You are on page 1of 9

NHỮNG NHÂN Tố ẢNH HƯỞNG ĐÉN Ý ĐỊNH sử DỤNG

VÍ ĐIỆN TỪ CỦA NGƯỜI DÙNG VIỆT NAM

Nguyễn Thị Liên Hương, Vũ Thùy Dương, Tăng Yến Vi,


Lê Hồng Quyết, Trần Nhật Trường,
Trường Đại học Kỉnh tế quốc dãn
Ngày nhận bài: 10/05/2021
Ngày nhận bài sửa: 27/05/2021
Ngày duyệt đăng: 10/06/2021

Tóm tắt: Bài viết trình bày tổng quan lý thuyết về vỉ điện tử, ỷ định sử dụng ví điện tử và các
nhăn tổ có ảnh hưởng đến ý định này. Từ kết quả tổng quan lý thuyết, đề xuất mô hình nghiên cứu
và giả thuyết nghiên cứu. Khảo sát được thực hiện tại 3 miền của Việt Nam trong khoảng từ thảng
12-2020 đến tháng 2-2021. Kết quả nghiên cứu cho thấy ỷ định sử dụng ví điện tử chịu ảnh hưởng
bởi niềm tin của người dùng, khả năng đổi mới sáng tạo cả nhân về công nghệ thông tin (PIIT)
nhưng chưa tìm được bằng chứng kết luận ảnh hưởng của mối lo ngại về quyền riêng tư đến ỷ
định sử dụng vỉ điện tử trong bối cảnh nghiên cứu của Việt Nam. Ngoài ra, ảnh hưởng của 3 biến
độc lập giải thích được 19% sự biến thiên của ỷ định sử dụng ví điện tử, do đó khẳng định được
ảnh hưởng đáng kể của chủng đến ý định, ngoài các biến tiền đề của ỷ định từ mô hình Lý thuyết
hành vi có hoạch định (TPB). Tại bài viết này, nhân tố có ảnh hưởng mạnh nhất đến ỷ định sử
dụng ví điện tử là niềm tin của người dùng, sau đó là PUT.
Từ khoá: ví điện từ, ỷ định sử dụng ví điện tử, niềm tin, mối lo ngại về quyền riêng tư, khả
năng đổi mới sáng tạo cá nhân về CNTT (PUT).

FACTORS THAT IMPACT INTENTION TO USE E-WALLET OF VIETNAMESE


Abstract: This study conducts literature review on e-wallet, intention to use e-wallet and
factors that impact it. This is the foundation for the paper to propose research model and
hypotheses. The survey was conducted within the scope of Vietnam from December 2020 to
February 2021. Research results showed that intention to use e-wallet is impacted by trust and
personal innovativeness in IT (PUT), but no evidence was foundfor the impact ofprivacy concern
in the context of Vietnam. Furthermore, the combination impact of these variables explains 19%
the changes of intention to use e-wallet thus confirm their significant alongside the well-known
intention antecedents ofTPB. In conclusion, intention to use e-wallet is strongly impacted by trust,
closely followed by PIIT.
Keywords: e-wallet, behavioral intention, trust, privacy concern, PUT

1. Đặt vấn đề
Theo Asian Banker Research, dự kiến năm đầy tiềm năng này, các ví điện tử đang thi nhau
2020 tại Việt Nam tổng số người dùng ví điện nở rộ để chiếm lĩnh thị trường thương mại điện
tử sẽ vượt mốc 10 triệu người. Với thị trường tử. Thực tế cũng cho thấy, trong những năm vừa

