You are on page 1of 113

Thanh Trúc

PHƯƠNG PHÁP
NGHỊ LUẬN
Phương Pháp Nghị Luận

Luận đề phổ thông và luân lý

1
Phương pháp nghị luận

MỤC LỤC
Chương I: TÌM HIỂU ĐỀ TÀI.............................................3
Chương II: PHƯƠNG PHÁP TÌM Ý...................................8
Chương III: PHƯƠNG PHÁP LÀM DÀN BÀI.................14
Chương IV: PHƯƠNG PHÁP HÀNH VĂN......................39
Chương V: PHƯƠNG PHÁP SUY TƯ..............................55
Chương VI: PHƯƠNG PHÁP LÝ LUẬN..........................60

2
Phương Pháp Nghị Luận

ĐẠI CƯƠNG VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHỊ LUẬN


Theo định nghĩa, văn nghị luận là loại văn dùng lí lẽ và dẫn chứng để
bàn luận, giải quyết một vấn đề làm cho người đọc, người nghe hiểu vấn đề
đó để họ có nhận thức đúng, có thái độ đúng và có hành vi đúng.
Như thế, văn nghị luận có đặc tính khác hẳn văn miêu tả và thuật
chuyện:
Văn miêu tả chỉ ghi lại những điều mắt thấy tai nghe, trình bày lại
những điều giác quan đã ghi lại được.
Văn thuật chuyện chỉ kể ra những ý kiến của mình về một đề mục nào
đó cho người khác nghe và tùy người nghe muốn nhận định ra sao cũng
được.
Văn nghị luận không thế. Nghị luận cần suy nghĩ để bày tỏ ý kiến nhằm
mục đích thuyết phục người khác tin ý kiến của ta là xác đáng. Công việc
này không mấy dễ dàng vì mỗi người t hường chủ quan, chỉ tin lẽ phải của
mình, thường nghi ngờ và đánh giá thấp các lí lẽ của người khác. Tuy
nhiên, ít ra cũng có một lẽ phải chung hợp với các khuôn khổ suy luận
thông thường được đa số công nhận.
Để có thể đạt tới phần nào lẽ phải chung đó, khi làm bài văn nghị luận,
chúng ta nên dựa vào phương pháp nghị luận được trình bày qua các bước
tiến như sau:

3
Phương pháp nghị luận

Chương I: TÌM HIỂU ĐỀ TÀI


Tìm hiểu đề tài là việc rất quan trọng vì nó giúp ta khỏi lạc đề, xa đề hay
trả lời thiếu sót những điều đề yêu cầu. Muốn tìm hiểu đề, chúng ta sẽ phân
biệt các loại đề.
Bài nghị luận luân lý thường đề cập đến bổn phận mỗi người đối với
bản thân, gia đình, học đường, tổ quốc, xã hội, nhân loại.
Bài nghị luận phổ thông hoặc tổng quát thường bàn đến những tri thức
tổng quát như lao động, nghề nghiệp, du lịch hoặc những khái niệm thông
thường như tự do công bằng, nhân ái…
Tuy nhiên phạm vi hai loại bài này có nhiều khu vực xâm nhập nhau và
có nhiều điểm tương đồng hơn dị biệt. Do đó chúng ta có thể ghép chúng
vào đối tượng của phương pháp nghị luận này.
Về hình thức hay về công việc làm bài, chúng ta có thể chia chúng thành
bốn loại đề căn bản sau đây: giải thích, bình luận, trình bày và so sánh.
Chúng có thể ví như bốn phép tính gốc: cộng, trừ, nhân, chia trong số
học. Nắm vững phương pháp và giả quyết thành thạo bốn loại đề này rồi,
chúng ta mới có thể giải quyết những loại đề khác, thường chỉ là tổng hợp
những loại đề trên, giống như người đã làm thông thạo bốn phép tính gốc,
mới đủ sức giải những bài toán đố khó khăn.
A. LOẠI ĐỀ GIẢI THÍCH
1. Khi nào đề ra thuộc loại giải thích?
Khi nghĩa câu nói tương đối đúng, không có phần sai lầm quá đáng hoặc
thiếu sót một cách rõ rệt, thì đề sẽ thuộc loại giải thích.
Ví dụ: Có công mài sắt có ngày nên kim.
Quốc gia nào cũng cần có bàn tay đen và lương tâm trong trắng.
Làm trai quyết chi tu thân.
Công danh chờ đợi, nợ nần chớ lo.
2. Giải thích là gì?

4
Phương Pháp Nghị Luận

 Theo sát nguyên nghĩa: giải thích là đào sâu cho rõ nghĩa (thích) và
mở rộng cho đủ nghĩa (giải)
 Yêu cầu: loại đề này chỉ cần ta tìm ý nghĩa câu nói mà không hỏi ý
kiến riêng của ta phê phán vấn đề ấy.
3. Làm thế nào biết đề ra thuộc loại giải thích?
Loại đề này đòi hỏi ta ý nghĩa câu nói, nên thường có các dạng thức sau
đây:
 Giải thích câu…
 Giải nghĩa câu…
 Cắt nghĩa câu…
 Câu này có ý nói gì…
 Ý nghĩa câu ấy thế nào?
 Làm sáng tỏ ý nghĩa câu nói ấy…
B. LOẠI ĐỀ BÌNH LUẬN
1. Khi nào đề ra thuộc loại bình luận?
Khi ý nghĩa của câu nói tuy có phần đúng, nhưng cũng có phần sai lầm
đáng chỉ trích, phần thiếu sót cần bổ túc, hoặc phần quá đáng cần giới hạn
thì đề ra sẽ thuộc loại bình luận.
Ví dụ:
 Cha nào con nấy.
 Thất bại là mẹ thành công.
 Có tiền mua tiên cũng được.
2. Bình luận là gì?
Bình luận theo sát nguyên nghĩa là: suy nghĩ cho hiểu thấu, nói ra cho
rõ, (luận) rồi mới cho biết ý kiến (bình) để chỉ trích phần sai lầm, bổ túc
phần thiếu sót, hoặc hạn chế phần quá đáng tùy theo ý nghĩa câu nói.
Yêu cầu: loại đề này không những buộc ta phải làm sáng tỏ ý nghĩa, mà
còn đòi hỏi ta phải cho biết ý kiến phê bình câu nói ấy.
3. Làm thế nào để biết đề ra thuộc loại bình luận?

5
Phương pháp nghị luận

Loại đề này đòi hỏi ta giải thích và phê bình câu nói, nên thường ra các
dạng thức sau:
 Bình luận câu…
 Bình giải câu…
 Phê bình câu…
 Nhận xét giá trị câu…
 Câu ấy có đúng không?
 Cho biết ý kiến về…
 Bạn nghĩ sao…
 Bạn có đồng ý với câu nói ấy không?
C. LOẠI ĐỀ TRÌNH BÀY
1. Khi nào đề ra loại trình bày?
Khi chủ đề còn nguyên vẹn là một vấn đề chưa qua nhận xét của một ai,
chưa thành một câu nói hàm xúc, bóng bẩy thì đề ra sẽ thuộc loại trình bày.
Ví dụ: Sự đọc sách, sự làm việc, tiến bộ khoa học.
2. Trình bày là gì?
 Trình bày theo nguyên nghĩa phô diễn ra cho rõ (bày) tất cả những
kiến thức của ta về vấn đề nêu ra cho người đọc biết (trình).
 Yêu cầu: loại đề này không bắt ta giải nghĩa hay phê bình vấn đề
mà chỉ đòi ta nói thẳng, nói thật và nói hết những điều hiểu biết của ta về
vấn đề ấy.
Dĩ nhiên đề thuộc loại này vẫn có những từ ngữ quan trọng mà ta cần
xác định ý nghĩa cho rõ, trước khi trình bày kiến thức của ta.

3. Làm thế nào biết đề ra thuộc loại trình bày?


Loại đề này buộc ta kể rõ những kiến thức của ta, nên thường ra dưới
dạng thức sau:
 Trình bày các tai hại của…
 Kể rõ các ích lợi của…

6
Phương Pháp Nghị Luận

 Cho biết rõ những lợi hại của…


 Vạch rõ những lý do của…
 …. Đem lại những lợi ích gì?
 Thế nào là...
 Tại sao phải…
 Sau này bạn sẽ chọn nghề gì? Tại sao?
D. LOẠI ĐỀ SO SÁNH
1. Khi nào đề ra thuộc loại so sánh
Khi hai vấn đề có những điểm giống nhau, khác nhau, nhưng liên quan
mật thiết với nhau hoặc hơn kém bổ túc cho nhau thì đề sẽ ra thuộc loại so
sánh.
Ví dụ:
 Công bằng và bác ái.
 Cần bất như chuyên.
 Tài đức kiệm toàn.
2. So sánh là gì?
 So sánh theo sát nguyên ngữ, là đối chiếu hai vấn đề để làm nổi bật
điểm tương đồng, dị biệt và tương quan nhằm mục đích xác định địa vị hơn
kém hay bổ túc lẫn nhau của chúng.
 Dĩ nhiên chúng ta phải nắm vững ý nghĩa từ quan trọng trong vấn
đề và nêu rõ ý nghĩa ấy trước khi so sánh.
3. Làm thể nào biết đề ra từng loại so sánh
Loại đề này bắt ta phải cân nhắc hai vấn đề nên thường ra những dạng
thức sau đây:
 Thế nào là A? Thế nào là B? A và B liên quan đến nhau như thế
nào?
 A là gì? B là gì? A và B giống nhau khác nhau và liên quan đến
nhau như thế nào?
 Hai vấn đề A và B có những điểm tương đồng, dị biệt và tương
quan như thế nào?
 Tại sao A không bằng B.
7
Phương pháp nghị luận

 Tại sao lại cần A lẫn B.


 Bạn nghĩ sao vấn đề A và B.
E. CÁC LOẠI ĐỀ TỔNG HỢP
Ngoài bốn loại đề căn bản nói trên những đề tài khác thường ra dưới
hình thức tổng hợp giữa các loại đề ấy với nhau hoặc thường dùng bốn loại
đề căn bản kèm theo một câu hỏi:
Ví dụ:
1. Giải thích và bình luận câu sau đây: “Người quân tử cầu ở mình,
kẻ tiểu nhân cầu ở người.” Hãy ứng nghiệm câu đó vào cách lập chí của
người thanh niên ở đời. (Đề thi tú tài 1951)
2. Một văn hào Đức nói: “Tôi là người nghĩa là một kẻ chiến đấu.”
Đời có phải là một trường tranh đấu không? Giá trị của chí phấn đấu.
(Loại đề giải thích và trình bày)

8
Phương Pháp Nghị Luận

Chương II: PHƯƠNG PHÁP TÌM Ý


Nếu ví việc làm bài văn nghị luận như xây một ngôi nhà, thì việc tìm ý
được sánh với việc mua sắm vật liệu cần thiết. Vật liệu càng nhiều càng tốt
thì chúng ta càng có hy vọng xây được ngôi nhà cao rộng bền chắc.
Mục đích của chương trình này giúp chúng ta tìm được ý chính của đề
tài và từ đó dùng phương pháp làm nảy sinh những ý phụ dồi dào khác
nữa.
I. PHƯƠNG PHÁP TÌM Ý
1. Đối với những đề tài đơn giản
Ta chỉ cần đọc kĩ đề tài là ý chính đã hiện ra.
Ví dụ: Giải thích câu: “Có chí thì nên.”
Ý chính: Đề cao vai trò ý chí trong việc thành đạt ở đời.
2. Đối với những đề tài phức tạp
Ví dụ: Giải thích câu: “Chúng ta là kẻ thừa hưởng di sản của người quá
cố, kẻ đồng lao cộng tác với người đương thời, kẻ nâng đỡ bảo hộ thế hệ
tương lai.”
Ngoài việc đọc kĩ đề, chúng ta còn phải:
a. Phân tích đề thành nhiều phần nhỏ và dễ hiểu để tìm từng
chủ điểm
 Chúng ta là kẻ thừa hưởng di sản người quá cố.
 Chúng ta là kẻ đồng lao cộng tác với người đương thời.
 Chúng ta là kẻ nâng đỡ bảo hộ thế hệ tương lai.
 Ta nhận thấy đề tài gồm 3 chủ điểm nằm trong 3 mệnh đề.
b. Gạch dưới những chỗ quan trọng và chú ý để hiểu rõ ý
nghĩa của chúng
 Giải thích: để phân biệt với bình luận…
 Chúng ta: quan trọng nhưng không cần tìm ý nghĩa.
 Thừa hưởng: tiếp nhận và sử dụng.
 Di sản: các của cải để lại
9
Phương pháp nghị luận

 Người quá cố: người đã chết.


 Đồng lao: cùng chịu vất vả.
 Cộng tác: chung sức làm việc.
 Người đương thời: người đang sống với ta.
 Nâng đỡ: dìu dắt, giúp đùm.
 Bảo hộ; che chở; gìn giữ.
 Thế hệ tương lai: lớp người đến sau ta.
c. Đề tài trên có 3 chủ điểm.
Chủ đề là tổng số các chủ điểm hợp lại:
Chủ điểm 1: Liên hệ giữa thế hệ hiện tại vói quá khứ
Chủ điểm 2: Liên hệ giựa thế hệ hiện tại với nhau
Chủ điểm 3: Liên hệ giữa thế hệ hiện tại với tương lai
Chủ điểm 4: Liên hệ giữa các thế hệ
Ý chính của bài: Bổn phận của chúng ta đối với các thế hệ
3. Một số trường hợp đặc biệt
a. Đối với những đề tài có vẻ bao quát, ta nên tự giới hạn
Ví dụ: Bình luận tư tưởng sau: “Quyển sách là một người bạn.” Quá
trình suy tư tìm ra ý chính:
Đề tài nêu lên một tỉ lệ: coi quyển sách như một người bạn. Trọng tâm
bài này ở hai chữ “người bạn.” Chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều ý tưởng,
đạt được rất nhiều vấn đề liên quan đến vật chất, có khi vì lợi ích tinh thần,
có khi vì ham mê thú vui, có khi vì lí tưởng đạo lý…
Có nhiều vấn đề liên quan đến “bạn” như: chọn bạn, xử sự với bạn, học
bạn, giúp bạn, chỉ dẫn cho bạn, bắt chước bạn, lấy bạn làm gương cho
mình, lừa phản bạn, nói xấu bạn…
Để khỏi lạc trong rừng ý tưởng đó, chúng ta không nên quá tham lam
mà cần tự giới hạn vấn đề. Ví dụ: kết thân với bạn thường vì lí do tâm tình
và học hỏi. Đọc sách cũng thường vì lí do giải buồn và tìm hiểu. Bạn có
người xấu người tốt, chúng ta phải chọn bạn mà chơi. Sách cũng có cuốn
xấu cuốn tốt, phải chọn sách mà đọc.
10
Phương Pháp Nghị Luận

b. Đối với những đề tài có tính cách ám tỷ


So sánh gián tiếp một ý nghĩa trừu tượng với một vật cụ thể hay so sánh
hai ý niệm trừu tượng. Trong các trường hợp này ta phải tìm được những
điểm giống nhau giữa hai vật hay hai ý niệm. Đó sẽ là ý chính của đề tài:
Ví dụ: Bình luận câu ca dao sau đây:
“Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
Ý chính của đề tài diễn nhiên không phải là ở điểm trồng trọt loại thảo
mộc. Từ hình ảnh cụ thể đó, chúng ta có bổn phận suy ra những ý niệm
trừu tượng như: một cây trồng riêng sẽ biểu tượng cho sự đơn độc chia rẽ.
Ba cây trồng chụm lại biểu tượng cho sự biết nhờ cậy lẫn nhau, biết gom
công góp sức để chuyển thế yếu thành thế mạnh. Từ đó chúng ta nhận thấy:
câu ca dao cho biết sự thiệt hại của chia rẽ và lợi ích của đoàn kết.
c. Đối với những đề tài có vẻ nghịch ngôn hay mâu thuẫn
Ta nên phân biệt phương diện hình thức và phương diện nội dung của
các câu nói để thấy chúng không có gì là trái ngược luân lí, mà chỉ có sự
nhấn mạnh vào vấn đề nêu lên hay tính cách bổ khuyết lẫn nhau giữa hai ý
niệm tưởng chừng như mâu thuẫn ở đề tài.
Ví dụ: Người ta thường nói: “Có bột mới gột nên hồ”, ca dao lại có câu
“Nước lã mà vã nên hồ, tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan.”
Hãy giải nghĩa hai câu ấy và xem chúng có mâu thuẫn với nhau không?
Hai câu nói trên không có gì mâu thuẫn:
 Câu “Có bột mới gột nên hồ” xác nhận một sự thực thường thấy
trong xã hội: Muốn có hồ phải cần có bột, muốn tạo nên một công nghiệp
lớn lao phải cần có đạo đức, có thời thế, có cơ hội.
 Trái lại, câu “Nước lã mà vã nên hồ” không phải là xác nhận sự
thực thường thấy trong xã hội, một việc ai cũng có thể làm được. Đó chỉ là
một trường hợp đặc biệt, một lời khen, một lời khuyến khích đối với những
ai có tài trí hơn người, những bậc anh hùng tạo thời thế.
II. CÁCH TÌM Ý PHỤ TỪ Ý CHÍNH
11
Phương pháp nghị luận

1. Đặt ý chính trong nhiều phạm vi khác nhau


Ví dụ: Ý chính là tình đoàn kết, từ đó có thể có những ý phụ như sau:
 Tình tương thân tương trợ trong phạm vi gia đình hay học đường.
 Tinh thần đoàn kết của toàn dân trong phạm vi quốc gia.
 Tình hữu nghị giữa các quốc gia trong phạm vi quốc tế.
2. Đặt ý chính trong một quá trình suy luận
Ví dụ: Ý chính là sự nói thật, từ đó có những ý phụ như sau:
 Ích lợi của sự nói thật về hai phương diện đạo đức và mưu sinh lập
nghiệp.
 Tai hại của sự dối trá về hai phương diện nói trên.
 Những nguyên nhân nào làm cho người ta hay nói dối.
 Những trường hợp ngoại lệ không nên nói sự thật: đối với bệnh
nhân, những bí mật quốc phòng.
3. Xét ý chính về nhiều phương diện khác nhau
Ví dụ: Ý chính là sự xã giao thù tạc, chúng ta có những ý phụ như sau:
 Sự xã giao thù tạc về phương diện nội dung: Tình cảm của những
người giao dịch với nhau, sự chân thật hay giả dối.
 Sự xã giao thù tạc về phương diện hình thức: Những nghi thức và
tập quán xã giao như thăm viếng, thư từ, quà tặng.
4. Xét ý chính trong nhiều không gian và thời gian khác nhau
Ví dụ: Ý chính là sự học hỏi, chúng ta có thể có những ý phụ như sau:
 Những phương tiện học hỏi, nghiên cứu ngày xưa và ngày nay khác
nhau như thế nào?
 Những tổ chức nghiên cứu khoa học trong phạm vi quốc tế, những
tổ chức văn hoá quốc tế.
 Những tinh thần học hỏi, phương pháp học hỏi ở Đông phương và
Tây phương giống và khác nhau ở điểm nào?
5. Xét ý chính qua nhiều quan niệm hay học thuyết khác nhau
Ví dụ: Ý chính là sự liên lạc giữa thầy và trò, chúng ta có thể có những
ý phụ như sau:
12
Phương Pháp Nghị Luận

Sự liên lạc giữa thầy và trò theo quan niệm cũ chịu ảnh hưởng của nho
giáo.
Sự liên lạc giữa thầy và trò theo quan niệm mới chịu ảnh hưởng tư
tưởng tự do và bình đẳng của Tây phương.
Đại để như trên, chúng ta có thể từ một ý chính suy ra nhiều ý phụ khác
để chọn lựa thích hợp với từng đề tài. Hơn nữa, cũng bằng cách tương tự,
từ những ý phụ vừa tìm thấy và sau khi đã chọn lựa kỹ càng, chúng ta có
thể tìm ra những ý phụ khác tỉ mỉ, chi tiết hơn để có đủ TÀI LIỆU xây
dựng một dàn bài.
BÀI TẬP
1. Bình giải câu: “Tu là cõi phúc”
2. Giải thích và bình luận câu: “Ôi gia đình là một học đường rất
tốt.”
3. Bình luận câu: “Học đường là một gia đình”
4. Aristote, một triết gia Hy Lạp đã nói:
“Một hành vi nhân đức không đủ làm thành đức, cũng như một con
én không dủ làm thành mùa xuân.” Hãy giải thích câu nói trên.
5. Giải nghĩa câu: “Tập quán ban đầu là khách qua đường, sau trở
nên một người bạn thân ở chung nhà, và kết cục biến thành một ông
chủ nhà khó tính.”
Ý chính của mỗi đề tài là:
1. Ai sửa đổi sẽ trở nên hoàn thiện.
2. Gia đình là nơi dạy bài học căn bản.
3. Tình thân trong học đườn.
4. Nhân dức là tập quán tốt, phải lặp lại suốt đời.
5. Quá trình hình thành tập quán.
Bài tập
Tìm ý chính của các đề tài sau đây:

13
Phương pháp nghị luận

1. Bình giải câu


“Trăm năm bia đã thì mòn,
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.”
2. Giải thích tư tưởng cổ nhân: “Chớ thấy điều thiện nhỏ mà không
làm, chớ thấy điều ác nhỏ mà làm”.
3. Giải thích câu châm ngôn: “Lòng ham muốn không nên quá tự do,
vui thú không nên đến cực độ.”

14
Phương Pháp Nghị Luận

Chương III: PHƯƠNG PHÁP LÀM DÀN BÀI


Trong việc xây ngôi nhà luận văn, lập dàn bài được so sánh với việc vẽ
hoạ đồ. Hoạ đồ càng tỉ mỉ, các nhân công càng dễ thực hiện và ngôi nhà
càng chóng hoàn thành. Việc làm dàn bài giúp cúng ta:
 Bố cục chặc chẽ.
 Lập luận vững vàng.
 Phân phối cân đối và hợp lý.
 Một dàn bài gồm 3 phần: nhập đề, thần bài và kết luận.
I. PHƯƠNG PHÁP LÀM NHẬP ĐỀ
1. Nhập đề nghĩa là gì?
Nhập đề còn gọi là vào bài hay mở bài là phần đầu tiên của phần nghị
luận, có mục đích giới thiệu vấn đề với độc giả, làm sao cho người đọc
không cần đọc qua đầu bài cũng hiểu được đầu bài muốn nêu lên vấn đề gì.
Có hai cách nhập đề:
a. Nhập đề trực khởi là giới thiệu vấn đề một cách trực
tiếp.
Ví dụ: trong bài “Hàn nho phong vị phú”, Nguyễn Công Trứ đã nhập
đề:
“Chém cha cái khó,
Chém cha cái khó,
Khôn khéo mấy ai,
Xấu xa một nó”
Cách nhập đề này gây được hứng thú bất ngờ, thường áp dụng trong
việc diễn thuyết, nhưng trong bài luận văn thường khó làm hay được.
b. Nhập đề lung khởi là giới thiệu vấn đề một cách gián
tiếp và bao quát.
Ví dụ 1: Khi viết về “số mệnh”, nhà văn Dương Minh đã nhập đề như
sau:

15
Phương pháp nghị luận

 Nhiều người không tin ở sự cố gắng của cá nhân, không cậy ở sức
liên hiệp của đoàn thể mà chỉ trông ngóng về trời đất.
 Những người ấy quá tin ở số mệnh.
 Vậy số mệnh là gì? Có số mệnh không? Và sự cố gắng của con
người có ảnh hưởng gì?
Ví dụ 2: Luận về lý thú văn chương, nhà văn Phan Kế Bình viết:
a. Phàm về các cuộc chơi của thiên hạ, cuộc nào cũng có một
lý thú riêng, như đánh cờ, uống rượu, gảy đàn, chơi cung cảnh… Tuy là
một cách tiêu khiển nhỏ nhặt, nhưng ngẫm ra thì cũng đều có một lý thú.
b. Văn chương cũng là một nghề chơi, mà nghề chơi lại thanh
nhã, lại hữu dụng, cho nên cái lý thú cũng to hơn các cuộc chơi khác.
c. Muốn biết cái lý thú của văn chương thì trước hết phải biết
cái hay của văn chương.
Đó là những đoạn nhập đề kiểu mẫu có đủ những phẩm tính cần thiết
đúng với cái trò của nó là: ngắn gọn, đủ ý, sát đề và bao quát, không vội đi
vào chi tiết của thân bài, nhất là không phê bình giá trị của vấn đề, nghĩa là
không vội cho đáp số trước khi làm bài giải (choán ý của kết luận).
Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ về cách nhập đề lung khởi này:
2. Cách nhập đề lung khởi
Một nhập đề lung khởi đúng nghĩa và đầy đủ gồm 3 phần:
a. Mào đề: Gồm một câu hay một ý liên quan đến chủ đề,
chuẩn bị giới thiệu chủ đề.
Có nhiều mào đề như chúng ta sẽ nói phần sau.
b. Nêu đề: Giới thiệu chủ đề.
Có 2 cách nêu đề:
 Giới thiệu nguyên văn câu nói trong ngoặc kép.
 Giới thiệu nguyên ý không dùng ngoặc kép.
c. Báo đề (hay chuyển đề): Báo cho người đọc biết công việc
sẽ làm ở phần thân bài. Báo đề cần:

16
Phương Pháp Nghị Luận

 Dựa vào loại đề.


 Dựa vào câu hỏi phụ nếu có.
Tuỳ theo mào đề thay đổi, chúng ta có nhiều cách nhập đề lung khởi
như sau.
1. Nhập đề kiểu tương đồng
Mào đề dựa vào ý chính của đề tài.
Ví dụ: (Giải thích) câu “Có công mài sắt có ngày nên kim.”
a. Mào đề: Trong cuộc đời tranh đấu, bền chí và cố gắng là
điều kiện cần thiết để đạt tới những kết quả tốt đẹp.
b. Nêu đề: Vì thế tục ngữ có câu: “Có công mài sắt có ngày
nên kim.”
c. Báo đề: Trong bài tiểu luận sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu
câu nói trên.
2. Nhập đề kiểu tương phản
Mào đề nói ngược lại với chủ đề để nhấn mạnh vấn đề chính sẽ giới
thiệu.
Ví dụ 1: Cùng với đề tài trên, nhập đề tương phản sẽ là:
a. Trong cuộc đời tranh đấu, nhiều người thiếu bền chí và cố
gắng đã phải bỏ việc nửa chừng.
b. Để khuyến khích những người nản chí ấy, tục ngữ có câu:
“Có công mài sắt có ngày nên kim.”
Ví dụ 2: Bình luận câu tục ngữ: “Trâu chết để da, người ta chết để
tiếng.”
Ý chính: Sau khi chết người ta vẫn để lại tiếng tốt hay tiếng xấu.
a. Người đời thường nói: “Chết là hết chuyện”: cửa cao nhà
rộng công danh phú quí thật chẳng khác gì giấc chiêm bao.
b. Nhưng chết có hết thật không vì tụ ngữ lại có câu: “Trâu ….
để tiếng.” Phải chăng sau khi chết, dư âm của đời người vẫn còn mãi?

17
Phương pháp nghị luận

c. Sau đây, chúng ta sẽ tìm hiểu và đánh giá câu nói trên.

