảo thực hiện là điều kiện bảo đảm
thực trật tự xã hội. Chúng ta thấy rằng nếu một gia đình, tổ chức hay
đất nước, luật pháp không nghiêm thì sẽ loạn và kéo theo những hệ
quả khác về kinh tế, văn hóa, xã hội. Người ta nói “kỉ luật là sức
mạnh” là điều kiện duy trì sự nề nếp trong gia đình, nhà trường, xã
hội. Đảm bảo sự công bằng cho mọi người dân trong một quốc gia
hay một vùng lãnh thổ. Quả vậy, nhà nước lập nên cảnh sát, quân đội
thậm chí là nhà tù để ngăn ngừa, bắt giữ, sữa phạt những người vi
phạm pháp luật. Điều này mang ý nghĩa giáo dục những người lầm lỡ
hay đã cố tình phạm tội chống lại nhà nước, chống lại con người. Cơ
quan nhà nước nào cần có nội qui, qui định cũng như thành lập ủy

424
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
ban kỉ luật ngoài ý nghĩa xử phạt những cá nhân vi phạm còn có tác
dụng ngăn ngừa vi phạm. trong những trường hợp này pháp luật hay
nội qui, qui định như hàng rào bảo vệ giữ gìn cho chúng ta tránh khỏi
những vi phạm, tạo lập cho một tác phong làm việc tự giác mang lại
hiệu quả cho không chỉ chúng ta mà cho toàn xã hội. Bởi đó, chúng
ta thấy công lí và những người đang thực thi công lí không phải là
xấu mà là rất tốt. Nó mang ý nghĩa trong việc duy trì và đảm bảo sự
ổn định và sự phát triển cho xã hội và tiền đề để thực thi bác ái và
công bình. Vấn đề của chúng ta là cái tính và cái lí bên cạnh nhau để
hỗ trợ cho nhau. Franklin nói: “Luật mà không khoan dung thì ít
được tuân theo, luật mà không khắt khe thì ít được thi hành”. Hẳn tác
giả cũng như chúng ta ý thức được rằng cái cần là nên để công lí và
lòng bác ái song song tồn tại để trong xẫ hội có được cái lí để hiểu
nhau từ đó phát sinh cái tình người để yêu nhau.
Mặc dầ vậy, chúng ta biết rằng cái tình tức tấm lòng bao dung
giữa con người là cái cuối cùng sẽ còn lại. Cha ông ta không quá khi
nói rằng: “Một bồ cái lí không bằng một tỉ cái tình”. Cái tình người
lớn hơn rất nhiều so với cái lí đời. Mà cũng bởi lẽ thế mà Mauricue
đã không nói cái đáng sợ trên đời là lòng nhân ái bị tách rời khỏi
công lí. Cũng do điều này mà trước bất kì trước vụ án dân sự nào các
cơ quan, tổ chức yêu cầu các bên nguyên đơn, bị đơn hòa giải tức là
nói chuyện bằng tình, trước khi ra tòa án xét xử theo pháp luật.
Chúng ta tin rằng trong sâu thẳm tấm lòng mọi người dù là tội nhân
cỡ nào, vẫn còn những xúc cảm lương thiện vì thế mà khát khao
hướng thiện sẽ bùng cháy nếu chúng ta tạo điều kiện cho họ. thế giới
này đang cần nhiều hơn “một tỷ cái tình” để thay đổi bộ mặt đang
xấu dần đi bởi bom đạn, chiến tranh hận thù và tranh chấp. Người ta
nhân danh công lí để chà đạp một công lí hơn là tình yêu. Người ta
không thể lấy “cứu cánh biện minh cho hành động” vì suy cho cùng

425
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
thì con ngườilàm trung tâm của vũ trụ, không dùng con người để làm
phương tiện để đạt tới bất kì một điều gì khác. Cũng như chúng ta
không thể lấy lí do bảo vệ công lí để phản bội lại tình yêu giữa con
người với con người.
Mỗi người chúng ta sinh ra trong cuộc đời, rồi ra khỏi cuộc đời
như là một định mệnh, như Trịnh Công Sơn viết trong nhạc phẩm
Mưa hồng “đời có bao nhiêu mà hững hờ”. Cuộc đời đang ghi công
chúng ta xem, chúng ta thực thi đức bác ái thế nào chứ không phải
chúng ta thực thi đúng công lí hay không. Tình yêu, sự tha thứ quảng
đại là điều lớn nhất ta tìm kiếm dẫu nó vẫn còn vương lại những hệ
lụy cho chúng ta. Những hệ lụy đó có thể là sự vị nể người này người
nọ, để cảm tình lấn át công việc…Tuy nhiên, gạt ra những điều ấy
“lòng nhân ái” sẽ đẹp và càng đẹp hơn khi ghép vào công lí để tạo
nên một bức tranh cuộc sống hoàn mỹ.
Paul : Trần Đình Vẹn