Số 22 tháng 6 năm 2021 12 Tạp chí Tài chính - Quản trị kinh doanh
qua, tại thị trường Việt Nam, các công ty công thanh toán không dùng tiền mặt của chính phủ
nghệ tài chính (Fintech) đã cạnh tranh quyết tại Việt Nam.
liệt giành thị phần béo bở này khi cho ra mắt Có thể thấy ví điện tử dần trở thành một sản
hàng loạt các loại ví điện tử có thương hiệu phẩm thay thế cho các công cụ thanh toán
như Momo, Samsung Pay, VTC Pay, truyền thống của các ngân hàng và đang chứng
Bankplus, Payoo, ZaloPay, IPay, Bảo Kim, minh sức cạnh tranh lớn với các ngân hàng hiện
Vimo, Mobivi, eDong, Ví FPT, eMonkey, nay. Do đó, việc tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng
Pay365, TopPay, Ngân Lượng, AirPay,... Cụ đến ý định sử dụng ví điện tử có ý nghĩa thiết
thể, tính đến tháng 12/2019 có 32 tổ chức thực với các ngân hàng và các công ty kinh
không phải là ngân hàng đã được ngân hàng doanh ví điện từ để nắm bắt được thị phần và
nhà nước cấp phép hoạt động cung ứng các có các chiến lược phù họp. Trong 10 năm gần
dịch vụ trung gian thanh toán. Phần lớn các đây trên thế giới đã có các nghiên cứu về ví điện
đơn vị này cung cấp dịch vụ ví điện từ, cổng tử tại nhiều quốc gia. Hầu hết các nghiên cứu
thanh toán điện tử, hồ trợ thu- chi hộ, chuyển này được thực hiện tại các nước phát triển và
tiền điện từ (Hồng Hà, 2019). một số nước đang phát triển có trình độ đổi mới
Năm 2020, công ty nghiên cứu thị trường nhanh về CNTT như Án độ. Đa số các nghiên
Cimigo đã công bố một nghiên cứu về nhận cứu khẳng định sự cạnh tranh mạnh mẽ và
thức và hành vi của người dùng ví điện tử đối nhiều ưu việt của các mô hình ví điện tử tại các
với các thương hiệu ví điện tử phổ biến tại Việt bối cảnh nghiên cứu và cũng chỉ ra được một số
Nam. Ket quả dựa trên 505 cuộc phỏng vấn với nhân tố có ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví
những người dùng đã sử dụng ít nhất một ví điện tử của các cá nhân. Tại Việt Nam, các
điện tử tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội nghiên cứu về ví điện tử hầu hết còn rời rạc và
và các số liệu về số lượng giao dịch quý 4 năm hiện còn ít các nghiên cứu tìm hiểu các nhân tố
2019. Ket quả khảo sát cho thấy Momo, Moca có ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví điện tử. Các
và ZaloPay là ba ví điện tử phổ biến nhất tại nhân tố có sự khác biệt từ nghiên cứu này sang
hai thành phố chính của Việt Nam. Ba ví điện nghiên cứu khác, tuy nhiên, một số nhân tố nổi
tử này chiếm hơn 90% lượng người dùng ví bật xuất hiện tại nhiều nghiên cứu hơn dù kết
điện tử. Ngoài ra, kết quả cũng cho thấy ví điện luận về ảnh hưởng của chúng còn nhiều tranh
tử chủ yếu được sử dụng để nạp tiền trên thiết cãi. Theo hiểu biết tốt nhất của nhóm tác giả, số
bị di động, chuyển tiền, thanh toán hóa đơn lượng các nghiên cứu tại Việt Nam tìm hiểu về
điện nước, giao đồ ăn và thanh toán gọi xe. các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví
Momo và ZaloPay chủ yếu được sử dụng để điện tử còn hạn chế và cũng chưa đưa ra được
nạp tiền di động, chuyển tiền và thanh toán hóa nhiều kết luận có tính đột phá. Đây là khoảng
đơn điện nước. Moca chủ yếu được sử dụng trống cần có thêm nhiều nghiên cứu thực
cho các khoản thanh toán gọi xe, nạp tiền qua nghiệm khác được thực hiện để bổ sung kết quả
điện thoại di động, chuyển tiền và thanh toán và kiểm định thêm các nhân tố mới có ảnh
giao đồ ăn. Tại Việt Nam, theo thống kê chính hưởng đến ý định này.
thức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tỷ lệ 2. Tổng quan nghiên cứu và mô hình
thanh toán không dùng tiền mặt trên tổng nghiên cứu
phương tiện thanh toán mới chỉ đạt 14%,. Bối
Ví kỳ thuật số, còn được gọi là ví điện tử,
cảnh này tạo cho các thương hiệu ví điện tử đề cập đến các ứng dụng di động lưu trữ chi tiết
một môi trường tiềm năng để phát triển và từng
thẻ tín dụng hoặc thẻ ghi nợ ở một nơi và cho
bước thay đổi thói quen thanh toán tiền mặt phép người dùng mua hàng không dùng tiền
của người dân, góp phần định hướng phát triển
mặt tại cửa hàng và trực tuyến bằng điện thoại

