Professional Documents
Culture Documents
“Chiếc thuyền ngoài xa”của Nguyễn Minh Châu được sáng tác vào tháng
8/1983, lúc đầu được in trong tập “Bến quê”, sau đó có vinh dự được nhà văn
dùng để đặt tên cho cả tập truyện ngắn, xuất bản năm 1987. Năm 1983, đó là
một thời điểm khá đặc biệt khi cuộc chiến tranh chống Mĩ và tay sai đã kết thúc
thắng lợi, chúng ta trở về muôn mặt của đời thường. Và cũng trong thời điểm
này, cả dân tộc đang bước vào giai đoạn đổi mới, cho nên cuộc sống có nhiều
điều bất ngờ thú vị, có sức hút đối với văn nghệ sĩ, trong đó có Nguyễn Minh
Châu.
2. Cảm hứng:
Nguyễn Minh Châu ý thức rất rõ nhu cầu của mình và nhu cầu của văn học.
Ông từ giã chính ông, truy đuổi những cách khám nghiệm đời sống dưới góc
nhìn và phương tiện mới. Ông hướng ngòi bút của mình vào cảm hứng thế sự
với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh.
3. Đại ý:
Tác phẩm kể về chuyến đi thực tế của người chiến sĩ – nghệ sĩ Phùng về
vùng biển miền Trung để chụp một bộ ảnh lịch. Tại đây, Phùng có một hành
trình trải nghiệm để dấn thân vào hiện thực đời sống.
4. Chủ đề:
“Chiếc thuyền ngoài xa đã thể hiện cái nhìn thấu hiểu, tình yêu tha thiết đối
với những cảnh đời, thân phận trớ trêu của con người và nỗi lo âu đối với số
phận con người sau chiến tranh. Đồng thời, tác phẩm là sự chiêm nghiệm sâu
sắc của Nguyễn Minh Châu về nghệ thuật. Nghệ thuật chân chính phải luôn
luôn gắn với cuộc đời và vì cuộc đời; người nghệ sĩ không thể nhìn đời một cách
đơn giản, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa diện, nhiều
chiều.
5. Tóm tắt:
Nhận yêu cầu từ trưởng phòng, Phùng - một nhiếp ảnh gia nghệ thuật đi đến
một vùng ven biển miền Trung (nơi đây cũng là nơi Phùng đã từng chiến đấu)
để chụp ảnh cho cuốn lịch năm mới. Sau một thời gian, anh đã phát hiện và
chụp được một “cảnh đắt trời cho” - đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa
đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh
đã ngạc nhiên đến sững sờ khi chứng kiến cảnh người chồng vũ phu đang đánh
đập vợ mình một cách dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha
mình trên chính chiếc thuyền đẹp đẽ khi ở xa ấy.
Trong những ngày tiếp theo khi Phùng còn ở đây, cảnh tượng đó lại tiếp diễn
và anh đã quyết định ra tay can thiệp. Theo lời mời của chánh án Đẩu (một
người đồng đội cũ của Phùng) người đàn bà hàng chài đã đến toà án huyện. Tại
đây, người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và anh, nhất quyết không bỏ
người chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình, về người chồng
rằng chị không thể từ bỏ anh ta vì cuộc sống mưu sinh trên thuyền cần có bàn
tay của người đàn ông. Từ đây, Phùng trở nên thấu hiểu sự việc hơn và anh
không còn cách nào khác phải để người đàn bà ra về trong sự bất lực của mình.
Rời khỏi vùng biển ,Phùng đã có một tấm được chọn vào bộ lịch chính là bức
tranh thuyền xa biển nhìn từ xa ấy. Tấm ảnh được nhận nhiều lời khen và được
treo trong các gia đình sành nghệ thuật. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh,
Phùng đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu
hơn bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ bước ra từ
tấm ảnh.
6. Tình huống truyện trong truyện ngắn “Chiếc thuyền
ngoài xa”
- Tình huống trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là tình huống nhận
thức ra một triết lí, một sự thực nào đó trong cuộc sống. Qua hai tình huống
truyện ấy, không chỉ Phùng, Đẩu mà cả người đọc dường như cũng ngộ ra
được những chân lí, những vẻ đẹp vốn dĩ tiềm ẩn đằng sau những hình ảnh
chân thực mà chúng ta được nhìn thấy, được chứng kiến.
+ Tình huống thứ nhất - phát hiện vê nghệ thuật của người nghệ sĩ Phùng:
o Phùng được giao nhiệm vụ chụp một bộ ảnh về biển cho bộ lịch
năm mới. Anh đã tới vùng biển từng là chiến trường cũ của
mìnhđể canh chụp cảnh biển và tiện thể thăm người bạn cũ. Sau
gần một tuần lễ tìm kiếm, Phùng đã tìm được một cảnh đắt trời
cho đó là hình ảnh của con thuyền ở ngoài xa.
o Phùng cảm giác mình đã tìm được vẻ đẹp hoàn hảo của tự nhiên,
là cái đẹp đã đạt tới chân thiện mĩ trong tâm hồn con
người. Phùng đã nháy máy lia lịa để ghi lại cảnh của con thuyền ở
ngoài xa ấy.
Ý nghĩa: Phùng đã nhận ra được vẻ đẹp chân thiện mĩ của sự hoàn thiện,
khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Tức là Phùng đã nhận ra được
những giá trị đích thực mà nghệ thuật mang tới cho con người. Giá trị ấy
lớn hơn tất cả những gì mà vật chất có thể mang lại.
o Khi con thuyền tiến lại gần, Phùng đã chứng kiến cảnh tượng bạo
lực gia đình, của chính những người trên con thuyền tuyệt đẹp mà
Phùng vừa chụp kia. Cảnh tượng ấy khiến anh thấy ngỡ ngàng, bất
ngờ đến mức cứ há hốc mồm ra mà nhìn.
o Trong câu chuyện với người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện,
Phùng và cả Đẩu đều có được những bài học quý giá về con người
và cuộc đời: Người đàn bà xấu xí, thô kệch, rỗ mặt ấy cương quyết
không chịu bỏ chồng chính vì cuộc sống éo le, bất hạnh. Và cũng
chính từ câu chuyện ấy, Phùng phát hiện ra vẻ đẹp tiềm ẩn bên
trong những con người với vẻ ngoài xấu xí.
Ý Nghĩa: Phùng nhận ra được sự đa diện của cuộc đời và con người.
Không thể chỉ nhìn cuộc đời và con người bằng con mắt màu hồng xa rời
thực tế, mà phải nhìn thật sâu, thấu hiểu được cảnh đời, số phận của họ.
Con thuyền khi ở ngoài xa thì thật đẹp nhưng khi tiến lại gần thì là cuộc
đời bất hạnh của một người đàn bà. Người đàn bà xấu xí, thô kệch ấy lại
ẩn giấu bên trong là một người phụ nữ thấu hiểu, trải đời, giàu đức hi
sinh.
PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG CHIẾC THUYỀN
PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
Bài Làm
“Điều quan trọng hơn hết trong sự nghiệp của những nhà văn vĩ đại ấy lại
là cuộc sống, trường đại học chân chính của thiên tài. Họ đã biết đời sống xã
hội của thời đại, đã cảm thấy sâu sắc mọi nỗi đau đớn của con người trong thời
đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những nỗi lo âu, bực bội, tủi hổ và
những mong ước tha thiết nhất của loài người. Đó chính là cái hơi thở, cái sức
sống của những tác phẩm vĩ đại” (Đặng Thai Mai). Chính vì thế, bao đời nay,
nghệ thuật và đời sống luôn có một mối liên hệ mật thiết không thể nào tách
rời. Với sự nhạy bén, tài năng của một người nghệ sĩ, Nguyễn Minh Châu đã
đánh dấu bước chuyển mình trong sự nghiệp sáng tác bằng việc chuyển tải quy
luật bất biến đó của nghệ thuật thông qua hình tượng chiếc thuyền vừa mang
một vẻ đẹp toàn bích quyến rũ vừa phản ánh một cách chân thực, sống động
đời sống của con người.