426
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Theo anh sống đẹp là thể nào?
Bài làm
Cố nhạc sỹ thiên tài Trịnh Công Sơn đã viết trong nhạc phẩm
“Một cõi đi về” rằng: Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi, đi đâu loanh
quanh cho đời mỏi mệt. Quả vậy, con người từ khi cất tiếng khóc
chào đời cho tới khi giã từ cuộc đời là một cuộc hành trình đi tìm lẽ
sống. Chúng ta luôn trăn trở suy nghĩ về đời mình sống làm sao cho
tốt, cho đẹp. Có những đã tìm thấy định nghĩa riêng cho mình và họ
đã dâng tặng cho cả cuộc đời những hoa thơm quả ngọt. Bên cạnh đó
cũng có những người đã tìm cho mình một quan niệm sống, nhưng
tiếc thay cho những hoa quả được họ sinh ra thật không đẹp chút nào.
Ngoài ra có những người loay hoay cả đời mình mà vẫn chưa tìm ra
lời giải cho mình nên phải nuối tiếc. Còn chúng ta chắc hẳn mỗi
người cũng đã, đang và sẽ tìm thấy cho mình một định nghĩa cho hai
từ “sống đẹp”. Phần tôi, tôi cũng có những suy tư của riêng mình.
Như bông hoa luôn hướng về ánh mặt trời, con người chúng ta
sinh ra trong đời trước tiên là cần phải có mục đích, lý tưởng để vươn
lên. Như có câu danh ngôn nói rằng: “Con người không phải là một
bình nước cần được đổ đầy mà là ngọn nến cần được thắp sáng”.
Chúng ta không chỉ là một cầu thủ chỉ bằng lòng với băng ghế dự bị
nhưng phải luôn chăm chỉ luyện tập để mong được ra sân và cống
hiến cho đội bóng. Sống có mục đích sẽ giúp chúng ta không ngừng
vươn lên, dù cả khi gặp những điều không may trong cuộc sống, như
dòng sông phải qua bao thác ghềnh, để về với biển lớn thể nào thì để
đạt được mục đích trong đời, thì chúng ta cũng phải vượt qua những
cạm bẫy ở đời như vậy: Tuy nhiên, lý tưởng mục đích là sự thành
công, mặc dù nó đang ở phía trước nhưng nó rất đẹp và hấp dẫn có
sức mê hoặc lạ thường. Những ngày còn thơ trong vòng tay ba mẹ,
đứa con đã mơ ngày nào đó để ra thành phó để tận mắt cảnh phần

427
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
hoa đo hội. Ước mơ thúc đấy đứa con hoch hành chăm chỉ dù cho
hoàn cảnh gnia đình, quê hương còn rất thiếu thốn nhưng chỉ có con
đường vào đại học mới có cơ hội được thỏa mãn ước mơ giản dị của
tâm hồn trẻ thơ. Và với công lao vất vả, cố gắng đứa con đã thực
hiện được ước mơ của mình. Có ai đó đã nói: “Ước mơ chỉ là khởi
điểm” nhưng nếu không có khởi điểm thì tự hỏi có về đích được
không .thế nhưng mơ ước, sống có mục đích, lí tưởng cũng phải xây
dựng phù hợp với hoàn cảnh thực tế của bản thân, gia đình, xã hội,
tránh tình trạng mơ tưởng hảo huyền, mục đích xa rời thực tế…vì
ước mơ mục đích đó chỉ là khở điểm mà thôi. Ngoài ra, khi đã có
mục đích ta cần phải bắt tay vào hành động thì mới có hi vọng ngày
hai quả trên cây trồng mang tên “ước mơ”.
Tuy nhiên, chỉ sống có lí tưởng, có mục đích không thôi e chưa đủ.
Có ích kỉ quá không khi sinh ra trong đời, sống trong cộng đồng mà ta
chỉ tìm hạnh phúc cho riêng mình. Nhà thơ Tố Hữu đã quan niệm.
“Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Có thể nói quan niệm
sống đẹp của cố thi nhân có sức thhuyết phục đối với con người mọi
thời, mọi nơi. Sống đâu chỉ là nhận, thế là ích kỉ, là hẹp hòi, là hưởng
thụ thành quả của người khác mà lòng không nghĩ về trách nhiệm.
Thế là không đẹp. Sống đẹp là cần phải cho, cần phải quảng đại trao
ban. Đó là góp phần nhỏ bé của mình để xây dựng cuộc sống của
mình ngày càng tốt đẹp hơn. Xã hội loài người phát triển như ngày
hôm nay cũng là do loài người chúng ta góp phần tạo nên, trên đát
nước ta, biét bao nhiêu ngươi đã cho đi tuổi thanh xuân, tài năng,
tương lai để cho đất nước được độc lập, nhân dân được tự do. Xa hơn
nữa, có biết bao nhiêu nhà bác học vì đã bảo vệ quan điểm khoa học
của mình mà phải hi sinh mạng sống. Còn chúng ta, chúng ta cho cái
gì? có thể ai trong chúng ta cũng có cái để mà trao ban. Đơn giản như
ta trao ban một nụ cười. Chúng ta cho người hành khất một số tiền ít

