You are on page 1of 33

TRƯỜNG THPT CHUYÊN LỚP 12 VĂN

NGUYỄN BỈNH KHIÊM


🙞·🙜·🙞·🙜

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA


Nguyễn Minh Châu

Người thực hiện: Tổ 3 VK16

Tam Kỳ, ngày 27 tháng 2 năm 2020


🙜·🙞
NỘI DUNG KHAI THÁC:

1. Giới thiệu tác giả Nguyễn Minh Châu. (Nhật Lan)


2. Giới thiệu tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.(Mỹ
Duyên)
3. Phân tích hình ảnh chiếc thuyền.(Hồng Uyên)
4. Phân tích nhân vật Phùng.(Mai Loan)
5. Quan niệm về nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu
qua hành trình nhận thức của nhân vật Phùng.
(Thùy Trang)
6. Phân tích nhân vật người đàn bà.(Diệu Vi)
7. Phân tích nhân vật người đàn ông.(Thùy Trang)
8. Nhận thức của Nguyễn Minh Châu về cuộc sống và
con người.(Quỳnh Nga)
9. Nghệ thuật của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.
(Phương Thảo)
10.Giá trị nhân đạo của tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài xa”. (Tú Uyên)
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ
I. Cuộc đời:
Nguyễn Minh Châu (20 tháng 10 năm 1930 – 23 tháng 1 năm 1989) là một
nhà văn có ảnh hưởng quan trọng đối với văn học Việt Nam trong giai đoạn
chiến tranh Việt Nam và thời kỳ đầu của đổi mới. Nguyễn Minh Châu quê ở
làng Văn Thai, tên nôm là làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh
Nghệ An. Năm 1945, ông tốt nghiệp trường Kỹ nghệ Huế với bằng Thành
chung. Tháng 1 năm 1950, ông học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng tại
Nghệ Tĩnh và sau đó gia nhập quân đội, học ở trường sĩ quan lục quân Trần
Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến 1956, ông công tác tại Ban tham mưu các tiểu
đoàn 722, 706 thuộc sư đoàn 320. Từ năm 1956 đến 1958, Nguyễn Minh Châu
là trợ lý văn hóa trung đoàn 64 thuộc sư đoàn 320. Năm 1961, ông theo học
trường Văn hóa Lạng Sơn. Năm 1962, Nguyễn Minh Châu về công tác tại phòng
Văn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông được kết
nạp vào Hội nhà văn Việt Nam năm 1972.
II. Sự nghiệp:
Với hai chặng đường sáng tác ở hai giai đoạn văn học trước và sau 1975,
Nguyễn Minh Châu có những đóng góp to lớn cho nền văn học hiện đại. Các
tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trước 1975 khá tiêu biểu cho
thành tựu, đặc điểm và giới hạn của nền văn học sử thi thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ. Đặc biệt, sau 1975 Nguyễn Minh Châu là một trong những “người
mở đường tinh anh và tài năng nhất” (Nguyên Ngọc) của công cuộc đổi mới văn
học. Ở Nguyễn Minh Châu, sự đổi mới mạnh mẽ trong ý thức nghệ thuật luôn đi
liền với những tìm tòi đổi mới trong sáng tác của nhà văn. “Với sự dũng cảm rất
điềm đạm” (Vương Trí Nhàn), ông đã kiên trì dẫn bước trên con đường đã chọn
của mình. Và ông xứng đáng là “người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền
văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ sau
này”. (Nguyễn Khải). Những đóng góp của Nguyễn Minh Châu trong vai trò
người mở đường đã mở ra những khai phá táo bạo cho công cuộc đổi mới văn
học.
Các sáng tác của Nguyễn Minh Châu: Năm 1960, Nguyễn Minh Châu viết
truyện ngắn đầu tay Sau một buổi tập. Trong sự nghiệp sáng tác kéo dài ba thập
kỷ (1960-1989), khép lại với chuyện vừa Phiên chợ Giát viết năm 1989, ông để
lại 13 tập văn xuôi và một tiểu luận phê bình. Các tác phẩm chính của ông là
Cửa sông (tiểu thuyết, 1966), Những vùng trời khác nhau (truyện ngắn, 1970),
Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972), Miền cháy (tiểu thuyết, 1977), Lửa từ
những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977) Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành
(truyện ngắn, 1983), Bến quê (truyện ngắn, 1985), Mảnh đất tình yêu (tiểu
thuyết, 1987), Cỏ lau (truyện vừa, 1989)...
III. Phong cách sáng tác:
1. Thời kỳ trước 1975: Nhà văn với cảm hứng sử thi- anh hùng ca:
Là nhà văn mặc áo lính, Nguyễn Minh Châu ý thức sâu sắc về sứ mệnh cao
cả, nhiệm vụ thiêng liêng của người cầm bút trong giai đoạn khốc liệt nhất của
cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Tâm niệm sáng tác duy nhất của ông lúc
này là hướng đến cuộc chiến đấu vì sự sống còn của cả dân tộc, đất nước. Do
vậy, nhà văn đã dành gần hai chục năm sung sức của cuộc đời để tìm tòi, khám
phá, thành tâm và say sưa ngợi ca vẻ đẹp lung linh, kỳ ảo của cuộc sống và tâm
hồn con người trong chiến tranh.
Với quan niệm nghệ thuật về con người: “Mỗi con người đều chứa đựng
trong lòng những nét đẹp đẽ kỳ diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ để
nhận thức khám phá tất cả những cái đó”, hành trình sáng tạo của Nguyễn Minh
Châu trước 1975 là hành trình “cố gắng đi tìm cái hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu
tâm hồn con người”. Đây chính là ngọn nguồn của sự tìm tòi, lòng tin, niềm lạc
quan về vẻ đẹp con người, làm nên một cảm hứng lãng mạn bay bổng của
Nguyễn Minh Châu khi khắc họa hình ảnh con người trong chiến tranh. Nhân
vật của Nguyễn Minh Châu trước 1975 thường là những người chiến sĩ, anh
hùng. Đó là Nguyệt, Lãm trong Mảnh trăng cuối rừng, là Lữ và đồng đội của
anh trong Dấu chân người lính...Trong một cảm hứng ngợi ca đặc biệt, Nguyễn
Minh Châu đã xây dựng nhân vật như những con người hoàn thiện, hoàn mỹ,
với vẻ đẹp của lý tưởng cao cả, với tinh thần xả thân, với tâm hồn lãng mạn sáng
trong không tỳ vết. Đó là Nguyệt – cô thanh niên xung phong trong Mảnh trăng
cuối rừng, không chỉ dũng cảm, kiên cường mà còn có một tâm hồn tuyệt đẹp
với tình yêu chung thủy, với niềm tin diệu kỳ vào tình yêu và cuộc đời. Là Lữ và
đồng đội của anh (Dấu chân người lính) với tâm hồn lãng mạn bay bổng, từng
say sưa choáng ngợp trước đêm trăng huyền ảo giữa đêm Trường Sơn sau cơn
mưa nhưng cũng rất mạnh mẽ khi chọn lựa sự hy sinh.
Có thể nói, con người trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước năm 1975
là hiện thân cho một lớp thanh niên trẻ Việt Nam, tiêu biểu cho sức thanh xuân
của dân tộc. Nói như Nikulin, đó là những con người “như được bao bọc trong
một bầu không khí vô trùng” mà chiến tranh dường như không thể hủy hoại nổi
vẻ đẹp của họ.
2. Thời kỳ đổi mới sau 1975: Nhà văn với khắc khoải nhân sinh.
Sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu trăn trở tìm tòi và sáng tạo để đổi mới
nghệ thuật, và trở thành một người tiên phong khai phá những vấn đề thế sự và
nhân sinh. Điểm xuất phát và cũng là vấn đề cốt lõi nhất cho sự đổi mới nghệ
thuật ấy, chính là quan niệm về con người của Nguyễn Minh Châu. Trăn trở với
số phận con người sau chiến tranh, suy tư về con người khi họ hòa nhập vào
cuộc sống đời thường với những mất mát, thua thiệt, đớn đau, và nhìn con người
trong muôn vàn mối quan hệ phức tạp của đời thường, Nguyễn Minh Châu đã
thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người. Có thể nhận ra sự đổi mới ấy qua
một số truyện ngắn tiêu biểu của ông sau 1975.
Trước hết, tiếp tục đề tài chiến tranh, Nguyễn Minh Châu trở lại với hình ảnh
người lính nhưng lại được soi chiếu ở một góc độ khác, mới mẻ hơn, sâu sắc
hơn, “con người hơn”, và cũng nhiều chiều hơn. Đó là người lính trong chiến
đấu và cả trong cuộc sống đời thường, người lính trong chiến tranh và sau chiến
tranh, trong cái biểu hiện và cả trong chiều sâu tâm linh của họ. Từ đó, họ hiện
ra chân thực hơn, ám ảnh hơn, khiến chúng ta phải trăn trở hơn. Không chỉ tiếp
nối đề tài chiến tranh với một góc nhìn khác, Nguyễn Minh Châu còn là người
đi tiên phong khám phá vùng đất mới. Đó là đời sống con người trong thời bình
với những góc khuất, những chỗ ẩn mờ của nó. “Chiếc thuyền ngoài xa” chính
là tác phẩm tiêu biểu cho cái nhìn mới này.
Dự cảm lo âu của nhà văn về thân phận con người đã thôi thúc Nguyễn Minh
Châu hướng đến thông điệp: sự tối tăm trong suy nghĩ cùng với cuộc sống lao
động cực nhọc có thể dẫn đến số phận bi đát của người nông dân. Ở đây, con
người hiện lên chân thực đến trần trụi trong một cuộc sống đói nghèo tăm tối –
một kiểu nhân vật chưa hề có trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước 1975.
Nhưng Nguyễn Minh Châu không chỉ nhìn thấy con người ở phương diện nạn
nhân của đói nghèo tăm tối. Khám phá ở một tầng sâu hơn trong những bí ẩn
của con người, Nguyễn Minh Châu đem đến cho ta những bất ngờ. Nhà văn đã
đưa con người về với những tình huống hằng ngày, thường nhật và cũng chính
trong những tình huống tưởng chừng như nhỏ nhặt ấy, con người lại sống thật
nhất với cái phần bí ẩn của mình. Rõ ràng, đằng sau cái vẻ xù xì thô mộc ấy là
những vẻ đẹp bất ngờ của con người, như một niềm tin của Nguyễn Minh Châu
vào con người và cuộc đời.
Nhìn con người đa chiều trong nhiều mọi quan hệ, trong nhiều góc độ, trong
chiều sâu ẩn khuất của nó là một cái nhìn mới của Nguyễn Minh Châu sau 1975.
Chính cảm hứng thế sự, đời tư đã mang lại cho các sáng tác của ông có triết lí
hơn và thấm đẫm chiều sâu nhân văn. Nguyễn Minh Châu xứng đáng là “người
mở đường tinh anh” cho văn học thời kỳ đổi mới.

GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “CHIẾC


THUYỀN NGOÀI XA”
1. Hoàn cảnh sáng tác:

“Chiếc thuyền ngoài xa”của Nguyễn Minh Châu được sáng tác vào tháng
8/1983, lúc đầu được in trong tập “Bến quê”, sau đó có vinh dự được nhà văn
dùng để đặt tên cho cả tập truyện ngắn, xuất bản năm 1987. Năm 1983, đó là
một thời điểm khá đặc biệt khi cuộc chiến tranh chống Mĩ và tay sai đã kết thúc
thắng lợi, chúng ta trở về muôn mặt của đời thường. Và cũng trong thời điểm
này, cả dân tộc đang bước vào giai đoạn đổi mới, cho nên cuộc sống có nhiều
điều bất ngờ thú vị, có sức hút đối với văn nghệ sĩ, trong đó có Nguyễn Minh
Châu.
2. Cảm hứng:
Nguyễn Minh Châu ý thức rất rõ nhu cầu của mình và nhu cầu của văn học.
Ông từ giã chính ông, truy đuổi những cách khám nghiệm đời sống dưới góc
nhìn và phương tiện mới. Ông hướng ngòi bút của mình vào cảm hứng thế sự
với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh.
3. Đại ý:
Tác phẩm kể về chuyến đi thực tế của người chiến sĩ – nghệ sĩ Phùng về
vùng biển miền Trung để chụp một bộ ảnh lịch. Tại đây, Phùng có một hành
trình trải nghiệm để dấn thân vào hiện thực đời sống.
4. Chủ đề:
“Chiếc thuyền ngoài xa đã thể hiện cái nhìn thấu hiểu, tình yêu tha thiết đối
với những cảnh đời, thân phận trớ trêu của con người và nỗi lo âu đối với số
phận con người sau chiến tranh. Đồng thời, tác phẩm là sự chiêm nghiệm sâu
sắc của Nguyễn Minh Châu về nghệ thuật. Nghệ thuật chân chính phải luôn
luôn gắn với cuộc đời và vì cuộc đời; người nghệ sĩ không thể nhìn đời một cách
đơn giản, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa diện, nhiều
chiều.
5. Tóm tắt:
Nhận yêu cầu từ trưởng phòng, Phùng - một nhiếp ảnh gia nghệ thuật đi đến
một vùng ven biển miền Trung (nơi đây cũng là nơi Phùng đã từng chiến đấu)
để chụp ảnh cho cuốn lịch năm mới. Sau một thời gian, anh đã phát hiện và
chụp được một “cảnh đắt trời cho” - đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa
đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh
đã ngạc nhiên đến sững sờ khi chứng kiến cảnh người chồng vũ phu đang đánh
đập vợ mình một cách dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha
mình trên chính chiếc thuyền đẹp đẽ khi ở xa ấy.
Trong những ngày tiếp theo khi Phùng còn ở đây, cảnh tượng đó lại tiếp diễn
và anh đã quyết định ra tay can thiệp. Theo lời mời của chánh án Đẩu (một
người đồng đội cũ của Phùng) người đàn bà hàng chài đã đến toà án huyện. Tại
đây, người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và anh, nhất quyết không bỏ
người chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình, về người chồng
rằng chị không thể từ bỏ anh ta vì cuộc sống mưu sinh trên thuyền cần có bàn
tay của người đàn ông. Từ đây, Phùng trở nên thấu hiểu sự việc hơn và anh
không còn cách nào khác phải để người đàn bà ra về trong sự bất lực của mình.
Rời khỏi vùng biển ,Phùng đã có một tấm được chọn vào bộ lịch chính là bức
tranh thuyền xa biển nhìn từ xa ấy. Tấm ảnh được nhận nhiều lời khen và được
treo trong các gia đình sành nghệ thuật. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh,
Phùng đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu
hơn bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ bước ra từ
tấm ảnh.
6. Tình huống truyện trong truyện ngắn “Chiếc thuyền
ngoài xa”
- Tình huống trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là tình huống nhận
thức ra một triết lí, một sự thực nào đó trong cuộc sống. Qua hai tình huống
truyện ấy, không chỉ Phùng, Đẩu mà cả người đọc dường như cũng ngộ ra
được những chân lí, những vẻ đẹp vốn dĩ tiềm ẩn đằng sau những hình ảnh
chân thực mà chúng ta được nhìn thấy, được chứng kiến.
+ Tình huống thứ nhất - phát hiện vê nghệ thuật của người nghệ sĩ Phùng: 

o Phùng được giao nhiệm vụ chụp một bộ ảnh về biển cho bộ lịch
năm mới. Anh đã tới vùng biển từng là chiến trường cũ của
mìnhđể canh chụp cảnh biển và tiện thể thăm người bạn cũ. Sau
gần một tuần lễ tìm kiếm, Phùng đã tìm được một cảnh đắt trời
cho đó là hình ảnh của con thuyền ở ngoài xa. 
o Phùng cảm giác mình đã tìm được vẻ đẹp hoàn hảo của tự nhiên,
là cái đẹp đã đạt tới chân thiện mĩ trong tâm hồn con
người. Phùng đã nháy máy lia lịa để ghi lại cảnh của con thuyền ở
ngoài xa ấy.