BÀI TẬP
1. Làm nhập đề kiểu tương đồng
a. Trình bày những ích lợi của thú đọc sách.
b. Giải thích câu: “Thua thầy một vạn không bằng kém bạn
một ly.” Chúng ta phải áp dụng câu nói trên trong đời sống học sinh như
thế nào?
c. Giải thích câu: “Uống nước nhớ nguồn.”
2. Làm nhập đề kiểu tương phản
a. Giải thích câu: “Quốc gia nào cũng cần có nhiều bàn tay đen
và lương tâm trắng.”
b. “Biết trách mình là khôn, chỉ trách người là vụng”
3. Nhập đề kiểu suy diễn
Mào đề đi từ nguyên lý chung đến các trường hợp riêng trong cuộc
sống.
Ví dụ: Bình giải tư tưởng sau đây của Voltaire: “Sự làm việc xua đuổi
xa ta ba mối hoạ lớn: buồn nản, thói hư, và túng cực.”
a. Mào đề: Làm việc là định luật tự nhiên của con người trong
xã hội (nguyên lý chung): người làm việc, kẻ đi buôn, công chức đi làm,
học sinh đi học… ai cũng lo làm việc để mưu sinh và xây dựng tương lai.
b. Chuyển đề: Hơn nữa, theo đại văn hào Voltaire, sự làm
việc còn xua đuổi xa ta ba mối hoạ lớn là: buồn nản, thói hư và túng cực.
c. Báo đề: Tư tưởng trên đây có đúng không, và có giá trị thế
nào, chúng ta cùng nhau tìm hiểu
BÀI TẬP
Sau này bạn sẽ chọn nghề gì? Tại sao bạn lại chọn nghề ấy?
***
18
Phương Pháp Nghị Luận

4. Nhập đề kiểu qui nạp


Là đi từ những trường hợp riêng trong cuộc sống tới nguyên lý chung.
Ví dụ: Người ta thường giữ ảnh bạn bè hay người thân thuộc để là kỷ
niệm. Sự kiện đó đem lại những ích lợi gì?
a. Hai người bạn mới quen nhau thường rủ nhau đi chụp ảnh.
Hai người thân thuộc sắp xa nhau cũng rủ nhau đi chụp hình. Sống xa cách
nhau, bạn bè hay thân thuộc thường gửi cho nhau những tấm hình để tỏ
tình lưu luyến nhớ nhung (những trường hợp riêng).
b. Việc giữ ảnh bạn bè hay người thân thuộc để làm kỷ niệm
đã trở thành một sự kiện xã hội rõ rệt và ngày càng phát triển.
c. Vậy sự kiện đó đem lại những lợi ích gì?
BÀI TẬP
Sự trang điểm có làm tăng giá trị con người không, khi đi ra ngoài
chúng ta có bổn phận phải trang điểm không?
***
5. Nhập đề bằng định nghĩa
Thường áp dụng khi đề tài có những danh từ Hán Việt mà ý nghĩa của
chúng cần được xác định rõ trước khi bàn luận.
Ví dụ: Bình luận câu ca dao:
“Ở đời muôn sự của chung,
Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.”
a. “Anh hùng”, hai chữ đã làm cho bao người mơ tưởng! Theo
nghĩa đen, “anh” là thứ cỏ thơm; “hùng”là một loài thú dũng mãnh. Sách
Nho có câu: “Thảo trung chi anh, thú trung chi hùng”, ý nói: thứ cỏ thơm
trong các loài cỏ, thứ thú dũng mãnh trong các loài thú. Hai chữ anh hùng
họp lại để chỉ những bậc hơn hẳn các người đồng thời với mình.
b. Đề cao hai chữ anh hùng, ca dao có câu:
“Ở đời muôn sự của chung,
Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.”
19
Phương pháp nghị luận

c. Chúng ta hãy giải thích và phê bình câu trên để có thể rút ra
bài học trong cuộc sống hàng ngày.
Bài tập
Bình giảng câu: “Người quân tử dè dặt ở lời nói và nhanh nhẹn trong
việc làm.”
Bài làm
Sách vở thường nói đến người quân tử. Nhưng người quân tử là người
như thế nào? Theo nghĩa thông thường, quân tử là người có đức hạnh hơn
người khác, có lòng nhân từ bác ái, cư xử tử tế với hết mọi người. Thực ra
quân tử còn là người có tài năng và kiến thức hơn người khác, đồng thời
cũng thường giữ địa vị cao trong xã hội.
Nhận xét về người quân tử, cổ nhân có câu: “Người quân tử dè dặt ở lời
nói và nhanh nhẹn trong việc làm.” Câu ấy có nghĩa gì và chúng ta phải có
nhận định thế nào với tư tưởng ấy?
6. Nhập đề bằng cách giới thiệu nguồn gốc đề tài, giới thiệu tác
phẩm hay tác giả
Loại này thường được áp dụng khi gặp các đề tài văn chương văn học,
có liên quan đến một tác phẩm hay tác giả, hoặc các đề luân lý phổ thông,
giải nghĩa hay phê bình tư tưởng hoặc danh nhân nào.
Ta chỉ nên làm loại nhập đề này khi biết tường tận những điều muốn nói
về nguồn gốc đề tài, tác phẩm hay tác giả. Nếu còn hồ nghi, tốt hơn là nên
tìm cách nhập đề khác.
Ví dụ: Giải nghĩa tư tưởng của Nguyễn Bá Học: “Đường đi khó, không
khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.”
Nhập đề: Đọc văn Nôm bình luận của nước nhà chúng ta không thể
quên Nguyễn Bá Học. Tác giả có lời văn giản dị mà đanh thép, có khuynh
hướng đạo lý rõ rệt trong những tác phẩm để lại. Trong bài “Chí mạo
hiểm” trích trong tập “Lời khuyên học trò”, ông đã viết: “Đường đi khó…
ngại núi e sông.” Chúng ta hãy tìm hiểu tư tưởng này để biết cách ứng
dụng trong cuộc sống.
Bài tập: Bình giải hai câu thơ sau đây của Nguyễn Du:
20
Phương Pháp Nghị Luận

“Trăm năm trong cõi người ta,


Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.”
Nhập đề: Ai đã đọc thi phẩm của Nguyễn Du đều biết đến “Đoạn
Trường Tân Thanh” một truyện dài bằng thơ tuyệt tác trong thi ca Việt
Nam. Để mở đầu cho tác phẩm, thi sĩ Tố Như đã viết:
“Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.”
Sau đây chúng ta cùng tìm hiểu và nhận xét câu nói trên.
CHÚ Ý: Để giúp chúng ta hiểu thật rõ các kiểu nhập đề vừa trình bày ở
trên, sau đây là một ví dụ khác: Một đề tài có thể nhập đề bằng nhiều cách
khác nhau: Ví dụ: Một thi sĩ Pháp đã viết: “Chết cho tổ quốc không phải là
một chuyện rủi ro mà tự nhiên làm cho mình thành bất tử bằng một cái chết
đẹp đẽ.” Hãy giải nghĩa và phê bình ý tưởng trên.
a. Nhập đề kiểu tương đồng
Nghĩ về các liệt sĩ hy sinh và đất nước, nhà thơ Tố Hữu của Việt Nam
đã ca ngợi: “Có những phút làm nên lịch sử, có những cái chết hoá thành
bất tử… ” cũng trong tâm tình thán phục ấy, một thi sĩ Pháp đã viết: “Chết
cho tổ quốc… ” Chúng ta cùng tìm hiểu và nhận định tư tưởng trên.

b. Nhập đề kiểu tương phản


Tục ngữ có câu: “Chết là hết”: giàu sang, danh vọng, tiền tài… lúc chết
cũng chẳng đem theo được. Thời gian sẽ xoá nhoà tất cả. Con người là một
vật hữu sinh, hữu tử, từ chỗ hư vô rồi lại trở về cõi hư vô. Tuy nhiên cũng
có hạng người bất tử, mà lại trở thành bất tử nhờ một cái chết, như một thi
sĩ Pháp đã viết: “Chết cho tổ quốc.”
c. Nhập đề kiểu suy diễn
Trường sinh bất tử vốn là cái mộng của loài người. Nhân loại đã tìm hết
cách để kéo dài đời sống. Ngày xưa bao người đã khổ luyện phép tu tiên,
ngày nay có người đã nhờ đến khoa học để tiếp hạch, nhờ bảo hiểm nhân
thọ để đề phòng bất trắc, cố gắng giữ vệ sinh để tránh bệnh tật… nhưng có

21
Phương pháp nghị luận

lẽ có một cái làm cho mình bất tử hiệu nghiệm hơn, đó là hy sinh tính
mạng cho tổ quốc, như lời một thi sĩ Pháp đã viết: “Chết cho tổ quốc… ”
d. Nhập đề kiểu qui nạp.
Một em bé vừa lọt lòng mẹ đã vội vã lìa đời. Chàng thanh niên kia mới
công thành danh toại, đã bị cơn gió độc đưa về chín suối. Cụ già nọ đang
hưởng nhàn bên đàn con cháu bỗng được tử thần mời về chầu tổ tiên. Cái
chết đã trở nên qui luật, muôn đời nhân loại không ai tránh nỗi. Nhưng có
những người khôn ngoan đã khéo đi tìm cái chết của mình một ý nghĩa, đã
dùng cái chết như cánh cửa mở vào cõi trường sinh bất tử, như một thi sĩ
người Pháp đã viết: “Chết cho tổ quốc... ”
e. Nhập đề bằng định nghĩa
Người ta thường nói các bậc anh hùng, vĩ nhân, văn hào thi bá là những
người bất tử. Nhưng thế nào là bất tử? Bất tử đây phải chăng là không bao
giờ chết, là sống mãi trên dương gian? Không, bất tử ở đây chỉ có nghĩa là
được người đời nhớ ơn, nhắc nhớ tới luôn. Theo định nghĩa ấy một thi sĩ
Pháp đã viết: “Chết cho tổ quốc… ”
f. Nhập đề bằng cách giới thiệu tác phẩm, tác giả
Trong các thi sĩ cổ điển Pháp thế kỷ 17, có một vị đã nổi danh vì những
tác phẩm bi hùng kịch, vì những câu ca dao được phổ biến ở nước ta, đó là
Corneille, một nhà viết kịch trứ danh đã nêu lên trong những tác phẩm của
ông những tâm hồn cao thượng, đáng làm gương cho hậu thế noi theo.
Trong vở kịch “Le Cid” đã được dịch sang Việt ngữ là tuồng “Lôi xích”,
ông có viết: “Chết cho tổ quốc... ”
CHÚ Ý: Ngoài sáu kiểu căn bản ta cũng có thể:
 Nhập đề bằng một biến cố thời sự nổi tiếng
Ví dụ: Tìm hiểu các lợi hại của khoa học không gian.
 Ngày 4.10.1957, Liên xô phóng vệ tinh Spoutnik 1 vào quỹ đạo địa
cầu, làm cho cả thế giới kinh ngạc và phe Tư bản thực sự choáng váng,
Spoutnik 1 đã hé mở một thời đại không gian vô cùng hào hứng, với các
cuộc chạy đua ào ạt giữa hai khối Tư bản và Cộng sản.

22
Phương Pháp Nghị Luận

 Cuộc tranh tài cao thấp đó đã diễn tiến ra sao và đã đem lại lợi hại
gì cho toàn thể nhân loại, sau đây chúng ta cần tìm hiểu.
 Phối hợp các kiểu Nhập đề, chẳng hạn như: Quy nạp +
Tương đồng, Suy diễn + Tương phản…
Ví dụ: Muốn tiến bộ chúng ta cần phải học tập. Học ở nhà trường, học ở
trường đời cũng như học ở sách vở. Sách là kinh nghiệm của nhiều thế hệ
hun đúc lại. Một văn hào đã nói “Một cuốn sách hay là một người bạn tốt”,
nhưng Mạnh Tử lại bảo “Hoàn toàn tin sách thà chẳng có sách còn hơn”
(Tận tín ư thư bất vô thư). Vậy theo nhà hiền triết ấy, hoàn toàn tin sách là
gì? Điều đó có hại chi? Và ta phải có thái độ nào khi đọc sách? (kiểu Suy
diễn – Tương phản)

II. PHƯƠNG PHÁP LÀM DÀN Ý – THÂN BÀI


1. Thân bài là gì?
Thân bài hay còn gọi là “lung đề”hay diễn đề là phần mở rộng chủ đề
bằng những lời lẽ giảng giải, lập luận và dẫn chứng để làm sáng tỏ ý chính
của đề bài.
Là phần giữa của bài nghị luận, thân bài có nhiệm vụ tiếp theo ý của
phần nhập đề chuyển xuống và dọn đường cho việc chuyển ý xuống phần
kết luận.
2. Trên lý thuyết, thân bài phải đáp ứng những tiêu chuẩn nào?
a. Thân bài phải sát đề nghĩa là những ý tưởng trình bày trong
phần thân bài phải liên quan đến ý chính của đề bài, không được lan man
nói xa đề hay lạc đề.
b. Thân bài phải có trật tự nghĩa là những ý tưởng trình bày ở
đây phải theo một thứ tự nào đó (Ví dụ: Từ trước đến sau, từ gần ra xa, từ
thấp lên cao, từ xưa đến nay…) nếu không thân bài sẽ lộn xộn thiếu mạch
lạc, việc lập luận dễ trở thành lỏng lẻo.
c. Thân bài phải có sự tăng mạnh dần về lí luận, những lí lẽ
nhẹ nhàng được trình bày trước, những lí lẽ vững chắc được trình bày sau.
Bài làm như vậy dễ gây hứng thú cho người đọc.
23
Phương pháp nghị luận

3. Trong thực hành ta phải làm những công việc gì?


a. Về hình thức
Chúng ta căn cứ vào mỗi loại đề, dùng một bố cục tổng quát để đáp ứng
chu cầu của đề ấy.
 Loại đề giải thích
 Giải nghĩa cho rõ (nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa hẹp, nghĩa rộng).
 Lập luận cho vững.
 Dẫn chứng cho đúng.
 Loại đề bình luận
 Phần đúng (còn gọi là chính đề hay chủ thuyết)
 Giải nghĩa.
 Lập luận.
 Dẫn chứng.
 Phần sai sót (còn gọi là phản đề hay khách thuyết)
 Giải thích.
 Lập luận.
 Dẫn chứng.
 Dung hòa (còn gọi là tổng đề hay hợp thuyết)
Gồm cả ba phần trên, phần này có thể đưa vào kết luận.
 Loại đề trình bày
 Trước hết vạch rõ những lý do thấp gần.
 Tiếp theo nói đến những lí lẽ cao xa.
 Sau hết tiến tới những lẽ cao xa hơn nữa.
 Loại đề so sánh
 Tìm những điểm giống nhau (tương đồng)
 Tìm những điểm khác nhau (dị biệt)
 Tìm những điểm liên quan với nhau (tương quan)
Chú ý:

24
Phương Pháp Nghị Luận

 Nếu đề thuộc loại tổng hợp, ta phải phối hợp hai bố cục: Ví dụ: giải
thích và trình bày.
 Nếu đề có hai hoặc ba chủ điểm thì chúng ta phải coi đó như hai
hoặc ba đề luận kết hợp lại.
 Nếu đề có câu hỏi phụ, thì sau khi dùng bố cục đúng loại đề rồi,
chúng ta cần phải tìm cách trả lời thêm câu hỏi phụ ấy.
b. Về nội dung
Sau khi đã tìm được ý chính và các ý phụ (xem chương II), chúng ta có
thể lựa chọn một trong những mẫu sau để trình bày cho thứ tự.

Mẫu 1 Mẫu 2 Mẫu 3 Mẫu 4

Cá nhân
Thể chất Quá khứ Chân
Gia đình
Tinh thần Hiện tại Thiện
Tổ quốc
Đạo đức Tương lai Mỹ
Xã hội

Mẫu 5 Mẫu 6 Mẫu 7 Mẫu 8

Vật chất Lợi Xưa Đông


Tinh thần Hại Nay Tây

Cũng có thể phối hợp các mẫu ấy khi cần


Ví dụ đề ra: “Có nên chê trách các trò chơi thể thao không?”
Cách làm dàn ý phối hợp mẫu 2 và mẫu 6:
 Lợi của thể thao
 Về phương diện thể chất
 Về phương diện tinh thần
 Về phương diện đạo đức
 Hại của thể thao
 Về phương diện thể chất
25
Phương pháp nghị luận

 Về phương diện tinh thần


 Về phương diện đạo đức
c. Để giúp đào sâu vấn đề, ta cũng có thể tự đặt ra những câu
hỏi theo phương pháp W của nhà văn R.Kipling: What (cái gì), When (khi
nào), Why (tại sao), Who (ai), How (thế nào).
Ví dụ: Bình giảng tư tưởng: “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng
nhiều.”
Ta đặt những câu hỏi:
 Ai nói câu ấy?
 Nói ở lúc nào trong truyện Kiều?
 Câu ấy nghĩa là gi?
 Tại sao Kim Trọng nói cây ấy?
 Có thể áp dụng câu ấy như thế nào chơi đời Kiều, cho người Kim
Trọng? Chỗ nào đúng? Chỗ nào sai?
Không phải đề nào cũng có thể trả lời hết các kiểu câu hỏi ấy, có câu
chẳng đưa tới đâu, nhưng đó là phương pháp đại cương để đào sâu vấn đề,
tìm ra chi tiết cho lí luận và nhiều khi cũng có thể giúp ích.
BÀI TẬP
Chọn những mẫu thích hợp cho các đề sau đây rồi làm dàn bài sơ lược:
1. Giải thích cây tục ngữ: “Uống nước nhớ nguồn.”
2. Bình luận câu tục ngữ: “Cha nào con nấy.”
3. Trình bày lợi hại của vô tuyến truyền hình.
4. So sánh công bình và bác ái.

BÀI TẬP MẪU


Bạn hãy đọc kỹ cá phần quảng diễn sau:
CHỦ ĐỀ 1: CÓ CÔNG MÀI SẮT CÓ NGÀY NÊN KIM.

26
Phương Pháp Nghị Luận

Sắt là kim loại rất cứng, nhưng nếu được mài giũa cẩn thận và lâu ngày,
sắt cũng có thể thành được cái kim bé nhọn, tinh vi và hữu ích. Việc đời
cũng vậy, dù cho công việc khó khăn đến đâu, nhưng nếu ta quyết tâm bền
chí và gắng sức thục hiện thì cũng sẽ đạt được kết quả mong muốn.
Một người dù thân thể gầy yếu, nhưng đã quyết chí gắng công tập luyện
lâu ngày thì cũng có thể nên người tráng kiện. đó là trường hợp của một
lực sĩ đã đạt huy chương vàng trong thế vận hội năm 1964: Vốn là một
người mang bệnh tê liệt, nhưng nhờ kiên nhẫn tập luyện, một thiếu nữ đã
trở thành lực sĩ về môn chạy đua. Desmosthene bị tật nói lắp từ nhỏ, nhưng
nhờ quyết chí ngậm sỏi gào thét hàng ngày ngoài bãi biển, về sau ông đã
trở thành nhà hùng biện trứ danh của Hy lạp.
Về phương diện tinh thần cũng thế, tuy biển học mênh mông, nhưng nếu
ta bền chí sách đèn, thì cũng trở nên người thành đạt. Ngày xưa Châu Trí
nhà nghèo mà chăm học lắm, hàng đêm phải đốt lá đa thay đèn đọc sách.
Sau ông thi đậu giải nguyên, người đời có thơ khen.
“Anh học trò kiết chùa Long Tuyền
Ai ngờ nay đã đỗ giải nguyên.”
Ngày nay, Helen Keller tuy bì mù từ thuở nhỏ, nhưng nhờ công phu học
tập, cô đã trở thành một giáo sư nổi tiếng, đi diễn thuyết đó đây.
Cao hơn nữa, người muốn trau dồi đạo đức cũng cần bền lòng vững chí
mới được. Trình Tử sở dĩ trở nên bậc đại hiền, cũng là nhờ ông đã kiên
nhẫn dùng hai bình đỗ đen đỗ trắng để kiểm điểm và tự sửa tính hạnh mỗi
ngày.
Suy rộng ra, các công cuộc xây dựng lớn lao cũng vậy. Một gia đình
nếu mọi người đồng tâm hợp lực và quyết chí xây dựng thì có thể từ nghèo
khó dần dần trở nên giàu có được. Một quốc gia trở nên hùng cường cũng
nhờ toàn dân cương quyết đấu tranh vượt mọi trở lực. Việt Vương Câu
Tiễn nằm gai nếm mật nuôi chí phục thù, Lê Lợi chịu đựng gian khổ, bền
gan kháng chiến đều là những gương sáng trong sử sách. Cũng nhờ chí
nhẫn nại mà Kha-luân-bố đã tìm ra Mỹ Châu, và nhờ đó bộ mặt thế giới đã
hoàn toàn đổi mới.
Sau khi đọc kỹ phần quảng diễn trên, bạn hãy trả lời câu hỏi sau:

27
Phương pháp nghị luận

1. Cho biết đề luận này thuộc kiểu nào?


1. Phân tích phần quảng diễn thành một dàn bài chi tiết và chỉ
rõ giới hạn của mỗi tiểu đoạn?

BÀI LÀM
1. Đề luận này thuộc loại giải thích.
2. Dàn bài chi tiết
a. Giải thích
 Nghĩa đen: “Sắt là… hữu ích”
 Nghĩa bóng: “Việc đời… mong muốn”
b. Lập luận và chứng minh
 Phạm vi cá nhân
 Thể chất:
 Lập luận: “Một người… tráng kiện”
 Dẫn chứng: “Đó là… của Hy lạp”
 Tinh thần:
 Lập luận: “Về phương diện… thành đạt”
 Dẫn chứng. “Ngày xưa… đó đây”
 Đạo đức:
 Lập luận: “Cao hơn… mới được”
 Dẫn chứng: “Trình Tử… mỗi ngày”
c. Phạm vi gia đình, tổ quốc, xã hội
Gia đình: Lập luận và dẫn chứng. “Suy rộng… có được”
Tổ quốc: Lập luận và dẫn chứng: “Một quốc gia… sử sách”
Xã hội: Lập luận và dẫn chứng: “Cũng chính… đổi mới”

28
Phương Pháp Nghị Luận

CHỦ ĐỀ 2: CHA NÀO CON NẤY


Câu tục ngữ nói trên tuy ngắn gọn, đơn giản nhưng hàm chứa một ý
nghĩa sâu sắc. Ai cũng phải công nhận có sự di truyền huyết thống và ảnh
hưởng giáo dục của cha mẹ đối với con cái. Nói rõ hơn, về phương diện thể
chất, tinh thần đạo đức, nếu cha mẹ có những ưu khuyết điểm nào thì con
cái cũng thường có những ưu khuyết điểm tương tự.
Thật vậy, cha mẹ thân hình cao lớn vạm vỡ thường sinh con bụ bẫm
mạnh khỏe. Con cái các lực sĩ hay võ tướng thường có sức mạnh hơn
người. Nguyễn Công Trứ suốt đời vùng vẫy lúc tuổi ngoại thất tuần vẫn
còn tráng kiện. Phải chăng thân phụ ông, Đức ngạn hầu Nguyễn Tấn là một
võ tướng dưới triều Lê? Nhìn sức khỏe con cái, người ta đoán được hình
vóc của cha mẹ chúng. Nếu cha mẹ nghiện ngập trác táng thì tránh sao con
cái khỏi gầy yếu ẻo lả được. Người đời thường nói “Giỏ nhà ai, quai nhà
nấy” là thế.
Về phương diện tinh thần cũng vậy. Cha mẹ thông minh, học lực uyên
bác thường sinh con khôi ngô, học tập xuất sắc. Thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp
đã không hổ thẹn là con trai văn hào Nguyễn Văn Vĩnh, cả hai cha con ông
đều nổi tiếng trong văn học sử Việt Nam đầu thế kỷ XX. Thật là “Con nhà
tông chẳng giống lông cũng giống cánh.”
Cao hơn nữa, gương đức hạnh của cha ông thường thể hiện qua tư cách
đối xử với con cháu, cha mẹ gian xảo thì con cái tránh sao khỏi lưu manh
độc ác. Trái lại cha mẹ nhân đức thì con cái lo gì không hiền lành. Trong
tác phẩm “Nhị độ mai” Mai Bá Cao khí phách hiên ngang quyết đương đầu
với quyền gian. Con trai ông là Mai Sinh cũng hăng hái tán thành ý cha, dù
có lâm vào nguy hiểm cũng không sờn. Trước thái độ ấy, Mai Bá Cao đã
phải khen ngợi con.
“Mới hay hổ phụ lân nhi,
Khéo thay tính trẻ cũng y tính già”
Xem thế, con cái quả là hình ảnh khá trung thực của cha mẹ, đúng như
ca dao Việt Nam có câu:
“Con ai mà chẳng giống cha,
Cháu ai mà chẳng giống bà giống ông”

29
Phương pháp nghị luận

Tuy nhiên, phải chăng câu tục ngữ Tây phương nói trên hoàn toàn xác
đáng và có giá trị tuyệt đối? Nói cách khác, ở đời “hổ phụ” nào cũng sinh
“hổ tử” cả chăng?
Trong lịch sử nhân loại chúng ta thấy: biết bao vĩ nhân hào kiệt mà con
cháu lại nhu nhược tầm thường. Hôn quân Cảnh Thịnh, ám chúa Lưu Thiện
bên trời Đông, Louis XV nổi tiếng ăn chơi, Napoleon II vô tài trời Tây đều
là con cháu không xứng đáng với sự nghiệp oai hùng hiển hách của cha
ông. Đối với hạng con cháu ấy, tục ngữ Trung Hoa có câu: “Hổ phụ sinh
khuyển tử”. Mặt khác, lại có những bậc thánh hiền, anh hùng xuất thân từ
những gia đình cha mẹ tầm thường: vua Thuấn, bậc chí hiếu nổi danh
“thánh chúa” trong lịch sử Trung Hoa lại là con ông Cổ Tẩu, một người vô
tài và gàn dở.
Trong lịch sử cổ kim Đông Tây, trường hợp này không phải là hiếm
Bạn đọc hãy đọc kỹ phần quảng diễn trên và trả lời những câu hỏi sau:
1. Cho biết đề luận này thuộc loại nào?
2. Căn cứ vào phần quảng diễn, hãy lập thành một dàn ý chi tiết
“xuôi chiều”
3. Đoạn phê bình trong phần quảng diễn này có tính cách chỉ
trích,hạn chế hay bổ túc.
BÀI LÀM MẪU
A. PHẦN ĐÚNG
1. Giải nghĩa (giải thích): Có sự di truyền huyết thống và ảnh hưởng
của giáo dục của cha mẹ đối với con cái
2. Lập luận và dẫn chứng
a. Phương tiện bật thể chất
 Lập luận: Con cái thường giống cha mẹ về thân hình và thể lực
 Dẫn chứng: Nguyễn Công Trứ con tướng Nguyễn Côn Tấn.
Hệ quả: Nhìn sức khỏe con cái đoán được sức khỏe cha mẹ
Dẫn chứng: “Giỏ nhà ai, quai nhà nấy”

30
Phương Pháp Nghị Luận

b. Phương diện tinh thần


Lập luận: Cha mẹ thông minh thường sinh con cái học giỏi
Dẫn chứng: Thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp con trai thi hào Nguyễn Văn
Vĩnh
c. Phương diện đạo đức
 Lập luận: Gương đức hạnh của Cha ông thường thể hiện qua tư
cách đối xử của con cháu.
 Dẫn chứng: Mai Sinh con của Mai Bá Cao khẳng khái trong tác
phẩm “Nhị độ mai.”
Tóm tắt phần đúng: Con cái quả là hình ảnh khá trung thực của cha mẹ
“Con ai mà chẳng giống cha,
Cháu ai mà chẳng giống bà, giống ông”
B. PHẦN HẠN CHẾ
Câu tục ngữ trên không hoàn toàn xác đáng
Đặt vấn đề của việc hạn chế.
1. Phương diện thể chất và tinh thần
 Lập luận: nhiều vĩ nhân hào kiệt mà con cháu nhu nhược tầm
thường
 Dẫn chứng: Cảnh Thịnh, Lưu Thiện, Louis XV, Napoleon II.
Tục ngữ Trung Hoa có câu “Hổ phụ sinh khuyển tử”
2. Phương diện đạo đức
 Lập luận: Có những bậc thánh hiền xuất thân từ Cha mẹ tầm
thường.
 Dẫn chứng: vua Thuấn là con ông Cổ Tẩu, một người gan dở
Tóm tắt hạn chế: Những trường hợp con không giống cha cũng thường
thấy trong lịch sử.