428
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
ỏi. Chúng ta trồng một cây xanh cho môi trường trong lành hơn, và
còn rất nhiều thử chúng ta có thể cho. Dù chỉ là nhứng là những đièu
đơn giản, nếu chúng ta biết cách trao ban thì bạn sẽ không cần tìm
kiếm hạnh phúc đâu xa mà chính ngay trong nghĩa cử đó. Có thể
khẳng định cuộc sống là phải trao ban và ban không chỉ la quyền lợi
mà còn là nhiệm vụ. Vì chúng ta sống trong xã hội với người, nhờ
nhười và cho người, nếu không cho thì ắt có ngày sẽ bị cô lập trên
hòn đảo cô đơn. Nhưng, hãy trao ban hay cho như thể nào, giá trị
không phải là món quà mà là cách cho. Cho vì hình thức, vì cầu lợi,
cầu danh là điều không khó để thấy trong xã hội hôm nay, như thế là
hành động đáng lên án. Đừng nhân danh tình yêu mà trục lợi về cho
mình. Âu đó cũng là nhận nhiều hơn rồi. Mặt khác, cũng không ai cổ
tất cả. Trước tiên phải cho mình đã sau đó mới trao ban được, tức
mình có sống cứu được kẻ khác.
Ngoài ra, sống đẹp còn bao hàm ý kiến nhận về mình những sai
lầm. Con người khôg thể không có sai lầm và người sống đẹp là
người biết nhận ra lỗi của mình để sửa chữa, cha mẹ sẽ vui hơn và
gia đình sẽ êm ấm hơn nếu con cái biết nhận những lỗi sai. Mở rộng
ra xã hội cũng vậy, sẽ khôg có sự hiểu nhầm, sẽ không có sự bất hòa
và sẽ loại trừ sẽ loại trừ được những phần tử “đục nước béo cò” nếu
như ai cũng có tinh thần tự nhận trách nhiệm. Đó cũng là một trong
nhiều tiền đề cho cuộc sống đẹp hơn, ý nghĩa hơn. Người sống đẹp sẽ
là người biết nhận lỗi khi sai, từ chỗ biết nhận lỗi họ có động lực sữa
mình tốt hơn, không trốn trách nhiệm hay đổ lỗi lên người khác hay
tập thể. Nhưng cũng cần tránh tình trạng nhận lỗi tập thể để tránh
hình phạt, cá nhân, đừng cho rằng rất khó để phạt lỗi một tập thể,
như thế sẽ làm hại cho tập thể đó.
Chúng ta là những người Kitô hữu, giáo lí công giáo dạy gì về
sống đẹp. Tư tưởng lớn nhất là tình yêu, là trao ban. Tình yêu có thể

429
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
chiến thắng như Đức Giê-su Kitô. Người đã trao cho nhân loại tất cả
bằng tình yêu chứ không thu vén về cho mình. Tình yêu của Thiên
Chúa vượt qua giới hạn hận thù, tức là “anh em hãy yêu cả kẻ ngược
đãi anh em”. Người công chính hay người sống đẹp cũng là người
sống có mục đích, tức là luôn luôn đi tìm sự thật vẹn toàn nơi Thiên
Chúa. Dù rằng, con đường ta đi tìm sẽ phải trả giá thật đắt. Tuy nhiên,
nếu ta bước đi cùng với Đức Kitô và trong Ngài thì chúng ta sẽ được
nhìn thấy chân lí thực sự, chân lí mà ta đã dày công tìm kiếm.
Sinh ra trong đời, chúng ta ai cũng đi tìm, tìm nhiều thứ để hạnh
phúc, nhưng cũng không ít người đi tìm con đường để đưa tới hạnh
phúc đó là phải sống làm sao cho ra sống, tức là phải sống làm sao
cho đẹp. Cuộc sống đó không chỉ là có mục đích, lí tưởng để vươn
tới cho thêm ý nghĩa một con người. Nhưng cuộc sống đó cần phải
cho rất nhiều trước khi chúng ta muốn lãnh nhận. Cuộc sống đó còn
là sự chấp nhận thực tế là những điều lỗi lầm, dám nhận lỗi và sữa
chữa bản thân mình. Có lẽ sống đẹp là quan niệm không ai giống ai,
tuy nhiên ai cũng mong muốn hoa quả đời sống của mình mang lại
hương thơm vị ngọt bù đắp cho đời.
Paul: Trần Đình Vẹn

430
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
Đề bài: Phân tích hiện tượng bạo lực trong xã hội
Bài làm
Cần giở lại những trang đầu tiên của cuốn sách vĩ đại nhất viết
cho con người là kinh Thánh, cụ thế là sách sáng thế, ta nhận ra rằng
mối tương quan với Thiên Chúa, với nhau và với môi trường xung
quanh đã đổ vỡ khi bà Eva giơ tay hái lấy trái phân biệt lành dữ,
cũng từ đó có một thứ lẫn khuất và đã biểu lộ qua tội ác của Cain và
vẫn đang leo thang, đó là bạo lực. Đặc biệt là bạo lực đang leo thang
một cách bất thường đến mức là hiện tượng trên thế giới và nơi một
quốc gia nổi tiếng hiếu hòa là Việt Nam. Quả thật, hiện tượng bạo
lực trong xã hội là một vấn đề để chúng ta suy xét và suy nghĩ.
Nhà văn Josh Billings đã từng nói rằng: “ Tốt hơn là không biết
gì cả hơn là biết cái mà nó không phải như vậy”. Chính vì thế, trước
khi phân tích về hiện tượng bạo lực trong xã hội điều trước nhất là
chúng ta phải hiểu nó như thế nào. Hiện tượng là một sự việc mà con
người chúng ta có thể quan sát được và thường nói đến sự việc, sự
vật diễn ra cách bất ngờ nghĩa là có thể tăng cách đột ngột hoặc giảm
nhanh chóng. Như vậy, khi dùng từ hiện tượng trong cụm từ hiện
tượng bạo lực trong xã hội tức là ta đang nói đến tình trạng leo thang
của bạo lực ngày hôm nay. Khi nói đến bạo lực, tất cả chúng ta đều
cảm thấy nó là điều xấu xa, cảm giác này không như vậy khi ta trông
thấy mãnh thú săn mồi, bởi dù cảnh tượng cho dù hung bạo nhưng nó
là bản năng sinh tồn tự nhiên và vì vậy ta thấy ta khác con vật khi có
thể suy nghĩ để tránh, hạn chế bạo lực trong tương giao. Theo
Wikipedia, bạo lực là hành vi sử dụng sức mạnh thể chất với mục