Số 22 tháng 6 năm 2021 13 Tạp chí Tài chính - Quản trị kỉnh doanh
hoặc thiết bị đeo trên người của họ như đồng hồ tóm tắt động lực để thực hiện hành vi (Ajzen,
thông minh. Chúng cũng có thể được sử dụng 1991). Một sổ lý thuyết đã được sử dụng rộng
để lưu trữ tài liệu nhận dạng hoặc phiếu rãi đe dự đoán về các hành vi của con người, từ
thưởng(voucher) điện tử, vé, thẻ lên máy bay và việc coi ý định của con người như một yếu tố
chìa khóa phòng, loại bỏ hoàn toàn việc phải dự đoán tức thời và quan trọng cho hành động
mang theo ví cồng kềnh. Sử dụng nhận dạng tiếp theo, chẳng hạn như lý thuyết về hành vi có
sinh trắc học và mã hóa dữ liệu, ví điện tử kế hoạch -TPB) (Ajzenl991; Conner và Sparks,
không chỉ tiện lợi mà còn mang lại cho người 1996) và tiền thân của nó là lý thuyết về hành
dùng cảm giác kiểm soát và bảo mật cao hơn. động hợp lý-TRA(Fishbein, 1980; Fishbein &
Thường thì ví điện tử nằm ở dạng ứng dụng Ajzen, 1975), lý thuyết động lực bảo vệ-PMT
trên điện thoại thông minh nhưng nó cũng có (Rogers 1983; Norman và cộng sự, 2005) và mô
thể ở các dạng khác như phần mềm trên cửa sổ hình hành vi giữa các cá nhân (Triandis,
màn hình chính của máy tính cá nhân. Tuy 1977,1980)... Ý định có thể được định nghĩa là
nhiên, ứng dụng dành cho thiết bị di động là những chỉ dẫn mà mọi người đưa ra cho bản
phiên bản phổ biến nhất của ví điện tử do tính thân để thực hiện các hành vi cụ thể hoặc để đạt
linh hoạt và khả năng di động theo chủ nhân được các mục tiêu nhất định (Triandis 1980) và
của nó. Ví điện từ không chỉ thuận tiện để sử được đặc trưng bởi các phát biểu có dạng 'Tôi
dụng mà còn an toàn hơn sử dụng ví truyền dự định làm / đạt được X”. Ý định là điểm cao
thống. Người dùng có thể tránh mang theo nhất của quá trình đưa ra quyết định; chúng báo
những chiếc ví cồng kềnh đầy tiền mặt và trở hiệu sự kết thúc của việc cân nhắc về một hành
thành mục tiêu của tội phạm trộm cướp. Họ vi và đưa ra tiêu chuẩn về hiệu suất mà một
thậm chí có thể liên kết ví điện tử trên điện người đã đặt ra cho bản thân, cam kết của một
thoại của mình với bằng lái xe, thẻ sức khỏe, người đối với hiệu suất tiêu chuẩn này và lượng
thẻ khách hàng thân thiết hoặc các giấy tờ tùy thời gian, nỗ lực sẽ sử dụng trong quá trình thực
thân khác. Người dùng ví điện tử cần tải xuống hiện (Gollwitzer 1990; Ajzen 1991; Webb và
các ứng dụng cụ thể được tạo bởi các ngân Sheeran 2005).
hàng hoặc bên thứ ba được tin cậy để sử dụng Đã có nhiều nghiên cứu về các nhân tố ảnh
dịch vụ đa dạng, đáp ứng nhu cầu cá nhân. hưởng đến ý định thực hiện một hành vi mà đa
Tâm lý học giải thích hành vi của con người số thừa nhận ảnh hưởng của các nhân tố tiền đề
trên cơ sở các trạng thái tinh thần, bao gồm của ý định đã được đề cập trong lý thuyết TPB
niềm tin, ước muốn và ý định. Các cơ chế tinh như thái độ, chuẩn chủ quan và cảm nhận kiểm
thần, bao gồm cả ý định, giải thích hành vi trong soát hành vi. Tuy nhiên, kết quả của các nghiên
đó các cá nhân được coi là những tác nhân có cứu thực nghiệm cho thấy các nhân tố tiền đề
mong muốn và cố gắng đạt mục tiêu được định mới chỉ giải thích được một phần sự biến thiên
hướng bởi niềm tin. Do đó, một hành động có của ý định hành vi. Do đó, chắc chắn còn có các
chủ đích thực hiện chức năng hoàn thành một nhân tố khác có ảnh hưởng đến ý định chưa
mục tiêu mà con người mong muốn và dựa trên được đề cập nghiên cứu. Các nghiên cứu về ý
niềm tin rằng nhờ vào quá trinh thực hiện sẽ định hành vi đã được thực hiện trong nhiều lĩnh
thỏa mãn được mong muốn. Ý định là một vực từ hành vi khởi nghiệp, hành vi tiêu dùng
trạng thái tinh thần thể hiện cam kết thực hiện xanh, hành vi luyện tập thể thao ... Tuy nhiên,
một hành động hoặc các hành động trong tương tại Việt Nam còn rất ít các nghiên cứu thực
lai. Ý định liên quan đến các hoạt động tinh thần nghiệm được thực hiện để tìm kiếm thêm nhân
như lập kế hoạch và suy nghĩ trước (Bratman, tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví điện từ.
M. 1987). Ý định còn được coi như là một bản Tổng quan nghiên cứu cho thấy các nhân tố ành