Ý nghĩa: Phùng đã nhận ra được vẻ đẹp chân thiện mĩ của sự hoàn thiện,
khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Tức là Phùng đã nhận ra được
những giá trị đích thực mà nghệ thuật mang tới cho con người. Giá trị ấy
lớn hơn tất cả những gì mà vật chất có thể mang lại.

+ Tình huống thứ hai

- Nhận thức về cảnh đời éo le

o Khi con thuyền tiến lại gần, Phùng đã chứng kiến cảnh tượng bạo
lực gia đình, của chính những người trên con thuyền tuyệt đẹp mà
Phùng vừa chụp kia. Cảnh tượng ấy khiến anh thấy ngỡ ngàng, bất
ngờ đến mức cứ há hốc mồm ra mà nhìn.
o Trong câu chuyện với người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện,
Phùng và cả Đẩu đều có được những bài học quý giá về con người
và cuộc đời: Người đàn bà xấu xí, thô kệch, rỗ mặt ấy cương quyết
không chịu bỏ chồng chính vì cuộc sống éo le, bất hạnh. Và cũng
chính từ câu chuyện ấy, Phùng phát hiện ra vẻ đẹp tiềm ẩn bên
trong những con người với vẻ ngoài xấu xí.

Ý Nghĩa: Phùng nhận ra được sự đa diện của cuộc đời và con người.
Không thể chỉ nhìn cuộc đời và con người bằng con mắt màu hồng xa rời
thực tế, mà phải nhìn thật sâu, thấu hiểu được cảnh đời, số phận của họ.
Con thuyền khi ở ngoài xa thì thật đẹp nhưng khi tiến lại gần thì là cuộc
đời bất hạnh của một người đàn bà. Người đàn bà xấu xí, thô kệch ấy lại
ẩn giấu bên trong là một người phụ nữ thấu hiểu, trải đời, giàu đức hi
sinh. 
PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG CHIẾC THUYỀN
PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
Bài Làm
“Điều quan trọng hơn hết trong sự nghiệp của những nhà văn vĩ đại ấy lại
là cuộc sống, trường đại học chân chính của thiên tài. Họ đã biết đời sống xã
hội của thời đại, đã cảm thấy sâu sắc mọi nỗi đau đớn của con người trong thời
đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những nỗi lo âu, bực bội, tủi hổ và
những mong ước tha thiết nhất của loài người. Đó chính là cái hơi thở, cái sức
sống của những tác phẩm vĩ đại” (Đặng Thai Mai). Chính vì thế, bao đời nay,
nghệ thuật và đời sống luôn có một mối liên hệ mật thiết không thể nào tách
rời. Với sự nhạy bén, tài năng của một người nghệ sĩ, Nguyễn Minh Châu đã
đánh dấu bước chuyển mình trong sự nghiệp sáng tác bằng việc chuyển tải quy
luật bất biến đó của nghệ thuật thông qua hình tượng chiếc thuyền vừa mang
một vẻ đẹp toàn bích quyến rũ vừa phản ánh một cách chân thực, sống động
đời sống của con người.
Cùng với sự kết thúc của chiến tranh, văn học cũng vì thế mà nên gác lại
ánh hào quang của một thứ vũ khí tinh thần tuyệt diệt của mình để trở về lại
thành một người bạn sâu sắc, tâm dao của đời sống. Là một người nghệ sĩ chân
chính thấu hiểu toàn vẹn giá trị của văn chương và luôn có một cái nhìn bao
quát, khách quan, tinh tế trước thời cuộc, Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận ra
văn học cần được trở về với chính đúng bản chất của nó: chân thực nhưng phải
sáng tạo. Bằng một giọng văn đầy tính triết lý, nhà văn xứ Nghệ đã khai mở ra
một hướng đi mới rất đúng đắn cho văn học Việt Nam thời kì sau 1975, đó là
con đường đi sâu hơn vào đời sống tâm hồn của con người trong đời sống hiện
đại với những trăn trở, suy tư, tình cảm rất thường, rất người, rất đời. Nhưng
văn học, hay rộng hơn là “Nghệ thuật luôn là lĩnh vực đặc thù của việc sáng tạo
và thể hiện cái đẹp, các tác phẩm nghệ thuật chỉ đẹp, tức là có giá trị nghệ
thuật khi nó thể hiện chân thực đời sống trong mọi biểu hiện thẩm mĩ của nó
thông qua lý tưởng nhân đạo, thể hiện được sự phong phú về tinh thần của cá
nhân con người dưới một hình thức hoàn thiện” (trích “Từ điển thuật ngữ văn
học”) đó chính là hình tượng nghệ thuật. Và sự hòa quyện giao thoa giữa cái
thực của đời sống và cái đẹp của sự sáng tạo ấy được thể hiện một cách vô
cùng độc đáo, quyến rũ và tinh tế trong văn chương của chàng văn họ Nguyễn
ấy mà nổi bật là tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa với hình tượng chiếc thuyền.
Hình tượng con thuyền xuất hiện trong xuyên suốt tác phẩm, mang ý nghĩa
biểu tượng vô cùng sâu sắc, nó vừa tượng trưng cho cái đẹp lãng mạn sáng
trong của nghệ thuật, vừa gợi liên tưởng đến hiện thực cuộc sống trần trụi, đớn
đau, khốc liệt và cũng vừa là biểu tượng cho mối quan hệ mật thiết giữa nghệ
thuật với cuộc sống. Từ đó thể hiện trọn vẹn tư tưởng triết lý về nhân sinh,
nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu và truyền bá nó đến hàng vạn thế hệ độc
giả, tác giả cùng thời, thậm chí là mọi thời.
Ngay từ lần đầu tiên xuất hiện dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu,
chiếc thuyền đã để lại cho người đọc một ấn tượng vô cùng mạnh mẽ về vẻ
đẹp của nó nơi ngoài xa trong ánh nắng dịu êm phía đàng đông buổi bình minh.
Và dưới cái nhìn của một người nghệ sĩ đầy nhạy cảm của nhân vật Phùng, cảnh
thuyền lênh đênh nơi biển kia vốn đã đẹp, nay lại còn trở nên “đắt” hơn, nó
tựa như một món quà mà ông trời đã ban cho nhân giới vậy. Chiếc thuyền giờ
đây trở nên đẹp hơn bao giờ hết mà theo lời Phùng, cảnh đẹp như “một bức
tranh mực tàu thời trung cổ... toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng
đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Có thể nói, trong
giây phút ấy, chiếc thuyền là biểu tượng vô cùng hoàn mĩ và tiêu biểu của cái
đẹp nghệ thuật. Đó là cái đẹp khiến bất cứ người nghệ sĩ nào cũng phải trở nên
bối rối và đưa họ đến với một phát kiến về một chân lý mới của sự toàn thiện :
“Cái đẹp chính là đạo đức” – cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn mà ai
yêu nghệ thuật cũng hằng ao ước cảm nhận.
Nhưng rồi, khi chiếc thuyền tiến lại gần hơn, cập bến, cái vẻ đẹp ấy dần
tan biến trong mắt Phùng, để lộ ra cái hiện thực trần trụi xấu xa, khắc nghiệt
của cuộc sống người dân làng chài thời bấy giờ. Việc chài lưới không thuận, gia
đình lại đông con, cuộc sống đầy khó khăn ấy khiến cho người đàn ông vốn hiền
lành tốt tính trở thành một kẻ cộc cằn, nóng nảy. Để rồi, khi chiếc thuyền cập
bến, ông liền trút nỗi bực dọc ấy lên người vợ của mình như một kẻ vũ phu đã
mất đi nhân tính. Và giờ đây, chiếc thuyền chẳng còn là biểu tượng của cái đẹp
nào nữa, nó là hiện thực trần trụi của đời sống. Với người đàn bà số khổ miền
biển đó, nó chính là kế sinh nhai của họ, là nơi để họ sinh sống qua ngày, là nơi
diễn ra những lục đục buồn đau, nhưng cũng là nơi họ có những phút giây hạnh
phúc, dù là ngắn ngủi.
Tất cả những gì thường nhất, u ám nhất, đời nhất, của con người gói gọn
trong chiếc thuyền đơn bạc ấy, không phải để vấy bẩn lên hình ảnh vốn đẹp nơi
ngoài xa của nó mà là để thức tỉnh Phùng cũng như bao người thưởng thức vỡ
lẽ rằng thực ra điều gì cũng sẽ có hai mặt, và nếu nó thiếu đi một mặt thì nó sẽ
chẳng còn là nó nữa, chiếc thuyền cũng vậy. Nếu không có sự sống toát lên từ
gia đình làng chài kia, liệu chiếc thuyền có trở nên đẹp đến thế nơi ngoài khơi
xa kia trong mắt Phùng hay không? Và nghệ thuật cũng thế, nó cần được gắn,
cần phải gắn với đời sống, bởi nếu thiếu đời sống, nghệ thuật cũng chỉ là một
chiếc sáo rỗng thiếu thần vô hồn. Nghệ thuật nên bước ra từ những chất liệu
giản đơn trong cuộc sống, chứ không phải những thứ rỗng tuếch, chủ quan,
nghệ thuật không chỉ đơn giản là đẹp mà còn phải mang ý nghĩa nhân văn sâu
sắc, gắn liền với cuộc sống, đấy mới là thứ nghệ thuật chân chính. Trong lần
xuất hiện cuối cùng, trong bức ảnh đen trắng nơi đáy mắt Phùng, chiếc thuyền
hiện ra như một tác phẩm nghệ thuật thực thụ, đó là sự giao thoa quyện hòa
một cách đầy tinh tế, khéo léo giữa cái đẹp lãng mạng và hiện thực cuộc sống,
tựa như một minh chứng về sự bền chặt của hai yếu tố tưởng chừng như đối
lập nhau ấy trong nghệ thuật.
Bằng thủ pháp đối lập trong việc tạo lập tình huống và sự tài hoa về ngôn
từ, Nguyễn Minh Châu đã khắc họa nên một hình tượng chiếc thuyền chứa
đựng những ý nghĩa biểu tượng vô cùng sắc sâu, đầy triết lý về nghệ thuật và
cuộc đời. Qua đó, nhà văn xứ Nghệ thành công diễn tả quá trình nhận thức của
Phùng, từ một chàng lính có cái nhìn về cuộc đời còn giản đơn, một chiều nay
đã trở nên sâu sắc, toàn diện và đa chiều hơn từ đó cảnh tỉnh độc giả cũng như
thế hệ những nhà văn phải nhìn nhận lại cuộc sống để có một tấm lòng cao
hơn, thấu suốt hơn với người, với đời,
Với hình tượng chiếc thuyền trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”,
Nguyễn Minh Châu đã không chỉ đánh dấu bước phát triến mới trong sự nghiệp
văn chương của chính mình mà còn tạo ra một bước ngoặt mới cho văn học
hiện đại Việt Nam sau khi cách mạng toàn thắng và nước nhà đang dần bước
vào con đường đổi mới đó là hướng sâu hơn về cuộc đời, con người. Đồng thời
nó như một lời khẳng định mạnh mẽ về điều làm nên giá trị cốt yếu của nghệ
thuật nói chúng và văn học nói riêng đó chính là sự sáng tạo dựa trên chất liệu
đời sống. Bởi như chính Nhà viết kịch Nguyễn Huy Tưởng đã viết trong tác
phẩm Vũ Như Tô rằng: “Nghệ thuật mà không gắn liền với đời sống thì đó nó
chỉ là những bông hoa ác mà thôi” và ta phải chấp nhận cả những nghịch lý tàn
nhẫn của cuộc sống nằm ẩn mình trong vẻ đẹp bề ngoài, nghệ thuật là để phục
vụ cuộc sống, vẻ đẹp của nghệ thuật đi ra từ những giá trị đạo đức, nhân văn
chứ không phải từ cái đẹp hào nhoáng mà trống rỗng.

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT PHÙNG


“ Văn học là nhân học” (Mr.Gooki). Đối tượng chung của văn học là cuộc đời
nhưng trong đó con người luôn là đối tượng giữ trung tâm, cốt lõi. Vậy nên việc
xây dựng hình tượng nhân vật đóng vai trò quan trọng, quyết định chất lượng,
thành công của một tác phẩm . Nhân vật văn học có chức năng khái quát những
tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời.
Đến với tác giả Nguyễn Minh Châu- nhà văn tài năng và tinh anh của văn học
nước nhà (theo nhận xét của nhà văn Nguyên Ngọc) . Tâm điểm những khám
phá nghệ thụât của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình
nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. “Chiếc thuyền ngoài
xa” là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông . Truyện đã xây dựng thành
công hình tượng nhân vật Phùng , một nghệ sĩ khao khát khám phá , sáng tạo
ra cái đẹp , người luôn trăn trở , suy tư về nhân cách và đời sống con người .

