Hướng dẫn Tự học môn Nguyên lí (khổ 16 x 24)

You might also like

You are on page 1of 122

4

Phần thứ hai


HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
VỀ PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT TƯ BẢN CHỦ NGHĨA

Chương I
HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ

Bài tập 44
a. Thế nào là sản xuất hàng hóa?
b. Phân tích điều kiện ra đời, đặc trưng cơ bản và ưu thế
của sản xuất hàng hóa.
Gợi ý trả lời:
a. Khái niệm sản xuất hàng hóa:
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản
phẩm được sản xuất ra để trao đổi hoặc mua bán trên thị
trường. Nói cách khác, nó là hình thức tổ chức kinh tế, trong đó
mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất được thực hiện
thông qua việc mua bán sản phẩm lao động của nhau trên thị
trường.
b. Điều kiện ra đời, đặc trưng cơ bản và ưu thế của sản xuất
hàng hóa:
- Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa:
+ Thứ nhất, có sự phân công lao động xã hội (điều kiện
cần). Do có sự phân công lao động xã hội nên mỗi người chỉ sản
xuất một hay một số loại sản phẩm nhất định, vì vậy họ phải cần
đến sản phẩm của nhau, buộc phải trao đổi với nhau. Mặt khác,
phân công lao động xã hội làm cho năng suất lao động tăng lên,
sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều nên càng thúc đẩy sự trao

5
đổi sản phẩm.
+ Thứ hai, có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa
những người sản xuất (điều kiện đủ). Điều này làm cho những
người sản xuất độc lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ
thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc vào nhau.
Muốn tiêu dùng sản phẩm của nhau, người này phải mang sản
phẩm của mình trao đổi với sản phẩm của người khác dưới hình
thái hàng hóa.
- Đặc trưng cơ bản của sản xuất hàng hóa:
+ Sản xuất hàng hóa có mục đích là sản xuất ra sản phẩm
để trao đổi hoặc mua bán. Điều đó có nghĩa là, sản phẩm được
sản xuất ra không phải để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính
người trực tiếp sản xuất ra nó, mà để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của người khác, của xã hội thông qua trao đổi, mua bán.
+ Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư
nhân vừa mang tính xã hội. Lao động của người sản xuất hàng
hóa mang tính chất xã hội, vì sản phẩm do họ làm ra là để đáp
ứng nhu cầu của người khác, của xã hội. Còn lao động của người
sản xuất hàng hóa mang tính chất tư nhân, vì sản xuất cái gì, như
thế nào là công việc riêng, mang tính độc lập của mỗi người.
- Ưu thế của sản xuất hàng hóa:
+ Khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ
thuật của từng người, từng cơ sở cũng như từng vùng, từng địa
phương. Đồng thời, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại thúc
đẩy phân công lao động xã hội phát triển, làm cho năng suất lao
động xã hội tăng lên nhanh chóng, số lượng và chất lượng sản
phẩm làm ra đáp ứng nhu cầu xã hội tốt hơn.
+ Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mô sản xuất không còn
bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi

6
cá nhân, gia đình, cơ sở, địa phương, mà nó được mở rộng, dựa
trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực của xã hội. Điều này lại tạo điều
kiện thuận lợi cho việc ứng dụng những thành tựu khoa học, kỹ
thuật, công nghệ vào sản xuất... thúc đẩy sản xuất phát triển.
+ Sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó như
quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh... buộc
người sản xuất hàng hóa phải luôn năng động, nhạy bén, biết
tính toán, cải tiến kỹ thuật… làm cho chi phí sản xuất hạ xuống
đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao
hơn.
+ Sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng và giao lưu kinh tế
giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước... không chỉ làm
cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần của
người dân cũng được nâng cao hơn, phong phú và đa dạng hơn.

Bài tập 45
a. Hàng hóa là gì?
b. Trình bày hai thuộc tính của hàng hóa và mối quan hệ
giữa hai thuộc tính đó với tính chất hai mặt của lao động sản
xuất hàng hóa.
c. Nêu ý nghĩa của việc phát hiện ra tính chất hai mặt của
lao động sản xuất hàng hóa.
Gợi ý trả lời:
a. Khái niệm hàng hóa:
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn được
nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán. Hàng
hóa có thể ở dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực
phẩm... hoặc ở dạng vô hình như những dịch vụ thương mại, vận
tải hay dịch vụ của bác sĩ, nghệ sĩ...
7
b. Hai thuộc tính của hàng hóa và mối quan hệ giữa hai
thuộc tính đó đối với tính chất hai mặt của lao động sản xuất
hàng hóa.
* Hai thuộc tính của hàng hóa
- Giá trị sử dụng của hàng hóa: là công dụng của vật phẩm
thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Bất cứ hàng hóa nào
cũng có một hay một số công dụng nhất định. Chính công dụng
(tính có ích đó) làm cho hàng hóa có giá trị sử dụng. Ví dụ công
dụng của gạo là để ăn, vải để mặc, xe đạp để đi....
Giá trị sử dụng của hàng hóa là do những thuộc tính tự
nhiên của thực thể hàng hóa đó quyết định nên nó là phạm trù
vĩnh viễn. Giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần dần
trong quá trình phát triển của khoa học - công nghệ và lực lượng
sản xuất nói chung. Giá trị sử dụng của hàng hóa không phải là
giá trị sử dụng cho người sản xuất trực tiếp ra nó mà là giá trị sử
dụng cho người khác, cho xã hội, thông qua trao đổi, mua bán.
- Giá trị của hàng hóa: là lao động xã hội của người sản
xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Còn giá trị trao đổi chỉ là
hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị hàng hóa; giá trị là
nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Bản chất của giá trị biểu
hiện mối quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa.
Vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền sản
xuất hàng hóa.
* Mối quan hệ giữa hai thuộc tính với tính chất hai mặt
của lao động sản xuất hàng hóa:
Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính nêu trên vì lao động sản
xuất hàng hóa có tính chất hai mặt: lao động cụ thể và lao động
trừu tượng. Trong đó, lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của
hàng hóa; còn lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa.

8
- Lao động cụ thể: là lao động có ích biểu hiện dưới một
hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Mỗi lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao
động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Chính cái
riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau.
Trong xã hội có nhiều loại hàng hóa với những giá trị sử
dụng khác nhau là do có nhiều loại lao động cụ khác nhau. Nếu
phân công lao động xã hội càng phát triển thì càng có nhiều loại
giá trị sử dụng khác nhau để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
- Lao động trừu tượng: là lao động của người sản xuất hàng
hóa khi đã gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó, hay nói cách
khác, đó chính là sự tiêu hao sức lao động của người sản xuất
hàng hóa nói chung. Chỉ có lao động sản xuất hàng hóa mới có
tính chất lao động trừu tượng.
Chính lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa tạo
ra giá trị của hàng hóa. Như vậy, giá trị của hàng hóa là lao
động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa. Đó
cũng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa. Lao động trừu tượng
là phạm trù lịch sử riêng có của sản xuất hàng hóa.
c. Ý nghĩa của việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao
động sản xuất hàng hóa:
- Đem đến cho lý thuyết giá trị - lao động một cơ sở khoa
học thực sự. Các nhà kinh tế trước Mác cho rằng, lao động tạo ra
giá trị, nhưng không biết tính chất nào của lao động tạo ra giá trị.
C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao
động sản xuất hàng hóa, và chỉ rõ tính chất trừu tượng của lao
động sản xuất hàng hóa đã tạo ra giá trị của hàng hóa.
- Vạch rõ nguồn gốc của giá trị sử dụng và giá trị của hàng
hóa. Số lượng giá trị của hàng hóa được quyết định bởi số lượng

9
lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong
hàng hóa. Thực chất của trao đổi hàng hóa là trao đổi các giá trị
sử dụng khác nhau với lượng giá trị bằng nhau.
- Chỉ ra xu hướng vận động ngược chiều nhau giữa khối
lượng hàng hóa với lượng giá trị của nó khi có sự biến đổi về
năng suất lao động. Khi năng suất lao động tăng lên thì khối
lượng hàng hóa (lượng giá trị sử dụng) được sản xuất ra tăng lên,
nhưng lượng giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa lại giảm xuống.
- Giải thích được nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư,
phân tích được bản chất tư bản bất biến và tư bản khả biến… do
đó đem lại cơ sở khoa học vững chắc cho học thuyết giá trị thặng
dư, học thuyết tích lũy, học thuyết tái sản xuất,...

Bài tập 46
a. Lượng giá trị hàng hóa là gì?
b. Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa?
c. Cấu thành lượng giá trị hàng hóa?
Gợi ý trả lời:
a. Lượng giá trị hàng hóa:
Lượng giá trị của hàng hóa là số lượng lao động hao phí để
sản xuất ra hàng hóa, nó được tính bằng thời gian lao động hao
phí để sản xuất hàng hóa đó.
Lượng giá trị xã hội của hàng hóa được tính bằng thời gian
lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hóa.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để
sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện bình thường của xã hội
với một trình độ kỹ thuật trung bình, một trình độ thành thạo
trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.

