Professional Documents
Culture Documents
Đặc điểm hình thức diễn xướng ca dao: Páo dung giao duyên của dân tộc thiểu số Dao đỏ miền Bắc
Đặc điểm hình thức diễn xướng ca dao: Páo dung giao duyên của dân tộc thiểu số Dao đỏ miền Bắc
TÊN CHỦ ĐỀ
PHỤ LỤC 21
I. MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
1.1. Các bài học hiện nay phần lớn đều nghiên cứu ca dao – một bộ phận của văn học
dân gian dưới góc nhìn là sáng tác ngôn từ mà quên mất rằng “Mọi lý thuyết đều màu
xám, chỉ cây đời là mãi mãi xanh tươi” – Goethe. Các câu ca dao là những sáng tác
mà xuất phát điểm của nó là đời sống nhân dân và gắn liền với lời ăn tiếng nói của
dân gian trong cuộc sống hàng ngày. Ca dao không chỉ nằm yên trên giấy mà còn có
sức sống mạnh mẽ khi được cất lên thành tiếng, thành câu hát. Tiểu luận xin dành sự
quan tâm đến diễn xướng ca dao, đến việc đưa lời ca dao thành tiếng hát với những
yếu tố đặc trưng của nó (hình thức, ngôn ngữ, kết cấu, không gian, thời gian...).
1.2. Ở Việt Nam, bên cạnh hát quan họ Bắc Ninh, hát ghẹo Phú Thọ, hát giặm Nghệ –
Tĩnh, hò Huế, dân ca Nam Bộ,... thì ở dân tộc Dao Đỏ – một dân tộc thiểu số ở miền
Bắc, những điệu hát truyền thống vẫn được cất lên dù rằng thực tế, mức độ không còn
nhiều. Khác dân tộc Tày nơi thấp với tiếng đàn dịu ngọt, dân tộc Mông vùng cao với
tiếng khèn réo rắt, dân tộc Khơ Mú với tiếng trống “cầu mùa”, dân tộc Dao Đỏ có cho
riêng mình một điệu hát dân gian, điệu hát Páo dung. Từ hát uống rượu, hát trong lễ
cấp sắc, trong đám cưới, lễ tang... tiếng Páo dung được người Dao Đỏ cất lên còn là
tiếng hát của tình yêu bất tận và niềm cảm mến nồng hậu. Vì thế, tiểu luận xin phép
được đi sâu tìm hiểu về Páo dung giao duyên, một nét đẹp nét duyên của tộc người
Dao Đỏ.
1
Tìm hiểu, nghiên cứu đặc điểm của hình thức diễn xướng ca dao nói chung trong
cái nôi của văn hoá dân gian.
Khảo sát, nghiên cứu nội dung phản ánh và đặc trưng nghệ thuật của diễn xướng
Páo dung giao duyên.
2.2.2. Hát lẻ
Ngược với hát cuộc, hát lẻ là hình thức hát không cần tuân thủ qui cách, lề lối
mà tự do, ngẫu hứng. Tiếng hát lẻ có thể được cất lên khi đang nghỉ ngơi, dùng để
chòng ghẹo nhau làm tươi khoảng thời gian trống: “Anh ở trong ấy anh ra/ Cớ sao
anh biết vườn hoa chị tàn”.
Chương 3. HÌNH THỨC DIỄN XƯỚNG HÁT PÁO DUNG DAO DUYÊN CỦA
DÂN TỘC DAO ĐỎ
1. Điệu hát Páo dung
1.1. Tên gọi “Páo dung”
Theo lời ông Triệu Tạ Phấu, một người có tuổi định cư tại xã Thông Nguyên,
huyện Hoàng Su Phì, hát Páo dung là “hát theo vần thơ”. Còn bà La Thị Xuân, bậc
cao niên sinh sống ở khu tái định cư thôn Tân Quang (Yên Sơn) bảo rằng trong tiếng
Dao, “hát” là “dung”; và người Dao có “Páo dung” là hình thức hát ngẫu hứng dựa
trên cơ sở giai điệu có sẵn, do người hát tự đặt lời và được truyền lại cho các thế hệ.
Làn điệu Páo dung (tên gọi khác là “Pá dung” hoặc “Pả dung”), mang trong mình hơi
thở cuộc sống của người Dao, nói về tình yêu đôi lứa, yêu gia đình, thiên nhiên, làng
xóm; về nếp sinh hoạt, tín ngưỡng, phong tục; về những tâm tư tình cảm.
1.2. Điệu hát Páo dung khi xét về hình thức
Páo dung là lối hát theo bài, mỗi bài thường đủ 4 câu, mỗi câu gồm 7 chữ như
thể thơ thất ngôn. Páo dung bao gồm: (1) hát – hát (Páo dung) là cách hát hơi ngân
dài nhất; (2) đọc – hát (Tộ dung) là cách hát ngân trung bình và (3) nói – hát (Coóng
dung) là cách hát gần như nói, gần như không kéo dài giọng. Trong đó, hai hình thức
Páo dung và Tộ dung được người Dao Đỏ sử dụng nhiều nhất, và có thể chuyển hoá
thay phiên lẫn nhau trong một lần hát. Với Páo dung, lối hát đối đáp được chuộng
hơn lối hát đơn một mình [9].