Cùng với sự kết thúc của chiến tranh, văn học cũng vì thế mà nên gác lại
ánh hào quang của một thứ vũ khí tinh thần tuyệt diệt của mình để trở về lại
thành một người bạn sâu sắc, tâm dao của đời sống. Là một người nghệ sĩ chân
chính thấu hiểu toàn vẹn giá trị của văn chương và luôn có một cái nhìn bao
quát, khách quan, tinh tế trước thời cuộc, Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận ra
văn học cần được trở về với chính đúng bản chất của nó: chân thực nhưng phải
sáng tạo. Bằng một giọng văn đầy tính triết lý, nhà văn xứ Nghệ đã khai mở ra
một hướng đi mới rất đúng đắn cho văn học Việt Nam thời kì sau 1975, đó là
con đường đi sâu hơn vào đời sống tâm hồn của con người trong đời sống hiện
đại với những trăn trở, suy tư, tình cảm rất thường, rất người, rất đời. Nhưng
văn học, hay rộng hơn là “Nghệ thuật luôn là lĩnh vực đặc thù của việc sáng tạo
và thể hiện cái đẹp, các tác phẩm nghệ thuật chỉ đẹp, tức là có giá trị nghệ
thuật khi nó thể hiện chân thực đời sống trong mọi biểu hiện thẩm mĩ của nó
thông qua lý tưởng nhân đạo, thể hiện được sự phong phú về tinh thần của cá
nhân con người dưới một hình thức hoàn thiện” (trích “Từ điển thuật ngữ văn
học”) đó chính là hình tượng nghệ thuật. Và sự hòa quyện giao thoa giữa cái
thực của đời sống và cái đẹp của sự sáng tạo ấy được thể hiện một cách vô
cùng độc đáo, quyến rũ và tinh tế trong văn chương của chàng văn họ Nguyễn
ấy mà nổi bật là tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa với hình tượng chiếc thuyền.
Hình tượng con thuyền xuất hiện trong xuyên suốt tác phẩm, mang ý nghĩa
biểu tượng vô cùng sâu sắc, nó vừa tượng trưng cho cái đẹp lãng mạn sáng
trong của nghệ thuật, vừa gợi liên tưởng đến hiện thực cuộc sống trần trụi, đớn
đau, khốc liệt và cũng vừa là biểu tượng cho mối quan hệ mật thiết giữa nghệ
thuật với cuộc sống. Từ đó thể hiện trọn vẹn tư tưởng triết lý về nhân sinh,
nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu và truyền bá nó đến hàng vạn thế hệ độc
giả, tác giả cùng thời, thậm chí là mọi thời.
Ngay từ lần đầu tiên xuất hiện dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu,
chiếc thuyền đã để lại cho người đọc một ấn tượng vô cùng mạnh mẽ về vẻ
đẹp của nó nơi ngoài xa trong ánh nắng dịu êm phía đàng đông buổi bình minh.
Và dưới cái nhìn của một người nghệ sĩ đầy nhạy cảm của nhân vật Phùng, cảnh
thuyền lênh đênh nơi biển kia vốn đã đẹp, nay lại còn trở nên “đắt” hơn, nó
tựa như một món quà mà ông trời đã ban cho nhân giới vậy. Chiếc thuyền giờ
đây trở nên đẹp hơn bao giờ hết mà theo lời Phùng, cảnh đẹp như “một bức
tranh mực tàu thời trung cổ... toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng
đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Có thể nói, trong
giây phút ấy, chiếc thuyền là biểu tượng vô cùng hoàn mĩ và tiêu biểu của cái
đẹp nghệ thuật. Đó là cái đẹp khiến bất cứ người nghệ sĩ nào cũng phải trở nên
bối rối và đưa họ đến với một phát kiến về một chân lý mới của sự toàn thiện :
“Cái đẹp chính là đạo đức” – cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn mà ai
yêu nghệ thuật cũng hằng ao ước cảm nhận.
Nhưng rồi, khi chiếc thuyền tiến lại gần hơn, cập bến, cái vẻ đẹp ấy dần
tan biến trong mắt Phùng, để lộ ra cái hiện thực trần trụi xấu xa, khắc nghiệt
của cuộc sống người dân làng chài thời bấy giờ. Việc chài lưới không thuận, gia
đình lại đông con, cuộc sống đầy khó khăn ấy khiến cho người đàn ông vốn hiền
lành tốt tính trở thành một kẻ cộc cằn, nóng nảy. Để rồi, khi chiếc thuyền cập
bến, ông liền trút nỗi bực dọc ấy lên người vợ của mình như một kẻ vũ phu đã
mất đi nhân tính. Và giờ đây, chiếc thuyền chẳng còn là biểu tượng của cái đẹp
nào nữa, nó là hiện thực trần trụi của đời sống. Với người đàn bà số khổ miền
biển đó, nó chính là kế sinh nhai của họ, là nơi để họ sinh sống qua ngày, là nơi
diễn ra những lục đục buồn đau, nhưng cũng là nơi họ có những phút giây hạnh
phúc, dù là ngắn ngủi.
Tất cả những gì thường nhất, u ám nhất, đời nhất, của con người gói gọn
trong chiếc thuyền đơn bạc ấy, không phải để vấy bẩn lên hình ảnh vốn đẹp nơi
ngoài xa của nó mà là để thức tỉnh Phùng cũng như bao người thưởng thức vỡ
lẽ rằng thực ra điều gì cũng sẽ có hai mặt, và nếu nó thiếu đi một mặt thì nó sẽ
chẳng còn là nó nữa, chiếc thuyền cũng vậy. Nếu không có sự sống toát lên từ
gia đình làng chài kia, liệu chiếc thuyền có trở nên đẹp đến thế nơi ngoài khơi
xa kia trong mắt Phùng hay không? Và nghệ thuật cũng thế, nó cần được gắn,
cần phải gắn với đời sống, bởi nếu thiếu đời sống, nghệ thuật cũng chỉ là một
chiếc sáo rỗng thiếu thần vô hồn. Nghệ thuật nên bước ra từ những chất liệu
giản đơn trong cuộc sống, chứ không phải những thứ rỗng tuếch, chủ quan,
nghệ thuật không chỉ đơn giản là đẹp mà còn phải mang ý nghĩa nhân văn sâu
sắc, gắn liền với cuộc sống, đấy mới là thứ nghệ thuật chân chính. Trong lần
xuất hiện cuối cùng, trong bức ảnh đen trắng nơi đáy mắt Phùng, chiếc thuyền
hiện ra như một tác phẩm nghệ thuật thực thụ, đó là sự giao thoa quyện hòa
một cách đầy tinh tế, khéo léo giữa cái đẹp lãng mạng và hiện thực cuộc sống,
tựa như một minh chứng về sự bền chặt của hai yếu tố tưởng chừng như đối
lập nhau ấy trong nghệ thuật.
