You are on page 1of 9

1.

Vai trò của thanh niên đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thanh niên Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử luôn giữ vai trò quan trọng, luôn thể hiện tinh
thần xả thân trong các cuộc chiến tranh giữ nước và luôn là lực lượng quan trọng trong thời kỳ
kiến thiết đất nước. Thanh niên Việt Nam trong cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ; trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; trong thời kỳ kiến
thiết đất nước sau chiến tranh; trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước luôn phát huy truyền thống của dân tộc, luôn nêu cao tinh thần xung phong,
tình nguyện, xung kích, đi đầu để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Đảng, nhà nước và nhân dân
giao phó.
Thanh niên luôn là lực lượng nòng cốt với sức khỏe dẻo dai và tinh thần nhiệt huyết. Góp phàn
quan trọng trong sự nghiệp thúc đẩy đất nước phát triển.
Trước sự quan tâm, chăm lo và kỳ vọng lớn lao của Đảng và Nhà nước, hơn bao giờ hết, mỗi
thanh niên cần nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm để không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn
luyện, phấn đấu để trở thành lực lượng xung kích thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã
hội, xây dựng vững chắc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Quyền của thanh niên, học sinh trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
● Được học tập và vui chơi trong môi trường lành mạnh
● Được kết nối thông tin với bạn bè bốn phương
● Được tự chủ quyết định các vấn đề liên quan trực tiếp đến bản thân...
3. Yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với thanh niên học sinh
● Phải luôn nắm bắt thông tin
● Không ngừng học hỏi và tiếp thu kiến thức mới
● Sáng tạo không ngừng
● Vươn ra thị trường thế giới để sánh vai với các cường quốc năm châu.
4. Là một công dân em phải làm gì để góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của đất nước?
● Em cần phải tích cực học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, bồi đắp tư tưởng cách
mạng trong sáng. Phải có lập trường tư tưởng vững vàng, có lòng yêu nước, có niềm
tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp mới. Tích cực tham gia vào các cuộc đấu
tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước, đấu tranh chống tham nhũng, tệ nạn xã hội...
● Luôn học tập tốt để nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, kỹ thuật và tay nghề.
● Cần tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân. Tự nguyện, tự giác tham gia vào các hội của thanh niên, phấn đấu
trở thành đoàn viên, đảng viên xuất sắc.
● Em cần phải tích cực tham gia vào việc xây dựng môi trường xã hội lành mạnh và môi
trường sinh thái trong lành, sạch đẹp. Tích cực tham gia phòng chống ô nhiễm môi
trường, suy thoái môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.
● Cần phải xung kích đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng an ninh. Tích cực tham gia các chương trình, dự án của địa phương; tự nguyện,
tự giác tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự, tham gia các hoạt động bảo vệ Tổ quốc và
giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội.
● Chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế; tham gia giải quyết các vấn đề toàn
cầu; tham gia vào công tác ngoại giao nhân dân để nâng tầm ảnh hưởng của Việt Nam
trên trường quốc tế; chủ động và tham gia có hiệu quả vào giải quyết các vấn đề toàn
cầu như: giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi
trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng
ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh hiểm nghèo
Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng và phát triển nền văn hóa thời đổi mới
của Đảng?
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế – xã hội
Hai là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người. Tiên
tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện
chuyển tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng đồng của dân
tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó
là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn
kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc; đó là lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa,
đạo lý, là đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối
sống… Bản sắc dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc
đáo.
Để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chúng ta chủ trương vừa bảo vệ
bản sắc dân tộc, vừa mở rộng giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Bảo vệ bản sắc dân
tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ
trong văn hóa các dân tộc khác để bắt kịp sự phát triển của thời đại. Chủ động tham gia hội
nhập và giao lưu văn hóa với các quốc gia để xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt
Nam đương đại. Xây dựng Việt Nam thành một địa chỉ giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế.
Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống những cái lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập
quán và lề thói cũ.
Ba là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân
tộc Việt Nam
Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng
Năm là, văn hóa là mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu
dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng
Sáu là, giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu
Vai trò của sinh viên trong quá trình xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Vai trò của sinh viên trong quá trình xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc
Theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (Khóa VIII) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương
lần thứ 9 (Khóa XI), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh: “Xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”.