(*): Lời bài Páo dung Nói lời yêu, sáng tác Hà Châu.
Cảm ơn bên anh có lời đẹp
Ánh nắng phương nào cũng nhớ
nhau Bên này nhỏ bé, không sáng
sủa
Ngại ngùng gặp gỡ cùng quý anh (**)
Lội vào sâu trong những lời Páo dung giao duyên, có thể thấy được sự kết hợp
giữa ngôn ngữ của đời sống sinh hoạt và ngôn ngữ bác học. Đồng thời, nhìn lại về
quá khứ, phần nhiều các bài Páo dung cổ được ghi lại bằng chữ Nôm – Dao, sau mới
được phiên âm và chép lại bằng tiếng phổ thông nên không thiếu lúc, ta bắt gặp trong
lời ca Páo dung những từ gốc Hán. Bởi lẽ ấy, lời ca Páo dung giao duyên vừa mang
những từ ngữ mộc mạc, thân quen, thân tình của cuộc sống thường nhật:
Em ơi, anh về đây được gặp em
Thật là duyên may được gặp
nhau;
cũng vừa có thể mang thứ ngôn ngữ của thơ ca viết, mang những từ gốc Hán trang
trọng như đông hải, trường lưu:
Nàng tự giữ nguyên như đông hải
Trường lưu mãi mãi sẽ không
phai Được thần phù hộ chung vị
trí
Không muốn cách ly một hướng nào
2.5. Một số kết cấu thường gặp trong lời ca Páo dung giao duyên
Với ca dao nói chung và lời ca Páo dung nói riêng, kết cấu như “xương sống”
làm bệ đỡ cho cả tác phẩm. Tìm riêng về điệu hát Páo dung, có thể thấy tiêu biểu một
số kết cấu mang đậm dấu ấn của lối đối đáp.
2.5.1. Kết cấu tương đồng
Viện sỹ Nga A. N. Vexelopxki cho rằng, trong các bài hát theo lối đối ứng luôn
có một cấu trúc song hành giữa thiên nhiên và con người: hình ảnh thiên nhiên được
đưa ra trước nhằm làm đậm nét bức tranh con người ở phía sau. Ở đây, thiên nhiên đã
được sử dụng như một đòn bẩy để con người trở nên nổi bật. Ví dụ như lời cô gái bày
14
tỏ
(**): Lời bài Páo dung Nói lời yêu, sáng tác Hà Châu.
14
Hẹn hò đối đáp cùng giao
duyên Dù sông nước lũ chẳng
trôi tình
Hoa thơm được tưới càng ngát
hoặc hương Gặp nhau hẹn ước thắm duyên
tình
16
Cho cô dâu, chú rể vui hạnh phúc trăm năm.
Cấu trúc “để...” và “cho...” trong lời hát của chàng trai lẫn cô gái đã nhấn mạnh niềm
vui giản dị, hồn hậu, nhiệt thành trong chính tâm hồn của con người xứ Dao. Cứ như
vậy, vẻ đẹp tâm hồn của người Dao Đỏ dày lên và ngập tràn trong từng câu hát.
2.6. Một số thủ pháp nghệ thuật nổi bật trong lời ca Páo dung giao duyên
2.6.1. Biện pháp so sánh
Lối nói chuyện bình thường giữa người với người vốn in đậm cách nói so sánh:
“ngang như cua”, “đẹp như tiên”... và ca dao lại là câu hát mang dày lời ăn tiếng nói
hàng ngày. Hẳn bởi lẽ đó, lời ca Páo dung giao duyên không thể thiếu những câu
mang phép so sánh điều này với điều nọ. Từ so sánh ngang bằng:
Nàng tự giữ nguyên như đông hải
Trường lưu mãi mãi sẽ không
phai
hay
Anh à, cha mẹ em hiền như luống
cày Nếu anh đến, hẳn cả nhà em rất
hoặc vui
2.7.2. Không gian và thời gian trong lời hát Páo dung giao duyên
Trong lời hát Páo dung, không gian và thời gian mang tính phiếm chỉ. Những
địa điểm xuất hiện trong điệu Páo dung giao duyên đều mang đậm hơi thở thiên
nhiên: đó là núi rừng, nương rẫy, dòng sông, bờ suối, bản làng... như lời chàng trai,
cô gái dưới đây.
Lời chàng trai hát:
Mặt trời đã chiếu ngang sườn núi
Em ngồi ở đó, em đợi ai
Anh đến rủ em cùng lên núi
Hái cây thuốc về cứu muôn dân
Lời cô gái đáp lại:
Em ngồi em đợi anh lên núi
Hái lá thuốc về để cứu người
Xóm làng mạnh khỏe vui cày
cấy Dựng xây làng bản mãi yên
hay như vui