CHỦ ĐỂ 3: CÔNG BÌNH VÀ NHÂN ÁI


31
Phương pháp nghị luận

Theo nguyên nghĩa, công bình là đồng đều bằng nhau theo đúng lẽ phải
chung. Nói rõ hơn, công bình là nguyên tắc minh định phân sự mỗi phần tử
trong xã hội. Bổn phận mỗi người là tôn trọng quyền lợi vật chất và tinh
thần của người khác. Người hiểu lẽ công bình không xâm phạm tính mạng,
tài sản và không làm tổn thương danh dự, tự do của ai. Để khuyên ta theo
lẽ công bình, Sách Nho có câu: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân.”
Còn nhân ái là tình yêu thương giữa người với người, không phân biệt
giàu nghèo, màu da hay chủng tộc. Nói rõ hơn nhân ái là phương châm xử
thế, khuyến khích mọi người nên thương xót kẻ yếu đuối, giúp đỡ kẻ khốn
cùng và tha thứ kẻ lầm lỗi. Người giàu lòng nhân ái thường hy sinh công
của để xoa dịu nỗi khổ đau của đồng loại và rộng lượng khoan dung cho kẻ
thù nghịch. Để nhắc nhở người đời nên có lòng nhân ái, giúp đỡ đồng loại,
Kinh Thánh có câu: “Hãy là cho người khác điều gì con muốn người được
người khác làm cho con”(Mt.7, 12). Đối với kẻ thù, sách Phật cũng có câu
khuyên ta nên “Dĩ đức báo oán.” Vì nếu lấy oán báo oán thì oán chất chồng
lên còn lấy đức báo oán thì oán sẽ tiêu tan.
Xem thế công bình và nhân ái đề là những đức tính căn bản cần thiết
cho sự ổn định trật tự xã hội và đem lại niềm vui hạnh phúc cho nhân loại.
Tuy nhiên, hai đức tính ấy cũng không phải là không có những điểm khác
biệt, nếu không nói là nghịch với nhau.
Thật vậy, công bình thuộc về lý. Nguyên tắc này thường được qui định
thành luật lệ có tính cách cưỡng bách. Nguyên tắc công bình định rõ những
việc được làm và những việc không được làm. Ai vi phạm các điểm ấy
thường không tránh khỏi bị trừng phạt và bồi thường cho những người bị
thiệt hại.
Trái lại, nhân ái thuộc về tình. Phương châm này chỉ có tính cách
khuyến khích cà tự nguyện, tự giác, không ai có quyền và cũng không có
luật lệ nào buộc ta phải giúp đỡ kẻ khó, phải tha thứ kẻ thù. Nếu vì một lẽ
gì, ta không làm điều nhân ái, thì cũng không có tòa án nào xét xử trừng
phạt ta, ngoại trừ lương tâm ta tự căn rứt mà thôi.
Như vậy, công bình và nhân ái là hai phạm vi và có những tính chất
khác biệt hẳn nhau: một bên thuộc về luân lý, chỉ có tính cách tự nguyện

32
Phương Pháp Nghị Luận

còn một bên nằm trong phạm vi pháp luật và có tính cách cưỡng chế thi
hành.
Tuy vậy, hai đức tính ấy lại có mối tương quan thật là mật thiết, ai cũng
nhận thấy trong một xã hội, nếu mọi người theo đúng lẽ công bình thì
không ai xâm phạm của ai, quyền lợi tinh thần và vật chất của mọi người
đều được tôn trọng và điều hòa theo lẽ phải chung. Nhưng nếu xã hội chỉ
chú trọng và triệt để theo đúng lẽ công bằng mà lãng quên lòng nhân ái, thì
không phải là không gây ra những điều tai hại. Quả thế nếu không có lòng
nhân ái, người nghèo khổ đói khát sẽ bị bỏ rơi, người hoạn nạn không ai an
ủi, người lỗi lầm không ai khoan thứ… một xã hội như thế sẽ trở thành ích
kỷ, độc ác và tàn nhẫn.
Do đó, một xã hội yên vui, không thể thiếu lòng nhân ái được. Sống ở
đời là sống với kẻ khác. Vì vậy, sống với nhau phải có lòng thương yêu
giúp đỡ và tha thứ cho nhau thì cuộc sống mới thêm tươi đẹp. Nhưng nếu
quá thiên về tình cảm mà không chí trọng lẽ công bằng, thì cũng có nhiều
tai hại khác: không đúng theo lẽ công bằng thì kỉ luật không được duy trì,
người có công sẽ bị bỏ quên và kẻ có tội không bị trừng phạt. Vì thế tránh
sao khỏi những kẻ lợi dụng lòng nhân ái của người khác mà sinh ra lười
biếng ỷ lại và phóng túng trên đường tội lỗi.
Vì vậy, muốn xã hội công bình, trật tự và yên vui, công bình và nhân ái
phải đi song song và bổ túc cho nhau, một bên là điều kiện cần thiết để
củng cố tổ chức xã hội, một bên để phát triển và nâng cao đời sống nhân
bản.
Câu hỏi:
Đọc kỹ phần quảng diễn trân và trả lời những câu hỏi sau.
1. Đề luận thuộc loại nào?
2. Làm một dàn ý thân bài
Bài Làm
1. Định nghĩa công bình và nhân ái
a. Công bình là đồng đều bằng nhau theo đúng lẽ phải chung.

33
Phương pháp nghị luận

b. Nhân ái là tình yêu thương giữa người với người, không


phân biệt giàu nghèo, màu da hay chủng tộc.
2. So sánh công bình và bác ái
a. Điềm tương đồng: Công bình và bác ái là 2 đức tính căn
bản cần thiết cho sự ổn định trật tự xã hội và đem lại hạnh phúc cho nhân
loại
 Công bình: Không xâm phạm quyền lợi kẻ khác (tiêu cực), “Kỷ sở
bất dục, vật thi ư nhân”
 Bác ái: Giúp đỡ đồng loại, tha thứ kẻ lỗi lầm (tích cực)
 Kinh Thánh: “Hãy làm cho kẻ khác điều con muốn kẻ khác làm cho
con.”
 Sách phật: “Dĩ đức báo oán.”
Tóm tắt phần tương đồng
b. Dị biệt
 Công bằng thuộc về luân lý, quy định thành luật cưỡng bách, vi
phạm bị trừng phạt.
 Nhân ái thuộc về tình, có tính cách tự nguyện. Vi phạm không ai
xét xử trừ lương tâm.
Tóm tắt phần dị biệt.
c. Tương quan mật thiết
 Công bằng thiết nhân ái: Xã hội trở thành ích kỷ, độc ác tàn nhẫn.
 Nhân ái thiết công bình: Kỉ luật không được tôn trọng, lòng nhân ái
bị lạm dụng.
Tóm tắt phần tương quan

III. PHƯƠNG PHÁP LÀM KẾT LUẬN


1. Kết luận là gì?
a. Kết luận còn gọi là kết thúc hay kết bài, là phần kết của bài
nghị luận. Kết luận có mục đích tóm tắt phần quảng diễn ở thân bài, cho
34
Phương Pháp Nghị Luận

người đọc một ý rõ rệt về cách lập luận và thái độ của người viết đối với
vấn đề nêu lên trong bài.
Trên phần nhập đề, ta đặt ra vấn đề rồi giải quyết trong phần thân bài và
cho biết đáp số rõ ràng trong kết luận.
b. Một kết luận đầy đủ thường có ba phần
 Tóm tắt thân bài: Thâu gọn các chỉ điển của phần quảng diễn.
 Nêu bài học: Rút ra từ vấn đề nghị luận một bài học để làm những
phương châm xử thế. Bài học ấy có thể là: Tán thành, chỉ trích (không
bằng lòng), hạn chế, bổ túc, dung hòa, chọn lựa… tùy chủ đề và loại đề.
 Thêm ý mới: Phần này tuy không bó buộc nhưng cũng nên có. Nó
cho tác dụng mở ra một khía cạnh mới của vấn đề. Nhưng chúng ta nên
tránh kẻo lại tạo ra một đề luận mới. Cách giản tiện nhất là chọn một câu
ca dao tục ngữ hay danh ngôn liên hệ với chủ đề và dùng một câu đưa dẫn
vào cuối bài luận.
c. Vài ví dụ
Ví dụ 1: Kết luận bài “Thi ca đối với tâm hồn con người”, học giả
Dương Quảng Hàm viết:
 Tóm tắt bài: Tóm lại, tùy thi ca cũng có ít bài thuộc loại sầu tình
làm mê hoặc tinh thần, nhưng phần nhiều có ảnh hưởng tốt: Thi ca vừa là
một cách tiêu khiển làm quên được nỗi nhọc nhằn, đau khổ trên đời, khiến
ta có nghị lực để làm việc, vừa là những bài học hay gây nên những tính
tình tao nhã khiến con người giữ được phẩm cách thanh cao.
 Nêu bài học: Vậy thi ca vẫn có thể được coi là một môn nuôi hồn
bổ ích nên đọc nên ngâm, miễn là ta biết lựa chọn và biết suy xét, không
thể để cho trí ta bị sai lầm những điều mơ mộng, lòng ta đắm đuối vào cõi
dục tình.
Ví dụ 2: Viết về “Tục ngữ ca dao” nhà văn Phạm Quỳnh kết luận
 Tóm tắt bài: Vậy chúng ta nên trân trọng lấy cái quốc âm quý báu
ấy, ra công luyện tập trau dồi cho mỗi ngày một hay một đẹp hơn.

35
Phương pháp nghị luận

 Nêu bài học: Dù ta học chữ Tây hay chữ Tàu, ta cũng chớ bỏ tổ
quốc là thứ tiếng từ khi lọt lòng mẹ ta đã tập nói cho đến lúc hấp hối cũng
vẫn còn nói.
Thêm ý mới: Ta nên nhớ lấy câu:
“Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”
Ví dụ 3: Học giả Trần trọng Kim đã kết thúc bài viết: “Văn thơ” như
sau:
 Tóm tắt bài: Vậy lợi hại là ở sự dùng phải hay trái chứ không phải
ở văn thơ
 Nêu bài học: Tóm lại, ta nên xem văn thơ như một bảo vật và nên
trau dồi cho được toàn hảo toàn mỹ.
 Thêm ý mới: Đó cũng là một vấn đề khẩn thiết trong nền giáo dục
tương lai.
So với chiều dài của một bài nghị luận, ta thấy các kiểu luận này rất
ngắn gọn, nêu lên được bài học thiết thực và gợi ra được một ý mới liên hệ,
không bị cụt ngủn mà cũng không lằng nhằng. Các kết luận đó thâu tóm
phần quảng diễn mà không trùng lặp, ứng đáp với phần nhập đề thành một
toàn khối chặt chẽ,hài hòa.
2. Các kiểu kết luận
Tùy theo phần nêu bài học với các thái độ khác nhau đối với vấn đề, ta
có nhiều kiểu kết luận.
 Kết luận theo kiểu tán thành: Thường dùng trong trường hợp
đề bài thuộc loại giải thích.
Ví dụ: Giải thích câu tục ngữ. “Có công mài sắt có ngày nên kim”
 Mẫu tóm tắt bài cho đề giải thích:
Qua những lập luận và chứng minh trên ta thấy câu… vừa là một nhận
xét xác đáng vừa nêu lên một bài học quý giá.

36
Phương Pháp Nghị Luận

a. Qua những lập luận và chứng minh trên, ta thấy sự bền chí
là cửa ngõ dẫn tới thành công.
b. Vậy chúng ta phải quyết tâm nỗ lực vượt mọi trở ngại để
công việc dự định đạt được kết quả tốt đẹp.
c. Riêng học sinh chúng ta nên noi gương Châu Trí và ghi nhớ
hai câu ca dao sau:
“Ở đời chẳng có việc gì khó,
Người ta lập trí phải nên kiên.”
 Kết luận kiểu hạn chế hay giới hạn: thường dùng trong những
đề thuộc loại bình luận.
 Mẫu chung cho phần tón tắt bài:
Sau khi đã giải thích và phê bình, chúng ta nhận thấy cây tục ngữ trên
tuy có phần hữu lý nhưng không hoàn toàn xác đáng và không có giá trị
tuyệt đối.
Vi dụ: Bình luận câu tục ngữ “Cha nào con nấy”
a. Qua phần quảng diễn trên, chúng ta nhận thấy tuy cha mẹ có
ảnh hưởng trên con cái về thể chất, tinh thần đạo đức nhưng cũng không
thiếu những trường hợp ngoại lệ trong lịch sử.
b. Vậy chúng ta không nên quá suy tôn hạng con dòng cháu
giống, cũng đừng nên quá thành kiến coi thường những người xuất thân
nơi thôn dã.
c. Nhưng dầu sao cha mẹ cũng cần tu thân luyện đức để con
cháu có được một tâm hồn minh mẫn trong một thân thể tráng kiện.
3. Kết luận kiểu bổ khuyết
Ví dụ: Tục ngữ có câu “Thất bại là mẹ thành công.” Bạn nghĩ sao?
a. Qua những nhận xét trên, chúng ta thấy câu tục ngữ có phần
hữu lý nhưng không khỏi thiếu sót, vì nếu không được chuẩn bị cẩn thận,
thất bại có thể làm cho con người ngã quỵ.

37
Phương pháp nghị luận

b. Vậy muốn cho thất bại có hy vọng làm mẹ của thành công.
Chúng ta cần sáng suốt nhận rõ khuyết điểm và thành thực quyết tâm sửa
chữa lỗi lầm mới mong chuyển bại thành thắng được.
c. Chúng ta hãy luôn tự nhủ mình: Thua keo này bày keo
khác! Con người tranh đấu phải coi thường thất bại, như một nhà thơ đã
viết.
“Ai chiến thắng mà không từng chiến bại
Ai nên khôn mà không dại đôi lần”
4. Kết luận kiểu dung hòa hay chiết trung
Ví dụ: So sánh công bình và nhân ái
a. Sau khi đã so sánh kĩ, ai cũng công nhận rằng; công bình và
nhân ái mặc dù có nhiều điểm dị đồng nhưng vẫn liên quan mật thiết với
nhau.
b. Vậy chúng ta phải triệt để theo lẽ công bằng và thêm vào
đó, phải mở rộng tâm hồn để yêu thương giúp đỡ đồng loại.
c. Để nêu cao thái độ sống của dân tộc biết hòa tình cảm với lý
trí, biết dung hợp pháp luật với đạo lý, một nhà thơ Việt nam đã
viết:“Ngoài thì là lý, song trong là tình.”
5. Kết luận kiểu phản đối
Kiểu kết luận này thường được áp dụng với những đề bài nêu lên một tư
tưởng tuy đúng với sự thực, hợp với thực tế nhưng lại trái với nền luân lý
đạo đức.
Ví dụ: Người ta thường nói, “Đèn nhà ai nấy rạng.” Hãy giải nghĩa và
phê bình quan niệm trên trong đời sống xã hội hiện tại.
a. Như trên đã trình bày, những ảnh hưởng tai hại của quan
niệm “Đèn nhà ai nhà ấy rạng” có thể gây ra trong cuộc sống hiện tại,
chúng ta nhận thấy tính chất hẹp hòi và phản tiến hóa của quan niệm ấy.
b. Trong xã hội loài người ngày nay, tương quan giữa các nhân
này với cá nhân khác, giữa dân tộc này với dân tộc khác ngày càng mật
thiết, quan niệm trên không thể nào làm kim chỉ nam cho hành động con
38
Phương Pháp Nghị Luận

người được nữa. Cá nhân nào hay đoàn thể nào còn theo quan niệm ấy sẽ
lãnh lấy hậu quả tai hại là tự cô lập mình trong xã hội loài người ngày càng
biết hợp tác chặt chẽ với nhau, tự thoái bộ và tự tiêu diệt trước bánh xe tiến
hóa của nhân loại.
6. Kết luận kiểu chọn lựa
Ví dụ: Tài là gì? Đức là gì? Tại sao tài đức cần phải kiêm toàn?
a. Như trên đã trình bày, người có đức được ưu đãi về phương
diện luân lý, người có tài lại nổi bật về hành động.
b. Vậy muốn trở nên một người toàn diện chúng ta cần cố
gắng rèn tài luyện đức được vẹn toàn. Nhưng nếu phải chọn lựa thì chúng
ta đành chịu kém tài còn hơn là thiếu đức.

39
Phương pháp nghị luận

Chương IV: PHƯƠNG PHÁP HÀNH VĂN


I. NHỮNG ƯU ĐIỂM VỀ HÀNH VĂN
A. NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA VĂN NGHỊ LUẬN
Mối thể văn có mục đích và đặc tính riêng. Với mục đích thuyết phục
người đọc, văn nghị luận có các đặc tính như: Chính xác, gọn gàng, giản
dị, tự nhiên, linh động, thanh nhã, khiêm tốn, súc tích, vững chắc, hùng
hồn, đanh thép.
1. Chính xác
Khác với lối văn mô tả cần uyển chuyển nhịp nhàng như văn tả người,
tả cảnh, lối văn nghị luận càng rõ ràng chứng nào càng hay chừng ấy.
Ví dụ: Câu văn viết thiếu chính xác như: Vì tình nghĩa, người ta lưu
luyến nhau và không thể bỏ nhau được.
Câu văn viết chính xác hơn: Chính vì tình người ta đã lưu luyến nhau,
nhưng vì nghĩa người ta không thể bỏ nhau được.
2. Gọn gàng giản dị
Trong khi nhiều lối văn khác cần cầu kỳ hoa mỹ, bay bướm… thì lối
văn nghị luận cần gọn gàng giản dị, để cho người đọc dễ nhận thấy những
tình tiết tỉ mỉ, sự lập luận khúc chiết tỏng câu văn.
Ví dụ: Câu văn viết chưa gọn gàng, giản dị: Con thuyền quốc gia lúc
bấy giờ gặp cơn sóng gió, khi dâng lên, khi chìm xuống, người trong
thuyền chỉ biết kêu khóc hay cầu nguyện, riêng có bậc anh hùng là bình tay
giữ chèo, hay giữ lái cho qua lúc ba đào nguy hiểm.
Câu văn viết gọn gàng giản dị hơn: Trong lúc tổ quốc lâm nguy, người
dân thường chỉ biết phàn nàn hay lo lắng. Riêng có bậc anh hùng là bình
tĩnh nhận định tình hình, tìm mưu kế giúp non sông thoát hiểm.

3. Tự nhiên, linh động

40
Phương Pháp Nghị Luận

Có nhiều lối văn phải chải chuốt, khoa trương như văn diễn thuyết. Lối
văn nghị luận cần tự nhiên, linh động cho bài văn nhẹ nhàng dễ hiểu hơn.
Ví dụ: Câu văn thiếu tự nhiên, linh động: Người chiến sĩ đã đem máu
đào, đem xương trắng ra đổi lấy từng tấc ruộng xanh, từng bông lúa vàng
cho dân tộc, bỏ tất cả cha mẹ vợ con xóm làng theo tiếng gọi của núi sông.
Ôi cao quí thay! Ôi đẹp đẽ thay! Những người con yêu của tổ quốc.
Câu văn viết cho tự nhiên, linh động hơn: Thật là cao quí khi người
chiến sĩ đem xương máu đền nợ nước, quên tất cả lạc thú, gia đình để
phụng sự dân tộc.
4. Thanh nhã khiêm tốn
Khác với lối văn mô phạm có tính cách khuyên răn người đời, lối văn
nghị luận, nhất là trong bài luận văn của người học sinh, cần phải thanh
nhã khiêm tốn. Chúng ta nên nhớ rằng: sự lập luận vững vàng đanh thép
không hề gây trở ngại cho việc viết câu văn thanh nhã khiêm tốn.
Ví dụ: Câu văn thiếu thanh nhã khiêm tốn hơn: Phàm người ta sinh ra ở
đời, ai lại chẳng biết một cách chắc chắn rằng tính hay nói dối đã đem lại
nhiều hậu quả xấu xa.
Câu văn viết thanh nhã, khiêm tốn hơn: Trong cuộc sống hằng ngày,
thiết tưởng ai cũng có thể tin rằng tính hay nói dối đem lại nhiều hậu quả
không hay.
5. Súc tích, vững chắc
Trong lối văn nghị luận, chúng ta nên tránh sự dài dòng, miên man và
cố gắng súc tích, vững chắc.
Câu văn viết chưa súc tích, vững chắc như: Kết quả của sự thành công
ấy thật là rực rỡ huy hoàng, đem lại nhiều lợi ích cho thân nhân trong gia
quyến cũng như mọi người trong nước.
Câu văn viết súc tích vững vàng hơn: Sự thành công rực rỡ ấy đã đem
lại lợi ích cho nhà nước
6. Hùng hồn, đanh thép

41
Phương pháp nghị luận

Văn có hùng hồn đanh thép hay không là do sự lập luận, diễn ý nhiều
hơn là ở một vài tiếng đưa đẩy nghe thật kêu một cách khoa trương, nhưng
rút lại không thêm được ý gì cho câu văn. Cũng vì vậy một cây văn vừa
hùng hồn, vừa đanh thép là câu văn hay, trong khi một câu văn vừa lủng
củng vừa nặng nề, vừa dài dòng là câu văn dở.
Ví dụ: Câu văn viết chưa hùng hồn, đanh thép: Chính bởi vì lý do thành
công một cách quá ư dễ dàng, cho nên nhiều người không biết kiên nhẫn và
cố gắng, do đó chính họ lại là những người nhận lấy thất bại nếu gặp
trường hợp khó khăn. Bởi thế nên chúng ta luôn phải kiên tâm bền chí, mặc
dù gặp những điều ngang trái.
Câu văn viết hùng hồn, đanh thép hơn: Chình vì thành công quá dễ
dàng, nhiều người không biết kiên nhẫn và cố gắng sống, nên đã thất bại
khi gặp khó khăn. Chúng ta nên lấy đó làm gương sửa mình.
B. CÂU VĂN CỤ THỂ VÀ CÂU VĂN TRỪU TƯỢNG
1. Về phương diện văn phạm, chúng ta phân biệt
Câu văn cụ thể khi có chủ từ là tiếng cụ thể.
Ví dụ: Học sinh đến trường làm việc chăm chỉ để cuối năm hy vọng thi
đậu.
Câu văn trừu tượng có chủ từ là tiếng trừu tượng
Ví dụ: Sự làm việc chăm chỉ của người học sinh ở trường có thể dẫn đến
kết quả thi đậu cuối năm.
2. Trong một bài luận thuộc lối văn nghị luận, câu văn trừu tượng
dùng để diễn tả ý trong đoạn văn lập luận là phần căn bản của bài văn
nghị luận dùng để diễn ý trong đoạn văn dẫn chứng hay giới thiệu
Tuy nhiên có nhiều trường hợp người viết những câu văn cụ thể nhưng
có giá trị trừu tượng. Lối viết này có ưu điểm vừa giữ được vẻ sáng sủa, dễ
hiểu của câu văn cụ thể. Đồng thời vừa giữ được thâm trầm, kín đáo của
câu văn trừu tượng.
Ví dụ: Vị dân biểu hùng hồn lớn tiếng ở nghị trường, bác nông phu cặm
cụi đổ mồ hôi trên luống cày, người thợ miệt mài trong xưởng máy, kẻ đi

42
Phương Pháp Nghị Luận

buôn xuôi ngược sớm hôm, các chiến sĩ hiên ngang ôm súng nới chiến
địa… chúng ta sẽ hỏi ai giúp ích cho xã hội hơn ai?
Câu văn cụ thể này có thể tóm tắt thành một câu văn trừu tượng như
sau: Sĩ, nông, công, thương, binh nghề nào có ích cho xã hội hơn cả?
Cũng có những câu văn trừu tượng mà giá trị như những câu văn cụ thể.
Lối viết này cũng có ưu điểm như lối viết ở trên, lại làm cho người đọc
thêm phần chú ý hơn.
Ví dụ: Sự đói rét, tật bệnh và ngu dốt là những u nhọt đang tàn phá cơ
thể xã hội. Chúng là vi trùng len lỏi vào trong từng tế bào, tiêu hủy từng bộ
phận, làm tê liệt cả khối óc lẫn con tim của nhân loại.
Câu văn trừu tượng này có thể viết thành một câu văn cụ thể sau: Khi bị
đói rét, tật bệnh và ngu dốt, một cá nhân cũng như một tập thể không biết
gì là trái phải là yêu thương.
Ví dụ: Sự dịu dàng có vai trò như lá cây ngụy trang trong chiến tranh.
Rất nhiều khi nó chỉ nhằm che giấu chiến thuật yêu thương.
Trong tình yêu người ta thường dùng thái độ dịu dàng để che giấu tâm
tình yêu thương sôi nổi.
Sau đây là một đoạn văn trích trong tác phẩm “Nghĩa vụ là gì” của
Phạm Quỳnh, trong tạp chí Nam Phong. Chúng ta có thể lấy làm ví dụ để
nhận định rõ vai trò của câu văn cụ thể và câu văn trừu tượng trong một bài
văn nghị luận.
Đại thể các xã hội ngày xưa lấy nghĩa trọng hơn lợi. Không những thế,
mà hai quan niệm về nghĩa vụ và quyền lợi, người xưa chỉ biết nghĩa vụ mà
không hề nghĩ đến quyền lợi. Lại không những thế, trong một xã hội,
những người vì địa vị của mình được có quyền lọi đối với người khác,
cũng coi quyền lợi ấy là nghĩa vụ, vua đối với tôi, cha đối với con, chồng
đối với vợ, đều có quyền lợi riêng. Vua có quyền lợi trị dân, nhưng cái
quyền ấy tức là lo cho dân được an lạc. Cha có quyền dạy con, nhưng cái
quyền ấy là phải gây dựng cho con được nên người. Chồng có quyền
khuyên vợ, nhưng cái quyền ấy là phải mưu cho gia đình được thuận hòa
vui vẻ. Nói tóm lại thì ngày xưa quan niệm quyền lợi thuộc về “tiêu cực”
mà quan niệm về nghĩa vụ thì thuộc về “tích cực”. Ngày nay tựa hồ như
43
Phương pháp nghị luận

phải trái lại: “tiêu cực” chuyển ra “tích cực” và “tích cực” chuyển ra “tiêu
cực”, quyền lợi xem ra trọng hơn nghĩa vụ.
Sự chuyển dịch ấy khởi ra tự Châu Âu. Các nước Tây Âu xướng ra nhân
quyền, làm kinh thiên động địa vì hai chữ “quyền lợi”. Vua có quyền lợi
đối với dân, nhưng dân cũng có quyền lợi đối với vua. Cha có quyền lợi
đối với con, nhưng con cũng có quyền lợi đối với cha. Chồng có quyền lợi
đối với vợ, nhưng vợ cũng có quyền lợi đối với chồng. Bấy nhiêu quyền lợi
tranh giành xung đột nhau, khởi lên như giáo dựng, thì phân định làm sao
cho được? Ai cũng có quyền lợi cả, mà duy chỉ có quyền lợi tối yếu là
quyền quyết định mọi sự cạnh tranh thì không thuộc về ai!

II. PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG MỘT PHÂN ĐOẠN


1. XÂY DỰNG MỘT PHÂN ĐOẠN LÀ GÌ?
Xây dựng một phân đoạn là đặt câu dùng chữ để xây dựng thành một
đoạn văn.
Căn cứ vào phương pháp chung, các nhà văn thường xây dựng một đoạn
văn gồm 4 phần như sau: ý chính, lí luận, dẫn chứng, tiểu kết. Ví dụ:
 Ý chính: có kiên nhẫn cố gắng làm việc thì mới thành công.
 Lí luận: Các vĩ nhân trên thế giới sở dĩ thành nên sự nghiệp đều do
chí kiên nhẫn và sức cố gắng mà ra cả.
 Dẫn chứng: nhà bác học trong phòng thí nghiệm, nhà văn trong bàn
viết, người mẹ trong gia đình, người y tá trong bệnh viện, người thợ trong
xưởng máy… tất cả đều phải gắng sức kiên nhẫn mới giúp ích cho đời.
 Tiểu kết: Cuộc đời là nơi chiến đấu, đòi hỏi ta phải kiên nhẫn và
gắng sức tới cùng. (Theo Nguyễn Văn Trung)
Cũng có những trường hợp vì lí lẽ minh bạch và sự thật hiển nhiên, ta
chỉ cần lí luận mà không cần dẫn chứng. Ví dụ:
 Ý chính: Nhưng cũng có những thứ tình cảm hỗn loạn, đưa người ta
vào con đường xấu xa tội lỗi.

