Professional Documents
Culture Documents
Chương 1
TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
A- LÝ THUYẾT
Như vậy, ở cả phương Đông và phương Tây, triết học đều được hiểu
hoạt động nhận thức có trình độ trừu tượng hóa, khái quát hóa, là hoạt động
tìm hiểu khách thể để đạt được tri thức đúng đắn.
- Theo triết học Mác - Lênin: Triết học là hệ thống các quan điểm lý
luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó, là
khoa học về những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên,
xã hội và tư duy.
1.3. Vấn đề đối tượng của triết học trong lịch sử
Triết học với tính cách là hình thái ý thức xã hội, chịu sự chi phối của tồn
tại xã hội và trình độ nhận thức của con người. Do vậy nội dung của đối tượng
triết học cũng thay đổi ở các thời kỳ khác nhau:
- Thời cổ đại: Triết học nghiên cứu mọi lĩnh vực của thế giới, nó bao hàm
trong nó tất cả tri thức về các lĩnh vực mà con người có được. Mặc dù có sự
khác nhau, triết học phương Đông thiên về con người và xã hội; triết học
phương Tây thiên về giới tự nhiên nhưng ở thời kỳ này triết học vẫn được coi
là khoa học của mọi khoa học.
- Thời trung cổ: Triết học Tây Âu là nền triết học kinh viện chịu sự quy
định và chi phối của hệ tư tưởng Kitô giáo. Triết học có nhiệm vụ lý giải và
chứng minh cho sự đúng đắn của Kinh Thánh.
- Thời Phục hưng đến thế kỷ XVIII: Triết học Tây Âu từng bước thoát
khỏi ách thống trị của thần học, cùng với sự hình thành, củng cố quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự ra đời của các khoa học chuyên ngành đã làm
phá sản quan niệm coi triết học là khoa học của các khoa học. Triết học giai
đoạn này đi vào giải thích thế giới dựa trên tinh thần đề cao chủ nghĩa nhân
đạo và gắn với những thành tựu của khoa học tự nhiên.
- Triết học Mác – Lênin xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp
tục giải quyết mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất và ý thức
trên lập trường duy vật triệt để; nghiên cứu những quy luâ ̣t chung nhất của
tự nhiên, xã hội và tư duy.
1.4. Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan
- Thế giới quan và các hình thức của thế giới quan:
Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan
điểm, tình cảm, niềm tin, lý tưởng xác định về thế giới và về vị trí của con
người (bao gồm cá nhân, xã hội và cả nhân loại) trong thế giới đó. Thế giới
quan quy định các nguyên tắc, thái độ, giá trị trong định hướng nhận thức
triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”1.
- Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời cho hai câu hỏi:
+ Mặt thứ nhất, giữa vật chất và ý thức: cái nào có trước, cái nào có sau,
cái nào quyết định cái nào?
+ Mặt thứ hai, con người có nhận thức được thế giới hay không?
Trả lời hai câu hỏi trên là cơ sở xác định lập trường của các nhà triết
học, các trường phái triết học và các học thuyết về nhận thức của triết học.
Đó là hai trường phái triết học duy vật và duy tâm. Về mặt nhận thức, đó là
quan điểm thừa nhận khả năng nhận thức của con người đối lập với quan
điểm “bất khả tri”.
2.2. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
Khi giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, tức trả lời cho
câu hỏi: giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào
quyết định cái nào? Nó chia các nhà triết học thành hai trường phái là
trường phái duy vật và trường phái duy tâm.
- Những người cho rằng vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết
định ý thức thì thuộc trường phái duy vật. Học thuyết của họ hợp lại gọi là
chủ nghĩa duy vật.
Như vậy, giải quyết vấn đề cơ bản của triết học không chỉ xác định
được nền tảng ban đầu, xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết
học mà nó còn là tiêu chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của các
triết gia và các học thuyết của họ.
- Những người cho rằng ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết
định vật chất thì thuộc trường phái duy tâm. Học thuyết của họ hợp lại gọi
là chủ nghĩa duy tâm.
- Chủ nghĩa duy tâm có 2 loại:
+ Duy tâm khách quan: cho rằng có một thực thể tinh thần không những
tồn tại trước, tồn tại bên ngoài, độc lập với con người và với thế giới vật
chất mà còn sản sinh ra và quyết định tất cả các quá trình của thế giới vật
chất.
+ Duy tâm chủ quan: cho rằng cảm giác ý thức là cái có trước và tồn tại
sẵn trong con người, trong chủ thể nhận thức, còn các sự vật bên ngoài chỉ
là phức hợp của các cảm giác ấy mà thôi.
1. C. Mác và Ph. Ănghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.21,
tr.403.
2.3. Thuyết có thể biết (thuyết khả tri) và thuyết không thể biết
(thuyết bất khả tri)
Giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, tức trả lời cho câu
hỏi: con người có nhận thức được thế giới hay không? Đã chia các học
thuyết triết học thành khả tri và bất khả tri.
- Thuyết khả tri (Thuyết có thể biết): Khẳng định con người về nguyên
tắc có thể hiểu được bản chất của sự vật; những cái mà con người biết về
nguyên tắc là phù hợp với chính sự vật.
- Thuyết bất khả tri: Con người không thể hiểu được bản chất thật sự
của đối tượng; các hiểu biết của con người về tính chất, đặc điểm... của đối
tượng dù có tính xác thực, cũng không cho phép con người đồng nhất
chúng với đối tượng vì nó không đáng tin cậy.
3. Biện chứng và siêu hình
3.1. Khái niệm biện chứng và siêu hình trong lịch sử
- Phương pháp siêu hình:
+ Nhận thức đối tượng trong trạng thái tĩnh tại, cô lập, tách rời đối
tượng khỏi các quan hệ với các đối tượng khác.
+ Là phương pháp được đưa từ toán học và vật lý học cổ điển vào các
khoa học thực nghiệm và triết học.
+ Có vai trò to lớn trong việc giải quyết các vấn đề của cơ học nhưng
hạn chế khi giải quyết các vấn đề về vận động, liên hệ.
- Phương pháp biện chứng:
+ Nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ phổ biến; vận động, phát
triển.
+ Là phương pháp giúp con người không chỉ thấy sự tồn tại của các sự
vật mà còn thấy cả sự sinh thành, phát triển và tiêu vong của chúng.
+ Phương pháp tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con
người nhận thức và cải tạo thế giới.
3.2. Các hình thức của phép biện chứng trong lịch sử
- Phép biện chứng tự phát thời cổ đại: dựa trên trực quan, các nhà biện
chứng đã thấy được các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ vận động trong sự
sinh thành, biến hóa vô cùng vô tận. Tuy nhiên, đó chỉ là những tư tưởng
trực kiến, chưa khái quát thành thành nguyên tắc, quy luật về sự vận động
phát triển của thế giới.
- Phép biện chứng duy tâm: đỉnh cao của hình thức này thể hiện trong
triết học cổ điển Đức. Các nhà triết học cổ điển Đức đã trình bày một cách
có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của phương pháp biện chứng.
Họ cho rằng thế giới hiện thực chỉ là sự phản ánh biện chứng của ý niệm
nên biện chứng của họ là biện chứng duy tâm.
- Phép biện chứng duy vật: do C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng, sau
đó được V.I. Lênin phát triển, đã kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép
biện chứng duy tâm để xây dựng nên phép biện chứng duy vật với tính
cách là học thuyết về mối lien hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình
thức hoàn bị nhất, có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện
chứng trong lịch sử phát triển triết học nhân loại.
công nhân trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa nên đã đứng về phía giai
cấp công nhân, thực hiện lý tưởng giải phóng giai cấp, con người và nhân
loại nói chung.
- Xây dựng hệ thống lý luận để cung cấp cho giai cấp công nhân một
công cụ sắc bén để nhận thức và cải tạo thế giới.
1.2. Những thời kỳ chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của
triết học Mác
- Thời kỳ 1841 - 1844: Hình thành tư tưởng triết học với bước chuyển
từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và lập
trường giai cấp vô sản. Thời kỳ này, các ông đã viết các tác phẩm:
+ Các bài viết của C. Mác đăng trên báo Sông Ranh (1842 - 1843).
+ Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen: phê phán
những quan niệm duy tâm của Hêghen (từ tháng 5 đến tháng 10/1843).
+ Lời nói đầu của Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen
(tháng 12/1843).
- Thời kỳ 1844 - 1848: Đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Đây là thời kỳ C. Mác và Ph. Ăngghen, sau khi tự
giải phóng mình khỏi hệ thống triết học cũ, bắt đầu xây dựng những
nguyên lý nền tảng cho một triết học mới. Thời kỳ này, các ông đã viết các
tác phẩm:
+ Bản thảo kinh tế - triết học (1844).
+ Gia đình thần thánh (1845).
+ Luận cương về Phoiơbắc (1845).
+ Hệ tư tưởng Đức (1845 - 1846).
+ Sự khốn cùng của triết học (1847).
+ Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848).
- Thời kỳ 1848 - 1895: C. Mác và Ph. Ăngghen bổ sung và phát triển
toàn diện lý luận triết học. Đây là thời kỳ học thuyết Mác tiếp tục được bổ
sung và phát triển toàn diện trong sự gắn bó mật thiết hơn nữa với thực tiễn
cách mạng của giai cấp công nhân. Bằng hoạt động lý luận của mình, C.
Mác và Ph. Ăngghen đã đưa phong trào công nhân từ tự phát thành tự giác
và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Thời kỳ này, các ông đã viết các tác
phẩm:
+ Đấu tranh giai cấp ở Pháp (1850).
+ Cách mạng và phản cách mạng ở Đức (1851).
+ Ngày 18 tháng Sương Mù của Lui Bônapactơ (1852).
- Thời kỳ 1893 - 1907: V.I. Lênin bảo vệ, phát triển triết học Mác và
chuẩn bị thành lập đảng mácxít ở Nga, hướng tới cuộc cách mạng dân
chủ tư sản lần thứ nhất.
- Thời kỳ 1907 - 1917: V.I. Lênin phát triển toàn diện triết học Mác và
lãnh đạo phong trào công nhân Nga, chuẩn bị và thực hiện cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.
- Thời kỳ 1917 - 1924: V.I. Lênin tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách
mạng, bổ sung, hoàn thiện triết học Mác, gắn liền với việc nghiên cứu các
vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Thời kỳ từ năm 1924 đến nay: Triết học Mác - Lênin tiếp tục được các
đảng cộng sản và công nhân bổ sung, phát triển.
2. Đối tượng và chức năng của triết học Mác - Lênin
2.1. Khái niệm triết học Mác - Lênin
Triết học Mác - Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự
nhiên, xã hội và tư duy - thế giới quan và phương pháp luận khoa học,
cách mạng giúp giai cấp công nhân, nhân dân lao động trong nhận thức và
cải tạo thế giới.