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, yêu cầu của CNH, HĐH đã đặt thanh niên, trong
đó có sinh viên vào vị trí quan trọng hàng đầu. Điều này đã được Đảng ta nhấn mạnh tại Nghị
quyết số 25-NQ/TW ngày 25-7-2008 BCHTW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác thanh niên thời kỳ mới: “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai
của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc, một trong những nhân
tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, hội nhập
quốc tế và xây dựng CNXH. Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng,
phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là
động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước”.
Để phát huy được vai trò trên thì thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng cần tiếp thu những
mặt tích cực, tiên tiến của văn hóa hiện đại, đồng thời phát huy tinh thần yêu nước niềm tự hào
dân tộc, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc. Kiên quyết đấu tranh đối với những
biểu hiện vô cảm, hoặc những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.
Phân tích quan điểm: văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế – xã hội.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội: vì nó thấm nhuần trong mỗi con người và trong cả
cộng đồng, được truyền lại, nối tiếp và phát huy qua các thế hệ, được vật chất hóa và khẳng
định vững chắc trong cấu trúc chính trị- xã hội của dân tộc.
Văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt,
giúp cộng đồng dân tộc Việt NAm vượt qua sóng gió để tồn tại và phát triển. Vì vậy, chúng ta
chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn
hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành động lực phát triển kinh tế- xã
hội.
Văn hóa là động lực thúc đẩy phát triển: Văn hóa khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng sáng tạo
của con người . trong thời đại ngày nay, việc phát huy tiềm năng sáng tạo của con người có
tầm quan trọng đặc biệt, tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa,
nghĩa là trong sự hiểu biết, tâm hồn, đạo lý, lối sống, thị hiếu, trình độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân
và của cả cộng đồng. Hàm lượng trí tuệ, hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống
con người ngày càng cao thì khả năng phát triển kinh tế- xã hội càng lớn. Do vậy, đối với một
nền kinh tế, muốn phát triển bền vững thì động lực không thể thiếu là phát triển văn hóa.
Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hóa. Sự phát triển của
dân tộc phải vươn tới cái mới, tiếp nhận cái mới, tạo ra cái mới nhưng không thể tách rời cội
nguồn. Phát triển dựa trên cội nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn. Cội nguồn đó của mỗi
quốc gia, dân tộc là văn hóa.
Kinh nghiệm đổi mới ở nước ta cũng chứng tỏ rằng, ngay bản thân sự phát triển kinh tế cũng
không chỉ do các nhân tố kinh tế thuần túy tạo ra, mà nó còn do các giá trị văn hóa đang được
phát huy.
Ngày nay, trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, yếu tố quyết định
cho sự tăng trưởng kinh tế là trí tuệ. Vì vậy, một nước giàu hay nghèo không chỉ ở chỗ có nhiều
hay ít tài nguyên và lao động mà trước hết là có khả nawng phát huy đến mức cao nhất tiềm
năng sáng tạo của nguồn lực con người hay không. tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu
tố cấu thành vawn hóa.\
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hóa dựa vào tiêu chuẩn của cái đúng, cái tốt, cái đẹp
để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động. Mặt khác văn hooas sử dụng sức mạnh của các giá
trị truyền thống, của đạo lý dân tộc để hạn chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất, sùng bái tiền
tệ,…….
Trong vấn đề bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững, văn hóa giúp hạn chế lối sống chạy
theo ham muốn quá mức của dời sống “xã hội tiêu thụ”, dẫn đến chỗ cạn kiệt tài nguyên thiên
nhiên, ô nhiễm môi trường.
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển: Văn hóa thể hiện trình độ phát triển về ý thức, trí tuệ,
năng lực sáng tạo của con người. Với sự phát triển của vawn hóa, bản chất nhân văn, nhân
đạo của mỗi cá nhân và cả cộng đồng được bồi dưỡng và phát huy, trở thành giá trị cao quý và
chuẩn mực của toàn xã hội.
Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam ” dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, ăn
minh” chính là mục tiêu văn hóa.
Thực tế cho thấy, mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển là vấn đề bức xúc của mỗi quốc gia.
Nhất là các nước vốn trước đây là thuộc địa thì việc giải quyết vấn đề này lại có ý nghĩa hết sức
quan trọng. Tuy nhiên trong nhận thức và hành động, mục tiêu kinh tế thường lấn át mục tiêu
văn hóa và được đặt ở vị trí ưu tiên trong các kế hoạch, chương trình, chính sách pahts triển.
Văn hóa có vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người và xây dựng
xã hội mới.
