1. Khái niệm: Giao tiếp là hoạt động giao lưu, tiếp xúc giữa con người với con người. Trong quá trình đó, các bên tham gia tạo ra hoặc chia sẻ thông tin, cảm xúc với nhau nhằm đạt được mục đích giao tiếp. Ứng xử là một biểu hiện của giao tiếp, là sự phản ứng của con người trước sự tác động của người khác với mình trong một tình huống nhất định được thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng của con người nhằm đạt kết quả tốt trong mối quan hệ giữa con người với nhau. Người ta hay nói “học ăn, học nói, học gói, học mở”. Có thể thấy, “học nói” là một trong 4 điều đầu tiên mà con người phải học từ thuở lọt lòng mẹ. Quá trình “học nói” đi theo con người trong suốt quá trình tồn tại và phát triển. “Học nói” cần được “học nữa, học mãi” để trở thành kỹ năng giao tiếp ứng xử. Do đó, giao tiếp ứng xử là một tập hợp những quy tắc, nghệ thuật, cách ứng xử, đối đáp trong đời sống sinh hoạt và công việc để hoạt động giao tiếp ứng xử trở nên thành thạo và thuần thục. 2. Đặc điểm: Thứ nhất, giao tiếp ứng xử là sự truyền đạt thông tin và cảm xúc. Chức năng cơ bản và cốt lõi nhất của giao tiếp ứng xử là để truyền đạt thông tin và cảm xúc giữa người với người. Một trong những điểm khác biệt giữa con người với con vật là khả năng sử dụng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Trải qua một quá trình lâu dài, con người đã sử dụng kỹ năng nói trở thành phương tiện truyền đạt thông tin và cảm xúc trong đời sống sinh hoạt và công việc. Cuộc sống xung quanh ta đang hằng ngày, hằng giờ diễn ra hoạt động giao tiếp ứng xử với muôn vàn thông tin, cảm xúc. Thứ hai, giao tiếp ứng xử là một nghệ thuật. Có thể nói kỹ năng giao tiếp không còn đơn thuần là sự truyền đạt thông tin qua ngôn ngữ nói mà nó đã được nâng lên thành nghệ thuật giao tiếp. Bởi lẽ, trong bộ kỹ năng này có rất nhiều kỹ năng nhỏ khác như kỹ năng lắng nghe, kỹ năng thấu hiểu, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ cơ thể, kỹ năng sử dụng ngôn từ, âm điệu… Do đó, giao tiếp ứng xử cần phải trải qua quá trình tích luỹ, rèn luyện và học hỏi lâu dài để trở thành một nghệ thuật. Thứ ba, giao tiếp ứng xử là đặc trưng của mỗi người. Mỗi chiếc lá trên một thân cây đều có sự khác biệt thì mỗi người đều có một màu sắc “giao tiếp ứng xử” riêng biệt, không trộn lẫn. Từ sự khác biệt về quốc gia lãnh thổ, ngôn ngữ, vùng miền và cá nhân đã tạo nên những nét riêng biệt cho hoạt động giao tiếp ứng xử. II. GIAO TIẾP ỨNG XỬ CỦA NGƯỜI VIỆT Thứ nhất, người Việt thích giao tiếp nhưng rất rụt rè. Cũng như các quốc gia và vùng lãnh thổ ở phương Đông. Người Việt Nam đề cao tính cộng đồng nên hạn chế được rất nhiều sự ích kỷ hiếu thắng và tranh chấp đối đầu. Cộng thêm nền văn hoá nông nghiệp đã giúp con người Việt Nam gắn bó khăng khít và xích lại gần nhau hơn. Người Việt rất coi trọng văn hoá giao tiếp đặc biệt với hàng xóm láng giềng và khách khứa bạn bè. Bởi lẻ mới có câu “Bà con xa không bằng láng giềng gần” hay “Khách đến nhà không trà cũng bánh”. Dù thân quen hay xa lạ thì người Việt vẫn thể hiện tình cảm nồng nhiệt, sâu sắc và chân thành. Gia chủ rất thích người khác đến thăm. Điều đó