You are on page 1of 12

KIỂM TRA GIỮA KỲ MÔN ĐLCM CỦA ĐCSVN

Họ và tên: Đặng Thị Thu Thảo


MSV: 6752110211
Lớp: 67K – Hóa học

Câu 1: Có quan điểm cho rằng: CMT8 chỉ là sự ăn may. Quan điểm của anh (chị)

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 có phải là “một sự ăn may”?

Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra và thắng lợi là do sự chuẩn bị lâu dài, chu
đáo, kỹ lưỡng của Đảng ta. Bởi thế, tiếng nói lạc lõng cho rằng Cách mạng tháng
Tám là một sự “ăn may” là luận điệu trái với sự thật lịch sử.

Để chứng minh cho “sự ăn may” này, họ cho rằng vào đầu năm 1945, Việt Nam
không còn là thuộc địa của Pháp, kể từ sau cuộc đảo chính ngày 9/3/1945, Nhật đã
hất cẳng Pháp. Và khi phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng quân Đồng minh vô điều
kiện thì ở Việt Nam xuất hiện “khoảng trống quyền lực”. Khi đã xuất hiện “khoảng
trống quyền lực” thì không chỉ với Việt Nam mà ở mọi quốc gia trên thế giới, cách
mạng cứ nổ ra là giành thắng lợi.

Vậy, trên thực tế, Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam có phải là “một sự
ăn may” không?

Thực tế lịch sử cho thấy không bao giờ có sự ăn may nào cả, thắng lợi của Cách
mạng tháng Tám là kết quả tất yếu từ sự chủ động, sáng tạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh.

1. Kể từ mùa Xuân năm 1930, sau hơn 9 năm ra đời, mặc dù có những giai đoạn
cách mạng Việt Nam phải trải qua những khó khăn, thách thức khó lường, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã từng bước khẳng định uy tín, sức ảnh hưởng và năng lực
lãnh đạo của một chính đảng cách mạng.
Ngày 1/9/1939, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Nhận thấy tình thế
mới cho phép và đòi hỏi một chuyển hướng chiến lược nhằm tạo ra đầy đủ khả
năng đoàn kết tất cả các giai tầng xã hội xung quanh liên minh công nông quyết
giải phóng dân tộc, Đảng và Bác Hồ đã lãnh đạo toàn dân tộc tích cực chuẩn bị về
mọi mặt, đồng thời theo dõi sát sao diễn biến quan hệ giữa phe đồng minh và phe
phát xít để xác định đúng và kịp chớp thời cơ tổng khởi nghĩa.

Tháng 11/1939, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng (họp tại Bà Điểm, Hóc
Môn, Gia Định) nhận định Nhật sẽ xâm chiếm Đông Dương và Pháp sẽ đầu hàng
Nhật, cách mạng Đông Dương sẽ bùng nổ; nên ta phải đoàn kết thực hiện cho bằng
được nhiệm vụ chính cốt là đánh đổ đế quốc, giải phóng dân tộc. Theo đó, Mặt trận
dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương ra đời.

Tháng 6/1940, phát xít Ðức tấn công Pháp, Pari nhanh chóng thất thủ và đến tháng
9/1940 thì ở Việt Nam, Nhật nổ súng đánh chiếm Lạng Sơn, ném bom Hải Phòng,
đổ bộ vào Đồ Sơn. Giữa lúc Nhật - Pháp đang tranh nhau miếng mồi Ðông Dương,
tháng 11/1940, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Đình Bảng, Từ
Sơn, Bắc Ninh đã xác định kẻ thù của cách mạng Đông Dương là Pháp - Nhật, đẩy
mạnh thêm một bước thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc.

Tháng 5/1941, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng do lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc chủ trì (tại Pác Bó, Hà Quảng, Cao Bằng), nhận định thắng lợi
cuối cùng thuộc về phe đồng minh, nên ta phải tích cực chuẩn bị lực lượng và đứng
về phe đồng minh chống phát xít, bằng mọi giá phải giải phóng dân tộc, và Hội
nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh.