Số 22 tháng 6 năm 2021 14 Tạp chí Tài chính - Quản trị kinh doanh
hưởng đến ý định sử dụng ví điện tử có thay đổi chung mà đối tác cảm nhận được (Gefen, 2000;
tùy theo bối cảnh nghiên cứu, nhưng một số Hosmer, 1995; Moorman và cộng sự., 1992),
nhân tố được nhiều công trình trước đây đề cập đôi khi niềm tin còn được quan niệm là “sự sẵn
và kết luận có ảnh hưởng dù còn nhiều tranh cãi sàng của phía dễ bị ảnh hưởng trước những
về mức độ và chiều ảnh hưởng như “Niềm tin hành động của người khác" (Mayer và cộng sự.,
của người dùng”, “ Mối lo ngại về quyền riêng 1995; Molm và cộng sự., 2000; Cook và cộng
tư” và “Khả năng đổi mới sáng tạo cá nhân về sự., 2005; Josang và cộng sự., 2007). Một số
công nghệ thông tin (PIIT)”. học giả khác lại cho rằng niềm tin là sự kỳ vọng
Tông quan các công trình nghiên cứu trước vào đối tác trong mối quan hệ trao đổi hiện hữu
đây cho thấy mối lo ngại về quyền riêng tư là (Bradach và cộng sự., 1989; Hosmer, 1995;
“mối quan tâm, lo ngại của người dùng về khả Cyr, 2008). Sự đa dạng trong khái niệm của
năng mất quyền riêng tư do việc tiên lộ thông niềm tin được thể hiện rõ ràng trong bối cảnh
tin cho bên thứ ba” (Xu và Heng, 2011). Bên các loại hình thanh toán điện tử đang ngày càng
cạnh đó mối quan tâm về quyền riêng tư còn là phát triển trên thế giới và Việt Nam. Niềm tin
mối quan tâm của người dùng đối với việc kiểm được xem như một chỉ báo của ý định hành vi
soát quá trình mua bán và sử dụng gián tiếp (Gefen,2000; Mui và công sự, 2002). Các dịch
thông tin được tạo ra từ họ hoặc có được trên vụ mua sắm trên điện thoại di động càng phát
Internet (Castaneda và Montoro, 2007). Cùng triến thì cũng xuất hiện nhiều vấn đề mà người
với việc phát triển của công nghệ và internet, tiêu dùng phải đối mặt gây ảnh hưởng tới niềm
mối lo ngại về quyền riêng tư không còn chỉ tin giữa nhà cung cấp và người sử dụng dịch vụ
giới hạn ở sự lo ngại các trường hợp nhỏ như mua sắm di động. Niềm tin vào các dịch vụ mua
việc gửi thư rác, cookie cùa các trang web bất sắm trên thiết bị di động thể hiện tác động trực
hợp pháp, mà còn mở rộng ra bao phủ hầu hết tiếp mạnh mẽ đến các hành vi đối với tiện ích
các hoạt động mua bán thông tin trên internet mở rộng mua sắm trên thiết bị di động. Điều
(Wang, 1998). Nhân tố khiến mối lo ngại về này nhấn mạnh vai trò quan trọng của niềm tin
quyền riêng tư tăng lên rất nhanh là ý thức nhận đối với các dịch vụ mua sắm trên thiết bị di
biết của người sử dụng. Khi người dùng càng động trong xác định việc sử dụng dịch vụ di
có ý thức nhận biết cao về sức mạnh của động (Yang và cộng sự 2015).
Internet trước việc theo dõi và thu thập thông
tin của họ thì họ càng dễ nảy sinh những nghi
ngờ cũng như lo ngại về việc thông tin cá nhân
của bản than bị rò rỉ và được sử dụng trái phép
mà mình không hề hay biết (Dinev & Hart,
2003). Bài viết này sử dụng định nghĩa của Xu
và Heng (2011) cho nhân tố Mối lo ngại về
quyền riêng tư.
Tổng quan các công trình trước đây cho
thấy các học giả như Doney và Cannon, (1997;
Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất
Ganesan, (1994); Grandison và Sloman, (2000)
xem niềm tin như một tập hợp của các thành Tính đổi mới (Innovativeness) đã được
phần sau: tin tưởng vì lòng tốt (benelovence), chứng minh là một biến rất phù họp để giải
tin tưởng vì tin cậy (integrity) và tin tưởng vì thích cho sự áp dụng những sản phẩm mới
khả năng (competence). Cũng có một số học giả (Agarwal và cộng sự, 1998; Robertson và
quan niệm rằng niềm tin đến từ một sự tin tưởng Kennedy, 1968), hay quá trình mua sắm (Citrin,