“Chiếc thuyền ngoài xa” là câu chuyện đan lồng trong nhau, được khởi nguồn
từ câu chuyện xoay quanh chuyến đi thực tế của nghệ sĩ Phùng đi săn tìm cái
đẹp. Nhân vật Phùng là người có quan điểm riêng, rất rõ ràng về cái đẹp với
những phát hiện, những ngỡ ngàng, biết bao nhận thức mới mẻ, cái nhìn đa
chiều, đồng thời là thành phần cốt lõi tạo nên đắc sắc trong tác phẩm. Phùng
trong truyện vừa là nhân vật chính và cũng là người kể chuyện . Mọi diễn biến
của truyện đều được soi chiếu qua lời kể và suy nghĩ của anh. Trong tác phẩm,
Phùng đã có những phát hiện quan trọng về cuộc sống và nghệ thuật.

Phùng là một nghệ sĩ nhiếp ảnh, phóng viên nhà báo và cũng là người lính
dũng cảm khi xưa vừa bước ra khỏi chiến tranh. “Chiếc thuyền ngoài xa” mở
đầu là một cái cớ, phóng viên Phùng theo ý cấp trên về một vùng duyên hải
từng là chiến trường cũ của anh để tìm kiếm, phát hiện và chụp những bức ảnh
thật độc đáo và đặc sắc tạo nên bộ lịch nghệ thuật thuyền và biển. Cái cớ này
thực chất là để bắt đầu một câu chuyện đầy nghịch lý và mở ra nhiều nhận
thức. Trong suốt thời gian công tác đó, anh đã có nhiều phát hiện bất ngờ, đi từ
ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác. Không đơn thuần chỉ là một chuyến đi
công tác, đây còn là một cuộc hành trình dấn thân để khám phá những tầng
bậc bí ẩn của cuộc sống. Những phát hiện mới mẻ đã dần làm thay đổi thay đổi
cách nhìn của Phùng về cuộc sống và con người.

Trước hết là hình ảnh anh nghệ sĩ Phùng đam mê, đắm say trước cái đẹp
nghệ thuật. Sau bao ngày “phục kích” để có thể “chộp” được một cảnh thật
ưng ý về thuyền và biển, giây phút ấy đã tới, đôi mắt nhà nghề của người nghệ
sĩ đã phát hiện ra “một cảnh đắt trời cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà
cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được một lần- cảnh “chiếc
thuyền ngoài xa”. Hình ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” được nhà văn khắc họa rất
ấn tượng “ mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng
như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào . Vài bóng người
lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang
hướng vào bờ”. Hình ảnh đó mang một “vẻ đẹp thực sự đơn giản và toàn
bích”- vẻ đẹp của “một bức tranh bằng mực Tàu của một danh họa thời cổ”, và
tất cả vẻ đẹp đó đã được nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh thu vào một tấm ảnh mà nó
“được treo ở rất nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”. Hình
ảnh “ chiếc thuyền ngoài xa” giờ đã hóa thân thành một tác phẩm nghệ thuật
để mọi người ngắm nhìn, chiêm ngưỡng với tất cả vẻ đẹp về màu sắc, đường
nét và bố cục, và khi thưởng thức bức ảnh đó, Phùng có cảm giác “ bối rối” và “
trong tim như có cái gì bóp thắt vào” niềm hạnh phúc dâng trào tột độ khiến
anh còn “khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Bức ảnh ấy
đã khiến cho tâm hồn người thưởng thức rung động thực sự, một cảm xúc
thẫm mĩ đang dấy lên trong lòng và tâm hồn người nghệ sĩ như được gột rửa,
trở nên thật trong trẻo, tinh khôi. Điều này có nghĩa là cái đẹp đã có tác dụng
thanh lọc tâm hồn con người. Phùng là một nghệ sĩ trên đường săn tìm cái đẹp.
Anh lựa chọn, quan sát, thấu hiểu thiên nhiên, cảnh vật, con người và rung
động trước nghệ thuật, cái đẹp thuần khiết. Phùng nhận ra “chẳng biết ai đó
lần đầu phát hiện ra bản thân cái đẹp là đạo đức” cái đẹp được kết tinh bởi cái
tâm, cái đức, cái tài của người nghệ sĩ phát hiện ra nó. Anh nhận thức rằng
chính bản thân cái đẹp là điều vô cùng nhân văn, đạo đức. Cái đẹp có thể thanh
lọc tâm hồn, hướng tới những điều hoàn mỹ, toàn diện.
Thế nhưng, đằng sau cái cảnh đẹp vĩnh hằng, đằng sau cái “nhòe nhoẹt”,
“mơ hồ” ấy đó là một cảnh tượng hãi hùng. Và đằng sau người nghệ sĩ say mê
cái đẹp là một tấm lòng đầy trăn trở,lo âu về thân phận con người của nhân vật
Phùng. Ngay sau đấy, Phùng được chứng kiến một cảnh tượng rõ nét, đập
thẳng vào mắt Phùng chứ không “mơ hồ” như cảnh “chiếc thuyền ngoài xa”.
Cái khoảnh khắc ngắn ngủi ấy đã mở ra cả một chân trời cho người phóng viên
khám phá, đó gọi là “ một khoảnh khắc mà khi ấy, cuộc sống đậm đặc nhất, có
ý nghĩa nhất, khoảnh khắc đáng giá một đời người, một đời nhân loại” ( Nguyễn
Minh Châu). Tình huống nhận thức này đã mở ra biết bao suy tư và vỡ lẽ. Đằng
sau khung cảnh lãng mạn, nên thơ ấy là một bức tranh màu xám về cuộc sống
con người. Phùng đang đắm chìm trong cảnh sắc tuyệt mĩ bỗng bị đánh thức
bởi hình ảnh đau thương, đầy xót xa- bạo lực gia đình. Có ai ngờ rằng, khi con
thuyền lại gần, bước ra từ con thuyền đẹp như tranh vẽ ấy lại là cảnh tượng
người đàn ông to cao ấy “dùng chiếc thắt lưng của mình quật tới tấp xuống
lưng người đàn bà” lão vừa đánh vừa nguyền rủa “ mày chết đi cho ông nhờ”.
Hình ảnh người vợ đầy vẻ cam chịu và nhẫn nhục chịu từng trận đòn roi và
cảnh đứa con đánh nhau với ba nó để bảo vệ người mẹ yếu ớt đã để lại trong
Phùng nhiều căm phẫn. Anh ngạc nhiên đến mức không thể tin vào chính mắt
mình. Một cảnh tượng hãi hùng xuất hiện ngay sau một bức tranh hoàn hảo.
Phát hiện thứ hai này quả thực đầy nghịch lí, nó bất ngờ và trớ trêu như trò
đùa quái ác của số phận. Người lính kia những tưởng rằng khi chiến tranh qua
đi, con người sẽ có một cuộc sống yên bình, ấm áp nhưng ngờ đâu cuộc sống
không chỉ đơn giản như vậy. Với chi tiết này, câu chuyện dường như đã mở ra
hai hình ảnh, hai thế giới khác hẳn: chiếc thuyền ngoài xa mang lại vẻ đẹp tuyệt
mỹ cho một bức ảnh, còn chiếc thuyền lại gần lại làm vỡ ra một hiện thực
nghiệt ngã đến mức xót xa của số phận con người. Từ đó, những nhận thức vỡ
lẽ về hiện thực cuộc sống và con người nơi đây mới dần vỡ lẽ, hé mở trong tâm
thức của Phùng. Sở dĩ nghệ sĩ Phùng trở nên như vậy là vì anh không thể ngờ
rằng đằng sau cái vẻ kì diệu của tạo hoá lại có cái ác, cái xấu đến mức không thể
tin được. Vừa mới lúc trước anh còn cảm thấy “bản thân cái đẹp chính là đạo
đức”, thấy “chân lí của sự hoàn thiện” thế mà chỉ ngay sau đó chẳng còn cái gì
là “đạo đức” là cái “toàn thiện” của cuộc đời. Phùng cay đắng nhận thấy những
cái trái ngang, xấu xa, những bi kịch đang dày xéo tâm can của gia đình thuyền
chài kia lại làm hoen ố những vẻ đẹp thẩm mỹ mà anh đã dày công chụp được.
Hóa ra cái đẹp và cái ác luôn song hành với nhau một cách ngang trái như vậy,
Phùng dần dần vỡ lẽ ra nhiều điều. Đằng sau cái xấu, cái ác lại chứa đựng cái
đẹp, chứa đựng hiện thực mà ít nhiều đáng được cảm thông và chia sẻ. Qua
đây, Nguyễn Minh Châu như muốn gửi gắm các bạn thông điệp: cuộc đời vốn dĩ
là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời
cũng là nghệ thuật. Và con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng
cái đẹp nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong số phận con người
và cuộc đời thì phải tiếp cận cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng
cuộc đời.
Chứng kiến sự việc ngang trái đó, Phùng xót xa, xông ra buộc lão đàn ông
phải dừng hành động độc ác và anh bị thương. Sự việc không thể dừng ở sự
chứng kiến, Phùng muốn giúp người phụ nữ đó thoát khỏi cuộc sống đớn đau
này, anh đã nhờ Đẩu- người bạn chiến đấu năm xưa và cũng là chánh án huyện
mời chị ta đến tòa án để khuyên chị ly hôn. Ở tòa án, chứng kiến cuộc gặp gỡ
của người đàn bà và chánh án Đẩu, nghe những lời trải lòng và biết được câu
chuyện cuộc đời của người đàn bà, Phùng đã có sự thay đổi trong nhận thức,
anh hiểu rõ hơn về Đẩu, về người đàn bà và ngay ở chính mình. Người đàn bà
ấy không hề cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch
mà trái lại, chị là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Khi được Đẩu khuyên li hôn
với người chồng vũ phu, tàn bạo thì bất ngờ thay chị lại hết lòng van xin, cầu
khẩn “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt
con bỏ nó” bởi vì chị biết rằng trong cuộc sống trên thuyền cần có người đàn
ông gánh vác để chèo chống trước giông bão.Hành động ấy khiến Phùng đột
nhiên cảm thấy gian phòng mà mình đang ngồi giấu mặt như “bị hút hết không
khí” và “ ngột ngạt” quá. Sự bất ngờ ập đến khiến Phùng choáng váng. Anh cứ
ngỡ chỉ cần khuyên người đàn bà li hôn sẽ giúp chị giải thoát khỏi cuộc sống
như đang cầm tù kia nhưng anh không biết rằng trong cuộc sống cơ cực ấy vẫn
có những tiếng cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con ăn no. Tấm lòng của
một người mẹ yêu thương con đã thông suốt cho suy nghĩ hời hợt của Phùng.
Không chỉ có vậy, điều làm Phùng và Đẩu ngạc nhiên hơn bao giờ hết chính lá
sự thấu hiểu lẽ đời, tuy ít học mà sáng suốt của chị “ Lòng các chú tốt nhưng
các chú đâu phải người làm ăn…”. Suy nghĩ thấu đáo của người đàn bà đã khiến
Phùng hiểu rõ hơn sự cấp thiết của việc thay đổi cái nhìn, tư duy về con người
và cuộc sống.
Sau cuộc nói chuyện với người đàn bà, Phùng đã thất bại trong việc khuyên
chị ly hôn nhưng anh đã thành công trong việc thấu hiểu sự đời hơn. Nhân vật
Phùng thấm thía nhận ra sự bất lực của quyền lực và lòng tốt, anh dường như “
vỡ ra một điều gì đó”, cuộc sống quá phức tạp với bao nhiêu nỗi khổ và bi kịch
đang đày đọa, rình rập xung quanh con người như những cơn bão tự nhiên bất
ngờ ập đến. Cơn bão là hình ảnh mang tính chất ẩn dụ, những phong ba, bão
táp sẵn sàng ập xuống những con người nghèo khổ, tội nghiệp như những cơn
bão tố ập đến chiếc thuyền nhỏ bé ngày đêm đánh bắt khơi xa, gợi nên biết
bao những suy tư, trăn trở, dằn vặt của Phùng về số phận con người hậu chiến,
trách nhiệm của con người trong cuộc chiến chống đói nghèo và thiên chức của
người nghệ sĩ: phải biết nhận thức sâu sắc, khám phá đa chiều về đời sống và
con người.
Kết thúc truyện là chi tiết bức ảnh do Phùng chụp trong chuyến đi công tác đã
được trưởng phòng chọn in trong bộ lịch năm ấy. Đó chính là toàn bộ sự chứng
kiến hiện thực cuộc sống trần trụi. Đối với mọi người, bức ảnh chỉ đơn giản
mang màu đen trắng, nhưng đối với Phùng, đó là một tấm ảnh nghệ thuật
được dệt nên bởi nhiều màu sắc kí ức, trải nghiệm, nhận thức sâu sắc. Phùng
không chỉ thấy sự hào nhoáng bên ngoài bức ảnh mà còn nhìn thấy hiên thực
phũ phàng bên trong, hình ảnh người đàn bà bước ra từ con thuyền với trận
đòn roi ám ảnh. Bức ảnh trở thành thuốc rửa ảnh kì diệu cho tâm hồn nghệ sĩ
Phùng. Giờ đây, cuộc sống diễn ra trong mắt Phùng trở nên phong phú, bề bộn,
có chiều sâu và giàu chất xám hơn bao giờ hết. Đọng lại trong Phùng là hình
ảnh những con người bé nhỏ đang kiên cường chống chọi với đời sống khắc
nghiệt bằng bản lĩnh gan thép và đặc biệt là nhân cách cao đẹp của chính họ.
Khi những trang truyện khép lại, hành trình dấn thân vào đời sống của Phùng
chỉ mới bắt đầu. Phải chăng đây là sự trăn trở, suy tư trước cuộc sống và số
phận con người. Người nghệ sĩ phải biết dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, đi
sâu vào khám phá những khía cạnh khác nhau, phải gắn nghệ thuật với thực tế
đời sống, không được xa rời hiện thực thì mới đúng là nghệ thuật chân chính.

Qua bút phát nghệ thuật xây dựng nhân vật truyện, tình huống vô cùng kịch
tính, tài năng kết hợp với chất tự sự-triết lý đã khắc họa về mặt hành động, đời
sống nội tâm nhân vật đặc sắc. Nhân vật xưng “tôi” ngôi thứ nhất tự bộc lộ bản
chất một cách chân thành, tự nhiên gây ấn tượng mạnh cuốn hút người đọc.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” qua những phát hiện của nhân vật Phùng
về vẻ đẹp của thiên nhiên, con người, về sự thật đắng cay, tấn bi kịch của
những con người lao động lam lũ sống bằng nghề chài lưới, đã bộc lộ sâu sắc
những suy tư, trăn trở của nhà văn về cuộc sống và số phận con người. Nhà văn
đã bộc lộ lòng thương cảm, trắc ẩn đến số phận éo le, ngang trái của con người
trước cuộc đời bão táp, trân trọng những vẻ đẹp cao cả, tinh khiết trong tâm
hồn con người. Truyện xuất sắc xây dựng hình tượng nhân vật Phùng- người
nghệ sĩ tâm huyết, đam mê vẻ đẹp nghệ thuật cùng với hành trình nhận thức
đầy chất nhân sinh, góp vai trò quan trọng tạo nên thành công của truyện.