Đến Hội nghị tháng 2/1943, Đảng xác định cách mạng Đông Dương “có thể bỗng
chốc tiến lên bằng những bước nhảy cao” và tháng 5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra
Chỉ thị Sửa soạn khởi nghĩa. Từ tháng 10/1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh nhận định
phe phát xít gần đến ngày bị tiêu diệt, phe đồng minh sắp thắng lợi cuối cùng. Cơ
hội cho ta giải phóng dân tộc chỉ trong một hoặc một năm rưỡi nữa.

Đặc biệt, ngày 9/3/1945, khi Nhật đảo chính Pháp, Ðảng ta nhận định thời cơ khởi
nghĩa đang đến, vì vậy ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ
thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”; phát động cao trào kháng
Nhật cứu nước.

Tháng 7/1945, khi phát xít Ðức, Ý bại trận ở chiến trường châu Âu, phát xít Nhật
đang trên đường sụp đổ ở chiến trường châu Á, thì tại lán Nà Nưa, lãnh tụ Hồ Chí
Minh tuy đang ốm rất nặng nhưng vẫn căn dặn: “Lúc này, thời cơ thuận lợi đã tới,
dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành
cho được độc lập”.

Tháng 8/1945, Nhật đầu hàng đồng minh, binh lính Nhật ở Đông Dương hoang
mang cực độ, chính phủ tay sai Trần Trọng Kim như “rắn mất đầu”. Trong khi đó,
quân đồng minh chưa kịp kéo vào Đông Dương, các thế lực thù địch đang cấu xé,
tranh giành quyền lực, điều kiện khách quan thuận lợi cho tổng khởi nghĩa đã chín
muồi.

Ngày 12/8/1945, được tin Nhật gửi công hàm cho các nước Đồng minh đề nghị mở
cuộc đàm phán ngừng bắn thì ngày 13/8/1945, Đảng ta triệu tập Hội nghị toàn
quốc tại Tân Trào (Tuyên Quang) xác định đây là “dịp tốt cho ta nổi lên khôi phục
nước nhà tổ tông”; đồng thời dự đoán mâu thuẫn giữa Anh - Mỹ - Pháp và Liên Xô
có thể làm cho Anh - Mỹ nhân nhượng với Pháp để cho Pháp trở lại Đông Dương,
nên phải “kịp thời, không bỏ lỡ thời cơ” tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay
Nhật trước khi quân đồng minh vào Đông Dương.

Trưa ngày 13/8/1945, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc thành lập thì đêm hôm đó,
Lệnh khởi nghĩa (Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa) phát đi thông điệp: Giờ
tổng khởi nghĩa đã đến. Cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy
quyền độc lập của nước nhà... Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh
thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng. Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp
tại Tân Trào, thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; quy định quốc kỳ,
quốc ca...; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm
thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngay sau đó, Người có thư kêu gọi
nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa, chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta
đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Sáng 18/8, Ủy ban khởi nghĩa Hà Nội chuyển trụ sở làm việc về số nhà 101
Gambetta. Các ủy viên tích cực chuẩn bị cho công việc sáng hôm sau. Ảnh: Tư liệu

2. Về tình hình quốc tế, khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai đến giai đoạn kết thúc,
các nước đồng minh đã giải quyết vấn đề Đông Dương trên cơ sở lợi ích của mình
mà không tính tới nguyện vọng và đóng góp của nhân dân nơi đây trong cuộc đấu
tranh chung chống chủ nghĩa phát xít. Từ đó, số phận của Việt Nam và Đông
Dương đã bị chúng định đoạt theo kiểu áp đặt, có tính chất thỏa thuận lợi ích. Danh
nghĩa là “đồng minh giải giáp quân Nhật” nhưng bản chất là “thực hiện lợi ích đã
được thương lượng” giữa các nước thắng trận.