44
Phương Pháp Nghị Luận

 Lí luận: Đó là những tình cảm ủy mị đưa tới các thứ tình ái bất
chính dâm ô, hoặc những tình cảm thái quá đưa tới sự hiềm khích tranh
giành.
 Tiểu kết: những kẻ không kìm hãm và làm chủ được tình cảm hộn
loạn của mình như vậy sẽ phải gánh lấy hậu quả rất tai hại. (Theo Nguyễn
Nam Châu)
Trên đây là hai ví dụ đơn giản và điển hình trong việc xây dựng một
phân đoạn. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này kĩ hơn trong chương về các
phương pháp suy tư và lí luận.
2. VÀI ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN KIỂU MẪU
a. GIÁ TRỊ CON NGƯỜI
 Người ta chẳng qua là một cây sậy, cây sậy mềm yếu nhất trong tạo
hóa, nhưng là một cây sậy có tư tưởng.
 Cần gì cả vũ trụ phải tòng hành nhau mới đè bẹp được cây sậy ấy?
Một chút hơi, một giọt nước cũng đủ làm chết người được. Nhưng dù vũ
trụ có đè bẹp người ta, người ta so với vũ trụ vẫn cao hơn vì khi chết thì
biết rằng mình chết chứ không như vũ trụ kia khỏe hơn người nhiều mà
không tự biết rằng mình khỏe.
 Vậy thì giá trị chúng ta là ở tư tưởng. Ta tự cao dựa vào tư tưởng
chứ đừng cậy ở không gian, thời gian là hai thứ chúng ta không bao giờ
làm đầy hay đọ kịp. Ta nên rèn tập để viết tư tưởng cho hay, cho đúng. Đó
là nền tảng của nhân luân.
Tôi không căn cứ vào không gian để tìm lấy giá trị của tôi, mà trông
cậy vào sự quy định tư tưởng một cách hoàn toàn, dù tôi có bao nhiêu đất
cát cũng chưa phải là “giàu hơn”, vì trong phạm vi không gian này, vũ trụ
nuốt tôi như một điểm con, nhưng trái lại, nhờ ở tư tưởng, tôi quan niệm,
bao trùm được vũ trụ. (Nghiêm Toản dịch theo Pascal)
b. CHÍ THÀNH
 Thành nghĩa là gì? Thành nghĩa là thật lòng, không dối mình dối
người, không giả nhân, giả nghĩa; việc phải dù tính mệnh cũng không từ,
việc phi nghĩa dù phú quý cũng không tưởng.
45
Phương pháp nghị luận

 Đem lòng thành ấy mà ở với cha mẹ thì nên con thảo. Đem lòng
thành ấy mà ở với nước thì nên tôi trung. Suy ra anh ở với em, vợ ở với
chồng, chúng bạn ở với nhau, ở với người đồng loại, ở với hết mọi loài,
cũng nên người có nhân có nghĩa, có tín có huệ. Thánh, hiền, tiên, phật
cũng bởi cái lòng thành ấy mà nên.
 Những người có tài mà hay khinh bạc, lời nói vẫn hay, việc làm vẫn
giỏi, đến khi hoạn nạn hay đổi lòng, gặp lúc kinh quyền hay biến tiết cũng
vì không có chí thành làm bản lĩnh.
 Chí thành cũng có lúc xử trí, có lúc dụng mưu. Nếu cứ chắc như
đười ươi, thẳng như ruột ngựa, như thế gọi là ngu thành, chỉ đủ cho người
ta đánh lừa hay người ta nói dối.
 Người ta thường nói: “Không biết nói dối, không buôn bán được.
Cứ giữ thật thà, không ra ngoài được.” Ấy là lời nói của những người quen
lèo lái hàng chợ. Cho nên người nước ta ở với nhau không có đoàn thể, ra
đến ngoài không có người tin, cũng vì tập nhiễm những câu hủ bại ấy mà
mới mất hẳn cái đạo chí thành đi.
 Người có chí thành mới là người có giá trị; như ông tượng gỗ, vàng
son rực rỡ là đồ trang sức bên ngoài, mà thân mình cảm ứng là cái chí
thành ở trong. Nếu không có thần minh cảm ứng, thì có ai thờ chi ông
tượng gỗ.
(Trích “Lời khuyên học trò”của Nguyễn Bá Học trong Nam Phong tạp
chí số 25)

46
Phương Pháp Nghị Luận

BỐ CỤC BÀI “GIÁ TRỊ CON NGƯỜI”


1. Nêu đại ý bằng cách trưng hai ý tưởng tương phản
a. Người là vật yếu nhất trong tạo hóa.
b. Người có tư tưởng
Hai ý đối chọi nhau bởi chữ “nhưng”.
3. Tác giả chứng minh hai ý trên
a. Người yếu: một giọt nước, một chút hơi có thể giết được
người.
b. Người có tri giác nên hơn vũ trụ vô giác vô tri.
Hai phần cũng dùng chữ “nhưng”để nói hai ý đối lập.
4. KẾT LUẬN
a. Tóm ý: Giá trị con người là ở tư tưởng.
b. Hệ luận: Nền tảng luân lý là sự rèn tập tư tưởng...
c. Tác giả áp dụng vào bản thân.
Toàn bài có thể nhất quán, chứng minh tình trạng mâu thuẫn giữa sự cực
thấp và cực cao của con người. Mấy chữ “nhưng” và “vậy thì” cho ta thấy
lập luận của Pascal rất chặt chẽ.
BỐ CỤC BÀI “CHÍ THÀNH”
1. Định nghĩa chí thành
2. Công dụng của chí thành
a. Khi có chí thành thì làm được những điều cần thiết trong
đạo xử thế, tu thân.
b. Khi không có chí thành thì hai đạo như thế nào dù lời hay,
việc giỏi.
5. Chí thành cần được bổ túc bằng mưu trí
6. Đả phá những lời ngụy biện bác bỏ chí thành trong một vài
trường hợp
7. Tiểu kết: Chí thành là căn bản giá trị con người
47
Phương pháp nghị luận

Các ý trong bài này xếp theo hình chóp hay vòng đồng tâm mà đỉnh
chóp hay tâm điểm là chữ “chí thành”.
Thực vậy, đúng về toàn thể, tác giả đi dần dần từ định nghĩa đến công
dụng tích cực, tiêu cực, rồi suy ra chí thành cần bổ túc bằng mưu trí và cần
được duy trì trong vài trường hợp người ta thường bác bỏ, đã kết thúc với
một hình tượng cụ thể, tỏ rõ giá trị con người xây dựng trên đạo chí thành.
CHÚ Ý: Cách viết một câu cụ thể có giá trị trừu tượng sang câu trừu
tượng.
 Giai đoạn 1: Phải hiểu ý tổng quát toàn câu đó.
 Giai đoạn 2: Tìm tiếng trừu tượng làm chủ từ hay chủ từ cụ thể.
 Cuối cùng xét ý nghĩa toàn câu mới xem còn tương đương với câu
cũ không.
Ví dụ: “Người ta chẳng qua là một cây sậy, cây sậy mềm yếu nhất trong
tạo hoá, nhưng là một cây sậy có tư tưởng.” Câu này có thể viết thành câu
trừu tượng bằng nhiều cách:
 Sự yếu đuối của con người giống như cây sậy, nhưng giá trị độc
đáo của con người là do khả năng tư tưởng.
 Khả năng tư tưởng làm nên giá trị của con người vốn yếu đuối về
thể chất.
 Tư tưởng là lợi thế khiến con người vốn yếu đuối trở nên có giá trị.

III. PHƯƠNG PHÁP DẪN CHỨNG


1. DẪN CHỨNG LÀ GÌ?
Dẫn chứng là đem những tư tưởng, việc làm, tình trạng để làm sáng tỏ ý
tưởng đã diễn tả hay sắp diễn tả.
Khi dẫn chứng, chúng ta cần chú ý những điểm sau:
 Vì có tính cách phụ thuộc cho phần lập luận, đoạn văn dẫn chứng
cần phải vắn tắt, rõ ràng, không được kể lể những chi tiết dài dòng không
cần thiết, kẻo biến bài nghị luận thành một bài văn kể chuyện.

48
Phương Pháp Nghị Luận

 Dẫn chứng cần có tính chất điển hình, tiêu biểu cho những việc
thường xảy ra. Chúng ta không được chọn những trường hợp đặc biệt,
những việc cầu kỳ để dẫn chứng.
 Để dẫn chứng, chúng ta không nên mượn những nhân vật mẫu như
anh A, chị B, ông C, bà D… đồng thời cũng không nên kể đích danh những
nhân vật tầm thường không ai biết đến như anh Trần Văn Ba là người kiên
nghị, chị Nguyễn Thị Tư là người can đảm.
2. CÁC CÁCH DẪN CHỨNG
a. Dẫn chứng một tư tưởng, một câu nói
Trong trường hợp này có hai cách:
 Dẫn chứng nguyên văn: Chép nguyên văn tư tưởng hay câu nói của
một nhân vật nào và để chúng trong ngoặc kép.
Ví dụ: Nguyễn Bá Học đã viết: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông
cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.”
 Dẫn chứng nguyên ý: Chỉ ghi lại ý diễn tả trong tư tưởng hay câu
nói, không cần chép nguyên văn đầy đủ từng chữ và cũng không cần đến
dấu ngoặc kép.
Ví dụ: Nguyễn Bá Học đã có dịp khuyên học trò đừng ngại khó, vì sự
ngại khó làm nhụt nhuệ khí không cho con người vượt qua trở ngại để tiến
tới thành công.
b. Dẫn chứng một việc làm, một sự kiện hay một tình trạng
 Dẫn chứng bằng một biến cố lịch sử.
Ví dụ: Phụ nữ Việt Nam đã từng làm rạng rỡ non sông, những tấm
gương Bà Trưng, Bà Triệu đã soi sáng ngàn thế hệ mai sau.
 Dẫn chứng bằng một sự kiện
Ví dụ: Khoa học đã tiến những bước khổng lồ: Con người đã dùng
những phi thuyền thám hiểm không gian và thiết lập chương trình liên lạc
với các tinh tú…
 Dẫn chứng bằng một tình trạng xã hội:

49
Phương pháp nghị luận

Ví dụ: Sau khi người Pháp xâm chiếm nước ta, hai trào lưu tư tưởng cũ
và mới đã xung đột nhau gây ra những cảnh ngang trái trong xã hội, con
trai không nghe lời cha mẹ, gái bỏ nhà ra đi, lớp thanh niên tân tiến muốn
bỏ hẳn nếp sống cũ.
c. Dẫn chứng bằng một nhân vật điển hình
 Dẫn chứng bằng nhân vật lịch sử: Cách này thường trùng với cách
dẫn chứng bằng một biến cố lịch sử.
Ví dụ: Dân tộc Việt Nam đã có nhiều vị anh hùng cứu quốc, đánh đuổi
quân thù ra khỏi bờ cõi đất nước: nam như Lê Lợi, Quang Trung, nữ như
Trưng Trắc, Trưng nhị (không cần nói chi tiết: Lê Lợi đánh nhà Minh,
Quang Trung đánh quân nhà Thanh, hai Bà Trưng đánh thái thú Tô Định).
 Dẫn chứng bằng nhân vật trong tác phẩm văn chương
Ví dụ: Văn nhân thi sĩ thường ca tụng tài sắc của người đàn bà, mượn
nhân vật này để giãi bày tâm sự: Nguyễn Du có Vương Thuý Kiều, Ôn Hầu
có nàng cung nữ.
 Dẫn chứng bằng nhân vật tiêu biểu cho tầng lớp không cần biết
đích danh là ai.
Ví dụ: Mọi người đều phải tranh đấu trong cuộc sống gắt gao hằng
ngày: Nông phu tranh đấu với thiên nhiên nơi đồng ruộng; các chiến sĩ
tranh đấu với đồng loại nơi trận mạc; học sinh tranh đấu với bản thân trên
ghế nhà trường để chiến thắng sự ngu dốt của chính mình.

IV. PHƯƠNG PHÁP CHUYỂN Ý


1. CHUYỂN Ý LÀ GÌ?
Chuyển ý là dùng một từ, cụm từ, một câu hay một đoạn ngắn để đi từ ý
này sang ý khác, quan niệm này sang quan niệm khác, thái độ này sang thái
độ khác. Sự chuyển ý giữ một vai trò khá quan trọng trong bài văn. Chúng
có thể ví như những dây gân để nối kết các phần của bài văn thành một cơ
thể liên tục và duy nhất. Thiếu những dây gân móc xích liên kết, bài văn sẽ
rời rạc và giảm giá trị một cách tai hại.

50
Phương Pháp Nghị Luận

2. CHUYỂN Ý Ớ ĐÂU VÀ CHUYỂN Ý THẾ NÀO?


Trong bài luận văn, người ta thường chuyển ý ở những chỗ sau:
a. Cuối phần nhập đề chuẩn bị xuống thân bài
Đó chính là phần báo đề.
Ví dụ: Sau đây, chúng ta thử tìm hiểu câu tục ngữ trên và từ đó rút ra
một bài học thực hành trong cuộc sống.
b. Đầu phần thân bài
Nếu thân bài bắt đầu bằng định nghĩa, ta có thể chuyển ý như sau:
Trước hết chúng ta hãy định nghĩa mấy từ quan trọng, hoặc: Trước khi
bình giải sâu rộng, chúng ta hãy xem câu nói trên có ý nghĩa gì.
c. Giữa các phân đoạn của thân bài
Khi chuyển ý nên có một chút âm vang của đoạn trước.
Ví dụ:
 Đó là phần lý thuyết, còn về phần thực hành...
 Con người đa cảm ấy cũng rất đa tình…

d. Chuyển từ phần giải thích sang phần bình luận


Ví dụ: Sau khi đã tìm hiểu ý nghĩa của câu nói, chúng ta hãy xem câu
nói đó có hoàn toàn xác đáng không?
e. Đầu phần kết luận
Ví dụ: - Tóm lại, như trên đã trình bày...
 Để kết luận, chúng ta có thể…
 Sau khi tìm hiểu, chúng ta đã nhận thấy…
3. NHỮNG CHỮ DÙNG ĐỂ CHUYỂN Ý

51
Phương pháp nghị luận

Những chữ dùng để chuyển ý có rất nhiều, chúng ta không thể kể hết
được. Tuỳ trường hợp, chúng ta có thể dùng một từ, một cụm từ, một câu
hoặc một đoạn ngắn để chuyển ý sao cho thích hợp.
Sau đây là một số những chữ thường dùng để chuyển ý:
 Vậy, nhưng, thật vậy, như vậy, tuy vậy, tuy nhiên, do đó, hơn nữa,
mặt khác, xem thế….
 Vấn đề đặt ra là…
 Trước hết về phương diện… Tuy nhiên về phương diện…
 Trong phạm vi hẹp… nhưng trong phạm vi rộng hơn… nhất là
trong phạm vi rộng lớn nhất này…
 Thứ nhất là…
 Thứ hai là…
 Thứ ba và sau chót là…
CHÚ Ý: Những câu chuyển ý trên đây chỉ có tính cách gợi ý, ta không
nên áp dụng cách máy móc mà phải lấy chính các yếu tố riêng của bài để
chuyển ý cách khéo léo, càng giấu được mối nối thì bài văn của chúng ta
càng thêm đẹp.
Một ví dụ mà chúng ta đã gặp trong bài “Cha nào con nấy”, chuyển ý từ
phần đúng sang phần hạn chế một cách khá tự nhiên: “Tuy nhiên, phải
chăng câu tục ngữ Tây phương nói trên hoàn toàn xác đáng và có giá trị
tuyệt đối? Nói cách khác, ở đời “hổ phụ”nào cũng sinh “hổ tử”cả chăng?”
Để minh hoạ các loại chuyển ý, ta hay theo dõi bài tham khảo sau đây:
Muốn tiến bộ chúng ta cân phải học tập. Học ở nhà trường, học ở trường
đời cũng như học ở sách vở. Sách là kinh nghiệm của nhiều thế hệ hun đúc
lại. Một văn hào đã nói: “Một quyển sách hay là một người bạn tốt”, nhưng
Mạnh Tử lại bảo: “Hoàn toàn tin sách thà chẳng có sách còn hơn”(Tận tín
ư thư bất như vô thư). Vậy theo nhà hiền triết ấy, hoàn toàn tin sách là gì?
Điều đó có hại chi? Và ta phải có thái độ như thế nào khi đọc sách?
Trước hết, ta hãy xem thế nào là hoàn toàn tin sách? Hoàn toàn tin sách
là học theo sách, tin theo sách, bắt chước theo sách một cách mù quáng,
52
Phương Pháp Nghị Luận

không biết suy xét, phán đoán. Sách nói đúng thì theo đã vậy, nhưng sách
nói sai cũng chẳng biết. Có người cứ xem sách là một tiêu chuẩn, cái gì
sách cũng là đúng, là hay, hành động, tư tưởng… nhất nhất theo sách. Học
như thế Mạnh Tử cho rằng hại nhiều hơn lợi. Vậy ta phải phân tách xem
hoàn toàn tin sách như thế có hại như thế nào?
Đối với loại sách nhảm nhí hoang đường khiêu dâm…cái hại đã quá rõ
ràng. Tin vào chúng thì tình cảm và lý trí chúng ta sẽ bị đầu độc sinh ra
những hành động nông nổi điên cuồng. Những hành động lố lăng, những
vụ tự tử vô lối mà ta thường đọc thấy qua tin tức báo chí, phải chăng là do
ảnh hưởng của những loại sách khốc hại đó? Vì vậy, nhà trường cũng như
phụ huynh thường kiểm soát những loại sách của học sinh để tránh cho đầu
óc non nớt của chúng khỏi bị đầu độc bởi những hoại thư ấy.
Đối với sách không lành mạnh thì như vậy, nhưng đối với những sách
đúng đắn thì hoàn toàn tin sách có hại không? Tuy rằng không nguy hiểm
như loại sách trên, việc hoàn toàn tin theo không phải là không có hại.
Ta thường đọc những loại tiểu thuyết tâm lý, xã hội, dã sử mà tác giả có
ý thức xây dựng. Nếu ta tin tưởng một cách mù quáng, ta sẽ vô tình bắt
chước theo các nhân vật trong sách mà hành động phi thực tế, có khi đi đến
chỗ lập dị hay không tưởng… vì nhân vật, sự kiện trong sách dù cao đẹp
đến đâu cũng đều có tính cách điển hình lí tưởng ít nhiều phóng đại và tuỳ
theo chủ quan của tác giả. Hạng “người tiểu thuyết”, hạng “thanh niên quá
mới” nhan nhản trong sách báo ngày nay: Những Kinh Kha, Yếu Ly trong
dã sử Tàu… có những hành động rất ngoạn ngục, phi thường để hấp dẫn
chúng ta, làm cho ta muốn bắt chước theo. Từ đó ta dễ có những hành
động, cung cách khác người, lắm khi đi đến thất vọng vì đời không phải là
tiểu thuyết!
Còn đối với sách luân lý đạo đức, hoàn toàn tuân theo những giáo điều
trong đó có hại gì không? Giá trị của luân lý cũng thay đổi theo không gian
và thời gian. Có những điều ở nơi này thì đúng, ở chỗ khác thì sai, ở thời
này thì phải, ở chỗ khác thì trái. Nếu ta cứ chữ, tin và áp dụng một cách
máy móc, nhiều khi thành ra lỗi thời và lạc hậu. Thuyết Tam Tòng (Tại gia
tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử), quan niệm “Trung quân”
(quân tử thần tử, thần bất tử bất trung) ngày xưa không thích hợp với ngày
nay, mà phải sửa chữa, quan niệm lại và áp dụng cho thích hợp.
53
Phương pháp nghị luận

Đối với sách chính trị lịch sử, chúng ta lại càng phải thận trọng vì phần
nhiều các sách ấy hay chủ quan, thường bị chi phối bởi thế lực của triều đại
đương thời hay một giai cấp thống trị. Hoàn toàn tin vào đó mà không chịu
phân tích, phê phán, ta sẽ dễ bị nhồi sọ và lạc hướng. Ngay cả đến những
sách khoa học phần lớn có tính cách khách quan, ghi chép lại những sưu
tầm phát minh của các nhà bác học tiền bối, ta cũng phải biết đặt thành
nghi vấn, đối chiếu với sự vật để có thể hiểu sâu xa và phát triển thêm sở
đắc.
Vì vậy, dù rằng sách hay mà cứ tin mù quáng vào sách để xa rời thực tế,
chúng ta nhiều khi trở thành lỗi thời, lạc hậu, nô lệ tư tưởng, tác hại lý trí…
Như thế, thà chẳng có sách thì hơn!
Tuy đọc sách cần cẩn trọng, nhưng không phải vì quá thận trọng mà
chúng ta thành ra sợ sách. Học giả Hoàng Đình Kiên đã nói: “Kẻ sĩ phu mà
ba ngày không xem sách thì soi gương mặt mũi đáng ghét, nói chuyện lạt
lẽo khó nghe.” Một quyển sách để trước mặt ta là hình ảnh của bao người
làm ra tờ giấy, viết từng trang, bao nhiêu công khó của người thợ in đêm
ngày chăm lo từng nét chữ. Nhìn vào sách, ta học được sự cần lao khả kính
của con người. Đứng trước một tủ sách, ta nghe được tiếng ca hát âm thầm
lặng lẽ mà duyên dáng từ nghìn đời. Bao nhiêu thế hệ trôi qua, nhưng sách
hãy còn mãi lâu bền.
Lại có những kẻ khinh sách hoàn toàn, cho rằng sách chỉ chứa toàn lý
thuyết mà thôi. Ta cần hiểu rằng: Lý thuyết Khổng Mạnh đến ngàn đời con
người cũng chưa thấu đạt hết vì trong ấy chứa đựng bao nhiêu kinh nghiệm
thực tế ở đời. Nếu ta biết đọc sách, lựa chọn sách thì sợ gì loại lý thuyết
suông, sợ gì vàng thau lẫn lộn.
Nhưng đọc sách phải như thế nào cho có ích lợi? Thường có hai cách
đọc sách: Đọc nghiền ngẫm và đọc ngấu nghiến. Nếu ta chỉ biết đọc ngấu
nghiến thì công đọc sách cũng bằng thừa. Nếu ta biết đọc nghiền ngẫm, suy
nghĩ cân nhắc cái hay cái dở, cái phải cái sai trong sách thì thật là điều
đáng khuyến khích.
Ta còn phải biết phát triển những điều hay đã thu nhập trong sách. Sách
là kinh nghiệm của những gì đã qua. Dùng kinh nghiệm ấy mà áp dụng vào
đời sống, vào việc học tập hàng ngày của ta, tạo thêm những kinh nghiệm
54
Phương Pháp Nghị Luận

mới. Lúc đó, thú vị của việc đọc sách càng lúc càng tăng và con người
càng ngày càng thêm tiến bộ vậy.
Tóm lại, sách hay là một vật quý và cần thiết cho sự mở mang trí óc của
con người. Nhưng đọc sách phải biết phân tích phê phán đối chiếu với sự
vật. Nếu cứ tin mù quáng vào sách thì chẳng khác dồn bông vào gối cho
cứng. Làm thực thì có hại nhiều hơn có lợi. Ta có thể mượn lời sau đây
trong sách Trung Dung làm châm ngôn cho việc đọc sách: “Học cho rành,
hỏi cho kĩ, nghĩ cho cẩn thận, phân biệt cho sáng tỏ, làm cho hết sức.”