2.2. Đối tượng của triết học Mác - Lênin
- Triết học Mác - Lênin giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
trên lập trường duy vật biện chứng và nghiên cứu những quy luật vận động,
phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Triết học Mác - Lênin phân biệt rõ ràng đối tượng của triết học và đối
tượng của các khoa học cụ thể.
- Triết học Mác - Lênin có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với các khoa
học cụ thể.
2.3. Chức năng của triết học Mác - Lênin
- Chức năng thế giới quan:
+ Triết học Mác – Lênin định hướng nhận thức đúng đắn về thế giới và
bản thân để từ đó nhận thức đúng bản chất của tự nhiên và xã hội, giúp con
người hình thành quan điểm khoa học, xác định thái độ và cách thức hoạt
động của bản thân.
+ Thế giới quan duy vật biện chứng nâng cao vai trò tích cực, sáng
tạo của con người.
+ Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò là cơ sở khoa học để đấu
tranh với các loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học.
10
11
Chương 2
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
A- LÝ THUYẾT
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
1.1. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước
C. Mác về phạm trù vật chất
- Chủ nghĩa duy tâm: tuy có thừa nhận sự tồn tại của vật chất nhưng lại
phủ định đi đặc trưng “tồn tại tự thân” của vật chất. Chủ nghĩa duy tâm
khách quan coi sự tồn tại của vật chất là sự “tha hóa” của “ý niệm tuyệt
đối” của “tinh thần thế giới”; chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận vật
chất tồn tại phụ thuộc vào ý thức, coi vật chất là sự “phức hợp” của ý thức
con người.
- Chủ nghĩa duy vật thời cổ đại: Hầu hết các nhà duy vật thời kỳ này
quy vật chất về một hay một vài dạng cụ thể xem chúng là khởi nguyên của
thế giới, tức đồng nhất vật chất nói chung với những sự vật cụ thể, hữu
hình.
Quan niệm về vật chất của các nhà triết học duy vật thời cổ đại mang
tính trực quan, thô sơ, mộc mạc, tự phát và phỏng đoán.
+ Ưu điểm: Các nhà triết học duy vật thời cổ đại đã coi vật chất là cơ
sở, bản nguyên của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới; xuất phát từ
chính thế giới vật chất để giải thích thế giới.
+ Hạn chế: Đồng nhất vật chất nói chung với vật thể vì vậy quan niệm
về vật chất của họ mang tính trực quan, phỏng đoán.
- Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XV - XVIII: Bắt đầu từ thời kỳ Phục hưng, với
sự phát triển mạnh của khoa học tự nhiên - thực nghiệm , đặc biệt là cơ học
cổ điển, do vậy, nhận thức của con người ở thời kỳ này, bị chi phối bởi quan
niệm siêu hình. Quan niệm triết học về thế giới cũng bị chi phối bởi quan
niệm siêu hình: các nhà triết học vẫn coi nguyên tử là phần tử vật chất nhỏ
nhất, không thể phân chia... Vận động của vật chất chỉ được coi là vận động
cơ học, nguồn gốc của vận động nằm ngoài sự vật.
12
+ Ưu điểm: Các nhà triết học lý giải vật chất dựa trên cơ sở khoa học
phân tích thế giới vật chất. Đó chính là bước tiến lớn của chủ nghĩa duy
vật so với thời cổ đại (mặc dù vẫn dựa trên sự quan sát bề ngoài thế giới
vật chất). Đồng thời, cũng như chủ nghĩa duy vật thời cổ đại, quan niệm
này đã xuất phát từ chính bản thân thế giới để giải thích thế giới.
+ Hạn chế: Lý giải về vật chất và sự vận động của thế giới vật chất
mang tính siêu hình, máy móc.
1.2. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX và sự phá sản của các quan niệm duy vật siêu hình về vật chất
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, vật lý học, nhất là vật lý vi mô đã có
những phát hiện mới về cấu trúc của vật chất, làm thay đổi quan niệm về
nguyên tử.
- Năm 1895: Rơnghen tìm ra tia X - một loại sóng điện từ có bước sóng
cực ngắn.
- Năm 1896: Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ chứng tỏ quan
niệm về sự bất biến của nguyên tử là không chính xác.
- Năm 1897: Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng minh được điện tử
là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử.
- Năm 1901: Kaufman đã phát hiện ra khối lượng của điện tử tăng khi
vận tốc chuyển động của nó tăng.
Những phát hiện trong vật lý nói trên làm cho quan niệm về vật chất
trước đó bộc lộ ra những hạn chế, không giải thích được. Những nhà triết
học đứng trên lập trường duy vật tự phát, siêu hình dao động, hoài nghi về
tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng tình
hình đó để tuyên truyền quan điểm duy tâm: tuyên bố vật chất “tiêu tan”,
vật chất “biến mất”. Triết học duy vật đứng trước yêu cầu của sự phát triển
khoa học là phải xây dựng một quan niệm mới, cao hơn về vật chất để khắc
phục cuộc khủng hoảng trong khoa học tự nhiên và sự bất lực của chủ
nghĩa duy vật siêu hình về vật chất.
1.3. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất
Trên cơ sở tổng kết những thành tựu của khoa học tự nhiên, V.I. Lênin
chỉ ra tính vô tận của vật chất, rằng không phải vật chất tiêu tan, vật chất
biến mất mà ở đây giới hạn nhận thức của con người đã thay đổi, ông đưa
ra định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác
của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào
13
cảm giác”1.
- Phân tích nội dung định nghĩa:
+ Để có được quan niệm đúng đắn về vật chất cần có sự phân biệt rõ
ràng giữa vật chất với tính cách là một phạm trù triết học với quan niệm về
vật chất trong các ngành khoa học tự nhiên. Vật chất với tư cách là phạm
trù triết học chỉ vật chất nói chung, vô cùng, vô tận, không sinh ra, không
mất đi; còn các dạng vật chất cụ thể là hữu hạn, có sinh ra, tồn tại và biến
đổi sang hình thức tồn tại khác.
+ Đặc tính cơ bản của vật chất là thực tại khách quan, tức là cái tồn tại
hiện thực bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức, sự tồn tại của vật chất
không phụ thuộc vào việc con người đã nhận thức được hay chưa nhận
thức được.
+ Vật chất(dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái gây nên cảm giác
ở con người khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên các giác quan của con
người, tức thừa nhận ý thức, cảm giác là sự phản ánh của vật chất lên các
giác quan.
+ Vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó, tức là
vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất chính là cái quyết định ý thức.
- Ý nghĩa phương pháp luận của định nghĩa:
+ Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã khắc phục được những hạn
chế trong quan niệm của chủ nghĩa duy vật cũ về vật chất, chống lại
được quan niệm duy tâm về vật chất.
+ Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải quyết được hai mặt vấn đề
cơ bản của triết học trên lập trường duy vật triệt để và thừa nhận khả năng
nhận thức được thế giới của con người.
+ Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã định hướng cho các nhà
khoa học tự nhiên trong việc tìm kiếm, khám phá ra những dạng và
những cấu trúc vật chất mới, chỉ ra cơ sở khoa học cho việc xác định
vật chất trong lĩnh vực xã hội. Tạo ra nền tảng lý luận khoa học cho
việc giải thích những vấn đề về xã hội.
1.4. Các hình thức tồn tại của vật chất
a. Vận động
Vật chất, cái thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác,
các dạng tồn tại cụ thể của vật chất vốn hết sức phong phú đa dạng mà theo
Ph. Ăng ghen “các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có
thể nhận thức được thông qua vận động; thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.18, tr.151.
14
15
sự kế tiếp nhau của các quá trình vật chất (lâu, mau, nhanh, chậm).
- Không gian và thời gian có tính khách quan, vĩnh cửu và vô tận.
Không gian có tính ba chiều, thời gian có tính một chiều.
1.5. Tính thống nhất vật chất của thế giới
a. Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới
Thế giới vật chất quanh ta là tồn tại, nhưng hình thức tồn tại của thế
giới vật chất là hết sức đa dạng. Chủ nghĩa duy vật xem sự tồn tại của thế
giới như một chỉnh thể mà bản chất của nó là vật chất, tồn tại của thế giới
là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới, thế giới thống nhất ở tính vật chất
của nó. Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm thừa nhận thế giới thống nhất ở tính
tinh thần.
b. Tính thống nhất vật chất của thế giới
- Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới vật chất tồn
tại khách quan.
- Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được sinh
ra và không bị mất đi.
- Tính thống nhất vật chất của thế giới gắn liền với tính đa dạng của nó.
2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức
2.1. Nguồn gốc của ý thức
a. Nguồn gốc tự nhiên
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên, các nhà sang lập chủ
nghĩa Mác – Lênin khảng định ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất
có tổ chức cao là bộ óc người.
Bộ não người và sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ não con
người chính là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Cấu tạo và chức năng của bộ não người: Bộ não người có cấu tạo tinh
vi, phức tạp, có liên hệ với các cơ quan cảm giác, thu nhận và xử lý các tác
động từ thế giới bên ngoài thông qua các phản xạ. Sự tương tác giữa thế
giới khách quan và con người tạo lên quá trình phản ánh của bộ não.
Thuộc tính phản ánh và sự hình thành ý thức:
- Mọi dạng vật chất đều có khả năng phản ánh.
- Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở
một hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng.
- Cấu tạo vật chất khác nhau sẽ có khả năng phản ánh khác nhau. Do
đó, có thể phân chia các hình thức phản ánh của vật chất từ thấp đến cao
16
như sau: Phản ánh vật lý, hóa học Phản ánh sinh học Phản ánh tâm lý
Phản ánh ý thức.
- Phản ánh ý thức là hình thức phản ánh cao nhất, chỉ có ở con người.
b. Nguồn gốc xã hội
Sự phát triển của giới tự nhiên mới tạo ra tiền đề vật chất có năng lực
phản ánh, chỉ là điều kiện cần cho sự ra đời của ý thức. Hoạt động thực tiễn
của loài người mới là nguồn gốc trực tiếp quyết định sự ra đời của ý thức,
trong đó cơ bản nhất và trực tiếp nhất là lao động và ngôn ngữ.
- Lao động: Lao động là phương thức tồn tại cơ bản của con người, đó
là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự
nhiên,cải biến những dạng vật chất của giới tự nhiên thỏa mãn nhu cầu tồn
tại của mình.
+ Lao động từng bước làm biến đổi cấu tạo cơ thể mà trước hết giúp
con người giải phóng hai chi trước của con người để thực hiện những động
tác tinh vi hơn, mặt khác cũng giúp con người có khả năng sáng tạo ra công
cụ lao động và sử dụng công cụ ấy phục vụ mục đích sống của con người.