431
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
đích gây thương vong, tổn hại người khác. Tuy nhiên, ngày hôm nay
ta đều thấy rằng bạo lực không chỉ sử dụng sức mạnh thể chất nên
cách định nghĩa trên xem ra có nhiều thiếu xót. Trong từ điển Công
giáo của Hội đồng giám mục Việt Nam định nghĩa bạo lưc như sau: “
Bạo lực: dùng sức mạnh để cưỡng bức. Bạo lực là hành động hung ác
và bất công, gây đau đớn thể xác hay tinh thần, xúc phạm tự do và
nhân phẩm của con người. Bạo lực còn được gọi là bạo hành. Bạo
lực thường là sự hung hăng quá đà và không cân xứng hoặc vô căn
cứ.” Cách định nghĩa này có thể nói là đầy đủ và rõ ý nhất. Cuối
cùng, chúng ta đi đến khái niệm về xã hội. Xã hội là một tập thể hay
một nhóm người được phân biệt với nhóm khác bằng các lợi ích, mối
quan hệ đặc trưng, chia sẻ cùng một thể chế và có cùng văn hóa hay
lề lối. Ví dụ xã hội người Việt thì khác với xã hội người Mỹ và xã
hội người việt thuộc xã hội loài người nhưng vẫn có những đặc trưng
riêng. Xã hội trong một số môn khoa học xã hội con được hiểu là
mạng lướ của những mối quan hệ của các thực thể tức là nói đến sự
tương tác giữa người với nhau. Trong tiếng anh xã hội được viết là
society được bắt nguồn từ tiếng pháp socíeté rồi lần về gốc là tiếng
Latinh societas nghĩa là sự nối kết. Tóm lại, từ xã hội là để chỉ ra mối
tương giao giữa người với người và cụm từ “hiện tượng bạo lực
trong xã hội” có nghĩa là tình trạng leo thang, tăng đột biến các hành
vi hung ác trong mối tương giao giữa con người với nhau.
Ngày hôm nay, bạo lực không chỉ là những xung đột nhỏ lẽ như
các thế kỷ trước mà hiện nay đang ở mức báo động để con người ta
thấy rằng đó không phải là một vấn đề của một thành phố, một quốc

432
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
gia, một châu lục mà là vấn đề của thế giới, của toàn bộ xã hôi loài
người và bạo lực là mối nguy hại ảnh hưởng đến xã hội. Eleano
Roosevelt, trong nhiệm kỳ tổng thống của hợp chủng quốc Hoa Kỳ
đã từng nói: “Hận thù và bạo lực không chỉ thể ở trong một phần của
thế giới mà không gây ảnh hưởng lên phần còn lại” để nói đến vấn đề
bạo lực leo thang như một chiếc xe mất phanh chạy càng ngày càng
nhanh và gây ra bao thiệt hại. Trên thế giới ngày hôm nay, dù rằng
khát khao hòa bình vẫn không hề tắt nơi con người, nhưng bao lực
vẫn diễn ra một số nơi và qua một một số sự kiện đáng chú ý như ở
Trung Đông với các cuộc chiến xung quanh việc sử dụng nguồn
nước, các căng thẳng tôn giáo, các mưu đồ chính trị chủ nghĩa khủng
bố. Ngay cả tại một đất nước tự do như Mỹ thì tình trạng bạo lực vẫn
diễn ra và nổi bật gần đây là cuộc biểu tình ở Fergson. Còn tại Châu
Âu, trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế, chúng ta cũng đã quen với
những cuộc bạo loạn diễn ra tại hy Lạp. ngày hôm nay, bạo lực xét
trên tầm mức thế giới còn tồn tại ở khía cạnh kinh tế đúng như John
Adám cũng la một vị tổng thống của hợp chủng quốc Hoa kỳ trong
nhiệm kỳ của mình từng phát biểu: “Có hai cách nô lệ một quốc gia,
một là bằng kiếm, hai là bằng nợ”.Đó là trường hợp các doanh
nghiệp, tư nhân dưới mưu mô chính trị thâm nhập một quốc gia để
chi phối kinh tế rồi từ đó là bàn đạp cho việc chi phối chính trị.. Ví
dụ điển hình trong thế giới hôm nay chính là Trung Quốc, bằng việc
thâu tốm kinh tế dẫn đến việc chi phối chính trị ở Campuchia, đặc
biệt là trong giai đoạn nước này làm chủ tịch luôn phiên của ASEAN
và tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN, với vai trò chủ tịch, Campuchia