10
Thông thường, thời gian lao động xã hội cần thiết gần sát
với thời gian lao động cá biệt của những người sản xuất và cung
ứng tuyệt đại bộ phận hàng hóa đó trên thị trường.
b. Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa:
- Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động,
được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất trong một đơn vị thời
gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị
sản phẩm. Năng suất lao động tăng lên thì thời gian lao động để
sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống, do đó giá trị của
một đơn vị hàng hóa giảm xuống và ngược lại. Như vậy, lượng
giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.
- Cường độ lao động là khái niệm chỉ mức độ hao phí sức
lao động trong một đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn
trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động. Khi cường độ
lao động tăng lên thì số lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên và
hao phí sức lao động cũng tăng lên tương ứng, do đó tổng giá trị
hàng hóa tăng lên, nhưng giá trị của một đơn vị hàng hóa vẫn
không đổi.
- Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định
đến lượng giá trị của hàng hóa. Theo mức độ phức tạp của lao
động người ta chia lao động thành lao động giản đơn (lao động
mà bất kỳ một người lao động bình thường nào cũng có thể thực
hiện được không cần phải trải qua đào tạo) và lao động phức tạp
(lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới có thể thực
hiện được)..
c. Cấu thành lượng giá trị hàng hóa:
Để sản xuất hàng hóa cần phải chi phí lao động, bao gồm
lao động quá khứ tồn tại trong các yếu tố tư liệu sản xuất và lao
động sống hao phí trong quá trình chế biến tư liệu sản xuất thành

11
sản phẩm mới.
Trong quá trình sản xuất, lao động cụ thể của người sản
xuất có vai trò bảo tồn và di chuyển giá trị cũ (c) vào sản phẩm
mới, còn lao động trừu tượng có vai trò làm tăng thêm giá trị, tạo
ra giá trị mới cho sản phẩm (v+m). Vì vậy, cấu thành lượng giá
trị hàng hóa bao gồm hai bộ phận: giá trị cũ tái hiện và giá trị
mới. Ký hiệu: W = c + v + m.

Bài tập 47
a. Chỉ ra nguồn gốc, bản chất và chức năng của tiền tệ.
b. Trình bày quy luật lưu thông tiền tệ và lạm phát.
Gợi ý trả lời:
a. Nguồn gốc, bản chất và chức năng của tiền tệ:
- Nguồn gốc, bản chất của tiền tệ: Tiền tệ ra đời là kết quả
tất yếu của quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi
hàng hóa và của các hình thái giá trị hàng hóa. Có bốn hình thái
giá trị:
+ Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên: Trao đổi hoàn
toàn mang tính ngẫu nhiên, vật trao đổi trực tiếp với vật. Phương
trình trao đổi là: xH1 = yH2 . Ở đây, hàng hóa H1 biểu hiện giá trị
của mình ở hàng hóa H2 , còn H2 đóng vai trò là vật ngang giá.
+ Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng: Khi có nhiều hàng
hóa trao đổi trên thị trường thì một hàng hóa có thể đem trao đổi
với nhiều hàng hóa khác, làm ra đời hình thái giá trị đầy đủ hay
mở rộng.
+ Hình thái chung của giá trị: Khi sản xuất hàng hóa phát
triển hơn, quan hệ trao đổi trở nên thường xuyên, rộng rãi hơn,
thì có một hàng hóa tách ra làm vật ngang giá chung, làm xuất
hiện hình thái giá trị chung. Ở đây, tất cả các hàng hóa đều biểu
12
hiện giá trị của mình ở vật ngang giá chung.
+ Hình thái tiền tệ: Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát
triển hơn nữa, thị trường được mở rộng, thì đòi hỏi phải hình
thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi vật giá chung được cố
định ở một vật độc tôn và phổ biến thì hình thái tiền tệ xuất hiện.
Như vậy, tiền tệ là hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật
ngang giá chung thống nhất cho các hàng hóa khác, nó thể hiện
lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất
hàng hóa.
- Chức năng của tiền tệ: có năm chức năng sau:
+ Thước đo giá trị: Tiền tệ dùng tiền để biểu hiện và đo
lường giá trị của các hàng hóa khác. Khi thực hiện chức năng
này, thì giá trị hàng hóa được biểu hiện bằng một lượng tiền nhất
định gọi là giá cả hàng hóa. Giá cả của hàng hóa có thể lên
xuống xoay quanh giá trị, nhưng tổng số giá cả luôn bằng tổng
số giá trị.
+ Phương tiện lưu thông: tiền làm môi giới trung gian
trong trao đổi hàng hóa. Khi thực hiện chức năng này đòi hỏi
phải có lượng tiền mặt trên thực tế, tức tiền thật và khi đó trao
đổi hàng hóa vận động theo công thức H - T - H.
+ Phương tiện cất trữ: tiền được rút khỏi lưu thông đi vào
cất trữ. Chức năng phương tiện cất trữ làm cho tiền trong lưu
thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết trong
lưu thông.
+ Phương tiện thanh toán: Khi sản xuất và trao đổi hàng
hóa phát triển đến một giai đoạn nào đó tất yếu sẽ nảy sinh việc
mua bán chịu và do đó, xuất hiện chức năng phương tiện thanh
toán của tiền. Thực hiện chức năng này, tiền được dùng để chi
trả sau khi công việc giao dịch, mua bán đã hoàn thành.

13
+ Tiền tệ thế giới:
Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra bên ngoài biên giới tiền
quốc gia và hình thành quan hệ buôn bán giữa các nước thì xuất
hiện chức năng tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có
đủ giá trị, phải là vàng hoặc các ngoại tệ mạnh.
b. Quy luật lưu thông tiền tệ và lạm phát:
- Quy luật lưu thông tiền tệ: là quy luật xác định số lượng
tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa trong một thời kỳ nhất
định.
Khi tiền chỉ thực hiện chức năng phương tiện lưu thông thì
số lượng tiền cần thiết cho lưu thông được tính theo công thức:

PxQ
M=
Trong đó: V

M: là lượng tiền cần thiết cho lưu thông;


P: là mức giá cả;
Q: là khối lượng hàng hóa, dịch vụ đem ra lưu thông;
V: là số vòng chu chuyển trung bình của đồng tiền cùng
loại.
Khi tiền thực hiện cả chức năng phương tiện thanh toán thì
số lượng tiền cần thiết cho lưu thông được tính theo công thức:

PQ - (PQ1 + PQ2) + PQ3


M=
V
Trong đó:
PQ: là tổng giá cả hàng hóa đem bán;
PQ1: là tổng giá cả hàng hóa bán chịu;
PQ2: là tổng giá cả hàng hóa khấu trừ cho nhau;
14
PQ3: là tổng giá cả hàng hóa bán chịu đến kỳ thanh toán.
- Lạm phát: là một hiện tượng khủng hoảng tiền tệ trong
nền kinh tế hàng hóa, nó biểu hiện rõ ở sự tăng lên của chỉ số giá
cả, sự tụt giá của tiền, sản xuất đình đốn, tiền lương thực tế giảm.
Căn cứ vào mức giá tăng lên, có thể chia lạm phát thành ba
loại: lạm phát vừa phải (chỉ số giá cả tăng lên dưới 10%/năm);
lạm phát phi mã (chỉ số giá cả tăng trên 10%/ năm); và siêu lạm
phát (chỉ số giá cả tăng lên hàng trăm, hàng nghìn lần và hơn
nữa trong một năm);
Lạm phát dẫn tới sự phân phối lại các nguồn thu nhập giữa
các tầng lớp dân cư; khuyến khích đầu cơ hàng hóa, cản trở sản
xuất kinh doanh, các hoạt động kinh tế bị méo mó biến dạng,
tâm lý người dân hoang mang... Lạm phát là hiện tượng chung
của nền kinh tế hàng hóa và có tác động tiêu cực đến nền kinh tế.
Vì vậy, ổn định tiền tệ, chống lạm phát là một trong những mục
tiêu hàng đầu của các nước trên thế giới.