55
Phương pháp nghị luận

Chương V: PHƯƠNG PHÁP SUY TƯ


Các phương pháp suy tư sau đây giúp chúng ta đào sâu từ ý chính ra các
ý phụ hoặc dùng để xây dựng phân đoạn. Trong chương này, chúng ta sẽ
lần lượt tìm hiểu các loại suy tư nhờ quan sát và suy tư nhờ liên tưởng.
1. SUY TƯ NHỜ QUAN SÁT
Quan sát các sự việc trong thiên nhiên, chúng ta thấy mọi việc xảy ra và
diễn biến theo một chiều hướng rất trật tự: từ trước đến sau, từ gần ra xa, từ
hẹp đến rộng. Các định luật của sự vật thiên nhiên cũng là định luật của tư
tưởng tâm trí ta. Bắt chước những hiện tượng ấy, chúng ta có thể suy tư
bằng ba cách:
a. Suy tư quan sát nhân quả
Đó là suy tư một vấn đề dưới ba khía cạnh:
 Nguyên nhân phát sinh: Trước kia nó là gì?
 Hiện trạng: Bây giờ nó như thế nao?
 Kết quả: Sau này nó sẽ ra sao?
Ví dụ: Suy tư về lòng nhân ái:
 Nguyên nhân: Lòng nhân ái phát sinh từ những tâm hồn vị tha
quảng đại.
 Hiện trạng: Lòng nhân ái khiến ta quên mình và chỉ mong cho
người xung quanh được hạnh phúc. Người có lòng nhân ái quí mến, cảm
thông, sẵn sàng, hy sinh, giúp đỡ và chia sẽ vui buồn cùng kẻ khác. Họ
cũng dễ dàng tha thứ lỗi lầm của anh em và ngay cả sự gian ác của kẻ thù.
 Kết quả: Lòng nhân ái đem lại cho tâm hồn bình an vui sướng. Nó
quả là một đoá hoa trong vườn nhân loại.
b. Suy tư quan sát bành trướng
Vấn đề được suy tư từ phạm vi hẹp sang phạm vi rộng hoặc từ gần ra
xa.
Thứ tự thông thường được áp dụng: Cá nhân – gia đình – quốc gia –
nhân loại. Ta cũng có thể đảo lộn thứ tự nếu cần.
56
Phương Pháp Nghị Luận

Ví dụ: Ý chính: làm người phải sống theo một lí tưởng nghĩa là theo
đuổi, phụng sự một mục đích tốt đẹp.
Ý phụ: Nên đem hết tài ba, can đảm, nghị lực ra thực hiện mục đích tốt
đẹp đó. Các vĩ nhân trên thế giới đều sống theo một lí tưởng như vậy:
Người vì gia đình, kẻ vì dân tộc, người khác vì cộng đồng nhân loại. Tất cả
đều quên mình để mưu ích cho tha nhân.
Tiểu kết: Đó thật là mục đích cao cả.
c. Suy tư quan sát luỹ tiến
Suy tư một vấn đề từ thấp đến cao. Các thứ tự thông thường:
 Thứ tự I: Vật chất - tinh thần – đạo đức.
 Thứ tự II: Khoáng vật – thực vật – động vật.
Trong phân đoạn dưới đây, tác giả đảo lộn thứ tự với dụng ý làm nổi bật
ý chính...
Ví dụ: Ý chính: sự làm việc là một công lệ của đời sống.
Ý phụ: Các loài vật từ con ong con kiến cho đến chim muông cầm thú
cũng phải khó nhọc lắm mới kiếm được miếng mồi sinh sống. Ngay đến
loài cây cỏ vô tri vô giác cũng làm việc không ngừng để đâm chồi nảy lộc:
Nhựa sống lưu thông không ngớt trong lớp vỏ thảo mộc – phương chi con
người càng cần phải làm việc mới có thực phẩm để ăn và vật dụng để dùng.
8. SUY TƯ DO LIÊN TƯỞNG
Liên tưởng là suy nghĩ từ một ý này sang ý khác gần đó. Có 3 loại:
a. Suy tư liên tưởng tiếp giáp: Đi từ một sự việc sang một sự
việc khác tiếp theo.
Ví dụ: Từ việc ăn uống, ta nghĩ đến việc tiêu hoá, bồi dưỡng gìn giữ sức
khoẻ, phân loại đồ ăn và phân chất thức ăn.
Ý chính: Ẩm thực là một việc rất thông thường của loài người, từ đứa
bé mới lọt lòng mẹ cho đến những kẻ ngu si tàn tật, cũng có thể làm được.
Ý phụ: Nhưng muốn biết được cơ nguyên sự tiêu hoá trải qua các giai
đoạn nào thì phải học qua sinh lý học, hoá học… Cho đến nay, có biết bao

57
Phương pháp nghị luận

nhà bác học chuyên môn khảo cứu khoa ăn uống mà vẫn chưa biết hết
được lý do và giá trị của những thực vật rất thông thường mà con người đã
dùng ngay từ thời thượng cổ.
b. Suy tư liên tưởng tương đồng
Từ một ý tưởng trừu tượng, ta có thể tìm một hình ảnh cụ thể giống
nhau.
Ví dụ: “Nghị lực” là một khả năng nơi con người có tính cách trừu
tượng, chúng ta nghĩ đến một con ngựa có sức mạnh.
Ý chính: Nghị lực của thanh niên mới thực là có sức sống.
Ý phụ: sức sống nhiều phen lồng lộn như ngựa bất kham. Ngựa hay thì
sườn núi vượt mà không nguy hiểm, dòng thác lội cũng dễ dàng. Ngựa
không hay thì lắm khi nguy hiểm cho kỵ sĩ: đường muốn rút ngắn hoá
đường dài, dốc nhỏ muốn trèo lên mà trèo chẳng nổi.
c. Suy tư liên tưởng tương phản
Từ một ý tưởng đã có, chúng ta có thể nghĩ đến một ý tưởng trái ngược
để tìm thêm ý.
Ví dụ: Ý chính: Học là gì? Học là từ những điều mình nghe thấy, trông
thấy mà mình muốn bắt chước hay muốn suy nghĩ thêm ra, cho mình được
vui vẻ sung sướng.
Ý phụ: Thế thì học với chơi cũng không khác gì nhau, nhưng tại sao
một đàng thì ham mê, một đàng thì biếng nhác? Thực ra, chỉ vì cái gì con
người nghe hiểu, lấy làm hay làm thích thì con người vui vẻ mà đam mê,
không đợi ai phải dạy, nhưng tự nó trông thấy mà bắt chước mà làm ngay
như: nhảy dây, đá cầu, thả diều, nhảy cầu, chơi thuyền…
BÀI TẬP
1. Đọc kỹ ba đoạn văn và xem mỗi đoạn văn được gợi ý theo loại suy
tư nào: quan sát nhân quả, luỹ tiến hay bành chướng?
a. Chủ đề: Làm việc

58
Phương Pháp Nghị Luận

Người ta ở đời ai cũng đổ mồ hôi lấy chén cơm thì một lẽ công bằng xã
hội. Có làm việc để nuôi thân, ta mới tạo được cuộc sống tự lập với nhân
phẩm cao quý.
Trong gia đình, mỗi người tuỳ tài tuỳ sức, vui vẻ và hăng hái làm việc,
thì gia đình sẽ được thịnh vượng và hạnh phúc. Mọi công dân đều phải có
bổn phận chịu khó làm việc.
Quan trọng nhất trong cuộc sống xây dựng quốc gia, người nông dân có
dầm mưa dãi nắng ngoài đồng ruộng, giới thợ thuyền có lam lũ ngoài công
trường, trong hầm mỏ hay xưởng máy thì nhân dân mới có cơm ăn áo mặc,
nhà ở và mọi tiện nghi nhu cầu khác.
b. Chủ đề: Liên lạc với người đồng thời
Chúng ta còn là kẻ cùng chịu khó nhọc và chung sức làm việc với người
sống cùng thế hệ với ta. Trong cuộc sống phức tạp và khó khăn, không ai
có thể sống lẻ loi được. Từ những nhu cầu vụn vặt hằng ngày đến những
công cuộc tổ chức đời sống sao cho trật tự an vui, mọi sự chúng ta đều nhờ
xã hội.
Muốn làm tròn bổn phận ấy, trước hết chúng ta cần phải luyện tập thân
thể khoẻ mạnh, học tập mở mang kiến thức dồi dào và rèn luyện đạo đức
thanh cao. Sau đó, mỗi người có một nghề tinh thạo và hành nghiệp chu
đáo để góp phần xây dựng xã hội cách thiết thực.

59
Phương pháp nghị luận

c. Chủ đề: Phụ nữ xây dựng gia đình


Thật vậy, nhờ tài đảm đang, sự khôn ngoan và đức hạnh của người phụ
nữ, gia đình có thể được hạnh phúc. Tài nội trợ và sắp đặt khéo léo của
người phụ nữ đem lại cho gia đình những bữa cơm dẻo canh ngọt và làm
cho nhà cửa gọn gang, vui mắt. Sự phân khối khéo léo những khoản chi
tiêu phù hợp với lợi tức kiếm được bảo đảm mức sống no ấm cho gia đình
và tránh cho chồng con khỏi cảnh nợ nần tai tiếng. Đức tính hiền dịu, nét
mặt vui tươi của người mẹ là tấm gương sáng cho con cái. Cử chỉ niềm nở,
lời nói dịu dàng của người vợ dịu hiền là những liều thuốc thần dịu để an ủi
và khuyến khích chồng con trên con đường tranh đấu. Quan trọng hơn cả,
sự hy sinh tận tuỵ của người vợ hiền có thể gây dựng sự nghiệp vinh hiển
cho chồng con.
2. Đọc kỹ đoạn văn sau đây và xem mỗi đoạn văn ấy được gợi ý nhờ
lối suy luận liên tưởng nào: tiếp giáp, tương đồng hay tương phản?
a. Chủ đề: kiên nhẫn: Việc đời cũng vậy, cho dù công việc
khó khăn đến đâu, nhưng nếu ta quyết tâm bền chí và gắng sức thực hiện
thì cũng sẽ đạt được kết quả mong muốn. Ai cũng biết rằng sợi dây nhỏ,
cây gỗ lớn… Thế mà dây cứa mãi gỗ cũng đứt. Con kiến nhỏ, tổ kiến to,
thế mà kiến tha lâu ngày tổ cũng đầy. Vì vậy, người ta định làm việc gì nếu
dốc lòng hết sức và nhẫn nại theo đuổi thì ắt sẽ thành công.
b. Chủ đề: Làm việc: Tổ quốc được hùng cường và dân tộc
được vẻ vang đều nhờ công sức đóng góp của những người lao động trí óc
và chân tay. Trong quốc gia nếu không có họ mà chỉ có những kẻ cầu an
hưởng nhàn, ăn không ngồi rồi, thì cái họa sụp đổ và cái hố diệt vong đã
hiện ra trước mắt dân tộc ấy.
c. Chủ đề: nhiệm vụ phụ nữ khi quốc biến. Có nhiệm vụ khi
quốc biến, người phụ nữ cần phải biết rõ vai trò của mình như thế nào
trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung. Sự góp phần hữu hiệu nhất là
trực tiếp cầm khí giới tiểu trừ bọn xâm lược hay phiến loạn. Người phụ nữ
cũng có thể gia nhập các tổ chức lo việc canh phòng, tiếp tế, cứu thương
hoặc ủy lao các thương binh và gia đình chiến sĩ.

60
Phương Pháp Nghị Luận

Chương VI: PHƯƠNG PHÁP LÝ LUẬN


Trước khi tìm hiểu các phương pháp lí luận, ta cần phân biệt rõ vài điều.
 Ý niệm là gì? Ví dụ: Trắng, đen, đẹp, xấu… là những ý niệm.
 Một vài ý niệm hợp thành ý tưởng. Ví dụ: Cái bảng trong lớp màu
đen; cây hồng nở nhiều hoa đẹp.
 Nếu ý tưởng có tính cách cá nhân thì người ta quen gọi là ý kiến. Ví
dụ: Ý kiến bàn về giáo dục nhi đồng.
 Các ý niệm, ý tưởng, ý kiến có giá trị tương đối phụ và chính, liên
kết thành từng hệ thống duy nhất từ đơn sơ đến phức tạp, ta gọi là những
luận lý, luận chứng, luận điểm, những tư tưởng, những phê phán.
Các phương pháp lí luận đề cập tới trong chương này có mục đích giúp
chúng ta tìm ý để lập luận cho vững và xây dựng phân đoạn thêm phong
phú. Ta sẽ xét tới hai loại: Lí luận theo khoa học và lí luận theo triết học.
1. LÝ LUẬN THEO KHOA HỌC
Trong các khoa học như toán, vật lí, hóa học… chúng ta thường thấy
người ta đi từ nguyên lí chung đi ra các trường hợp riêng, hoặc ngược lại,
từ nhiều sự kiện riêng đi tới một nguyên lí chung. Cũng có khi so sánh hai
sự kiện có tính chất giống nhau về nguyên nhân, người ta có thể đoán thêm
kết quả tương tự của chúng.
Chúng ta sẽ áp dụng loại lí luận khoa học này trong các bài văn nghị
luận.
a. Phương pháp diễn dịch hay suy diễn
Theo nguyên ngữ, diễn là giăng rộng ra và dịch là đi từ ý này sang ý
khác.
Lí luận theo phương pháp diễn dịch khởi từ một nguyên lí chung suy ra
các trường hợp riêng hoặc từ một ý tưởng chính bao quát suy rộng ra các
điểm phụ khác, bàn xét tới các chi tiết tỉ mỉ hơn.
Ví dụ: Đã là một người ai cũng phải chết. Nên Hoàng đế Thần Nông đã
chết. Nên thi sĩ Nguyễn Du đã chết. Nên bao nhiêu người hiện đang hấp
hối. Nên tất cả hậu thế sẽ vấp phải nấm mồ.

61
Phương pháp nghị luận

Ví dụ 2: Ý chính: Tiền bạc là ông chủ xấu


Quả vậy, nếu coi tiền bạc là trên hết, thì ta sẽ vì tiền làm điều bất chính.
Người buôn bán sẽ dùng mọi mạnh khỏe để kiếm được nhiều tiền, họ sẽ
“làm thưng cháo nấu” hay “buôn đầy bán vơi”, và đầu cơ tích trữ gây ra
nạn chợ đen chợ đỏ làm khổ đồng loại. Ngay cả những kẻ có học thức, nếu
chỉ vì tiền sẽ không ngần ngại dùng mọi thủ đoạn gian ngoa xảo quyệt để
mưu vinh thân phì gia.
Ví dụ 3: Đoạn 1 + 2 của bài “Chí Thành”
b. Phương pháp quy nạp
Theo nguyên nghĩa: quy là thu vào, nạp là gom góp lại. Áp dụng cho bài
nghị luận, chúng ta có thể đi từ nhiều ý phụ đi vào ý chính.
Ý phụ: Ta thường nghiệm ra: Sau khi làm việc tinh thần mệt mỏi, tính
tình khô khan, nếu được đọc một bài thơ, ngâm một bài ca, thì thấy trong
lòng khoan khoái thảnh thơi. Ngay đến những người làm ăn lam lũ như
người đi cày, người đi cấy, anh phu xe, chị gánh nặng mà cũng thường
nghêu ngao vài câu phong dao, mấy câu Kiều để quên nỗi nhọc nhằn của
họ, vì một bài thơ, một câu ca cũng không khác gì một bức tranh đẹp, một
khúc đàn hay, có thể làm tiêu tan được những nỗi nhọc mệt để cho tâm hồn
ta lấy lại sinh lực mà làm việc về sau.
Ý chính: Vậy thơ ca cũng là một cách giải trí mà là cách giải trí tao nhã
thanh cao. (Theo Dương Quảng Hàm).

62
Phương Pháp Nghị Luận

c. Phương pháp loại suy


Theo nguyên nghĩa, loại suy là suy nghĩ để xét tìm những cái cùng loại
với nhau. Phương pháp loại suy căn cứ vào hai sự kiện cùng nguyên nhân
sẽ có thể có những kết quả tương tự.
Áp dụng vào bài văn nghị luận, ta có thể căn cứ vào những điều kiện đã
có để suy ra những cái sẽ có thể có sau này.
Ví dụ: Ý chính: vấn đề quan trọng nhất trong nước ta ngày nay là vấn đề
văn quốc ngữ.
Ý phụ: Vấn đề ấy có giải quyết được thì sự học mới có thể mở mang, sự
tiến hóa sau này mới có thể mong mỏi được. Đến ngày quốc ngữ dùng làm
quốc văn được thì người nước Nam mới có thể thâu nhặt các khoa học mới
mà gây thành một nền học thích hợp với trình độ, với cá tính cách dân ta.
Đến ngày ấy thì người nước ta mới phát triền được cái nhân cách của mình.
Cái nhân cách ấy hiện nay còn mập mờ phảng phất như ảnh không hình
vậy.
(Theo Phạm Quỳnh)
Ví dụ 2: Lương tâm chức nghiệp
Nông dân cày sâu cuốc bẫm có thể sản xuất nông phẩm dồi dào, nhưng
nếu thiếu lương tâm, họ sẽ đầu cơ tích trữ làm tăng giá sinh hoạt khiến cho
nhân dân bị đói khổ. Thợ thuyền căm cụi sớm khuya nếu không có lương
tâm sẽ chế tạo hàng hóa mau hỏng, công trình kiến trúc của họ kém bền
vững, gây tai hại làm thiệt mạng nhiều người. Đối với những người làm
việc trí óc cũng vậy, nhà văn không có lương tâm sẽ sáng tạo những tác
phẩm nhảm nhí đầu độc tinh thần dân chúng.
2. LÝ LUẬN TRIẾT HỌC
Tiến lên một trình độ cao hơn, chúng ta có thể áp dụng các phương pháp
lí luận thường dùng của khoa Luân lý học, để lý luân của ta khó ai bài bác
được. Trong khoa Luân lý học, người ta thường dùng Tam đoạn luận, liên
châu luận và lưỡng đoạn luận.
a. Tam đoạn luận: là kiểu lí luận dùng 3 mệnh đề

63
Phương pháp nghị luận

 Mệnh đề I gọi là đại tiền đề, nêu lên một nguyên lý chung rộng.
 Mệnh đề II gọi là tiểu tiền đề: Nêu lên một chân lý riêng hẹp liên hệ
với đại tiền đề.
 Mệnh đề III gọi là kết luận: Rút ra một chân lý riêng hẹp mới.
Ví dụ:
 Đại tiền đề: Sống (A) thì tranh đấu (B)
 Tiểu tiền đề: Mà chúng ta (C) đang sống (A)
 Kết luận: Vậy chúng ta (C) phải tranh đấu (A)
Trong ví dụ trên, tam đoạn luận dựa vào giá trị bao hàm của ý niệm: Ý
niệm sống bao hàm ý niệm tranh đấu. Nhưng cũng có khi tam đoạn luận
đặt cơ sở trên nguyên lý đồng nhất giữa các ý niệm: hai ý niệm cùng đồng
nhất với một ý niệm thứ ba thì đồng nhất với nhau.
Ví dụ trong toán học:X=Y và Y=Z, suy ra X=Z
Ví dụ: trong văn học: Tây Triết có câu: “Đời người đối với kẻ hay cảm
xúc là một bi kịch.” Những người đa sầu đa cảm như Nguyễn Du, Ôn Như
Hầu… thấy việc gì trái cũng lấy làm đau đớn xót xa phát ra những lời bi
sầu thảm thiết, ai nghe cũng phải xúc động não lòng.
b. Liên châu luận
Liên châu luận hay “lí luận chuỗi ngọc” là lối lí luận đi từ sự kiện thứ
nhất (nguyên nhân) sang sự kiện thứ hai (kết quả). Sự kiện thứ hai tuy là
kết quả của sự kiện thứ nhất, nhưng lại trở thành nguyên nhân cho sự kiện
thứ ba và cứ thế liên tiếp, xâu thành một chuỗi ngọc dài…
Ví dụ: người ta chẳng qua là giống sinh vật trên mặt đất. Sinh vật phải
sống. Sống phải nuôi và sinh sản. Muốn sinh sản được đông đúc, thịnh
cường phải lo nuôi sống cho đầy đủ. Muốn nuôi sồng được no đủ, phải
siêng năng làm việc được sinh lợi, ấy là chủ nghĩa cần lao. (Theo Nguyễn
Trọng Thuật)
c. Lưỡng đạo luận
Lưỡng đoạn luận còn gọi là Song quan luận, là phép lí luận mở ra hai
con đường hai cánh cửa mà người đối thoại thế nào cũng phải chọn một,

64
Phương Pháp Nghị Luận

rồi từ con đường họ đã chọn, ta đưa ra một kết luận mà họ không chối cãi
được.
Ví dụ1: Một nữ sinh không làm bài luận văn
 Cô ta hoặc không chịu làm hoặc không biết làm.
 Đường nào cô ta cũng đáng trách cả.
Ví dụ2:
 Nói dối là hèn nhát.
 Vì kẻ nói dối hoặc là cầu lợi, hoặc che đậy tôi lỗi của mình.
 Cả hai việc đều đáng khinh bỉ.
Riêng về phép Lưỡng đạo luận, ta phải thận trọng vì rất dễ bị bác bỏ.
Qua ví dụ “nói dối” trên đây, người nghe có thể cãi lý rằng: có nhiều
trường hợp nói dối không phải để cầu lợi hay che giấu tội lỗi mình mà chỉ
vì lịch sự, vì nhân đạo, vì yêu nước, vì lương tâm nghề nghiệp…

MỘT SỐ BÀI LUẬN MẪU VÀ ĐỀ LUẬN HƯỚNG DẪN

Đề 1: Người đời thường khuyên: “Ta học tập để tiến bộ.” Những
sách Lễ Ký cũng nói: “Càng học càng biết mình còn kém.” Hãy tìm hiểu
câu danh ngôn và xem hai nhận thức trên đây có trái ngược nhau
không?
BÀI THAM KHẢO
I. NHẬP ĐỀ
Ca dao Việt nam có câu:
“Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài,
Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi.
Con người ta có khác gì,
Học hành quí giá, ngu si hư đời.”
Viên ngọc kia trở nên quí giá là nhờ mài giũa. Cũng vậy, con người trở
nên tiến bộ và hữu dụng cho bản thân, gia đình, xã hội… là nhờ học tập.
Nhưng khi nói về việc học, sách Lễ Ký lại bảo: “Càng học càng thấy mình
còn kém.”
Vậy ta hãy tìm hiểu câu danh ngôn này và htử xem nhận thức của sách
Lễ Ký có trái ngược với nhận thức của người đời không?
65
Phương pháp nghị luận

II. THÂN BÀI


Trước hết, ta phải chú ý đến hai chữ “càng học”. “Càng học” có nghĩa là
theo đuổi việc học mãi mãi, không dừng lại một giây phút nào. Và “càng
biết mình còn kém” có ý nghĩa gì? Chữ “biết” có nghĩa là nhận thức được
khả năng, hiểu rõ sức mình. Chữ “kém” không có nghĩa ngu dốt mà là chưa
theo kịp người, còn thua sút người xa. Như vậy, “càng học càng biết mình
còn kém” có nghĩa là càng theo đuổi sự học, ta càng nhận thức rõ ràng hơn
là ta còn thua sút, chưa theo kịp người.
Thật vậy, trên đời này có ai dám tự hào là thấy hết, nghe hết, biết hết?
Có ai dám tự xưng là đã thông hiểu mọi sự vật trên đời không? Chắc là
không!
Đức Khổng Tử là bậc tài ba lỗi lạc, được người đời coi là “vạn thế sự
biểu” (vị thầy của muôn thế hệ), thế mà đứng trước Hạng Thác, một thần
đồng, vẫn có những điều không giải đáp được. Sau một lúc bị chất vấn mọi
điều về sự đời, bấy giờ Hạng Thác mới hỏi Khổng Tử: “Ngài thử tính xem
trên mặt đất này có bao nhiêu ngôi nhà, trên trời có bao nhiêu ngôi sao?”
Khổng Tử còn đang suy nghĩ, Hạng Thác liền hỏi tiếp: “Thế trước mắt
Ngài có bao nhiêu sợi lông mi?” Đức Khổng Tử đành không trả lời mà
nhận rằng: “Hậu sinh khả úy” (kẻ sinh sau đáng sợ).
Gần hơn, ta hãy quan sát nước Trung Hoa dưới triều Từ Hi Thái Hầu.
Vì bà tự cao tự đại, xem mình là bậc quán thông thiên hạ nên không thấy
sự tiến bộ vượt bực của các nước Tây Phương, không lo đề phòng nên cuối
cùng bị ngoại bang chiếm hết cẳ một miền duyên hải trù phú.
Ta đã thấy, tài giỏi như Đức Khổng Tử mà còn có những điều chưa rõ,
Từ Hi Thái Hậu vì tự cho là quá giỏi mà nước nhà đi đến chỗ suy bài. Vì
vậy, những người tầm thường như chúng ta càng cần thấy được cái kém
của mình và câu “càng học càng thấy mình còn kém” càng đáng cho chúng
ta suy nghiệm.
Ta thường nghe nói: “Người xấu hay làm tốt, người dốt hay nói chữ”, vì
thế có những người vốn học vấn chẳng được là bao mà đã tự cao tự đại, lúc
nào cũng hô hào, cho mình là tài giỏi hơn người. Đó là loại người “ếch
ngồi đáy giếng coi trời bằng vung”. Trong xã hội Việt Nam ta, hạng người
“không thấy mình kém” này rất nhiều. Họ cũng từng lập đi lập lại câu
“Rừng Nho biển thánh khôn dò”, thế mà họ không thấy cái phức tạp, cái
mênh mông rộng rãi của việc học.

66
Phương Pháp Nghị Luận

Những người ấy làm sao thấy được việc học phức tạp như rừng. Trong
rừng có biết bao nhiêu cây to, cây nhỏ. Trong việc học cũng có biết bao
nhiêu vấn đề khó dễ khác nhau. Có ông thợ rừng nào biết hết các loại cây
cũng như ai có thể tự hào mình thấu đáo mọi khía cạnh của học vấn?
Những người đó cũng làm sao thấy được việc học mênh mông rộng rãi như
đại dương! Ra biển rộng, còn ai nhìn thấy chân trời? Vào biển học, khó mà
biết đâu bến bờ! Có nhận thức được như thế, ta mới thấy rằng: “Càng học
càng biết mình kém” để cố gắng học thêm, học mãi.
Trong phạm vi rộng là như thế, bây giờ ta thử xét phạm vi hẹp hơn.
Người học tập có khác đứa bé tập đi, phải trải qua nhiều giai đoạn: ngồi,
trườn, bò, đứng… rồi mới đi được. Người học mà cứ ngồi mãi, chẳng thấy
mình còn phải trườn, bò, đứng… để rồi đi được xa hơn thì việc học đã
hỏng mất rồi, vì “học tập như đi thuyền ngược nước, không tiến là lùi”.
Trong gia đình, ta phải thấy mình còn thua kém cha mẹ, anh chị ta.
Trong học đường, ta phải nhận là chưa bằng thầy, chưa hiểu hơn bạn.
Ngoài xã hội, ta phải thấy còn biết bao người tài giỏi hơn mình. Có nhận
thức được như thế, ta mới nỗ lực hơn và việc học tập mới đi đến kết quả tốt
đẹp.
Ở đời, có người giỏi lý thuyết nhưng lại kém thực hành; có kẻ chuyên
thao tác nhưng lại kém lí luận. Người hay môn này, kẻ giỏi môn nọ. Người
giỏi còn có người giỏi hơn (cao nhân tắc hữu cao nhân trị).
Hiểu biết được như thế, không khi nào ta dám tự cho là người hoàn
toàn, trái lại, luôn nhận rằng mình còn kém để cố gắng trau dồi, học hỏi
thêm mãi.
Những học sinh cấp hai ví như người leo núi được nửa chừng. Nhìn
xuống họ thấy mọi vật đều nhỏ bé, nhưng nhìn lên đỉnh núi lại còn quá cao
xa, biết bao giờ mình mới tới nơi?
Người học tập cũng ví như người đi đường, “đi một ngày đàng học một
sàng khôn” Trước mắt ta còn biết bao nhiêu sàng khôn nữa .mà chúng ta
phải học?
Quy luật của học vấn là tiến triển. sở dĩ sách Lễ Ký bảo ta “Càng học
càng thấy mình còn kém” vì không muốn cho ta lây nhiễm nết xấu tự kiêu
tự phụ ngăn trở bước đường tiến tiến thủ của ta, làm người khác khinh ghét
không tận tâm giúp đỡ ta trên đường học vấn. Như thế, câu này khuyên ta
nên có một tư cách khiêm tốn mà cầu tiến, tự hạ để lấy đà mà nhảy cao vọt
lên vậy.
67
Phương pháp nghị luận

Câu này còn khuyến khích ta nỗ lực và thi đua học tập. Nếu trên trên
đường học tập, ai cũng thấy mình còn kém cùng tranh nhau chạy tới khắc
phục cái kém trước mắt mình thì cuộc chạy đua hào hứng biết bao nhiêu!
Trong đời học sinh, cứ lên một lớp là tiến một bậc. Nhưng đứng ở bậc
dưới nhìn lên bậc trên mình lại thấy rõ mình còn kém hơn. Cứ như thế, ta
nhắm đỉnh cao mà tiến tới thì chẳng mấy lúc thấy mình bỏ xa điểm khởi
hành. Như vậy, “học tập để tiến bộ” và “càng học càng thấy mình còn
kém” là hai nhận thức không trái ngược nhau. Nhận thức trước nêu ra mục
đích của việc học, nhận thức sau vạch rõ thái độ học tập. Có thái độ học tập
đúng đắn mới mong đạt được mục đích tiến bộ cao xa. Hai nhận thức này
hoàn toàn hòa hợp và bổ túc cho nhau, vạch cho người theo đuổi việc học
con đường đi tới một tương lai tươi đẹp.
III. KẾT LUẬN
Sau khi đã tìm hiểu câu nói trên, ta thấy đây là một lời khuyên rất chí lí
và thực tế. Muốn trở nên hữu ích cho đời thì cần phải học. nhưng muốn
học đến nơi đến chốn phải nhận rõ mình còn kém để mong được tiến bộ
hơn. Có tiến bộ mới có điều kiện phục vụ tốt. Thái độ tự cao tự phụ, ý thức
tự hào toàn thiện toàn mỹ là kẻ thù của việc học vậy. Do đó, lúc nào ta
cũng phải khiêm tốn mà nhận rằng: “Đời là một trường học rộng lớn bao
la, còn ta chỉ là một học sinh nhỏ bé” mà thôi.

