You are on page 1of 21

Tây Tiến (1948) quả là nét son đẹp nhất trong đời thơ Quang Dũng.

Cả bài thơ hiện ra


như một sự hoà điệu đẹp đẽ giữa thơ – nhạc – hoạ. Về phương diện nghệ thuật, Tây Tiến
còn thể hiện một trình độ tổ chức chất liệu ngôn từ xuất sắc với một cấu trúc thơ có thể
nói đã đạt tới mức tối ưu. Nó thể hiện một cách đầy đủ các sắc độ chơi vơi trong nỗi nhớ
của nhà thơ về một thời kì lịch sử hào hùng và lãng mạn. Sự độc đáo ấy của các lớp sóng
ngôn từ chủ yếu được thể hiện qua cách sử dụng các từ địa danh một cách hợp lí.
Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, trải dài từ Mai Châu, Châu Mộc –
Hoà Bình, qua Lào rồi vòng về miền tây Thanh Hoá. Đó là một vùng đất hoang vu đầy
bí mật. Quang Dũng không trao cho nỗi nhớ của mình những địa chỉ “vu vơ”, ông điểm
danh từng tên cụ thể: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… và sự có mặt
của các địa danh này lập tức gợi ra ý niệm về sự xa ngái và hoang sơ. Trong trí nhớ
người đọc, những cái tên kia thuộc một “típ” lạ, nó khác xa với những tên đất, tên làng
vốn quen thuộc trong ca dao người Việt, nó cũng khác xa với kiểu “thôn Đoài ngồi nhớ
thôn Đông” trong thơ Nguyễn Bính. Chính điều này đã trở thành một tác nhân kích thích
trí tưởng tượng của người đọc, đẩy người đọc đứng trước sự tò mò khó cưỡng về những
bí_mật_“đường_rừng”
Cả Tây Tiến là một nỗi nhớ khôn nguôi của, một vùng đất mô ̣t thời trâ ̣n mạc. Vậy
nên, khi nhắc đến các địa danh này, ta nhận thấy những kí ức của quá khứ hiện về thật
tươi nguyên, nó chen lấn thực tại, tạo nên độ nhoè giữa hai không gian: không gian hiện
tại và không gian hồi tưởng. Bởi thế, dù lạ lẫm, qua hồn thơ và nỗi nhớ Quang Dũng,
các địa danh ấy xâm chiếm cõi nhớ người đọc, giúp họ yên tâm cùng Quang Dũng “trôi”
về một vùng đất đẹp đẽ, dữ dội và mộng mơ, đằm thắm.
Có một địa danh đi suốt bài thơ này, tạo nên “sợi nhớ sợi thương” trong nỗi nhớ
nhà thơ là hình ảnh sông Mã. Đó là một dòng sông có thật, nhưng cũng là một sinh thể
có hồn vía, có xúc cảm, nỗi niềm. Chính sông Mã đã thay lời Tổ quốc, thay lời nhân dân
cất lên tiếng hát trầm hùng tiễn biệt những đứa con của quê hương đi vào cõi bất tử.
Vượt qua tư cách là những tên đất tên làng như một khái niệm có tính địa lí, các địa
danh trong Tây Tiến ngấm sâu nỗi nhớ của nhà thơ, và chính điều đó đã “làm đất lạ hoá
quê-hương”.
Riêng địa danh Mường Hịch trong câu thơ “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu
người” được dùng rất giỏi, chữ “Hịch” thanh trắc gắn với chữ “cọp” cũng thanh trắc làm
cho người đọc liên tưởng đến những bước chân của chúa sơn lâm đang rình râ ̣p, đe doạ
con người. Rõ ràng, Quang Dũng không sử dụng từ địa danh một cách tuỳ hứng mà ông
biết chọn lựa và biết “điều phối” để tạo sức ám ảnh cho thơ. Đây cũng là một tài nghệ
tạo lực hút của nhà thơ khi nhìn về độc giả. Nội lực các câu thơ của Quang Dũng chủ
yếu_dồn_vào-động-từ-gây-cảm-giác-mạnh.
Trong bức tranh tả núi, tả dốc, Quang Dũng có một kiểu đo độ cao độc đáo: “Heo
hút cồn mây súng ngửi trời”. Có thể thay chữ “ngửi” bằng chữ “chạm” được, nếu nói về
độ cao thuần tuý. Nhưng chữ “chạm” dễ làm cho ý thơ yếu đi, chữ “ngửi” mới là yếu tố
làm cho câu thơ sinh động hẳn lên. Với động từ này, chí ít, người đọc có thể cảm nhận
được ba lớp ý: Thứ nhất, đó là một độ cao chóng mặt (trước là mây, sau là trời). Thứ hai,
“ngửi” nói về sự tinh nghịch, một cách nói rất lính (mà Quang Dũng cũng từng là lính
đấy thôi). Như vậy, cái độ cao kia có thể làm ai sợ hãi chứ lính Tây Tiến thì không. Vả
lại, "ngửi" đã biến cây súng thành người. Biện pháp nhân hoá này nhấn mạnh một thực
tế, những chàng trai Hà Nội vừa hào hoa thanh lịch vừa không kém phần dầu dãi, phong
trần. Thứ hai, cả câu thơ cho thấy “chí ta cao hơn đèo”. Không một độ cao nào, không
một khó khăn gian khổ nào có thể cản nổi bước chân những anh hùng vệ quốc.
Trong chiến tranh, hi sinh, tổn thất là điều không thể tránh. Nhưng “Gục lên súng mũ bỏ
quên đời” lại là một cách nói lạ. Chữ “gục” trong câu thơ này vừa có tính tạo hình vừa
có tính biểu cảm cao. Một mặt, “gục” giúp Quang Dũng tránh được việc dùng các từ
chết, hi sinh…, mặt khác, nó vẫn giữ được cái thực tế nghiệt ngã và trần trụi của cuộc
chiến. Câu thơ vì thế, không rơi vào bi lụy, hình ảnh thơ không bị thô. Đặc biệt, việc kết
hợp “gục” với “bỏ quên đời” đã làm nảy lộ một cái nhìn: với người lính Tây Tiến, cái
chết trở nên “không đáng kể”, nó chỉ là một chuyện “nhỏ” mà thôi. Cái nhìn ấy chỉ có
thể có được ở những chàng trai ngang tàng, dám xả thân vì nghĩa lớn.
Tây Tiến là bài thơ dày đặc những câu thơ tài hoa, nhưng có thể nói “Sông Mã gầm lên
khúc độc hành” là câu thơ tiêu biểu nhất cho thi hứng toàn bài. Chữ “gầm” được dùng
rất đắc địa. Nó là âm vang của sông núi, là điệu kèn vĩnh quyết, là khúc hát bi tráng…
Vũ Quần Phương đã nhận xét khá tinh rằng: “Nội lực câu thơ đó không nằm ở bản thân
nó mà rơi xuống từ câu trên: “Áo bào thay chiếu anh về đất". Vì cảnh bi hùng như vậy,
sông Mã mới gầm lên và chỉ gầm lên đơn độc: “khúc độc hành". Cái tiếng vang rung
chuyển và ngự trị cả một vùng thiên nhiên trời đất sinh ra từ những mất mát câm lă ̣ng
của con người”. Bài thơ mang phẩm chất anh hùng ngay trong nỗi buồn. Sự có mă ̣t của
các từ Hán Việt cùng góp phần tạo nên thành công của thi phẩm.
Từ Hán Việt với đặc điểm chính là “nhòe về nghĩa, vang về ngữ âm, hạn chế về hoạt
động” (Nguyễn Phan Cảnh) trước hết có ý nghĩa tạo ra màu sắc trang trọng, cổ kính cho
thơ. Không phải ngẫu nhiên mà đoạn thơ thứ ba của Tây Tiến lại xuất hiện các từ Hán
Việt nhiều như vậy: đoàn binh, biên cương, viễn xứ, độc hành… Ta biết rằng, trong
những năm tháng cam go này, người lính Tây Tiến chết vì ốm, đói, bệnh tật nhiều hơn là
chết vì đánh trận. Nếu sử dụng các từ thuần Việt để dựng lại cảnh tượng này, e mạch thơ
lập tức sẽ rơi vào bi thương. Chính các từ Hán Việt đã làm cho cái màu sắc ảm đạm kia
bị đẩy lùi. Quang Dũng không dùng “đoàn quân” mà ông dùng đoàn binh vì đoàn binh
gợi lên khí thế “xung trận” sẵn sàng chiến đấu. Đă ̣c biệt, Quang Dũng có ý thức gợi
không khí để nhấn mạnh gam màu hùng tráng. Chi tiết “áo bào” là một chi tiết có khả
năng làm đẹp, làm sang để át đi một thực tế khắc nghiệt: những người lính khi hi sinh,
manh chiếu che thân cũng chẳng có. Nó bắc một chiếc cầu liên tưởng giúp người đọc
nhớ về một thời xưa, các anh hùng trượng phu thà chết nơi sa trường da ngựa bọc thây,
thà “một đi không về” coi cái chết nhẹ tựa lông hồng… Nương vào các hình ảnh có tính
“siêu mẫu” này chân dung đoàn binh Tây Tiến hiện lên thật lẫm liệt oai hùng.
Thêm nữa, sự có mặt của hệ thống từ thuần Việt: không mọc tóc, xanh, trừng, về đất,
gầm… là những từ đậm chất lính, bình dị, đã góp phần “tiếp sức” cho sự có mặt của hệ
thống từ Hán – Việt, tạo nên hiệu quả nghệ thuật đặc sắc, lấy cái bình dị để làm nổi bật
cái cao cả, lấy cái bình thường để diễn tả cái anh hùng. Trên nền của cái bi, cái tráng vẫn
xuất hiện như là yếu tố chủ đạo, tạo ra một sắc màu bi tráng độc đáo và ấn tượng. Chất
keo kết dính các thành tố đã nói ở trên chính là cường độ và trường hợp của một nỗi nhớ
chơi_vơi.
Như ta biết, thoạt đầu thi phẩm có tên là Nhớ Tây Tiến. Sau đó, Quang Dũng đã
bỏ từ nhớ. Điều này hoàn toàn hợp lí bởi lẽ toàn bộ bài thơ là một nỗi nhớ tràn đầy, tha
thiết. Các sắc độ của nỗi nhớ được thể hiện hết sức tài hoa. Mở đầu bài thơ đã là một
tiếng gọi, nỗi nhớ ùa về da diết và khắc khoải. Thán từ “ôi” trong câu thơ “Nhớ ôi Tây
Tiến cơm lên khói” cũng góp phần tạo hiệu suất biểu cảm cho ý thơ. Có khi nỗi nhớ lại
hiện lên qua các kỉ niệm đẹp như những nét vẽ thuỷ mặc:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ.