Việc phát triển kinh tế- xã hội cần đến những nguồn lực khác nhaul: tài nguyên thiên nhiên, vốn,
….. nhưng các tài nguyên thiên nhiên này đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt. Chỉ có tri
thức con người mới là nguồn lực vô hạn, có khả năng tá sinh và tự sinh không bao giờ cạn kiệt,
các nguồn lực khác sẽ được sử dụng có hiệu quả khi nguồn lực con người có chất lượng cao.
Vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp và nông thôn?
Xuất phát từ nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp phổ biến sản xuất nhỏ, lạc hậu
và đang ở trình độ thấp, đó là cơ sở vật chất, kỹ thuật còn lạc hậu, lao động xã hội đại bộ phận
tập trung trong nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp còn mang nặng tính tự cấp, tự túc và thu
nhập của nông dân thấ, đời sống mọi mặt của họ còn hết sức khó khăn. trong khi đó đến nay
nhiều nước trên thế giới đã có nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao, mọi hoạt động sản
xuất nông nghiệp đã được cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá. Nhờ đó năng
suất ruộng đất, năng xuất lao động của họ đạt rất cao, tạo sự phân công lao động sâu sắc trong
nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Mặt khác do yêu cầu về phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhu cầu về nâng cao đời sống
con người đó là xã hội càng phát triển, đời sống con người càng được nâng cao thì nhu cầu
của con người về lương thực và thực phẩm cũng ngày càng tăng cả về số lượng, chất lượng
và chủng loại. Như vậy chỉ có một nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao mới hy vọng đáp
ứng được nhu cầu tăng lên thường xuyên đó.
Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, trước hết là quá trình quốc tế hoá, khu vực hoá các quan hệ
kinh tế thế giới, các hoạt động sản xuất thương mại, trao đổi thông tin khoa học kỹ thuật,
chuyển giao công nghệ… buộc chúng ta phải đẩy nhanh việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp để chúng ta có thể tận dụng vốn, khoa học, kỹ thuật kinh nghiệm quản lý
nước ngoài vào trong hoàn cảnh thực tiễn vận dụng vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nước ta nhằm để tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế, rơi vào tình trạng “bãi rác công nghiệp”
của thế giới, dẫn đến cuộc sống đói nghèo, lệ thuộc kinh tế nước ngoài…v.v.
Như vậy đứng trước những yêu cầu đổi mới đang diễn ra trước mắt ta cần khẳng định trong bối
cảnh quốc tế hiện nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển chung của thế
giới. trình độ công nghiệp hoá hiện đại hoá biểu hiện trình độ phát triển của xã hội. Vì vậy công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nói riêng là
con đường đúng đắn mà đảng ta đã lựa chọn trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của mình,
nó là “nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, nó là con đường tất
yếu để đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và “nguy cơ tụt hậu” xã hơn so với các nước
trong khu vực.
Vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức KTTT) có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển xã hội ngày nay.
Phát triển kinh tế tri thức là cơ hội để rút ngắn khoảng cách lạc hậu. Từ những tri thức, công
nghệ kỹ thuật mới, các tư liệu lao động mới, hệ thống máy móc thông minh, tự động hóa sẽ
được tạo ra. Quá trình đó sẽ giúp phát hiện và sáng tạo ra nhiều đối tượng lao động mới,
những nguyên liệu mới, năng lượng mới….có thể trước đây chưa từng xuất hiện, tạo ra nhiều
giá trị sử dụng mới, đáp ứng thỏa mãn nhu cầu xã hội ngày càng tốt hơn, giảm bớt việc khai
thác các nguồn tài nguyên hiện hữu.
– KTTT là động lực thúc đẩy tiến trình xã hội hóa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, làm
cho phân công lao động xã hội phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. KTTT được hình
thành, phát triển trên cơ sở các ngành sản xuất sử dụng công nghệ cao. Tác động mạnh mẽ
đến quá trình phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Nó thúc đẩy công nghiệp phát triển nhanh
thông qua các cuộc cách mạng, cách mạng xanh, cách mạng sinh học. Nó thúc đẩy công
nghiệp, không ngừng gia tăng hàm lượng khoa học – kỹ thuật, công nghệ trong sản phẩm công
nghiệp qua đó mà gia tăng giá trị sử dụng, giá trị trao đổi của sản phẩm công nghiệp
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định như thế
nào?