Bài tập 48
a. Trình bày nội dung, yêu cầu và tác động của quy luật
giá trị trong nền sản xuất hàng hóa.
b. Nêu biểu hiện của quy luật giá trị trong các giai đoạn
phát triển của chủ nghĩa tư bản.
c. Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật này đối với sự phát triển
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam?
Gợi ý trả lời:
a. Nội dung, yêu cầu và tác động của quy luật giá trị trong
nền sản xuất hàng hóa:
- Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và
trao đổi hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở
15
đó có quy luật giá trị hoạt động.
- Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải
dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên cơ sở hao phí lao
động xã hội cần thiết.
Trong sản xuất, quy luật giá trị đòi hỏi người sản xuất phải
làm sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phải phù hợp
với mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Còn trong trao đổi,
hay lưu thông phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá: hai
hàng hóa được trao đổi với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao
động như nhau, hoặc trao đổi, mua bán hàng hóa phải thực hiện
với giá cả bằng giá trị.
- Trong nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác
động sau:
+ Một là, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa. Dựa vào
sự biến động của giá cả thị trường, người sản xuất sẽ mở rộng
sản xuất những mặt hàng đang thiếu, bán chạy, nhiều lãi và
ngược lại sẽ thu hẹp sản xuất, thậm chí đóng cửa không sản xuất
những mặt hàng ế thừa, giá thấp. Kết quả là các yếu tố sản xuất
như tư liệu sản xuất, sức lao động, tiền vốn được dịch chuyển từ
ngành này sang ngành khác; làm cho quy mô sản xuất của ngành
này mở rộng, ngành khác thu hẹp. Ngoài ra, hàng hóa được di
chuyển từ nơi giá thấp đến nơi giá cao. Từ đó phân phối các
nguồn hàng hóa một cách hợp lý hơn giữa các vùng của đất
nước, giữa trong nước với ngoài nước, giữa cung và cầu về các
loại hàng hóa trong xã hội.
+ Hai là, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất,
tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, thúc đẩy lực
lượng sản xuất xã hội phát triển. Trong sản xuất hàng hóa, người
sản xuất nào cũng muốn có nhiều lãi. Muốn vậy, những người

16
sản xuất phải tìm mọi cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức
quản lý sản xuất, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao
động... Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này
diễn ra mạnh mẽ hơn. Kết quả là lực lượng sản xuất phát triển
mạnh mẽ, năng suất lao động không ngừng tăng lên, chi phí sản
xuất xã hội không ngừng giảm xuống.
Ba là, phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu
nghèo, làm xuất hiện nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa.
Trong sản xuất hàng hóa, dưới sự tác động của quy luật giá trị và
các quy luật khác, tất yếu dẫn đến kết quả: những người có điều
kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ cao, có kiến thức, trang bị kỹ
thuật tốt, có vốn..., hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao
động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ
sẽ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh,
thậm chí thuê lao động trở thành ông chủ. Ngược lại, những
người không có các điều kiện trên, làm ăn kém cỏi hoặc gặp rủi
ro, tai nạn sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể
phá sản trở thành lao động làm thuê. Đây cũng chính là một
trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.
b. Biểu hiện của quy luật giá trị trong các giai đoạn phát
triển của chủ nghĩa tư bản:
Chủ nghĩa tư bản phát triển qua hai giai đoạn: tự do cạnh
tranh và độc quyền.
- Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, quy
luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất. Giá trị
chuyển hóa thành giá cả sản xuất. Giá cả sản xuất là sự vận động
của giá trị của hàng hóa trong điều kiện tự do cạnh tranh của tư
bản và được xác định bằng chi phí tư bản cộng lợi nhuận bình

17
quân:
WSX = K + p

- Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, quy luật giá
trị được biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền. Trong giai
đoạn này, các tổ chức độc quyền áp dụng cơ chế giá cả độc
quyền thấp khi mua và giá cả độc quyền cao khi bán. Kết quả là
các giá trị hàng hóa được chuyển hóa thành giá cả độc quyền:
WĐQ = K + pĐQ
c. Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật giá trị đối với sự
phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam:
Nghiên cứu quy luật giá trị có ý nghĩa rất lớn đối với phát
triển nền kinh tế thị trường ở nước ta, biểu hiện ở hai mặt sau:
- Mặt tích cực biểu hiện ở chỗ:
+ Nó buộc các chủ thể kinh tế phải nhạy bén, năng động
trong sản xuất, kinh doanh, phải tìm cách tăng năng suất lao
động, giảm chi phí sản xuất để hạ giá thành sản phẩm; phải tìm
đến ngành hoặc lĩnh vực mà mình có lợi thế, đến mặt hàng có
nhiều người cần, tức là phải nâng cao hiệu quả trong hoạt động
kinh tế.
+ Nó tác động làm cho cơ cấu của nền sản xuất được điều
chỉnh một cách linh hoạt phù hợp với cơ cấu tiêu dùng của xã
hội.
+ Nó buộc các chủ thể kinh tế phải cạnh tranh với nhau,
điều này làm cho các nguồn lực của xã hội được sử dụng có hiệu
quả, kích thích tiến bộ kỹ thuật và công nghệ, thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển.
+ Nó còn có tác động bình tuyển người sản xuất, nhờ đó
18
chọn ra được những người năng động, tài kinh doanh, biết làm
giàu; đồng thời buộc những người kém cỏi phải vươn lên, tích
cực hơn nếu không muốn trở thành nghèo khó.
Với tác động này, chúng ta cần phải tôn trọng và phát huy
vai trò tự điều tiết của quy luật giá trị để phân bổ các nguồn lực
của xã hội cho các ngành, các lĩnh vực một cách linh hoạt và có
hiệu quả; xây dựng các vùng kinh tế chuyên môn hóa; lựa chọn
kỹ thuật, công nghệ mới; định hướng đào tạo nguồn nhân lực,
thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thúc đẩy nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển.
- Mặt tiêu cực biểu hiện ở chỗ:
+ Nó gây ra tình trạng khai thác cạn kiệt tài nguyên, đổ
chất thải bừa bãi, mất cân bằng sinh thái và gây ô nhiễm môi
trường.
+ Nó dẫn đến khủng hoảng kinh tế và các căn bệnh kinh tế
khác (đình trệ, suy thoái, lạm phát tiền tệ...) có cơ hội phát triển.
+ Nó dẫn đến sự mất bình đẳng về thu nhập trong xã hội,
tác động tiêu cực đến tiến bộ xã hội…
Vì vậy, nhà nước cần nghiên cứu, tìm tòi các giải pháp
ngăn ngừa, khắc phục những tác động tiêu cực của quy luật.

19
Chương V
HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

Bài tập 49
a. Trình bày công thức chung của tư bản?
b. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản là gì ?
c. Vì sao phân tích hàng hóa sức lao động là chìa khóa để
giải quyết mâu thuẫn đó?
Gợi ý trả lời:
a. Công thức chung của tư bản:
Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hóa, đồng
thời là hình thái xuất hiện đầu tiên của tư bản. Mọi tư bản đều
biểu hiện trước hết là một số tiền nhất định, nhưng bản thân tiền
chưa hẳn là tư bản. Tiền chỉ trở thành tư bản trong những điều
kiện nhất định, khi chúng được sử dụng để bóc lột lao động của
người khác.
Tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn vận động theo
công thức: H - T - H (Hàng - Tiền - Hàng).
Tiền trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa vận động theo
công thức: T - H - T’ (Tiền - Hàng - Tiền).
Điểm giống nhau của hai công thức trên là: đều cấu thành
bởi hai yếu tố hàng và tiền; đều chứa đựng hai hành vi đối lập
nhau là mua và bán; đều biểu hiện quan hệ kinh tế giữa người
mua và người bán.
Tư bản vận động theo công thức T - H - T’, trong đó T’ = T
+ T (T là số tiền trội hơn số tiền ứng ra, được gọi là giá trị
thặng dư và ký hiệu là m). Số tiền ứng ra ban đầu (T) chuyển hóa
thành tư bản (ký hiệu K). Như vậy, tiền (T) chỉ biến thành tư bản

20
khi được dùng để mang lại giá trị thặng dư (m) cho nhà tư bản.
Sự vận động của tư bản không có giới hạn.
Công thức T - H - T’ với T’ = T + m được gọi là công thức
chung của tư bản, vì sự vận động của mọi tư bản đều biểu hiện
trong lưu thông dưới dưới dạng khái quát này.
b. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản:
Trong công thức T - H - T’, trong đó T’ = T + m; vậy m do
đâu mà có?
Thoạt nhìn, ta có cảm giác hình như giá trị thặng dư được
sinh ra trong lưu thông. Nhưng thực chất lưu thông và bản thân
tiền tệ trong lưu thông không hề tạo ra giá trị.
Tuy nhiên, nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu
thông, tức đứng ngoài lưu thông thì cũng không làm cho tiền của
mình lớn lên được.
"Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng
không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện
trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông" 1. Đó
là mâu thuẫn của công thức chung của tư bản.
c. Phân tích hàng hóa sức lao động là chìa khóa để giải
quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản:
Để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản,
C.Mác đã tìm được trên thị trường một loại hàng hóa mà việc sử
dụng nó có thể tạo ra được giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó.
Hàng hóa đó là hàng hóa sức lao động.
- Sức lao động là toàn bộ những năng lực (thể lực và trí
lực) tồn tại trong một con người và được người đó sử dụng vào
sản xuất.
- Trong mọi xã hội, sức lao động luôn là yếu tố của sản
1
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.249.
21
xuất, nhưng nó chỉ trở thành hàng hóa khi người có sức lao động
phải được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động của
mình,có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa và
người có sức lao động không có tư liệu sản xuất cần thiết để tự
mình đứng ra tổ chức sản xuất nên muốn sống phải bán sức lao
động cho người khác sử dụng.
- Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động.
Giá trị hàng hóa sức lao động được xác định bằng giá trị
của toàn bộ tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì đời sống bình
thường của công nhân và gia đình anh ta, cộng với những phí tổn
để đào tạo người công nhân có một trình độ nhất định.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động, trước hết nó
cũng thỏa mãn một nhu cầu nào đó của người mua, tức là để tiêu
dùng vào quá trình lao động. Nhưng nó khác với các hàng hóa
thông thường ở chỗ: trong quá trình lao động, nó tạo ra một
lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, đó là giá trị
thặng dư. Đặc điểm này chính là chìa khóa để giải quyết mâu
thuẫn trong công thức chung của tư bản.