433
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
không đưa ra được thông cáo chung về vấn đề biển Đông, thậm chí
vấn đề này còn không được đưa lên bàn nghị sự. Điều này gây bất
mãn và phản ứng quyết liệt từ các nước thành viên, trong đó có Việt
Nam. Tóm lại, bạo lực là một xu hướng nguy hại và đang có những
biến thể khác trên thế giới, từ đây ta đã dừng lại trên mối quan hệ ở
mức thế giới tức là ở giữa các quốc gia và đã đến lúc đi sâu hơn vào
mối quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với cá nhân và phạm
vi của ta sẽ nhỏ hơn nhưng thiết thực hơn đó là trên đất nước hình
chữ S của chúng ta Việt Nam. Lý do, chúng ta chọn Việt Nam để
khảo sát về hiện tượng bạo lực là mối tương giao tại đa số các nước,
đặc biệt là phương Tây đã được xây dựng trên một bộ luật chặt chẽ,
bạo lực có tồn tại nhưng lẩn khuất và khi phát hiện và lý do thứ hai
đó là vì bài viết phân tích này đang được viết bằng chữ Việt Nam và
tại Việt Nam. Dân tộc Việt Nam với chiều dài lịch sử hơn bốn ngàn
năm văn hiến luôn nổi tiếng với nhiều đức tính cao đẹp như hiêu
thảo, tôn sư trọng đạo, yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Điều này đã
được thể hiện qua các kho tàng ca dao, tục ngữ của dân tộc ta, chẳng
hạn như “Một chữ cũng là thầy, nữa chữ cũng là thầy”; “Lá lành đùm
lá rách”; “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước thì
thương nhau cùng.”hay “Một lòng thờ mẹ kinh cha/cho tròn chứ hiếu
mới là đạo con.”và còn rất nhiều nữa. Thế nhưng có thể nói ngày
hôm nay hình ảnh con người Việt Nam không còn như vậy nữa, một
hình ảnh hiền hòa ngay cả khi ngay cả khi đất nước chiến tranh và
những việc triều cống phương Bắc khi xưa dù ta là người chiến thắng
“dĩ hòa vi quý” dường như chỉ còn là một quá khứ xa xôi, thay vào

434
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
đó là một hình ảnh xấu xí, hung tợn, ích kỷ, vô nhân đạo, bàng quan
thờ ơ trước việc xấu. Hình ảnh người quân tử Lục Vân Tiên của cụ
Nguyễn Đình Chiếu chỉ còn trên thơ văn và thậm chỉ đã không còn là
mơ ước cho lớp trẻ hôm nay. Tình hình bạo lực ở Việt Nam nối bật
nhất là gia đình và nhà trường nhưng trước khi đi sâu vào hai vấn đề
bạo lực gia đình và bạo lực học đường, ta phải có cái nhìn khái quát
về bạo lực trong xã hội Việt Nam. Ta có thể tạm phân loại bạo lực ra
làm 4 loại:
1. Bạo lự tinh thần
2. Bạo lực thể xác
3. Bạo lực kinh tế
4. Bạo lực tình dục
Bạo lực tinh thần là loại bạo lực rất khó xử và thường sử dụng lời
nói làm vũ khí biểu hiện qua các hành vi chửi rủa, quát tháo, la hét.
Ngoài ra, nó còn là hành vi cấm đoán vô cớ như cấm nói, cấm cười,
cấm ra ngoài, cô lập nạn nhân khỏi các mối quan hệ xã hội, xem thư,
lục soát người, nghe lén điện thoại, cưỡng ép trong tình cảm như
cưỡng hôn, ly hôn, tảo hôn. Về việc bạo lực tinh thần thì phụ nữ
thường là thủ phạm với cánh mày râu. Trong lịch sữ đã có nhiều
nhân vật nổi tiếng bị bạo hành tinh thần như nhà văn Lei Tolstoy đã
chết ở nhà năm 81 tuổi vì không chịu nổi những lời nhiếc móc của vợ
hay như Abraham Lincoln từng xin qua tiểu bang khác làm việc vì
không chịu nổi những lời trách móc của vợ, cả một vị hoàng đế như
Napolion cũng không thoát được là nạn nhân tinh thần của phụ nữ.
Thêm vào đó thô lỗ và tệ bạc cũng là hành vi bạo hành tinh thần hiện