Bằng thủ pháp đối lập trong việc tạo lập tình huống và sự tài hoa về ngôn
từ, Nguyễn Minh Châu đã khắc họa nên một hình tượng chiếc thuyền chứa
đựng những ý nghĩa biểu tượng vô cùng sắc sâu, đầy triết lý về nghệ thuật và
cuộc đời. Qua đó, nhà văn xứ Nghệ thành công diễn tả quá trình nhận thức của
Phùng, từ một chàng lính có cái nhìn về cuộc đời còn giản đơn, một chiều nay
đã trở nên sâu sắc, toàn diện và đa chiều hơn từ đó cảnh tỉnh độc giả cũng như
thế hệ những nhà văn phải nhìn nhận lại cuộc sống để có một tấm lòng cao
hơn, thấu suốt hơn với người, với đời,
Với hình tượng chiếc thuyền trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”,
Nguyễn Minh Châu đã không chỉ đánh dấu bước phát triến mới trong sự nghiệp
văn chương của chính mình mà còn tạo ra một bước ngoặt mới cho văn học
hiện đại Việt Nam sau khi cách mạng toàn thắng và nước nhà đang dần bước
vào con đường đổi mới đó là hướng sâu hơn về cuộc đời, con người. Đồng thời
nó như một lời khẳng định mạnh mẽ về điều làm nên giá trị cốt yếu của nghệ
thuật nói chúng và văn học nói riêng đó chính là sự sáng tạo dựa trên chất liệu
đời sống. Bởi như chính Nhà viết kịch Nguyễn Huy Tưởng đã viết trong tác
phẩm Vũ Như Tô rằng: “Nghệ thuật mà không gắn liền với đời sống thì đó nó
chỉ là những bông hoa ác mà thôi” và ta phải chấp nhận cả những nghịch lý tàn
nhẫn của cuộc sống nằm ẩn mình trong vẻ đẹp bề ngoài, nghệ thuật là để phục
vụ cuộc sống, vẻ đẹp của nghệ thuật đi ra từ những giá trị đạo đức, nhân văn
chứ không phải từ cái đẹp hào nhoáng mà trống rỗng.
“Chiếc thuyền ngoài xa” là câu chuyện đan lồng trong nhau, được khởi nguồn
từ câu chuyện xoay quanh chuyến đi thực tế của nghệ sĩ Phùng đi săn tìm cái
đẹp. Nhân vật Phùng là người có quan điểm riêng, rất rõ ràng về cái đẹp với
những phát hiện, những ngỡ ngàng, biết bao nhận thức mới mẻ, cái nhìn đa
chiều, đồng thời là thành phần cốt lõi tạo nên đắc sắc trong tác phẩm. Phùng
trong truyện vừa là nhân vật chính và cũng là người kể chuyện . Mọi diễn biến
của truyện đều được soi chiếu qua lời kể và suy nghĩ của anh. Trong tác phẩm,
Phùng đã có những phát hiện quan trọng về cuộc sống và nghệ thuật.
Phùng là một nghệ sĩ nhiếp ảnh, phóng viên nhà báo và cũng là người lính
dũng cảm khi xưa vừa bước ra khỏi chiến tranh. “Chiếc thuyền ngoài xa” mở
đầu là một cái cớ, phóng viên Phùng theo ý cấp trên về một vùng duyên hải
từng là chiến trường cũ của anh để tìm kiếm, phát hiện và chụp những bức ảnh
thật độc đáo và đặc sắc tạo nên bộ lịch nghệ thuật thuyền và biển. Cái cớ này
thực chất là để bắt đầu một câu chuyện đầy nghịch lý và mở ra nhiều nhận
thức. Trong suốt thời gian công tác đó, anh đã có nhiều phát hiện bất ngờ, đi từ
ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác. Không đơn thuần chỉ là một chuyến đi
công tác, đây còn là một cuộc hành trình dấn thân để khám phá những tầng
bậc bí ẩn của cuộc sống. Những phát hiện mới mẻ đã dần làm thay đổi thay đổi
cách nhìn của Phùng về cuộc sống và con người.
Trước hết là hình ảnh anh nghệ sĩ Phùng đam mê, đắm say trước cái đẹp
nghệ thuật. Sau bao ngày “phục kích” để có thể “chộp” được một cảnh thật
ưng ý về thuyền và biển, giây phút ấy đã tới, đôi mắt nhà nghề của người nghệ
sĩ đã phát hiện ra “một cảnh đắt trời cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà
cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được một lần- cảnh “chiếc
thuyền ngoài xa”. Hình ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” được nhà văn khắc họa rất
ấn tượng “ mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng
như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào . Vài bóng người
lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang
hướng vào bờ”. Hình ảnh đó mang một “vẻ đẹp thực sự đơn giản và toàn
bích”- vẻ đẹp của “một bức tranh bằng mực Tàu của một danh họa thời cổ”, và
tất cả vẻ đẹp đó đã được nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh thu vào một tấm ảnh mà nó
“được treo ở rất nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”. Hình
ảnh “ chiếc thuyền ngoài xa” giờ đã hóa thân thành một tác phẩm nghệ thuật
để mọi người ngắm nhìn, chiêm ngưỡng với tất cả vẻ đẹp về màu sắc, đường
nét và bố cục, và khi thưởng thức bức ảnh đó, Phùng có cảm giác “ bối rối” và “
trong tim như có cái gì bóp thắt vào” niềm hạnh phúc dâng trào tột độ khiến
anh còn “khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Bức ảnh ấy
đã khiến cho tâm hồn người thưởng thức rung động thực sự, một cảm xúc
thẫm mĩ đang dấy lên trong lòng và tâm hồn người nghệ sĩ như được gột rửa,
trở nên thật trong trẻo, tinh khôi. Điều này có nghĩa là cái đẹp đã có tác dụng
thanh lọc tâm hồn con người. Phùng là một nghệ sĩ trên đường săn tìm cái đẹp.
Anh lựa chọn, quan sát, thấu hiểu thiên nhiên, cảnh vật, con người và rung
động trước nghệ thuật, cái đẹp thuần khiết. Phùng nhận ra “chẳng biết ai đó
lần đầu phát hiện ra bản thân cái đẹp là đạo đức” cái đẹp được kết tinh bởi cái
tâm, cái đức, cái tài của người nghệ sĩ phát hiện ra nó. Anh nhận thức rằng
chính bản thân cái đẹp là điều vô cùng nhân văn, đạo đức. Cái đẹp có thể thanh
lọc tâm hồn, hướng tới những điều hoàn mỹ, toàn diện.
Thế nhưng, đằng sau cái cảnh đẹp vĩnh hằng, đằng sau cái “nhòe nhoẹt”,
“mơ hồ” ấy đó là một cảnh tượng hãi hùng. Và đằng sau người nghệ sĩ say mê
cái đẹp là một tấm lòng đầy trăn trở,lo âu về thân phận con người của nhân vật
Phùng. Ngay sau đấy, Phùng được chứng kiến một cảnh tượng rõ nét, đập
thẳng vào mắt Phùng chứ không “mơ hồ” như cảnh “chiếc thuyền ngoài xa”.
Cái khoảnh khắc ngắn ngủi ấy đã mở ra cả một chân trời cho người phóng viên
khám phá, đó gọi là “ một khoảnh khắc mà khi ấy, cuộc sống đậm đặc nhất, có
ý nghĩa nhất, khoảnh khắc đáng giá một đời người, một đời nhân loại” ( Nguyễn
Minh Châu). Tình huống nhận thức này đã mở ra biết bao suy tư và vỡ lẽ. Đằng
sau khung cảnh lãng mạn, nên thơ ấy là một bức tranh màu xám về cuộc sống
con người. Phùng đang đắm chìm trong cảnh sắc tuyệt mĩ bỗng bị đánh thức
bởi hình ảnh đau thương, đầy xót xa- bạo lực gia đình. Có ai ngờ rằng, khi con
thuyền lại gần, bước ra từ con thuyền đẹp như tranh vẽ ấy lại là cảnh tượng
người đàn ông to cao ấy “dùng chiếc thắt lưng của mình quật tới tấp xuống
lưng người đàn bà” lão vừa đánh vừa nguyền rủa “ mày chết đi cho ông nhờ”.