Tại Hội nghị Pốtxđam tháng 7/1945, các nước thắng trận, chủ yếu là Mỹ, Liên Xô,
Anh, Pháp đã phân chia phạm vi ảnh hưởng thế giới. Theo đó, Mỹ - Anh kiểm soát
vùng Tây Âu, châu Á - Thái Bình Dương, châu Phi và châu Mỹ; tích cực giúp
Pháp chiếm lại các thuộc địa đã bị mất vào tay phát xít Nhật, Ý, Đức trong chiến
tranh. Tại hội nghị này, Mỹ - Anh đã thỏa thuận và đi đến quyết định chia Đông
Dương thành hai khu vực, lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới hành quân và tiếp nhận sự
đầu hàng của Nhật ở Việt Nam và Đông Dương. Theo đó, phía Nam vĩ tuyến 16
thuộc quyền của quân đội Anh còn phía Bắc thuộc quyền quân đội Mỹ nhưng Mỹ
lại nhường cho quân đội Tưởng làm nhiệm vụ này.

Thế là, chiến lược của Pháp quan hệ với đồng minh nhằm quay lại Đông Dương đã
không đạt, buộc phải tìm cách “đi đêm” với Anh. Sau đó, Anh thoả thuận với Pháp
một số vấn đề về việc khôi phục lại quyền của Pháp ở Đông Dương; đồng thời
công khai ủng hộ Pháp tái chiếm Việt Nam, công nhận chính quyền Pháp ở Sài
Gòn, chuyển giao quyền cai trị Nam Đông Dương cho Pháp. Còn nước Pháp sau
khi được giải phóng khỏi ách chiếm đóng của phát xít Đức, chính phủ Đờ Gôn trở
về Paris lập tức tuyên bố Đông Dương là của Pháp, đồng thời xúc tiến việc trở lại
nơi đây. Do vậy mới có chuyện, ngày Nam bộ kháng chiến, chúng ta phải đánh cả
Anh và Pháp.

Như vậy, “số phận của Việt Nam” chính thức bị cường quốc định đoạt theo tính
chất của quan hệ quốc tế trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Cho nên, “thời
đoạn vàng” để chúng ta thay đổi số phận là từ khi Nhật đầu hàng đồng minh đến
trước khi quân đồng minh vào Đông Dương tước khí giới của Nhật. Nếu bỏ qua
thời đoạn này, thì “chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa
trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

3. Trở lại với tình hình Việt Nam, thực hiện Quân lệnh số 1, công cuộc Tổng khởi
nghĩa chính thức diễn ta từ đêm 13 rạng sáng ngày 14/8/1945. Đến ngày
28/8/1945, các địa phương trong cả nước tiến hành Tổng khởi nghĩa giành được
chính quyền về tay nhân dân.

Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam). Và như vậy, các đồng minh Anh, Mỹ, Pháp, Tưởng cùng một số thế lực
khác - những kẻ chủ mưu định đoạt số phận Đông Dương và Việt Nam từ tháng
7/1945, đến nay đã bị lỡ tàu trong hành trình chạy đua giành quyền làm chủ đất
nước ta từ tay phát xít Nhật. Chúng đã hoàn toàn bất ngờ vì không đánh giá được
thực lực của cách mạng Việt Nam. Khi Tổng khởi nghĩa của ta thành công trong cả
nước thì tổng thống Mỹ Truman mới chính thức thừa nhận về quyền của Pháp trở
lại Đông Dương (ngày 24/8/1945). Còn Anh mãi đến ngày 12/9/1945 mới có
những đơn vị đầu tiên (Anh - Ấn) kéo vào Sài Gòn. Ngày 11/8/1945, phía Tưởng
đã chấp nhận cho quân Pháp kéo vào miền Bắc Việt Nam cùng với quân Tưởng
nhưng sau đó lại thay đổi ý kiến, nên mãi đến ngày 5/9/1945, cao uỷ Pháp là
Đắcrăngliơ mới rời Pari đi Ấn Độ rồi từ đó qua Đông Dương, riêng quân của
Tưởng đến ngày 9/9/1945 mới kéo đến Hà Nội.

