You are on page 1of 2

LÝ THUYẾT VỀ BỘ BA BẤT KHẢ THI

1. Khái niệm
Trong kinh tế học, bộ ba bất khả thi (còn gọi là Bộ ba chính sách không thể đồng
thời hoặc tam nan kinh tế, tiếng Anh: impossible trinity) chỉ một giả thuyết kinh tế cho
rằng không thể thực hiện đồng thời ba chính sách gồm chế độ tỷ giá hối đoái cố
định, chính sách tiền tệ độc lập để ổn định giá cả và tự do lưu chuyển vốn. Chỉ có thể thực
hiện đồng thời hai trong ba chính sách này mà thôi. Thuật ngữ này còn dùng để chỉ tình
thế kinh tế dễ đổ vỡ khi mà một quốc gia cố tình thi hành ba chính sách trên cùng lúc.
2. Giải thích

Khi đưa ra các quyết định cơ bản về quản lí chính sách tiền tệ quốc tế, một bộ ba
bất khả thi cho thấy rằng các quốc gia có ba lựa chọn khả thi. Theo mô hình bộ ba
của Mundell-Fleming, các tùy chọn này bao gồm:

- Tỉ giá hối đoái cố định

- Tự do lưu chuyển vốn

- Chính sách tiền tệ độc lập để ổn định giá cả

Tính riêng biệt làm cho không thể cùng lúc đạt được cả 3 mục tiêu. Nếu nhà hoạch
định chính sách chọn 2 mục tiêu thì sẽ phải từ bỏ mục tiêu còn lại.

Bên A: Một quốc gia có thể chọn thay đổi tỉ giá hối đoái với một hoặc nhiều quốc
gia và nó có một dòng vốn tự do với các quốc gia khác. Nếu đi theo kịch bản này,
chính sách tiền tệ độc lập sẽ không thể có được vì khi biến động lãi suất sẽ tạo ra
chênh lệch tỉ giá hối đoái.
Bên B: Quốc gia có thể chọn để có một dòng vốn tự do với các quốc gia khác và
có chính sách tiền tệ độc lập. Nhưng do tỉ giá hối đoái cố định giữa tất cả các quốc
gia và dòng vốn tự do là riêng biệt với nhau. Vậy nên nếu muốn tự do lưu chuyển
vốn, hiển nhiên sẽ không thể có tỉ giá hối đoái cố định.
Bên C: Nếu một quốc gia chọn tỉ giá hối đoái cố định và chính sách tiền tệ độc lập
thì quốc gia đó sẽ không thể có dòng vốn tự do. Tiếp tục trong trường hợp này, tỉ
giá hối đoái cố định và dòng vốn tự do là riêng biệt với nhau.
3. Các cân nhắc của chính phủ

Thách thức đối với chính sách tiền tệ của chính phủ đến từ việc lựa chọn mục tiêu nào để
theo đuổi và quản lí chúng. Nói chung, hầu hết các quốc gia ủng hộ phía B của tam giác
vì họ có thể hưởng sự tự do của chính sách tiền tệ độc lập và hỗ trợ chính sách giúp định
hướng dòng vốn.

4. Những ảnh hưởng về học thuật


Lí thuyết về bộ ba bất khả thi được ghi nhận là của hai nhà kinh tế học Robert
Mundell và Marcus Fleming. Họ đã chứng minh các mối quan hệ giữa tỉ giá hối
đoái, dòng vốn và chính sách tiền tệ trong những năm 1960. Maurice Obstfeld -
nhà kinh tế trưởng tại Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF) năm 2015, đã giới thiệu mô hình
này như là một "bộ ba bất khả thi" trong một bài báo năm 1997.

Nhà kinh tế học người Pháp Hélène Rey lập luận rằng bộ ba bất khả thi không hề
đơn giản như trong bối cảnh trước đó. Trong thời hiện đại, Rey tin rằng phần lớn
các quốc gia chỉ phải đối mặt với hai lựa chọn vì các chính sách tiền tệ cố định
thường không hiệu quả. Dẫn đến việc chỉ chú trọng vào mối quan hệ giữa chính
sách tiền tệ độc lập và dòng vốn tự do.

5. Ví dụ thực tế

Một ví dụ thực tế về việc giải quyết những sự đánh đổi này đó là ở Khu vực Đồng tiền
chung Euro, nơi mà các quốc gia có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Bằng cách hình
thành Khu vực Đồng tiền chung Euro và chỉ sử dụng chung một loại tiền tệ, các quốc
gia cuối cùng đã chọn bên A của tam giác để duy trì một loại tiền tệ duy nhất.

Trước khi đồng tiền chung châu Âu Euro ra đời năm 1999, các thành viên đã neo đồng
nội tệ của mình vào đồng mark Đức. Kết quả là họ buộc phải nương vào chính sách
tiền tệ của NHTW Đức để điều chỉnh chính sách của riêng mình. Một số nước dễ dàng
làm được điều này bởi vì có các ngành kinh tế gắn bó chặt chẽ với Đức và như vậy
mối quan hệ giữa hai bên là “nước nổi thuyền nổi".

Tuy nhiên, có một số nước không thể duy trì chính sách tiền tệ như vậy. Năm 1992,
Anh buộc phải “nhổ neo” vì nền kinh tế Anh đang rơi vào suy thoái trong khi kinh tế
Đức bùng nổ.

You might also like