Quan niệm về nghệ thuật của Nguyễn Minh


Châu qua hành trình nhận thức của nhân vật
Phùng
Bielinxki đã từng cho rằng: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả
cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca
tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi
đó”. Vốn dĩ cuộc sống bao giờ cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho nghệ thuật,
đặc biệt là trong văn chương. Nếu không bám rễ vào cuộc đời, nếu không hút
nguồn nhựa sống dạt dào ngầm chảy trong lòng cuộc sống thì văn học chỉ còn
là một cây non héo úa, tàn lụi. Là một nhà thơ hay nhà văn, ngòi bút của anh
phải chấm vào nghiêng mực cuộc đời thì tác phẩm mới đủ sức neo chặt vào
trong lòng người đọc. Nguyễn Minh Châu – người mở đường tinh anh và tài
năng trong nền văn học đổi mới – cũng đã dùng đời sống như một điểm tựa để
ghi lại dấu ấn cho sự nghiệp văn học của ông, đồng thời nêu lên những quan
niệm về nghệ thuật được thể hiện qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Số phận văn chương của Nguyễn Minh Châu gắn liền với những bước đi cơ
bản của nền văn học Việt Nam ở nhiều thời điểm lịch sử cụ thể.Trước năm
1980, đất nước đang trong thời kì loạn lạc, chiến tranh ác liệt, vì thế Nguyễn
Minh Châu chủ yếu viết về người lính với khuynh hướng sử thi hướng về dân
tộc. Song sau 1980, khi hòa bình được lập lại, ngòi bút của ông lại chuyển sang
cảm hứng thế sự, đời tư với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh. Chiến
tranh đi qua, để lại những vấn đề hết sức cấp bách mà nạn nhân không ai khác
lại chính là con người. Không còn đi tìm “hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn” như
trước, giờ đây Nguyễn Minh Châu đi tìm những sự thật của hiện thực ẩn hiện
đằng sau cuộc sống con người. Nhà văn đã nỗ lực đưa văn chương trở về với
đời sống để có được những trang viết xác thực, đa dạng và bám rễ sâu hơn với
đời sống nhân tình, nhà văn đã lấy số phận của mỗi cá nhân làm tâm điểm
trong lăng kính nghệ thuật với mục tiêu “chiến đấu cho quyền sống của mỗi
con người”, để từ đó nêu bật lên mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời.
Trong “Chiếc thuyền ngoài xa”, khi nghệ sĩ Phùng cảm nhận được một vẻ
đẹp “toàn bích” của một cảnh đẹp “trời cho” trên biển vào buổi sáng sớm thì
anh đã “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh
khắc trong ngần của tâm hồn”. Qua đây, Nguyễn Minh Châu muốn khẳng định
rằng: Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chân chính là hạnh phúc khám phá và
sáng tạo cái đẹp tuyệt diệu – một vẻ đẹp trong sáng, thanh khiết, có thể gột
rửa tâm hồn con người. Thế nhưng, đằng sau một bức tranh toàn bích ấy lại là
cảnh bạo lực của gia đình hàng chài. Nguyễn Minh Châu đã đặt nhân vật vào
một tình huống hết sức nghịch lí, nó bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác
của cuộc sống. Phùng đã từng chiêm nghiệm “bản thân cái đẹp là đạo đức”
nhưng giờ đây Phùng cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, xấu xa, những
bi kịch trong gia đình kia là thứ thuốc rửa quái đản làm cho những thước phim
của Phùng trở nên khủng khiếp, ghê sợ. Từ đó, Phùng nhận ra rằng cái đẹp và
cái xấu luôn song hành cùng nhau. Khi chiến tranh đi qua, đói nghèo và lạc hậu
đã trở thành kẻ thù giết chết con người nhưng nó vẫn luôn được cất giấu sau
cuộc sống thường nhật mà chưa bao giờ được khai thác. Người nghệ sĩ vẫn cứ
mải miết đi tìm cái đẹp hiện lên trên bề nổi của sự thật nhưng chưa một ai dám
đào sâu vào tầng ngầm của cuộc sống để thấu hiểu . Song, Nguyễn Minh Châu
là người tiên phong trong việc khai phá những bí ẩn đời sống mà từ lâu đã
được chôn vùi. Nghệ thuật bao giờ cũng phải gắn liền với cuộc sống, nhà văn
phải đủ bản lĩnh để nhìn thẳng vào sự thật của cuộc đời và con người thì mới
có thể cất lên tiếng nói nhân văn trong trang viết của chính mình bởi vốn dĩ
“cuộc đời và nghệ thuật là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”
(Nguyễn Minh Châu). Nghệ thuật sinh ra vì cuộc đời và con người. Đời sống
phải trở thành huyết mạch chảy xuyên suốt trong mọi tác phẩm nghệ thuật để
nuôi dưỡng, phát triển những giá trị cao đẹp của con người. Dám nhìn thẳng
vào sự thật tàn nhẫn của dòng đời để biết thương xót cho số phận con người
và đau nỗi đau của một thời kì chống đói nghèo và lạc hậu là bài học thấm thía
mà Nguyễn Minh Châu đã để lại cho những ai muốn thực lòng đổi mới tư duy
nghệ thuật. Bởi một khi đã dám nói lên chiều sâu đa dạng của đời sống, nhà
văn mới có thể thức tỉnh con người ra khỏi những vẻ đẹp lí tưởng và đưa con
người trở về đối mặt với cuộc sống thực tại. Qua đó, Nguyễn Minh Châu đã nêu
lên một quan niệm hết sức mới mẻ: Nghệ thuật thuần túy là nghệ thuật tách
rời đời sống, có thể thanh lọc tâm hồn con người nhưng nếu nó gắn với cuộc
đời thì sẽ nâng cao giá trị nghệ thuật hơn, làm cho con người trở nên sâu sắc và
phong phú hơn.
Để có được cái nhìn toàn diện hơn về cuộc sống, người nghệ sĩ phải là những
con ong cần mẫn đi tìm hương hoa để khám phá được những vị ngọt tinh túy
của đời sống. Chứng kiến cảnh bạo lực tàn nhẫn, Phùng không thể không làm gì
để chấm dứt nó. Anh khuyên người vợ ly hôn để giải thoát khỏi cơn đau âm ỉ
đã dày vò chị nhưng người đàn bà lại khiên quyết không ly hôn.Người đàn bà
cho rằng “lòng các chú tốt nhưng các chú đâu có hiểu được cái việc của các
người làm ăn lam lũ khó nhọc”. Một câu nói thôi nhưng nó lại chứa biết bao
điều thâm thúy. Phùng và Đẩu muốn giúp người đàn bà nhưng họ lại không
hiểu được vai trò của người đàn ông trên thuyền để chống chọi với mọi phong
ba bão táp. Những lời giãi bày của người đàn bà tại tòa án đã hé mở một nhận
thức mới trong Phùng. Có lẽ, người nghệ sĩ có một trái tim nhân ái thôi thì chưa
đủ, họ còn phải có những hiểu biết về lẽ đời, về cuộc sống mưu sinh của con
người. Cuộc đời luôn đầy rẫy những nghịch lí, phức tạp vì thế người nghệ sĩ
phải là một người thợ lặn giỏi chìm sâu vào tầng ngầm, tầng sâu của biển đời
để khai phá những hòn ngọc đẹp đẽ dưới lòng đại dương. Những hiện thực
trần trụi vượt xa sự tưởng tượng của con người mà một cách nhìn đơn giản và
phiến diện thì không thể hiểu hết được. Vì vậy, người nghệ sĩ phải có một trái
tim đa cảm, một cái nhìn toàn diện và một vốn hiểu biết rộng lớn.
Nadimetlicmet cho rằng: “Con hãy lắng nghe nỗi buồn của cành cây héo khô,
của chim muông què quặt, của hành tinh lạnh ngắt. Nhưng trước hết con hãy
lắng nghe nỗi buồn của con người”. Nhà văn phải biết thấu hiểu và trăn trở cho
số phận con người, phải biết đau cho nỗi đau của nhân thế. Chỉ có như vậy thì
tác phẩm của anh mới có đủ chiều sâu để đi vào lòng người. Qua đây, Nguyễn
Minh Châu khẳng định: Cuộc đời và nghệ thuật luôn gắn bó với nhau, người
nghệ sĩ không những phải biết sáng tạo, thưởng thức mà phải biết dấn thân
vào cuộc đời để từ đó làm nên những tác phẩm để đời hướng về con người.
Cơn bão ở cuối truyện đã nhấn mạnh vào thiên chức của người nghệ sĩ: phải
biết nhận thức sâu sắc về đời sống.
Qua hành trình nhận thức của Phùng, người đọc vỡ lẽ ra những triết lí sâu xa:
Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp
huyền ảo, nhưng sự thật cuộc đời lại ở rất gần. Đừng vì nghệ thuật mà quên
cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước khi
là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một người biết yêu ghét vui
buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng
đáng với con người.
Chính cảm hứng thế sự, đời tư đã mang lại cho sáng tác của Nguyễn Minh
châu nhiều chất tiểu thuyết trên cơ sở đi vào khai thác và thể hiện những điều
bình dị của con người trong một bút pháp hiện thực rất nghiêm ngặt của chân
lý đời sống. Qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, người đọc như thấu hiểu
hưn tư tưởng nghệ thuật của ông. Quan niệm về văn chương đầy mới mẻ về
mối quan hệ giữa nghệ thuật – nghệ sĩ – cuộc đời – con người đã tạo ra một cú
hích mạnh mẽ để thúc đẩy sự phát triên của nền văn học sau đó, để văn học
trở nên gắn bó với cuộc sống hơn, ý nghĩa hơn, nhân văn hơn.