4. Giữa lúc lực lượng cách mạng và phản cách mạng, giữa dân tộc ta và bọn Anh,
Mỹ, Tưởng, Pháp đang diễn ra cuộc chạy đua giành lấy quyền làm chủ Việt Nam
và Đông Dương từ tay Nhật thì chúng ta nhờ đã tích cực chuẩn bị từ trước về mọi
mặt, luôn trong tư thế sẵn sàng tổng khởi nghĩa, bám sát tình hình để chớp thời cơ.
Do vậy, chỉ trong vòng hai tuần lễ, chúng ta đã lật ngược được tình thế, thay đổi số
phận từng bị Pháp, Nhật thống trị và các nước thắng trận trong thế chiến thứ hai đã
“an bài”, thành một nước độc lập, có chủ quyền; đồng thời, chúng ta cũng làm cho
nhân dân thế giới thấy rằng, “nhân dân Việt Nam không phải chỉ riêng mình mà
chiến đấu mà còn vì hoà bình, dân chủ và độc lập trên thế giới mà chiến đấu”.

Nếu đặt cuộc Cách mạng tháng 8/1945 của Việt Nam trong bối cảnh khu vực, thế
giới lúc bấy giờ và trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam, chúng ta càng thấy sự
vĩ đại, càng khâm phục tài năng, tính sáng tạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh và sức mạnh đại đoàn kết, ý chí quyết tâm của cả dân tộc Việt Nam được
kết tinh từ mấy ngàn năm văn hiến. Sự chuẩn bị lâu dài, chu đáo, kỹ lưỡng về lực
lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng, tiến tới tổng khởi nghĩa
giành chính quyền của Đảng ta khiến quan điểm của của những người cho rằng
Cách mạng tháng Tám là “ăn may” đã được chứng minh là phiến diện, sai lầm.
Giáo sư William J. Duiker, người đầu tiên đưa ra khái niệm “khoảng trống quyền
lực”, cũng phải thừa nhận: “Chỉ riêng các điều kiện khách quan thì không làm nên
một cuộc cách mạng, và ở đây công lao thuộc về những người cộng sản”.

Câu 2: Tổng Bí thư Lê Duẩn từng nói: “Chiến thắng Điện Biên Phủ đã được ghi
vào lịch sử như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa ở thế kỷ 20 và đi vào lịch sử
thế giới như một chiến công chói lọi, đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc
địa của chủ nghĩa đế quốc”?

Anh (chị) hiểu như thế nào về luận điểm trên?

Chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ là thắng lợi của ý chí và khát vọng độc lập , tự
do của nhân dân Việt Nam mà nòng cốt là lực lượng Quân đội nhân dân anh hùng .
Với nước Pháp “ Điện Biên Phủ thất thủ gây nỗi kinh hoàng khủng khiếp . Đó là
một trong những thảm bại lớn nhất của phương Tây ... ” . Thắng lợi ở Điện Biên
Phủ là “ thiên sử vàng của dân tộc Việt Nam ” , được ghi nhận là một chiến công vĩ
đại của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX và “ đi vào lịch sử thế giới như một
chiến công hiển hách , báo hiệu sự thắng lợi của nhân dân các dân tộc bị áp bức ,
sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân ”.

Cùng với thắng lợi quân sự to lớn , vang dội ở Điện Biên Phủ , trên toàn chiến
trường Đông Dương quân và dân ta cũng giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trên các
mặt trận kinh tế , chính trị , quân sự ở cả vùng đồng bằng , trung du Bắc Bộ , mặt
trận Bình Trị Thiên , Nam Trung Bộ và Nam Bộ . Những thắng lợi này đã góp
phần cổ vũ , tác động tích cực đối với mặt trận Điện Biên Phủ

Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân năm 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch
Điện Biên Phủ lịch sử đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược và can thiệp của Mỹ. Chiến công bất hủ đó đã giành lại độc lập, tự do
trên nửa phần đất nước, giải phóng miền Bắc, khai phá con đường cho dân tộc ta
tiến tới cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN), xây dựng chủ nghĩa xã hội
(CNXH) ở miền Bắc, tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thống nhất
Tổ quốc, đưa cả nước đi lên CNXH.

Điện Biên Phủ - chiến thắng của khát vọng độc lập, tự do, của truyền thống yêu
nước và ý chí tự lực tự cường

Năm 1953, sau 8 năm trở lại xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp đã huy động
tiềm lực kinh tế, quân sự và vũ khí trang bị hiện đại nhất nhưng chúng đã bị thất
bại và chịu những tổn thất nặng nề… Lợi dụng tình thế này, đế quốc Mỹ tăng
cường can thiệp vào Đông Dương, tích cực viện trợ cho Pháp kéo dài và mở rộng
cuộc chiến nhằm phục vụ cho chiến lược toàn cầu phản cách mạng.