68
Phương Pháp Nghị Luận

Đề 2: Giải thích câu nói sau: “Ở một mình, ta hay giữ gìn tư tưởng;
trong gia đình, ta hay giữ gìn tính tình; ra ngoài xã hội, ta hay giữ gìn
ngôn ngữ.” Những điều giữ gìn đó có lợi ích gì cho đời sống cong
người, và làm thế nào ta có thể giữ gìn chu đáo?
BÀI THAM KHẢO
I. NHẬP ĐỀ
Ở đời, ai cũng mong được làm người có tư tưởng trong sạch, được sống
trong gia đình trên thuận dưới hòa và ra xã hội được nhiều kẻ mến, người
tin. Để đạt được ba điểm ấy, một câu danh ngôn đã khuyên ta: “Ở một
mình, ta hay giữ gìn tư tưởng; trong gia đình, ta hay giữ gìn tính tình; ra
ngoài xã hội, ta hay giữ gìn ngôn ngữ”. Ta hãy thử tìm hiểu xem những
điều giữ gìn đó có lợi ích gì cho đời sống con người và làm thế nào ta có
thể giữ gìn chu đáo tư tưởng, tính tình và ngôn ngữ.
II. THÂN BÀI
Trước hết, ta hãy xem câu nói ngụ ý gì? Ta thấy cây sống một mình dễ
bị gió lay, thú sống một mình rất dễ bị sát hại. Cũng vậy, con người sống
một mình cũng dễ bị ngoại cảnh ảnh hưởng, chi phối, xoay chuyển hay đầu
độc tư tưởng mình. Vì vậy, ở một mình ta phải thận trọng kiểm soát mọi ý
nghĩ, tư tưởng của ta.
Nhìn rộng hơn, ta thấy gia đình là một xã hội nhỏ. Những người trong
gia đình, tuy thân tình với chúng ta, nhưng tính tình vẫn có nhiều điểm
không hợp với ta, do đó xung đột rất dễ nảy sinh. Một khi đã xung đột về
tính tình thì hạnh phúc trong gia đình cũng có nguy cơ bị phá hủy. Vì vậy,
sống trong gia đình, ta phải biết rèn luyện tính tình, cư xử khéo léo để tránh
đụng chạm có thể xảy ra. Rời khỏi ngưỡng cửa gia đình để tiếp xúc với
mọi người trong xã hội, ta thấy ngay lời nói là biểu hiện tính chất của con
người. Bởi thế, người đời thường nói:
“Chim khôn ca tiếng rành rang,
Người khôn ăn nói dịu dàng dễ nghe.”
Thật rõ ràng xã hội đã căn cứ vào ngôn ngữ mà định giá trị con người
vậy. Do đó, trong sự tiếp xúc với người ngoài, ta càng phải giữ gìn lời ăn
tiếng nói.
Vậy, câu nói trên giúp cho chúng ta một phương châm xử kỷ tiếp vật là
phải biết thận trọng trong tư tưởng, tính tình và ngôn ngữ để trau dồi bản
thân và sống hòa hợp với người xung quanh.

69
Phương pháp nghị luận

Nhưng, vấn đề được đặt ra là: Chúng ta phải giữ gìn tư tưởng, tính tình,
ngôn ngữ như thế nào và bằng cách nào?
Tư tưởng là giá trị tinh thần của con người. Một người có tư tưởng hư
hỏng là mất cả phẩm giá. Tuy ta không cần phải có một tư tưởng siêu
phàm, nhưng một tư tưởng vui hòa, trong sạch thì ai cũng cần phải cố gắng
đạt tới.
Đức Khổng Tử đã dạy: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.” Sự sắp
đặt thứ tự, việc nêu vấn đề tu thân lên hàng đầu chẳng phải là có dụng ý
lắm sao? Giữ gìn tư tưởng là điều căn bản của việc tu thân vậy. Tư tưởng
sinh ra hành động. Ở một mình ta thường dễ dãi với ta: Khi ta lạc quan thì
nhìn đời tươi đẹp. Nhưng khi ta bi quan thì đời đen tối, sinh ra chán nản và
bao nhiêu nghị lực trong người cũng vì thế mà rã rời, tiêu tan đi. Lúc đó, ta
rất dễ bị sa vào vòng bê tha, trụy lạc.
Vì vậy, điều căn bản trong việc giữ gìn tư tưởng là giữ được sự vui hòa.
Từ chỗ vui hòa trong tư tưởng, ta sẽ đi đến chỗ có một tư tưởng trong sạch.
Hằng ngày ta đọc bao nhiêu sách tốt xấu, nghe bao nhiêu lời nói hay dở,
tiếp xúc với đủ mọi hạng người… nếu ta không biết vui hòa, không biết tu
dưỡng thì chẳng bao lâu những sự đen tối xấu xa sẽ ám ảnh, đầu độc tâm
hồn, tư tưởng của ta.
Muốn được vui hòa, ta phải luôn luôn bình tĩnh suy nghĩ, bất cứ việc gì
cũng phải lấy tinh thần xây dựng yêu đời mà nhận xét, không hấp tấp vội
vàng, không bi quan chán nản. thêm vào đó, ta phải chú trọng rèn luyện cơ
thể để có được “một tâm hồn trong sạch một thân thể khỏe mạnh”. Và
thường thì con người khỏe là tư tưởng khỏe, có đủ nghị lực sống ở đời.
Đã giữ được tư tưởng trong việc tu thân rồi, ta còn phải lo giữ gìn trong
việc tề gia nữa. Trong gia đình, giữ được tính tình là giữ được hạnh phúc.
Có khi người cha chỉ vì giận con một chút mà bỏ mặc con hư hỏng; con
buồn cha một điều mà sinh ra bê tha, sa đọa. Chỉ vì không chịu khó tìm
hiểu, nhân nhượng nhau nên anh em thì “trâu trắng, trâu đen”, vợ chồng
cha con thì “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Ta thấy rõ căn bản của việc
giữ gìn tính tình là tinh thần nhẫn nhịn. Có nhẫn nhịn ta mới tạo được hạnh
phúc gia đình, tránh khỏi những đổ vỡ đáng tiếc. Bởi thế, khi được triệu
đến để trình bày rõ tài tề gia của mình, ông Trương Công Nghệ đã dâng lên
vua 100 chữ nhẫn. điều đó đã chẳng dạy ta cách giữ gìn tính tình trong gia
đình công hiệu nhất hay sao?

70
Phương Pháp Nghị Luận

Trong gia đình mà chúng ta còn muốn được hạnh phúc thì khi ra ngoài
xã hội, chúng ta lại càng ao ước cho mình được mọi người thừa nhận, mến
yêu, trọng kính. Nhưng thành phần xã hội vô cùng phức tạp. Trong gia
đình, những người cùng huyết thống có thể dễ dàng tha thứ cho ta những
sơ xuất, nhưng khi ra ngoài xã hội “lỡ một lời là hỏng một đời”. Vì thế,
việc giữ gìn ngôn ngữ thật quan trọng Người đời thường nói:
“Lời nói chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.”
Hoặc “nhất ngôn thuyết quá, tứ mã nan truy” (một lời đã thốt, bốn ngựa
khó theo). Vì thề, lúc nào ta cũng phải thận trọng từng lời nói. Ta phải nói
sao cho người khác kính yêu mình, nói một cách khiêm tốn, lễ độ, không
khoác lác, tự cao, không dối người, lừa bạn.
Tục ngữ pháp dã nói: “Phải uốn lưỡi bảy lần trước khi nói” (Iifaut
tourner la langue septfics avant de parier) là để dạy ta suy xét và giữ gìn lời
nói. Sách tả truyện có câu: “Lời nói như tên, không nên bắn bậy, đã lọt vào
tai ai thì không tài nào rút ra được nữa.” Điều đó đủ cho ta thấy việc phát
ngôn quan trọng đến chừng nào!
Hơn nữa, ngôn ngữ phải biểu lộ tín nghĩa. Có tin được mình thì người
khác mới kính yêu, mới nghe theo mình, và như vậy ta mới mong tạo được
sự nghiệp ở đời. Đức Khổng Tử đã dạy: “Người không có tín thì không
đứng vững được ở đời” (nhân vô tín bất lập). Mẹ thầy Mạnh Tử ngày xưa
vì đã hứa nên phải mua thịt về cho con ăn, chẳng phải lấy chữ tín dạy con
đó sao?
Vì vậy, ta thấy rõ việc giữ gìn ngôn ngữ cốt lấy điều thận trọng, lấy chữ
tín làm đầu. Giữ được chữ tín thì ngôn ngữ thông suốt, mọi người kính yêu
mến phục vụ và sẽ đạt được thành công trên đường đời.
III. KẾT LUẬN
Tóm lại, sống ở đời ta phải biết “lập thân, lập đức,lập ngôn, lập chí”.
Xây dựng tư tưởng, tình tình, đó là một phần của việc lập thân, lập đức.
Giữ gìn ngôn ngữ, đó là lập ngôn. Lập chí là đạt thành ước vọng, thực hiện
lí tưởng của ta. Đã lập được thân, được đức, được ngôn tức là ta mở rộng
con đường đi đến chỗ thành đạt ý tưởng. Và như thế, ta có thể tự hào là
người con sung sướng nhất trên đời, lòng đầy tin tưởng tiến về tương lai
tươi sáng.

71
Phương pháp nghị luận

Đề 3: Sách cổ ngữ có câu: Từ, kiệm, hòa, tĩnh làm cho người ta sống
lâu. Hãy bình luận câu nói ấy và cho biết những gì làm cho con người
mau chết.
BÀI THAM KHẢO
I. NHẬP ĐỀ
Ở đời ai cũng muốn sống lâu và sợ chết. Nhưng về thuật sống lâu thì
không mấy người có được. Vì thế, sách Cổ ngữ dạy ta bốn điều có thể gọi
là nền tảng của thuật dưỡng sinh. Bốn điều đó là: “Từ, kiệm, hòa, tĩnh”. Ta
thử xem tại sao bốn điều ấy lại có thể quyết định đời sống của con người và
những gì có thể làm cho con người mau chết.
II. THÂN BÀI
Trước hết, ta hãy tìm hiểu từng điểm của thuật dưỡng sinh:
Từ là nhân đức, phúc hậu, làm lành lánh dữ: đó là căn bản đạo đức của
con người. Người ta thường nói tới nhân từ và từ bi bác ái, yêu thương
người xung quanh một cách rộng rãi.
Một hôm vua Lê Thánh Tông ngự giá ra khỏi hoàng thành thì gặp một
ông lão đang nằm, rét run lập cập. Ngài bèn cởi áo ngự bào đắp cho ông.
Thái Tử Sĩ-Đạt-Đa (tiền thân của đức phật) ngày kia ra thành đã chứng
kiến cảnh sinh, lão, bệnh, tử, bệnh của người đời và từ đó nguyện xả thân
để cứu độ chúng sinh. Vì thế vua Lê Thánh Tông nổi tiếng là nhân từ,
thương dân như con và khắp thế giới sùng bái lòng từ bi bác ái của Đức
Phật.
Kiệm là có chừng mực, không thiếu quá mà cũng không thừa quá.đó là
sự phòng xa của con người. Ta tiết kiệm sức khỏe, tiền bạc, thời giờ, giữ
tiết độ trong việc ăn chơi… như vậy gọi là kiệm. Truyện “Con ve và con
kiến” của La Fontaine đã dạy ta một bài học về tiết kiệm cụ thể nhất, chú
ve chỉ biết lo ca hát, chú kiến thì chắt chiu từng hạt tấm. Vì thế mùa đông
chú ve phải chịu cảnh cơ hàn, trong khi chú kiến vẫn no ấm đầy đủ.
Hòa là không ngang trái, lỗi lầm, nhưng luôn vui vẻ và êm ái. Đó là thái
độ xử thế của người Khổng Tử theo quan niệm Khổng Tử: “Quân tử hòa
nhi bất đồng; tiểu nhân đồng nhi bất hòa” (người quân tử hòa hợp với mọi
người mà không bị đồng hóa; còn kẻ tiểu nhân tuy a-dua theo thiên hạ
nhưng chẳng sống hòa thuận được với ai). Hòa cũng là sự an vui nội tâm.
Nội tâm ta mà an vui tức cuộc đời ta hạnh phúc rồi vậy.

72
Phương Pháp Nghị Luận

Xưa Thẩm Lân Sĩ đang đi giày thì có người đến nhận. Ông cười nói:
“Giày của bác đấy à?” rồi ông đưa giày ngay cho người đó. Sau, người
láng giềng tìm được giày bèn đem giày của ông trả lại, ông lại cười và hỏi:
“Thế không phải giày của bác à?” Rồi vui vẻ nhận lại giày. Đức hòa của
ông Lân Sĩ quả đáng khâm phục.
Tĩnh là thinh lặng, không nóng nảy. Đó là thái độ của người già giặn,
nhiều kinh nghiệm mà cũng chứng tỏ được sự tự chủ của nội tâm. Nội tâm
động sinh loạn. Làm chủ được nội tâm, giữ được tĩnh thì lòng vui vẻ thư
thái mà công việc cũng được thành công tốt đẹp.
Khi Khổng Minh bị Tư Mã Ý bao vây ở Nhai Đình nếu ông đem quân
ra cự ngay thì chắc chắn thất bại nhưng ông rút quân rồi lên lầu ngồi đàn.
Cái đức tĩnh của ông tạo ra cái hư hư thực thực, làm cho Tư Mã Ý là tướng
giỏi cũng bị lầm mưu.
Sau khi hiểu được ý nghĩa của Từ, Kiệm, Tĩnh rồi bây giờ ta hãy xem
những điều ấy có tác dụng quan trọng như thế nào mà làm cho người sống
lâu? “Gia huấn ca” của Nguyễn Trãi nói: “Thương người như thể thương
thân” (ái nhân như ái thân) hễ ta yêu người thì người ta yêu lại như thế ta
sẽ thêm bạn bớt thù, đời sống ta tất được bảo đảm hơn. Ông Nguyễn Trãi
lại nói:
“Ở cho có đức, có nhân,
Người mà có đức muôn phần vinh hoa.”
(Gia huấn ca)
Điều nhân đức không chỉ tạo ra cái vinh hoa, phú quý của con người mà
còn làm cho ta vượt qua hẳn mọi người:
May ra ai cũng một thì,
Hơn nhau hai chữ nhân nghì là hơn.
(Phan Trần)
Thầy Mạnh Tử cũng nói: “Người bất nhân không thể vui sống được lâu
ngày”. Xem thế, ta thấy rõ chữ nhân liên hệ mật thiết với sự sống của con
người biết chừng nào! Đến như chữ kiệm là một điều hết sức cụ thể. Ta
không làm việc quá độ không chơi bời quá độ thì tiết kiệm được sức khỏe.
Có sức khỏe thì sống lâu. Ta không bỏ phí thời giờ vì thời giờ là tiền bạc,
có tiền bạc thì ta có thể sống lâu. Làm việc gì ta cũng phải giữ điều độ,
không quá sức thì Diêm Chúa có thấy mặt ta cũng lờ đi.

73
Phương pháp nghị luận

Giữ được chữ hòa thì ta không sinh sự với ai, không gây điều thù oán thì
lòng ta thảnh thơi vui vẻ còn gì cho sướng bằng. Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm
cũng ca ngợi sự hòa:
Chữ rằng: Nhân dĩ hòa vi quý,
Vô sự còn hơn hữu sự ru?
Lòng thanh thản không thù ghét thì làm gì mà chẳng sống lâu?
Hòa với tĩnh vốn gần nhau. Người tĩnh không bị những cơn thịnh nộ
làm mất sức khỏe. Thầy giáo dạy học trò mà mau chết là vì giận nhiều.
Đức tĩnh lại làm ta tránh được những cơn uất nộ có hại cho người khác mà
cho ta phải hối hận suốt đời. Nhà văn Thạch Lam đã viết chuyện: “Một cơn
giận” cho ta thấy rõ chỉ với một cơn giận bất thường ta có thể giết người,
làm cho gia đình người khác đau khổ. Bởi thế ông Lã Khôn nói: “Ở đời cái
gì thong dong thì còn mà cấp bách thì mất việc mà thong dong thì có ý vị,
người mà thong dong thì sống lâu.”
Ta thấy rõ bốn điều Từ, Kiệm, Hòa, Tĩnh thật là điều căn bản của thuật
sống lâu vậy. Hiểu rõ được những điều căn bản của thuật sống lâu ta cũng
cần tìm biết những gì làm cho con người mau chết.
Ngược lại với từ là ác, trái với kiệm là xa, đối lập với hòa, tĩnh là nộ.
Người đời thường nói: “Ác lai ác báo” (làm ác lại gặp ác) làm điều ác
thì nhiều người ghét, nhiều kẻ oán thù, lòng nơm nóp lo sợ thì tuy sống
trong đống vàng mà chẳng thấy vui gặp lúc nào cùng quẫn không ai thèm
giúp đỡ, lúc nào cũng bị các ác ám ảnh thì làm sao mà sống lâu cho được?
Người xưa bảo: “Cái hại của xa xỉ còn lớn hơn thiên tai”. Thiên tai có
lúc, có thời chứ cái hại của xa xỉ thì thường xuyên, không kể xiết. Xa xỉ là
gốc của nghèo khổ và tội lỗi. Người xa xỉ lúc túng thiếu sinh ra lường gạt,
trộm cắp, giết người lấy của, như thế thì dễ gì mà sống lâu.
Sự phẫn nộ tiêu diệt đức Hòa, Tĩnh. Người ta thường nói: “No mất
ngon, giận mất khôn”. Lúc còn nhỏ ta đã học chuyện vợ chồng nhà gấu, lúc
giận nhau vợ móc mắt chồng, khi hết giận ân hận cũng là thừa. Đó là
chuyện thú vật chứ người thì cái hối hận kia kéo dài suốt đời, sống như
chết rồi, còn có thú vị gì.
III. KẾT LUẬN
Ta đã thấy những gì làm cho ta sống lâu, những gì làm cho ta mau chết,
rồi bốn đức của thuật sống lâu không phải là thuốc tiên mà ta không mưu
cầu được. Để đạt cái đức ấy đòi hỏi có sự rèn luyện tinh thần, nặng nề về

74
Phương Pháp Nghị Luận

điều không làm, nhẹ điều quấy, gột rửa các thói hư, tật xấu như những chất
bẩn bao bọc lấy người ta, ướp vào mỗi ngày một chút hương đạo đức.
Lòng ta thanh thản trí ta vui tươi, làm ta yên tĩnh, người ta khỏe mạnh thì
chắc chắn ta sẽ sống được lâu.

Đề 4: Giải thích câu nói của Dương Tư: “Trằm sông học biển đến
được biển, gò nổng học núi không đến được núi, vì tại một đàng đi, một
đàng đứng.” Hãy áp dụng câu nói này vào việc học thực tế của chúng ta.
DÀN BÀI HƯỚNG DẪN
I. NHẬP ĐỀ
Kiểu tương đồng: dùng câu có ý nghĩa tương tự để làm nổi ý: sự biến
chuyển tất nhiên của vạn vật. Cả trong việc học cũng có sự biến chuyển.
II. THÂN BÀI
A. Giải thích
1. Nghĩa đen của câu nói: làm nổi bật quan niệm động trong câu
(nhấn mạnh chữ đi và đứng).
2. Nghĩa bóng: học phải hành
 Biến chuyển luôn (đi).
 Đưa ra thực hành giúp ích cho đời.
B. Lập luận và chứng minh
1. Biến chuyển trong chính việc học
 Thời kỳ khởi thủy.
 Thời kỳ chính giữa.
 Thời kỳ chung cuộc.
9. Biến chuyển từ sự học ra sự đời (học và hành)
 Về đạo đức.
 Về trí dục.
 Về thể dục.
10. Biến chuyển từ sự đời tới sự học (tri và hành hiệp nhất)
 Vấn đề thu nhập kinh nghiệm ngoài đời.
 Việc phổ biến kinh nghiệm thành học vấn.
Nhận xét chung: học vấn rộng như biển, có nhiều đường để đi đến học
vấn như sông. Muốn đi đến cái cao rộng của học vấn phải hành:
 Thực hành ngay từ lúc còn đi học.
 Thực hành ở ngoài đời.
 Rút kinh nghiệm bổ túc cho học vấn.
75
Phương pháp nghị luận

III. KẾT LUẬN


Học phải chủ động. Học thụ động là tự trói mình mà học, học làm cho
mình thêm chủ quan, tự phụ, có hại cho mình và cũng không giúp ích được
cho ai hết.

Đề 5: Nhà cách mạng Tôn Dật Tiên có nói: “Biết khó mà làm dễ (Tri
nan hành dị) nhưng có người lại nói: “Biết dễ mà làm khó.” Bạn tán
thành ý kiến nào?
BÀI THAM KHẢO
I. NHẬP ĐỀ
Ông Tôn Văn hiệu là Dật Tiên, tự là Trung Sơn, sinh năm 1866 mất
năm 1925 là nhà cách mạng đầu tiên ở Á châu đã hoàn thành cuộc cách
mạng Tân Hợi (1911) thực hiện nền dân chủ ở Trung Hoa. Là người có
tinh thần duy tân muốn làm cho nước Trung Hoa được tiến triển theo trào
lưu của thế giới nên không ngần ngại đưa ra quan niệm: “Biết khó mà làm
dễ.” Hai ý thức trên đây tương phản nhau như thế nào? Chúng ta nên theo
quan điểm nào? Phần sau đây sẽ trình bày rõ hơn.
II. DIỄN ĐỀ
Trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu nhận thức của Tôn Trung Sơn. Ông lấy
rất nhiều ví dụ để chứng minh thuyết mình là đúng.
 Ví dụ thứ nhất là việc ăn uống: ăn uống là việc rất thông thường
của loài người, từ đứa bé mới lọt lòng mẹ cho đến những người ngu si tàn
tật, ai mà không làm được. Nhưng muốn biết được sự tiêu hóa cũng là
nguyên nhân sự nhu cầu các thực phẩm thì phải học qua sinh lý học, y
dược học, vệ sinh học, vật lý học… Hiện nay có biết bao nhà bác học
chuyên môn khảo cứu khoa ăn uống mà vẫn chưa tìm biết được lý do và
giá trị của những thứ thực phẩm rất thông thường mà người ta biết dùng từ
thời thượng cổ đến nay.
Xem thế thì biết “Làm thì dễ mà biết thì khó.”
 Ví dụ thứ hai của việc tiêu tiền: tiêu tiền có phải là một thứ lương
năng của người đâu! Chính là một tập quán của xã hội. Phàm người văn
minh, từ bé cho đến khi chết có khi nào là không dùng đến tiền. Ăn uống
phải dùng tiền, may mặc phải dùng tiền, thuê nhà, đi xe, không dùng tiền
không được. Chúng ta tiêu tiền rất tự nhiên. Có tiền tiêu mọi việc xong

76
Phương Pháp Nghị Luận

xuôi, không tiền thì phải bó tay cho nên ai cũng trọng đồng tiền. Xã hội
văn minh công thương phát đạt cũng nhờ tiền, thậm chí sinh tử, họa phúc,
buồn vui, sướng khổ, cải cách đều do tiền mà ra! Nhưng tiền là cái gì? Tiền
lưu hành thế nào thì ở đời có mấy người biết? Quả thế muốn biết tiền là gì
và sự lưu thông tiền bạc, phải học qua kinh tế học, tài chính học. Vậy sự
tiêu tiền là một bằng chứng rất xác đáng cho thuyết “Biết khó mà làm dễ.”
 Ví dụ thứ ba là việc làm văn: làm văn ở Trung Quốc, từ xưa đến
nay biết bao người đã từng làm! Từ vua đến dân ai cũng thích làm văn,
ngay cả coi sự làm văn như một thứ tài hơn cả mọi tài! Biết bao người có
tài đã bỏ phí tài mình về công nghệ mà mài miệt văn chương! Nước yếu
cũng vì người ta thích văn hoa. Nhưng sự lạ là ở một nước văn minh như
thế không có một nhà văn nào nghĩ đến “văn pháp” làm một quyển văn
pháp. Đợi đến khi văn minh Âu Tây tràn sang mới có sách nói về văn pháp
Trung Hoa phỏng theo những sách văn pháp Thái Tây. Cho nên hễ khi ta
hỏi các vị thâm nho về lý tắc văn chương các cụ không giải được rõ ràng.
Đó lại là một bằng chứng nữa cho thuyết “Làm dễ biết khó.”
Ngoài ba ví dụ kể trên Tôn Văn còn kể nhiều ví dụ khác như làm nhà,
đóng tàu, đắp thành khai sông. Những việc ấy người ta làm đã lâu nhưng
mãi cho đến bây giờ chờ có khoa học thì mới biết được rõ ràng.
Chúng ta đã thấy ông Tôn Dật Tiên giải thích và dùng thuyết “Biết khó
làm dễ” của mình rồi giờ đây chúng ta xem thử cái “Biết dễ làm khó” của
người Trung Hoa thời ấy như thế nào.
Vì Trung Hoa là một nước lớn nhất Á châu và trên thế giới nên người
Trung Hoa có thái độ tự tôn (phần này không rõ chữ….) Mạnh Tử phải nói:
“Làm mà không để ý, tập………..chung thân nói theo mà không hiểu
nguyên------------đông người vậy”. Nói đến “biết làm” thì ai cũng ----------.
Họ giải thích: đi ra đồng cày bừa, vào triều đình -----------------đó là biết
làm rồi vậy. Nói đến biết học thì ai----------.Có gì đâu,lấy sách thánh hiền
đọc cho nhiều, học cho thuộc, thế là học biết rồi vậy. Bàn đến việc biết
sống thì cũng có thể giải thích: sống là ăn, uống, làm việc vui chơi. Nếu hỏi
“biết làm người” là gì thì ai cũng cho--------------------sách xưa, giữ điều
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín là-----------làm sao cho khéo, biết học làm sao cho
hay, biết sống làm sao cho hợp, biết làm thế nào để trở nên người đứng
đắnthì thật là ít ai biết rõ. Như thế mới là biết nhưng thật cũng như chưa
biết vậy. Đó chỉ là cái biết đại cương,-----------cái biết chủ quan của những

77
Phương pháp nghị luận

anh mù sờ soi mà thôi. Do cái biết nông cạn đó mà người ta mới quan niệm
rằng làm là khó vì họ có biết thấu đáo gì đâu để mà làm.
Đã hiểu qua hai quan điểm “Biết khó làm dễ” và “Biết dễ làm khó” rồi
chúng ta đều thấy rằng cần bài bác quan điểm sau và tán thành quan điểm
trước.
Chúng ta bài bác quan điểm “Biết dễ làm khó” là vì nó đưa con người
đến chỗ lười biếng là tự cao, cái gì cũng cho là biết nhưng sự thực thì chưa
biết rõ cái gì cả, không biết rõ rồi thi họ rằng làm là khó. Cứ như thế, con
người mất hết sáng kiến, không còn tin tưởng ở sự tiến bộ nữa, không ai
muốn hoạt động công, thương, chính trị, chỉ muốn ngồi không mà đọc
sách, ngâm thơ thì thật là tai hại vô cùng. Quan điểm này còn làm cho con
người có tinh thần tri thủ, ỷ lại vào cái sẵn có, vào tiền nhân mà không làm
được việc gì cả. Như ở Trung Hoa từ đời nhà Chu đã chế tạo được “chỉ
nam xa” mà sau này vẫn phải mua địa bàn của ngoại quốc về dùng, người
Trung Hoa tìm ra thuốc pháo trước, thế mà sau này phải nhờ đến những
phát trọng pháo của ngoại quốc bắn vào mới nhận thức rõ nghề làm súng
đạn quan trọng. Ngay về khoa đông y thì ai cũng biết ở Trung Hoa từ xưa
đã có Hoa Đà, Biển Thước là bậc danh y, thế mà khoa y dược Trung Hoa
“xưa thế nào nay vẫn thế” không thấy phát triển gì thêm.
Cái hại căn bản của ý thức “Biết dễ làm khó” là làm cho người ta chỉ
biết thực hành một cách vụn vặt, không suy nghĩ trước điều lợi hại. Như về
thời Ngô Bá Tấn, Văn Công tự mang quân đánh nước Vệ. Trên đường tiến
binh bỗng gặp một ông lão cứ nhìn mình mà cười, Văn Công ngạc nhiên
hỏi lý do. Ông lão nói rằng: Tôi cười vì nghĩ đến một chuyện vừa mới xảy
ra: Có người dắt vợ đi đường bỗng thấy người con gái đẹp ở dưới đám dâu
anh ta bỏ vợ đi xuống nói chuyện. Một lúc sau ngẩng đầu lên thì thấy vợ
mình đã có người vẫy đi. Thật là buồn cười. Nghe xong Tấn Văn Công mới
giật mình thấy rằng mình muốn đi xâm chiếm nước Vệ tất có nước khác
đến chiếm nước mình, bèn kéo quân về nước. Quả nhiên nước nhà vừa bị
xâm lăng…
Chúng ta tán thành quan điểm “Biết khó làm dễ” là vì nó giúp ta thấu
hiểu sự vật, giải quyết được mọi vấn đề cần thiết, hoạt động để tiến bộ.
Nhưng chúng ta muốn làm một bài toán thì trước đó phải thấu hiểu các qui
tắc, định lý, biết cách áp dụng thì mới làm trúng. Tôn Trug Sơn tiên sinh
nhờ thấu hiểu nguyện vọng và quyền lợi của nhân dân Trung Quốc mà thực

78
Phương Pháp Nghị Luận

hiện cuộc cách mạng Tân Hợi, đưa dân tộc Trung Hoa bước sang một giai
đoạn mới tốt đẹp hơn.
III. KẾT LUẬN
Chúng ta thấy rằng, nếu đặt vấn đề lựa chọn giữa hai quan điểm, thì
chúng ta nên nhận lấy quan điểm của Tôn Trung Sơn tiên sinh vì đó là một
quan điểm tiến bộ. Nhưng chúng ta cũng có thể dung hòa theo đường lối
của Vương Dương Minh là: “Tri hành hợp nhất”, làm việc gì trước hết
chúng ta cũng cần phải biết cho thấu đáo, hễ biết rõ rồi thì việc làm tất
nhiên sẽ dễ dàng. Biết rõ để mà làm, làm để tìm tòi hiểu biết thêm về việc
đang làm và các vấn đề về việc mới khác, cứ như thế thì bản thân chúng ta
cũng như quốc gia, xã hội mới có điều kiện phát triển khả quan hơn.

