Professional Documents
Culture Documents
Lý Thuyết Kỹ Thuật Môn Học GDTC 3
Lý Thuyết Kỹ Thuật Môn Học GDTC 3
Kết thúc trượt đà (chân lăng chạm đất), lập tức thực hiện kỹ
thuật ra sức cuối cùng. Chân trụ phát lực đạp duỗi theo trình tự
từ các khớp cổ chân, khớp gối rồi xoay hông, nâng trọng tâm cơ
thể lên trên - về trước. Chân lăng tì vững trên đất để dần trở
thành chân chịu toàn bộ trọng lượng của cơ thể. Thân trên với tạ
được giữ ổn định (từ tư thế chuẩn bị ban đầu), tuy được chủ
động giữ lại phía sau - dưới thấp nhưng vẫn liên tục bị kéo lên
trên - về trước và xoay mặt dần về phía hướng đẩy và với tốc độ
tăng dần. Khi cơ thể đã được nâng cao hết, trọng tâm cơ thể dồn
hết lên chân lăng, VĐV đứng trên hai mũi bàn chân, người tạo
thành tư thế hình cách cung, cùng với việc gập người về trước là
dùng sức tay để đẩy tạ đi, duỗi thẳng khớp khuỷu tay, rồi khớp
cổ tay và cuối cùng là dùng sức các ngón tay đẩy tạ đi theo
hướng đẩy và tạo cho tạ góc bay so với mặt đất đạt 38 - 420.
2.4. Giữ thăng bằng:
Sau khi tạ rời khỏi tay cơ thể theo quán tính sẽ tiến tiếp về
trước, vượt qua bục đẩy. Để khắc phục phải nhảy đổi chân,
chuyển chân trụ về trước và khuỵu gối để hạ thấp trọng tâm cơ
thể, thân trên cũng chủ động hạ thấp, gập xuống, mắt nhìn
xuống bục đẩy. Chân lăng sau khi đổi về sau cũng chùng gối và
hạ thấp theo thân trên và chân trụ. Nếu quán tính lao về trước
quá mạnh có thể nhảy lò cò tại chỗ trên chân trụ để làm triệt tiêu
lực kéo người về trước.
Kết thúc lần đẩy, VĐV đi ra khỏi vòng đẩy ở phía sau vạch
trắng được vẽ bên ngoài vòng và vuông góc với đường trung
tâm của khu vực tạ rơi.
3. Kỹ thuật đẩy tạ lưng hướng ném (4 giai đoạn).
3.1. Chuẩn bị:
Vị trí đứng ban đầu: Khi có hiệu lệnh, VĐV cầm tạ (cầm
tạ bằng tay không thuận hoặc cả hai tay đi vào vòng đẩy, đứng
sát phía sau vòng, trên đường kính trùng với đường phân giác
của góc tạo nên khu vực tạ rơi, lưng hướng về hướng đẩy. Trọng
tâm cơ thể dồn lên chân cùng bên tay thuận (chân trụ), chân kia
(chân lăng) co tự nhiên, chống đất bằng mũi bàn chân và đưa về
sau, sao cho cơ thể ở tư thế đứng được thoải mái, thăng bằng và
không cản trở các động tác tiếp theo. Sau khi đứng đúng vị trí
mới cầm tạ bằng tay thuận.
Cách cầm tạ: Các ngón tay tiếp xúc với tạ bằng toàn bộ các
ngón tay và phần chai tay (nếu yếu mới để tạ sâu trong lòng bàn
tay), nhưng như vậy sẽ không tận dụng được lực của ngón tay,
làm giảm thành tích. Ngón giữa đặt trên đường chia đôi quả tạ,
ngón tay trỏ và ngón 4 cách đều ngón giữa, rộng hay hẹp là tùy
theo khả năng mỗi cá nhân người thực hiện, ngón cái và ngón út
đỡ tạ ở hai bên. Phải cầm tạ chặt để giữ tạ ổn định cho tới khi
đẩy tạ rời khỏi tay, tuy nhiên không vì vậy mà làm cho cơ bắp
quá căng thẳng, ảnh hưởng xấu tới thực hiện các kỹ thuật khác
hoặc tiêu hao quá nhiều sức lực trước khi đẩy tạ.
Đặt tạ: Sau khi đã cầm tạ đúng thì đặt tạ sát cổ, trên hõm
xương đòn (thường gọi là xương quai xanh) cùng bên tay thuận,
lòng bàn tay cầm tạ hướng về phía trước và dùng hàm cùng bên
kẹp giữ tạ ổn định ở vị trí đó cho tới khi kết thúc trượt đà.