không chỉ dừng lại ở giao tiếp ứng xử mà còn là truyền thống tốt đẹp lâu đời của cả một dân tộc. Tuy nhiên, người Việt cũng rất rụt rè. Cởi mở nhưng rụt rè. Đây là hai mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật hiện tượng. Nguyên nhân của hai trạng thái đối lập trên cùng xuất phát từ tính cộng đồng và tự trị. Người Việt họ thường ít thể hiện bản thân mình trước đám đông nên giao tiếp cũng có phần rụt rè, kém tự tin. Thứ hai, người Việt trọng tình trong giao tiếp ứng xử. Giao tiếp ứng xử ngoài mục đích chung là truyền đạt thông tin thì mục đích riêng còn để truyền đạt tình cảm. Người Việt sống có lý, có tình nhưng thường thì thiên về tình hơn lý. Người Việt “thấu tình” rồi mới “đạt lý” nên ông bà ta mới nói: “Mười cái lý không bằng một cái tình”. Các quốc gia phương Đông thì thường trọng tình nên tư duy ứng xử cũng có phần mềm dẻo linh hoạt hơn. “Trọng văn, phụ nữ” cũng là một điểm đặc biệt tạo nên đặc điểm trên của con người Việt Nam. Vật chất là cái quyết định ý thức mà ý thức thì chính là tư tưởng, tình cảm của một con người (tính trọng văn). Phụ nữ thì khác với đàn ông ở một điểm đó là quá coi trọng tình cảm nên sự tồn tại của chế độ mẫu hệ trong một thời gian dài đã ăn sâu vào giao tiếp ứng xử của dân tộc ta. Thứ ba, người Việt trọng danh dự và tế nhị trong giao tiếp ứng xử. Dân tộc Việt Nam luôn đề cao truyền thống “Đói cho sạch, rách cho thơm” nên việc coi trọng danh dự cũng không có gì xa lạ. Trên thực tế, danh dự song hành với năng lực giao tiếp. “Trâu chết để da, Người chết để tiếng” nên có thể nói giao tiếp ứng xử là thước đo đánh giá một con người. Đến đây, giao tiếp ứng cử không chỉ đi cùng con người trong suốt quá trình tồn tại và phát triển mà đến khi con người về cõi vĩnh hằng thì nó vẫn không thay đổi. Như đã phân tích người Việt Nam rất rụt rè và thiếu sự tự tin trong giao tiếp ứng xử. Đó là một điểm trừ rất lớn nhưng bù lại đó là “sự tế nhị” trong lời ăn tiếng nói. Người Việt “uốn lưỡi bảy lần trước khi nói” nên đôi khi giao tiếp có sự “vòng vo tam quốc” nhưng mỗi lời nói phát ra đều được suy nghĩ kỹ càng và quan tâm đến suy nghĩ của người đối thoại. Không giống như phương Tây thường sử dụng cách mở bài trực tiếp để bắt đầu một câu chuyện thì người dân ta lại gián tiếp đi đến một chủ đề nào đó. “Miếng trầu”, chén trà, điếu thuốc lào, chun rượu… chính là sự “mở đầu câu chuyện”. Nếu nói giao tiếp ứng xử của người Tây là “một đường thẳng” thì giao tiếp ứng xử của người Việt là “một đường cong”. Tuỳ theo diễn biến của cuộc đối thoại mà người Việt chỉnh sửa đường cong đó. Thứ tư, ngôn ngữ dùng trong văn hoá giao tiếp của người Việt rất phong phú. Trước hết, do sự phong phú của ngôn ngữ Việt Nam. “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam” nên tạo ra chiều sâu về đại từ nhân xưng, cách sử dụng lời ăn tiếng nói cho phù hợp với không gian và thời gian,... - Đại từ nhân xưng nhiều: Cậu/Bạn/Thằng/Nó, Tôi/Tớ/Mình… và được sử dụng tuỳ vào ngữ khác nhau. - Câu hò, câu hát giao duyên, chơi chữ, sử dụng hình ảnh tự nhiên để ví von… được sử dụng rất nhiều trong giao tiếp ứng xử nhằm tạo nên sự hóm hỉnh, vui tươi, giải