79
Phương pháp nghị luận

Đề 6: Bình giảng câu nói của Tuân Tử: “Người chê ta mà chê phải là
thầy ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve nịnh bợ
ta chính là kẻ thù của ta vậy.”
BÀI THAM KHẢO
I. NHẬP ĐỀ
Tuân Tử là một trong bảy ông Hiền thời chiến quốc. Đây là thời mà các
chư hầu “tranh thành dĩ chiến, tranh địa dĩ chiến”, một thời buổi loạn lạc.
Trong xã hội loạn lạc thì lòng người cũng sinh ra đảo điên, sự khen chê
cũng trở nên bất thường. Có cái đáng chê thì lại được khen, có cái đáng
khen thì lại bị chê. Thế nên Tuân Tử phải làm cho con người thấy cái giả,
chân ở đời mà thận trọng trong việc giao kết, và ông đã nói: “Người chê ta
mà chê phải là thầy ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ
vuốt ve nịnh bợ ta chúng là kẻ thù của ta vậy.” Vậy chúng ta hãy thử bình
giảng câu nói của người.
II. DIỄN ĐỀ
Trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu chữ thầy. Thầy là người thấy xa hiểu
rộng hơn ta, có kinh nghiệm ở đời mà nhất là có ý chí xây dựng cho ta nên
người. Nơi học đường thầy có chê ta điều này điều khác là vì lợi ích của
húng ta mà thôi. Vì vậy, khi xưa bị Đức Khổng Tử phê bình, chê trách thầy
Tử Lộ mới không lấy làm buồn và nói “Thầy thương ta mà chỉ trích cho ta
nên người thì sao ta lại buồn!”
Nhưng chữ thầy mà Tuân Tử muốn nói có nghĩa rộng rãi hơn. Không
chỉ là người trực tiếp chỉ dạy ta nơi học đường mới là thầy mà những ai có
ý kiến đúng muốn góp ý kiến ấy để xây dựng cho ta đều có thể xem là thầy
ta được.
Như có một học sĩ vừa vẽ xong bức tranh người phi ngựa. Ông đem bức
tranh ấy lên để cho người qua lại xem mà phê bình và núp sau để nghe ý
kiến. Một cậu bé đánh giày đi đến, nhìn bức tranh một lúc rồi nói: “Ông
này vẽ sai rồi! Con ngựa phi thì chân trước phải co lại và bắp thịt nó bị dồn
phải nở to ra, sao lại suông đuột như thế này được?” Họa sĩ nghe xong biết
mình còn thiếu óc quan sát, mang ngay bức tranh kia về vẽ lại. Ông ta
ngầm nhận đứa trẻ kia là thầy của mình là vậy. Lại như chuyện Việt Thạch
Phú và Án Tử nước Tề. Họ Việt mắc án oan Án Tử gặp giữa đường liền
tháo một con ngựa đang đóng xe ra bán chuộc tội cho họ Việt rồi đưa lên
xe. Về nhà Án Tử chẳng hỏi han gì nữa, bỏ vào trong ở mãi không ra. Việt

80
Phương Pháp Nghị Luận

Thạch Phủ tức giận bỏ đi, thề không đến cửa nữa. Án Tử nghe nói lật đật ra
tạ rằng: “Tôi tuy chẳng ra gì, song cũng gỡ tội được cho ông, sao ông lại cự
tuyệt đi như thế? Thạch Phủ nói: “Không phải. Tôi nghe người quân tử gặp
kẻ bất tri kỷ thì phải cực vào thân, gặp người tri kỷ thì được hả dạ. Tôi bị
án oan lại gặp phải kẻ bất tri kỷ. Được ông chuộc khỏi tội thì ông là tri kỷ
của tôi. Nếu tôi gặp phải người tri kỷ mà vô lễ thì thà rằng tôi ngồi trong
chỗ giam trói còn hơn.”
Án Tử nghe lời chê của Thạc Phủ lấy làm kính trọng sau tôn ông làm
thượng khách.
Người xưa đã nói: “Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư” (ba người
cùng đi ắt có một người là thầy của ta rồi vậy) là đúng theo nhận thức của
thầy Tuân Tử lắm.
Giờ đây, chúng ta hãy tìm hiểu chữ bạn. Bạn là người cùng trang lứa với
ta, cùng học tập giao du với ta. Chữ bạn mà Tuân Tử muốn nói ở đây là
bạn tốt người mà chúng ta nên kết thân. Tại sao nói rằng: “Người khen ta
mà khen phải là bạn ta”. Là vì những người ấy không khen ta vì tư lợi mà
để khuyến khích ta trên đường học tập hay trên đường sự nghiệp. Ta làm
đúng có khi cũng không nhận thấy rõ được cái đúng của ta. Cần có lời
khen của người bạn tốt là người ở tư thế khách quan thì ta mới thấy cái
đúng mà tiếp tục phát triển công việc. Lời ngợi khen của bạn như thế là
một chất “kích thích tố” giúp ta phấn khởi, hăng hái hoạt động vì lợi ích
chung. Chỉ có những người ấy mới đáng cho ta kết giao mà thôi. Xưa Bá
Nha gặp Tử Kỳ, khi đàn cho Tử Kỳ nghe thì được khen rằng:
“Nga nga hề chí tại cao sơn,
Dương dương hề chí tại lưu thủy.”
Lời khen ấy thật là thấu đáo vì Tử Kỳ không những khen ngợi ngón đàn
tuyệt diệu của Bá Nha mà tỏ ta thấu đáo cái tâm trạng sâu kín mà Bá Nha
đã gửi vào tiếng đàn kia. Thế nên Bá Nha mới xem Tử Kỳ là bạn chung
thủy của mình.
Lại như chuyện Quản Trọng và Bảo Thúc Nha sau đây thật là điển hình.
Bảo Thúc chết Quản Trọng khóc như mưa. Có người hỏi tại sao thì Quản
Trọng nói: “Lúc đi buôn chia lãi bao giờ ta cũng lấy phần hơn mà Bảo
Thúc không cho là tham, vì biết ta gặp cảnh quẫn bách bất đắt dĩ mà làm
thế. Ta bị kẻ dọa nạt, Bảo Thúc không cho là nhát mà biết ta có dạ bao
dung. Ta làm việc có việc hỏng mà Bảo Thúc không cho là ngu vì biết con
người còn phải tùy thời. Ta ba lần làm quan là ba lần bị bãi mà Bảo Thúc
81
Phương pháp nghị luận

không cho là bất tiếu, vì nghĩ là ta chưa gặp vua giỏi. Ta ra trận ba lần thua
cả ba mà Bảo Thúc không cho là bất tài, xét vì ta còn mẹ già. Sinh ra ta là
cha mẹ ta mà hiểu ta là Bảo Thúc vậy.” Chính nhờ sự khen đúng, nhờ sự
hiểu biết của bạn mà Quản Trọng sau này mới trở nên người tài giỏi của
nước Tề.
Sau cùng ta tìm hiểu thế nào là kẻ thù? Kẻ thù có hai hạng: hạng công
khai sát hại ta, và hạng âm thầm ám hại ta. Chữ kẻ thù mà thầy Tuân Tử
dùng ở đây đúng vào hạng thứ hai vậy. Trong xã hội, có những kẻ ngoài
miệng thì ngọt ngào mà trong lòng chứa chấp gươm đao. Họ tâng bốc ta,
nịnh bợ ta chỉ vì lợi riêng của họ. Ta làm hại họ cứ cho là đúng, ca ngợi ta
không ngại miệng và như thế họ sẽ đưa ta đi dần đến chỗ hố sâu tội lỗi mà
không hay. Có khi để che giấu âm mưu ám hại của họ mà họ vuốt ve nịnh
bợ ta, làm cho ta vì quá thích thú mà không còn để ý đến âm mưu của họ
nữa.
Ngô Phù Sai bắt Việt Vương Câu Tiễn về hầu mình. Câu Tiễn nuôi sẵn
âm mưu báo thù và phục quốc trong lòng, nhưng ngoài mặt thì tỏ ra yêu
kính nịnh bợ Ngô Vương. Một hôm Phù Sai đau nặng, Câu Tiễn đích thân
nếm phân và đoán rằng nhà vua sắp mạnh. Nghĩ rằng Câu Tiễn tự hạ mình
như thế là do lòng trung thành với mình, từ đó Ngô Phù Sai không còn
nghi ngờ gì nữa. Câu Tiễn lại cho người hiến dâng mỹ nữ, tổ chức tiệc tùng
đàn hát làm cho Ngô Vương đắm say, vì thế mà Phù Sai tiêu tan sự nghiệp.
Chuyện xưa cũng còn cho ta thấy: Tôn Tẫn và Băng Quyên là hai người
bạn cùng học một thầy, Tôn Tẫn là người đạo đức nên được thầy truyền hết
binh thư. Băng Quyên vì ham danh lợi nên hạ sơn trước, sau tìm mọi lời
ngon ngọt để thuyết phục Tôn Tẫn nhận lấy một chức nhỏ, lại tìm cách năn
nỉ ỉ ôi để Tôn Tẫn truyền lại binh pháp cho mình. Tôn Tẫn tin lời đường
mật của bạn nên mới bị Băng Quyên chặt chân.
III. KẾT LUẬN
Xem như trên, chúng ta thấy rằng những lời chỉ dạy bảo của thầy Tuân
Tử rất đúng. Trong cuộc sống hằng ngày, ta phải phân biệt đâu là bạn, đâu
là thù, có như thế thì chúng ta mới tiến triển được mà không phải làm mưu
bọn “lưỡi mối môi lằn”, mới không bị sa ngã hư hỏng.
 Tiêu chuẩn giao kết ở đời của ta phải là:
 Nghe những lời hay lẽ phải và thâu nhận lấy không chút tự ái.

82
Phương Pháp Nghị Luận

 Kết thân với những người chân thật, biết khen đúng mà cũng biết
chê đúng, không tâng bốc mà cũng không dìm tài ta.
 Cố xa lánh những người muốn giao kết với ta, hoàn toàn vì ích lợi
riêng của họ. Có như thế ta mới thoát khỏi bị lầm lạc và có thể tiến bộ.

83
Phương pháp nghị luận

Đề 7: Sách Luận Ngữ có nói: “Chẳng lo người không biết mình, chỉ
lo mình không biết người mà thôi.” (Bất hoạn nhân chi bất kỷ tri, hoạn
bất tri nhân ngã). Câu này có dụng ý khuyên ta điều gì?
Ý chính: Phải chống thói hiếu danh. Khiêm tốn học hỏi mọi người để
tiến bộ.
DÀN BÀI
I. NHẬP ĐỀ
Suy diễn: Nêu lên cái tính hiếu danh và cái bệnh chủ quan của người
đời. Muốn người biết mình mà ít chịu tìm hiểu người khác.
II. DIỄN ĐỀ (3 phần)
a. Tại sao “không lo người chẳng biết mình?”
 Người có thực tài thì lời nói ra được người ta khâm phục, truyền bá
(như lời nói của các bậc hiền triết được học trò ghi chép lưu truyền đến
nay).
 Người có thực tài thì hành động làm cho người chú ý, ca tụng (như
những nhà phát minh, sáng chế đều được ca ngợi).
 Càng có chân tài càng phải khiêm tốn, càng khiêm tốn người ta
càng quí mình hơn.
 Không có tài mà hiếu danh, tự đề cao, tự giới thiệu thì rất lố bịch,
sẽ bị lộ chân tướng, ngay khi người ta gặp mình.
b. Tại sao “lo chẳng biết mình”?
 Biết người để học lấy cái hay của người (không tự cao mà sẵn sàng
nhận lấy).
 Biết người để thấy cái dở của người, xem mình có dở như thế
không?
 Biết mình đã khó, biết người càng khó hơn (người ta thường che
giấu bằng cái bề ngoài, nhiều người chu đáo khó hiểu được).
c. Câu này khuyên ta điều gì?
 Khuyên ta không nên có tính hiếu danh, tự phô trương (không thực
tài mà phô trương thì chỉ làm trò cười cho thiên hạ).
 Khuyên ta không nên quá chủ quan, phải thấy người học người đế
sửa mình.
PHẢN ĐỀ: Nhưng các nhà cách mạng, lãnh đạo một phong trào có một
thiên chức đặc biệt thì phải làm cho người ta biết mình để làm tròn sứ
mạng.

84
Phương Pháp Nghị Luận

III. KẾT LUẬN


Con người biết rèn luyên tài năng, đạo đức, biết tìm hiểu người thì mới
làm được những công to việc lớn.
TÀI LIỆU
Danh ngôn
Chẳng lo không tước vị, chỉ lo cho có tài đức gì để đứng vào địa vị ấy,
đừng lo không biết mình, miễn sao mình giỏi đủ để cho người ta biết đến.
(Bất hoạn vô vị, hoan sở dĩ lập; bất hoạn mạc kỷ tri, cầu vi khả tri dã)
Thấy người hay, mong cho kịp người, thấy người dở xem mình có dở
thế không. (Kiến hiển tử tế yên, kiến bất hiển như nội tư tỉnh giả).
Hữu xạ tự nhiên hương.

85
Phương pháp nghị luận

Đề 8: Bình luận câu nói sau đây của Dương Minh: “Người không có
chí như thuyền không lái, như ngựa không cương, trôi dạt lông bông
không ra thế nào cả.”
Ý chính: Có chí thì mới đạt được mục đích.
DÀN BÀI
I. NHẬP ĐỀ
Qui nạp tương đồng bằng những câu: “Hữu chí cánh thành – có chí thì
nên.” Giới thiệu đề.
II. DIỄN ĐỀ
A. Giải đề
1. Giải nghĩa đề
Hữu chí (tinh thần cố gắng, kiên nhẫn hành động).
Thuyền không lái, ngựa không cương (đi lạc hướng, không đạt mục
đích).
2. Ví dụ
 Ông Châu Trí đốt lá đa mà học: Đại tướng Dronot nhờ ánh lửa lò
bánh mì mà học, sau được nên người xứng đáng.
 Việt Vương Câu Tiễn nằm gai, nếm mật đánh đổ được Ngô Phù Sai
– Trần Hưng Đạo nhờ có chí sau mười năm đuổi được quân Nguyên.
3. Bình đề
Tại sao nói thế?
 Vì người không có chí thì không có lí tưởng, mục đích gì cả nên
thường ham xa hoa vật chất dễ hư hỏng.
 Người không có chí thì không có nghị lực, thiếu kiên nhẫn, dễ hoài
nghi, không làm được việc gì đến nơi đến chốn.
Vương Dương Minh nói đúng là vì:
 Thuyền không lái thì càng chèo mạnh càng đi loanh quanh, ngựa
không cương thì phải chạy bậy.
 Người không có chí thì không có định hướng, không đi tới mục
đích, không làm được việc gì đáng kể.
III. KẾT LUẬN
Cái tài và cái chí phải đi đôi. Có tài mà thiếu chí cũng không thể làm
tròn nhiệm vụ.

86
Phương Pháp Nghị Luận

TÀI LIỆU:Vương Dương Minh hay Vương Thủ Nhân là một nhà đại
chính trị và đại học giả nhà Minh, chủ trương thuyết “Tri hành hợp nhất”
(1472 - 1528).
Đề 9: Sách Nho có câu: “Làm nhà bên đường gặp ai cũng bàn, thì ba
năm không xong.” Câu này khuyên ta điều gì? Có hoàn toàn đúng
không?
Ý chính: Không nên quá nghe ý kiến vô trách nhiệm của người đời,
phải hành động theo ý chí của mình.
DÀN BÀI
I. NHẬP ĐỀ
Suy diễn: Người đời thấy ai làm gì cũng hay khen chê. Nếu ta quá chú
trọng đến dư luận của kẻ bàng quan thì dễ hỏng việc. Giới thiệu đề.
II. DIỄN ĐỀ
1. Giải nghĩa
Làm nhà bên đường (hay làm bất cứ một việc gì) nghe lời vô tiếng ra thì
dễ hỏng việc.
Cất nhà không có đồ bản: kẻ bảo cao, người bảo thấp, bảo trang trí kiểu
này, kẻ khuyên trình bày kiểu khác, nếu cứ ngheo theo thì làm mãi cũng
không xong.
2. Ví dụ: Chuyện ông chủ máy xay, con trai ông và con lừa của La
Fontaine (Le meunier, son fils et l’âne).
Bình đề (2 điểm)
 Câu này khuyên ta điều gì?
 Khuyên ta hãy biết hành động theo ý chí của ta (thấy đúng, thấy
thích, hợp lý thì cứ làm) vì kẻ bàng quan họ góp ý kiến theo ý riêng của họ,
có khi vì ganh tỵ mà họ đưa ý kiến phá hoại – ngông nghênh thì chỉ trích
quàng xiên.
 Khuyên ta phải biết cái tâm lý bất đồng của người đời: kẻ ưa người
ghét, kẻ chê người khen, kẻ thích cái này người thích cái kia, không ai
giống ai.
 Câu này có hoàn toàn đúng không?
Có những trường hợp không đúng.
 Trường hợp có người thành thật muốn khuyên bảo, chỉ dẫn cho ta.
 Trường hợp làm một công việc cần có ý kiến của nhà chuyên môn
(như bác sĩ, kĩ sư, luật sư)
Trong trường hợp này, không cho là ngu xuẩn.
87
Phương pháp nghị luận

III. KẾT LUẬN


Phải biết phân biệt dư luận đúng sai, phải có tinh thần sửa chữa khuyết
điểm nhưng cần cương quyết làm theo ý chí của mình đến cùng.
TÀI LIỆU
1. Mẩu chuyện: Xưa có một người chủ máy xay và đứa con, đem con
lừa ra phiên chợ. Ban đầu con lão cưỡi lừa lão dắt, bị người chê, con lão
xuống, lão lên thay cũng bị chê, hai cha con cùng xuống khiêng con lừa thì
bị cười. Tức quá, hai cha con quyết định:
Từ rày gặp kẻ khen chê,
Dầu cho ai có nói gì mặc ai
Ý ta, ta quyết làm ngay!
11. Danh ngôn: Người đi đêm, tuy không là gian những không thể cấm
chó không cắn sủa được (Chiến quốc sách).

88
Phương Pháp Nghị Luận

Đề 10: Bình giảng câu ca dao:


“Ta về ta tắm ao ta,
Dầu trong dầu đục, ao nhà vẫn hơn.”
Ý chính: Hãy bằng lòng với những cái sẵn có của ta, không nên quá
trọng người mà khinh mình.
DÀN BÀI
I. NHẬP ĐỀ
Suy diễn: Nêu rõ cái thói quen tự ti của người mình, trọng người khinh
mình (ăn đồ Tàu, ở nhà Tây, đi xe Huê Kỳ,… ). Giới thiệu đề đặt lại một ý
thức đúng.
II. DIỄN ĐỀ
A. Giải đề
1. Giải nghĩa
Nghĩa chính: ao do tay ta đào lấy, ta biết rõ nông sâu, sạch dơ, vẫn
không sợ hại.
Nghĩa bóng: Chúng ta nên trở về với cái sẵn có của ta, đừng quá lệ
thuộc vào người mà có hại.
2. Ví dụ (xem phần kết bài)
B. Bình đề
 Nếu văn hóa Âu Châu xâm nhập vào nước ta, cái hay rất nhiều mà
cái xấu cũng lắm.
 Có những cái ở nước ngoài thì hợp mà ở nước ta thì lố lăng (nhảy
đầm, ăn mặc hở hang… )
 Ta phải bảo vệ cái ao của nước nhà, (sản phẩm nội hóa – bảo vệ
tiếng Việt – bảo vệ thuần phong mỹ tục).
 Chống lại cái lố lăng du đãng, ăn chơi trụy lạc.
C. Phản đề
Không nhắm mắt bài ngoại, phải biết thu lấy cái hay của người và bỏ cái
dở của ta.
III. KẾT LUẬN
Câu này không có giá trị tuyệt đối. Bảo vệ cái hay cái đẹp của mình, thu
góp cái hay cái đẹp của người là hai yếu tố làm cho nước nhà tiến bộ.
TÀI LIỆU
Mẩu chuyện: Chuyện chuột nhà chê chuột đồng (chuột đồng chống
lại).Chuyện cụ Phan Châu Trinh và phong trào Duy Tân.
Đề 11: Bình giảng câu ca dao:
89
Phương pháp nghị luận

“Trăm năm bia đá thì mòn


Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.”
Ý chính: Làm điều tốt thì tiếng thơm còn truyền lại mãi. Làm điều xấu
thì tiếng xấu truyền miệng đến muôn đời. Khuyên ta làm điều phải mà
tránh điều quấy.
I. NHẬP ĐỀ
Người đời thường có khuynh hướng làm điều xấu (cố ý hoặc vô tình ít
chú trọng làm điều tốt. Để cảnh cáo nên có câu ca dao: (Giới thiệu đề).
II. DIỄN ĐỀ
A. Giải đề
1. Giải nghĩa
 Bia đá: bia danh cử nhân, tiến sĩ – Mộ bia ghi chức tước người chết
– Công danh, địa vị ghi trên bia đá có thể tiêu mòn với thời gian.
 Bia miệng: lời đồn đại của người đời: người đời khen thì tiếng khen
lưu đến muôn đời, chê tiếng xấu cũng tồn tại mãi.
2. Ví dụ
 Trần Hưng Đạo (khen)
 Trần Ích Tắc, Trần Kiện (chê).
B. Bình đề
 Đừng ham cái địa vị nhất thời mà bêu tiếng xấu cho muôn đời.
 Tạo tiếng tốt hơn là tạo cái bia đá tốt.
 Những kẻ bán nước cầu vinh, những con người gian ác không tránh
được “búa rìu dư luận.”
III. KẾT LUẬN
Đừng sợ người đời sau không biết mình mà lo khắc bia đá ghi công;
phải mang lấy tiếng nhơ mà không bôi xóa được.
TÀI LIỆU
Mẩu chuyện
 Trần Hưng Đạo xin vua chém đầu mình trước rồi hãy hàng quân
Nguyên, được tiếng thơm muôn đời.
 Trần Kiện, Trần Ích Tắc đầu hàng giặc Nguyên, bị gọi là Ả Trần,
Mai Kiện.
Tục ngữ, cách ngôn
 Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn gần.

90
Phương Pháp Nghị Luận

 Đừng thấy điều thiện nhỏ mà không làm, đừng thấy điều ác nhỏ mà
làm.

Đề 12: Bình giảng câu tục ngữ Pháp: “Sống là tranh đấu.”
Ý chính: Đời là một cuộc canh tranh, phải tranh đấu mới sống được.
Không tranh đấu sẽ phải chịu luật đào thải tất nhiên của xã hội.
DÀN BÀI
I. NHẬP ĐỀ
Quy nạp: Ong; kiến; con người, các dân tộc đều phải tranh đấu giành
lấy sự sống còn. Giới thiệu đề.
II. DIỄN ĐỀ
A. Giải đề
1. Giải nghĩa
 Loài vật trong rừng phải tranh đấu để bảo vệ sự sống (đánh cắn
nhau, lừa gạt nhau).
 Con người phải tranh đấu để tìm lấy miếng ăn, tạo địa vị, thoát mọi
cạm bẫy xã hội.
B. Bình đề
 Cá nhân phải tranh đấu có cơm ấm no, mưu cầu danh lợi, thỏa mãn
đời sống tinh thần lẫn vật chất – chống lại các thú tính. (thói hư tật xấu, các
sự cám dỗ ngoài đời).
 Con người từ lúc đầu đã phải tranh đấu chống thiên nhiên, chống ác
thú, chống bạo tàn…
 Xã hộI này phải tranh đấu với xã hội khác (phe Dân chủ phải tranh
đấu với phe Cộng sản).
 Tranh đấu thanh toán những tư tưởng xấu, lạc hậu trong xã hội.
 Có tranh đấu mới có tiến bộ.
III. KẾT LUẬN
Tranh đấu và chiến thắng nâng cao giá trị con người, thay đổi bộ mặt xã
hội.
TÀI LIỆU
Văn liệu:
“… Sống ở trên đời,
Có khi phú quí có hồi gian nan.
Thấp cao đã biết tuổi vàng,
91
Phương pháp nghị luận

Gặp cơn lửa đỏ màu thêm xui.”


(Hớn Minh khuyên Lục Vân Tiên).

Đề 13: Bình giảng câu tục ngữ: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.”
Ý chính: Gần người tốt thì tốt, gần người xấu sẽ xấu.
Gần nơi tốt thì tốt, gần nơi xấu thì xấu.
DÀN BÀI
I. NHẬP ĐỀ
Suy diễn: Con người là sản phẩm của xã hội, chịu ảnh hưởng của hoàn
cảnh mình sống – Giới thiệu đề.
II. DIỄN ĐỀ
A. Giải đề
1. Giải nghĩa
 Mực là chất đen, chất dơ, chỉ người xấu (hoàn cảnh xấu).
 Đèn là vật sáng, điều tốt, chỉ người tốt (hoàn cảnh tốt).
12. Ví dụ
Chuyện mẹ thầy Mạnh Tử dời nhà.
B. Bình đề
 Xét về cá nhân thì giao du với bạn tốt sẽ trở nên tốt, giao du với
người xấu, ta sẽ nên xấu.
 Cha mẹ xấu có ảnh hưởng nhiều đến con cái (gieo rắc cái xấu cho
con cái).
 Sống trong hoàn cảnh xấu (nơi ăn chơi trụy lạc, giữa bọn người đầu
trộm đuôi cướp) thì sẽ xấu. Sống trong hoàn cảnh tốt (gia đình có giáo cụ,
giới người đứng đắn) thì sẽ tốt.
 Đó là con người hay bắt chước (cái xấu tốt thì cũng bắt chước), hay
tự ái (thấy người ta giỏi cũng muốn giỏi hơn).
 Nơi học đường, phải chọn bạn mà chơi.
 Ngoài xã hội: chọn nơi gởi con đứng đắn; chọn chỗ ở cho gia đình.
C. Phản đề
Cũng có trường hợp gần người xấu mà không xấu, sống trong hoàn cảnh
xấu mà không xấu (những người có nghị lực).
III. KẾT LUẬN

92
Phương Pháp Nghị Luận

Những nhà giáo dục, các bậc cha mẹ phải đặc biệt chú ý đến câu này
cho con cái, học sinh trở nên những người tốt sau này.
TÀI LIỆU
Mẩu chuyện
Mạnh Mẫu nhà ở gần lò heo, con bắt chước làm thịt theo; ở gần trại
họm, con bắt chước chôn cất. Bà dời nhà về gần trường học để Thầy Mạnh
Tử bắt chước đi học.
Ca dao:
“Thói thường gần mực thì đen,
Anh em bạn hữu phải nên chọn người,
Những người lêu lổng chơi bời,
Cùng là lười biếng ta thời tránh xa.”