“Chiều sương” cũng chính là nền cảnh. Những câu thơ bảng lảng khói sương hoài
niệm. Nhưng đó là những kỉ niệm như được dấy lên từ tiềm thức, vì thế, nó đọng lại rất
sâu trong tâm tư người đọc.

Gắn với cảm hứng chủ đạo là cách thức tổ chức giọng điệu tài hoa. Âm chủ của
Tây Tiến là giọng điệu bi tráng. Nhưng vấn đề là ở chỗ, Quang Dũng đã tạo ra nhiều sắc
thái giọng điệu khác nhau để làm nổi bật giọng điệu chủ đạo. Cách tạo không khí cũng
hết sức đặc sắc. Khi thì người đọc cảm thấy căng thẳng bởi dốc cao, vực thẳm, khi lại
nhẹ nhõm bởi vẻ trữ tình của cảnh với những câu thơ toàn thanh bằng, khi vui tươi với
những đêm hô ̣i, khi lại bước vào mô ̣t không khí cổ kính trang nghiêm… Chính cách
thức tạo dựng không khí của nhà thơ đã giúp cho mạch thơ trở nên biến hóa, cảm xúc
như những đợt sóng dõi theo bước chân những người lính ra đi với linh thần “Thề quyết
tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cuối cùng, viê ̣c sử dụng cảm hứng và bút pháp lãng mạn để
tái hiê ̣n chân dung những chàng trai kiêu dũng, hào hoa đã đem đến vẻ đẹp của thi phẩm
Bút pháp lãng mạn thường hướng về những tương quan đối lâ ̣p, từ đó tô đâ ̣m
thêm vẻ đẹp phi thường, cao cả của đối tượng. Nếu như Chính Hữu viết về những chàng
vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp người lính bằng đôi
cánh lãng mạn. Cảm hứng lãng mạn đã đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của
hình tượng. Quang Dũng đã thể hiện một cách chân thực sự nồng nàn của cảm hứng
nhưng không quên đi cái khắc nghiê ̣t của hiện thực chiến tranh, Bởi thế, người lính
trong câu thơ ông nào có ”yêng hùng”, có ”mô ̣ng rớt”, ”buồn rớt” gì đâu. Thâ ̣m chí, nếu
thiếu đi cái chất lãng mạn, Tây Tiến cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích của nó.