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT NGƯỜI ĐÀN BÀ LÀNG


CHÀI

Nếu văn học cách mạng trước năm 1975 chỉ xoay quanh những cống hiến,
hy sinh cho sự nghiệp dân tộc, những tiêu chuẩn đạo đức cách mạng cao cả thì
sau năm 1975, văn chương lại trở về với đời thường, giản dị gần gũi. Và trong
cả hai chặng đường đó, đặc biệt là giai đoạn sau 1975, ta bắt gặp Nguyễn Minh
Châu – một trong những người “mở đường tinh anh và tài năng nhất” (Nguyên
Ngọc). Những đóng góp của Nguyễn Minh Châu trong vai trò người mở đường
đã mở ra những khám phá táo bạo cho công cuộc đổi mới văn học, dẫn người
đọc đi sâu vào đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài xa” của ông là một minh chứng tiêu biểu cho xu hướng đó. Đặc biệt, qua
nhân vật người đàn bà hàng chài, nhà văn đã gởi gắm trọn vẹn những suy tư,
trăn trở của mình về các mối quan hệ xã hội phức tạp, những góc khuất của
cuộc sống thời bình.
Mở đầu câu chuyện là những bức tranh thiên nhiên “toàn bích” mà đôi
mắt nhiếp ảnh Phùng đã bắt gặp nhân dịp chuyến đi công tác ở vùng biển. Thế
nhưng, đâu ai biết rằng, phía sau những ánh sáng chói lòa, lung linh ấy là những
góc khuất mà con người đã bỏ lỡ. Hình ảnh của người đàn bà hiện lên hoàn
toàn trái ngược với vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây. Sau vài nét gợi tả, người
đàn bà với " một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với
những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức
trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ" hiện ra. Chắc hẳn, những
vết rỗ khuôn mặt chị đều từ gánh nặng của công việc, của nắng mưa gió bão
miền biển khiến chị dường như không có chút sức sống hay sinh lực nào. Một
người lao động lam lũ, chịu thương chịu khó như thế nhưng cái nghèo, cái khổ
vẫn bủa vây lấy gia đình chị. Sự nghèo khổ ấy còn hiện lên trên "tấm áo bạc
phếch có miếng vá, bửa thân dưới ướt sũng". Từ cách hành xử, đi đứng đến "
tìm đến một góc tường để ngồi" càng làm cho chị trở nên đáng thương đến tội
nghiệp.Một con người dám vượt qua phong ba bão táp trên vùng đại dương
mênh mông, nhưng lại trở nên tự ti, mặc cảm khi đối diện với con người. Tác
giả chỉ gọi nhân vật của mình là người đàn bà một cách phiếm định, khi là
“người đàn bà”, lúc lại “mụ”, có lúc là “chị ta”. Chẳng phải Nguyễn Minh Châu
nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà có lẽ ông muốn
nói hộ bao nhiêu người đàn bà vô danh ở vùng biển này. Người đàn bà làng
chải ám ảnh chúng ta bỡi cái chuổi dau thương, bất hạnh bị quấn lấy bởi cái
nghèo khố, tăm tối của cuộc sống mưu sinh sau chiến tranh.
Tưởng chừng, những thứ đó là tận cùng của bất hạnh mà một người phụ
nữ phải gánh chịu, nhưng có lẽ ta đã lầm. Không chỉ bị cái nghèo, cái khổ đeo
bám, người đàn bà hàng chài còn hứng chịu những trận đòn roi tàn bạo, những
lời mắc nhiếc thậm tệ của người chồng vũ phu với một thái độ nhẫn nhục, cam
chịu đến kì lạ.Một người đàn bà, một người vợ luôn nhẫn nhục, cam chịu điển
hình trong xã hội Việt nam. Cũng chỉ vì quá nghèo khổ, túng quẫn mà chồng mụ
từ một người hiền lành, chất phác biến thành một lão chồng chỉ biết đánh vợ “
ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” để thỏa mãn cơn giận dữ vô
cớ của mình, đến nỗi vị chánh án cũng phải quả quyết “ Cả nước không có
người chồng nào như hắn”. Khi chứng kiến cảnh người đàn ông to lớn, thô
kệch giáng những cú đánh mạnh mẽ vào tấm thân yếu ớt của người đàn bà ấy,
đến một người đàn ông như Phùng cũng chẳng thể nhẫn nhịn nổi. Vậy nhưng,
người đàn bà ấy vẫn cam chịu biết bao lời hằn học, mắng nhiếc. Chịụ không hề
oán than, không hề bất bình hay thậm chí là nè tránh. Có lẽ, chị cũng đã từng
phản kháng nhưng cái cùng cực đã khiến chị buông xuôi. Chị học cách quen dần
với đòn roi, với bạo lực. Chưa dừng lại ở đó, những chuỗi dài bất hạnh của
người đàn bà còn hiện ra qua câu cuyện của chị tại toàn án huyện. Tại đây,
người ta ắt hẳn phải thốt lên rằng sao lại khổ đến thế? Một thuyền chài bấp
bênh, đói nghèo đến nối những mùa biển động cả nhà phải ‘ăn toàn xương
rồng luộc chấm muối”. Còn bế tắc túng quẫn nào hơn khi có hơn chục đứa con
chen chúc trên một chiếc thuyền rách giữa mặt biển đầy sóng gió. Nếu những
trận đòn ròi, những cơn đói chỉ hành hạ thể xác chị thì nỗi mặc cảm, nhục nhã
trước các con chính là thứ dày xéo tâm hồn chị. Người đàn bà cầu xin chồng lên
bờ mà đánh để lũ con không phải chứng kiến cảnh bạo lực của cha với mẹ. Chị
ta luôn nơm nớp một nỗi lo làm sao giữ được một tâm hồn trong sáng cho các
con, chị đứt ruột gửi đứa con trai cho nhà ngoại cũng chỉ vì bảo vệ cho con. Rồi
khi thằng Phác – con chị thấy cha nó lại đánh mẹ nó lao vào “ như một viên đạn
bắn vào người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt”, đó có lẽ là những
dòng lệ đớn đau trong tâm hồn người mẹ trước hành động phi đạo lý của con
mình. Có lẽ nỗi đau ấy luôn bám víu lấy chị và chưa phút nào để chị nguôi
ngoai.
Miêu tả rõ nét số phận người đàn bà hàng chài có lẽ nhà văn Nguyễn
Minh Châu muốn chỉ ra cho người đọc nguyên nhân của nỗi bất hạnh ấy đều
bắt nguồn từ cuộc sống mưu sinh nghèo đói, túng quẫn. Dù Cách mạng về có
cấp đất nhưng họ không thể lo cho nghề lưới vó. Rõ ràng đây là giải pháp xa hội
còn xa rời thực tế, do vậy dù đất nước có đổi mới nhưng cẫn còn những mảnh
đời đáng thương. Cũng từ đó ta lại chú ý đến một chi tiết rằng bi kịch thường
ngày của người đàn bà diễn ra sau xác xe tăng của chiến trường xưa. Phải
chăng nhà văn muốn nói: cuộc chiến chống đói nghèo tăm tối và bạo lực còn vô
vùng gian nan và dài lâu hơn cả cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Và chừng nào
chưa giải quyết bài toán giặc đói, giặc dốt thì chừng đó con người còn phải
chung sống với cái xấu, cái ác để rồi bị chúng nó nuốt chửng. Dân tộc ta đã đổ
biết bao máu xương để giành lấy độc lập tự do nhưng đó chưa hẳn thực sự là
đích đến hạnh phúc của con người. Cuộc chiến nào cũng đầy cam go nhưng có
lẽ cuộc chiến thời đổi mới là gian truân và thử thách hơn cả.
Dẫu cho cái nghèo, cái khổ có dày vò người đàn bà làng chài như thế nào
đi chăng nữa thì dưới ngòi bút chân thức và đầy tình cảm của Nguyễn Minh
Chây ta vẫn thấy được một tâm hồn sáng ngời toát lên từ người phụ nữ ấy. Vẻ
đẹp tâm hồn chị như dần được hé lộ khi chị ta bước vào tòa án huyện. Tại đây,
lúc đầu chị xuất hiện với hình ảnh rụt rè, chị ngồi ở góc công đường – như một
con thú bé nhỏ đang cố gắng tìm chỗ trú an toàn. Chị xưng hô với Phùng và Đẩu
bằng “Con – quý tòa” , sau đó khi đã lấy lại được bình tĩnh chị đổi cách xưng hô
dáng “Chị-các chú”. Có lẽ nào Nguyễn Minh Châu nhấn mạnh sự thay đổi trong
ngôn ngữ của người đàn bà ngụ ý rằng: Giờ đây chính chị mới là quan tòa đang
phán xét Phùng và Đẩu, dạy cho họ một bài học về cách nhìn đời, nhìn cuộc
sống tỉ mỉ, đa diện hơn? Chị là một người phụ nữ rất thấu hiểu lẽ đời lại giàu
lòng nhân hâu và vi tha. Chị còn sẵn sàng chấp nhận tất cả thua thiệt về phần
mình như một sự sám hồi “Cũng tại đàn bà ở thuyền chúng tôi đẻ nhiều quá…
giá mà chúng tôi đẻ ít đi”. Trong suốt câu chuyện dài dằng dặc của đời mình,
tuy khó khăn nhưng người đàn bà ấy không tỏ ra oán giận chồng, ngược lại còn
bênh vực ông ta bởi chị cho rằng lão không xấu. Do từ ngày lấy chị, cuộc sống
lại thêm phần khốn khó nên lão chống mới xem việc đánh vợ là một phương
thức giải tỏa những bức bí của cuộc đời. Càng đọc ta mới càng hiểu được người
phụ nữ ấy hiểu chồng, thương chồng biết bao nhiêu. Càng đọc ta mới càng
thấu thì ra chồng chị chỉ là nạn nhân của sự đói nghèo thất học để rồi biến y trở
thành một con người vừa đáng thương lại vừa đáng giận. Cái người đàn bà
quanh năm chỉ biết làm lụng vất vả để đổi lấy một bữa cơm nó cho gia đình ấy
lại có một tâm lòng đầy thấu hiểu và cảm thông khiến ta thật cảm động.
Hơn hai lần trong câu chuyện của mình chị kể tại tòa án huyện, người đàn
bà đã nói “ Qúy tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng
bắt con bỏ nó”. Đây là câu nói khiến Phùng và Đẩu vừa ngạc nhiên lại vừa phẫn
uất nhưng cũng vỡ lẽ ra bao điều. Người đàn bà xin chịu mọi hình phạt của
pháp luật, thậm chí chấp nhận cả hình phạt cao nhất là “bỏ tù” chỉ để không bỏ
chồng mình. Bởi có lẽ, lão chồng vũ phu ấy đối với chị như một ân nhân.Chị tự
nhận thức rằng mình không phải là một người con gái đẹp, người đàn bà ấy
cảm giác như được ban một ân huệ có một người chấp nhận chị. Không những
thế người “ân nhân” ấy còn cho chị một mái ấm, một gia đình đúng nghĩa để
rồi chị cho đó là một diễm phúc mà không nở vứt bỏ nó đi. Những hồi ức về
thứ tình cảm nhỏ bé mà ngọt ngào đó có lẽ là liều thuốc giúp người phụ nữ
vượt qua bao đắng cay, tủi hờn suốt những năm tháng đã qua. Chị cảm ơn lòng
tốt của Phùng và Đẩu nhưng cũng thẳng thắn, chân thật phê bình hai
anh :”Nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu hiểu
được cái việc của người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Không chỉ có thể chị còn
nhấn mạnh: “ Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết
như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn
ông”. Đối với Phùng và Đầu, lòng tốt của các anh là muốn người đàn bà kia bỏ
chồng đền tránh những trận đòn roi vô cớ nhưng người đàn bà ấy lại thấu hiểu
lẽ đời hơn ai cả. Chị biết rằng, những người phụ nữ làng chài như chị cần có
bàn tay của những người đàn ông trụ cột để gánh vác, chèo chống con thuyền
khi phong ba bão táp, để nuôi nấng đàn con thơ mà “nhà nào cũng trên dưới
chục đứa” lớn khôn. Cứ như thế, chị gồng mình cam chịu những trận đòn như
vũ bão chỉ để cho gia đình có một người chồng tròn nghĩa nhất dù hắn cho man
rợ đến nhường nào. Thử hỏi nếu không có những người đàn ông trên con
thuyền ấy thì số phận của chị và những người đàn bà như chị sẽ đi về đâu?
Cuộc sống của họ sẽ tốt đẹp hơn hay lại chìm sâu hơn vào vòng xoáy đen ngòm
cùa đói nghèo, túng quẫn?
Và vượt lên tất cả sự cay đắng cơ cực ấy là tình mẫu tử thiên liêng – đức hi
sinh cao thượng của người đàn bà làng chài với Phác – con trai của chị. Chị cam
chịu những trận đòn ròi chị chỉ biết rằng bất kỳ cuộc hôn nhân tan vỡ nào thì
tổn thương hơn cả là những đứa con trong gia đình. Vì tình thương con, chị xin
chồng cho lên bờ để đánh rồi chị quặng lòng gửi thằng Phác về bên ngoại. Tất
cả việc chị làm chỉ với một mục đích duy nhất là bảo vệ sự trong sáng của các
con, chị không muốn con mình phải chứng kiến cảnh bạo lực rồi quay sang oán
hận cha mình. Chị giống như con gà mẹ xòe đôi cánh che chở cho đàn con thơ
dại, dẫu cho đối cánh ấy có ốm yếu nhưng tình yêu thương vô bờ bến cúa một
người mẹ là động lực lớn lao để ‘đôi cánh” ấy luôn sải rộng che trọn bầy con.
Chính tình mẫu tử thiêng liêng cao thương đã giúp chị vượt qua cái cơ cực, đói
kém nhọc nhằn và lam lũ. Chị chắt chiu dành dụm từ những niềm vui giản đơn
nhất “Vui nhất là thấy đàn con chúng tôi được ăn no” để khỏa lấp những nỗi
đau, để xoa dịu nỗi đời cay cực. Có lẽ ở chị vẫn vững bền niềm tin một tình yêu
và sự lạc quan với cuộc sống mãnh liệt, đó là lẽ sống, là hạnh phúc giản dị mà
cực kỳ quý giá chỉ có ở những người biết sống sâu sắc với cuộc đời. Tìm hiểu về
người đàn bà làng chài trong truyện ngắn, Nguyễn Minh Châu đã đưa đến cho
người đọc ấn tượng đặc biệt về sức mạnh kiên cường của con người. Người
đàn bà ấy đã dồn hết sức chịu đựng phi thường của mình để che chắn, bảo vệ
cho mái ấm gia đình. Chị luôn bảo vệ sự trong trẻo, thơ ngây trong tâm hồn con
trẻ. Chính đôi vái ấy đã gánh đỡ những nhọc nhằn, tức tối của người chống…Dù
rằng tất cả những cố gắng ấy vấn luôn thất bại trước khắc nghiệt của cuộc sống
nhưng ý chí của chị đã làm thay đổi đi cách suy nghĩ của Phùng và Đẩu, mở ra
một góc nhìn mới trong họ.
Qua hình tượng người đàn bà hàng chài cùng tình huống truyện mang
tính nhận thức và khám phá, nhà văn muốn gửi đến người đọc một thông điệp
về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Nhà văn đặt ra trách nhiệm của
người nghệ sĩ rằng người nghệ sĩ trước khi biết rung động trước cái đẹp hãy là
con người biết yêu ghét, vui buồn trước mọi lẽ thường, biết hành đồng để có
được cuộc sống tốt đẹp, bởi nghệ thuật luôn gắn liền với cuộc đời, nghệ thuật
phải vì cuộc đời, đó mới chính là nghệ thuật “Vị nhân sinh”. Bên cạnh đó nhà
văn còn muốn gửi gắm một điều là vấn đề tiếp cận cuộc sống. Cuộc sống là
muôn màu muôn vẻ, con người luôn có những mối quan hệ phức tạp. Bởi vậy
khi nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng cuộc sống và con người ta không được
dễ dãi, đơn giản, phiến diện, công thức. Người đàn bà làng chài đã dạy cho
Phùng và Đẩu một bài học về cách nhìn nhận cuộc sống từ đó giúp người đọc
rút ra rằng cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để từ đó đưa nghệ thuật
vươn tơi chiều sâu nhân bản “ Nghệ thuật phải gắn liền với đạo đức”.
Làm nên thành công của hình tượng người đàn bà nói riêng và tác phẩm
nói chung, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tạo ra một tình huống truyện mang
tính khám phá, nhận thức, phát triển đời sống. Ngôn ngữ kể chuyện khách
quan, giàu sức thuyết phục mang đến cho người đọc nhiều bất ngờ thú bị và
thương cảm lẫn cảm phục. Nhân vật được đặt trong những tình huống khác
nhau, được khắc họa khách quan, chân thực, vừa có cá tính sắc nét vừa có tính
điển hình; ngôn ngữ nhân vật sinh đông, phù hợp với tính cách.

Tóm lại, người đàn bà hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”
là hiện thân của vẻ đẹp về đức hi sinh, lòng nhân ái bao dung của người phụ nữ
Việt Nam trong mọi thời đại, đặc biệt là thời kỳ đổi mới. Tấm lưng bạc phếch,
ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con có lẽ sẽ còn
ám ảnh rất lâu trong tâm trí độc giả. Qua đó, Nguyễn Minh Châu không chỉ chia
sẻ niềm cảm thông của mình với những số phận đau khổ tuổi nhục của những
người lao động vô danh trong xã hội; mà còn lên án, đấu tranh với cái xấu, cái
ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình; đồng thời phát hiện, ngợi ca những
phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Từ đó, nhà văn đặt ra trách nhiệm cho
đông đảo tầng lớp và nghệ sĩ phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều về con người
và cuộc đời như điều nhà văn từng bộc bạch: “Cuộc đời thì đa sự, con người thì
đa đoan.”