435
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
nay. Bạo lực thể xác thì chúng ta thấy rất nhiều, chỉ cần lên google,
ta sẽ thấy đầy rẫy những hình ảnh bạo lực ở Việt Nam nhưng lại vì
những lí do rất buồn cười như đẹp trai bị đâm chết, xấu trai bị đâm
chết, vuốt tóc khi chờ mua hủ tiếu bị đâm chết, nhắc nhở tiểu bậy bị
đánh trọng thương, dọn cơm không ăn bị đâm chết, để xe chiếm lối
bị đánh hội đồng, hát karaoke vào nhầm phòng bị đánh…Rất nhiều
mà ta không kể xiết. Hành vi bạo lực từ nông thôn với chuyện dân
chúng tự xữ dã man những tên trộm chó và những tên trộm chó cũng
dùng vũ khí để đáp lại, đến thành thị thì ngoài những vụ thanh toán
lẫn nhau, trộm cướp của những băng nhóm, thành phần chuyên
nghiệp thì còn bao vụ giết người chỉ ở những cái nhìn đểu, liếc điểu,
mặt khó ưa. Trào lưu tự xử đang bùng phát cách nguy hiểm nhưng
cũng có một chuyện hi hữu là một công nông dân ở Long An viết
đơn xin công an đánh lộn vì cơ quan nhà nước không giải quyết vụ
ông bị đánh hội đồng trọng thương. Bạo lực thân xác vẫn đã và đang
diễn ra từng giờ, từng phút trên đất nước ta nếu ngay bây giờ ta
không có những biệ pháp phòng chống và đẩy lùi vẫn nạn này vì nó
liên quan đến cả hệ thống dân tộc của Việt Nam. Thứ ba là bạo lực
về kinh tế đó là những hành vi hủy hoại tài sản chung hoặc cá nhân,
các hình thức đọc quyền, chiếm hữu và sử dụng tài sản của người bị
bạo hành, cưỡng ép lao động, bắt đóng góp tài chính vượt quá khả
năng hay tạo ra sự phụ thuộc về tài chính bằng cách kiếm soát thu
nhập. Cuối cùng trong bốn loại mà ta liệt kê, đó là loại bạo lực tình
dục, loại bạo lực này gần với bạo lực thân xác nhưng vì mức độ tràn
lan của nó hiện nay mà ta có thể tách riêng nó ra. Cụ thể các hành vi

436
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
của dạng bạo lực này là bắt quan hệ tình dục mà không quan tâm đến
cảm xúc của bạn tình, đối phương và người bị bắt ép bị xem như một
cỗ máy, các hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm và bạo dâm và thậm tệ
hơn là loạn luân. Nỗi đau chồng chất của những cô bé bị chính bố
mình ép quan hệ trước sự im lặng của người mẹ la điều mà chúng ta
có thể hiểu được. Ngoài các hình thức bạo hành vừa nêu thì trong
thời đại ngày hôm nay còn phát sinh ra một loại bạo hành mới là loại
bạo hành. Đó là các trường hợp của các bạn trẻ vì ấm ức chuyện gia
đình mà lên mạng trút giận nơi các mạng xã hội, gia nhập, vào các
nhóm kinh dị tren các diễn đàn. Ngoài ra còn các hành vi nhắn tin đe
dọa, gọi điện thoại liên tục gây ức chế cho nạn nhân, làm buồn, gây
sốc rồi sụp đỏ tinh thần. Sau khi đã đi qua các hình thức bạo hành
trong xã hội hiện nay, giờ đây ta cùng bước vào hai vấn đề bạo hành
nổi cộm của xã hội hôm nay là bạo hành gia đình và bạo hành học
đường. Đầu tiên là bạo hành gia đình, nạn nhân của hình thức bạo
hành này ngày hôm nay chính là người già, trẻ em, cả người và người
vợ chứ không còn riêng người phụ nữ nữa. Trong các gia đình tri
thức, vì sợ chê cười mà tầng lớp tri thức cũng trở thành nạn nhân của
bạ hành gia đình. Đối với người già, đó là tình trạng bỏ bê, không
quan tâm chăm sóc. Thậm chí, con có trường hợp con đánh mẹ vì mẹ
sống lâu con phải nuôi tốn cơm, kiện cha mẹ dành nhà, còn đối với
trẻ em thì ngoài các hình thức bạo hành mà ta kể trên thì việc phải
chứng kiến những cảnh bạo lực cũng là bị bạo hành và trẻ lơn lên sẽ
dễ trở thành người bạo lực. UNESCO cũng đã cấm sản xuất các loại
trò chơi, đò chơi bạo lực bao gồm dao, kiếm, mô hình mô phóng các

437
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
vũ khí, phương tiện trong chiến tranh. Tình hình bạo lực gia đình leo
thang đến nỗi đã có làng được gọi là làng đánh vợ ở Việt Nam. Đau
thương nhất phải kể đến trường hợp bé gái mười hai tuổi đánh chết
em họ hai tuổi vì nói nó ăn tốn cơm nhà con hoài. Nơi học đường vì
áp lực của những bảng thành tích đẹp từ giáo viên và gia đình mà các
em học sinh phải học 24/24 và chắc rằng các em cũng sẽ mang theo
bài học vào giấc mơ nếu có thể. Đánh học trò, con vì những lỗi sai
cách quá đáng như viết sai đánh, viết xấu đánh để biến lớp học vốn là
nơi tươi đẹp thành nơi của ám ánh và của bạo lực với các em. Hôm
nay, tình trạng nữ sinh đánh nhau không còn là chuyện lạ nữa hoặc
đánh giết nhau nơi ký túc xã tất cả những điều đang cho thấy xã hội
Việt Nam ta đang xuống cấp một cách trầm trọng và đáng lẽ là nơi
yêu thương đang ngày càng ít đi, nhưng mảnh trời trẻ thơ đang
không biết trông vào đâu.
“Sao bạn lại lên đây?
Ba tôi đánh tôi bằng điếu cày. Sao bạn lại lên đây?
Mẹ kế tôi cắt bằng dao. Sao bạn lại lên đây?
Hàng xóm hiếp dân rồi bóp cổ. Sao bạn lại lên đây?
….
Cha mẹ tôi cãi nhau, cha tôi cầm tôi lên quật xuống nền
(Trích đối thoại ở thiện
đường)Để tìm ra đâu là nguyên nhân của bạo lực là một điều đó,
nhất là phải tìm đâu ra được mới thật là nguyên nhân thật sự và nhìn
ra được nguyên nhân rồi tìm cách chữa trị nó càng khó hơn. Khi nói
đến tình trạng bạo lực từ đầu bài đến giờ, chúng ta đã đề cập đên tình