NẮM LÁ NGÓN
Tô Hoài là một trong những nhà văn ưu tú của văn đàn Việt Nam. Nhưng tác phẩm của
ông thường là truyện ngắn và bút kí viết về thiên nhiên và đời sống thôn quê. Năm 1952,
trong chuyến đi dài tám tháng sống cùng đồng bào Tây Bắc, Tô Hoài đã cho ra tập
truyện “Tây Bắc”, đặc sắc với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” để rồi từ đó, hình tượng “lá
ngón”trở thành một trong những chi tiết nghệ thuật đặc trưng, mang nhiều tầng ý nghĩa
và để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm tưởng độc giả Việt Nam. Cũng như nhãn tự trong
một bài thơ, chi tiết nghệ thuạt có vị trí nghệ thuật vô cùng quan trọng đối với tác phẩm
văn xuôi, nó có thể thâu tóm linh hồn của tác phẩm. Và dù thời gian trôi qua, tác giả
không còn nữa thì khi nhắc đến chi tiết nghệ thuật liền nhớ lại nội dung tác phẩm. Điều
đó kể như không bỏ công người nằm xuống. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được sáng
tác khi Tô Hoài tham gia kháng chiến, căn cứ hoạt động ở miền cao Tây Bắc. Câu
chuyện là cuộc đời tủi nhục của Mị và A Phủ - hai mảnh đời có số phận bất hạnh gần
như nhau, đại diện cho những kiếp đời lầm than dưới ách thống trị tàn ác của bọn thực
dân phong kiến. Họ gặp nhau, tự giải thoát và tìm đến Cách mạng như một lẽ hiển nhiên,
biểu trưng cho con đường tìm đến Cách mạng, tìm đến giải phóng và tự do của đồng bào
miền cao Tây Bắc. Hình ảnh “lá ngón” xuất hiện ba lần trong tác phẩm và chỉ gắn liền
với nhân vật Mị - người con gái miền cao lương thiện, xinh đẹp, tài hoa nhưng cuộc đời
nhiều bất hạnh. Mị xuất hiện với hình ảnh mở đầu u ám: “Ai ở xa về...có một cô con gái.
Lúc nào cũng vậy,...mặt buồn rười rượi”. Đó cũng chính là phong cách của Tô Hoài: Đi
thẳng vào vấn đề, nêu ngay nhân vật. Sự xuất hiện ủ dột báo hiệu một thực tại không
tươi sáng. Sự hiện diện song song giưx “cô gái – tàu ngựa – tảng đá” cho thấy sự ngang
tầm giữa các chủ thể: “người và súc vật, súc vật và vô tri”. Hay đó cũng chính là ngầm ý
của tác giả muốn nói đến cái xã hội đương thời. Cái thực tại xám xịt này là hệ luỵ của
chế độ thực dân phong kiến thối tha, là kết cục bi thương của con người lành tính. Mị -
một cô gái miền cao đang tràn bung sức trẻ - ngay trong đêm tình hội xuân nồng nàn thì
cuộc đời màu hồng chấm dứt. Cô bị trói gô như súc nô, bắt về nhà thống lí Pá Tra “cũng
trình ma” như một món hàng. Người ta làm gì cuộc đời cô, thực sự lúc đó cô không biết,
mãi cho đến lúc A Sử đứng trước mặt bố cô tuyên bố đã cúng trình ma, thôi thì cô đã là
người nhà thống lí mất rồi! Một cú đánh ngã tự do, một cái rơi thật sự thẳng. Mị đi từ
cuộc đời đẹp như trong tranh xuống hố sâu của địa ngục – nơi mà kẻ khác sống bằng âm
thanh của tiếng than và hít thở hhơi mùi máu, mà mỗi bước đi là một nỗi tủi nhục đến tột
cùng. Mị sống không bằng chết, sống như một xác người trong kiếp cầm súc và rồi “có
áp bức có đấu tranh”. Cô tìm về cha già, tay cầm nắm lá ngón.