Hình ảnh người vợ đầy vẻ cam chịu và nhẫn nhục chịu từng trận đòn roi và
cảnh đứa con đánh nhau với ba nó để bảo vệ người mẹ yếu ớt đã để lại trong
Phùng nhiều căm phẫn. Anh ngạc nhiên đến mức không thể tin vào chính mắt
mình. Một cảnh tượng hãi hùng xuất hiện ngay sau một bức tranh hoàn hảo.
Phát hiện thứ hai này quả thực đầy nghịch lí, nó bất ngờ và trớ trêu như trò
đùa quái ác của số phận. Người lính kia những tưởng rằng khi chiến tranh qua
đi, con người sẽ có một cuộc sống yên bình, ấm áp nhưng ngờ đâu cuộc sống
không chỉ đơn giản như vậy. Với chi tiết này, câu chuyện dường như đã mở ra
hai hình ảnh, hai thế giới khác hẳn: chiếc thuyền ngoài xa mang lại vẻ đẹp tuyệt
mỹ cho một bức ảnh, còn chiếc thuyền lại gần lại làm vỡ ra một hiện thực
nghiệt ngã đến mức xót xa của số phận con người. Từ đó, những nhận thức vỡ
lẽ về hiện thực cuộc sống và con người nơi đây mới dần vỡ lẽ, hé mở trong tâm
thức của Phùng. Sở dĩ nghệ sĩ Phùng trở nên như vậy là vì anh không thể ngờ
rằng đằng sau cái vẻ kì diệu của tạo hoá lại có cái ác, cái xấu đến mức không thể
tin được. Vừa mới lúc trước anh còn cảm thấy “bản thân cái đẹp chính là đạo
đức”, thấy “chân lí của sự hoàn thiện” thế mà chỉ ngay sau đó chẳng còn cái gì
là “đạo đức” là cái “toàn thiện” của cuộc đời. Phùng cay đắng nhận thấy những
cái trái ngang, xấu xa, những bi kịch đang dày xéo tâm can của gia đình thuyền
chài kia lại làm hoen ố những vẻ đẹp thẩm mỹ mà anh đã dày công chụp được.
Hóa ra cái đẹp và cái ác luôn song hành với nhau một cách ngang trái như vậy,
Phùng dần dần vỡ lẽ ra nhiều điều. Đằng sau cái xấu, cái ác lại chứa đựng cái
đẹp, chứa đựng hiện thực mà ít nhiều đáng được cảm thông và chia sẻ. Qua
đây, Nguyễn Minh Châu như muốn gửi gắm các bạn thông điệp: cuộc đời vốn dĩ
là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời
cũng là nghệ thuật. Và con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng
cái đẹp nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong số phận con người
và cuộc đời thì phải tiếp cận cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng
cuộc đời.
Chứng kiến sự việc ngang trái đó, Phùng xót xa, xông ra buộc lão đàn ông
phải dừng hành động độc ác và anh bị thương. Sự việc không thể dừng ở sự
chứng kiến, Phùng muốn giúp người phụ nữ đó thoát khỏi cuộc sống đớn đau
này, anh đã nhờ Đẩu- người bạn chiến đấu năm xưa và cũng là chánh án huyện
mời chị ta đến tòa án để khuyên chị ly hôn. Ở tòa án, chứng kiến cuộc gặp gỡ
của người đàn bà và chánh án Đẩu, nghe những lời trải lòng và biết được câu
chuyện cuộc đời của người đàn bà, Phùng đã có sự thay đổi trong nhận thức,
anh hiểu rõ hơn về Đẩu, về người đàn bà và ngay ở chính mình. Người đàn bà
ấy không hề cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch
mà trái lại, chị là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Khi được Đẩu khuyên li hôn
với người chồng vũ phu, tàn bạo thì bất ngờ thay chị lại hết lòng van xin, cầu
khẩn “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt
con bỏ nó” bởi vì chị biết rằng trong cuộc sống trên thuyền cần có người đàn
ông gánh vác để chèo chống trước giông bão.Hành động ấy khiến Phùng đột
nhiên cảm thấy gian phòng mà mình đang ngồi giấu mặt như “bị hút hết không
khí” và “ ngột ngạt” quá. Sự bất ngờ ập đến khiến Phùng choáng váng. Anh cứ
ngỡ chỉ cần khuyên người đàn bà li hôn sẽ giúp chị giải thoát khỏi cuộc sống
như đang cầm tù kia nhưng anh không biết rằng trong cuộc sống cơ cực ấy vẫn
có những tiếng cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con ăn no. Tấm lòng của
một người mẹ yêu thương con đã thông suốt cho suy nghĩ hời hợt của Phùng.
Không chỉ có vậy, điều làm Phùng và Đẩu ngạc nhiên hơn bao giờ hết chính lá
sự thấu hiểu lẽ đời, tuy ít học mà sáng suốt của chị “ Lòng các chú tốt nhưng
các chú đâu phải người làm ăn…”. Suy nghĩ thấu đáo của người đàn bà đã khiến
Phùng hiểu rõ hơn sự cấp thiết của việc thay đổi cái nhìn, tư duy về con người
và cuộc sống.
Sau cuộc nói chuyện với người đàn bà, Phùng đã thất bại trong việc khuyên
chị ly hôn nhưng anh đã thành công trong việc thấu hiểu sự đời hơn. Nhân vật
Phùng thấm thía nhận ra sự bất lực của quyền lực và lòng tốt, anh dường như “
vỡ ra một điều gì đó”, cuộc sống quá phức tạp với bao nhiêu nỗi khổ và bi kịch
đang đày đọa, rình rập xung quanh con người như những cơn bão tự nhiên bất
ngờ ập đến. Cơn bão là hình ảnh mang tính chất ẩn dụ, những phong ba, bão
táp sẵn sàng ập xuống những con người nghèo khổ, tội nghiệp như những cơn
bão tố ập đến chiếc thuyền nhỏ bé ngày đêm đánh bắt khơi xa, gợi nên biết
bao những suy tư, trăn trở, dằn vặt của Phùng về số phận con người hậu chiến,
trách nhiệm của con người trong cuộc chiến chống đói nghèo và thiên chức của
người nghệ sĩ: phải biết nhận thức sâu sắc, khám phá đa chiều về đời sống và
con người.
Kết thúc truyện là chi tiết bức ảnh do Phùng chụp trong chuyến đi công tác đã
được trưởng phòng chọn in trong bộ lịch năm ấy. Đó chính là toàn bộ sự chứng
kiến hiện thực cuộc sống trần trụi. Đối với mọi người, bức ảnh chỉ đơn giản
mang màu đen trắng, nhưng đối với Phùng, đó là một tấm ảnh nghệ thuật
được dệt nên bởi nhiều màu sắc kí ức, trải nghiệm, nhận thức sâu sắc. Phùng
không chỉ thấy sự hào nhoáng bên ngoài bức ảnh mà còn nhìn thấy hiên thực
phũ phàng bên trong, hình ảnh người đàn bà bước ra từ con thuyền với trận
đòn roi ám ảnh. Bức ảnh trở thành thuốc rửa ảnh kì diệu cho tâm hồn nghệ sĩ
Phùng. Giờ đây, cuộc sống diễn ra trong mắt Phùng trở nên phong phú, bề bộn,
có chiều sâu và giàu chất xám hơn bao giờ hết. Đọng lại trong Phùng là hình
ảnh những con người bé nhỏ đang kiên cường chống chọi với đời sống khắc
nghiệt bằng bản lĩnh gan thép và đặc biệt là nhân cách cao đẹp của chính họ.