Trả lời:
Về phương hướng:
- Tiếp tục thống nhất nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là
nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”; có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ
thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường
đóng vai trò chủ yếu huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực pháp triển, là động lực
chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
- Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường
cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong
phát triển kinh tế-xã hội.
Về mục tiêu
Đến năm 2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội
nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và
thị trường; bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con
người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát
triển xã hội bền vững; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ; bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo được thể hiện trong xây dựng
và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội.
Phân tích và làm rõ những điểm khác biệt giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng XHCN trong phát triển kinh tế
thị trường ở nước ta, thể hiện 4 tiêu chí:
Mục đích phát triển: (CNTB-> thu lợi nhuận) ta->phát triển sản xuất, nhằm dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, nâng cao đời
sống nhân dân, đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu
chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn
Phương hướng phát triển: Kinh tế XHCN và kinh tế TBCN có nhiều điểm giống nhau: đó là
nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần.
Còn khác nhau: Kinh tế TBCN: sở hữu tư nhân giữ vai trò chủ đạo
Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa: sở hữu toàn dân, kinh tế Nhà nước giữ vai trò
chủ đạo.
-> Để giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước phải nắm được những vị trí then chốt của nền kinh
tế bằng khoa học, công nghệ tiên tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao chứ không phải dựa
vào bao cấp, cơ chế xin – cho hay độc quyền kinh doanh…
Định hướng xã hội và phân phối: thực hiện ở sự kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công
bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo
dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
Trong phân phối: Trong KTTT có nhiều hình thức phân phối: phân phối theo lao động, phân
phối theo vốn, phúc lợi xã hội…
Trong đó phân phối theo lao động là chủ yếu, theo kết quả, hiệu quả sản xuất của con người
(kinh tế Nhà nước), còn đối với thành phần kinh tế tư nhân thì phân phối theo vốn -> vốn nhiều
thì có lợi nhuận nhiều.
Về quản lý: Sự quản lý của nhà nước theo pháp luật đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phải dựa
trên cơ sở phát huy vai trò làm chủ của người lao động (vì tài sản, tư liệu sản xuất thuộc về sở
hữu toàn dân, nên mọi người có quyền quản lý)
Vì sao nói phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam là tất yếu khách quan? Theo anh (chị),
đặc trưng nào phản ánh rõ nhất bản chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam?
- Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó toàn bộ các yếu tố
“đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế hàng hóa là một kiểu tổ
chức kinh tế - xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường.
Mục đích của sản xuất trong kinh tế hàng hóa không phải để thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của
người sản xuất ra sản phẩm mà nhằm để bán, tức là để thỏa mãn nhu cầu của người mua, đáp
ứng nhu cầu của xã hội.
Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường có cùng bản chất nhưng khác nhau về trình độ phát triển.
Như vậy, kinh tế hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định (trình độ cao) thì đó là KTTT
-KTTT tồn tại khi có đồng thời hai điều kiện: Phân công lao động xã hội và sự tách biệt tương
đối về mặt kinh tế giữa các chủ thể kinh tế.
+Phân công lao động xã hội với tư cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hóa chẳng những
không mất đi mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động
trong từng khu vực, từng địa phương cũng ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công
lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm
đưa ra trao đổi trên thị trường. Việc chuyên môn sản xuất không chỉ ở các sản phẩm với nhau
mà còn ở các chi tiết của một sản phẩm.
+ Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa các chủ thể
Trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu. Do đó, tồn tại nhiều chủ thể kinh tế
độc lập, có lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng
hóa – tiền tệ.
+ Ở Việt Nam có đầy đủ 2 điều kiện đó.
-Đặc trưng phản ánh bản chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
+ Về mục tiêu phát triển KTTT: Giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong và
ngoài nước để thực hiện CNH, HĐH; xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao
hiệu quả kinh tế - xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân
+Về phương hướng phát triển: Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta tồn
tại nhiều thành phần kinh tế (5 thành phần), trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo
+Về định hướng xã hội chủ nghĩa và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng
bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục
tiêu phát triển con người.
+ Về quản lý :Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, đảm bảo vai trò quản lý, điều tiết
nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Những thành tựu đạt được trong hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kì đổi mới
có ý nghĩa gì đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước?