“Lá ngón” xuất hiện lần đầu tiên như một lối thoát đen. Đây là lối thoát ngắn và
hữu hiệu nhất. Nhưng lại là lối thoát cho những ai muốn chấm dứt hiện tại nghiệt ngã
chứ không phải lối thoát cho người muốn sang trang mới. Rõ ràng, đây là sự phản kháng
quyết liệt nhưng vô vọng – một hình thức phản kháng bị động. Và sự xuất hiện của “lá
ngón” lúc này mang tầm ý nghĩa tố cáo cao độ: Sự dã man của xã hội ép buộc con người
lương thiện đi tìm cái chết. Nó – lá ngón, cũng là hiện thân cho nỗi thống khổ của nhân
dân, cho những tích tụ đắng cay, đầy đau đớn và uất hận. Cô ném phịch xuống đất nắm
lá ngón mình tự tìm hái trong rừng như một sự chuẩn bị sẵn sàng trước đó, ném trong
nước mắt. Tự mình tìm đến lá ngón – độc dược của rừng xanh – đã là sự can đảm của
người con gái. Nhưng ném đi độc dược để tiếp tục sống khổ lại càng can đảm hơn. Đối
với Mị, thà chết đi hơn sống nhục, nhưng rồi lại thà sống nhục còn hơn bất hiếu. Chính
chữ hiếu là bản lĩnh cao đẹp nơi người con gái trẻ. Đoc cũng chính là nguyên nhân cốt
yếu cho sự can đảm bán mình chuộc cha của Vương Thuý Kiều trong “Đoạn trường tân
thanh” của đại thi hào Nguyễn Du. Cả hai người con gái tài năng, sắc diện và nhân phẩm
tuyệt vời, điều đó kết cục chung vì chế độ xấu xa mục rữa, những thiên hương vô phúc
sinh nhầm thời, những cánh hoa trôi dạt trong bão dữ. “Lá ngón” như vậy, đã mang một
tầng ý nghĩa nhân sinh tuy bản thân tượng trưng cho cái chết. Ta có thể nhìn thấy sự
kiên quyết và chút gì đó vụt sáng trong lòng Mị khi cô tìmđến lá ngón với ý nghĩ đã tìm
ra lối thoát. Nhưng đồng thời cũng nhận ra nỗi đớn lòng của cô khi thấy rằng chưa phải
lúc và lối thoát ấy một lần nữa tuột khỏi tầm tay.
Nhưng rồi cơn đau nào cũng phải qua đi đi sau thời hạn định. Mị trở về, tiếp tục
sống cho hết kiếp cùng mạt nhục nhã. Nhiều năm trôi qua, cha già – người thân duy nhất
cũng qua đời nhưng cái thôi thúc giải thoát trong ngực son nay đã tắt. Mị không còn
nghĩ đến đấu tranh, bởi lẽ sống hay chết đối với cô lúc này không quan trọng nữa và
đương nhên “lá ngón” cũng chẳng còn lảng vảng trong tâm trí đã ngủ quên. Đó chính là
sự xuất hiện lần thứ hai của “lá ngón” vì ở lần này, “lá ngón” xuất hiện bằng cách ra đi.
Lá ngón phai mờ tượng trưng cho sự ham sống đã nguội lạnh. Nỗi ám ảnh về cái chết
giờ đây không còn gặm nhấm tâm hồn cho sự tự do của lí trí. Nhưng đối với Mị, đó lại
là nỗi đáng sợ! “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Dần thay thế cho “phản kháng”
là “chấp nhận chịu đựng”. Một cô gái với bản lĩnh tự hái thuốc độc cho mình nay buông
xuôi chấp thuận. Cô buông xuôi không bởi cô chấp thuận, cô đông thuận mà sự thả trôi
kia là kết cục của cuộc tự đấu tranh trong đơn độc, dai dẳng cuối cùng kết thúc bằng sự
mỏi mệt và tuyệt vọng đổ ập xuống đôi bờ vai yếu ớt. Vậy ra, “lá ngón” kia đang ngầm
kêu thay tiếng đồng bào hướng về Cách mạng. Chẳng biết tự bao giờ, Mị quay cuồng
vào công việc nhà Pá Tra như một cái máy và cho tới khi trâu ngựa đã về chuồng, cô
vẫn còn đứng đó tiếp tục mãi không thôi. Lúc nào cũng vậy, ngồi một mình trong căn
buồng tối trông ra lôc vuông trắng đục chẳng biết “của sương hay nắng”, Mị luôn đăm
đắm một ánh nhìn. Ánh nhìn ấy vừa khát khao, vừa hồi tưởng. Nếu như xem lỗ vuông
nơi căn phòng là vách ngăn giữa lao tù và tự do, thì ít ra mỗi khi nhìn vào đó, Mị vẫn
còn chút gì khao khát sống. Còn đối với “lá ngón”, nghĩ đến nó là nghĩ đến cái chết và
chỉ khi Mị muốn kết liễu đời mình thì lá ngón lại là hình ảnh mặc định đầu tiên hiện ra.
Rồi đêm nay, đêm tình mùa xuân lại kéo đến – cái đêm tình tứ lứa đôi ngọt ngào, đêm
của những xúc cảm yêu thương được chuẩn bị trước bởi “những chiếc váy hoa phơi trên
mõm đá” hay đêm được tượng hình bởi tiếng sáo mê li. Đêm hội mùa xuân vẫn đến và
đi như hằng năm vẫn thế. Và năm nay, đến hẹn lại lên, đêm được chờ mong lại đến. Nó
đến vẫn với diện mạo xinh tươi và bản chất ngọt ngào. Vẫn rừng xanh đó, vẫn triền núi
xưa nhưng người đưa đã khác. Đêm xuân ny vắng bóng má đào. Tiếng sáo cũ vẫn cứ vô
tư bay đi cùng gió với mây, đi tìm người tình ngày nào lâu nay vắng bóng. Rồi như trách
oán, như không muốn đi, tiếng sáo ấy cứ réo mãi bên tai người con gái như lưu luyến,
tần ngần. Như một phép tiên, đôi môi tưởng chừng đã bị phong kín bởi thời gian nay
mấp máy điều gì! Gì thế kia? Hỡi ôi bài hát cũ – bài hát thiết tha dạo cùng khúc nhạc
rừng vàng. Hình ảnh ấy ôi thật xót xa. Người con gái làm say đắm biết bao chàng trai,
bông hoa của núi rừng hùng vĩ ngày nào biến mất đi trong đêm oan nghiệt. Để giờ đây
chỉ còn tiếng hát nhẩm ngày xưa. Mị đang hát, đang cố hát để kéo về những kí ức xúc
cảm vàng son. Sau không biết bao ngày sống kiếp nô lệ, Mị vẫn nhớ từng khúc nhạc
từng lời ca. Chứng tỏ trong cô, vàng son không khép. Quá khứ và thực tại là hai đỉnh trái
chiều và sống về quá khứ giữa thực tại tài nhẫn, Mị đang khao khát vô cùng, con tim cô
vẫn còn thổn thức. Kí ức kéo về tiếp theo cho Mị lòng can đảm, lòng can đảm tồn tại
khiến Mị muốn sống về kí ức và cô tìm đến rượu để tiếp tục lối đi trái chiều với thời
gian. Người ta uống rượu thì say, còn Mị càng uống càng tỉnh. Mị tỉnh bởi Mị nhớ lại
mình ngày xưa và đem so với mình hiện tại như chợt giật mình cho những gì bấy lâu xảy
ra với bản thân. Mị tỉnh bởi Mị nhớ lại những đối xử dã man của những kẻ đón mạt ấy
dành cho cô. Rồi cái ý thức cá nhân dâng lên mạnh mẽ mà một khi ý thức ấy đỉnh điểm
thì Mị lại càng không thể chấp nhận nhục nhã đớn đau trong cái cảnh “sống không ra
người” này đây. Sao Mị có thể?! Giải thoát! Tự do! Mị không thể tự do thể xác và... cô
sẽ tự do tâm hồn, và ... lá ngón một lần nữa xuất hiện. Ai cần cho ai và ai phụ thuộc ai?!
Khi Mị muốn giải thoát, Mị tìm tới lá ngón hay là khi Mị muốn chết, lá ngón lại hiện
về? “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn
nhớ lại nữa”. Càng nhớ càng buồn, càng buồn càng khổ. Thà chết đi cho xong chứ nhớ
lại làm chi khi mình bất khả kháng! Như vậy, lá ngón lại lần nữa xuất hiện với tầng ý
nghĩa giải thoát, giải thoát khỏi địa ngục trần gian. Địa ngục trần gian ở đây không đơn
giản là nỗi đau xác thịt và linh hồn khi bị hành hạ, mà địa ngục thật sự khi phải sống
trong lầm than với những hồi ức ngọt ngào cứ hiện hữu.Và “lá ngón” lại nâng tầm ý
nghĩa lên một nấc nữa, đó là “sự tự ý thức”. Đánh dấu sự trở lại của ý thức sống, đánh
dấu sự thức tỉnh của một tâm hồn tưởng chừng như đã “chết đi trong cõi sống”. Có lẽ
lần xuất hiện này của lá ngón là quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất. Bởi lẽ, Mị nghĩ đến lá
ngón với sự cương quyết tột cùng, trạng thái phẫn nộ và ý thức rõ nhất vì giờ đây, cô
không còn cái gì để hối tiếc, để luyến lưu. Tuổi xuân đầu đời – thời gian đẹp nhất – nay
đã hết, cha già – nguồn yêu thương vô tận cũng không còn. Lòng Mị nay là cõi chết. Lá
ngón đối với nàng không là liều thuốc độc, mà trở thành thứ phương tiện, hình thức, con
đường để đi đến một bến bờ khác không còn đớn đau, để phản kháng lại cái xã hội
đương thời mạt hạn. Mị tìm đến lá ngón là tìm đến cái chết như một sự tự cứu và phản
kháng. Ta bắt gặp trong văn học những cảnh ngộ bi thương tương tự: Thuý Kiều trong
“Đoạn trường tân thanh” đã tự vẫn, dù không thành, để bảo quản chữ “tiết”, không chấp
nhận nhơ nhuốc tấm thân, không thể tiếp tục tồn tại với xã hội bẩn thỉu; Chí Phèo, có lẽ
vì là bậc nam nhân nên cái chết của Chí diễ ra có phần chủ động và tác động lớn. Vì anh
tự tay đâm chết bá Kiến – tượng trưng cho việc kết thúc cuộc đời dưới đáy xã hội mục
ruỗng và tự tay kết liễu đời mình – như thể làm con người đúng nghĩa, dù cái “bắt đầu”
đó cũng là dấu chấm hết của anh. Cùng thuộc mô típ nhân vật mang số phận bi đát,
những con người đáng quý trọng nhưng “sinh bất phùng thời”, Mị là hình ảnh của đồng
bào miền cao Tây Bắc sống kiếp nô cầm trong xã hộ của bọn thực dân phong kiến, cũng
như đ ồng bào miền xuôi hay khắp mọi miền đất nước khi ánh sáng cách mạng chưa kịp
soi sáng. Mị cũng có sự tự tôn của mình, nhưng để bảo vệ sự tự tôn ấy, cô đã chọn lá
ngón. Và có lẽ, đó là lẽ đương nhiên đối với một cô gái đơn độc có tâm hồn quá sáng
trong nhưng vị thế lại quá nhỏ nhoi, nhất là khi ánh sáng cách mạng chưa thể rọi đến
Hồng Ngài xa xăm. Xuất sắc chấm màu xanh lá ngón vào bức tranh xô bồ của thời cuộc,
Tô Hoài đã đưa “lá ngón” từ chỗ độc dược ngàn đời của núi rừng, là cái chết từ thiên
nhiên, nay bỗng nhiên lại là sự giải thoát. Lá ngón xuất hiện ba lần với ba tầng ý nghĩa
ngày càng sâu sắc hơn, dữ dội hơn. Cái độc của lá ngón vậy ra vẫn còn thua cái độc của
xã hội. Lá càng độc là đớn đau đồng bào chịu càng nhiều. Lá ngón trở thành dấu hiệu
báo động cho sự khẩn thiết, cầu cứu của đồng bào miền cao đối với Cách mạng còn quá
xa và cũng chính là tư tưởng nhân đạo cao đẹp mà tác giả muốn gửi gắm đến chúng ta
qua hồn thiêng gió núi của đại ngàn Tây Bắc xa xăm!
TIẾNG SÁO ĐÊM XUÂN

Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, nếu tục cúng trình ma là một hủ tục ám ảnh đời
sống tâm linh của người dân Tây Bắc, thì tiếng sáo gọi bạn tình lại trở thành một nét đẹp
văn hóa trong đời sống sinh hoạt và đời sống tinh thần của con người nơi đây. Tiếng sáo
xuất hiện trong thiên truyện lúc văng vẳng từ xa, có khi vọng lại thiết tha, bổi hổi, lúc
lửng lơ bay ngoài đường, lúc lại rập rờn trong đầu Mị. Tiếng sáo làm nên một miền
không gian êm dịu, nên thơ thuộc về thế giới tâm hồn đẹp đẽ của nhân vật Mị. Trong lời
bài hát của người thổi sáo có khát vọng tự do và tình yêu của trai gái người Mèo:

Mày_có_con_trai_con_gái_rồi
Mày_đi_làm_nương
Ta_không_có_con_trai_con_gái
Ta_đi_tìm_người_yêu.

Và cả những ước hẹn buông lơi

Anh_ném_pao_em_không_bắt
Em_không_yêu_quả_pao_rơi_rồi…
Em_không_yêu,_quả_pao_rơi_rồi.
Em_yêu_người_nào,_em_bắt_pao_nào...

Với ý nghĩa đó, tiếng sáo đã trở thành một sợi dây tóc phát sáng, khi nó là một chi tiết
nghệ thuật gắn với cuộc đời, số phận của nhân vật Mị, là hiện thân thế giới tâm hồn đẹp
đẽ của cô gái người HMông này. Mị từng là một cô gái trẻ, đẹp. Tết đến trai đến đứng
nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị. Ngày đó, Mị thổi sáo giỏi. Mị uốn chiếc lá trên môi
thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.
Nhưng vì món tiền mà bố mẹ Mị đã vay của nhà thống lí Pá Tra chưa trả được nên Mị bị
bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí. Từ đây, Mị sống cuộc sống tủi cực, thê
thảm. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Mị âm thầm như một cái bóng Mỗi ngày Mị
càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Nhưng rồi, mùa xuân Hồng Ngài
mang theo màu sắc, âm thanh và sự rộn rã đã đánh thức sức sống tiềm tàng ở cô gái
sống mà như đã chết ấy. Quá trình thức tỉnh của Mị gắn liền với sự vọng về của tiếng
sáo. Tiếng sáo trở thành chất xúc tác mạnh mẽ lay tỉnh một tâm hồn ngủ yên trong đêm
lặng với sự ám ảnh của bóng ma. Lần đầu tiên tiếng sáo xuất hiện trong tác phẩm cũng
là lần đầu tiên sau bao ngày dài câm nín ở nhà thống lí Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết
tha bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát người đang thổi. Tiếng sáo đã làm rung lên cảm
xúc trong tâm hồn Mị - sự thay đổi đó chứng tỏ hồn Mị chưa chết hẳn. Mị đang sống lại,
lòng Mị đã có sợi dây xúc cảm. Mị đang sống với giai điệu, với ý nghĩa lời bài hát người
đang thổi. Trong không khí đón tết, nhìn cảnh người nhảy đồng, người hát, có thêm cái
nồng nàn của rượu, khi Mị uống ực từng bát, tiếng sáo đã đưa Mị về quá khứ, lòng Mị
thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Từ đây, tiếng
sáo thức dậy khát vọng sống, sức sống trong Mị, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng
đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị
muốn đi chơi. Nghĩ đến cảnh A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với
nhau, trong Mị xuất hiện suy nghĩ Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho
chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra. Như vậy là,
Tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường kia chính là tấm gương soi hắt lại để Mị
nhìn rõ hơn về cuộc sống hiện tại của mình. Mị đã muốn chết ngay, nghĩa là Mị đã
không chấp nhận hoàn cảnh, Mị đang muốn phản kháng lại hoàn cảnh. Đây là điều hoàn
toàn khác với Mị lầm lũi suốt bao tháng ngày trong nhà thống lí trước đây. Nhìn thấy A
Sử chuẩn bị đi chơi, Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một
miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng - Mị muốn thắp sáng thêm khát vọng sống mới
nhen nhóm tìm về. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Tiếng sáo vẫy gọi Mị, thôi thúc
Mị. Điệp khúc Mị muốn đi chơi một lần nữa bùng lên . Mị cũng sắp đi chơi. Ngay sau
đó, hàng loạt các hoạt động diễn ra một cách nhanh chóng, Mị quấn lại tóc, Mị với tay
lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách, như thể Mị đang thực hiện hành động giải phóng
cho mình, cởi bỏ khỏi sự trói buộc của con ma nhà thống lí, thoát khỏi căn buồng kín
mít của Mị - căn buồng chỉ có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào
trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Thế rồi khát vọng ấy
mới được nhen nhóm, ngay lập tức đã bị A Sử chặn đứng. A Sử đã nắm Mị, lấy thắt
lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị
xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu
nữa. Nhưng sự thực, A Sử chỉ có thể trói được thân xác Mị, còn tâm hồn Mị vẫn hoàn
toàn tự do. Mị vẫn sống trọn vẹn trong thế giới của riêng mình, Trong bóng tối, Mị đứng
lặng im, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn. Mị vẫn nghe tiếng
sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Như vậy, tiếng sáo là chất xúc tác
làm thay đổi tâm lí nhân vật Mị, giúp người đọc nhận ra sức sống tiềm tàng ở Mị, một
sức sống mãnh liệt không gì có thể hủy diệt được.
Chi tiết tiếng sáo đã giúp nhà văn Tô Hoài khám phá ra vẻ đẹp tâm hồn Mị, khẳng định
được sức sống bất diệt của con người. Có thể xem, tiếng sáo là chi tiết nghệ thuật đẹp,
giàu sức gợi, ám ảnh người đọc. Nhân vật Mị trong hoàn cảnh này làm ta liên tưởng đến
quá trình thức tỉnh của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam
Cao. Những nhà văn lớn vẫn thường là những nhà nhân đạo chủ nghĩa. Cả Nam Cao và
Tô Hoài đều là những nhà văn như thế.
CĂN BUỒNG MỊ NẰM

Sống gắn bó nghĩa tình cùng mảnh đất Tây Bắc, với sở trường quan sát những nét riêng
về phong tục văn hóa của những con người nơi cao nguyên đá mờ sương ấy, Tô Hoài đã
khắc họa được những chi tiết nghệ thuật đặc sắc góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm
và góp thêm nét vẽ riêng vào bức tranh Tây Bắc.