Khi những trang truyện khép lại, hành trình dấn thân vào đời sống của Phùng
chỉ mới bắt đầu. Phải chăng đây là sự trăn trở, suy tư trước cuộc sống và số
phận con người. Người nghệ sĩ phải biết dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, đi
sâu vào khám phá những khía cạnh khác nhau, phải gắn nghệ thuật với thực tế
đời sống, không được xa rời hiện thực thì mới đúng là nghệ thuật chân chính.
Qua bút phát nghệ thuật xây dựng nhân vật truyện, tình huống vô cùng kịch
tính, tài năng kết hợp với chất tự sự-triết lý đã khắc họa về mặt hành động, đời
sống nội tâm nhân vật đặc sắc. Nhân vật xưng “tôi” ngôi thứ nhất tự bộc lộ bản
chất một cách chân thành, tự nhiên gây ấn tượng mạnh cuốn hút người đọc.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” qua những phát hiện của nhân vật Phùng
về vẻ đẹp của thiên nhiên, con người, về sự thật đắng cay, tấn bi kịch của
những con người lao động lam lũ sống bằng nghề chài lưới, đã bộc lộ sâu sắc
những suy tư, trăn trở của nhà văn về cuộc sống và số phận con người. Nhà văn
đã bộc lộ lòng thương cảm, trắc ẩn đến số phận éo le, ngang trái của con người
trước cuộc đời bão táp, trân trọng những vẻ đẹp cao cả, tinh khiết trong tâm
hồn con người. Truyện xuất sắc xây dựng hình tượng nhân vật Phùng- người
nghệ sĩ tâm huyết, đam mê vẻ đẹp nghệ thuật cùng với hành trình nhận thức
đầy chất nhân sinh, góp vai trò quan trọng tạo nên thành công của truyện.
Nếu văn học cách mạng trước năm 1975 chỉ xoay quanh những cống hiến,
hy sinh cho sự nghiệp dân tộc, những tiêu chuẩn đạo đức cách mạng cao cả thì
sau năm 1975, văn chương lại trở về với đời thường, giản dị gần gũi. Và trong
cả hai chặng đường đó, đặc biệt là giai đoạn sau 1975, ta bắt gặp Nguyễn Minh
Châu – một trong những người “mở đường tinh anh và tài năng nhất” (Nguyên
Ngọc). Những đóng góp của Nguyễn Minh Châu trong vai trò người mở đường
đã mở ra những khám phá táo bạo cho công cuộc đổi mới văn học, dẫn người
đọc đi sâu vào đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài xa” của ông là một minh chứng tiêu biểu cho xu hướng đó. Đặc biệt, qua
nhân vật người đàn bà hàng chài, nhà văn đã gởi gắm trọn vẹn những suy tư,
trăn trở của mình về các mối quan hệ xã hội phức tạp, những góc khuất của
cuộc sống thời bình.
Mở đầu câu chuyện là những bức tranh thiên nhiên “toàn bích” mà đôi
mắt nhiếp ảnh Phùng đã bắt gặp nhân dịp chuyến đi công tác ở vùng biển. Thế
nhưng, đâu ai biết rằng, phía sau những ánh sáng chói lòa, lung linh ấy là những
góc khuất mà con người đã bỏ lỡ. Hình ảnh của người đàn bà hiện lên hoàn
toàn trái ngược với vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây. Sau vài nét gợi tả, người
đàn bà với " một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với
những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức
trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ" hiện ra. Chắc hẳn, những
vết rỗ khuôn mặt chị đều từ gánh nặng của công việc, của nắng mưa gió bão
miền biển khiến chị dường như không có chút sức sống hay sinh lực nào. Một
người lao động lam lũ, chịu thương chịu khó như thế nhưng cái nghèo, cái khổ
vẫn bủa vây lấy gia đình chị. Sự nghèo khổ ấy còn hiện lên trên "tấm áo bạc
phếch có miếng vá, bửa thân dưới ướt sũng". Từ cách hành xử, đi đứng đến "
tìm đến một góc tường để ngồi" càng làm cho chị trở nên đáng thương đến tội
nghiệp.Một con người dám vượt qua phong ba bão táp trên vùng đại dương
mênh mông, nhưng lại trở nên tự ti, mặc cảm khi đối diện với con người. Tác
giả chỉ gọi nhân vật của mình là người đàn bà một cách phiếm định, khi là
“người đàn bà”, lúc lại “mụ”, có lúc là “chị ta”. Chẳng phải Nguyễn Minh Châu
nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà có lẽ ông muốn
nói hộ bao nhiêu người đàn bà vô danh ở vùng biển này. Người đàn bà làng
chải ám ảnh chúng ta bỡi cái chuổi dau thương, bất hạnh bị quấn lấy bởi cái
nghèo khố, tăm tối của cuộc sống mưu sinh sau chiến tranh.
Tưởng chừng, những thứ đó là tận cùng của bất hạnh mà một người phụ
nữ phải gánh chịu, nhưng có lẽ ta đã lầm. Không chỉ bị cái nghèo, cái khổ đeo
bám, người đàn bà hàng chài còn hứng chịu những trận đòn roi tàn bạo, những
lời mắc nhiếc thậm tệ của người chồng vũ phu với một thái độ nhẫn nhục, cam
chịu đến kì lạ.Một người đàn bà, một người vợ luôn nhẫn nhục, cam chịu điển
hình trong xã hội Việt nam. Cũng chỉ vì quá nghèo khổ, túng quẫn mà chồng mụ
từ một người hiền lành, chất phác biến thành một lão chồng chỉ biết đánh vợ “
ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” để thỏa mãn cơn giận dữ vô
cớ của mình, đến nỗi vị chánh án cũng phải quả quyết “ Cả nước không có
người chồng nào như hắn”. Khi chứng kiến cảnh người đàn ông to lớn, thô
kệch giáng những cú đánh mạnh mẽ vào tấm thân yếu ớt của người đàn bà ấy,
đến một người đàn ông như Phùng cũng chẳng thể nhẫn nhịn nổi. Vậy nhưng,
người đàn bà ấy vẫn cam chịu biết bao lời hằn học, mắng nhiếc. Chịụ không hề
oán than, không hề bất bình hay thậm chí là nè tránh. Có lẽ, chị cũng đã từng
phản kháng nhưng cái cùng cực đã khiến chị buông xuôi. Chị học cách quen dần
với đòn roi, với bạo lực. Chưa dừng lại ở đó, những chuỗi dài bất hạnh của
người đàn bà còn hiện ra qua câu cuyện của chị tại toàn án huyện. Tại đây,
người ta ắt hẳn phải thốt lên rằng sao lại khổ đến thế? Một thuyền chài bấp
bênh, đói nghèo đến nối những mùa biển động cả nhà phải ‘ăn toàn xương
rồng luộc chấm muối”. Còn bế tắc túng quẫn nào hơn khi có hơn chục đứa con
chen chúc trên một chiếc thuyền rách giữa mặt biển đầy sóng gió. Nếu những
trận đòn ròi, những cơn đói chỉ hành hạ thể xác chị thì nỗi mặc cảm, nhục nhã
trước các con chính là thứ dày xéo tâm hồn chị. Người đàn bà cầu xin chồng lên
bờ mà đánh để lũ con không phải chứng kiến cảnh bạo lực của cha với mẹ. Chị
ta luôn nơm nớp một nỗi lo làm sao giữ được một tâm hồn trong sáng cho các
con, chị đứt ruột gửi đứa con trai cho nhà ngoại cũng chỉ vì bảo vệ cho con. Rồi
khi thằng Phác – con chị thấy cha nó lại đánh mẹ nó lao vào “ như một viên đạn
bắn vào người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt”, đó có lẽ là những
dòng lệ đớn đau trong tâm hồn người mẹ trước hành động phi đạo lý của con
mình. Có lẽ nỗi đau ấy luôn bám víu lấy chị và chưa phút nào để chị nguôi
ngoai.