Bài tập 50
a. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, tỷ suất và khối
lượng giá trị thặng dư?
b. Phân biệt tư bản bất biến và tư bản khả biến?
c. Căn cứ và ý nghĩa của việc phân chia cặp phạm trù này?
Gợi ý trả lời:
a. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, tỷ suất và khối
lượng giá trị thặng dư:
- Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư:
Chẳng hạn, đối với nhà tư bản sản xuất sợi: để sản xuất 10
22
kg sợi, phải ứng ra số tiền 10 USD để mua 10 kg bông; hao mòn
máy móc để chuyển hết 10 kg bông thành sợi là 2 USD và mua
sức lao động trong cả ngày (8 giờ) là 4 USD. Giả định việc mua
này đúng giá trị và mỗi giờ lao động sống của công nhân tạo ra
giá trị mới kết tinh trong sản phẩm là 1 USD.
Giả sử trong 4 giờ lao động đầu, bằng lao động cụ thể,
người công nhân đã chuyển hết 10 kg bông thành sợi và bằng lao
động trừu tượng người công nhân tạo thêm lượng giá trị mới là 4
USD. Kết quả nhà tư bản có một khối lượng hàng hóa sợi với giá
trị là 16 USD. Nhà tư bản đem bán khối lượng sợi ấy trên thị
trường theo đúng giá trị và thu được 16 USD. Nếu ngày lao động
ngừng ở đây thì nhà tư bản chưa có giá trị thặng dư. Nhưng, vì
nhà tư bản thuê công nhân cả ngày (8 giờ), chứ không phải 4 giờ,
nên người công nhân phải tiếp tục lao động thêm 4 giờ nữa.
Trong 4 giờ lao động tiếp, nhà tư bản chỉ phải chi phí 12
USD (10 USD mua 10 kg bông và 2 USD khấu hao máy móc),
mà không phải trả tiền công nữa. Nhưng tương tự như 4 giờ lao
động đầu, nhà tư bản vẫn có một lượng hàng hóa sợi giá trị là 16
USD.
Tổng cộng trong một ngày lao động 8 giờ, nhà tư bản phải
chi phí: 20 USD để mua bông, hao mòn máy móc 4 USD, trả
công cho công nhân là 4 USD, tổng cộng bằng 28 USD. Nhưng
khi đem bán 20 kg sợi trên thị trường đúng giá trị, nhà tư bản lại
thu đượng 32 USD, số tiền dôi ra là 4 USD. Phần giá trị dôi ra
này chính là giá trị thặng dư (m).
Vậy, giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá
trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản
chiếm không. Nguồn gốc duy nhất của giá trị thặng dư là lao
động của công nhân không được trả công.

23
- Tỷ suất giá trị thặng dư:
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ phần trăm giữa số lượng giá
trị thặng dư (m) và tư bản khả biến (v) cần thiết để sản xuất ra
lượng giá trị thặng dư đó, (ký hiệu m’). m’ được tính bằng công
thức sau:
m
m'  100%
v
Công thức tính tỷ suất giá trị thặng dư còn có dạng:
t'
m'   100%
t
Trong đó: t là thời gian lao động tất yếu
t’ là thời gian lao động thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh chính xác trình độ bóc lột
của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê.
- Khối lượng giá trị thặng dư:
Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị
thặng dư và tổng tư bản khả biến đã được sử dụng.
Nếu ký hiệu M là khối lượng giá trị thặng dư, thì M được
xác định bằng công thức:
m
M V
M = m’.V hoặc v

Trong đó V là tổng tư bản khả biến.


Khối lượng giá trị thặng dư phản ánh quy mô bóc lột của tư
bản đối với lao động. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì khối
lượng giá trị thằng dư càng lớn vì trình độ bóc lột giá trị thặng
dư càng tăng.
b. Phân biệt tư bản bất biến và tư bản khả biến:
- Tư bản bất biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức

24
tư liệu sản xuất (nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nhiên liệu,
nguyên liệu, vật liệu phụ...) mà giá trị của nó được lao động cụ
thể của người công nhân làm thuê bảo tồn và chuyển nguyên vẹn
vào sản phẩm mới, tức là giá trị không thay đổi về lượng trong
quá trình sản xuất, ký hiệu là c.
- Tư bản khả biến là bộ phận tư bản dùng để mua sức lao
động, tuy không tái hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu
tượng của người công nhân làm thuê mà tăng lên, tức là có sự
biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất, ký hiệu là v.
Tư bản bất biến (c) chỉ là điều kiện cần thiết không thể
thiếu để sản xuất ra giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến (v) có
vai trò quyết định trong quá trình đó, mới là nguồn gốc tạo ra giá
trị thặng dư.
c. Căn cứ và ý nghĩa của việc phân chia cặp phạm trù này:
- Nó vạch rõ nguồn gốc duy nhất của giá trị thặng dư là do
sức lao động của công nhân làm thuê biểu hiện dưới hình thức tư
bản khả biến tạo ra. Tư bản bất biến tuy không là nguồn gốc của
giá trị thặng dư, nhưng là điều kiện khách quan cần thiết để sản
xuất và tăng năng suất lao động của công nhân.
- Nó giúp người lao động có cơ sở để phê phán quan điểm
của giai cấp tư sản cho rằng máy móc sinh lời cho nhà tư bản
chứ không phải nhà tư bản bóc lột công nhân làm thuê.

Bài tập 51
a. TRình bày các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư.
b. Sự giống nhau và khác nhau giữa các phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư lag gì?.
c. Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
Gợi ý trả lời:
25
a. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: là phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư bằng cách kéo dài thời gian lao
động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao
động xã hội, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu
không thay đổi.
Thí dụ, ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là
4 giờ, thời gian lao động thặng dư là 4 giờ, mỗi giờ công nhân
tạo ra một giá trị mới là 1 USD thì giá trị thặng dư tuyệt đối là 4
USD và tỷ suất giá trị thặng dư là:
4
m'   100%  100%
4
Nếu kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa, trong khi mọi
điều kiện khác vẫn không đổi, thì tỷ suất giá trị thặng dư sẽ tăng
lên thành:
6
m'   100%  150%
4
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối: là
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư do rút ngắn thời gian lao
động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động xã hội, nhờ
đó tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ
dài ngày lao động, cường độ lao động vẫn như cũ.
Thí dụ, ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là lao động tất
yếu, 4 giờ là lao động thặng dư. Nếu thời gian lao động tất yếu
giảm đi 2 giờ, thì thời gian lao động thặng dư sẽ tăng từ 4 giờ lên
6
m'   100%  300%
6 giờ và 2

Để giảm thời gian lao động tất yếu, tức là giảm giá trị sức
lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần

26
thiết cho người công nhân. Muốn vậy phải tăng năng suất lao
động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt và các
ngành sản xuất tư liệu sản xuất có liên quan.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch: là giá trị thặng dư thu được do
áp dụng công nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác làm cho giá
trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Trong từng xí nghiệp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một
hiện tượng tạm thời, nhưng trong phạm vi xã hội thì nó lại luôn
tồn tại. Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất để
thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao
động cá biệt, đánh bại đối thủ của mình trong cạnh tranh.
b. Sự giống và khác nhau giữa phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tương đối, giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư
siêu ngạch:
- Giống nhau:
+ Đều có mục đích làm cho thời gian lao động thặng dư kéo
dài ra, làm m’ và M tăng lên, tức là đều nâng cao trình độ và quy
mô bóc lột của tư bản đối với lao động làm thuê.
+ Đều được thực hiện dựa trên có sở tăng năng suất lao
động.
- Khác nhau
Phương pháp sản xuất Phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư tuyệt đối giá trị thặng dư tương đối
Kéo dài thời gian lao động Rút ngắn thời gian lao động
vượt quá thời gian lao động tất yếu
tất yếu
Dựa vào tăng cường độ lao Dựa vào tăng năng suất lao
động động
Vấp phải giới hạn về thời Không có giới hạn vì việc áp

27
gian trong ngày và thời gian dụng công nghệ sản xuất mới
để công nhân tái sản xuất sức tạo khả năng tăng năng suất
lao động lao động lên vô hạn

Phương pháp sản xuất Phương pháp sản xuất giá trị
giá trị thặng dư tương đối thặng dư siêu ngạch
Dựa vào tăng năng suất lao Dựa vào tăng năng suất lao
động xã hội động cá biệt

c. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này:


Nghiên cứu nội dung trên, một mặt giúp chúng ta hiểu rõ
hơn bản chất bóc lột của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa; mặt
khác, nếu tạm thời gạt bỏ bản chất ấy, thì có thể thấy rằng các
phương pháp sản xuất giá trị thăng dư, nhất là phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư tương đối và phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư siêu ngạch, có thể vận dụng trong các doanh nghiệp ở
nước ta nhằm kích thích sử dụng kỹ thuật mới, cải tiến tổ chức
quản lý, tiết kiệm chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động xã
hội, tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.