Với gam màu xám lạnh, u tối, Tô Hoài đã cho người đọc cảm nhận được không
gian sống của Mị: “Mỗi ngày, Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
Căn buồng Mị nằm kín mít, chỉ có ô vuông bằng bàn tay trông ra chỉ thấy trăng trắng,
không biết là sương hay là nắng. Mị cứ ngồi đấy mà trông ra ngoài, đến khi nào chết thì
thôi”. Đây là chi tiết nằm ở phần giữa tác phẩm, miêu tả không gian sống của Mị ở nhà
thống lí Pa Tra. Sau ý định tìm lá ngón tự tử không thành vì thương cha, Mị dập tắt ngọn
lửa lòng về nhà thống lí và tiếp tục chôn vùi tuổi xuân của mình trong địa ngục trần gian
đó. Căn buồng ấy kín mít, có ô vuông bằng bàn tay. Hình ảnh đó giàu sức gợi, khiến
người ta liên tưởng đến nhà tù, một thứ ngục thất đang giam hãm đời Mị. Đó là một
không gian nhỏ bé, trơ trọi đối lập với cái mênh mông, rộng lớn của đất trời Tây Bắc.
Cái ngột ngạt, tù túng trong căn buồng Mị nằm đối lập với một thế giới bên ngoài lồng
lộng của mây trời, gió núi, của hương hoa rừng Tây Bắc, nó đối lập với cái giàu có, tấp
nập của nhà thống Lí Pá Tra. Nó không phải là căn buồng của cô con dâu nhà giàu có
nhiều tiền nhiều thuốc phiện nhất vùng mà đó là chỗ ở của con ở, thậm chí không bằng
con ở. Căn buồng ấy giống như một miền đời bị quên lãng

Trong căn buồng ấy, chân dung số phận khổ đau của đời Mị được nhà văn khắc họa thật
rõ nét: Mị sống câm lặng như đá núi “ không nói”, lầm lụi, chậm chạp trơ lì như “ con
rùa” quẩn quanh nơi xó cửa. Nếu ở trên, Mị có lúc tưởng mình là “con trâu con ngựa” –
nhưng hình ảnh đó mới chỉ gợi nỗi khổ cực vì lao động vất vả thì hình ảnh “ con rùa” có
sức ám ảnh mang ý nghĩa về thân phận bị đè nén, bị bỏ quên. Mị mất hết ý niệm về
không gian, thời gian: chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Cuộc sống
của Mị không có sắc màu, âm thanh, không có cả ngắn dài thời gian, không chia biệt
đêm ngay.

Không chỉ có thể, Mị còn không có ý thức về sự sống đợi đến bao giờ chết thì thôi. Phải
chăng thứ ngục thất tinh thần ấy đã làm héo mòn, tàn úa từng ngày từng tháng tâm hồn
Mị. Mị sống như loài thảo mộc cỏ cây không hương không sắc, lay lắt, dật dờ, vô hồn,
vô cảm. Không còn nữa một cô Mị đẹp như đóa ban trắng của núi rừng Tây Bắc vừa
thắm sắc, đượm hương, một người cô Mị khao khát tình yêu và tự do có ý thức sâu sắc
về quyền sống, từng thiết tha xin cha “ đừng gả con cho nhà giàu”, từng có ý định ăn lá
ngón là kết thúc chuỗi ngày sống mà như chết. Như vậy, vượt lên trên nghĩa tả thực về
không gian sống của MỊ, căn buồng ấy là biểu tượng cho ngục thất tinh thần, địa ngục
trần gian giam cầm khát vọng sống, khát vọng tự do của đời Mị.

Chi tiết đó đã góp phần thể hiện tư tưởng, thái độ của nhà . Nhà văn đã tố cáo sâu sắc
chế độ cai trị miền núi đã đầy đọa con người, làm tê liệt quyền sống, quyền khao khát
hạnh phúc của họ. Đồng thời, Tô Hoài bày tỏ tấm lòng xót xa thương cảm cho số phận
người phụ nữ vùng núi cao Tây Bắc khi Cách mạng chưa về. Đó cũng là cảm hứng nhân
đạo quen thuộc trong văn học

Nếu hình ảnh căn buồng Mị nằm là một trong những chi tiết có sức ám ảnh ở truyện
ngắn Vợ chồng A Phủ nhất thì hình tượng tiếng sáo đêm tình mùa xuân lại có sức quyến
rũ lòng người nhất. Hình tượng tiếng sáo nằm ở phần giữa tác phẩm, ngòi bút Tô Hoài
đã rất dụng công để miêu tả những thanh âm của tiếng sáo vùng núi cao Tây Bắc trong
đêm tình mùa xuân. Sau những chuỗi ngày sống chỉ mang ý nghĩa của sự tồn tại,tê liệt,
chai lì cái nồng nàn của lửa, của men rượu, cái tươi vui chộn rộn của mùa xuân Hồng
Ngài đã đánh thức tâm hồn Mị, tiếng sáo đã vọng đến đôi tai Mị. Tiếng sao được miêu tả
từ xa đến gần, với những cung bậc khác nhau: khi tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, tiếng
sáo văng vẳng gọi bạn đầu làng, tiếng sáo lửng lơ bay ngoài đường, trong đầu Mị , rập
rờn tiếng sáo, tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi

Trước hết, đây là chi tiết có ý nghĩa tả thực về nét đẹp văn hóa của miền núi cao Tây
Bắc, khiến người ta liên tưởng đến âm thanh quen thuộc, gần gũi của núi rừng trong
những đêm xuân ở Hồng Ngài. Nếu Tây Nguyên có tiếng cồng, tiếng chiêng âm vang
khắp bản làng, rừng núi, nếu miền quê đồng bằng Bắc Bộ có tiếng trống chèo, tiếng hát
giao duyên, tiếng đàn bầu thánh thót thì với những người dân Tây Bắc, họ vốn ít nói,
kiệm lời, họ gửi lòng mình vào tiếng khèn, tiếng sáo, tiếng kèn môi, thổi lá để trao gửi
tâm tình, để mời gọi bạn yêu. Tiếng sáo vang lên với những cung bậc khác nhau, khi xa
khi gần, khi trầm bổng khoan thai, khi rập rờn, khi lấp ló…Âm thanh tiếng sao vang lên
những ca từ mộc mạc thể hiện lẽ sống hồn nhiên, yêu đời, phóng khoáng của những con
người nơi đây “ Mày có con trai, con gái ta đi tìm người yêu…”. Tiếng sáo mang đến
chất thơ, làm dịu mát cuộc sống trăm đắng ngàn cay với nỗi đời cơ cực của con người
nơi đây, khiến mảnh đất Tây Bắc vốn xa lạ, hoang vu trở nên gần gũi, thơ mộng.
Không dừng lại ở ý nghĩa tả thực, chi tiết tiếng sáo góp phần diễn tả vẻ đẹp tâm hồn Mị
trong đêm tình mùa xuân. Tiếng sáo lay thức tâm hồn Mị, khiến lòng Mị thiết tha, bổi
hồi, nhẩm thầm bài hát của người đang thổi và những kí ức đẹp đẽ nồng nàn của người
con gái đã trở về. Tiếng sáo đã làm bừng lên khát vọng sống, Mị ý thức hiện tại mình
vẫn còn trẻ, Mị ý thức về quyền hạnh phúc “ Mị muốn đi chơi”, Mị sửa soạn vào nhà…
Tiếng sáo khiến Mị quên đi thực tại khổ đau: khi Mị định ăn lá ngón để chết ngay chứ
không muốn nghĩ về ngày trước nữa thì tiếng sáo lửng lơ ngoài đường lại đưa Mị trở về
với niềm khát sống, khi bị trói đứng cả đêm, tâm hồn Mị vẫn bay bổng cùng tiếng sáo,
tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi. Nếu căn buồng Mị nằm biểu tượng cho thứ ngục
thất tinh thần giam hãm đời Mị, thì hình tượng tiếng sáo trở thành biểu tượng đẹp đẽ cho
khát vọng tự do, khát vọng sống, khát vọng tình yêu trong tâm hồn Mị.
Chi tiết góp phần thể hiện tư tưởng, thái độ của nhà văn và thành công của ngòi bút Tô
Hoài. Đó là tấm lòng nâng niu trân trọng của nhà văn đối với nét đẹp văn hóa của và vẻ
đẹp tâm hồn con người Tây Bắc. Chi tiết giàu chất thơ, lai láng dư vị trữ tình có sức
sống lâu bền trong tâm hồn người đọc.
CÁC CHI TIẾT ĐẮT GIÁ

+ SỰ XUẤT HIỆN CỦA MỊ Ở ĐẦU TÁC PHẨM

“Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pa Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi
quay sợi gai bên tảng trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ
ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn
rười rượi”. Chỉ với hai câu văn giản dị ấy thôi, bản chất sự vật đã hiện lên khá rõ nét.
Câu văn cũng như dài thêm ra để đọc giả lĩnh hội một cách thấu đáo. Vị trí của Mị xuất
hiện đã nói lên tất cả “ ngồi quay sợi bên tảng đá, cạnh tàu ngựa”. Còn hình ảnh nào đắt
hơn chi tiết đó? Con người ngang hàng với những vật vô tri, thậm chí gắn liền với
chúng. Với cái cúi mặt và nét buồn rười rượi chứa đựng nhiều nỗi vất vả, người đọc như
xót xa, cảm thông cho nhân vật nhưng cũng không khỏi tò mò về cuộc đời của người
phụ nữ ấy.

+ DÒNG NƯỚC MẮT A PHỦ

- Do sơ ý để hổ bắt mất bò, A Phủ bị thổng lí Pá Tra trói đứng, bỏ mặc cho đói rét suốt
mấy đêm liền giữa kì sương muối khắc nghiệt ở Hồng Ngài, còn Mị sau bao năm bị đọa
đày cùng cực cũng đã trở nên chai lì. Những đêm trước, tuy vẫn trở dậy thổi lửa, hợ tay,
nhìn thấy A Phủ bị trói nhưng Mị chỉ dửng dưng, vô cảm. Đêm ấy, trong nỗi bất lực, bế
tắc và hoàn toàn tuyệt vọng, A Phủ đã khóc, đúng lúc đó, Mị nhìn sang và bắt gặp dòng
nước mắt của A Phủ.
- Trực tiếp bộc lộ những cảm xúc: đau đớn, tuyệt vọng... trong hoàn cảnh cùng đường
của A Phủ
- Tạo ra bước ngoặt quan trọng trong tâm lí nhân vật Mị
- Thúc đẩy xung đột truyện lên đến cao trào, là đầu mối của một loạt những hành động
bất ngờ làm thay đổi cuộc đời các nhân vật, vừa tạo sự vận động, phát triển của tính cách
nhân vật vừa tạo sự vận động cho cốt truyện.
- Góp phần thể hiện giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm
- Thể hiện biệt tài phân tích tâm lí nhân vật của Tô Hoài
+ CÂU HÁT

Những câu hát này Mị không nghe trực tiếp, nó là lời Mị tự "nhẩm thầm” khi
nghe tiếng sáo. Và một điều không phải ngẫu nhiên: chúng đều là lời ca của những
người đang yêu hoặc đang đi tìm tình yêu, thể hiện khát vọng tình yêu - đặc biệt là khát
vọng tình yêu tự do (hãy chú ý từ thể chủ động: "ta đi tìm người yêu, cô gái không yêu
có quyền từ chối bắt pao, cô có quyền lựa chọn: "em yêu người nào, em bắt pao nào”...).
Trước khi về nhà thống lí, Mị từng có một thời tuổi trẻ say mê theo tiếng sáo, theo lời
hát. Và Mị đã từng yêu. Mị về nhà thổng lí với thân phận con dâu gạt nợ, bị cầm tù trong
một cuộc hôn nhân ép buộc: "A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với
nhau Chính những lời ca đẹp cùng với tiếng sáo, chứ không phải chỉ bản thân tiếng sáo –
đã gọi về quá khứ hạnh phúc gắn với tình yêu, tuổi trẻ, từ đó thổi bùng dậy khao khát
yêu và sống trong tâm hồn Mị. Làm phép giả định ngược lại, nếu đó chỉ là những lời ca
buồn, tiếng than não nuột cho thân phận thì có thể nhận được đồng cảm nhưng chưa
chắc đã làm bừng lên khát vọng sống trong nhân vật.

– Về nghệ thuật: cùng với tiếng sáo, những câu hát góp phần thúc đẩy, tạo bước ngoặt
trong diễn biến tâm lí của Mị. Chúng cũng tạo nên sắc thái trữ tình, chất thơ cho tác
phẩm. "Chất Tây Bắc” rất riêng của vợ chồng A Phủ không chỉ được gợi ra từ cảnh sắc
thiên nhiên, phong tục, Con người... mà còn từ chính những lời ca như thế.
Đề ra: Phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống ở các nhân vật:
Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân).
--------
BÀI LÀM

Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân – một nhà văn
hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần
hậu phong thủy” ấy. Ngay sau cách mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết “Xóm
ngụ cư”. Khi hòa bình lập lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên
truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn “Vợ nhặt” đã ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã
thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn
tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống của những người
nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện
rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có khám
phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ

Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về
sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những
con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn
cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái
chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hy vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống,
sống cho ra con người”. Và điểm sáng mà nhà văn muốn đem vào tác phẩm chính là ở
chỗ đó. Đó chính là tình người và niềm hy vọng về cuộc sống, về tương lai của những
con người đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng nên tình huống
“nhặt vợ” tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế
và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự
chọn lọc kỹ lưỡng ấy, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt ta một không gian năm đói thật
thảm hại, thê lương. Trong đó ngổn ngang những kẻ sống, người chết, những bóng ma
vật vờ, lặng lẽ, giữa tiếng khóc hờ và tiếng gào thét kinh hoàng của đám quạ. Bằng tấm
lòng đôn hậu chân thành, nhà văn đã gửi gắm vào trong không gian tối đen như mực ấy
những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương
bình dị nhưng rất đỗi cao quí ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người
vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới cùng đám người đói
phá kho thóc Nhật ở những câu cuối cùng của thiên truyện
Có thể nói rằng, Kim Lân đã thật xuất sắc khi dựng lên tình huống “Nhặt vợ” của anh cu
Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn
mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của
một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bòng thêm người này, người kia. Trong tình
huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỷ hơn là vị tha và người ta rất dễ đối xử tàn
nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược
lại như ở các nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Chúng ta từng kinh hãi
trước “xác người chết đói ngập đầy đường” “người lớn xanh xám như những bóng ma”
trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi ngây của xác người”, từng ớn lạnh
trước “tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết” ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm
lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ
và cả người vợ của Tràng nữa. Một anh thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng,
một con người – một thân xác vạm vỡ, lực lưỡng mà dường như ngờ nghệch thô kệch và
xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp. “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc
nào”, vậy mà Tràng vẫn đèo bòng một cô vợ trong khi anh không biết cuộc đời phía
trước mình ra sao. Tràng đã thật liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy
gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật có lý và xót thương vô cùng. Và
dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng
yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa đựng một ao ước thiết thực
về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù
vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điều ấy cũng hé mở
cho ta thấy tình cảm của một con người biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc những
người đồng cảnh ngộ. Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã “sờ sợ”,
“ngờ ngợ”, “ngỡ ngàng” như không phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố
và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia đình trong hắn. Tình
nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tính. Từ một anh
chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cộc cằn, Tràng đã sớm trở thành một người chồng thật sự khi
đón nhận hạnh phúc ấy như một cái gì đó cứ “ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa
hồ như có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”. Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến “Trong một lúc
Tràng dường như quên đi tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng
ngày đã qua”. Và Tràng đã ước ao hạnh phúc mạch sống của một người đàn ông trong
Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi thật bất ngờ nhưng rất hợp lôgích. Những thay
đổi ấy không gì khác ngoài tâm hồn đôn hậu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao?
Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ.
Tràng không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu, một
người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước
nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc, “Hắn thấy hắn yêu
thương căn nhà của hắn đến lạ lùng”, “Hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con
sau này”. Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn dẹp nhà cửa. Hành động, cử chỉ ấy ở Tràng đâu
chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự biến chuyển lớn. Chính tình yêu của người
vợ, tình mẹ con hoà thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin
vào cuộc sống sẽ đổi thay khi hắn nghĩ đến đám người đó và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi
số phận, cuộc đời của hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin
thế.

Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi
để đón chờ ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước, trước sức mạnh của cách
mạng. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các
nhân vật của mình. Người Vợ Nhặt không phải ngẫu nhiên xuất hiện trong thiên truyện.
Thị xuất hiện đã làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nàn, tăm tối ấy, đã làm
cho những khuôn mặt hốc hác, u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên. Từ con người chao
chát chỏng lỏn đến cô vợ hiền thục, đảm đang là cả một quá trình biến đổi. Điều gì làm
Thị biến đổi như thế. Đó chính là tình người, là tình thương yêu. Thị tuy theo không
Tràng về chỉ qua bốn bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng
chúng ta không khinh miệt Thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân
phong kiến kia bóp nghẹt quyền sống con người. Thị xuất hiện không tên tuổi, quê quán,
trong tư thế “vân vê tà áo đã rách bợt”, điệu bộ trông thật thảm hại nhưng chính con
người lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến
không khí gia đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, nguồn sinh khí ấy chỉ có
được khi trong con người Thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự
sống, vào tương lai. Thị được miêu tả khá ít song đó lại là nhân vật không thể thiếu đi
trong tác phẩm. Thiếu Thị Tràng vẫn chỉ là anh Tràng của ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng
thầm trong đau khổ, cùng cực. Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật này
để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin ở cuộc đời phía
trước trong những con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khi nói về ước vọng ở
tương lai, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng
và người vợ nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét độc đáo vô cùng tình cảm, ước
vọng ở cuộc đời ấy lại được tập trung miêu tả khá kỹ ở nhân vật bà cụ Tứ. Đến nhân vật
này, Kim Lân tỏ rõ ngòi bút vững vàng, già dặn của mình trong bút pháp miêu tả tâm lý
nhân vật. Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này,
tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm,
Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ
cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường đặt nhân vật vào
một tình thế thật căng thẳng. Qua đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng không
những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay chính trong nội tâm của nhân vật ấy.
Bà cụ Tứ là một điển hình. Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức
người mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của
một người đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ
ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã “cúi đầu nín lặng”. Cử chỉ, hành động ấy chất chứa bao tâm
trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hòa lẫn
vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang
“vân vê tà áo đã rách bợt” mà “lòng đầy thương xót”. Bà thiết nghĩ “Người ta có gặp
bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ”. Và
thật xúc động bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng:

“Thôi, chúng mày phải duyên, phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”.

Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé
trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không
phải là vật cản lớn nữa. Đói rét thật nhưng trong lòng bà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu
thương chân thành. Bà thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình. Bà
cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không ngừng bùng cháy lên ngọn lửa
của tình người. Bà đã giang tay đón nhận đứa con dâu, lòng đầy thương xót, trong tủi
cực những vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khổ ấy,
ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân loại ấy bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong
bóng tối của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con
mình niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà,
rồi việc sinh con đẻ cái, bà lão nói toàn chuyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm
hại ấy. Bà đã đón nhật hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình. Đặc biệt chi tiết
nồi chè cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người. Nồi chè cám
nghẹn bứ cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu
thương. Bà lão lễ mễ bưng nồi chè và vui vẻ giới thiệu. “Chè khoai đây ngon đáo để cơ”.
ở đây nụ cười đã xen lẫn nước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cuối thiên truyện
không khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ
song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn ở những con người bình thường và đáng quý
ấy.
Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong
đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành công ở ba
nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hy
vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở những thân phận nghèo đói, thảm hại kia.
Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ
chính là những điểm sáng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao
cho độc đáo một đề tài không mới. Tác phẩm đã thể hiện thành công nghệ thuật miêu tả
tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân – một nhà văn được
đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.

“Cái đẹp cứu vớt con người” (Đôtôiepki). Vâng, “Vợ Nhặt” của nhà văn Kim Lân thể
hiện rõ sức mạnh kỳ diệu ấy. ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là
nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã đóng góp cho văn học Việt
Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình
người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn bạn đọc chính là ở
điểm sáng tuyệt vời.

You might also like