Khuỷu tay cầm tạ đưa về trước và nâng cao để giữ tạ chặt ở
đúng vị trí, tay không cầm tạ hơi co ở khuỷu và giơ cao hoặc
đưa chếch về trước tự nhiên. Sau khi thực hiện xong tư thế
chuẩn bị, VĐV cần tự kiểm tra lại để có những điều chỉnh cần
thiết nhưng không kéo dài thời gian từ “chuẩn bị” sang “trượt
đà” để tập trung sức lực thực hiện các kỹ thuật tiếp theo.
3.2. Trượt đà:
Có 2 cách chuẩn bị cho động tác trượt đà:
Cách 1: Chuyển trọng tâm cơ thể dồn hết sang chân trụ,
đồng thời với nâng chân lăng về sau - lên trên và ngả thân trên
về trước (làm tăng độ dài đoạn đường tạ nhận được lực đẩy của
cơ thể). Tiếp theo là khuỵu gối hạ thấp trọng tâm đồng thời chân
lăng co ở gối, hạ đùi về sát chân trụ.
Cách 2: Ngả thân trên về trước, sau đó nâng chân lăng về
sau - lên trên. Tiếp theo là khuỵu gối hạ thấp trọng tâm đồng
thời chân lăng co ở gối, hạ đùi về sát chân trụ.
Trọng tâm hạ nhiều hay ít (góc ở khớp gối chân trụ nhỏ hay
lớn) là tùy khả năng mỗi người. Cần phối hợp chính xác sao cho
khi chân lăng hoàn thành động tác cần thiết thì việc hạ thấp
trọng tâm cũng kết thúc. VĐV cần tích cực, chủ động thực hiện
động tác trượt đà.
Chân lăng đá tích cực lên cao về sau, kéo người theo hướng
đẩy, chân giậm đồng thời đạp duỗi hết khớp gối và trượt trên
mặt đất, rút theo chân lăng tạo 1 bước trượt, chuyển cơ thể về
nửa trước của vòng đẩy. Cần giữ ổn định độ cao trọng tâm cơ
thể khi trượt đà để có tốc độ trượt đà cao nhất. Độ dài bước trượt
dài hay ngắn là tùy thể lực và kỹ thuật của mỗi người. Khi chân
trụ kết thúc bước trượt, chân lăng cũng kịp thời chống mũi chân
trên đất (hướng theo hướng đẩy tạ), giữ cho hông không tiếp tục
chuyển về trước.
Kết thúc trượt đà, cơ thể phải về đúng tư thế chuẩn bị ra
sức cuối cùng. Trọng tâm cơ thể thấp (như khi bắt đầu thực hiện
bước trượt đà) và dồn lên chân trụ. Chân trụ ở tư thế giống như
trước khi thực hiện trượt đà. Chân lăng duỗi thẳng, chống trên
đất bằng mũi chân nhưng không phải chịu sức nặng của cơ thể.
Thân trên ngả về trước.
CHƯƠNG III
KỸ THUẬT MÔN NHẢY CAO
1. Khái niệm về nhảy cao.
Nhảy cao là một trong những môn thể thao đã có từ lâu.
Tập nhảy cao giúp cơ thể phát triển toàn diện và có kỹ thuật hợp
lý để vượt qua những chướng ngại vật thẳng đứng. Cùng với sự
phát triển thể chất của VĐV, những tiến bộ trong công tác huấn
luyện, những cải tiến về dụng cụ, sân bãi, trang bị phục vụ thi
đấu và đặc biệt là những cải tiến về kỹ thuật nhảy luôn là những
yếu tố quan trọng giúp con người lần lượt vượt qua được những
độ cao mới. Hiện nay, kỷ lục nhảy cao của thế giới đã là 245cm
với nam và 209cm với nữ. Do những hạn chế về tầm vóc, thể
lực… Kỷ lục của Việt Nam ở môn này ở mức khá thấp: 225cm
với nam và 194cm với nữ.
Do ý nghĩa và tác dụng của nhảy cao, trong chương trình
GDTC cho các đối tượng ở Việt Nam đều có môn tập này.
Kỹ thuật hoàn chỉnh trong nhảy cao có thể chia thành các
giai đoạn chính sau: Chạy đà và chuẩn bị giậm nhảy - Giậm
nhảy - Bay trên không (Qua xà) và Rơi xuống. Tên gọi các kiểu
nhảy cao là tùy thuộc đặc điểm kỹ thuật qua xà của mỗi kiểu.
2. Kỹ thuật nhảy cao kiểu bước qua.