toả căng thẳng mệt mỏi. “Đến đây mận mới hỏi đào Vườn hồng sẵn lối ai vào hay chưa” (Ca dao tục ngữ) “Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” (Việt Bắc, Tố Hữu) - Tính cộng đồng hoá cao: gọi theo tên tuổi, địa vị, vai vế và theo thứ tự (cả, hai, ba,...) - Đặc điểm vùng miền: Cách phát âm của mỗi vùng miền tạo nên sự nét rất riêng cho đất nước có hơn 54 dân tộc anh em. Trải suốt chiều dài hình chữ S, Bắc - Trung - Nam đều mang một màu sắc khác nhau tạo nên một bức tranh hoàn mỹ trong giao tiếp ứng xử. Văn hoá nông nghiệp ổn định, sống chú trọng không gian nên người Việt mang nhiều sắc thái tình cảm trong giao tiếp ứng xử. Đặc biệt, lời xin lỗi và cảm ơn có rất nhiều ngôn từ để thay thế và đổi chỗ cho từng không gian khác nhau không chỉ làm phong phú trong giao tiếp ứng xử mà còn thể hiện văn hoá của người Việt. Thực trạng hiện nay, các ứng xử trong giao tiếp dần có tính chất toàn cầu hóa tuy nhiên nét đặc trưng của phong cách giao tiếp ở từng quốc gia vẫn còn là một điều rất thú vị. III. GIAO TIẾP ỨNG XỬ CỦA NGƯỜI VIỆT VÀ PHƯƠNG TÂY Văn hóa giao tiếp của mỗi quốc gia thường được hình thành dựa trên nền tảng lịch sử, phong tục, và những giá trị cộng đồng quốc gia đó tạo nên nét riêng biệt độc đáo cụ thể. Việt Nam ảnh hưởng bản sắc văn hoá phương Đông như ổn định, suy tôn tự nhiên, trọng văn, phụ nữ, trọng tình, tư duy ứng xử mềm dẻo, linh hoạt… nên có những điểm tương đồng và khác biệt so với phương Tây. Điều đó, đã tạo nên một Việt Nam nhiều màu sắc trong giao tiếp ứng xử. Một số yếu tố sau chi phối giao tiếp ứng xử ở nước ta và tạo nên sự khác biệt rõ ràng so với các nước phương Tây. Thứ nhất, chào hỏi và làm quen. Ở Mỹ thì thường chào nhau bằng cái ôm hoặc hôn má. Ở Việt Nam khá coi trọng thứ bậc giao tiếp trong xã hội nên cách chào hỏi sẽ phức tạp hơn tùy vào mối quan hệ. Không những thế, tuỳ vào không gian mà câu chào có sự khác biệt và được thể hiện ở dạng nghi vấn như “Cả nhà đang ăn cơm hả?”, “Bạn đang uống cà phê đấy à?”... Thứ hai, cách hiện ý kiến cá nhân và giải quyết vấn đề trong giao tiếp. Người Mỹ luôn coi trọng sự thẳng thắn và chính trực trong giao tiếp và cả trong cuộc sống, họ luôn đi thẳng vào vấn đề và họ thường chỉ quan tâm kết quả chứ không quan tâm đến quá trình. Người Việt thì đề cao sự khéo léo và mềm mỏng, cẩn thận trong quá trình giao tiếp, coi trọng quá trình hơn người Mỹ trong giải quyết vấn đề, chấp nhận thỏa hiệp, tránh xung đột. Thứ ba, phong cách sống và giao tiếp. Người Mỹ đề cao bản thân, cá tính riêng, cái “ tôi ” của bản thân là điều họ xem trọng, bảo vệ và thể hiện sự tự tin của chính mình trong giao tiếp, phong cách sống của họ bao gồm trong hai từ “tự do” và “độc lập”, không bầy đàn và theo đám đông. Còn đối với người Việt trong phong cách sống thì tỏ ra tôn trọng cái “ta” những giá trị thuộc về cộng đồng, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Người Việt thường khiêm tốn và khiêm nhường, hạ thấp bản thân trong giao tiếp. Thứ tư, thể hiện cảm xúc xin lỗi và cảm ơn. Nói theo tục ngữ của người Việt thì người Mỹ thể hiện cảm xúc theo kiểu “ruột để ngoài da’’ vui buồn đều thể hiện