+ Việc tạo ra và sử dụng công cụ trong lao động một mặt giúp con
người thỏa mãn nhu cầu tồn tại của mình đưa bộ não con người ngày càng
phát triển, hoàn thiện về mặt sinh học. Mặt khác, nó tạo ra công cụ, phương
tiện giúp con người nhận thức thế giới thuận lợi hơn. Nó được xem là thứ
nối dài bàn tay và trí óc của con người.
+ Quá trình lao động, con người tương tác với các đối tượng trong thế
giới làm cho chúng bộc lộ ra những thuộc tính thông qua đó con người
nhận thức hình thành lên tri thức – thành phần quan trọng của ý thức. Đồng
thời, quá trình lao động con người làm biến đổi thế giới và ngược lại làm
biến đổi chính bản thân mình, ngày càng làm sâu sắc và phong phú thêm ý
thức của mình.
+ Lao động ngay từ đầu đã mang tính xã hội, từ đó nảy sinh nhu cầu
hình thành ngôn ngữ.
- Ngôn ngữ:
+ Ngôn ngữ một mặt là kết quả của lao động, mặt khác lại là nhân tố
tích cực tác động đến quá trình lao động và phát triển ý thức con người.
+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, là công
cụ thể hiện ý thức, tư tưởng và tạo điều kiện để phát triển ý thức.
+ Ngôn ngữ giúp con người phản ánh khái quát những đặc tính, những
thuộc tính của sự vật, hiện tượng trong thế giới.
17
+ Ngôn ngữ giúp con người trao đổi kinh nghiệm hoạt động sống.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và
phát triển của ý thức là lao động và ngôn ngữ, hoạt động thực tiễn xã hội
của con người.
2.2. Bản chất của ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Bản chất ý thức là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo
hiện thực khách quan của óc người.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan:
+ Cả vật chất và ý thức đều tồn tại nhưng sự tồn tại của vật chất là tồn
tại khách quan còn ý thức tồn tại chủ quan. Ý thức không phải sự vật mà
chỉ là “hình ảnh” của sự vật ở trong đầu óc con người. Sự tồn tại của ý thức
gắn liền với sự tồn tại của con người và khả năng nhận thức của con người.
+ Ý thức phản ánh thế giới khách quan, nhưng thế giới đó đã được cải
biến thông qua lăng kính chủ quan của con người (chịu tác động của các
yếu tố như: tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, nhu cầu, tri thức, kinh
nghiệm...). Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan
của bộ óc người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
- Tính chất năng động, sáng tạo của phản ánh ý thức:
+ Ý thức phản ánh thế giới khách quan nhưng không mang tính thụ
động, rập khuôn, máy móc mà trên cơ sở tiếp thu, xử lý thông tin có chọn
lọc, có định hướng.
+ Phản ánh ý thức không dừng lại ở vẻ bề ngoài, mà còn khái quát bản
chất, quy luật của sự vật, hiện tượng.
+ Ý thức có khả năng mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng
hình ảnh tinh thần và chuyển mô hình từ trong tư duy ra hiện thực khách
quan thông qua hoạt động thực tiễn.
+ Trên cơ sở những tri thức đã có, con người sáng tạo ra những tri thức
mới.
- Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội:
+ Sự ra đời và phát triển của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn của
con người, chịu chi phối không chỉ của các quy luật tự nhiên mà còn (và
chủ yếu là) của các quy luật xã hội.
+ Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của con người về hiện
thực khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử.
2.3. Kết cấu của ý thức
18
- Các lớp cấu trúc của ý thức: khi xem xét ý thức với các yếu tố hợp
thành, ý thức gồm nhiều yếu tố quan hệ mật thiết với nhau, trong đó yếu tố
cơ bản nhất là tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí.
- Các cấp độ của ý thức: khi xem xét ý thức theo chiều sâu của thế giới
nội tâm con người, ý thức bao gồm: tự ý thức, vô thức và tiềm thức.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
3.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu
hình
- Chủ nghĩa duy tâm: Ý thức, tinh thần của con người đã bị trừu tượng
hóa, tách khỏi con người thành một lực lượng thần bí, tiên thiên.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình: Tuyệt đối hóa yếu tố vật chất, chỉ nhấn
mạnh một chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức; phủ
nhận tính độc lập tương đối của ý thức.
3.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
- Vật chất quyết định ý thức:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có
sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức. Vật chất quyết
định ý thức thể hiện ở 4 phương diện sau:
+ Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
+ Vật chất quyết định nội dung của ý thức.
+ Vật chất quyết định bản chất của ý thức.
+ Vật chất quyết định sự vận động, biến đổi của ý thức.
- Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất:
+ Ý thức do vật chất sinh ra, nhưng sau khi hình thành, ý thức có thể tác
động trở lại vật chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh chậm, không song hành
với hiện thực.
+ Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người.
+ Vai trò của ý thức thể hiện nó có chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con
người. Khi phản ánh đúng hiện thực, nó có thể dự báo, tiên đoán đúng hiện
thực trong tương lai, hình thành nên những học thuyết lý luận có tính định
hướng.
+ Xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là
trong thời đại thông tin, thời đại kinh tế tri thức, thời đại cách mạng công
nghiệp 4.0.
19
Nghiên cứu nội dung của phép biện chứng duy vật sẽ giúp chúng ta
hình thành phương pháp luận trong nhận thức khoa học và hoạt động thực
tiễn.
1. Hai loại hình biện chứng và phép biện chứng duy vật
1.1. Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan
- Khái niệm biện chứng được sử dụng để chỉ những mối liên hệ, tương
tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện
tượng, quá trình trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan:
+ Biện chứng khách quan là cái biện chứng vốn có của chính bản thân
thế giới vật chất, tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người.
+ Biện chứng chủ quan là cái phản ánh của biện chứng khách quan vào
trong đầu óc con người, là tư duy biện chứng.
1.2. Khái niệm phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu về bản chất biện chứng của
20
thế giới, khái quát thành một hệ thống các nguyên lý, phạm trù, quy luật
khoa học. Từ đó xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận của
nhận thức và thực tiễn.
Đặc điểm của phép biện chứng duy vật:
- Phép biện chứng duy vật hình thành từ sự thống nhất hữu cơ giữa
thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng; giữa lý luận nhận
thức và lôgíc biện chứng.
- Về vai trò của phép biện chứng duy vật: tạo ra phương pháp luận khoa
học cho nhận thức và hoạt động thực tiễn.
2. Nội dung của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật gồm có:
- Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật.
- Các cặp phạm trù cơ bản.
- Các quy luật cơ bản.
2.1. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
Nguyên lý là những khởi điểm (điểm xuất phát đầu tiên) hay những
luận điểm cơ bản nhất có tính chất tổng quát của một học thuyết chi phối sự
vận hành của tất cả các đối tượng thuộc lĩnh vực quan tâm nghiên cứu của
nó.
a. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
* Khái niệm “mối liên hệ” và “mối liên hệ phổ biến”:
- Mối liên hệ là khái niệm dùng để chỉ sự quy định ràng buộc, sự tác
động tương hỗ và chuyển hóa lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một
đối tượng hoặc giữa các đối tượng trong thế giới.
- Mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ tính phổ biến của các
mối liên hệ của các vật, hiện tượng (bao gồm cả đối tượng vật chất hữu
hình lẫn đối tượng tinh thần) của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ
biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới,
nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật.
* Các tính chất của mối liên hệ:
- Tính khách quan của mối liên hệ: các sự vật, hiện tượng trong thế giới
tồn tại khách quan, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức con người, do đó
tự chúng có mối liên hệ, tác động qua lại với nhau.
- Tính phổ biến của mối liên hệ: bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong tự
nhiên, xã hội và tư duy, ý thức con người, cũng như các mặt trong các sự
21
22
tưởng bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
2.2. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
- Phạm trù là những khái niệm chung nhất, phản ánh những mặt,
thuộc tính, mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật, hiện tượng
trong một lĩnh vực nhất định.
- Khái niệm là những tri thức của con người phản ánh đúng đắn bản
chất của sự vật, hiện tượng, là kết quả của quá trình nhận thức và kết quả
của sự khái quát trong tư duy.
Như vậy, cả “khái niệm” và “phạm trù” đều là tri thức của con người, là
kết quả của quá trình nhận thức, quá trình khái quát hóa, trừu tượng hóa
trong tư duy.
- Các phạm trù triết học là những khái niệm chung nhất, phản ánh
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản nhất, phổ biến nhất
trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
2.2.1. Cái riêng và cái chung
* Định nghĩa “cái riêng”, “cái chung” và “cái đơn nhất”:
- Phạm trù cái riêng dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá
trình nhất định.
- Phạm trù cái chung dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những
yếu tố, những quan hệ không chỉ có ở một sự vật, hiện tượng mà còn lặp lại
ở nhiều sự vật, hiện tượng khác.
- Cái đơn nhất là những mặt, những đặc tính, những tính chất,... chỉ tồn
tại ở một sự vật, hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện
tượng khác.
* Mối liên hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất:
- Cả cái chung và cái riêng đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối
quan hệ biện chứng với nhau.
+ Không có cái chung tồn tại thuần túy tách rời cái riêng.Cái chung chỉ
tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của
mình. Cái chung là bộ phận được khái quát từ những cái riêng.
+ Không có cái riêng tồn tại tuyệt đối độc lập mà lại không có mối liên
hệ với cái chung. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Cái
riêng được gọi là cái riêng khi xem xét các đối tượng trong mối liên hệ với
nhau và với cái chung.
+ Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung; còn cái chung là
cái bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì
nó phản ánh những thuộc tính lặp đi lặp lại ở nhiều sự vật. Còn cái riêng
23
phong phú hơn cái chung vì nó là cái tổng hợp của cái chung và cái đơn
nhất.
- Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những
điều kiện nhất định.
+ Cái chung có thể chuyển hóa thành cái đơn nhất, đó là quá trình tồn
tại và tiêu vong dần dần của cái cũ.
+ Cái đơn nhất chuyển hóa thành cái chung, đó là quá trình ra đời và
phát triển của cái mới.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, nên muốn tìm cái chung phải
tìm từ những cái riêng.
- Vì cái chung sâu sắc hơn cái riêng, nên phải dựa vào cái chung để cải
tạo cái riêng và khi vận dụng cái chung vào cái riêng, phải cá biệt hóa cho
phù hợp với đặc điểm của từng cái riêng.
- Trong hoạt động thực tiễn, tùy theo lợi ích và vai trò của cái chung,
cái đơn nhất mà cần tạo điều kiện để cái chung bất lợi và cái đơn nhất có
lợi có thể chuyển hóa cho nhau.