Số 22 tháng 6 năm 2021 15 Tạp chí Tài chính - Quản trị kinh doanh
Sprott, Silverman, và Stem, 2000), và do đó, trở người. Mầu được chọn theo phưcmg pháp thuận
thành một mối quan tâm chính cho các nhà tiện ở cả 3 miền Bắc, Trung và Nam của Việt
nghiên cứu về hành vi người tiêu dùng Nam. Để bảo đảm đủ số lượng mẫu tối thiểu
(Agarwal & Prasad, 1998; Hirschman, 1980a; theo yêu cầu của Hair và cộng sự (2009) chúng
Hurt, Joseph, & Cook, 1977; Midgley & tôi đã phát đi 500 phiếu, chủ yếu là lời mời qua
Dowling, 1978; Robertson, 1971; Rogers, thư điện tử, mạng xã hội. Có 418 phiếu (83.6%)
1983, among others). Agarwal và Prasad (1998, trả về trong đó có 389 phiếu (77.8%) đạt chuẩn
p. 206) đã đề xuất thuật ngữ tính đổi mới cụ thể sau khi đã loại các phiếu bị thiếu thông tin hoặc
cho lĩnh vực công nghệ thông tin là "khả năng không đạt yêu cầu.
đổi mới sáng tạo cá nhân về lĩnh vực công nghệ Thang đo được nhóm nghiên cứu xây dựng
thông tin" (PIIT) và định nghĩa nó là “sự sẵn dựa trên cơ sở kế thừa và phát triển có chọn lọc
sàng cùa một cá nhân để thử bất kỳ công nghệ từ các nghiên cứu có liên quan đến chủ đề bài
thông tin mới nào đó”. Khi nghiên cứu về ý viết đã được đăng tải trên các tạp chí uy tín
định áp dụng Công nghệ tài chính (FinTech), đồng thời tiến hành điều chỉnh nội dung câu hỏi
PIIT đóng một vai trò quan trọng, ảnh hưởng cho phù hợp với bối cảnh nghiên cứu về ví điện
đến sự chấp nhận của người dùng bằng cách tử tại Việt Nam. Để phù hợp với nhận thức và
loại bỏ sự lo lắng của họ (Xu, H., & Gupta, s. trình độ chung của người Việt Nam, đối tượng
2009). Lestari và D. (2019) đã chỉ ra thêm chính của nghiên cứu này, các biến quan sát
rằng, khả năng đổi mới sáng tạo cá nhân là một trong các thạng đo được kế thừa đã được dịch
thuộc tính quan trọng trong quá trình áp dụng từ tiếng Anh sang tiếng Việt bởi một đơn vị đạt
công nghệ mới và những người áp dụng nó có tiêu chuẩn chứng nhận về dịch thuật. Sau đó
thể đóng vai trò là người dẫn dắt để thay đổi ý bảng hỏi dịch tiếng Việt này một lần nữa được
kiến của người khác. Vì bản chất của bài viết các giảng viên đã có công trình nghiên cứu về
này đề cập đến một lĩnh vực công nghệ cụ thể hành vi hoặc thanh toán điện tử dịch ngược trở
(ví điện tự), nhóm tác giả sẽ sử dụng khái niệm lại tiếng Anh để đảm bảo các ý chính và thuật
của Agarwal và Prasad (1998) là “khả năng ngữ là chính xác và không bị hao hụt, nhầm lẫn
đổi mới sáng tạo cả nhân về lĩnh vực CNTT” trong quá trình dịch thuật. Bảng hỏi dịch tiếng
trong lĩnh vực thanh toán trực tuyến, cụ thế là Việt sau đó được Việt hóa về cách diễn đạt và
ví điện tử. được điều chỉnh từ góp ý của đối tượng khảo
3. Phương pháp nghiên cứu sát sau nghiên cứu mẫu nhỏ để dễ hiểu và thân
Để phục vụ mục tiêu nghiên cửu, nhóm thiện hơn.
nghiên cứu đã tiến hành điều tra trên mẫu 500

Bảng ỉ. Các biến trong mô hình và thang đo kế thừa


STT Tên biến Công trình kế thừa thang đo

1 Mối lo ngại về quyền riêng tư Culnan và Armstrong (1999)

2 Niềm tin của người dùng Chen & Bames (2007)

3 Khả năng đổi mới sáng tạo cá nhân về CNTT Argawal và Prasad (1998)

4 Ý định sử dụng ví điện tử Wan và cộng sự (2012)