Bài tập 52
a. Phân tích nội dung, vai trò và biểu hiện của quy luật giá
trị thặng dư.
b. Trong điều kiện hiện nay, sản xuất giá trị thặng dư có
những đặc điểm gì?
Gợi ý trả lời:
a. Nội dung, vai trò và biểu hiện của quy luật giá trị thặng
dư:
- Nội dung của quy luật giá trị thặng dư là sản xuất nhiều
28
và ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư cho nhà tư bản bằng
cách tăng cường bóc lột công nhân làm thuê.
Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế cơ bản
phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản
xuất đó. Theo C.Mác quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế
tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Không có
sản xuất giá trị thặng dư thì không có chủ nghĩa tư bản.
Quy luật giá trị thặng dư không những chỉ vạch rõ mục
đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa mà còn vạch rõ phương
tiện, thủ đoạn để đạt mục đích như: tăng cường bóc lột công
nhân làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động, kéo dài ngày
lao động, tăng năng suất lao động và mở rộng sản xuất. Quy luật
giá trị thặng dư là nguồn gốc của mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư
bản: mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, mâu thuẫn giữa giai cấp
tư sản và giai cấp công nhân.
- Vai trò của quy luật giá trị thặng dư:
+ Quyết định mục đích, bản chất, nguyên tắc phân phối cơ
bản và phương hướng phát triển của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa.
+ Chi phối các quy luật kinh tế khác, hướng sự hoạt động
của các quy luật kinh tế này phục vụ cho sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản.
+ Tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội tư bản. Một mặt,
nó thúc đẩy kỹ thuật, phân công lao động xã hội phát triển, làm
cho lực lượng sản xuất, năng suất lao động tăng lên nhanh chóng
và nền sản xuất được xã hội hóa cao. Mặt khác, nó làm cho các
mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản, trước hết là mâu thuẫn
cơ bản - mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với sự
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày

29
càng sâu sắc, quy định xu hướng lịch sử tất yếu phải thay thế chủ
nghĩa tư bản bằng một xã hội mới cao hơn.
- Biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư: Giá trị thặng dư
được biểu hiện thành lợi nhuận và sự vận động của quy luật giá
trị thặng dư được biểu hiện thành quy luật lợi nhuận. Trong giai
đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, sự vận động của quy luật
giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật lợi nhuận bình quân.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, quy luật giá trị
thặng dư được biểu hiện thành quy luật lợi nhuận độc quyền.
b. Những đặc điểm của sản xuất giá trị thặng dư trong điều
kiện hiện nay:
- Do kỹ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi
nên khối lượng giá trị thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng
năng suất lao động. Đặc điểm này cho thấy chi phí lao động sống
trong một đơn vị sản phẩm giảm nhanh, vì máy móc hiện đại
thay thế được nhiều lao động sống hơn.
- Cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện
nay có sự biến đổi lớn. Do áp dụng rộng rãi kỹ thuật và công
nghệ hiện đại nên lao động phức tạp, lao động trí tuệ tăng lên,
giữ vai trò quyết định trong việc sản xuất ra giá trị thặng dư; tỷ
suất, khối lượng giá trị thặng dư ngày càng cao.
- Sự bóc lột của các nước tư bản phát triển trên phạm vi
quốc tế ngày càng được mở rộng dưới nhiều hình thức như: xuất
khẩu tư bản và hàng hóa, trao đổi không ngang giá... Sự cách
biệt giữa những nước giàu và những nước nghèo ngày càng tăng.

Bài tập 53
a. Phân tích bản chất tiền công và các hình thức tiền công
cơ bản.
30
b. Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận tiền công.
Gợi ý trả lời:
a. Bản chất của tiền công và các hình thức tiền công cơ
bản:
- Bản chất của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là hình
thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động, hay là
giá cả của hàng hóa sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bề ngoài
thành giá cả của lao động.
Sự thật thì tiền công không phải là giá cả của lao động, lao
động không phải là hàng hóa. Bởi vì: thứ nhất, nhà tư bản trả
tiền công cho công nhân sau khi công nhân đã lao động để sản
xuất ra hàng hóa; thứ hai, tiền công được trả theo thời gian lao
động (giờ, ngày, tuần, tháng), hoặc theo số lượng hàng hóa đã
sản xuất được.
Cái mà nhà tư bản mua của công nhân không phải là lao
động mà là sức lao động. Tiền công không phải là giá trị hay giá
cả của lao động mà chỉ là giá trị hay giá cả của hàng hóa sức lao
động.
- Các hình thức tiền công cơ bản:
+ Tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền công mà
số lượng của nó ít hay nhiều tùy theo thời gian lao động của
công nhân (giờ, ngày, tuần, tháng) dài hay ngắn.
+ Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công mà
số lượng của nó phụ thuộc vào số lượng sản phẩm mà công nhân
đã làm ra, hoặc số lượng công việc đã hoàn thành trong một thời
gian nhất định.
b. Ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận tiền công:
Trong xã hội tư bản, tiền công thực tế có xu hướng hạ thấp.
Bởi vì, trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tiền công
31
danh nghĩa có xu hướng tăng lên, nhưng mức tăng của nó nhiều
khi không theo kịp mức tăng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ;
đồng thời thất nghiệp là hiện tượng thường xuyên, điều đó khiến
cho nhà tư bản mua sức lao động dưới mức giá trị của nó. Tuy
nhiên, sự hạ thấp của tiền công thực tế chỉ diễn ra như một xu
hướng, vì có những nhân tố chống lại sự hạ thấp của tiền công,
như cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi tăng tiền công,
nhu cầu sức lao động có chất lượng cao buộc nhà tư bản phải
kích thích người lao động bằng lợi ích vật chất…
Đối với nước ta hiện nay, cần phải quan tâm đến tiền công
danh nghĩa và tiền công thực tế của người lao động, nhất là tiền
công thực tế. Thực hiện chính sách tiền công, tiền lương hợp lý
là đòn bẩy thúc đẩy kinh tế phát triển. Từng bước nâng cao năng
suất lao động, đổi mới kỹ thuật, tăng thu nhập cho người lao
động, thực hiện công bằng, tiến bộ xã hội trong phân phối thu
nhập.

Bài tập 54
a. Phân tích thực chất và động cơ của tích lũy tư bản.
b. Nêu các nhân tố quyết định quy mô tích lũy tư bản.
Gợi ý trả lời:
a. Thực chất và động cơ của tích lũy tư bản:
Nét điển hình của chủ nghĩa tư bản là tái sản xuất mở rộng.
Để tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản phải biến một phần giá trị
thặng dư thành tư bản để tăng thêm tư bản ứng trước. Sự chuyển
hóa một phần giá trị thặng dư thành tư bản gọi là tích lũy tư bản.
Như vậy, thực chất của tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một
phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để mở rộng sản
xuất, hay là quá trình tư bản hóa giá trị thặng dư.
32
Động cơ của tích lũy tư bản là quy luật kinh tế cơ bản của
chủ nghĩa tư bản - quy luật giá trị thặng dư. Muốn tăng khối
lượng giá trị thặng dư, muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh
tế thị trường, các nhà tư bản phải mở rộng sản xuất bằng tích lũy
tư bản.
b. Các nhân tố làm tăng quy mô tích lũy tư bản:
- Trình độ bóc lột giá trị thặng dư (m’): Muốn tăng khối
lượng giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tăng thêm máy móc, thiết
bị và công nhân. Nhưng nhà tư bản có thể không tăng thêm công
nhân mà bắt số công nhân hiện có cung cấp thêm một lượng lao
động bằng cách tăng thời gian lao động và cường độ lao động.
Trình độ bóc lột giá trị thặng dư càng tăng thì khối lương giá trị
thặng dư càng tăng, do đó quy mô tích lũy tư bản càng tăng.
- Năng suất lao động: Năng suất lao động tăng lên thì giá cả
tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng giảm. Sự giảm này dẫn đến
lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích lũy cũng có thể
chuyển hóa thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao
động phụ thêm nhiều hơn trước. Năng suất lao động càng tăng
lên sẽ càng làm cho giá trị tư bản cũ tái hiện dưới hình thái hữu
dụng mới càng nhanh.
- Sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng:
Máy móc, thiết bị càng hiện đại, sự chênh lệch giữa tư bản sử
dụng và tư bản tiêu dùng càng lớn, thì sự phục vụ không công
của tư liệu lao động càng lớn, tư bản lợi dụng được những thành
tựu của lao động quá khứ càng nhiều, nhờ vậy quy mô tích lũy tư
bản càng lớn.
- Quy mô của tư bản ứng trước: Với trình độ bóc lột không
thay đổi thì khối lượng giá trị thặng dư do khối lượng tư bản khả
biến quyết định. Do đó, quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ

33
phận của tư bản khả biến càng lớn thì khối lượng giá trị thặng dư
càng lớn, tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích lũy tư bản.