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT NGƯỜI ĐÀN ÔNG


Trong văn học cách mạng trước năm 1975, thước đo giá trị chủ yếu của nhân
cách là sự cống hiến, hi sinh cho cách mạng, là các tiêu chuẩn đạo đức cách
mạng được thể hiện chủ yếu trong mối quan hệ với đồng chí, đồng bào. Tuy
nhiên, sau 1975, văn chương trở về cuộc sống đời thường mà Nguyễn Minh
Châu là người tiên phong trong giai đoạn đổi mới văn học. Ông hướng ngòi bút
vào những vấn đề thường nhật luôn day dứt, âm ỉ trong mỗi con người mà
người đàn ông trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là minh chứng tiêu biểu.
“Chiếc thuyền ngoài xa” – những tưởng cái tên sẽ mang lại một viễn cảnh
đẹp đẽ nhưng Nguyễn Minh Châu lại vẽ nên những nét vẽ hiện thực tàn khốc,
ám ảnh con người. Đó là hình ảnh người đàn ông “mái tóc tổ quạ”, “chân chữ
bát”, “tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền” đang “rút trong
người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa” quật tới tấp vào người
đàn bà. Một cảnh bạo lực gia đình xuất hiện ngay sau bức tranh “mực tàu”,
“trời cho” như một trò đùa ngang trái của cuộc đời. Chứng kiến cảnh bạo lực,
Phùng không khỏi không ngạc nhiên bởi lẽ anh là một người cầm súng quyết hi
sinh tính mạng vì sự bình yên của cuộc sống. Những tưởng chiến tranh khép lại,
con người sẽ có một cuộc sống sung túc nhưng không, nơi chiến trường khói
lửa ác liệt còn để lại những chiếc xe tăng cháy trên bãi biển, vẫn còn những
trận đòn roi bằng dây thắt lưng của lính ngụy lên lưng người đàn bà như một lẽ
hiển nhiên của cuộc sống. Người đàn ông vốn dĩ là trụ cột trong gia đình, là
người yêu thương vợ con hết mực. Song, ở đây người đàn ông lại trở nên vũ
phu, độc đoán, vô lương tâm. Bạo lực gia đình vốn là điều mà không một ai
mong muốn. Nhưng đối gia đình hàng chài kia, nó lại cứ lặp đi lặp lại, trở thành
một thứ dao găm đâm thẳng vào trái tim đang gỉ máu của những con người vô
tội. “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” đến nỗi người đàn bà
phải xin chồng lên bờ đánh để tránh ánh mắt của những đứa con. Người đàn
ông cứ thế mà mặc nhiên trút những cơn giận lên người đàn bà, rồi dần dần trở
thành một người chồng tàn nhẫn. “Cứ ngồi nguyên đấy, động đậy là tao giết cả
mày đi bây giờ”, “chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Lời nói của những kẻ
đang lâm vào bước đường cùng, mở miệng ra là đòi giết, muốn người khác phải
chết. Nhưng liệu có phải vì một nguyên nhân nào đó mà ông trở nên như vậy
hay chăng?
Có lẽ ngay lúc này đây, Phùng rất căm phẫn trước hành động thô bạo ấy của
lão . Phùng muốn chạy đến đánh cho hắn một trận thật đau để trả lại nỗi oan
ức cho người đàn bà đau khổ và đứa con tội nghiệp của bà. Nhưng cho đến khi
nghe được những lời trải lòng của người đàn bà về người chồng, Phùng mới vỡ
lẽ ra lí do mà người đàn ông ấy trở nên thô bạo như vậy. Anh đã từng là một
anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, lại sẵn sàng cưới một cô vợ rỗ mặt
như người đàn bà, cũng nghèo khổ, túng quẫn vì trốn lính, không biết uống
rượu, không đánh đập vợ con. Thế nhưng, khi đối mặt với gánh nặng cơm áo,
người đàn ông lại trở nên gục ngã, đầu hàng trước một kẻ thù luôn đeo bám
dai dẳng. Có lẽ, anh cũng muốn trở thành một người chồng tốt, một người cha
gương mẫu nhưng anh lại không thể đấu tranh chống lại cuộc sống nghèo khổ,
vì thế mà anh phải trút bỏ cơn giận lên người vợ của mình. Nói như Nam Cao:
“Đau đớn thay cho những kiếp sống muốn cất cánh bay cao nhưng lại bị cơm
áo ghì sát đất”. Đâu ai biết được rằng đằng sau thân hình to lớn và những hành
động thô bạo ấy là một nạn nhân của cuộc sống mưu sinh đói khổ. Cuộc sống
túng quẫn, tối tăm đã biến một con người hiền lành thành một người chồng vũ
phu. Quả thực, nghèo khổ đã trở thành một thứ thuốc độc có thể giết chết bản
tính con người.
Cũng chính trong cuộc sống lầm than ấy, vai trò của người đàn ông càng
được nâng cao. Gia đình hàng chài kia không thể chuyển lên bờ được vì ngoài
đánh cá ra họ không biết làm việc gì khác để kiếm sống. Đó cũng chính là hệ
quả của việc cải cách đời sống chưa triệt để sau những năm đổi mới giành
thắng lợi. Cuộc sống lênh đênh trên chiếc thuyền nhỏ bé kia luôn phải đối mặt
với những cơn sóng dữ dội của biển đời mênh mông. Vì thế, họ cần một người
đàn ông trên thuyền để chèo chống khi mọi phong ba bão táp ập đến. Như
thế, dù người chồng có tàn bạo, vũ phu bao nhiêu nhưng trên hết họ vẫn có
sức để bảo vệ gia đình trước những bão giông. Thì ra những gì ta thấy chưa hẳn
là sự thật. Đằng sau cái đẹp là một sự thật tàn nhẫn nhưng đằng sau sự thật ấy
cũng là một vẻ đẹp của nhân tính.
Người đàn ông – cách gọi phiếm định của tác giả để chỉ đến một tầng lớp
người đang ngày đêm chiến đấu với cuộc sống. Họ trở thành một nạn nhân
đáng thương nhưng cũng đáng trách trong xã hội thời kì hậu chiến. Có lẽ cuộc
chiến chống đói nghèo và lạc hậu càng đau đớn hơn, dai dẳng hơn cuộc chiến
vừa đi qua. Tất cả mọi người đều phải nỗ lực để thoát khỏi cảnh sống túng
quẫn. Người đàn ông chỉ xuất hiện hai lần trong truyện nhưng cũng đủ sức để
cảnh tỉnh mọi người rằng: Cuộc chiến chống đói nghèo tuy sẽ rất gian nan
nhưng không được để nhân cách con người bị tha hóa, không được dễ dàng
đầu hàng số phận mà phải vượt lên trên nó để bảo vệ những giá trị cao đẹp của
bản thân, đừng để tâm hồn ta bị vấy bẩn bởi những thứ thuốc rữa quái đản.
Người đàn ông đã để lại dư chấn trong lòng người đọc một ám ảnh về sự
tha hóa nhân cách. Đó còn là lời nhắc nhở khéo léo của Nguyễn Minh Châu tới
thế hệ hôm nay. Rằng người đàn ông luôn đóng vai trò quan trọng trong gia
đình, phải biết yêu thương vợ con. Càng lúc khó khăn, càng phải giữ tinh thần
lạc quan và giàu tình thương.

NHẬN THỨC VỀ CON NGƯỜI VÀ CUỘC SỐNG


CỦA MINH CHÂU QUA TRUYỆN NGẮN “CHIÊC
THUYỀN NGOÀI XA”
“Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thực tế và trên trang sách. Nhưng cuộc
sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu buồn. Cái nên thơ
còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời”( Nguyễn Văn Thạc).Hiện thực cuộc sống bao
giờ cũng là một thế giới đầy phức tạp và bí ẩn buộc người nghệ sĩ phải dấn thân
khai phá để nâng đỡ những cái đẹp trong đời.Cảm quan về hiện thực mà tác giả
gởi gắm trong trang viết sẽ đưa đến cho người đọc những góc nhìn đa
chiều,những nhận thức mới mẻ về con người và cuộc sống.Ý thức rõ sứ mệnh
cao cả của người nghệ sĩ,Nguyễn Minh Châu đã nỗ lực đi những “hạt ngọc” của
đời sống,của tâm hồn con người giữa những bộn bề,phức tạp,đa diện của hiện
thực.Chiếc thuyền ngoài xa là điểm quy tụ những phát hiện mới mẻ của
Nguyễn Minh Châu về con người và cuộc sống sau chiến tranh thông qua hành
trình nhận thức của nhân vật Phùng.
Nếu văn học Việt Nam trước năm 1975 mang đậm khuynh hướng sử thi và
cảm hứng lãng mạn thì văn học sau năm 1975 lại phản ánh hiện thực cuộc sống
như nó vốn có,tìm về với những đề tài bình dị,phản ánh mọi góc độ của đời
sống.Các tác giả thời chiến tranh đã khá triệt để trong việc thi vị hóa nhân vật
để khẳng định niềm tin vào tính chất “bất khả chiến bại” của cái đẹp tinh thần,
của cái thiện. Sau chiến tranh, sau không khí tráng ca, mọi người có điều kiện
bình tâm để nhìn lại, rõ hơn, kĩ hơn về những góc khuất cùa đời thường những
phức tạp mới nảy sinh trong đời sống con người, thậm chí trong mỗi bản thân
con người. Trong đó có cả chiều sâu, sự chín chắn của cái nhìn quá khứ hãy còn
ấm nóng. Nguyễn Minh Châu đã làm công việc của người đi khai phá, mở
đường với những ngã rẽ mà sau này, nền văn học sẽ đi qua. Tác giả viết về hiện
thực trần trụi những năm 1980 để đối mặt với hai vấn đề : nỗi lo của cuộc sống
mới với gánh nặng cơm áo gạo tiền và sự tha hóa,biến chất theo kiểu mới của
con người,đời sống cá nhân phát triển với nhiều đòi hỏi riêng.Nguyễn Minh
Châu đã dũng cảm bước vào cùng nhân dân trong cuộc chiến đấu cho quyền
sống con người.Với niềm tin bất diệt vào bản chất tốt đẹp của con
người,Nguyễn Minh Châu đã đi vào khai thác mọi góc khuất,tầng bậc trong đời
sống tinh thần của con người để nêu cao quan điểm nghệ thuật :“Mỗi con
người đều chứa đựng trong lòng những nét đẹp đẽ,kì diệu đến nỗi cả một đời
cũng chưa đủ để nhận thức và khám phá”.Phải chăng vì thế,mỗi sáng tác của
ông đều để lại những cơn dư chấn tâm hồn,buộc người ta phải suy tư nghiêm
túc về bản chất con người,bản chất hiện thực? Đọc Chiếc thuyền ngoài xa,có
biết bao suy nghĩ đang ngủ quên trong khối óc bình yên của con người được
đánh thức.Đó là những suy nghĩ về cuộc sống của những kiếp người lao động
nghèo khổ ở vùng biển nghèo sau chiến tranh cùng những biến suy của bản
chất con người,cả những mong ước nhỏ bé và đầy tội nghiệp bị cuộc sống vùi
dập và cuốn trôi đi mất…
Trước hết nhà văn đã tái hiện bức tranh chân thực về cuộc sống của người
đàn bà hàng chài qua lời đối thoại giữa người đàn bà với nhân vật Đẩu.Đó là
một cuộc sống vô cùng khó nhọc.Bao nhiêu khốn khổ,cơ cực hằn in trên dáng
và khuôn mặt của người đàn bà miền biển: "trạc ngoài 40", "mặt rỗ", "thân
hình cao lớn thô kệch", “mụ rổ mặt”, "gương mặt lộ rõ sự mệt mỏi sau một
đêm thức trắng kéo lưới" …Trong suốt cuộc trò chuyện với Đẩu,mỗi lời thoại
đều như dốc ra nỗi lo âu,mệt nhoài,những bất hạnh đeo bám cả một quãng đời
nghèo khổ của chị. Thực tế đó quả là bài toán khó, mầm độc ấy không phải thứ
kẻ thù như trong chiến tranh mà một người lính đã từng cầm súng chiến đấu
như nhân vật Đẩu có thể giải quyết hay thỏa hiệp, chấp nhận một cách dễ
dàng. Cuộc sống người dân chài vùng biển đầy giồng bão. Con thuyền ngư phủ
phải chống chọi với nhiều sóng gió của biển khơi,lênh đênh trên mặt nước
quanh năm suốt tháng để cầu thực,để có miếng ăn sống qua ngày.Cay đắng
hơn, một thứ giông bão khác do chính con người tạo ra đầy nghiệt ngã,sức tàn
phá, hậu quả mà nó để lại thật khủng khiếp. Đó là thứ giông bão nổi lên từ lòng
thuyền, từ trong con thuyền,là cuộc sống đói nghèo, lam lũ mà chính con người
gây ra cho con người.Người đàn bà không còn lựa chọn nào khác cho sự tồn
sinh của cả gia đình bằng cách chấp nhận thực tại khổ đau.Bởi vậy, hoàn cảnh
sống quyết định rất nhiều đến sự lựa chọn cuộc sống của con người mà không
phải lúc nào con người cũng có quyền lựa chọn theo ý muốn. Sống cho mình
hay sống vì các con, sống trên bờ hay sống ở dưới nước đều là những câu hỏi
khiến người đàn bà hàng chài phải băn khoăn suy nghĩ.
Hiện thực buồn đau của những người lao động cùng khổ qua ngòi bút của
Nguyễn Minh Châu đã trở thành nỗi trăn trở lớn.Chân dung của người đàn bà
là chân dung điển hình của những kiếp lao động cơ cực,bất hạnh sau chiến
tranh,là nỗi đau lớn của cả một thời đại. Tác giả chỉ gọi là “người đàn bà” một
cách phiếm định nhưng người đàn bà vô danh này lại là điển hình cho số khiếp
những phụ nữ bất hạnh khác trên vùng biển nghèo khổ .Người đàn bà thầm
lặng chịu đựng mọi đớn đau,khi bị chồng đánh, nhẫn nhục chịu đựng sự hành
hạ của chồng,lầm lũi với kiếp sống mưu sinh đầy cam go trên chiếc thuyền con
giữa biển khơi kia là mặt trái của đời sống sau chiến tranh mà không phải ai
cũng nhận thức rõ.Hơn nữa,bức chân dung trần trụi về người chồng cũng tô
đậm tính chất khắc nghiệt của đời sống,nó như thứ thuốc rữa làm suy biến tính
người trong con người. Trong đời vẫn có những kẻ như thế, nói như Nam Cao
trước kia, chỉ để thoả mãn lòng ích kỷ, chúng tự cho mình cái quyền được hành
hạ mọi người. Lão đàn ông “chân chữ bát”, “mái tóc tổ quạ”, “hai con mắt đầy
vẻ độc dữ”, vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên
bao đau khổ cho chính những người thân của mình.Đó là hiện thực buồn đau
mà Nguyễn Minh Châu đưa vào trang viết để thức tỉnh nhận thức con
người:cuộc chiến đấu với đói nghèo lạc hậu còn diễn ra dai dẳng lâu dài,nó
cũng khốc liệt chẳng kém gì cuộc chiến chống ngoại xâm vừa qua đi.
Cảm quan mới mẻ về hiện thực của Nguyễn Minh Châu còn nằm ở những
phát hiện thú vị về bản chất tốt đẹp ở con người,đó là lõi trầm làm nên giá trị
nhân đạo đẹp đẽ cho toàn thiên truyện.Cuộc đối thoại giữa người đàn bà hàng
chài và chánh án đã mở ra một nghịch lý: đằng sau khuôn mặt bất hạnh và dáng
vẻ cam chịu kia là cả một kho báu tinh thần với vẻ đẹp sáng trong của tình yêu
và tình mẫu tử.Trong câu chuyện ở tòa án huyện, chị tỏ ra là một người đàn bà
sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời, có cái nhìn sâu sắc và đồng cảm. Hóa ra, ở người đàn
bà xấu xí và tội nghiệp này là cả một hiện thực “bất khả tri”.Người đàn bà vẫn
cảm thông cho những hành động tàn bạo của chồng,vẫn nhẫn nhục chấp nhận
đòn roi chỉ đơn giản trong cuộc mưu sinh đầy cam go, trên chiếc thuyền kiếm
sống ngoài biển xa cần có một người đàn ông khoẻ mạnh và biết nghề, chỉ vì
những đứa con của bà cần được sống và lớn lên. Và vì không muốn những tâm
hồn non nớt của những đứa con bị ám ảnh bởi những trận bạo hành mà chị đã
xin với chồng “đưa lên bờ mà đánh”. Như vậy người đàn bà vùng biển này cũng
như cô Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng” đều là kiểu “hạt ngọc ẩn”mà
Nguyễn Minh Châu cả đời tìm kiếm. Có điều cô Nguyệt trong Mảnh Trăng cuối
rừng là mẫu hình lí tưởng chỉ để mơ ước, để ngắm nhìn chứ không có thực còn
người đàn bà vùng biển trong tác phẩm này thì hiện lên từ những lấm lem bụi
đời. Chị ta là “hạt ngọc ẩn” bởi lẽ đằng sau cái vẻ ngỡ như thô vụng thậm chí là
u tối người đàn bà này không phải không có những suy nghĩ sắc sảo sâu xa…
Nguyễn Minh Châu một lần nữa đã khẳng định niềm tin bất diệt vào bản chất
tốt đẹp của con người.Ánh sáng tỏa ra từ đáy lòng nhà văn cũng chính là chủ
nghĩa nhân đạo thấm thía của toàn thiên truyện.
Tóm lại, từ cái nhìn nhân đạo, Nguyễn Minh Châu phát hiện ra đằng sau câu
chuyện buồn của cuộc đời người đàn bà hàng chài là vẻ đẹp của tình mẫu tử, là
sự hy sinh nhẫn nhịn, là lòng vị tha và sự thấu hiểu sâu sắc lẽ đời, là bản lĩnh
của người phụ nữ hiện đại . Đó là “hạt ngọc ẩn giấu” trong cái lấm láp đời
thường mà người nghệ sĩ phải đi sâu tìm hiểu và khám phá, ca ngợi và nâng
niu. Nguyễn Minh Châu đã để lại cho chúng ta bài học nhận thức thật sâu sắc
về cuộc sống, con người : Để đánh giá đúng bản chất của con người và cuộc
sống, ta không thể chỉ dựa vào sự quan sát bề ngoài, không chỉ nhìn ở hiện
tượng với những phán đoán chủ quan mà cần đi sâu vào thực tế để tìm hiểu và
nhìn nhận chính xác trên nhiều phương diện khác nhau.Điều quan trọng khi
đánh giá cuộc sống đó là sự hiểu biết và từng trải qua thực tế. Và nhà văn còn
đặt ra những vấn đề xã hội rất bức thiết với con người. Đó là sự phụ thuộc của
con người vào hoàn cảnh sống, là sự hình thành nhân cách trẻ thơ dưới sự tác
động của môi trường sống, là cách đánh giá về con người đâu chỉ phiến diện,
một chiều dựa trên chuẩn mực đạo đức khuôn sáo, cứng nhắc thông thường
mà cần cái nhìn cảm thông, linh hoạt và chia sẻ. Nếu như trong văn học giai
đoạn trước, khi đề cập đến số phận con người, bao giờ các nhà văn cũng theo
khuynh hướng lí tưởng hóa nhân vật, đề cao khả năng con người vượt qua
nghịch cảnh và những tác động của môi trường, xã hội mới sẽ giúp con người
tìm thấy hạnh phúc thì văn học sau năm 1975, họ đã khai thác sự thật về cuộc
sống với những gì nghiệt ngã nhất. Khi diễn tả sự vận động trong tính cách con
người, các nhà văn cũng nhìn theo chiều hướng tích cực, từng bước vượt lên
hoàn cảnh, hồi sinh tâm hồn. Cách nhìn minh họa ấy không tránh khỏi cái nhìn
phiến diện, đơn giản một chiều về cuộc sống. Nhưng Nguyễn Minh Châu đã có
sự đổi mới trong các sáng tác của mình, truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là
một minh chứng tiêu biểu.Truyện ngắn với giá trị cao đẹp của nó sẽ chiếm lĩnh
bền sâu trong trái tim bạn đọc.
Cảm quan nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu quả thực sâu sắc.Đọc văn
Nguyễn Minh Châu bao giờ người ta cũng nhìn thấy “đôi mắt mở to, khắc
khoải, bồn chồn,đầy nghiêm khắc” của nhà văn khi nhìn vào bản chất đời
sống.Đó là bản sắc riêng làm nên phong cách độc đáo của Nguyễn Minh
Châu,đó cũng là sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ trên con đường đưa văn học
trở về với đời sống : “Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý
khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương
yêu hơn. (Thạch Lam)

NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN


Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, dù có là tiểu thuyết hay truyện ngắn,
cốt truyện thường không đóng một vai trò nào đáng kể. Nhà văn tập trung chú
ý vào thân phận con người, tính cách nhân vật và đã huy động vào đấy tâm hồn
đa cảm dồi dào ấn tượng tươi mới và xúc động về cuộc sống, bút pháp chân
thực và một giọng văn trữ tình trầm lắng ấp áp". Có thể nói Chiếc thuyền ngoài
xa là một biểu hiện của xu hướng tìm tòi khám phá trong văn của Nguyễn Minh
Châu, trở về với đời thường, với mảnh đất miền Trung cằn cỗi và cơ cực, đau
đáu đi tìm câu hỏi cho những phận người trong cuộc sống đời thường trăm
đắng ngàn cay. Trong nghệ thuật viết truyện người ta thường chú ý tới 3 yếu tố
quan trọng nhất:nghệ thuật trần thuật, nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ
thuật xây dựng tình hưống truyện.Trong tác phẩm đầy tâm sự của mình - tác
phẩm "chiếc thuyền ngaòi xa" - Nguyễn Minh Châu đã thành công trên cả 3 yếu
tố đó, xây dựng thành công tình huống truyện, chọn điểm nhìn trần thuật sắc
sảo và xây dựng nhân vật mang đậm tư tưởng nghệ thuật
Trước hết nói về tình huống truyện, đây được coi là vấn đề then chốt quyết
định sự thành công của một truyện ngắn, đó có thể chỉ là một khoảnh khắc
nhưng qua đó mà cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất, tình huống truyện có khi
chỉ là một sự việc, một hoàn cảnh riêng, một cảnh ngộ xuất hiện nhưng ở đó nó
buộc nhân vật phải bộc lộ hết tính cách phẩm chất của mình đồng thời qua đó
cũng diễn tả hết ý đò nghệ thuật tư tưởng của tác gải, bộc lộ tư tưởng và tài
năng của người cầm bút!.Hay nói như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh thì tình
huống truyện chính là thứ nước rửa hình mà qua đó các nhân vật nổi hình nổi
khối, đó chính là lát cắt nhưng qua đó ta hiểu được trăm năm của đời thảo
mộc, nó chính là hạt nhân cấu trúc sắm vai trò tổ chức trong tác phẩm.Nếu “Vi
hành “độc đáo bởi tình huống nhầm lẫn, “Vợ nhặt” éo le vơí tình huống nhặt
vợ cười ra nước mắt, thì đến với tình huống trong “Chiếc thuyền ngoài xa”,
người đọc được tiếp xúc với tình huống nhận thức đầy sự trải nghiệm cùa nhân
vật ,đưa người đọc từ sự vỡ lẽ này đến vỡ lẽ khác.Truyện xoay quanh sự khám
phá ra chân lí của Phùng -một nghệ sĩ nhiếp ảnh được giao nhiệm vụ đi thực tế
để chụp bức ảnh bổ sung cho bộ lịch sang năm với lời dặn cũng là tiêu chuẩn
như đinh đóng cột của ông trưởng phòng: một bức ảnh tính vật,đơn cảnh
không có người!.Sau bao ngày phục kích, cuối cùng Phùng cũng bắt gặp một
cảnh đắt trời cho nhưng ngay sau đó lại chứng kiến cảnh bạo lực của gia đình
làng chài. Một tình huống vô cùng nghịch lí nhưng lại mở ra trong Phùng cái
nhìn mới mẻ về con người và cuộc đời. Nghệ thuật như bức ảnh kia,chỉ là
khoảnh khắc,còn cuộc sống lại là vô bờ hữu hạn,nghệ thuật không thể phản
ảnh cái hời hợt mà phải bắt nguồn từ đời sống và phục vụ đời sống.Con thuyền
nghệ thuật của Phùng lúc đầu ở rất xa vời,cái giây phút thăng hoa ấy người
nghệ sĩ đã quên rằng trên chính bãi biển ấy thôi gần chỗ chân anh đứng còn
ngổn ngang những chiếc xe rà phá bom mìn của lính Mĩ từ hồi 75,chính vì thế
phải chăng mà sự vỡ lẽ ấy chính là thông điệp Nguyễn Minh Châu gửi gắm vào
nghệ sĩ Phùng-nghệ thuật còn ở quá xa cuộc đời,phải làm sao kéo con thuyền
nghệ thuật ấy gần đến bến bờ của cuộc sống,và để thực hiện thiên chức
ấy,người nghệ sĩ không thể nhìn đời hời hợt nông cạn chỉ khám phá cái bản
chất bề ngoài của sự vật hiện tượng mà phải đi sâu khám phá tìm tòi để tìm
thấy chất “ngọc “ trong chính cuộc sống tưởng chừng như thô ráp kia.Đó chính
là điều tâm niệm mà suốt đời cầm bút Nguyễn Minh Châu luôn thực hiện:”truy
tìm hạt ngoc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người”.Cũng có phải thế không
mà sau khi thấu hiểu vỡ lẽ ra nhiều điều,trong con mắt của người nghệ sĩ
Phùng,vẫn con thuyền ấy, vẫn khoảng cách xa ấy,không còn là cái ánh hồng
hồng của ban mai mà là hình ảnh con thuyền chống chọi giữa sóng gió phong
ba của cuộc đời với bao trăn trở suy tư của người nghệ sĩ,và phải thế không mà
bức ảnh nghệ thuật mà nghệ sĩc Phùng đã chụp ảnh trơ rhtành một tác phẩm
có giá trị,khác với những người sành nghệ thuật, Phùng nhận ra trong bức ảnh
đen trắng ấy vẫn có nét hồng hồng của ánh ban mai -hiện thân cho vể đẹp của
cuộc đời mà nghệ thuật đã khám phá được -và hình ảnh người đàn bà
với”khuôn mặt rỗ,tấm lưng áo bạc phếch ‘-hiện thân cho bao nhiêu trái ngang
nghịch lí ở đời-bước ra từ chiếc thuỳên kia.Chỉ có con mắt người nghệ sĩ từng
trải giàu kinh nghiệm sống ấy mới có khả năng phát hiện ra đằng sau vẻ đẹp ấy
là bao trái ngang uẩn khúc ở đời.Và như vậy,chiếc thuyền nghệ thuật dù ở xa
hay ở gần thì cuối cùng tâm điêm vẫn là con người nhưu Nguyễn Minh Châu
từng quan niệm”Văn học và cuộc sống đều là những vòng tròn đồng tâm mà
tâm điểm là con người”.Như vậy tình huống truyện nhận thức ấy đã đem đến
cho người đọc bao nhiêu bài học “trông nhìn và thưởng thức”,thực sự là một
tình huống độc đáo và sâu sắc!
Một trong những đặc sắc và thành công của Nguyễn Minh Châu ở tác phẩm
này chính là nghệ thuật trần thuật với cách lựa chọn điểm nhìn trần thuật sắc
sảo.Trao ngòi bút cho Phùng-người nghệ sĩ và cũng là người nghệ sĩ năm xưa
từng vào sinh ra tử trên chính chiến trường ASo-và giờ đây là mảnh đất anh
đang phục kích tìm kiếm bức ảnh nghệ thuật,Nguyễn Minh Châu đã để cho
Phùng đi từ những giây phút thăng hoa của nghệ thuật đến những ngỡ ngàng
đến cực độ khi chứng kiến những hiện thực đến nghiệt ngã để rồi cùng với đó
là xót xa vỡ lẽ ra nhiều chân lí trong cuộc đời và mối quan hệ giữa cuộc đời và
nghệ thuật, qua đó cũng gửi gắ nhiều ý đồ tư tưởng nghệ thuật của mình về
cuộc đời và nghệ thuật. Cái sắc sảo và tinh tế trong cách đặt điểm nhìn trần
thuật ở Phùng còn là chỗ Phùng đã từng chiến đấu và chiến thắng trong cuộc
đấu tranh bảo vệ độc lập tư do của dân tộc,nhưung trở lại đây anh -bất lực
trước hậu quả của đói nghèo.Đó phải chăng cũng chính là hồi chuông dóng lên
cảnh tỉnh về cuộc chiến mới còn gian khổ ác liệt hơn nhiều cuộc đấu tranh bảo
vệ Đất nước kia,đó phải chăng chính là sự thức nhọn giác quan của người cầm
bút như Nguyễn Minh Châu trước sự thay đổi của hoàn cảnh đất nước!
Bên cạnh đó, thành công của Chiếc thuyền ngoài xa còn ở chỗ truyện đã
xây dựng thành công một dàn nhân vật đặc sắc. Đã có nhiều ý kiến cho rằng
Nguyễn Minh Châu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ phong cách nghệ thuật của
Nam Cao, cũng cái nhìn khách quan hiện thực đến lạnh lùng thản nhiên của
một cây bút của trường phái hiện thực chủ nghĩa, cũng tính triết lí sâu sắc. Nếu
như Nam Cao xây dựng kiểu nhân vật trong trạng thái lưỡng cực: nửa tình nửa
say, nửa đúng nửa sai, trong ngóc ngách sâu kín nhất của tâm hồn con người...
thì đến với Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu người đọc cũng mơ
hồ nhận ra một nét tương đồng. Trong “êkip” nhân vật của mình, Nguyễn Minh
Châu khắc hoạ luôn trên hai phương diện mà chính ông một lần đã khẳng định
trong “Bức tranh” con người có cả phần rồng phượng và phần rắn rết, có cả
thiên thần và ác quỷ! Phải thế không mà cái hăm hở giải phóng con người của
Phùng và Đẩu là tốt chứ nhưng lòng tốt chưa đủ, bởi nó thiếu cái nhìn hiện
thực đa chiều, phải thế không mà người đàn ông kia trong con mắt của thằng
Phác và Phùng, Đẩu anh ta là thủ phạm cho hành động đánh vợ như trút lửa là
kẻ xấu kẻ ác, là người “cả nước này mới có một người chồng như hắn”, nhưng
trong cái nhìn đầy vị tha của người đàn bà làng chài kia thì anh ta lại đích thị là
nạn nhân của hoàn cảnh nghèo đói, chứ không phải bản chất. Và hành động
đánh lại bố mình của thằng bé Phác xuất phát điểm là tình thương mẹ vô bờ
bến đáng để trân trọng biết bao, lại đáng lên án biết bao bởi trái với luân
thường đạo lí của dân tộc Việt ,...Như vậy, xây dựng nhân vật kiểu như thế
Nguyễn Minh Châu cũng đã tiên phong trong việc đổi mới cách xây dựng nhân
vật trong thời điểm lúc bấy giờ của văn nghệ Việt Nam, đó là khác hoạ nhân vật
đa chiều nhiều tính cách khác hẳn với thời kì văn học 45-75 bởi cuộc đời vốn đa
đoan mà con người lại đa sự!Đó phải chăng cũng là trăn trở của Nguyễn Minh
Châu trước sự đổi mới thiết yếu của văn học nghệ thuật nước nhà sau giải
phóng!
Việc lựa chọn người kể, vai kể trong truyên ngắn “Chiếc thuyền ngoài
xa” nằm trong dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Với việc chọn vai kể ngôi thứ
nhất- một nghệ sĩ nhiếp ảnh tự kể chuyện mình- nhưng trong quá trình kể có
sự dịch chuyển vai kể và điểm nhìn, lời người kể chuyện trong tác phẩm vừa
mang tính chủ quan- chân thực vừa mang tính khách quan- đáng tin đồng thời
có tính trữ tình-  triết luận. Những đặc điểm trên tạo nên giọng điệu vừa triết lí
suy tư, vừa trữ tình sâu lắng, phù hợp với nội dung tư tưởng của tác phẩm. Đó
là những suy ngẫm, chiêm nghiệm của nhà văn về mối quan hệ giữa nghệ thuật
và cuộc sống về cuộc đời, về con người: nghệ thuật chân chính phải luôn gắn
với cuộc đời và vì cuộc đời; cần phải nhìn con người và cuộc sống một cách đa
diện nhiều chiều thì mới có thể tránh được cái nhìn ấu trĩ, giản đơn. Có thể nói,
đặc điểm lời người kể chuyện đã góp phần đưa thông điệp của nhà văn đến với
người đọc một cách tự nhiên mà thấm thía. Đồng thời nó tạo nên phong cách
ngôn ngữ riêng của nhà văn. Thêm vào đó giọng điệu, ngôn ngữ đầy chiêm
nghiệm, suy tư, trăn trở phù hợp với tình huống nhận thức. Đồng thời cũng làm
nên nét đặc trưng trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu

GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO TRONG


“CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA”
Nguyên Ngọc đã từng khẳng định Nguyễn Minh Châu “thuộc trong số những nhà
văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học hiện nay.” bởi lẽ ông đã đi sâu
vào khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự - điều mà không nhiều nhà
văn quan tâm vào những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Cùng với “Bến quê”, “Cỏ lau”,
“Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”…, truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là
sáng tác đặc sắc của nhà văn thời kỳ đổi mới sau 1975. Tác phẩm rất tiêu biểu cho
hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn này. Có thể nói, nội
dung nhân đạo là một trong những lý do chính làm nên thành công của tác phẩm.

Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính
được tạo nên bởi niềm cảm thong sâu sắc của nhà văn với nỗi đau của những con
người, những cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống. Đồng thời, nhà văn còn thể hiên sự
nâng niu, trân trọng với những nét đẹp trong tâm hồn và niềm tin khả năng vươn dậy
của con người dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào của cuộc đời.
Trước hết, giá trị nhân đạo trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là sự đồng
cảm của nhà văn đối với cuộc đời người lao động sau chiến tranh thông qua
việc thương xót cho số phận người phụ hàng chài. Đọc và tìm hiểu tác phẩm
qua ngòi bút của Nguyễn Minh Châu, ta được cảm nhận trọn vẹn bức tranh đời
sống của một gia đình hàng chài tại vùng biển miền Trung. Người phụ nữ hàng
chài hiện lên với biết bao khó nhọc, phải gánh chịu tất cả những nỗi đau khổ,
cơ cực, bế tắc của gia đình. Chị vừa là vợ vừa là mẹ, lam lũ sống bằng nghề lưới
vó nuôi con trên chiếc thuyền chật hẹp. Việc khắc họa ngoại hình người đàn bà
“cao lớn với những đường nét thô kệch” càng làm tăng cấp hơn cái khổ, cái cực
của chị. Ngoài nỗi lo toan về miếng cơm manh áo, chị còn một nỗi đau khác, nỗi
đau vì bị chồng bạo hành. Lão chồng cứ khi nào thấy khổ là lôi chị ra đánh,
đánh trên thuyền, đánh cả lúc vào bờ. Nỗi sợ ấy đè nặng lên chị cả về thể xác
lẫn tinh thần như một màn đêm luôn vây bủa. Thông qua những khổ đau ấy
của chị, nhà văn đã cất lên lời phê phán, tố cáo đanh thép hành động vũ phu
thô bạo của người chồng trong đối xử với vợ, với con. Nhưng đâu chỉ có thể,
Nguyễn Minh Châu còn thể hiện nỗi lo âu, khắc khoải về tình trạng nghèo khổ,
tối tăm của người dân lao động – nguyên nhân sâu xa của sự bạo hành, nhẫn
nhục và chịu đựng. Đồng thời, thông qua cậu bé Phác – đứa con trai của hàng
chài - ông cũng bày tỏ niềm trắc trở, quan hoài của mình về thế hệ trẻ tương lai
khi phải sống trong cảnh đói nghèo, bạo lực của gia đình. Những dòng văn của
Nguyễn Minh Châu rất thật, khiến tim ta như quặn thắt lại trước nỗi bất hạnh
của những người lao động sau chiến tranh. Phải tha thiết với cuộc sống bao
nhiêu, yêu thương con người bao nhiêu, đào sâu vào nỗi đau tâm can bao
nhiêu mới có thể viết lên được những con chữ như thế? Tất cả đều xuất phát
từ tấm lòng sâu sắc của nhà văn.
Trong quá trình đi đào sâu vào hiện thực đời sống và tâm hồn, Nguyễn
Minh Châu đã khám phá ra những đóa hoa tỏa ngát hương trên vùng trời nhân
cách thông qua “Chiếc thuyền ngoài xa”, từ đó nhà văn hướng tới ca ngợi ca
phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ chài, nhiếp ảnh Phùng và chánh án Đẩu.
Ở nhân vật người đàn bà, trước hết ấy là tấm lòng của người mẹ thương
con vô bờ bến. Trước cuộc sống với những áp lực áo cơm đè nặng lên đôi vai,
chị chưa hề một lần than thở hay trách hờn số phận. Chị luôn cam chịu, nhẫn
nhục dẫu phải ăn đòn roi của người chồng bạo lực. “Cứ ba ngày một trận nhẹ,
năm ngày một trận nặng” nhưng chị “không hề kêu một tiếng, cũng không
chống trả” và cũng “không tìm cách chạy trốn” mà chỉ biết lặng im để chồng
mình qua cơn khốn khó mà bám nghề và kiếm tìm nuôi con. Tuy ít học nhưng
người đàn bà ấy lại vô cùng sâu sắc và thấu đáo. Chị lo sợ khi chứng kiến nạn
bạo lực này, tâm hồn con sẽ ván đục đi và hằn sâu trong tâm thức chúng sự thù
hận bố mình. “Các con đã lớn đừng đánh tôi trên thuyền, mà hãy đưa tôi lên
bờ mà đánh.” Thật chua xót và đau đớn làm sao! Không chỉ có vậy, người đàn
bà này còn rất có trách nhiệm và luôn kiên quyết với bổn phận làm mẹ. Dẫu
được khuyên về việc bỏ chồng, nhưng chị khăng khăng từ chối vì chị hiểu rằng
trên con thuyền ấy, không thể nào thiếu đi một người đàn ông để chèo chống
qua những mùa giông bão. Chị hiểu rõ, một mình chị không thể nuôi nổi bầy
con. Qủa thật “không có gì cao cả hơn một sự hi sinh thầm lặng” mà người đàn
bà này dành cho những đứa con của mình.
Ở người phụ nữ này, không chỉ thương con thôi đâu, mà chị còn rất bao
dung với chồng. Tòa án huyện mời chị lên để có hướng giải quyết. Lúc chị đối
diện với tòa án, tòa án khuyên chị là nên ly hôn gã chồng vũ phu tàn bạo kia để
cuộc đời chị bớt khổ. Nhưng chị biết, chỉ có chị mới hiểu nổi bức xúc của chồng,
chỉ có chị mới hiểu nỗi khổ đau, lam lũ của chồng. Trước tòa án, chị không hề
nói xấu chồng, hận chồng mà chị luôn bên vực cho chồng với tiếng nói chân
thành, tha thiết trước tòa án. Chị mượn quá khứ để bảo vệ chồng :“Lão chồng
tôi lúc ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh
đập tôi” và chị cũng nêu lên cuộc sống của gia đình trên thuyền “có lúc vợ
chồng, con cái chúng tôi sống hòa thuận vui vẻ”. Rồi chị quay sang tự trách
mình “giá mà đẻ ít đi” hoặc “sắm được một chiếc thuyền rộng hơn” thì cuộc
sống đã khác đi. Hàng loạt những vấn đề chị đưa ra hoàn toàn đúng với thực
tế, có cơ sở nhằm bênh vực cho chồng. Ấy là tất cả những yêu thương,, bao
dung và thấu hiểu mà chị dành cho người chồng “cùng khổ” như mình.
Tác giả đã khắc họa hình ảnh người đàn bà như một hình tượng nghệ
thuật sống. Cho dù hoàn cảnh có nhọc nhằn, đau đớn thân nhưng chị vẫn cam
chịu, nhẫn nhục để làm tròn trách nhiệm của người mẹ, của người vợ. Ấy chính
là phẩm chất cao đẹp mà Nguyễn Minh Châu muốn ngợi ca!
Một nhân vật khác với phẩm chất tốt đẹp mà nhà văn muốn ca ngợi
không ai khác chính là nhiếp ảnh Phùng. Dẫu không hề có quan hệ gì với gia
đình người phụ nữ hàng chài nhưng khi chứng kiến cảnh tượng chồng đánh vợ
tàn bạo, anh đã đứng về phía bị áp bức để chống trả lại nhầm bảo vệ nhân
phẩm của người phụ nữ, sau đó anh còn cùng Đẩu tìm lối thoát cho chị khỏi
cảnh lầm than. Không chỉ thế, anh còn có cái nhìn đúng đắn giữa nghệ thuật và
cuộc sống. Với anh, nghệ thuật luôn luôn đề cao cái đẹp, biết yêu cái đẹp
nhưng cái đẹp ấy phải dựa trên cái thật thì mới có giá trị. Như vậy, người nghệ
sĩ phải đi sâu vào đời sống con người, phải tha thiết với cuộc sống và phải yêu
thương con người từ sự rung động trong trái tim mình thì mới khám phá được
đời sống nội tâm của nhân vật, thấy rõ số phận của con người, từ đó mới tạo
nên nguồn cảm hứng trung thực của người cầm bút để xây dựng nên một tác
phẩm không chỉ có giá trị về nội dung và còn phải có giá trị về tư tưởng.
Người bạn của Phùng - chánh án Đẩu – cũng là nhân vật tiêu biểu trong
tác phẩm với những phẩm chất cao đẹp của mình. Anh thể hiện một cái tâm
trong sáng khi đứng về phía kẻ bị áp bức và bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ.
Anh khuyên người đàn bà ly dị với chồng để có một lối thoát, một cuộc sống tốt
hơn. Anh không áp đặt chị một cách máy móc vì anh hiểu rằng những lý thuyết
về pháp luật từ sách vở với cuộc sống thực tế không giống nhau, từ đó khiến
anh có một cái nhìn đúng đắn phù hợp hơn. Với anh, chính quyền không chỉ
đưa ra lời khuyên dựa vào lý thuyết thôi mà phải tìm ra một phương án tốt
nhất, một chính sách hợp lý nhất để làm sao nâng cao đời sống của người dân
chài. Điều đó mới đảm bảo được trong gia đình nạn bạo lực từng bước sẽ được
khắc phục, cái ác không còn đất sống.
Có thể thấy rằng, không chỉ đơn giản là ca ngợi mà nhà văn còn khẳng
định chắc nịch về những ánh sáng lương tri đang rực rỡ trong trái tim những
con người nơi đây. Đồng thời, ông cũng đặt niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của
họ, vào một tương lai tươi sáng hơn, xứng đáng hơn với những khát vọng,
những ước mơ bình dị mà cao đẹp.
Nhưng đó chưa phải là điều cuối cùng nhà văn muốn hướng đến. Nguyễn
Minh Châu đặt ra cho chúng ta một câu hỏi lớn: làm thế nào để giải phóng con
người ra khỏi những bi kịch của gia đình, của cuộc sống vì cuộc sống không hề
đơn giản, một chiều mà có đủ cả trắng đen, tốt xấu, vui buồn; còn con người lại
vô cùng phức tạp với kiểu người đa trị, lưỡng diện. Đồng thời, ông còn đặt ra
một suy ngẫm khác cho những người làm nghệ sĩ rằng phải làm thế nào để rút
ngắn khoảng cách giữa văn chương và hiện thực đời sống vì đến cuối cùng,
nghệ thuật phải gắn bó hữu cơ mật thiết với đời sống, nghệ thuật phải khám
phá con người ở chiều sâu nhân bản. Ấy là biểu hiện cuối cùng của giá trị nhân
đạo trong tác phẩm, một tư tưởng mang tầm tính triết lý đầy sâu sắc về cuộc
đời và nghệ thuật.
Thông qua truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu đã
bộc lộ sự thấu hiểu, cảm thông và niềm xót thương sâu sắc với số phận con
người trong cuộc sống mưu sinh nhọc nhằn, trong hành trình gian nan, đau khổ
kiếm tìm hạnh phúc và sự bình yên. Chính vì lý do đó mà “Chiếc thuyền ngoài
xa” được xem như truyện ngắn thể hiện trọn vẹn nhất tấm lòng “vị nhân sinh”
của nhà văn trên hành trình nghệ thuật của mình.

You might also like