2.2.2. Nguyên nhân và kết quả
* Định nghĩa “nguyên nhân” và “kết quả”:
- Phạm trù nguyên nhân dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt
trong một sự vật, hiện tượng, hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau tạo
ra những biến đổi nhất định.
- Phạm trù kết quả dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động
giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật,
hiện tượng.
* Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:
Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả biểu hiện mối quan hệ khách
quan của sự vật, hiện tượng.
- Nguyên nhân sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết quả,
còn kết quả là cái được sinh ra bởi nguyên nhân nên chỉ xuất hiện sau khi
đã có nguyên nhân tác động. Tuy nhiên, không phải mọi quan hệ nối tiếp về
mặt thời gian đều là quan hệ nhân quả mà chỉ có những quan hệ sản sinh ra
nhau mới là quan hệ nhân quả.
- Tính phức tạp của mối quan hệ nhân - quả:
+ Một nguyên nhân sinh ra một hoặc nhiều kết quả.
+ Nhiều nguyên nhân sinh ra một hoặc nhiều kết quả.
- Quan hệ nhân – quả là một chuỗi liên tục. Nguyên nhân và kết quả có
thể thay đổi vị trí cho nhau. Điều này có nghĩa là: Một sự vật, hiện tượng
24
nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì ngược lại trong mối quan
hệ khác, nó lại là kết quả và ngược lại.
- Kết quả có khả năng tác động trở lại nguyên nhân theo hướng tích cực
hoặc tiêu cực.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Mối liên hệ nhân - quả có tính khách quan, phổ biến, nghĩa là nhiệm
vụ của nhận thức khoa học là phải tìm ra được nguyên nhân khách quan, tất
yếu của những sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy để giải
thích và cải biến được hiện tượng đó.
- Mối liên hệ nhân - quả có tính phức tạp, đa dạng nên cần phân biệt
chính xác các loại nguyên nhân để có phương pháp giải quyết cho phù hợp.
- Một nguyên nhân có thể có nhiều kết quả và ngược lại, nên trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn phải có quan điểm toàn diện và quan điểm lịch
sử - cụ thể để giải quyết và ứng dụng nó.
2.2.3. Tất nhiên và ngẫu nhiên
* Định nghĩa “tất nhiên” và “ngẫu nhiên”:
- Phạm trù tất nhiên dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản, bên
trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định,
nó xảy ra như thế, không thể khác.
- Phạm trù ngẫu nhiên dùng để chỉ cái do các nguyên nhân bên ngoài,
do sự ngẫu hợp của nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định, do đó nó có thể
xuất hiện hoặc không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc như thế
khác.
* Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên:
- Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan và đều có vai trò nhất
định trong quá trình phát triển của sự vật, trong đó tất nhiên giữ vai trò
quyết định.
- Cái tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại trong sự thống nhất biện chứng
với nhau; không có cái tất nhiên thuần túy và ngẫu nhiên thuần túy.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau. Cả tất nhiên và
ngẫu nhiên không nằm yên ở trạng thái cũ mà chúng cũng luôn vận động,
biến đổi cùng với sự biến đổi của sự vật, hiện tượng và trong những điều
kiện nhất định có thể chuyển hóa cho nhau.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan. Vì vậy, không thể
tìm tất nhiên và ngẫu nhiên trong ý thức con người.
- Về căn bản trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, chúng ta phải dựa
vào cái tất nhiên chứ không dựa vào cái ngẫu nhiên để cải tạo sự vật.
25
Nhưng mặt khác, cũng phải chú ý tới cái ngẫu nhiên xảy ra.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau. Vì vậy, cần tạo
điều kiện nhất định để cản trở hoặc thúc đẩy sự chuyển hóa của chúng theo
mục đích nhất định.
2.2.4. Nội dung và hình thức
* Định nghĩa “nội dung” và “hình thức”:
- Phạm trù nội dung dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, yếu tố,
quá trình tạo nên sự vật, hiện tượng.
- Phạm trù hình thức dùng để chỉ phương thức tồn tại, phát triển của sự
vật, hiện tượng đó, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các
yếu tố của nó.
* Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức:
- Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức:
+ Thống nhất: Nội dung và hình thức gắn bó với nhau trong một chỉnh
thể thống nhất. Không có hình thức nào tồn tại thuần túy mà không có nội
dung và ngược lại không nội dung nào lại không tồn tại trong một hình
thức nhất định.
+ Mâu thuẫn: Tuy nhiên không phải bao giờ nội dung và hình thức cũng
phù hợp với nhau hoàn toàn. Trong quá trình phát triển của sự vật, có thể
có hai trường hợp sau:
Cùng một hình thức có thể chứa đựng những nội dung khác nhau.
Cùng một nội dung có thể thể hiện ở nhiều hình thức khác nhau.
- Nội dung giữ vai trò quyết định hình thức, hình thức tác động trở lại
nội dung:
+ Vai trò của nội dung: Khuynh hướng chủ đạo của nội dung là biến
đổi, khuynh hướng chủ đạo của hình thức là tương đối bền vững, biến đổi
chậm hơn so với nội dung. Nhưng do xu hướng phát triển của sự vật, hình
thức buộc cũng phải biến đổi theo cho phù hợp với nội dung, như vậy nội
dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức.
+ Vai trò của hình thức:
Nếu hình thức phù hợp với nội dung sẽ thúc đẩy nội dung phát triển.
Nếu hình thức không phù hợp với nội dung sẽ kìm hãm sự phát
triển của nội dung.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Vì nội dung và hình thức gắn bó với nhau, nên trong nhận thức không
tách rời tuyệt đối hóa giữa nội dung và hình thức, chống chủ nghĩa hình
thức.
26
- Để cải tạo và biến đổi sự vật, trước hết cần căn cứ vào nội dung, song
cũng phải chú ý tới hình thức, theo dõi mối quan hệ giữa nội dung và hình
thức để kịp thời điều chỉnh sự can thiệp của con người vào quá trình biến
đổi sự vật.
- Vì nội dung có thể chứa trong nhiều hình thức và ngược lại, nên muốn
cải tạo, biến đổi sự vật, cần phải sử dụng nhiều hình thức.
2.2.5. Bản chất và hiện tượng
* Định nghĩa “bản chất” và “hiện tượng”:
- Phạm trù bản chất dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những
mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng đó.
- Phạm trù hiện tượng dùng để chỉ sự biểu hiện của những mặt, những
mối liên hệ đó trong những điều kiện xác định.
* Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan, là hai mặt vừa thống
nhất, vừa đối lập nhau.
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
+ Bản chất luôn bộc lộ qua hiện tượng; còn hiện tượng nào cũng là biểu
hiện của bản chất ở mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần
túy ngoài hiện tượng và ngược lại cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn
không phải là biểu hiện của bản chất.
+ Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện của nó sớm muộn cũng
thay đổi theo. Bản chất mất thì hiện tượng của nó cũng mất theo.
- Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng:
+ Bản chất thể hiện cái chung, cái tất yếu, quyết định sự phát triển của
sự vật, còn hiện tượng phản ánh cái riêng, cái cá biệt ở bên ngoài sự vật. Vì
vậy, cùng một bản chất có thể biểu hiện bằng những hiện tượng khác nhau,
tùy theo sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh, còn hiện tượng phong phú
và đa dạng.
+ Bản chất là mặt bên trong, ẩn giấu sâu xa hiện thực khách quan, còn
hiện tượng là biểu hiện bên ngoài của hiện thực khách quan đó. Bản chất
không biểu hiện ở một hiện tượng mà ở nhiều hiện tượng. Còn hiện tượng
chỉ biểu hiện một khía cạnh nào đó của bản chất.
+ Bản chất là cái tương đối ổn định, còn hiện tượng là cái thường xuyên
biến đổi.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
27
- Muốn hiểu được bản chất của sự vật phải thông qua nhiều hiện tượng,
phải phân tích tổng hợp sự biến đổi của nhiều hiện tượng, nhất là những
hiện tượng điển hình mới làm rõ bản chất sự vật.
- Trong nhận thức không dừng lại ở hiện tượng mà phải tiến tới bản
chất sự vật. Còn trong hoạt động thực tiễn, phải dựa vào bản chất sự vật để
đưa ra được phương thức cải tạo, biến đổi sự vật.
2.2.6. Khả năng và hiện thực
* Định nghĩa “khả năng” và “hiện thực”:
- Khả năng là tổng thể các tiền đề của sự biến đổi, sự hình thành của
hiện thực mới, là cái có thể, nhưng ngay lúc này còn chưa có.
- Hiện thực là cái đang có, đang tồn tại thực sự.
* Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực:
- Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ biện chứng không
tách rời nhau và luôn chuyển hóa cho nhau. Trong sự vật, hiện tượng đang
tồn tại đã chứa đựng khả năng và sự vận động, phát triển của sự vật chính
là quá trình chuyển hóa từ khả năng thành hiện thực và ngược lại.
- Ở cùng một sự vật, trong cùng điều kiện nhất định, có thể tồn tại nhiều
khả năng, chứ không phải chỉ có một khả năng. Ngoài những khả năng vốn
có, khi có thêm điều kiện mới thì sự vật sẽ xuất hiện những khả năng mới,
đồng thời bản thân mỗi khả năng cũng thay đổi theo sự thay đổi của điều
kiện.
- Để khả năng biến đổi thành hiện thực thường không chỉ cần một điều
kiện mà là một tập hợp các điều kiện cần và đủ.
- Trong xã hội, hoạt động có ý thức của con người có vai trò rất quan
trọng để biến khả năng thành hiện thực. Hoạt động có ý thức của con người
có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm khả năng phát triển theo hướng này hoặc
hướng khác để tạo ra hiện thực nhanh hoặc chậm.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực chứ không dựa vào
khả năng để xác định chủ trương, phương hướng, mục đích hành động của
mình.
- Tuy không dựa vào khả năng nhưng cũng phải tính đến các khả năng
để đề ra phương hướng hành động phù hợp với yêu cầu cải tạo, biến đổi sự
vật.
- Trong xã hội, muốn khả năng biến thành hiện thực phải phát huy tối
đa vai trò của nhân tố chủ quan.
28
2.3. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
* Khái niệm quy luật:
Quy luật là những mối liên hệ phổ biến, khách quan, bản chất, tất yếu
và lặp lại giữa các đối tượng và nhất định tác động khi có các điều kiện
thích hợp.
* Phân loại quy luật:
- Căn cứ vào phạm vi hoạt động, quy luật được chia ra:
+ Quy luật riêng: tác động trong một lĩnh vực nhất định.
+ Quy luật chung: tác động trong một số lĩnh vực.