93
Phương pháp nghị luận

Đề 14: Tìm hiểu về 5 đức tính căn bản là: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín
mà Đức Khổng Tử đã nêu lên làm căn bản, có đúng với việc xử thế ngày
nay không?
Ý chính: Đây là 5 điều căn bản về đạo đức thời xưa để đối nhân xử thế.
Giữ được 5 điều này thì giữ được xã hội.
DÀN BÀI
I. NHẬP ĐỀ
Suy diễn: (bằng tiểu sử tác giả): Giới thiệu Đức Khổng Tử là một nhà
đạo đức. Giới thiệu đề.
II. DIỄN ĐỀ
A. Giải đề (giải nghĩa và ví dụ đi đôi)
1. Nhân: thương người xung quanh bằng tình nhân loại.
Ví dụ:
 Chuyện Lê Thánh Tôn cởi long bào đắp cho ông lão nằm run rét.
 Đức Giêsu, Đức Phật xả thân để cứu độ nhân loại.
2. Nghĩa: làm việc phải, tránh việc quấy, thọ ơn thì phải nhớ ơn.
Ví dụ:
Chuyện Vân Tiên trừ cướp cứu Nguyệt Nga, chuyện Phùng Huyền mua
nghĩa cho Mạnh Thường Quân.
3. Lễ: giữ tôn ty trật tự xã hội, trên kính dưới nhường.
Ví dụ: Chuyện Khổng Tử xuống xe nói chuyện với Hạng Thác.
4. Trí: thông minh, sáng suốt giải quyết các vấn đề cần thiết.
Ví dụ:
 Chuyện Mạc Đĩnh Chi xé tranh chim sẻ đậu trên cành trúc.
 Chuyện Đào Duy Từ đổ nước xuống lỗ sâu để nhặt quả bưởi.
5. Tín: tin mình và tin người, giữ lời hứa với người xung quanh.
Ví dụ:
 Chuyện Qui Trát giữ lời hứa với vua Tề.
 Chuyện Nhạc Chinh Tử không chịu mang cái đỉnh giả sang Tề.
B. Bình đề
Các đức tính này cần thiết cho việc xử thế hằng ngày như thế nào?
 Có nhân: thì được người thương yêu giúp đỡ, bênh bạn, bớt thù.
 Có nghĩa: thì được người khâm phục, nhớ ơn gười thì khi gặp hoạn
nạn lại được người giúp đỡ.
 Có lễ: thì con người hòa nhã ai cũng yêu mến.

94
Phương Pháp Nghị Luận

 Có trí: thì không bị người lừa gạt, vượt qua các cạm bẫy xã hội dễ
dàng.
 Có tín: thì dùng được người, làm cho người tin mình, dám giao
công việc quan trọng.
III. KẾT LUẬN
Giữ được năm đức tính này thì có thể nên người hoàn toàn. Chúng ta
nên rèn luyện từng đức tính một, được đức tính nào cũng đều tốt cả.
TÀI LIỆU
Mẩu chuyện
Phùng Huyền sang đất Tiết đòi nợ cho Mạnh Thường Quân. Qua đó cho
đốt hết giấy nợ, nói là mua nghĩa cho Mạnh. Sau khi Mạnh bị cách chức về
đất Tiết ai nấy tiếp đón niềm nở mới thấy rõ. – Nhạc Chính Tử nước Lỗ là
người trọng chữ tín, vua Tề biết thế nên khi bảo vua Lỗ dâng cái đỉnh cho
mình thì bảo phải Nhạc đem qua mới được. Vua Lỗ cho làm đỉnh giả,
nhưng Nhạc không nhận, nói rằng: “Bệ hạ quí cái đỉnh thì hạ thần cũng
biết trọng chữ tín.”
Danh ngôn
 Người nhân thì vinh, bất nhân thì nhục (Mạnh Tử).
 Người ta khác giống cầm thú vì có lễ (Chiến quốc sách).
 Làm việc bất nghĩa mà giàu sang thì sang giàu ấy ta coi như mây
nổi (Luận ngữ).
 Nhân vô tín bất lập (Người không có tín không đứng vững được ở
đời) (Trình Di).

95
Phương pháp nghị luận

Đề 15: Bình giảng câu: “Quân tử cầu ở mình, tiểu nhân cầu ở
ngoài.”
Ý chính: Người quân tử tin ở sức mình, tự lực làm việc. Kẻ tiếu nhân
chỉ biết dựa vào người.
DÀN BÀI
I. NHẬP ĐỀ
Suy diễn: giới thiệu hai hạng người trong xã hội. Người quân tử là hạng
người cao quí, kẻ tiểu nhân là hạng người tầm thường có nhiều thói xấu.
Giới thiệu đề.
II. DIỄN ĐỀ
A. Giải đề
1. Người quân tử cầu ở mình
 Cầu là cậy nhờ, tin vào.
 Cầu ở mình là trông cậy vào mình, tin tưởng ở khả năng của mình,
không nhờ vả ai (tự tin, tự trọng, tự lập).
 Khi lầm lỗi thì tìm cách sửa chữa, không đổ lỗi cho ai.
2. Kẻ tiểu nhân cầu ở người
 Kẻ vô tài, hèn hạ, thường cúi lòn, nịnh bợ, nhờ tay người khác để
tạo nên địa vị.
 Nếu có tài mà thiếu tự tin thì cũng hỏng, chỉ để cho người ta sai
khiến.
 Không dám tranh đấu bản thân, không tiến bộ.
B. Bình đề
1. Cầu ở mình có lợi như thế nào?
 Khắc phục được bản thân.
 Tạo cho mình có một nghị lực để vượt khó (có cứng mới đứng đầu
gió).
 Có thể làm những việc cao cả (ích quốc, lợi dân).
2. Cầu ở người có hại như thế nào?
 Suốt đời chỉ là kẻ thuộc vào người
 Có thể trở nên hạng nịnh thần, nghịch tặc.
C. Phản đề
 Người quân tử phải học hỏi ở người trên mình (Thánh hiền).
 Người quân tử cũng có khi phải cầu người dưới (bất sỉ hạ vẫn) –
không sợ nhục khi hỏi người dưới.

96
Phương Pháp Nghị Luận

III. KẾT LUẬN


Ta phải tự tin và tự trong thì mới có thể tự lập được. Có chí tự lập thì
đời mới có nhiều thích thú.
TÀI LIỆU
Danh ngôn
 Tự mình khinh mình trước, người ngoài mới khinh mình sau (Mạnh
Tử).
 Ngẩng lên không hổ với trời, cúi xuống không thẹn với người: đó là
một điều vui sướng.

97
Phương pháp nghị luận

Đề 16: Bình giảng câu nói trong Luận Ngữ: “Chẳng lo người chẳng
biết mình, lo chẳng biết người vậy.” (Bất hoạn nhân chi bất kỷ trỉ, hoạn
bất tri nhân dĩ)
Ý chính: Chống thái độ phô trương tự phụ, nêu cao đạo đức, tính khiêm
tốn. Phô trương thì người ghét, tìm hiểu người thì việc xử thế mới an toàn.
DÀN BÀI
I. NHẬP ĐỀ
Suy diễn: Thói đời là thích phô trương mà ít chịu tìm hiểu người để sửa
mình. Giới thiệu đề.
II. DIỄN ĐỀ
A. Giải đề
1. Chẳng lo người chẳng biết mình
 Nếu mình giỏi thực sự thì sớm hay muộn gì người ta cũng biết đến
(khỏi phải phô trương).
 Hiếu danh, tự đề cao mà kém tài, kém đức thì chỉ làm trò cười thiên
hạ.
2. Lo chẳng biết người
 Ta cần biết cái hay của người để làm cho ta hay hơn.
 Ta cần biết cái dở của người để xem ta có dở như người không?
B. Bình đề
Tại sao lại nói như thế?
 Vì phô trương, háo danh thì chỉ làm cho người ta ghét mà thôi.
Người có thực tài thì sớm muộn gì người ta cũng biết.
 Ở đời hiểu người rất khó, hiểu cái hay, cái dở của người càng khó
hơn.
 Khó chiến thắng lòng tự ái của ta để mà học hỏi người khác
 Nói chung: Phải khiêm tốn, không tự phô trương, chịu học hỏi
người khác thì mới mong tiến bộ.
C. Phản đề
 Có những trường hợp ta phải làm cho người biết mình (mà không
phải là tự phô trương).
 Khi mình còn nhận lãnh một trách vụ lãnh đạo (như Phan Chu
Trinh phải thi đỗ, ra làm quan để lãnh đạo sĩ phu)
 Như Khổng Tử đi đến các nước trình bày ý kiến của mình để xây
dựng xã hội đi đến thái hòa.

98
Phương Pháp Nghị Luận

III. KẾT LUẬN


Câu nói của Khổng Tử là để chỉ trích kẻ bất tài khoe khoang vì danh lợi.
Nhưng người có tài phải ra mặt để giúp ích cho đời.
TÀI LIỆU
Danh ngôn
 Hữu xạ tự nhiên hương
 Chẳng lo không tước vị, chỉ lo cho có tài đức gì để đứng vào địa vị
ấy: đừng lo không ai biết mình, miễn sao mình giỏi đủ cho người ta biết
đến (Khổng Tử).
 Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư; trách kỳ thiện giả nhi tùng chi,
kỳ bất thiện giả nhi cải chi (trong ba người cùng đi tất có thầy ta; chọn điều
hay mà bắt chước xét điều dở mà sửa đi).
 Kẻ tự cho mình là giỏi thì sai, không được nghe lời khôn, lẽ phải
nữa.

99
Phương pháp nghị luận

Đề 17: Bình giảng câu nói của Hoài Nam Tử:


“Cái gì cũng biết mà đạo làm người không biết thì chưa gọi là khôn.”
Ý chính: Biết đạo làm người là việc lớn. Những cái biết khác đều là
nhỏ, biết cái nhỏ mà không biết cái lớn thì chưa phải là biết vậy.
DÀN BÀI
I. NHẬP ĐỀ
Suy diễn: Ai cũng khoe là mình biết nhiều, là khôn. Nhưng biết nhiều,
biết ít chưa thể phân định hơn kém được. Chỉ có biết cái quan trọng với cái
không quan trọng là đáng kể mà thôi. Giới thiệu đề.
IV. DIỄN ĐỀ
A. Giải đề
1. Cái gì cũng biết: là biết những cái vụn vặt như
 Biết xoay xở tiền bạc làm cho mình giàu có.
 Biết tìm tòi học hỏi làm mở mang trí tuệ.
 Biết vận động tạo nên địa vị cao.
 Biết những ngón xảo trá lòe đời.
2. Đạo làm người la theo đúng: “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín và Kần
kiệm”
B. Bình đề
Tại sao như thế mà chưa gọi được là khôn?
3. Vì biết làm cho mình giàu có nhưng “vi phú bất nhân” thì không
đúng đạo làm người.
 Biết tìm tòi mở mang trí tuệ mà không biết nghĩa “Phụ nghĩa vong
ân” thì không đúng đạo làm người.
 Biết vận dụng tạo nên địa vị cao, rồi tự tung tự tác, hống hách
không biết lễ thì không đúng đạo làm người.
 Biết làm giàu mà không cần kiệm thì không phải là người trí, không
đúng với đạo làm người.
V. KẾT LUẬN
Dùng câu thơ kể chuyện Lục Vân Tiên của Nguyến Đình Chiểu:
“Thanh bần giữ phận an vui,
Noi nhân, giữ nghĩa so hồi sấm vang.”

TÀI LIỆU
Danh ngôn

100
Phương Pháp Nghị Luận

 Đời người phú quí có lễ độ không khó, có thể thông mới khó: đời
người bần tiện có ân huệ không khó, có lễ độ mới khó (Lưu Cao).
 Lấy hạnh phúc của người làm hạnh phúc mình là niềm vui tuy đạm
bạc nhưng tâm hồn mình được sung mãn (H. Esquerre).

101
Phương pháp nghị luận

Đề 18: Bình giảng câu nói của Bảo Phác Tử: “Loài kim vì cứng mà
hay gãy, nước vì mềm mà được toàn.”
Ý chính: Cứng rắn quá thường khi hỏng việc, mềm dẻo thì dễ thành
công.
DÀN BÀI
I. NHẬP ĐỀ
Suy diễn: Mượn câu “Nhu thắng cương, nhược thắng cường” mà đối
chiếu và giới thiệu đề.
II. DIỄN ĐỀ
A. Giải đề
1. Loài kim vì cứng mà hay gãy
 Nghĩa đen: Sắt, đồng, thau, chì tuy cứng mà có thể bẻ gãy cả.
 Ẩn ý: Cứng rắn quá thì dễ hỏng việc. Không biết tùy hoàn cảnh thì
có hại cho mình.
2. Nước vì mềm mà được toàn
 Nghĩa đen: Nước thì chặt không đứt, bứt không rời.
 Ẩn ý: Mềm dẻo thì dễ thành công trên đường đời. Khéo tùy thời thì
nên việc.
 Ví dụ: Truyện cây sến và cây sậy của La Fontaine.
B. Bình đề
 Trong việc làm ăn mà giữ mãi một đường thì có thể phá sản (phải
tùy lúc mà thay đổi đường đi).
 Đối xử với người mà cứng rắn quá thì không có bạn (ai cũng e ngại
không dám tiếp xúc).
 Trong việc giáo dục không thay đổi phương pháp thì dễ bị lạc hậu.
 Đường lối chính trị mà quá cứng rắn thì khó ngoại giao.
 Chính sách cai trị quá cứng rắn thì dễ gặp phản ứng không tốt.
III. KẾT LUẬN
Muốn thành công trên đường đời thì phải tập tính mềm dẻo. Càng mềm
dẻo càng được người mến nên việc gì cũng xong.
TÀI LIỆU
Mẩu chuyện
Cây sến và cây sậy của La Fontaine: sây sếu tự hào cứng rắn, chê cây
sậy mềm yếu. Nhưng một cơn giông đến, cây sến trốc gốc mà cây sậy vẫn
không hề hấn gì.

102
Phương Pháp Nghị Luận

Danh ngôn
 Cứng quá tất gãy, căng quá tất đứt. (Lục thao tam nghị).
 Loài kim cứng thì gãy, mảnh da căng quá thì rách (Thuyết Uyển).

103
Phương pháp nghị luận

Đề 19: Gustave Flaubert: một văn hào Pháp, có nói: “Ở đời, cái gì
cũng phải học.” Hãy cho biết tại sao ta cần phải học? Ta cần phải học
những gì? Và học tập thế nào để mau tiến bộ?
Ý chính: Sự học tập cần thiết cho con người về mọi phương diện. Có
học hết mọi việc thì mới tiến bộ được.
DÀN BÀI
I. NHẬP ĐỀ
Suy diễn: Càng hiểu biết nhiều, càng dễ tiến bộ. Muốn hiểu biết, không
có cách nào khác hơn là học tập. Giới thiệu đề.
II. DIỄN ĐỀ
1. Tại sao ta cần phải học?
 Đời có nhiều vấn đề ta chưa hiểu biết, chưa hiểu thì không làm
được, có học tập mới hiểu biết rõ.
 Học vấn nâng cao giá trị con người, rèn luyện tư cách , đạo đức cho
ta.
 Học vấn là phương tiện giúp ta tìm sự sống; có học thì đời sống
mới tiến được dễ dàng.
2. Ta cần học những gì?
 Dẫn câu nói của người đời: “Học ăn, học nói, học gói, học mở.”
 (Từ cái dễ đến cái khó đều phải học)
 Học ăn: ăn coi nồi, ngồi coi hướng.
 Học nói: lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
 Học gói, học mở: học xoay sở ở đời, thích ứng với mọi hoàn cảnh.
Học tập hết mọi phương diện: văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội,…
 Văn hóa: học cách nâng cao dân trí.
 Chính trị: học tập thực hiện dân chủ.
 Kinh tế: học về các khoa tài chính., ngân hàng, tăng gia sản xuất
nông nghiệp, công kỹ nghệ.
 Xã hội: học tập nâng cao mức sống xã hội.
3. Cách học tập
 Học tập về lý thuyết trong sách vở.
 Học tập bằng cách thực hành, suy nghiệm để phát hiện những điều
mới lạ.
 Học tập kinh nghiệm của người đời (cả một kho tàng phong phú).
III. KẾT LUẬN

104
Phương Pháp Nghị Luận

Cái gì cũng phải học, nhưng học xong phải thực hành. Học và hành phải
đi đôi.
TÀI LIỆU
Ca dao
Rừng như bể thánh khôn dò
Nhỏ mà không học lớn mò sao ra?
Danh ngôn
 Hãy nhìn lên, học rộng, luôn luôn tìm cách vươn lên cao (Regarder
en haut, apprendre au dela, chercher à s’élever toujours).
 Sau cơm gạo, học vấn là nhu cầu cần thiết nhất của con người.

105
Phương pháp nghị luận

Đề 20: Bình giảng câu cách ngôn: “Hãy tự giúp mình rồi trời sẽ
giúp”
Ý chính: có tự tin thì mới thành công được, mới có được sự hỗ trợ bên
ngoài.
DÀN BÀI
I. NHẬP ĐỀ
Qui nạp tương đồng bằng câu: “Tận nhân lực tất tri thiên mệnh” (Làm
hết sức mình ắt rõ mệnh trời)
II. DIỄN ĐỀ
1. Tại sao phải tự giúp?
 Có tự tin thì mới hành động (mới tự lực tự cường được).
 Có hành động thì người ta mới thấy việc làm của mình mà ủng hộ.
 Có sự thất bại thì mới đi đến thành công.
13. Trời giúp mình như thế nào?
 Trước tiên là có sự hỗ trợ của người xung quanh (theo ý muốn của
trời).
 Trời giúp cho ta cái hoàn cảnh may mắn để thành công.
 Tin tưởng rằng mình hành động đúng thì thần thánh cũng hộ trợ
cho mình (chi thành thông thánh)
Ví dụ:
 Dân tộc Việt Nam không đứng lên tự giải phóng thì không ai giúp
cho mình cả.
 Có chiến đấu thì mới thấy rõ lòng dân (ý dân là ý trời mới có sự
giúp đỡ của các nước bạn).
14. Tác dụng của câu này
 Làm cho ta thêm tự tin, thêm hằng hái, can trường hoạt động.
 Không phủ nhận lòng tin tưởng nơi mệnh số, nơi cay đắng vô hình
(nhưng không tuyệt đối).
III. KẾT LUẬN
Làm việc gì cũng phải tự tin. Từ việc nhà đến việc nước, lòng tự tin là
một bảo đảm vững chắc cho sự thành công.
TÀI LIỆU
Tục ngữ
Có cứng mới đứng đầu gió
Ca dao

106
Phương Pháp Nghị Luận

Khi nên trời giúp công cho,


Làm trai năm liệu bảy lo mới hào.
Trời sanh, trời chẳng phụ nào,
Công danh gặp hội, anh hào ra t ay.
Danh ngôn
Mười lần thì có 9 lần thành công, nhờ sự tự tin và sự tận tâm làm việc
(Wilson).

107
Phương pháp nghị luận

Đề 21: Bình giảng câu nói của Tổng Thống Mỹ Abraham Linconln:
“Một cách hay nhất để thành công ở đời là khởi sự làm những điều
mình thường khuyên bảo kẻ khác.”
Ý chính: phải tự giác và quyết tâm làm nhiệm vụ của mình thì mới
thành công.
DÀN BÀI
I. NHẬP ĐỀ
Suy diễn: người ta hay làm ra vẻ thầy đời, chỉ dạy cho người khác mà
chính mình không làm đúng theo lời chỉ dạy. Giới thiệu đề (có thể NHậP
Đề bằng tiểu sử tác giả).
II. DIỄN ĐỀ
1. Tại sao Tổng thống Linconln lại nói như thế?
 Vì những điều khuyên bảo kẻ khác thường là điều hay (để tỏ ra
mình sành đời).
 Vì những điều mình khuyên bảo kẻ khác thường khó làm (phải
nhiều kiên nhẫn, quyết tâm, mới làm được).
 Làm được những điều khuyên bảo thì có lợi cho bản thân, cho gia
đình, cho xã hội (thành công mỹ mãn).
2. Dẫn chứng cụ thể
 Đối với cá nhân: mình khuyên người ta đừng uống rượu, đừng cờ
bạc, thì mình nên làm trước, có lợi cho bản thân.
 Đối với gia đình: mình khuyên người ta cần kiệm thì mình không
nên tiêu hoang, mình khuyên người ta thuận hoà thì mình không nên xung
đột, có lợi cho gia đình mình.
 Đối với xã hội: mình khuyên người ta siêng năng, tương trợ, thì
mình phải chuyên cần, không nên chia rẽ, mới có lợi cho xã hội.
3. Tại sao người ta lại nông nỗi như thế?
 Vì biết dễ mà làm khó (biết việc nào là tốt, thấy khó mà không
làm).
 Vì người ta thiếu nghị lực, thiếu kiên nhẫn (không dám làm sợ thất
bại, ngán làm lâu).
III. KẾT LUẬN
Nói và làm phải đi đôi, đó là yếu tố để thành công ở đời.
TÀI LIỆU
Tục ngữ

108
Phương Pháp Nghị Luận

Hãy làm những điều tôi nói,


Đừng làm những điều tôi làm.
Danh ngôn
 Muốn cho một người hoạt động vui lòng thì đừng nói đến những
việc gì họ đã làm, mà nên nói đến những gì họ có thể làm. (B.Grasset).
 Cái xấu của mình có thể tránh đặng lại không thể tránh; cái xấu của
người không thể tránh được lại cố tránh thật cũng nực cười (Mare aurele).
Tiểu sử tác giả
Araham Lincoln, sinh năm 1809 ở Harvin, người chủ trương bãi bỏ chế
độ nô lệ ở Mỹ. Được bầu làm Tổng thống Hoa Kỳ, lần đầu năm 1859, tái
cử năm 1864. Bị ám sát năm 1865 bởi một kẻ cuồng tín duy trì nô lệ là
J.W.Booth.

Đề 22: Bình giảng câu nói của người xưa: “Thắng cả vạn quân
không khó bằng tự thắng mình”.
Ý chính: thắng người dễ hơn thắng mình.
Chú ý điểm tương phản: Người đông mà dễ thắng, ta có một mình mà
khó thắng.
DÀN BÀI
I. NHẬP ĐỀ
Trong các cuộc đấu tranh chỉ có cuộc tranh đấu bản thân là gay go nhất.
Giới thiệu chủ đề.
II. DIỄN ĐỀ
A. Giải đề
 Thắng vạn quân địch: công việc của viên võ tướng chiến thắng một
lực lượng hùng hậu.
 Tự thắng mình: tranh đấu bản thân (thắng tật xấu, nết hư của mình).
Ví dụ: Từ Hải có thể thắng quân triều đình, hung cứ một vùng mà
không thắng được cái tính yếu đuối trước lời khuyên ngon ngọt của nữ
nhi nên hỏng cả sự việc.
B. Bình đề
Tại sao nói như thế?
 Thắng địch dễ vì địch là những người cụ thể, dễ đánh trúng. Thắng
mình khó vì kẻ thù ẩn trong lòng mình.
 Thắng địch dễ vì mình có binh lực: thắng; mình khó vì không ai trợ
giúp mình được.
109
Phương pháp nghị luận

 Với địch, mình sẵn sàng có mối thù nên dễ đánh mạnh; với mình,
mình sẵn có thiện cảm nên dễ tha thứ cho mình.
 Thắng địch dễ vì mình có thể dùng lực lượng vật chất (súng ống,
đạn dược, binh sĩ… ), thắng mình khó vì phải dùng nhiều nghị lực.
Thực hiện cuộc tranh đấu bản thân:
 Phải thường xuyên tự kiểm điểm, trách tự ái cá nhân.
 Phải có tinh thần cầu tiến.
 Phải thành tâm nghe lời phê bình, chỉ trích của người khác.
Phải cương quyết thực hiện cuộc tranh đấu bản thân để trở nên người
hữu dụng sau này vượt qua mọi khó khăn, trở lực trên đời.
TÀI LIỆU
Mẩu chuyện
 Quan Vân Trường đời Tam Quốc vì không chiến thắng được lòng
tự ái “đi đại lộ về đại lộ” nên bị Lữ Mông ám hại.
 Trương Phi đời Tam Quốc vì không thắng được tính nóng nảy mà
bị bọn thợ may giết chết (thúc giục họ may đồ tang để cử hành tang lễ
cho Quan Công).
Danh ngôn
 Luôn luôn sợ thua thì chẳng bao giờ thắng.
 Một người không kiên nhẫn cũng như một ngọn đèn không có dầu
(A. de Musset).
 Kẻ biết mình là người sáng, kẻ biết người là người khôn (Lão Tử).

Đề 23: Bình giảng câu nói của bà De Stael: “Đời dạy bảo nhiều điều
hay cho người biết suy nghĩ, nhưng để làm hư hỏng những kẻ nông
nổi.”
Ý chính: đời có cái tốt cái xấu. Biết suy nghĩ thì thu thập được cái tốt;
không biết suy nghĩ thì nhận lấy cái xấu, dễ bị hư hỏng.
DÀN BÀI
I. NHẬP ĐỀ
Suy diễn: Đời muôn mặt, xấu nhiều tốt ít. Người đời đủ hạng, nhưng kẻ
thì nông nổi thì nhiều, người biết suy nghĩ thì ít. Giới thiệu đề.
VI. DIỄN ĐỀ
A. Giải đề

110
Phương Pháp Nghị Luận

 Người biết suy nghĩ: những người trầm tĩnh nhận xét việc đời trên
mọi khía cạnh.
 Người nông nổi: những người không biết suy nghĩ, thu nhận việc
đời một cách bừa bãi.
B. Bình đề
1. Người biết suy nghĩ thu nhập được những điều gì hay ở đời?
 Không “thấy người ta ăn khoai” mà “mình vác mai chạy”, biết cân
nhắc các nghề để lựa chọn nghề thích hợp với khả năng của mình. Thấy thế
tình đen bạc mà xử sự một cách thận trọng, tránh được thù hằn vô cớ.
 Thấy rõ các hạng người trong xã hội để có thái độ đối xử thích hợp
(nông hậu với người tốt, mềm dẻo với kẻ xấu … ).
 Có nhìn sâu vào đời, suy nghĩ kỹ thì mới thấy hết được các khía
cạnh tốt xấu, thiện ác, đâu là nơi chính thiện, đâu là cạm bẫy ở đời.
15. Người nông nổi dể bị đời làm hư hỏng
 Thấy những phong trào mới đến, họ vội vã thu nhập, rồi bị lôi cuốn
và chìm đắm (như các phong trào sa hoa vật chất).
 Thấy người ta xấu cũng lấy cái xấu mà đáp lại, rốt cuộc trở nên
người xấu, đắm mình trong chốn bùn nhơ.
 Đời thường hấp dẫn con người bằng danh dự. Người nông nổi vì
danh lợi mà quên mất cuộc sống thanh cao.
VII.KẾT LUẬN
Nêu lên bài học ở đời: thận trọng là sống, nông nổi là chết. Càng lăn lộn
ở đời thì càng từng trải, nhưng lúc nào cũng phải phân biệt cái tốt, cái xấu
ở đời.
TÀI LIỆU
Tục ngữ
Thức lâu mới biết đêm dài,
Thường già rồi mới khôn.
Văn liệu
Dầu ai cũng nghĩ mình trong mình với,
Phải giống sen thà chẳng nhúng bùn.

111
Phương pháp nghị luận

(Nguyễn Công Trứ)

112

You might also like