Về nhận thức: Nhận thức chung của Đảng ta về thời đại, về thế giới và khu vực ngày càng rõ
và đầy đủ hơn. Trong khi khẳng định thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nhận rõ tính chất phức tạp, quanh co và lâu dài của quá trình
chuyển biến xã hội cho nên đã hướng vào đánh giá trực tiếp những động thái, đặc trưng, xu
hướng, tính chất trong giai đoạn hiện nay của thời đại. Về môi trường quốc tế, Đảng ta đã nhận
rõ môi trường quốc tế là các nước không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển, cùng tồn
tại hòa bình, hợp tác và đấu tranh vì lợi ích quốc gia dân tộc.
Đảng ta nhận định cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn. Các nước lớn thay đổi chiến
lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến
tình hình thế giới và các khu vực. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa
cường quyền áp đặt, chủ nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ quốc tế. Các nước
đang phát triển, nhất là những nước vừa và nhỏ, đang đứng trước những cơ hội mới và cả
những thách thức mới trên con đường phát triển. Trong bối cảnh đó, tập hợp lực lượng để liên
kết, cạnh tranh, đấu tranh giữa các nước trên thế giới và khu vực diễn ra phức tạp. Toàn cầu
hóa và cách mạng khoa học – công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã
hội thông tin và kinh tế tri thức. Kinh tế thế giới có chiều hướng phục hồi nhưng còn nhiều khó
khăn. Cạnh tranh về kinh tế – thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị
trường, công nghệ, nguồn vốn,… giữa các nước ngày càng gay gắt. Các vấn đề toàn cầu như
an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh mạng, biến đổi khí hậu,
nước biển dâng, thiên tai, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia,… tiếp tục diễn biến phức tạp.
Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông-Nam Á có vị trí địa – kinh tế và địa –
chính trị quan trọng; là khu vực có tiềm năng phát triển mạnh mẽ nhưng còn tồn tại nhiều nhân
tố bất ổn. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực tiếp tục diễn ra gay gắt.
ASEAN tuy còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong duy trì
hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế trong khu vực.
Về mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại: Chúng ta đã nhận thức ngày càng sâu sắc hơn mục tiêu tối
thượng là lợi ích quốc gia – dân tộc; mục tiêu phát triển được đặt lên hàng đầu; vai trò của
công tác đối ngoại đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc được coi trọng. Nhận thức ngày càng rõ
hơn quan hệ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa với mở rộng, nâng
cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; sự cần thiết phải tăng cường nội lực để
bảo đảm hội nhập thành công; nắm vững hơn những nguyên tắc và vấn đề cơ bản của thông lệ
quốc tế.
Về phương châm và định hướng lớn trong chính sách đối ngoại: Từ định hướng coi “đoàn kết
và hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng của chính sách đối ngoại”, từng bước
chuyển sang đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối ngoại. Từ chủ trương “muốn là bạn”
đến “sẵn sàng là bạn”, “là bạn, là đối tác tin cậy”, là “thành viên có trách nhiệm” của cộng đồng
quốc tế. Đổi mới nhận thức về hợp tác và đấu tranh, từ quan niệm về địch – ta chuyển sang
cách nhìn nhận có tính biện chứng về đối tác và đối tượng trên cơ sở lợi ích quốc gia – dân tộc
trong từng hoàn cảnh cụ thể. Nhận thức thực tế hơn quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa và
bạn bè truyền thống và quan hệ với các nước láng giềng, khu vực, các nước lớn; đưa các mối
quan hệ đi vào chiều sâu. Từ “phá thế bị bao vây, cấm vận” tiến đến “hội nhập vào nền kinh tế
khu vực và thế giới”, và tiếp theo là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” một cách toàn diện.
Đảng ta đã xác định hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, coi hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị. Hội nhập
quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội
nhập các lĩnh vực khác từng bước mở rộng; nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế đi đôi
với chủ động, tích cực tham gia xây dựng, thực hiện các chuẩn mực chung bảo đảm lợi ích
quốc gia – dân tộc. Nhận thức sâu sắc hơn yêu cầu giải quyết một cách thỏa đáng mối quan hệ
giữa hội nhập quốc tế và giữ vững độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia. Nhận thức rõ hơn, đầy
đủ hơn các đặc điểm của môi trường quốc tế cũng như các hệ thống công cụ, quyền lực được
sử dụng để chi phối, kiểm soát trong quá trình hội nhập quốc tế.