Miêu tả rõ nét số phận người đàn bà hàng chài có lẽ nhà văn Nguyễn
Minh Châu muốn chỉ ra cho người đọc nguyên nhân của nỗi bất hạnh ấy đều
bắt nguồn từ cuộc sống mưu sinh nghèo đói, túng quẫn. Dù Cách mạng về có
cấp đất nhưng họ không thể lo cho nghề lưới vó. Rõ ràng đây là giải pháp xa hội
còn xa rời thực tế, do vậy dù đất nước có đổi mới nhưng cẫn còn những mảnh
đời đáng thương. Cũng từ đó ta lại chú ý đến một chi tiết rằng bi kịch thường
ngày của người đàn bà diễn ra sau xác xe tăng của chiến trường xưa. Phải
chăng nhà văn muốn nói: cuộc chiến chống đói nghèo tăm tối và bạo lực còn vô
vùng gian nan và dài lâu hơn cả cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Và chừng nào
chưa giải quyết bài toán giặc đói, giặc dốt thì chừng đó con người còn phải
chung sống với cái xấu, cái ác để rồi bị chúng nó nuốt chửng. Dân tộc ta đã đổ
biết bao máu xương để giành lấy độc lập tự do nhưng đó chưa hẳn thực sự là
đích đến hạnh phúc của con người. Cuộc chiến nào cũng đầy cam go nhưng có
lẽ cuộc chiến thời đổi mới là gian truân và thử thách hơn cả.
Dẫu cho cái nghèo, cái khổ có dày vò người đàn bà làng chài như thế nào
đi chăng nữa thì dưới ngòi bút chân thức và đầy tình cảm của Nguyễn Minh
Chây ta vẫn thấy được một tâm hồn sáng ngời toát lên từ người phụ nữ ấy. Vẻ
đẹp tâm hồn chị như dần được hé lộ khi chị ta bước vào tòa án huyện. Tại đây,
lúc đầu chị xuất hiện với hình ảnh rụt rè, chị ngồi ở góc công đường – như một
con thú bé nhỏ đang cố gắng tìm chỗ trú an toàn. Chị xưng hô với Phùng và Đẩu
bằng “Con – quý tòa” , sau đó khi đã lấy lại được bình tĩnh chị đổi cách xưng hô
dáng “Chị-các chú”. Có lẽ nào Nguyễn Minh Châu nhấn mạnh sự thay đổi trong
ngôn ngữ của người đàn bà ngụ ý rằng: Giờ đây chính chị mới là quan tòa đang
phán xét Phùng và Đẩu, dạy cho họ một bài học về cách nhìn đời, nhìn cuộc
sống tỉ mỉ, đa diện hơn? Chị là một người phụ nữ rất thấu hiểu lẽ đời lại giàu
lòng nhân hâu và vi tha. Chị còn sẵn sàng chấp nhận tất cả thua thiệt về phần
mình như một sự sám hồi “Cũng tại đàn bà ở thuyền chúng tôi đẻ nhiều quá…
giá mà chúng tôi đẻ ít đi”. Trong suốt câu chuyện dài dằng dặc của đời mình,
tuy khó khăn nhưng người đàn bà ấy không tỏ ra oán giận chồng, ngược lại còn
bênh vực ông ta bởi chị cho rằng lão không xấu. Do từ ngày lấy chị, cuộc sống
lại thêm phần khốn khó nên lão chống mới xem việc đánh vợ là một phương
thức giải tỏa những bức bí của cuộc đời. Càng đọc ta mới càng hiểu được người
phụ nữ ấy hiểu chồng, thương chồng biết bao nhiêu. Càng đọc ta mới càng
thấu thì ra chồng chị chỉ là nạn nhân của sự đói nghèo thất học để rồi biến y trở
thành một con người vừa đáng thương lại vừa đáng giận. Cái người đàn bà
quanh năm chỉ biết làm lụng vất vả để đổi lấy một bữa cơm nó cho gia đình ấy
lại có một tâm lòng đầy thấu hiểu và cảm thông khiến ta thật cảm động.
Hơn hai lần trong câu chuyện của mình chị kể tại tòa án huyện, người đàn
bà đã nói “ Qúy tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng
bắt con bỏ nó”. Đây là câu nói khiến Phùng và Đẩu vừa ngạc nhiên lại vừa phẫn
uất nhưng cũng vỡ lẽ ra bao điều. Người đàn bà xin chịu mọi hình phạt của
pháp luật, thậm chí chấp nhận cả hình phạt cao nhất là “bỏ tù” chỉ để không bỏ
chồng mình. Bởi có lẽ, lão chồng vũ phu ấy đối với chị như một ân nhân.Chị tự
nhận thức rằng mình không phải là một người con gái đẹp, người đàn bà ấy
cảm giác như được ban một ân huệ có một người chấp nhận chị. Không những
thế người “ân nhân” ấy còn cho chị một mái ấm, một gia đình đúng nghĩa để
rồi chị cho đó là một diễm phúc mà không nở vứt bỏ nó đi. Những hồi ức về
thứ tình cảm nhỏ bé mà ngọt ngào đó có lẽ là liều thuốc giúp người phụ nữ
vượt qua bao đắng cay, tủi hờn suốt những năm tháng đã qua. Chị cảm ơn lòng
tốt của Phùng và Đẩu nhưng cũng thẳng thắn, chân thật phê bình hai
anh :”Nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu hiểu
được cái việc của người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Không chỉ có thể chị còn
nhấn mạnh: “ Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết
như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn
ông”. Đối với Phùng và Đầu, lòng tốt của các anh là muốn người đàn bà kia bỏ
chồng đền tránh những trận đòn roi vô cớ nhưng người đàn bà ấy lại thấu hiểu
lẽ đời hơn ai cả. Chị biết rằng, những người phụ nữ làng chài như chị cần có
bàn tay của những người đàn ông trụ cột để gánh vác, chèo chống con thuyền
khi phong ba bão táp, để nuôi nấng đàn con thơ mà “nhà nào cũng trên dưới
chục đứa” lớn khôn. Cứ như thế, chị gồng mình cam chịu những trận đòn như
vũ bão chỉ để cho gia đình có một người chồng tròn nghĩa nhất dù hắn cho man
rợ đến nhường nào. Thử hỏi nếu không có những người đàn ông trên con
thuyền ấy thì số phận của chị và những người đàn bà như chị sẽ đi về đâu?
Cuộc sống của họ sẽ tốt đẹp hơn hay lại chìm sâu hơn vào vòng xoáy đen ngòm
cùa đói nghèo, túng quẫn?
Và vượt lên tất cả sự cay đắng cơ cực ấy là tình mẫu tử thiên liêng – đức hi
sinh cao thượng của người đàn bà làng chài với Phác – con trai của chị. Chị cam
chịu những trận đòn ròi chị chỉ biết rằng bất kỳ cuộc hôn nhân tan vỡ nào thì
tổn thương hơn cả là những đứa con trong gia đình. Vì tình thương con, chị xin
chồng cho lên bờ để đánh rồi chị quặng lòng gửi thằng Phác về bên ngoại. Tất
cả việc chị làm chỉ với một mục đích duy nhất là bảo vệ sự trong sáng của các
con, chị không muốn con mình phải chứng kiến cảnh bạo lực rồi quay sang oán
hận cha mình. Chị giống như con gà mẹ xòe đôi cánh che chở cho đàn con thơ
dại, dẫu cho đối cánh ấy có ốm yếu nhưng tình yêu thương vô bờ bến cúa một
người mẹ là động lực lớn lao để ‘đôi cánh” ấy luôn sải rộng che trọn bầy con.