Tháng 5/1953, chính phủ Pháp cử tướng Nava - người được đánh giá là “một nhà
chiến lược văn võ kiêm toàn” sang làm tổng chỉ huy quân viễn chinh ở Đông
Dương với hy vọng sớm giành thắng lợi quân sự quyết định, tìm “lối thoát danh
dự” dứt điểm cuộc chiến tranh.

Sau một thời gian tìm hiểu tình hình chiến trường, tháng 7/1953, tướng Nava đề ra
kế hoạch quân sự mới ở Đông Dương (còn gọi Kế hoạch Nava), gồm hai bước.

Bước 1 (Thu Đông năm 1953 và Xuân năm 1954): giữ thế phòng ngự chiến lược ở
chiến trường miền Bắc, tránh giao chiến với chủ lực đối phương; tiến công chiến
lược ở chiến trường phía nam, đánh chiếm các căn cứ kháng chiến, trước hết là
vùng tự do Liên khu 5 và Khu 9; đồng thời ra sức bắt lính mở rộng ngụy quân, tập
trung xây dựng khối chủ lực cơ động mạnh.

Bước 2 (từ Thu Đông năm 1954): dồn lực lượng ra chiến trường miền Bắc, thực
hiện các đòn tiến công chiến lược, tiêu diệt quân chủ lực đối phương để giành
thắng lợi quyết định, buộc chính phủ kháng chiến phải đầu hàng, hoặc chấp nhận
đàm phán kết thúc chiến tranh theo những điều kiện do Pháp đặt ra.

Thực hiện kế hoạch quân sự mới theo 2 bước nêu trên, thực dân Pháp tiếp tục mở
các cuộc hành quân đánh phá, bắt lính và đưa thêm nhiều đơn vị quân viễn chinh
vào Đông Dương.

Tổng quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh họp bàn kế hoạch tác chiến Đông-Xuân 1953-
1954. Từ phải sang trái: Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Nguyễn Chí Thanh, Đại
tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp Trần Đăng
Ninh, Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng.

Trước tình hình nguy cấp đó, sau khi phân tích toàn diện các vấn đề, cuối tháng
9/1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) đã họp bàn, đề ra
chủ trương chiến lược cho hoạt động quân sự Đông Xuân 1953-1954, trong đó sử
dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng địch tương
đối yếu, có nhiều sơ hở, đồng thời, tranh thủ cơ hội tiêu diệt địch ở những hướng
địch có thể đánh sâu vào vùng tự do của ta. Phương châm, nguyên tắc chỉ đạo tác
chiến chiến lược là: tích cực, chủ động, cơ động và linh hoạt; đánh chắc, tiến chắc,
chắc thắng đánh cho kỳ thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không đánh.

Thực hiện chủ trương chiến lược đề ra, quân và dân Việt Nam đã làm đảo lộn kế
hoạch chiến tranh của Pháp-Mỹ, đã đẩy quân Pháp lún sâu vào thế bị động ở các
vùng chiến dịch như hướng Lai Châu, Trung Lào, Hạ Lào, Bắc Tây Nguyên và
Thượng Lào và bước đầu đã làm Kế hoạch Nava bị phá sản.

Cũng trong thời gian này, Trung ương Đảng và Bộ Chỉ huy tối cao đã quyết tâm
mở chiến dịch tiến công Điện Biên Phủ - đòn quyết chiến chiến lược nhằm kết thúc
thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, xác định rõ: “Chiến dịch này là
một chiến dịch quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không
những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn
Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được.” Đại tướng Võ Nguyên Giáp được
giao trọng trách Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch.

Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng!”, cả nước dồn sức cho
chiến trường Điện Biên Phủ. Lực lượng tham gia chiến đấu lên đến 55.000 quân,
gồm 3 đại đoàn bộ binh (308, 312, 316), Trung đoàn bộ binh 57 (Đại đoàn 304),
Đại đoàn công binh-pháo binh 351.