Bài tập 55
a. Tích tụ tư bản, tập trung tư bản là gì ? Nêu mối quan hệ
giữa chúng.
b. Vai trò của tích tụ và tập trung tư bản đối với sự phát
triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa được thể hiện như thế
nào?.
c. Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
Gợi ý trả lời:
a. Tích tụ tư bản, tập trung tư bản và mối quan hệ giữa
chúng:
- Khái niệm tích tụ tư bản và tập trung tư bản
+ Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô tư bản cá biệt
bằng cách tư bản hóa một phần giá trị thặng dư trong một xí
nghiệp nào đó, nó là kết quả trực tiếp của tích lũy tư bản. Thực
chất của tích tụ tư bản là quá trình tích lũy tư bản.
+ Tập trung tư bản là sự tăng quy mô tư bản cá biệt bằng
cách hợp nhất một số tư bản nhỏ thành một tư bản lớn hơn. Tập
trung tư bản diễn ra bằng hai phương pháp tự nguyện và cưỡng
bức.
- Quan hệ giữa tích tụ tư bản và tập trung tư bản:
+ Giống nhau:
Cả tích tụ tư bản và tập trung tư bản đều làm tăng quy mô
tư bản cá biệt; tăng cường sự bóc lột của tư bản đối với lao động
làm thuê; tăng cường sự thống trị của giai cấp tư sản đối với giai
cấp vô sản.

34
+ Khác nhau:
Tích tụ tư bản không chỉ làm tăng quy mô tư bản cá biệt
mà còn làm tăng quy mô tư bản xã hội. Tích tụ tư bản có giới
hạn hẹp, phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Tích tụ tư
bản phản ánh mối quan hệ trực tiếp giữa giai cấp công nhân và
giai cấp tư sản.
Tập trung tư bản chỉ làm tăng quy mô tư bản cá biệt mà
không làm tăng quy mô tư bản xã hội. Tập trung tư bản có giới
hạn rất rộng. Tập trung tư bản phản ánh mối quan hệ trực tiếp
giữa các nhà tư bản với nhau.
b. Vai trò của tích tụ và tập trung tư bản đối với sự phát
triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa:
- Quá trình tích tụ và tập trung tư bản làm tăng quy mô tư
bản cá biệt, làm cho nhà tư bản có thêm điều kiện mở rộng sản
xuất, tăng năng suất lao động.
- Thúc đẩy gia tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản. Quá trình
gia tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản tất yếu thúc đẩy quá trình
hình thành nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa.
- Giúp nền sản xuất sớm có được những doanh nghiệp lớn,
sử dụng công nghệ hiện đại…
c. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này:
- Giúp thấy rõ nguyên nhân trực tiếp gây ra nạn thất nghiệp
trong chủ nghĩa tư bản. Chính cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ đã làm cho nhu cầu về sức lao động giảm một cách tương
đối. Nạn thất nghiệp đã dẫn giai cấp công nhân đến tình trạng
bần cùng hóa dưới hai dạng: bần cùng hóa tuyệt đối và bần cùng
hóa tương đối.
- Đối với nước ta, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; đô thị hóa cũng sẽ làm cho cấu tạo hữu cơ thay đổi theo
35
hướng tăng c giảm v dẫn đến tình trạng thất nghiệp ngày càng
gia tăng. Giải quyết việc làm, tăng thu nhập, ổn định và nâng cao
đời sống của người lao động đang là vấn đề cấp bách đòi hỏi
chính phủ phải quan tâm giải quyết. Vì vậy, khi nghiên cứu vấn
đề này chúng ta có thể rút ra được bài học cần thiết trong quá
trình giải quyết việc làm, chống thất nghiệp hiện nay.

Bài tập 56
a. Thế nào là tuần hoàn và chu chuyển của tư bản?
b. Trình bày những biện pháp làm tăng tốc độ chu chuyển
tư bản.
c. Phân tích căn cứ và ý nghĩa của việc phân chia tư bản
cố định, tư bản lưu động.
Gợi ý trả lời:
a. Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản:
- Tuần hoàn của tư bản:
Mọi tư bản sản xuất trong quá trình tuần hoàn đều vận
động theo công thức:

SLĐ
T-H ... SX ... H’ - T’

Sự vận động nàyTLSXtrải qua ba giai đoạn (hai giai đoạn lưu
thông và một giai đoạn sản xuất), tồn tại dưới ba hình thức và
thực hiện ba chức năng.
+ Giai đoạn thứ nhất:
Tư bản hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, tồn tại dưới
hình thái tư bản tiền tệ, thực hiện chức năng mua các yếu tố sản
xuất (tư liệu sản xuất và sức lao động).
Quá trình lưu thông được biểu thị như sau:
36
SLĐ
T–H
TLSX
Kết thúc giai đoạn này tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản
xuất.
+ Giai đoạn thứ hai:
Tư bản hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, tồn tại dưới hình
thái tư bản sản xuất, có chức năng kết hợp hai yếu tố tư liệu sản
xuất và sức lao động để sản xuất ra giá trị hàng hóa trong đó có
giá trị thặng dư. Đây là giai đoạn có ý nghĩa quyết định nhất, vì
nó gắn trực tiếp với mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Sự vận động của tư bản ở giai đoạn này biểu thị như sau:

SLĐ
H ... SX ... H’
TLSX

Kết thúc giai đoạn này, tư bản sản xuất chuyển hóa thành
tư bản hàng hóa.
+ Giai đoạn thứ ba:
Tư bản quay lại hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, tồn tại
dưới hình thái tư bản hàng hóa, có chức năng là thực hiện giá trị
hàng hóa, trong đó có giá trị thặng dư.
Sự vận động của tư bản ở giai đoạn này biểu thị như sau:
H’ - T’
Kết thúc giai đoạn này, tư bản hàng hóa chuyển hóa thành
tư bản tiền tệ. Đến đây mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa
đã được thực hiện, tư bản quay trở lại hình thái ban đầu nhưng
với số lượng lớn hơn trước. Quá trình đó tiếp tục được lặp đi, lặp
lại không ngừng gọi là sự vận động tuần hoàn của tư bản.
37
Vậy, tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục của tư
bản trải qua ba giai đoạn, lần lượt mang ba hình thái khác nhau,
thực hiện ba chức năng khác nhau để rồi lại quay trở về hình thái
ban đầu có kèm theo giá trị thặng dư.
- Chu chuyển của tư bản:
Chu chuyển tư bản là sự tuần hoàn của tư bản, nếu xét nó là
một quá trình định kỳ đổi mới và lặp đi, lặp lại không ngừng.
Những tư bản khác nhau chu chuyển với vận tốc khác nhau
tùy theo thời gian chu chuyển của tư bản. Thời gian chu chuyển
của tư bản là thời gian tính từ khi tư bản ứng ra dưới một hình
thái nhất định cho đến khi thu về dưới hình thái đó có kèm theo
giá trị thặng dư (thời gian tư bản thực hiện được một vòng tuần
hoàn). Thời gian chu chuyển của tư bản bao gồm thời gian sản
xuất và thời gian lưu thông.
b. Những biện pháp làm tăng tốc độ chu chuyển của tư bản:
Tốc độ chu chuyển tư bản là số vòng (lần) chu chuyển của
tư bản trong một năm. Để làm tăng tốc độ chu chuyển tư bản,
các nhà tư bản đã thực hiện các biện pháp sau:
- Nâng cao năng suất lao động để rút ngắn thời gian lao
động;
- Hoàn thiện các vật sản xuất để rút ngắn thời gian gián
đoạn lao động;
- Giảm trữ lượng sản xuất để rút ngắn thời gian dự trữ;
- Khấu hao nhanh tư bản cố định để rút ngắn thời gian chu
chuyển chung và chu chuyển thực tế của tư bản.
- Hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng để rút ngắn thời gian
lưu thông;
- Hoàn thiện các yếu tố liên quan đến thị trường để mua
bán hàng hóa nhanh hơn…
38
c. Căn cứ và ý nghĩa của việc phân chia tư bản cố định, tư
bản lưu động:
- Tư bản cố định (KCĐ) là một bộ phận của tư bản sản xuất
đồng thời là bộ phận chủ yếu của tư bản bất biến (máy móc, thiết
bị, nhà xưởng...), tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng
giá trị của nó không chuyển hết một lần mà chuyển dần từng
phần vào sản phẩm mới theo mức độ hao mòn của nó trong quá
trình sản xuất.
- Tư bản lưu động (KLĐ) là một bộ phận của tư bản sản
xuất, gồm một phần tư bản bất biến (nguyên liệu, nhiên liệu, vật
liệu phụ...) và tư bản khả biến (sức lao động) được tiêu dùng
hoàn toàn trong một chu kỳ sản xuất và giá trị của nó được
chuyển toàn bộ vào sản phẩm mới trong quá trình sản xuất.
- Căn cứ và ý nghĩa của việc phân chia cặp phạm trù:
+ Căn cứ: việc phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư
bản lưu động, căn cứ vào phương thức chuyển dịch giá trị khác
nhau của từng bộ phận tư bản vào sản phẩm mới trong quá trình
sản xuất.
+ Ý nghĩa: sự phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư
bản lưu động tuy không phản ánh được nguồn gốc sinh ra giá trị
thặng dư, nhưng lại có ý nghĩa quan trọng trong quản lý kinh tế.
Việc sử dụng tiền vốn trong sản xuất kinh doanh phải hợp lý
nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. Tận dụng tối đa công nghệ máy
móc, thiết bị để tránh hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình, tiết
kiệm nguyên vật liệu, nhiên liệu… là khoa học và nghệ thuật
quản lý kinh tế, đồng thời là đòi hỏi bức xúc ở nước ta hiện nay.