Số 22 tháng 6 năm 2021 16 Tạp chí Tài chính - Quản trị kinh doanh
Phương pháp Cronbach’s Alpha được sử THPT và tôt nghiệp các trường Trung cấp và
dụng đê đánh giá độ tin cậy của thang đo, dạy nghề lần lượt là 9.5% và 6.9%. Còn lại là
phương pháp phân tích nhân tố EFA được sử những người chưa tốt nghiệp THPT và đối
dụng để đánh giá giá trị hội tụ và phân biệt của tuwowngh khác chiếm 1.5% và 1.8 % trong
thang đo. Phân tích tương quan Pearson và hồi tống thể mẫu nghiên cứu.
quy tuyến tính được sử dụng để kiểm định các Độ tin cậy của thang đo được kiểm định
giả thuyết và hiện tượng đa cộng tuyến. bằng hệ số Cronbach’s Alpha. Kết quả kiểm
4. Kết quả nghiên cứu định của các nhân tố trong mô hình đều lớn hơn
về giới tính các đối tượng khảo sát có sự 0.7, mức được chấp thuận theo yêu cầu của Hair
chênh lệch đáng kể, trong khi chỉ có 115 người và cộng sự (1998), với hệ số tương quan biến
tham gia là nam, chiếm 29.6% thì có đến 274 tổng đều đạt giá trị trên 0.3. Không có hệ số
người tham gia là nữ, chiếm 70.4 % trong mẫu alpha nào sau khi loại quan sát cao hơn hệ số
nghiên cứu. Điều này cũng phù hợp với kết quả alpha của biến. Do đó tại bước kiểm định này,
của nhiều nghiên cứu về thị trường trước đây không có quan sát nào bị loại. Cụ thể, hệ số
trong đó cho thấy phụ nữ hay mua sắm hơn và Cronbach’s Alpha của biến Niềm tin của người
việc mua sắm trong gia đình cũng thường do dùng (Trust), Mối lo ngại về quyền riêng tư
phụ nữ đảm nhiệm. Như vậy, số phụ nữ sử dụng (PC), Khả năng đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực
ví điện tử cũng tương ứng cao hơn số nam giới CNTT (PIIT) và Ý định hành vi (IT) có giá trị
lần lượt là 0.831, 0.906, 0.834 và 0.864.
do họ đóng vai trò chính trong mua sắm kể cả
cho cá nhân và gia đình. Độ hội tụ và phân biệt của thang đo được
Theo kết quả khảo sát, nhóm tuổi từ 18 đến kiểm định thông qua phân tích nhân tố khám
22 là nhóm đối tượng tham gia khảo sát nhiều phá EFA. EFA trong bài viết này sử dụng
nhất với 227 người chiếm 58.4 % trong tổng Principal Component và phép quay vuông góc
thể; tiếp theo là nhóm 23-40 tuổi với 108 người Varimax. Kết quả EFA cho thấy tất cả các biến
chiếm 27.8%; chỉ có 18 người ở độ tuổi từ 41 quan sát đều đạt yêu cầu về độ hội tụ và phân
đến 60 tuổi tham gia khảo sát chiếm 9.8% và 16 biệt với hệ số tải (factor loading) đều > 0.5, hệ
số 1> KMO = 0,855 > 0 và Sig = 0,000 <0.05.
người ở tuổi ngoài 60, chiếm 4.1 %. Kết quả
này có sự tương đồng với kỳ vọng của các Giá trị Eigenvalue > 1 và tổng phương sai sai
trích là 53.956% > 50 một lần nữa khẳng định
nghiên cứu trước đây trong đó giới trẻ chiếm tỷ
lệ cao về số người dùng ví điện tử do họ sẵn các biến đạt tiêu chuẩn ở bước kiểm định này.
sàng hơn trong việc thử nghiệm cái mới và có Ket quả nghiên cứu cho thấy hệ số tương
kinh nghiệm tốt hơn về công nghệ. quan Pearson (r) của các cặp biến đều nằm
Kết quả thống kê cho thấy người sử dụng ví trong khoảng từ -1 < r < 1 và sig <0.05 cho thấy
các biến có mối tương quan với nhau, có ý
điện tử tham gia khảo sát có trình độ học vấn ở
nghĩa thống kê, nhưng không có dấu hiệu của
bậc Đại học và Cao đẳng là cao nhất (chiếm
69.2%); số người có trình độ Sau Đại học chiếm hiện tượng đa cộng tuyến.
11.1 %; tiếp đến là các đối tượng Tốt nghiệp
Bảng 2. Kết quả phân tích hồi quy
Model Summary
Adjusted R Std. Error of
Model R R Square Square the Estimate
1 •436a .190 .184 .60531
a. Predictors: (Constant), Trust, PC, PIIT

So 22 tháng 6 năm 2021 17 Tạp chí Tài chính - Quản trị kinh doanh
Coefficients1
Standardize
Unstandardized d Collinearity
Coefficients Coefficients Statistics
Std.
Model B Error Beta t Sig. Tolerance VIF
1 (Constant) 2.212 .270 8.180 .000
PUT .076 .035 .101 2.192 .029 .986 1.014
PC -.028 .042 -.031 -.669 .504 .998 1.002
Trust .517 .058 .410 8.865 .000 .984 1.016
a. Dependent Variable: IT