+ Quy luật phổ biến: tác động trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Căn cứ vào lĩnh vực tác động, quy luật được chia ra:
+ Quy luật tự nhiên: hình thành và tác động một cách tự phát trong tự
nhiên.
+ Quy luật xã hội: hình thành và tác động thông qua hoạt động của con
người có ý thức, nhưng vẫn mang tính khách quan.
+ Quy luật tư duy: là những mối liên hệ của khái niệm, phán đoán, suy
luận, nó phản ánh những quy luật của hiện thực khách quan vào trong đầu
óc con người.
Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật phổ biến của tự
nhiên, xã hội và tư duy.
2.3.1. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những
sự thay đổi về chất và ngược lại
Vị trí, vai trò: Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận
động, phát triển của sự vật.
a. Khái niệm “chất”, “lượng”
* Khái niệm “chất”:
- Chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện
tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho sự vật là nó,
phân biệt nó với sự vật khác.
- Mối quan hệ giữa chất và thuộc tính:
+ Mỗi sự vật có nhiều thuộc tính cơ bản và không cơ bản, chỉ những
thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, khi nào chúng thay đổi
thì chất thay đổi; còn các thuộc tính không cơ bản thay đổi thì chưa dẫn
đến sự thay đổi về chất của sự vật.
+ Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ có ý nghĩa tương đối, được xét trong
29
30
31
32
33
phủ định biện chứng đều tạo ra những tiền đề, điều kiện cho sự phát triển
tiếp theo của nó. Trải qua nhiều lần phủ định, tức “phủ định của phủ định”
sẽ dẫn đến kết quả là sự vật vận động, phát triển theo chiều hướng ngày
càng hoàn thiện hơn.
+ Mỗi chu kỳ phát triển của sự vật thường trải qua hai lần phủ định cơ
bản với ba hình thái tồn tại chủ yếu của nó. Trong đó, hình thái cuối cùng
dường như lặp lại hình thái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn về trình độ
phát triển.
* Khái quát nội dung quy luật:
Phủ định của phủ định khái quát khuynh hướng phát triển phổ biến của
sự vật, hiện tượng không diễn ra theo đường thẳng mà theo đường “xoáy
ốc”. Đường “xoáy ốc” diễn tả tính chất biện chứng của sự phát triển đó là
tính lặp lại, tính kế thừa và tính tiến lên. Mỗi vòng khâu mới của đường
xoáy ốc dường như lặp lại, nhưng với trình độ cao hơn. Sự nối tiếp của các
vòng khâu đó phản ánh quá trình phát triển vô tận từ thấp đến cao của thế
giới.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở khoa học giúp chúng ta nhận
thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng. Quá trình
phát triển đó không diễn ra theo đường thẳng mà trải qua nhiều lần phủ
định quanh co, phức tạp, nhất là trong lĩnh vực xã hội.
- Để cái mới ra đời thay thế cái cũ theo đúng quy luật của nó, chúng ta
phải nhận dạng được cái mới, ủng hộ cái mới và quan trọng hơn là tạo điều
kiện cho cái mới phát triển. Để thực hiện được điều này cũng cần khắc
phục tư tưởng giáo điều, bảo thủ, kìm hãm sự ra đời, phát triển của cái mới.
- Phải có quan điểm biện chứng trong quá trình kế thừa của sự phát
triển. Chúng ta không phủ định hoàn toàn nhưng cũng không kế thừa
nguyên xi cái cũ mà chỉ kế thừa những nhân tố tích cực, tiến bộ, hợp lý của
cái cũ, phù hợp với sự phát triển của cái mới.
1. Các nguyên tắc của lý luận nhận thức duy vật biện chứng
- Lý luận nhận thức duy vật biện chứng được xây dựng dựa trên các
nguyên tắc cơ bản:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý
34
35
36
37
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn phản ánh hai
trình độ khác nhau của quá trình nhận thức nhưng có mối quan hệ qua lại
gắn bó với nhau, nhận thức cảm tính là cơ sở của nhận thức lý tính, nhận
thức lý tính định hướng cho nhận thức cảm tính.
Tuy nhiên, quá trình nhận thức không kết thúc ở nhận thức lý tính mà
phải quay trở về thực tiễn để phục vụ thực tiễn và kiểm tra tính đúng đắn
của mình. Như vậy, thực tiễn vừa là điểm khởi đầu vừa là điểm kết thúc
của một chu kỳ nhận thức.
2.2. Chân lý và vai trò của chân lý đối với thực tiễn
- Chân lý là những tri thức có nội dung phù hợp với hiện thực khách
quan đã được thực tiễn kiểm nghiệm.
- Các tính chất của chân lý:
+ Tính khách quan: nội dung của chân lý phản ánh hiện thực khách
quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
+ Tính tuyệt đối và tính tương đối: tính tuyệt đối và tính tương đối phụ
thuộc vào khả năng nhận thức của con người. Việc phân biệt chân lý tuyệt
đối hay chân lý tương đối cần dựa trên quan điểm lịch sử - cụ thể.
+ Tính cụ thể: không có chân lý trừu tượng, chân lý luôn mang tính cụ
thể.
- Vai trò của chân lý với thực tiễn:
+ Hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành công và hiệu quả khi con người
vận dụng những tri thức đúng đắn về thực tiễn khách quan trong chính hoạt
động thực tiễn của mình.
+ Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ
song trùng, chân lý phát triển được nhờ thực tiễn và thực tiễn phát triển
được nhờ vận dụng đúng đắn những chân lý mà con người đã đạt được
trong hoạt động thực tiễn.
38
Chương 3
CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
A- LÝ THUYẾT
1. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội
- Sản xuất là hoạt động không ngừng sáng tạo ra giá trị vật chất và tinh
thần nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
- Sự sản xuất xã hội, tức là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện
thực, bao gồm ba phương diện không tách rời nhau là sản xuất vật chất, sản
xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người.
+ Sản xuất vật chất là quá trình mà trong đó con người sử dụng công cụ
lao động tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng
vật chất của giới tự nhiên để tạo ra của cải xã hội, nhằm thoả mãn nhu cầu
tồn tại và phát triển của con người.
+ Sản xuất tinh thần là hoạt động sáng tạo ra các giá trị tinh thần nhằm
thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người và xã hội.
+ Sự sản xuất ra bản thân con người ở phạm vi cá nhân, gia đình là việc
sinh đẻ và nuôi dạy con cái để duy trì nòi giống; ở phạm vi xã hội là sự
tăng trưởng dân số, phát triển con người với tính cách là thực thể sinh học -
xã hội.
- Sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại và phát triển xã hội
loài người. Điều này được biểu hiện qua những khía cạnh sau:
+ Sản xuất vật chất là tiền đề trực tiếp tạo ra “tư liệu sinh hoạt của con
người” nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của con người nói chung cũng
như từng cá thể người nói riêng.
+ Hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở hình thành nên tất cả các hình
thức quan hệ xã hội khác.
39
+ Sản xuất vật chất là điều kiện chủ yếu sáng tạo ra bản thân con người.
Nhờ hoạt động sản xuất vật chất mà con người hình thành nên ngôn ngữ,
nhận thức, tư duy, tình cảm, đạo đức... Sản xuất vật chất là điều kiện cơ
bản, quyết định nhất đối với sự hình thành, phát triển phẩm chất xã hội của
con người.
Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người, và xét đến cùng quyết định toàn bộ sự vận động, phát triển của đời
sống xã hội.
2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
2.1. Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản
xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Ph-
ương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với một trình
độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
a. Lực lượng sản xuất
- Khái niệm: Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với
tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các
đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người
và xã hội.
- Cấu trúc của lực lượng sản xuất:
+ Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao
động và năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội.
Người lao động là chủ thể sáng tạo, đồng thời là chủ thể tiêu dùng mọi của
cải vật chất xã hội.
+ Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất,
bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động.
Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động
con người dùng tư liệu lao động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho phù
hợp với mục đích sử dụng của con người.
Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người
dựa vào đó để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao
động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người. Tư liệu lao
động gồm công cụ lao động và phương tiện lao động.
Phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất, cùng với
công cụ lao động mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động
trong quá trình sản xuất.
40
Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp
sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng tạo ra
của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội.
- Đặc trưng chủ yếu của lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa
người lao động và công cụ lao động, trong đó, người lao động là nhân tố
hàng đầu giữ vai trò quyết định.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất là sự phát triển ở cả tính chất và
trình độ:
+ Tính chất của lực lượng sản xuất nói lên tính chất cá nhân hoặc tính
chất xã hội hóa trong việc sử dụng tư liệu sản xuất.
+ Trình độ của lực lượng sản xuất là sự phát triển của người lao động và
công cụ lao động. Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở: (1)
Trình độ của công cụ lao động; (2) Trình độ tổ chức lao động xã hội; (3)
Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất; (4) Trình độ, kinh nghiệm, kỹ
năng của người lao động; (5) Trình độ phân công lao động xã hội.
b. Quan hệ sản xuất
- Khái niệm: Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật
chất giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất.
- Kết cấu của quan hệ sản xuất:
+ Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người
trong việc chiếm hữu, sử dụng các tư liệu sản xuất xã hội.
+ Quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn
người trong việc tổ chức sản xuất và phân công lao động.
+ Quan hệ phân phối sản phẩm lao động là quan hệ giữa các tập đoàn
người trong việc phân phối sản phẩm lao động xã hội, nói lên cách thức và
quy mô của cải vật chất mà các tập đoàn người được hưởng.
- Quan hệ sản xuất hình thành một cách khách quan, là quan hệ đầu
tiên, cơ bản chủ yếu, quy định mọi quan hệ xã hội.
2.2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương
thức sản xuất có tác động biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết
định quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất tác động trở lại to lớn đối với lực l-
ượng sản xuất. Tương tác giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo
thành quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển
41
xã hội.
a. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất
- Lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định quan hệ sản xuất bởi vì:
+ Lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất, vì vậy lực
lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó.
+ Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất và cách mạng nhất, còn quan
hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn so
với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất đ-
ược biểu hiện:
+ Lực lượng sản xuất nào thì quan hệ sản xuất ấy. Quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Lực lượng sản xuất biến đổi thì quan hệ sản xuất cũng biến đổi theo.
Lực lượng sản xuất vận động, phát triển không ngừng sẽ mâu thuẫn với
tính “đứng im” tương đối của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất từ chỗ là
“hình thức phù hợp”, “tạo địa bàn” phát triển của lực lượng sản xuất trở
thành “xiềng xích” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đòi hỏi
tất yếu của nền sản xuất là phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan
hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã phát triển.
b. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
- Quan hệ sản xuất có thể tác động trở lại lực lượng sản xuất bởi:
+ Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất, có tính
độc lập tương đối với lực lượng sản xuất.