Bài tập 57
a. Thế nào là tái sản xuất tư bản xã hội?
39
b. Điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong tái sản xuất
giản đơn và tái sản xuất mở rộng là gì?
Gợi ý trả lời:
a. Tái sản xuất tư bản xã hội:
- Tái sản xuất tư bản xã hội là sự lặp lại không ngừng của
tái sản xuất tư bản chủ nghĩa trên phạm vi toàn xã hội, là tái sản
xuất của tất cả các tư bản cá biệt trong mối quan hệ phụ thuộc
lẫn nhau, đan xen vào nhau.
- Theo quan điểm của C.Mác, toàn bộ nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa được phân chia thành hai khu vực lớn:
+ Khu vực I: sản xuất tư liệu sản xuất;
+ Khu vực II: sản xuất tư liệu tiêu dùng.
Tỷ lệ thực hiện sản phẩm giữa hai khu vực là một trong
những tỷ lệ cơ bản của nền kinh tế quốc dân.
b. Điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong tái sản xuất
giản đơn và tái sản xuất mở rộng
- Điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong tái sản xuất
giản đơn:
+ Toàn bộ giá trị mới do lao động sáng tạo ra trong khu vực
I phải bằng giá trị tư bản bất biến đã hao phí ở khu vực II.
I (v + m) = IIc
Đây là điều kiện cơ bản nhất để thực hiện tái sản xuất giản
đơn tư bản xã hội, nó nói lên mối quan hệ giữa hai khu vực trong
tái sản xuất giản đơn.
+ Toàn bộ giá trị sản phẩm của khu vực I phải bằng giá trị
tư bản bất biến đã hao phí của cả hai khu vực.
I (c + v + m) = Ic + IIc
Đây là điều kiện nói lên vai trò của khu vực I trong tái sản

40
xuất giản đơn.
+ Toàn bộ giá trị sản phẩm của khu vực II sẽ bằng giá trị
mới do lao động sáng tạo ra ở cả hai khu vực.
I (v + m) + II (v + m) = II (c + v + m)
Đây là điều kiện nói lên vai trò của khu vực II trong tái sản
xuất giản đơn.
- Điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong tái sản xuất
mở rộng:
+ Toàn bộ giá trị mới ở khu vực I phải lớn hơn giá trị tư
bản bất biến ở khu vực II.
I (v + m) > II c
Điều kiện thực hiện trong trao đổi:

I (v + v + m2) = II (c + c1)
Điều kiện này nói lên mối quan hệ giữa hai khu vực trong
tái sản xuất mở rộng.
+ Toàn bộ giá trị sản phẩm của khu vực I phải lớn hơn giá
trị tư bản bất biến ở cả hai khu vực.
I (c + v + m) > Ic + IIc
Điều kiện thực hiện trong trao đổi:
I (c + v + m) = I (c + c ) + II (c +c)
Điều kiện này nói lên vai trò của khu vực I trong tái sản
xuất mở rộng.
+ Toàn bộ giá trị mới ở cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị
sản phẩm của khu vực II.
I (v + m) + II (v + m) > II (c + v + m)
Điều kiện thực hiện trong trao đổi:
I (v + m) + II (v + m) = II (c + v + m) + (I + II) c

41
Điều kiện này nói lên vai trò của giá trị mới trong tái sản
xuất mở rộng.
Như vậy, việc thực hiện tái sản xuất mở rộng đòi hỏi những
tỷ lệ cân đối giữa hai khu vực. Dưới chủ nghĩa tư bản, những tỷ
lệ đó hình thành một cách tự phát và thường xuyên bị phá vỡ,
nên có thể xảy ra sự mất cân đối giữa các khu vực của nền kinh
tế. Nếu sự mất cân đối này không được điều chỉnh để kiến lập sự
cân đối mới thì tất yếu sẽ dẫn đến hiện tượng khủng hoảng kinh
tế.

Bài tập 58
a. Lợi nhuận là gì ? Nêu mối quan hệ giữa lợi nhuận với
giá trị thặng dư.
b. Tỷ suất lợi nhuận là gì ? Nêu mối quan hệ giữa tỷ suất
lợi nhuận với tỷ suất giá trị thặng dư.
Gợi ý trả lời:
a. Lợi nhuận và quan hệ giữa lợi nhuận với giá trị thặng dư:
- Lợi nhuận:
Lợi nhuận (kí hiệu là p) là giá trị thặng dư khi được quan
niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước, là kết quả hoạt
động của toàn bộ tư bản đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Công thức tính lợi nhuận: p = W - k
Lúc này, công thức W = k + m chuyển thành W = k + p.
- Quan hệ giữa lợi nhuận với giá trị thặng dư:
+ Giống nhau: cả lợi nhuận (p) và giá trị thặng dư (m) đều
có chung là một nguồn gốc là kết quả lao động không được trả
công của công nhân.
+ Khác nhau: phạm trù giá trị thặng dư phản ánh đúng

42
nguồn gốc và bản chất của nó là kết quả của sự chiếm đoạt lao
động không công của công nhân. Ngoài ra, phạm trù lợi nhuận là
hình thức biến tướng của giá trị thặng dư, nó phản ánh sai lệch
bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
b. Tỷ suất lợi nhuận và quan hệ giữa tỷ suất lợi nhuận với
tỷ suất giá trị thặng dư:
- Tỷ suất lợi nhuận:
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số giá trị
thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước, thường được tính trong
một năm, ký hiệu p’.
m
p'   100%
cv
Trong thực tế, nhà tư bản thường tính p’ hằng năm bằng tỷ
lệ phần trăm giữa tổng số lợi nhuận thu được và tổng tư bản ứng
trước.
p
p'   100%
k
- Quan hệ giữa tỷ suất lợi nhuận và tỷ suất giá trị thặng dư:
+ Tỷ suất lợi nhuận phụ thuộc vào tỷ suất giá trị thặng dư.
Nếu m’ tăng thì p’ cũng tăng và ngược lại, nếu m’ giảm thì p’
giảm.
+ Tỷ suất lợi nhuận (p’) khác tỷ suất giá trị thặng dư (m’)
cả về lượng và chất.
Về lượng, tỷ suất lợi nhuận (p’) luôn nhỏ hơn tỷ suất giá trị
thặng dư (m’).
m m
p'   100% m'   100%
p’ < m’; (vì cv còn v )
Về chất, m’ phản ánh đúng mức độ bóc lột của nhà tư bản
đối với lao động. Còn p’ chỉ nói lên mức doanh lợi của việc đầu
43
tư tư bản; nó chỉ cho các nhà tư bản thấy đầu tư vào đâu thì có
lợi hơn (ngành có p’ lớn hơn). Do đó p’ là mục tiêu cạnh tranh,
là động lực thúc đẩy sự hoạt động của các nhà tư bản.