Ket quả kiểm định hồi quy cho thấy R bình Trong đó Niềm tin có ảnh hưởng mạnh mẽ hon
phưong hiệu chỉnh là 0.190, điều này cho thấy đến ý định với beta chuẩn hóa 0.410 so với Khả
ba biến độc lập trong mô hình nghiên cứu là năng đổi mới sáng tạo cá nhân về công nghệ
Niềm tin của người dùng, Mối lo ngại về quyền thông tin (PIIT) với beta chuẩn hóa là 0.101.
riêng tư và Khả năng đổi mới sáng tạo cá nhân Tại bài viết này, không tìm được bằng chứng về
về CNTT giải thích được 19% sự biến thiên của mối quan hệ của Mối lo ngại về quyền riêng tư
biến phụ thuộc là ý định sử dụng ví điện tử tại đến Ý định sử dụng ví điện tử.
bối cảnh nghiên cứu của Việt Nam. Như vậy là 5. Thảo luận và hàm ý nghiên cứu
còn có những nhân tố khác có ảnh hưởng đến ý Như mục 4 trên đây đã chỉ ra, kết quả
định sử dụng ví điện tử chưa được nghiên cứu nghiên cứu cho thấy nhân tố có ảnh hưởng
trong công trình này, cần được các công trình mạnh mẽ nhất đến Ý định sử dụng ví điện tử là
nghiên cứu sau tiếp tục rà soát, mở rộng và đưa Niềm tin của người dùng. Nhiều nghiên cứu
vào kiểm định. Dĩ nhiên, các nhân tố tiền tố của trước đây đã cho thấy niềm tin có tác động trực
ý định trong mô hình TPB như Thái độ, Chuẩn tiếp thuận chiều lên ý định và hành vi
chủ quan, Cảm nhận kiểm soát hành vi đã là các (Luhmann, 1979, 1988; Hart và Saunders,
nhân tố được khẳng định bởi nhiều nghiên cứu 1997; Lee và cộng sự, 2007; Kim và cộng sự,
thực nghiệm trước đây là có ảnh hưởng đến ý 2010; Yang và cộng sự, 2015; Barkhordaria và
định. Tuy nghiên vẫn còn có thể có những nhân cộng sự, 2017), cũng có những nghiên cứu tìm
tố khác. Phân tích ANOVA được tiến hành để được ảnh hưởng gián tiếp của Niềm tin lên hành
kiểm định sự phù hợp của mô hình với quy mô vi thông qua ý định như (Gefen, 2000; Suh và
tong the. Ket quả cho thấy giá trị F có Sig. = Han, 2002; Corbitt và cộng sự, 2003; Dinev và
.000 <0.05 do đó mô hình phù hợp với tập dữ Hart, 2003; Shaw, 2014; Gao và Waechter,
liệu và có thể tiến hành phân tích hồi quy. Kết 2015). Kết quả nghiên cứu này không gây bất
quả kiểm định giả thuyết cho thấy có hai giả ngờ cho nhóm tác giả. Rõ ràng là khi có niềm
thuyết được ủng hộ với sig <0.05 và VIF<2 do tin vào một đối tượng nhất định thì ý định thực
đó kết quả có ý nghĩa thống kê và không có hiện hiện các hành vi có liên quan đến đối tượng đó
tượng đa cộng tuyến. Đó là ảnh hưởng của nhân sẽ chịu ảnh hưởng tích cực.
to PIIT và nhân tố niềm tin của người dùng.