Chính tình mẫu tử thiêng liêng cao thương đã giúp chị vượt qua cái cơ cực, đói
kém nhọc nhằn và lam lũ. Chị chắt chiu dành dụm từ những niềm vui giản đơn
nhất “Vui nhất là thấy đàn con chúng tôi được ăn no” để khỏa lấp những nỗi
đau, để xoa dịu nỗi đời cay cực. Có lẽ ở chị vẫn vững bền niềm tin một tình yêu
và sự lạc quan với cuộc sống mãnh liệt, đó là lẽ sống, là hạnh phúc giản dị mà
cực kỳ quý giá chỉ có ở những người biết sống sâu sắc với cuộc đời. Tìm hiểu về
người đàn bà làng chài trong truyện ngắn, Nguyễn Minh Châu đã đưa đến cho
người đọc ấn tượng đặc biệt về sức mạnh kiên cường của con người. Người
đàn bà ấy đã dồn hết sức chịu đựng phi thường của mình để che chắn, bảo vệ
cho mái ấm gia đình. Chị luôn bảo vệ sự trong trẻo, thơ ngây trong tâm hồn con
trẻ. Chính đôi vái ấy đã gánh đỡ những nhọc nhằn, tức tối của người chống…Dù
rằng tất cả những cố gắng ấy vấn luôn thất bại trước khắc nghiệt của cuộc sống
nhưng ý chí của chị đã làm thay đổi đi cách suy nghĩ của Phùng và Đẩu, mở ra
một góc nhìn mới trong họ.
Qua hình tượng người đàn bà hàng chài cùng tình huống truyện mang
tính nhận thức và khám phá, nhà văn muốn gửi đến người đọc một thông điệp
về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Nhà văn đặt ra trách nhiệm của
người nghệ sĩ rằng người nghệ sĩ trước khi biết rung động trước cái đẹp hãy là
con người biết yêu ghét, vui buồn trước mọi lẽ thường, biết hành đồng để có
được cuộc sống tốt đẹp, bởi nghệ thuật luôn gắn liền với cuộc đời, nghệ thuật
phải vì cuộc đời, đó mới chính là nghệ thuật “Vị nhân sinh”. Bên cạnh đó nhà
văn còn muốn gửi gắm một điều là vấn đề tiếp cận cuộc sống. Cuộc sống là
muôn màu muôn vẻ, con người luôn có những mối quan hệ phức tạp. Bởi vậy
khi nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng cuộc sống và con người ta không được
dễ dãi, đơn giản, phiến diện, công thức. Người đàn bà làng chài đã dạy cho
Phùng và Đẩu một bài học về cách nhìn nhận cuộc sống từ đó giúp người đọc
rút ra rằng cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để từ đó đưa nghệ thuật
vươn tơi chiều sâu nhân bản “ Nghệ thuật phải gắn liền với đạo đức”.
Làm nên thành công của hình tượng người đàn bà nói riêng và tác phẩm
nói chung, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tạo ra một tình huống truyện mang
tính khám phá, nhận thức, phát triển đời sống. Ngôn ngữ kể chuyện khách
quan, giàu sức thuyết phục mang đến cho người đọc nhiều bất ngờ thú bị và
thương cảm lẫn cảm phục. Nhân vật được đặt trong những tình huống khác
nhau, được khắc họa khách quan, chân thực, vừa có cá tính sắc nét vừa có tính
điển hình; ngôn ngữ nhân vật sinh đông, phù hợp với tính cách.
Tóm lại, người đàn bà hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”
là hiện thân của vẻ đẹp về đức hi sinh, lòng nhân ái bao dung của người phụ nữ
Việt Nam trong mọi thời đại, đặc biệt là thời kỳ đổi mới. Tấm lưng bạc phếch,
ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con có lẽ sẽ còn
ám ảnh rất lâu trong tâm trí độc giả. Qua đó, Nguyễn Minh Châu không chỉ chia
sẻ niềm cảm thông của mình với những số phận đau khổ tuổi nhục của những
người lao động vô danh trong xã hội; mà còn lên án, đấu tranh với cái xấu, cái
ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình; đồng thời phát hiện, ngợi ca những
phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Từ đó, nhà văn đặt ra trách nhiệm cho
đông đảo tầng lớp và nghệ sĩ phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều về con người
và cuộc đời như điều nhà văn từng bộc bạch: “Cuộc đời thì đa sự, con người thì
đa đoan.”
Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính
được tạo nên bởi niềm cảm thong sâu sắc của nhà văn với nỗi đau của những con
người, những cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống. Đồng thời, nhà văn còn thể hiên sự
nâng niu, trân trọng với những nét đẹp trong tâm hồn và niềm tin khả năng vươn dậy
của con người dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào của cuộc đời.
Trước hết, giá trị nhân đạo trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là sự đồng
cảm của nhà văn đối với cuộc đời người lao động sau chiến tranh thông qua
việc thương xót cho số phận người phụ hàng chài. Đọc và tìm hiểu tác phẩm
qua ngòi bút của Nguyễn Minh Châu, ta được cảm nhận trọn vẹn bức tranh đời
sống của một gia đình hàng chài tại vùng biển miền Trung. Người phụ nữ hàng
chài hiện lên với biết bao khó nhọc, phải gánh chịu tất cả những nỗi đau khổ,
cơ cực, bế tắc của gia đình. Chị vừa là vợ vừa là mẹ, lam lũ sống bằng nghề lưới
vó nuôi con trên chiếc thuyền chật hẹp. Việc khắc họa ngoại hình người đàn bà
“cao lớn với những đường nét thô kệch” càng làm tăng cấp hơn cái khổ, cái cực
của chị. Ngoài nỗi lo toan về miếng cơm manh áo, chị còn một nỗi đau khác, nỗi
đau vì bị chồng bạo hành. Lão chồng cứ khi nào thấy khổ là lôi chị ra đánh,
đánh trên thuyền, đánh cả lúc vào bờ. Nỗi sợ ấy đè nặng lên chị cả về thể xác
lẫn tinh thần như một màn đêm luôn vây bủa. Thông qua những khổ đau ấy
của chị, nhà văn đã cất lên lời phê phán, tố cáo đanh thép hành động vũ phu
thô bạo của người chồng trong đối xử với vợ, với con. Nhưng đâu chỉ có thể,
Nguyễn Minh Châu còn thể hiện nỗi lo âu, khắc khoải về tình trạng nghèo khổ,
tối tăm của người dân lao động – nguyên nhân sâu xa của sự bạo hành, nhẫn
nhục và chịu đựng. Đồng thời, thông qua cậu bé Phác – đứa con trai của hàng
chài - ông cũng bày tỏ niềm trắc trở, quan hoài của mình về thế hệ trẻ tương lai
khi phải sống trong cảnh đói nghèo, bạo lực của gia đình. Những dòng văn của
Nguyễn Minh Châu rất thật, khiến tim ta như quặn thắt lại trước nỗi bất hạnh
của những người lao động sau chiến tranh. Phải tha thiết với cuộc sống bao
nhiêu, yêu thương con người bao nhiêu, đào sâu vào nỗi đau tâm can bao
nhiêu mới có thể viết lên được những con chữ như thế? Tất cả đều xuất phát
từ tấm lòng sâu sắc của nhà văn.
Trong quá trình đi đào sâu vào hiện thực đời sống và tâm hồn, Nguyễn
Minh Châu đã khám phá ra những đóa hoa tỏa ngát hương trên vùng trời nhân
cách thông qua “Chiếc thuyền ngoài xa”, từ đó nhà văn hướng tới ca ngợi ca
phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ chài, nhiếp ảnh Phùng và chánh án Đẩu.