Về thực tiễn: Qua 30 năm đổi mới, trong lĩnh vực đối ngoại, chúng ta đã giành được những
thắng lợi to lớn. Đã mở rộng quan hệ đối ngoại, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia; đã phá
được thế bị bao vây, cấm vận thời kỳ đầu đổi mới; bình thường hóa, thiết lập quan hệ ổn định,
lâu dài với các nước; tạo lập và giữ được môi trường hòa bình, tranh thủ yếu tố thuận lợi của
môi trường quốc tế để phát triển; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ tiếp tục
được giữ vững. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu. Mở rộng
quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới trên cơ sở tôn trọng
độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ chính trị; tiếp tục từng bước đưa
quan hệ với các đối tác quan trọng đi vào chiều sâu, ổn định hơn. Đã thiết lập quan hệ đối tác
chiến lược với 16 nước, quan hệ đối tác toàn diện với 11 nước. Nâng cao hình ảnh và vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế, đóng góp ngày càng tích cực, có trách nhiệm vào đời sống
chính trị khu vực và thế giới, phát huy vai trò tích cực trong cộng đồng ASEAN. Cùng với việc
tăng cường ngoại giao nhà nước, quan hệ đối ngoại đảng và đối ngoại nhân dân được mở
rộng, đã nâng cao vị thế, uy tín của nước ta tại các diễn đàn đa phương.
Đã củng cố và tăng cường quan hệ với các nước láng giềng, giữ vững độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Quan hệ đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa Việt Nam và Lào tiếp
tục được củng cố và có những bước phát triển, ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Quan
hệ Việt Nam – Cam-pu-chia được củng cố, tăng cường về nhiều mặt. Quan hệ với Trung Quốc
có những bước tiến triển, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, thương mại. Đã phân giới cắm mốc
xong trên thực địa toàn tuyến biên giới; phê chuẩn Hiệp định phân định và Hiệp định hợp tác
nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ. Trong bối cảnh tình hình trên Biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp,
có lúc rất căng thẳng, chúng ta đã xử lý thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, kiên quyết, kiên trì bảo
vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích của đất nước; đồng thời giữ
vững môi trường hòa bình và ổn định; kiên trì quan hệ hữu nghị với nhân dân Trung Quốc, kiên
trì chủ trương giải quyết bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong
đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982; kiên trì tôn trọng tuyên bố về ứng xử của
các bên ở Biển Đông (DOC), nỗ lực cùng các nước liên quan xây dựng một Bộ quy tắc ứng xử
ở Biển Đông (COC) có hiệu lực hơn trong việc quản lý tranh chấp và ngăn ngừa xung đột trên
Biển Đông. Những chủ trương và giải pháp của Đảng, Nhà nước ta đã được nhân dân đồng
tình và dư luận quốc tế ủng hộ.
Thực hiện chính sách chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, chúng ta đã đẩy mạnh và làm sâu
sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng đối với sự phát triển và an ninh
của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất. Chủ động tham gia và phát
huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Đẩy mạnh và từng
bước đưa vào chiều sâu các hoạt động hợp tác về quốc phòng – an ninh. Đẩy mạnh hội nhập
quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học – công nghệ, giáo dục – đào tạo và các lĩnh
vực khác; lồng ghép các hoạt động hội nhập quốc tế trong quá trình xây dựng và triển khai
chiến lược phát triển các lĩnh vực này. Chủ động ngăn ngừa và hạn chế tác động tiêu cực của
quá trình hội nhập quốc tế.
Đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế, góp phần tăng cường nguồn lực cho phát triển đất nước.
Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư quốc tế, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ
chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học – công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến;
khai thác hiệu quả các thỏa thuận đã được ký kết, đặc biệt là các khu vực mậu dịch tự do song
phương và đa phương. Việc thúc đẩy và nâng cao hiệu quả các quan hệ hợp tác kinh tế quốc
tế đã góp phần thiết thực cho việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Rõ ràng là, khi có nhận thức sâu sắc về tình hình và xu thế vận động của thế giới đương đại, từ
đó xây dựng đường lối và chính sách đối ngoại đúng đắn, đến lượt mình, công tác đối ngoại,
ngoại giao của Đảng và Nhà nước được đẩy mạnh, thu được những thành quả hết sức to lớn,
làm tăng vị thế, uy tín quốc tế của đất nước ta. Đó là thành tố quan trọng và là động lực thúc
đẩy sự nghiệp đổi mới có bước phát triển vươn tầm, hướng tới thực hiện thành công mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

You might also like