+ Quan hệ sản xuất quy định mục đích sản xuất, tác động đến thái độ
người lao động, đến tổ chức phân công lao động xã hội, v.v., nên nó tác
động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Biểu hiện sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đến lực lượng sản
xuất:
+ Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất thì nó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là trạng thái trong đó quan hệ
sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất và “tạo địa bàn
đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển.
+ Ngược lại, nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hay phát triển trước
42
43
- Trong kiến trúc thượng tầng, các yếu tố như chính trị, pháp lý có mối
liên hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng, còn các yếu tố khác như triết học, nghệ
thuật, tôn giáo, đạo đức, v.v. có liên hệ gián tiếp với cơ sở hạ tầng sinh ra
nó.
- Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng cũng mang tính chất đối
kháng.
- Bộ phận có quyền lực mạnh nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã
hội có đối kháng giai cấp là nhà nước - công cụ quyền lực chính trị đặc biệt
của giai cấp thống trị.
3.2. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là
một quy luật cơ bản của sự vận động phát triển lịch sử xã hội. Trong mối
quan hệ này, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng còn kiến trúc
thượng tầng tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng.
a. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng là dựa trên cơ sở:
Quan hệ vật chất quyết định quan hệ tinh thần; tính tất yếu kinh tế xét đến
cùng quyết định tính tất yếu chính trị - xã hội. Kiến trúc thượng tầng được
hình thành từ cơ sở hạ tầng. Mọi hiện tượng của kiến trúc thượng tầng đều
do nguyên nhân sâu xa nằm trong cơ cấu kinh tế gây ra.
- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng biểu hiện:
+ Cơ sở hạ tầng quyết định sự ra đời (nguồn gốc) của kiến trúc thượng
tầng. Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương
ứng.
+ Cơ sở hạ tầng như thế nào thì cơ cấu, tính chất của kiến trúc thượng
tầng là như thế ấy. Nếu cơ sở hạ tầng có đối kháng hay không đối kháng,
thì kiến trúc thượng tầng của nó cũng có tính chất như vậy. Trong xã hội
có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế cũng chiếm địa vị thống trị
về chính trị. Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất mâu
thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng của xã hội.
+ Cơ sở hạ tầng quyết định sự vận động phát triển của kiến trúc thượng
tầng. Những biến đổi căn bản của cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến
sự biến đổi căn bản trong kiến trúc thượng tầng. Sự thay đổi đó không phải
chỉ diễn ra từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội
khác mà còn diễn ra ngay trong chính một hình thái kinh tế - xã hội.
44
+ Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn
ra phức tạp. Khi cơ sở hạ tầng thay đổi, những yếu tố của kiến trúc thượng
tầng thay đổi nhanh chóng như chính trị, pháp luật, v.v., nhưng cũng có
những yếu tố thay đổi chậm như nghệ thuật, tôn giáo, v.v..
b. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
- Sở dĩ kiến trúc thượng tầng lại tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng
là vì: Kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối so với cơ sở hạ tầng.
Vai trò của kiến trúc thượng tầng chính là vai trò tích cực, tự giác của ý
thức, tư tưởng. Vai trò của kiến trúc thượng tầng còn do sức mạnh vật chất
của bộ máy tổ chức - thể chế luôn có tác động một cách mạnh mẽ trở lại cơ
sở hạ tầng.
- Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng được
biểu hiện:
+ Kiến trúc thượng tầng củng cố, hoàn thiện và bảo vệ cơ sở hạ tầng
sinh ra nó; ngăn chặn cơ sở hạ tầng mới, đấu tranh xóa bỏ tàn dư cơ sở hạ
tầng cũ; định hướng, tổ chức, xây dựng chế độ kinh tế của kiến trúc thượng
tầng. Thực chất vai trò kiến trúc thượng tầng là vai trò bảo vệ duy trì, củng
cố lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị xã hội.
+ Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng theo hai chiều
hướng. Khi kiến trúc thượng tầng phản ánh đúng tính tất yếu kinh tế, các
quy luật kinh tế khách quan sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển. Và ngược lại, khi
kiến trúc thượng tầng không phản ánh đúng tính tất yếu kinh tế, các quy
luật kinh tế khách quan thì sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế và đời sống
xã hội.
c. Ý nghĩa của quy luật
- Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng là cơ sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Kinh tế và chính trị tác động biện chứng,
trong đó kinh tế quyết định chính trị, chính trị tác động trở lại to lớn, mạnh
mẽ đối với kinh tế.
- Trong nhận thức và thực tiễn nếu tách rời hoặc tuyệt đối hoá một yếu
tố nào giữa kinh tế và chính trị đều là sai lầm.
4. Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch
sử - tự nhiên
45
46
Cứ như vậy, lịch sử xã hội loài người là một tiến trình nối tiếp nhau từ
thấp đến cao của các hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy -
chiếm hữu nô lệ - phong kiến - tư bản chủ nghĩa - xã hội chủ nghĩa. Trong
đó, thống nhất giữa quy luật chung cơ bản phổ biến với quy luật đặc thù và
quy luật riêng của lịch sử.
- Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch
sử - tự nhiên. Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người là sự thống
nhất giữa lôgíc và lịch sử, bao hàm cả sự phát triển tuần tự đối với lịch sử
phát triển toàn thế giới và sự phát triển “bỏ qua” một hay vài hình thái
kinh tế - xã hội đối với một số quốc gia, dân tộc cụ thể.
- Hình thái kinh tế - xã hội cộng chủ nghĩa ra đời là tất yếu khách quan
của lịch sử xã hội.
4.3. Giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng
- Lý luận hình thái kinh tế - xã hội ra đời đem lại một cuộc cách mạng
trong toàn bộ quan niệm về lịch sử xã hội. Lý luận hình thái kinh tế - xã
hội đã giải quyết một cách khoa học về vấn đề phân loại các chế độ xã hội
và phân kỳ lịch sử, thay thế các quan niệm duy tâm, siêu hình trước đó đã
thống trị trong khoa học xã hội; chỉ ra động lực phát triển của lịch sử xã
hội là do hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là thực tiễn sản xuất
vật chất dưới sự tác động của các quy luật khách quan.
- Muốn nhận thức và cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải nhận
thức và tác động cả ba yếu tố cơ bản: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
(cơ sở hạ tầng) và kiến trúc thượng tầng. Xem nhẹ hoặc tuyệt đối hoá một
yếu tố nào cũng sai lầm, xét đến cùng sự là bắt đầu từ việc xây dựng, phát
triển lực lượng sản xuất.
- Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở khoa học cho việc xác
định con đường phát triển của nước ta, đó là quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
- Con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam là phù hợp với tính quy luật của việc “bỏ qua”
một hay vài hình thái kinh tế - xã hội trong sự phát triển lịch sử và phù hợp
với quy luật phát triển rút ngắn trong lịch sử loài người. Bản chất của sự
phát triển rút ngắn xã hội là rút ngắn các giai đoạn, các bước đi của nền văn
minh loài người, cốt lõi là sự tăng trưởng nhảy vọt của lực lượng sản xuất.
- Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lý luận, phương pháp
luận khoa học trong quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
47
48
49
Nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay là thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Về thực chất, đây là cuộc đấu tranh giữa các nhân tố
thúc đẩy với các nhân tố cản trở sự phát triển của đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
2. Dân tộc
2.1. Khái niệm
Dân tộc là một cộng đồng người ổn định được hình thành trong lịch sử
trên cơ sở một lãnh thổ thống nhất, một ngôn ngữ thống nhất, một nền kinh
tế thống nhất, một nền văn hóa và tâm lý, tính cách thống nhất, với một nhà
nước và pháp luật thống nhất.
2.3. Tính đặc thù của sự hình thành dân tộc Việt Nam
Dân tộc Việt Nam được hình thành rất sớm trong lịch sử gắn liền với
nhu cầu dựng nước và giữ nước, với quá trình đấu tranh chống giặc ngoại
xâm và cải tạo thiên nhiên, bảo vệ nền văn hóa dân tộc.
50
Đấu tranh giải phóng dân tộc là điều kiện, tiền đề cho đấu tranh giải
phóng giai cấp. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, các cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc có vai trò hết sức to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của
giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Trong thời đại toàn cầu hóa và cách
mạng khoa học công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ như ngày nay, các quốc
gia, dân tộc ngày càng xích lại gần nhau hơn tạo điều kiện thuận lợi cho
đấu tranh giải phóng giai cấp.
3.2. Quan hệ giai cấp, dân tộc với nhân loại
Giai cấp, dân tộc và nhân loại có mối quan hệ biện chứng, được thể
hiện ở những nội dung cơ bản sau: Trong xã hội có giai cấp, lợi ích nhân
loại không tách rời với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và bị chi phối bởi lợi
ích giai cấp và dân tộc. Tuy nhiên, vấn đề nhân loại không phải bị chi phối
một cách thụ động bởi vấn đề dân tộc và giai cấp, mà có sự tác động trở lại
rất quan trọng. Trước hết, sự tồn tại của nhân loại là tiền đề, là điệu kiện tất
yếu thường xuyên của sự tồn tại dân tộc và giai cấp. Đồng thời, sự phát
triển về mọi mặt của nhân loại tạo ra những điều kiện thuận lợi cho cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc và giai cấp.
Vận dụng sáng tạo lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp, về mối
quan hệ biện chứng giữa giai cấp, dân tộc, nhân loại của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đưa sự nghiệp đổi mới đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đến thắng lợi, góp phần tích cực
vào thực hiện tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
1. Nhà nước
1.1. Nguồn gốc của nhà nước
- Ph. Ăngghen cho rằng, nhà nước là một phạm trù lịch sử: “Nhà nước
tồn tại không phải là mãi mãi từ ngàn xưa. Đã từng có xã hội không cần
đến nhà nước, không có một khái niệm nào về nhà nước và chính quyền
nhà nước cả”1.
- Nhà nước là “sản phẩm của một xã hội đã phát triển tới một giai đoạn
nhất định” khi “xã hội đó đã bị phân thành những mặt đối lập không thể
51
52
Ba là, nhà nước có hệ thống thuế khóa để nuôi bộ máy chính quyền.
1.4. Chức năng cơ bản của nhà nước
- Nhà nước có các chức năng sau: chức năng thống trị chính trị của giai
cấp và chức năng xã hội.