Ở nhân vật người đàn bà, trước hết ấy là tấm lòng của người mẹ thương
con vô bờ bến. Trước cuộc sống với những áp lực áo cơm đè nặng lên đôi vai,
chị chưa hề một lần than thở hay trách hờn số phận. Chị luôn cam chịu, nhẫn
nhục dẫu phải ăn đòn roi của người chồng bạo lực. “Cứ ba ngày một trận nhẹ,
năm ngày một trận nặng” nhưng chị “không hề kêu một tiếng, cũng không
chống trả” và cũng “không tìm cách chạy trốn” mà chỉ biết lặng im để chồng
mình qua cơn khốn khó mà bám nghề và kiếm tìm nuôi con. Tuy ít học nhưng
người đàn bà ấy lại vô cùng sâu sắc và thấu đáo. Chị lo sợ khi chứng kiến nạn
bạo lực này, tâm hồn con sẽ ván đục đi và hằn sâu trong tâm thức chúng sự thù
hận bố mình. “Các con đã lớn đừng đánh tôi trên thuyền, mà hãy đưa tôi lên
bờ mà đánh.” Thật chua xót và đau đớn làm sao! Không chỉ có vậy, người đàn
bà này còn rất có trách nhiệm và luôn kiên quyết với bổn phận làm mẹ. Dẫu
được khuyên về việc bỏ chồng, nhưng chị khăng khăng từ chối vì chị hiểu rằng
trên con thuyền ấy, không thể nào thiếu đi một người đàn ông để chèo chống
qua những mùa giông bão. Chị hiểu rõ, một mình chị không thể nuôi nổi bầy
con. Qủa thật “không có gì cao cả hơn một sự hi sinh thầm lặng” mà người đàn
bà này dành cho những đứa con của mình.
Ở người phụ nữ này, không chỉ thương con thôi đâu, mà chị còn rất bao
dung với chồng. Tòa án huyện mời chị lên để có hướng giải quyết. Lúc chị đối
diện với tòa án, tòa án khuyên chị là nên ly hôn gã chồng vũ phu tàn bạo kia để
cuộc đời chị bớt khổ. Nhưng chị biết, chỉ có chị mới hiểu nổi bức xúc của chồng,
chỉ có chị mới hiểu nỗi khổ đau, lam lũ của chồng. Trước tòa án, chị không hề
nói xấu chồng, hận chồng mà chị luôn bên vực cho chồng với tiếng nói chân
thành, tha thiết trước tòa án. Chị mượn quá khứ để bảo vệ chồng :“Lão chồng
tôi lúc ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh
đập tôi” và chị cũng nêu lên cuộc sống của gia đình trên thuyền “có lúc vợ
chồng, con cái chúng tôi sống hòa thuận vui vẻ”. Rồi chị quay sang tự trách
mình “giá mà đẻ ít đi” hoặc “sắm được một chiếc thuyền rộng hơn” thì cuộc
sống đã khác đi. Hàng loạt những vấn đề chị đưa ra hoàn toàn đúng với thực
tế, có cơ sở nhằm bênh vực cho chồng. Ấy là tất cả những yêu thương,, bao
dung và thấu hiểu mà chị dành cho người chồng “cùng khổ” như mình.
Tác giả đã khắc họa hình ảnh người đàn bà như một hình tượng nghệ
thuật sống. Cho dù hoàn cảnh có nhọc nhằn, đau đớn thân nhưng chị vẫn cam
chịu, nhẫn nhục để làm tròn trách nhiệm của người mẹ, của người vợ. Ấy chính
là phẩm chất cao đẹp mà Nguyễn Minh Châu muốn ngợi ca!
Một nhân vật khác với phẩm chất tốt đẹp mà nhà văn muốn ca ngợi
không ai khác chính là nhiếp ảnh Phùng. Dẫu không hề có quan hệ gì với gia
đình người phụ nữ hàng chài nhưng khi chứng kiến cảnh tượng chồng đánh vợ
tàn bạo, anh đã đứng về phía bị áp bức để chống trả lại nhầm bảo vệ nhân
phẩm của người phụ nữ, sau đó anh còn cùng Đẩu tìm lối thoát cho chị khỏi
cảnh lầm than. Không chỉ thế, anh còn có cái nhìn đúng đắn giữa nghệ thuật và
cuộc sống. Với anh, nghệ thuật luôn luôn đề cao cái đẹp, biết yêu cái đẹp
nhưng cái đẹp ấy phải dựa trên cái thật thì mới có giá trị. Như vậy, người nghệ
sĩ phải đi sâu vào đời sống con người, phải tha thiết với cuộc sống và phải yêu
thương con người từ sự rung động trong trái tim mình thì mới khám phá được
đời sống nội tâm của nhân vật, thấy rõ số phận của con người, từ đó mới tạo
nên nguồn cảm hứng trung thực của người cầm bút để xây dựng nên một tác
phẩm không chỉ có giá trị về nội dung và còn phải có giá trị về tư tưởng.
Người bạn của Phùng - chánh án Đẩu – cũng là nhân vật tiêu biểu trong
tác phẩm với những phẩm chất cao đẹp của mình. Anh thể hiện một cái tâm
trong sáng khi đứng về phía kẻ bị áp bức và bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ.
Anh khuyên người đàn bà ly dị với chồng để có một lối thoát, một cuộc sống tốt
hơn. Anh không áp đặt chị một cách máy móc vì anh hiểu rằng những lý thuyết
về pháp luật từ sách vở với cuộc sống thực tế không giống nhau, từ đó khiến
anh có một cái nhìn đúng đắn phù hợp hơn. Với anh, chính quyền không chỉ
đưa ra lời khuyên dựa vào lý thuyết thôi mà phải tìm ra một phương án tốt
nhất, một chính sách hợp lý nhất để làm sao nâng cao đời sống của người dân
chài. Điều đó mới đảm bảo được trong gia đình nạn bạo lực từng bước sẽ được
khắc phục, cái ác không còn đất sống.
Có thể thấy rằng, không chỉ đơn giản là ca ngợi mà nhà văn còn khẳng
định chắc nịch về những ánh sáng lương tri đang rực rỡ trong trái tim những
con người nơi đây. Đồng thời, ông cũng đặt niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của
họ, vào một tương lai tươi sáng hơn, xứng đáng hơn với những khát vọng,
những ước mơ bình dị mà cao đẹp.
Nhưng đó chưa phải là điều cuối cùng nhà văn muốn hướng đến. Nguyễn
Minh Châu đặt ra cho chúng ta một câu hỏi lớn: làm thế nào để giải phóng con
người ra khỏi những bi kịch của gia đình, của cuộc sống vì cuộc sống không hề
đơn giản, một chiều mà có đủ cả trắng đen, tốt xấu, vui buồn; còn con người lại
vô cùng phức tạp với kiểu người đa trị, lưỡng diện. Đồng thời, ông còn đặt ra
một suy ngẫm khác cho những người làm nghệ sĩ rằng phải làm thế nào để rút
ngắn khoảng cách giữa văn chương và hiện thực đời sống vì đến cuối cùng,
nghệ thuật phải gắn bó hữu cơ mật thiết với đời sống, nghệ thuật phải khám
phá con người ở chiều sâu nhân bản. Ấy là biểu hiện cuối cùng của giá trị nhân
đạo trong tác phẩm, một tư tưởng mang tầm tính triết lý đầy sâu sắc về cuộc
đời và nghệ thuật.
Thông qua truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu đã
bộc lộ sự thấu hiểu, cảm thông và niềm xót thương sâu sắc với số phận con
người trong cuộc sống mưu sinh nhọc nhằn, trong hành trình gian nan, đau khổ
kiếm tìm hạnh phúc và sự bình yên. Chính vì lý do đó mà “Chiếc thuyền ngoài
xa” được xem như truyện ngắn thể hiện trọn vẹn nhất tấm lòng “vị nhân sinh”
của nhà văn trên hành trình nghệ thuật của mình.