438
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
hình bạo lực mà chưa đề cập đến bề sâu. Bề sâu của vấn đề bạo lực
đó chính là việc thờ ơ với tội ác mình gây ra và xem đó là chuyện
bình thường và như vậy ta có thể nói xã hội của ta là một xã hội hết
sức nguy hiểm vì tội ác không bị trừng phạt. Sự trừng phạt của tội ác
phải là sự dày vò của lương tâm chứ không chỉ là mang hung thủ đi
tử hình hay chung thân. Nguyên nhân do đâu mà có những chuyện
đó. Nếu xét về mặt thế giới thì ta có thể nói rằng đó là vì thế giới
chúng ta đang phẳng hơn, chật hơn và nóng hơn, bởi nguồn nguyên
liệu dầu đã trở thành nguồn tài trợ cho các chủ nghĩa khủng bố, hồi
giáo cực đoan và ta có thể kết luận một quốc gia quá cậy dựa vào các
nguòn tài nguyên tự nhiên thì tại đó nền dân chủ xuống rất thấp. Đó
là khi ta xét ở phạm vi rộng là thế giới, nhưng muốn tìm nguyên nhân
thật thì ta phải đi sâ vào tức là mối quan hệ giữa người và người mà
môi trường ta đã chọn là ở Việt Nam. Nhưng hãy khoan vội tiến vào
mà hãy đến với Liên Xô vì cũng đã có một thời nước ta xây dựng xã
hội theo mô hình của Liên Xô. Vào Năm 1918 tức là sau cách mạng
tháng 10 Nga(1917); Nhà văn Maxim Gosky có sáng tác một tác
phẩm “những ý tưởng không hợp thời”. Cuốn sách này không được
xuất bản cho tới sau cuộc cải cách ở Nga, tức là khi Liên Bang Xô
Viết sụp đổ vì những lý do chính trị. Trong cuốn sách, tác giả đưa ra
nhận định rằng đúng là cách mạng đã lật đổ chế độ sa hoàng nhưng
không được nói cách mạng đã chữa bệnh cho nước Nga mà nhưng
căn bệnh đó từ ngoài da đã chuyển vào trong nội tạng. Từ ý tác giả,
ta có thể rút ra ba nhận định. Đó là cách mạng cần thiết cho việc xây

439
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
dựng một cuộc sống tốt đẹp nhưng cách mạng không giải quyết
những căn bệnh, những vấn đề của nước Nga và làm cho những vấn
đề đó chìm vào bên trong. Cách mạng chỉ lật đổ chứ không chữa
bệnh mà làm lặn sâu vào bên trong và tàn phá con người và xã hội.
Trở về với xã hội Việt Nam, cách đây không lâu nhà xuất bản tri thức
có xuất bản một cuốn sách tựa đề là Karl Marx của Peter Singer dịch
giả Đinh Hồng Phúc cùng một số dịch giả khác. Ông ta nói cách
mạng là đi đến một xã hội tốt đẹp nhưng là dùng cái ác để tiêu diệt
cái ác để đi đến cái thiện, thậm chí ông còn cho rằng cách mạng làm
phát huy sức sáng tạo của cái ác. Cách mạng đi qua là đạp đổ nhưng
không giải quyết vấn đề xã hội mà con làm cho xã hội bị nhiễm độc
vì phương tiện. Nhìn về lâu về dài thì thiện dùng ác để đạt đến thiện
thì ác đi vào thiện và làm nhiễm độc cho các thiện nên dần già thiện
không còn là thiện. Từ đó, ta thấy rằng con người Việt Nam đang bị
nhiễm độc vì phương tiện bạo lực mà cách mạng đã dùng để xây
dựng xã hội tốt đẹp. Chính vì thế mà dân tộc hiếu hòa Việt Nam đã
trở nên hung ác và xấu xí. Con đường dùng bạo lực cách mạng đã có
người thấy trước và ngăn cản đó chính là cụ Phan Châu Trinh, một
người vô cùng yêu nước, nhân văn và trong suốt ngần ấy năm bị hiểu
lầm là người phán cách mạng, yếu đuối. Tóm lại, nguyên nhân sâu xa
nhất làm cho xã hội Việt Nam ra suy đồi, bạo lực chính là vì ta dùng
phương tiện bạo lực để xây dựng một xã hội tốt đẹp.
Sau khi nhìn nhận ra nguyên nhân của vấn đề thì việc khó nhất là
tìm ra những giải pháp, đặc biệt là về một vấn đề đã ăn sâu và đời