Số 22 tháng 6 năm 2021 18 Tạp chí Tài chính - Quản trị kinh doanh
Nhân tố có ảnh hưởng mạnh thứ hai lên ý sự, 1999; Phelps và cộng sự, 2000; Miyazaki
định sử dụng ví điện từ của các cá nhân tại Việt và Fernandez, 2000; Dinev và Hart, 2003;
Nam là Khả năng đổi mới sáng tạo cá nhân Dewan và Chen, 2005; Eastlick và cộng sự,
trong lĩnh vực CNTT (PUT). Theo nghiên cứu 2006; Castaneda và Montoro, 2007; Sheng và
này, PIIT có ảnh hưởng thuận chiều trực tiếp cộng sự, 2008; Inman và Nikolova, 2011; Yun
đến hành vi sử dụng ví điện tử. Điều này tương và cộng sự, 2013; Dinev và Hart, 2020). Sự
đồng với kết quả của các nghiên cứu trước đây khác biệt lớn này trong kết quả so với các
về ảnh hưởng trực tiếp của PIIT lên hành vi nghiên cứu trước đây tại các quốc gia phát
như nghiên cứu của Im và cộng sự (2003), triển có thể được lý giải bởi quan điểm khác
Lassar và cộng sự (2005), Hirunyawipada và biệt của người dân tại Việt Nam. Ở Việt Nam,
Paswan (2006), Sulaiman và cộng sự (2007), một quốc gia đang trong giai đoạn phát triển
Aldas và cộng sự (2009), Lee và cộng sự nóng về nhiều mặt, chúng ta chưa thật sự quan
(2010), Tan và cộng sự (2014), Slade và cộng tâm đến việc bảo hộ thông tin cá nhân, gia
sự (2015), Wen (2016), Liébana-Cabanillas và đình, nơi ở, nơi làm của mình trong an ninh
cộng sự (2018), Lestari (2019)... Một số mạng. Mặt dù, thời gian gần đây, đã có nhiều
nghiên cứu khác lại chỉ tìm thấy ảnh hưởng câu chuyện, cảnh báo về các tác hại có thể có
điều tiết của PIIT đến mối quan hệ giưa ý định khi đế lộ các thông tin cá nhân, gia đình và
và hành vi như (Eastlick và cộng sự, 1995; Lin công việc trên mạng điện tử, nhưng nhiều
và Nguyen, 2015) tuy nhiên, số nghiên cứu người vẫn chưa coi trọng vấn đề này do chưa
này còn rất khiêm tốn so với kết quả còn lại. gặp phải các hậu quả nghiêm trọng. Tại các
Tại bài viết này, nhóm tác giả cũng không tìm quốc gia phát triển, nơi tội phạm công nghệ
thấy ảnh hưởng điều tiết của PIIT lên mối quan cao và tình trạng lộ thông tin cá nhân cũng như
hệ giữa ý định và hành vi sử dụng ví điện tử. quyền riêng tư được đề cao và coi trọng, người
Kết quả nghiên cứu này không đem lại bất ngờ dân có ý thức bảo vệ các thông tin này cao hơn
lớn cho nhóm nghiên cứu. Điều dễ nhận thấy tại Việt Nam.
là khi khả năng và trình độ hiểu biết về các Do nguồn lực và thời gian cho nghiên cứu
công nghệ mới của một cá nhân cao hơn thì sự của nhóm tác giả có hạn, vì vậy, kết quả nghiên
thích nghi và dễ dàng chấp nhận những thay cứu không thể tránh khỏi những hạn chế. Sự
đổi mới trong cách thức mua sắm, tiêu dùng chênh lệch của bộ mẫu với đa số người tham gia
hay thanh toán ... cũng trở nên thoải mái hơn. khảo sát đến từ miền Bắc có thể ảnh hưởng nếu
Điểm thú vị là nghiên cứu này không tìm suy rộng kết quả nghiên cứu ra toàn Việt Nam
được bằng chứng thống kê cho thấy ảnh hưởng do có thể có sự khác biệt về văn hóa, suy nghĩ...
của Mối lo ngại về quyền riêng tư lên ý định giữa các vùng miền. Ngoài ra, còn có thể có các
sử dụng ví điện tử trong khi đó tại các bối cảnh nhân tố khác tác động đến ý định sử dụng ví
nghiên cứu trước đây, đặc biệt là tại các nước điện tử của người dùng Việt Nam chưa được đề
phát triển, đây là những nhân tố có ảnh hưởng cập đến trong nghiên cứu này. Đây là những
mạnh mẽ. Nhiều nghiên cứu trước đây tìm điểm các nghiên cứu cùng vệt trong tương lai
được ảnh hưởng trực tiếp của yếu tố này ngược có thể tập trung khắc phục để kết quả nghiên
chiều lên ý định và hành vi (Hoffman và cộng cứu có ý nghĩa sâu rộng hơn.

Số 22 tháng 6 năm 2021 19 Tạp chí Tài chính - Quản trị kinh doanh
Tài liệu tham khảo
1. Agarwal, R., & Prasad, J. (1998). A conceptual and operational definition of personal
innovativeness in the domain of information technology. Information systems research, 9(2),
204-215.
2. Ajzen, I. (1991). The theory of planned behavior. Organizational Behavior and Human Decision
Processes, 50, 179-211
3. Chen, Y., & Barnes, s. (2007). Initial trust and online buyer behaviour. Industrial Management
& Data Systems, 107(1), 21-36. doi: 10.1108/02635570710719034
4. Culnan, M.J., and Armstrong, P.K. 1999, Information privacy concerns, procedural fairness,
and impersonal trust: An empirical investigation. Organizational Science, 10, 1 (1999), 104-
115
5. Wan, c., Cheung, R., & Qiping Shen, G. (2012). Recycling attitude and behaviour in university
campus: a case study in Hong Kong. Facilities, 30(13/14), 630-646.

So 22 tháng 6 năm 2021 20 Tạp chí Tài chính - Quản trị kinh doanh

You might also like