Trên 260.000 dân công và 27.400 tấn gạo được huy động để cung cấp cho chiến
dịch. Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp cùng bộ đội công binh ngày đêm
mở đường ra mặt trận dưới bom đạn địch, nên sau một thời gian ngắn, hàng nghìn
kilomet đường được xây dựng, sửa chữa. Công tác chuẩn bị các mặt trên vượt ra
ngoài mọi dự đoán, tạo bất ngờ lớn đối với cả Pháp và Mỹ.

Sự đóng góp to lớn của lực lượng dân công, đảm bảo hậu cần cho chiến dịch là
một trong những nguyên nhân chính làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ. (Ảnh:
TTXVN)

Ngày 13/3/1954, cuộc tổng tiến công nổ ra, mở màn cho chiến dịch. Và, sau 56
ngày đêm chiến đấu, vượt qua muôn vàn gian khổ, “gan không núng, chí không
mòn,” đến chiều ngày 7/5/1954, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tiêu diệt hoàn
toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, bắt sống tướng chỉ huy Đờ Cát, kết thúc
thắng lợi Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Chiến thắng Điện Biên Phủ - biểu tượng của sức mạnh dân tộc kết hợp với sức
mạnh của thời đại

Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đã ghi dấu mốc son chói lọi vào lịch sử dân
tộc và thời đại, trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng và sức mạnh Việt
Nam.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là sự kết tinh của nhiều nhân tố, mà quan trọng nhất là
sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; sự gắn kết tinh thần yêu
nước với sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đã đập tan những mọi âm mưu chiến
lược quân sự của thực dân Pháp, sự can thiệp của Mỹ, buộc Chính phủ Pháp phải
ký kết Hiệp định Giơnevơ (tháng 7/1954) công nhận độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ 3 nước Đông Dương, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến
trường kỳ, gian khổ kéo dài 9 năm (1945-1954).

Đồng thời, chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp kéo dài hàng thế kỷ, mở ra
bước phát triển mới cho cách mạng Việt Nam, Lào, Campuchia.

Tổng Bí thư Lê Duẩn từng nói: “Chiến thắng Điện Biên Phủ đã được ghi vào lịch
sử như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa ở thế kỷ 20 và đi vào lịch sử thế giới
như một chiến công chói lọi, đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của
chủ nghĩa đế quốc”.

Đúng vậy, chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 đập tan một mắt xích quan trọng trong
hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ, mở đầu cho sự sụp đổ trên phạm vi
toàn thế giới; giáng đòn nặng nề đầu tiên vào dã tâm xâm lược của chủ nghĩa đế
quốc Mỹ.

Cũng từ đây, “tiếng sấm Điện Biên Phủ” có sức cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc
địa đấu tranh giành độc lập, nhất là các nước châu Phi, châu Mỹ Latinh; đồng thời
góp phần làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Marx-Lenin thời đại ngày nay: một
dân tộc bị áp bức, nhưng nếu quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, có đường lối
chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, biết phát huy sức mạnh chiến tranh nhân
dân, sức mạnh thời đại thì hoàn toàn có khả năng đánh bại những đội quân xâm
lược hung bạo.
Chiều 7/5/1954, lá cờ Quyết chiến-Quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam
tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã
toàn thắng.

Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Điện Biên Phủ như là một cái
mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống
dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao
đến thắng lợi hoàn toàn”.

Đường lối kháng chiến đúng đắn đã tập hợp, khơi dậy và phát huy được tiềm lực
toàn dân tộc, tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, đã tạo ra sức mạnh đánh thắng kẻ
địch và sức mạnh dân tộc và trí tuệ Việt Nam tiếp tục được phát huy mạnh mẽ hơn
nữa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau đó.

Chiến thắng Điện Biên Phủ là sự cộng hưởng của sức mạnh dân tộc và thời đại, sự
lãnh đạo sáng suốt của Đảng là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh Việt Nam, bản
sắc văn hóa giữ nước Việt Nam mà nền tảng là lòng yêu nước; các nhân tố đó tiếp
tục là sức mạnh bảo đảm cho sự thành công của công cuộc xây dựng Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.

You might also like