440
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
sống xã hội và làm suy đồi luân lý như bạo lực. Thứ nhất, đó là phải
thay đổi não trạng của con người Việt Nam ngày hôm nay. Nelson
Mandela sau khi ra tù và chiến thắng chủ nghĩa phân biệt chủng tộc
và đã nói rằng: “Chúng ta chưa có tự do mà chỉ có quyền tự do để trở
thành con người tự do.” Qua câu nói của ông ta thấy là giây phút
chấm dứt chũ nghĩa phân biệt chủng tộc không phải là kết thúc
nhưng là giây phút khởi đầu. Trở về với con người Việt Nam đang
mang não trạng là năm 1975, đất nước thống nhất vậy là kết thúc rồi
và suốt trong ngần ấy năm, người ta cứ ca ngợi mà quên rằng giây
phút của năm 1975 chỉ là khởi đầu chứ dân tộc ta thực sự vẫn chưa
thống nhất vào năm lịch sử đó. Chính vì não trạng sống trong quá
khứ mà buồn thay đó là một quá khứ của bạo lực đã góp phần làm
cho xã hội Việt Nam ngày hôm nay lụn bại. Giải pháp thứ hai mà ta
nhắm đến là việc xem lại vấn đề giáo dục, bao năm qua giáo dục của
Việt Nam có qúa nhiều cuộc cải cách mà kết quả của nó chỉ là làm
chiếc cặp của các em sinh thêm nặng thêm, các em phải học ngày,
học đêm, học thêm và học trong mơ chứ không xây dựng được nhân
cách tốt đẹp, nhất là những nhân cách cao đẹp của con người Việt
Nam. Giáo dục ngày hôm nay đào tạo nên những con người phục vụ
cho cơ chế, tức là làm được nhưng không sống được, và con người
qua giáo dục hôm nay chỉ là sản phẩm của cơ chế, không tự do và
làm mọi cách để đạt mục đích kể cả bằng bạo lực. Việc giáo dục cần
cải cách một lần duy nhất tức là đầu tiên phải có định hướng giáo
dục, thứ hai là cải cách không phải là thêm thật nhiều cái mới nhưng

441
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
là tìm về cội. Giáo dục là education, tiếng Latinh là educatio, nếu
phân tích sâu vô nghĩa là lấy ra những điều tốt, điều mạnh nơi người
học chứ không phải là thêm thật nhiều kiến thức. Thứ ba là phải toàn
diện là không nghiêng về tự nhiên, không ngả về xã hội, không quên
đức dục, không xem thường thể dục. Thiết nghĩ, đó là con đường để
đẩy lùi nạn bạo lực hiện nay. Giải pháp thứ ba, nhắm đến gia đình vì
gia đình là nền tảng của xã hội và phần lớn các cuộc bạo hành xuất
hiệ nơi gia đình. Lẽ dĩ nhiên, chúng ta trước nhất phải tránh thái độ
“đèn nhà ai nấy rạng” và đây đã là việc chung của xã hội. Giải pháp
không chỉ dừng lại ở những băng rôn và khầu hiệu mà những người
hữu trách. Những cách vừa nêu là những cách về lâu về dài tức là cần
khoảng thời gian dài để thực hiện. Thế nhưng, trước một tình thế cấp
bách của nạn bạo lực và những phương thế vừa nêu chưa phát huy
hiệu qua thì rất cần những phương cách nhanh chóng phát huy hiệu
quả. Đó là để các cơ sở tôn giáo, các tổ chức phi chính phủ, nhân đạo
được hoạt động một cách tự do hơn nhất là các tổ chức tôn giáo vì
những tổ chức tôn giáo luôn mang trong mình một triết lý nhân văn,
một lối sống đẹp. Tôn giáo không bao giờ làm cho xã hội kém phát
triển ngược lại; Đó là nền tảng xây dựng một xã hội tốt đẹp với một
phương tiện vô cùng thiện hảo và tốt đẹp, đó là lòng yêu thương để
từ đó mọi người biết yêu thương và nói lời tha thứ với nhau.
Tóm lại, bạo lực là một hiện tượng xấu trong xã hội vì đó mà
làm cho mối tương quan giữa con người với nhau đổ vỡ và khi đó
con người bước ra khỏi những mối tương quan thì con người không

442
Nguyễn Viết Bảy- Văn Nghị Luận
còn là con người nữa. Nguyên nhân chúng ta cũng đã chỉ ra rồi trước
thực trạng một xã hội, một thế giới bạo lực như hiện nay. Con người
chúng ta khác loài vật ở chỗ là con người biết hành động, hành động
để sống sót và hành động để xây dựng một môi trường sống thuận
lợi, là môi trường mọi người yêu thương nhau. Mỗi chúng ta đừng
đứng nhìn bạo lực nhưng hãy đứng lên chung tay đẩy lùi bạo lực
bằng một lời yêu thương, một cử chỉ đẹp để không còn bạo lực nữa
trong xã hội của chúng ta.
Joseph: Trương Thiệp Bình

443

You might also like