qua gương mặt và câu nói một cách rõ ràng. Trong giao tiếp thường nhật thì việc nói xin lỗi và cảm ơn là một điều thường thấy trong xã hội Mỹ, họ xin lỗi khi chạm phải người khác hay thậm chí là các va chạm giao thông… Ở Mỹ, quan niệm xin lỗi và hành vi để tiến tới hòa giải một cách vui vẻ và là hành vi can đảm, điều này khá khác biệt với đa số người Việt thường xem việc phải xin lỗi là hành động gây tự ái cho bản thân. Bên cạnh việc nói ‘’xin lỗi’’ thì ‘’cám ơn’’ cũng là một câu nói phổ thông trong xã hội Mỹ, họ cảm ơn mọi lúc, mọi nơi với mọi hành động tác động tốt đến cuộc sống của họ dù là nhỏ nhặt hay lớn lao để thể hiện sự hài hòa và vui vẻ thường trực, trong khi đó văn hóa người Việt lại đậm chất bí ẩn của Á Đông thường ít bộc lộc cảm xúc ra bên ngoài khi giao tiếp. Phần lớn người Việt thường giữ sự biết ơn lại và cất giấu ở trong lòng mà tiết kiệm hai từ ‘’cảm ơn’’. Người Việt Nam cũng thế, lời cảm ơn và xin lỗi cũng được thể hiện một cách tế nhị và kín đáo, ẩn sâu trong tâm tư tình cảm. Thứ năm, cách ứng xử nơi công cộng. Trong khi người Việt có thói quen thích sự náo nhiệt nên thường vô tâm trong việc ứng xử nơi công cộng thì Người Mỹ rất ghét việc gây ồn ào ở những nơi không riêng tư nhất là những nơi mang tính trang nghiêm như bảo tàng, đài tưởng niệm hay giáo đường, ngay những nơi như nhà hàng hay quán ăn họ vẫn luôn tuân thủ việc ‘’ăn nhẹ nói khẽ’’ và khi cần gọi nhân viên phục vụ họ vẫn thường thể hiện sự tinh tế và lịch sự trong giao tiếp khi sử dụng những cử chỉ hoặc ánh mắt để tránh làm phiền những người xung quanh. IV. VĂN HOÁ & NGHỆ THUẬT GIAO TIẾP ỨNG XỬ Giao tiếp ứng xử không còn mang ý nghĩa đơn thuần như thông tin, tình cảm mà nâng cao lên thành văn hoá nghệ thuật. Có thể nói, “giao tiếp ứng xử” là thuật ngữ không còn quá xa lạ nhưng biết và hiểu nghệ thuật và văn hoá giao tiếp ứng xử là một phạm trù rất lớn. “Theo nghĩa gốc, văn hoá gắn liền với sự giáo dục, làm thay đổi cái bản chất tự nhiên để con người có được phẩm chất tốt đẹp hơn”. Trong khi đó, “Nghệ thuật là một cái gì đó kích thích tư duy, cảm xúc, niềm tin, hay ý tưởng của một người thông qua giác quan”. Sự kết hợp của hai yếu tố trên một cá nhân không thể hình thành một sớm một chiều mà cần phải trải qua một quá trình mài dũa dài lâu để hình thành. Qua cách giao tiếp ứng xử mà ta phần nào biết được lối sống, tính cách thường ngày của một người nào đó. Từ đó khai thác triệt để các ưu điểm vận dụng vào cuộc giao tiếp. Văn hoá và nghệ thuật giao tiếp ứng xử trong cộng đồng người Việt đang ngày càng được cải thiện và nâng cao. Để giao tiếp thành công cần chuẩn bị cho mình những kỹ năng cơ bản như: - Kỹ năng giao tiếp phi ngôn ngữ: Chúng ta có thể giao tiếp bằng ánh mắt, bằng cử chỉ, bằng hành động,.. Đây là một kỹ năng hỗ trợ cho việc giao tiếp, kỹ năng này giúp ta giải phóng hình thể, giải phóng bản thân không bị khuôn khổ, mất tự nhiên trong khi giao tiếp. Bên cạnh đó việc giao tiếp ứng xử sẽ trở nên thoải mái hơn, hấp dẫn sự chú ý của người khác hơn thay vì đứng yên một chỗ. - Kỹ năng diễn đạt: Diễn đạt rõ ràng, chậm rãi, đúng vào trọng tâm và truyền đạt đúng