+ Chức năng thống trị chính trị của giai cấp chịu sự quy định bởi tính
giai cấp của nhà nước. Là công cụ thống trị giai cấp, nhà nước thường
xuyên sử dụng bộ máy quyền lực để duy trì sự thống trị đó thông qua hệ
thống chính sách và pháp luật. Bộ máy quyền lực của nhà nước từ trung
ương đến cơ sở, nhân danh nhà nước duy trì trật tự xã hội, đàn áp mọi sự
phản kháng của giai cấp bị trị, các lực lượng chống đối nhằm bảo vệ quyền
lợi và địa vị của giai cấp thống trị.
+ Chức năng xã hội của nhà nước được biểu hiện ở chỗ, nhà nước nhân
danh xã hội làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về xã hội, điều hành các công
việc chung của xã hội như: thủy lợi, giao thông, y tế, giáo dục, môi
trường... để duy trì sự ổn định của xã hội trong “trật tự” theo quan điểm của
giai cấp thống trị.
+ Chức năng đối nội là sự thực hiện đường lối đối nội nhằm duy trì trật
tự xã hội thông qua các công cụ như: chính sách xã hội, luật pháp, cơ quan
truyền thông, văn hóa, giáo dục... Chức năng đối nội được thực hiện trong
tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục của mỗi quốc gia,
dân tộc nhằm đáp ứng và giải quyết những nhu cầu chung của toàn xã hội.
+ Chức năng đối ngoại của nhà nước là sự triển khai thực hiện chính
sách đối ngoại của giai cấp thống trị nhằm giải quyết mối quan hệ với các
thể chế nhà nước khác dưới danh nghĩa là quốc gia, dân tộc, nhằm bảo vệ
lãnh thổ quốc gia, đáp ứng nhu cầu trao đổi kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ
thuật, y tế, giáo dục... của mình.
1.5. Các kiểu và hình thức nhà nước
- Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về
giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái
kinh tế - xã hội nào. Trong lịch sử xã hội có giai cấp đã từng tồn tại bốn
kiểu nhà nước:
+ Kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ.
+ Kiểu nhà nước phong kiến.
+ Kiểu nhà nước tư sản.
+ Kiểu nhà nước vô sản.
- Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức,
53
phương thức thực hiện quyền lực nhà nước của giai cấp thống trị. Hình
thức nhà nước thực chất là hình thức cầm quyền của giai cấp thống trị. Một
kiểu nhà nước có thể có nhiều hình thức nhà nước khác nhau:
+ Kiểu nhà nước chủ nô có các hình thức nhà nước chủ nô quý tộc, nhà
nước chủ nô dân chủ.
+ Kiểu nhà nước phong kiến có các hình thức nhà nước phong kiến tập
quyền, nhà nước phong kiến phân quyền.
+ Kiểu nhà nước tư sản có các hình thức nhà nước cộng hòa tổng thống,
nhà nước cộng hòa đại nghị, nhà nước cộng hòa hỗn hợp, nhà nước quân chủ
lập hiến, v.v..
+ Kiểu nhà nước vô sản có các hình thức: Công xã Pari, nhà nước
Xôviết, nhà nước dân chủ nhân dân.
1. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
1.1. Khái niệm
Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và điều kiện sinh hoạt vật
chất của mỗi cộng đồng người trong những điều kiện lịch sử xác định.
1.2. Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
Các yếu tố cơ bản tạo thành điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội,
gồm có:
Một là, phương thức sản xuất ra của cải vật chất của xã hội đó.
Hai là, các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý như:
các điều kiện khí hậu, đất đai, sông hồ, rừng biển...
Ba là, các yếu tố dân cư, bao gồm: cách thức tổ chức dân cư, tính chất
lưu dân cư, mô hình tổ chức dân cư...
Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác
động lẫn nhau tạo thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong
đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất.
2. Ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội
2.1. Khái niệm
Ý thức xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội,
nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai
đoạn phát triển nhất định.
54
55
ánh tồn tại xã hội phụ thuộc vào tồn tại xã hội.
- Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội như thế nào?
+ Tồn tại xã hội là nguồn gốc khách quan, là cơ sở của sự hình thành, ra
đời của ý thức xã hội.
+ Tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm của các hình
thái ý thức xã hội.
+ Tồn tại xã hội thay đổi thì kéo theo sự thay đổi của ý thức xã hội.
Lưu ý: Khi tồn tại xã hội thay đổi thì ý thức xã hội cũng thay đổi theo.
Tuy nhiên, mức độ và nhịp điệu thay đổi của các bộ phận ý thức xã hội
diễn ra khác nhau, có những bộ phận biến đổi nhanh, có những bộ phận
biến đổi chậm.
- Trong xã hội có giai cấp (tức tồn tại xã hội có giai cấp) thì ý thức xã
hội cũng mang tính giai cấp. Tuy nhiên, không phải bất cứ tư tưởng, quan
niệm, lý luận hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp
những quan hệ kinh tế của thời đại mà chỉ khi nào xét đến cùng thì chúng
ta mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này
hay cách khác trong các tư tưởng ấy.
4.2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
- Là một chỉnh thể tương đối độc lập phản ánh tồn tại xã hội dưới
những góc độ khác nhau, các hình thái ý thức xã hội có quy luật nội tại
riêng, lôgíc của sự phát triển riêng của nó.
- Trong xã hội có những lực lượng xã hội cố duy trì, sử dụng ý thức xã
hội phục vụ lợi ích riêng. Do đó, ý thức xã hội không phụ thuộc hoàn toàn
vào tồn tại xã hội mà có tính độc lập tương đối.
a. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
- Ý thức xã hội là cái phản ánh nên là cái có sau tồn tại xã hội. Tồn tại
xã hội cũ bị thay thế bằng tồn tại xã hội mới. Phương thức sản xuất cũ mất
đi, phương thức sản xuất mới ra đời nhưng ý thức xã hội cũ chưa mất đi.
- Tính lạc hậu được biểu hiện trong ý thức xã hội thông thường, ý thức
lý luận và đặc biệt là trong tâm lý xã hội, tình cảm, ước muốn, thói quen,
tập quán.
- Nguyên nhân:
+ Tồn tại xã hội thường biến đổi với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có
thể phản ánh không kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái
phản ánh nên chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. Nói
cách khác, ý thức xã hội là cái phản ánh, tồn tại xã hội là cái bị phản ánh
cho nên tồn tại xã hội bao giờ cũng biến đổi trước còn ý thức xã hội là cái
56
57
đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những thành tựu lý luận
của các thời đại trước đó.
+ Một trong những hình thức quan trọng của cái được kế thừa trong ý
thức xã hội là truyền thống.
- Lưu ý:
+ Do ý thức có sự kế thừa trong sự phát triển, nên không thể giải thích
được một hiện tượng nào đó nếu chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện
có, mà không chú ý đến các giai đoạn phát triển trước đó.
+ Thừa nhận tính kế thừa trong sự phát triển của tư tưởng giúp chúng ta
giải thích hiện tượng vì sao một nước có trình độ phát triển tương đối kém
về kinh tế nhưng tư tưởng lại ở trình độ phát triển cao.
+ Trong xã hội có giai cấp, tính kế thừa của ý thức gắn với tính giai cấp
của nó. Những giai cấp có lợi ích khác nhau thì kế thừa những nội dung ý
thức khác nhau của các thời đại trước.
- Ý nghĩa:
+ Tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây
dựng nền văn hóa tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa. V.I. Lênin nhấn
mạnh rằng, văn hóa xã hội chủ nghĩa cần phải phát huy những thành tựu và
truyền thống tốt đẹp nhất của nền văn hóa nhân loại từ cổ tới kim trên cơ sở
thế giới quan mácxít.
+ Đảng ta khẳng định: “Phát triển văn hóa dân tộc đi đôi với mở rộng
giao lưu văn hóa với nước ngoài, vừa giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới”.
+ Khi nghiên cứu các hình thái ý thức xã hội, chúng ta phải nghiên cứu
bối cảnh xuất hiện tư tưởng đó (tồn tại xã hội), những tư tưởng tiền bối
(tính kế thừa).
d. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
- Các hình thái ý thức xã hội như chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn
giáo, triết học, văn học, phản ánh tồn tại xã hội bằng những hình thức và
phương diện khác nhau nhưng giữa chúng có sự tác động qua lại và ảnh
hưởng lẫn nhau. Giống nhau là cùng chung nguồn gốc là tồn tại xã hội,
phản ánh tồn tại xã hội. Khác nhau về hình thức phản ánh và phương diện
phản ánh.
- Trong mỗi thời đại, tùy theo những hoàn cảnh lịch sử xã hội cụ thể mà
thường có những hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu. Ở chúng
tập trung ý thức của thời đại đó và tác động mạnh đến các hình thái ý thức
xã hội khác.
- Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội thì triết
58
học có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó có chức năng thế giới quan và
phương pháp luận để từ đó hình thành nhân sinh quan tích cực hoặc tiêu
cực.
- Ý nghĩa: Khi phân tích một hình thái ý thức xã hội nào đó thì không
nên chỉ chú ý tới các điều kiện kinh tế - xã hội sinh ra nó và những ý thức
mà nó kế thừa được của các thời đại trước mà còn phải chú ý tới sự tác
động của nó tới các hình thái ý thức xã hội khác, gắn nó với tồn tại xã hội
và các hình thái ý thức xã hội có liên quan.
đ. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
- Vì sao ý thức xã hội có thể tác động trở lại tồn tại xã hội?
+ Ý thức xã hội có tính vượt trước.
+ Tất cả mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo.
- Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội như thế nào?
+ Bản thân ý thức xã hội tự nó không trực tiếp làm biến đổi tồn tại xã
hội mà phải thông qua hoạt động thực tiễn.
+ Ý thức tác động thông qua hoạt động nên ảnh hưởng đến kết quả hoạt
động: tác động tích cực khi ý thức, tư tưởng tiến bộ, cách mạng, phản ánh
đúng hiện thực khách quan; tác động tiêu cực khi ý thức, tư tưởng lạc hậu,
phản ánh không đúng hiện thực khách quan.
+ Mức độ tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội phụ thuộc
vào điều kiện lịch sử cụ thể; tính chất các mối quan hệ kinh tế làm nảy sinh
tư tưởng đó; vai trò của giai cấp đề ra tư tưởng đó; mức độ phản ánh đúng
đắn của tư tưởng đó và mức độ triển khai thực hiện tư tưởng đó trong quần
chúng.
- Ý nghĩa:
+ Phải phát huy được vai trò của ý thức tiến bộ, cách mạng.
+ Coi trọng đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng,
văn hóa.
+ Thấy được tầm quan trọng trong vai trò của ý thức xã hội đối với quá
trình hình thành nền văn hóa mới và con người mới.
59
sáng tạo nên tất cả các thành tựu của văn minh và văn hóa.
- Con người là thực thể sinh học - xã hội: Xét về phương diện sinh học,
con người vừa là một thực thể sinh vật, vừa là sản phẩm của giới tự nhiên,
vừa là một động vật xã hội.