những điều mà bạn muốn nói. - Kỹ năng lắng nghe: Lắng nghe để hiểu, để đặt câu hỏi, để tương tác giúp cho cuộc giao tiếp trở nên sôi động hơn, đạt được hiệu quả cao nhất. Ngoài ra, đây là cách ứng xử thông minh và thể hiện được sự tôn trọng đối với mọi người trong khi giao tiếp. Bên cạnh đó, những rào cản hạn chế việc vẫn luôn tác động trực tiếp đến giao tiếp và ứng xử - Rào cản về ngoại hình: Tuy nói đây chỉ là hình thức bên ngoài nhưng nó là một yếu tố khá quan trọng. Việc chỉnh chu về ngoại hình khiến ta tự tin hơn trong giao tiếp, và thể hiện sự tôn trọng đối với người khác trong giao tiếp. - Rào cản về ngôn ngữ:Cử chỉ hành động chỉ là một phần hỗ trợ cho giao tiếp, quan trọng nhất vẫn là ngôn ngữ. Bởi ngôn ngữ mới là phương thức chính để ta truyền tải nội dung khi giao tiếp trong đời sống. - Rào cản về cảm xúc khi giao tiếp trong đời sống: Không được để cảm xúc chi phối bản thân trong khi giao tiếp và ứng xử. Cảm xúc là cái rất dễ thể hiện ra bên ngoài điều này sẽ làm ảnh hưởng đến việc ta giao tiếp ứng xử với người khác. Tóm lại, một khi đã nâng tầm kỹ năng giao tiếp ứng xử đạt đến trình độ văn hoá - nghệ thuật thì sẽ góp phần tạo cảm tình tốt, tạo ấn tượng tốt đối với mọi người trong khi giao tiếp. Gắn kết mọi người để tạo nên những mối quan hệ trong cuộc sống. Thông qua giao tiếp mà đạt được mục đích đề ra. Giao tiếp là một kỹ năng rất cần thiết cho sự thành công, nếu kỹ năng giao tiếp tốt làm vững chắc mối quan hệ giữa người với người. V. PHƯƠNG PHÁP TỐT GIAO TIẾP TRONG ĐÁM ĐÔNG. Nhất quan hệ – Nhì hậu duệ – Ba tiền tệ – Bốn trí tuệ”. Giao tiếp là chìa khóa để xác lập và vận hành một mối quan hệ. Xã hội ngày nay, ai cũng muốn tạo lập cho bản thân nhiều mối quan hệ để thuận tiện cho việc làm ăn. Nhưng giao tiếp là một trở ngại quá lớn tạo ra khoảng cách để tiếp cận với mọi người. Có không ít những thất bại do non yếu trong kỹ năng giao tiếp, nguyên nhân là do những lầm tưởng trong lối nghĩ: - Giao tiếp là bản năng nên không rèn luyện. - Háo thắng trong các mối quan hệ, đề cao cái tôi cá nhân, không đặt mình vào vị trí người nghe và thiếu đồng cảm với người đối diện. - Trình bày quan điểm dựa trên ý kiến chủ quan, không có bằng chứng xác thực rõ ràng. - Xem nhẹ vai trò của ngôn ngữ và các hành vi phi ngôn ngữ trong thuyết phục và thuyết trình. - Băn khoăn trong việc tiếp cận người khác, tự ti bản thân, kiến thức không đủ rộng để giao tiếp. Các phương pháp giúp chúng ta cải thiện việc giao tiếp trước đám đông: - Sự tự tin - Quy tắc quan trọng nhất trong việc nói chuyện trước đám đông là bạn phải biết mình nói gì. - Thực hành kỹ năng giao tiếp thường xuyên. - Thu hút mọi người qua ánh mắt. - Nhìn với gương mặt thân thiện trước đám đông. - Sinh hoạt cộng đồng giúp bạn tự tin hơn với “học phí” thấp. - Khi nói, nói giọng nhiệt tình, quyết đoán - Không nói vòng vo làm đối phương khó chịu ảnh hưởng đến mạch cảm xúc đang diễn tả, làm mất tự tin - Biết cách lắng nghe, tôn trọng ý kiến của đối phương - Không nói ậm ừ - Sử dụng ngôn ngữ cơ thể để diễn tả đúng ý - Luôn bình tĩnh, không nóng nảy trong giao tiếp - Không sử dụng những cử chỉ gây khó chịu