+ Với tư cách là một thực thể sinh vật, con người có đặc tính sinh học,
bản năng sinh học. Tuy con người là sản phẩm tiến hoá cao nhất của giới tự
nhiên, nhưng cũng như các loài động vật khác con người cũng phải duy trì
sự tồn tại thông qua việc tìm kiếm thức ăn, nước uống, đấu tranh sinh tồn,
v.v.. Khi xem xét bản năng sinh học của con người không thể tách rời với
phương diện xã hội, trong phương diện sinh học đã có phương diện xã hội.
+ Với tư cách là một bộ phận của giới tự nhiên: xét về phương diện
thực thể sinh học, con người phục tùng các quy luật của giới tự nhiên,
nhưng cao hơn các thực thể sinh học khác con người có thể biến đổi giới tự
nhiên. Xét về phương diện thể xác, vì “tự nhiên là thân thể vô cơ của con
người”1, con người sống bằng những sản phẩm tự nhiên nên bằng hoạt
động thực tiễn con người là một bộ phận của giới tự nhiên, gắn bó hòa hợp
với tự nhiên.
+ Với tư cách là một thực thể xã hội, con người có các hoạt động xã
hội, tồn tại trong môi trường xã hội. Chính nhờ môi trường xã hội mà con
người trở thành một thực thể xã hội và mang bản chất xã hội. Nếu con vật
sống bản năng, dựa hoàn toàn vào các sản phẩm của tự nhiên thì con người
sống bằng lao động sản xuất để cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm
thỏa mãn nhu cầu của con người. Hoạt động quan trọng nhất của con người
là hoạt động sản xuất. Lao động là hoạt động đặc trưng của con người, nhờ
có lao động mà ngôn ngữ xuất hiện, đó là yếu tố quan trọng, tiên quyết của
sự hình thành và phát triển con người về cả phương diện sinh học lẫn
phương diện xã hội. Trong lao động, con người vừa có các quan hệ trong
sản xuất vừa có các quan hệ xã hội khác.
- Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người:
+ C. Mác xuất phát từ quan niệm coi con người hiện thực đang hoạt
động, lao động sản xuất làm ra lịch sử của chính mình, là những con người
như đang tồn tại.
+ Con người là sản phẩm của lịch sử và của bản thân con người nhưng
con người không thụ động để lịch sử làm thay đổi mình mà con người còn
là chủ thể của lịch sử.
- Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử.
+ Lao động và sáng tạo là thuộc tính tối cao của con người, hoạt động
60
sản xuất (chế tạo công cụ) là hoạt động lịch sử đầu tiên mang tính sáng tạo,
giúp con người tách khỏi loài vật, tách khỏi tự nhiên để làm chủ thực tiễn,
làm ra lịch sử của mình.
+ Con người không thể sáng tạo ra lịch sử theo ý muốn chủ quan của
mình mà con người vừa phải tiếp tục các hoạt động sáng tạo trên những
điều kiện lịch sử do thế hệ trước để lại, vừa phải tiến hành các hoạt động
mới của mình để cải biến những điều kiện cũ. Lịch sử sản xuất ra con
người như thế nào thì tương ứng, con người cũng sáng tạo ra lịch sử như
thế ấy.
1.2. Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
- Trong Luận cương về Phoiơbắc, C. Mác viết: “Bản chất con người
không phải là một cái trừu tượng của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”1.
Theo đó, không có con người trừu tượng chung chung, mà chỉ có con
người sống và hoạt động trong một môi trường xã hội nhất định, ở một thời
gian xác định với toàn bộ các quan hệ xã hội hiện thời. Chỉ trong điền kiện
ấy, bản chất của con người mới được bộc lộ.
2. Hiện tượng tha hóa con người và vấn đề giải phóng con người
2.1. Hiện tượng tha hoá con người
- Thực chất của hiện tượng tha hoá con người là lao động của con
người bị tha hóa: Thực chất lao động bị tha hoá là quá trình lao động và
sản phẩm của lao động từ chỗ để phục vụ con người, phát triển con người
lại trở thành lực lượng nô dịch con người: con người chỉ hành động với tính
cách con người khi thực hiện các chức năng sinh học, còn khi thực hiện
hoạt động lao động với tư cách là hoạt động đặc trưng của con người thì họ
lại như là con vật.
- Nguyên nhân của hiện tượng tha hóa con người: Do xã hội xuất hiện
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, là hiện tượng lịch sử đặc thù chỉ diễn ra
trong xã hội có sự phân chia giai cấp, có sự chiếm hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất là đỉnh cao trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Biểu hiện của hiện tượng tha hóa con người:
+ Con người đánh mất mình trong lao động, con người thực hiện hoạt
động đặc trưng của mình không được tự do để sáng tạo, phát triển phẩm
chất người mà bị ép buộc bởi những điều kiện xã hội.
+ Con người bị lệ thuộc vào tư liệu sản xuất do chính con người sáng
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.11.
61
tạo ra, mối quan hệ giữa người với người (quan hệ giữa người lao động với
chủ sở hữu tư liệu sản xuất) thay thế bằng quan hệ giữa người với vật, vì nó
được thực hiện thông qua số vật phẩm do người lao động tạo ra và số tiền
công mà người lao động được trả.
+ Con người bị bần cùng hoá, phát triển phiến diện, không phát huy đầy
đủ, không phát triển được bản chất người. Khoa học, công nghệ càng phát
triển, lợi nhuận các chủ sở hữu tư liệu càng lớn thì sự tha hoá con người
càng sâu sắc.
2.2. Vấn đề giải phóng con người
- Tư tưởng căn bản, cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin: Giải phóng
toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, áp bức.
- Nội dung của việc giải phóng con người:
+ Giải phóng về phương diện chính trị: thông qua đấu tranh giai cấp để
thay thế chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và phát
triển sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đây là nội dung quan trọng nhất.
+ Giải phóng thực sự con người: khắc phục sự tha hoá của con người và
lao động của họ, đưa lao động sáng tạo trở thành chức năng thực sự của
con người. Đây là nội dung then chốt.
+ Giải phóng con người trên tất cả nội dung, phương diện: từ con người
cá nhân, con người giai cấp, con người dân tộc, con người nhân loại, v.v..
- Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi người:
+ Đưa lại tự do thực sự cho con người là mục đích giải phóng tha
hóa của con người.
+ Điều kiện con người được tự do: khi chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất bị thủ tiêu triệt để, lao động của con người
không còn bị tha hóa.
+ Vì sao tự do của mỗi người tất yếu là điều kiện cho sự phát triển tự do
của mọi người: Vì con người là sự thống nhất giữa cá nhân và xã hội, cá
nhân với giai cấp, dân tộc và nhân loại, bản chất con người là tổng hòa
những quan hệ xã hội. Mặt khác, sự phát triển của xã hội cũng là tiền đề để
phát trển mỗi cá nhân.
3. Vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử
3.1. Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử
- Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản, bao
62
gồm những thành phần, những tầng lớp, những giai cấp liên kết thành một
tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, một tổ chức hay đảng phái nhằm
giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa nhất định của xã hội,
thời đại...
- Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Điều này thể
hiện ở những điểm sau đây:
+ Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội.
+ Quần chúng nhân dân là động lực, lực lượng cơ bản của những cải
biến và tiến bộ xã hội.
+ Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội: văn hóa, chính trị, đạo đức, nghệ thuật...
Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không bao giờ tách rời
vai trò cụ thể của mỗi cá nhân mà đặc biệt là vai trò của các cá nhân ở vị trí
thủ lĩnh, lãnh tụ hay vĩ nhân trong cộng đồng nhân dân.
3.2. Vai trò của lãnh tụ trong lịch sử
- Lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của quần
chúng tạo nên, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân.
- Những phẩm chất cần có của lãnh tụ: tri thức uyên bác, nắm được xu
thế vận động của dân tộc, thời đại; có năng lực tập hợp quần chúng, thống
nhất ý chí và hành động của quần chúng để thực hiện những mục tiêu,
nhiệm vụ nhất định; gắn với quần chúng, đại diện cho lợi ích của quần
chúng, vì quần chúng.
* Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ:
- Về mục đích và lợi ích của quần chúng nhân dân và lãnh tụ là thống
nhất. Trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, lợi ích có thể thay đổi nhưng
luôn là cầu nối thống nhất giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ.
- Lãnh tụ xuất hiện từ phong trào quần chúng, việc giải quyết các nhiệm
vụ lịch sử nhanh hay chậm của lãnh tụ có ảnh hưởng đến phong trào quần
chúng.
- Quần chúng nhân dân và lãnh tụ có mối quan hệ biện chứng. Quần
chúng nhân dân đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của lịch sử.
Lãnh tụ là người dẫn dắt, định hướng, thúc đẩy phong trào quần chúng, là
cơ sở thúc đẩy sự phát triển lịch sử.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Cung cấp phương pháp luận khoa học về việc kết hợp hài hoà giữa
vai trò quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong từng điều kiện cụ thể sẽ tạo
63
sức mạnh tổng hợp thúc đẩy phong trào và sự vận động, phát triển của cộng
đồng xã hội nói chung.
+ Không nên tuyệt đối hoá vai trò của lãnh tụ dẫn đến tệ sùng bái cá
nhân, nếu tuyệt đối hoá vai trò của quần chúng nhân dân, xem nhẹ vai trò
của cá nhân lãnh tụ dẫn đến xem thường sáng kiến cá nhân, không phát huy
được sáng tạo của lãnh tụ.
4. Vấn đề con người trong sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam
- Cơ sở giải quyết vấn đề con người ở Việt Nam: Dựa trên lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nội dung phát triển con người trong giai đoạn hiện nay: Phát triển con
người toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước hiện nay.
- Đặc điểm, phẩm chất con người phát triển toàn diện:
+ Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn,
lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
+ Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực,
nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý
thức bảo vệ cải thiện môi trường sinh thái.
+ Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo,
năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
+ Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình
độ thẩm mỹ và thể lực1.
- Phát huy vai trò của con người để thực hiện mục tiêu giải phóng con
người, xem con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi
mới luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam quán triệt trong tất cả các lĩnh
vực, vận dụng nhiều giải pháp để phát huy mạnh mẽ vai trò của con người.
Con người được đặt là trung tâm của mọi sự phát triển. Bài học lịch sử của
cách mạng Việt Nam là mọi sự thắng lợi đều dựa trên nền tảng phát huy, sử
dụng đúng đắn con người, nhất là trong điều kiện đất nước hiện nay, càng
phải chú trọng, phát triển, sử dụng, phát huy cao nhất vai trò của con người.
1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.58-59.
64
MỤC LỤC
Tran
65