Bài tập 59
a. Trình bày sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và
giá cả sản xuất.
b. Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
Gợi ý trả lời:
a. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá cả sản
xuất:
- Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân:
Vì mục đích lợi nhuận, các nhà tư bản cạnh tranh quyết liệt
với nhau. Có hai loại cạnh tranh là cạnh tranh trong nội bộ ngành
và cạnh tranh giữa các ngành.
+ Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các xí
nghiệp trong cùng một ngành, sản xuất cùng một loại hàng hóa,
nhằm mục đích giành giật ưu thế trong sản xuất và trong tiêu thụ
hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Kết quả của loại
cạnh tranh này dẫn đến hình thành giá trị thị trường của hàng
hóa, điều kiện sản xuất trung bình của một ngành thay đổi, chất
lượng hàng hóa được nâng cao, chủng loại hàng hóa phong
phú…
+ Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các xí
nghiệp tư bản kinh doanh trong các ngành sản xuất khác nhau,
nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Kết quả là các tỷ suất
lợi nhuận cá biệt chuyển hóa thành tỷ suất lợi nhuận bình quân,
lợi nhuận cá biệt chuyển hóa thành lợi nhuận bình quân và giá trị
hàng hóa chuyển hóa thành giá cả sản xuất.
44
Tỷ suất lợi nhuận bình quân là “con số trung bình” của tất
cả các tỷ suất lợi nhuận khác nhau; hay tỷ suất lợi nhuận bình
quân là tỷ số theo phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư và tổng tư
bản xã hội.
Lợi nhuận bình quân là số lợi nhuận bằng nhau của những
tư bản bằng nhau, đầu tư vào những ngành khác nhau. Nó chính
là lợi nhuận mà các nhà tư bản thu được căn cứ vào tổng tư bản
đầu tư nhân với tỷ suất lợi nhuận bình quân, bất kể cấu tạo hữu
cơ của tư bản như thế nào.
- Sự hình thành giá cả sản xuất:
Giá cả sản xuất là giá cả bằng chi phí sản xuất tư bản chủ
nghĩa cộng với lợi nhuận bình quân.
Giá cả sản xuất  k  p . Giá trị là cơ sở của giá cả sản xuất.
Giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường. Giá cả thị trường
xoay quanh giá cả sản xuất.
Khi giá trị hàng hóa chuyển hóa thành giá cả sản xuất thì
quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất.
b. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này:
Nghiên cứu sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và
giá cả sản xuất có ý nghĩa rất quan trọng cả về mặt lý luận và
thực tiễn.
- Trước hết, lý luận này là sự tiếp tục phát triển lý luận giá
trị và giá trị thặng dư của C.Mác theo tiến trình đi từ trừu tượng
đến cụ thể, thấy được quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản
trong việc giành giật lợi nhuận với nhau.
- Lý luận này cho thấy toàn thể giai cấp tư sản đã bóc lột
toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê. Vì vậy, muốn giành thắng
lợi, giai cấp công nhân phải đoàn kết lại đấu tranh với tư cách là
một giai cấp, kết hợp đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị.
45
Bài tập 60
a. Phân tích sự hình thành tư bản thương nghiệp và lợi
nhuận thương nghiệp
b. Phân tích sự hình thành tư bản cho vay và lợi tức cho
vay.
Gợi ý trả lời:
a. Tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp:
- Tư bản thương nghiệp: là một bộ phận của tư bản công
nghiệp được tách ra chuyên thực hiện chức năng lưu thông hàng
hóa, phục vụ cho sự vận động của tư bản công nghiệp. Công
thức vận động của tư bản thương nghiệp là: T - H - T’.
- Tư bản thương nghiệp xuất hiện có vai trò và lợi ích to
lớn:
+ Nhờ có tư bản thương nghiệp chuyên trách việc mua -
bán hàng hóa mà lượng tư bản ứng vào lưu thông và chi phí lưu
thông nhỏ hơn khi những người sản xuất trực tiếp đảm nhận
chức năng này.
+ Nhờ có tư bản thương nghiệp chuyên trách việc mua -
bán hàng hóa, người sản xuất có thể tập trung chăm lo việc sản
xuất, giảm dự trữ sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng giá trị
thặng dư.
+ Nhờ có tư bản thương nghiệp chuyên trách việc mua -
bán hàng hóa, sẽ rút ngắn thời gian lưu thông, tăng nhanh chu
chuyển tư bản, từ đó tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư
hằng năm.
- Lợi nhuận thương nghiệp: là một phần của giá trị thặng
dư, được tạo ra trong quá trình sản xuất mà nhà tư bản công
nghiệp phải nhường cho nhà tư bản thương nghiệp để tư bản
46
thương nghiệp bán hàng hóa cho mình (ký hiệu là p).
Lợi nhuận thương nghiệp là hình thức biến tướng của giá
trị thặng dư. Nguồn gốc của nó cũng là một bộ phận lao động
không được trả công của công nhân.
Tư bản công nghiệp nhường một phần giá trị thặng dư cho
tư bản thương nghiệp bằng cách bán hàng hóa thấp hơn giá trị
thực tế của nó, sau đó tư bản thương nghiệp bán đúng giá trị thu
về lợi nhuận thương nghiệp.
b. Tư bản cho vay và lợi tức cho vay:
- Tư bản cho vay: là tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi mà
người chủ sở hữu của nó cho nhà tư bản khác sử dụng trong một
thời gian nhất định để nhận được một khoản tiền lời nào đó (gọi
là lợi tức).
Công thức vận động của tư bản cho vay là: T - T’.
Tư bản cho vay có đặc điểm:
+ Quyền sở hữu tư bản tách rời quyền sử dụng tư bản. Đối
với người cho vay nó là tư bản sở hữu, đối với người đi vay nó là
tư bản sử dụng.
+ Tư bản cho vay là một hàng hóa đặc biệt, vì khi cho vay
người bán chỉ bán quyền sử dụng; lợi tức chính là giá cả của
hàng hóa tư bản cho vay.
+ Tư bản cho vay là tư bản được sùng bái nhất, nó gây ấn
tượng hình như tiền đã đẻ ra tiền.
b. Lợi tức và tỷ suất lợi tức cho vay: là một phần của lợi
nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay trả cho nhà tư bản cho vay
về quyền sở hữu để được quyền sử dụng tư bản trong một thời

gian nhất định, ký hiệu là Z CV . Lợi tức cho vay, thực chất là một
phần của giá trị thặng dư được tạo ra trong sản xuất.

47
Giới hạn của lợi tức cho vay ở trong khoảng: 0 < Z < P .
Người cho vay và người đi vay thỏa thuận với nhau về tỷ
suất lợi tức.
Tỷ suất lợi tức cho vay là tỷ lệ tính theo phần trăm giữa

tổng số lợi tức ( Z CV ) và số tư bản tiền tệ cho vay ( K CV ) trong

một thời gian nhất định, ký hiệu Z 'CV .


Z CV
Z '  100%
K CV .

Trong đó K CV là số tư bản cho vay.


Giới hạn của tỷ suất lợi tức cho vay nằm trong khoảng:

0 < Z 'CV < P’.


Tỷ suất lợi tức cho vay cao hay thấp phụ thuộc vào tỷ suất
lợi nhuận bình quân, tỷ lệ phân chia lợi nhuận bình quân thành
lợi tức cho vay và lợi nhuận của nhà tư bản hoạt động, tình hình
cung - cầu về tư bản cho vay trên thị trường và sự hoàn thiện của
các tổ chức tín dụng.

Bài tập 61
a. Phân tích sự hình thành công ty cổ phần và thị trường
chứng khoán.
b. Nêu ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề này ở
nước ta.
Gợi ý trả lời:
a. Sự hình thành công ty cổ phần và thị trường chứng
khoán:
- Sự hình thành công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là loại hình xí nghiệp lớn mà vốn của nó
48
hình thành từ việc liên kết nhiều tư bản cá biệt và các nguồn tiết
kiệm cá nhân thông qua việc phát hành cổ phiếu.
Cổ phiếu là loại chứng khoán có giá, bảo đảm cho người sở
hữu nó được quyền nhận một phần thu nhập của công ty dưới
hình thức lợi tức cổ phiếu (hay cổ tức). Lợi tức cổ phiếu không
cố định mà phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty. Về nguyên tắc, công ty cổ phần không hoàn lại vốn
cho chủ cổ phiếu; cổ phiếu bị mất giá trị khi công ty bị phá sản.
Cổ phiếu có nhiều loại: cổ phiếu thường; cổ phiếu ưu đãi; cổ
phiếu ghi danh; cổ phiếu không ghi danh.
Cổ phiếu được mua bán trên thị trường theo giá cả gọi là
thị giá cổ phiếu.
Z CP

Thị giá cổ phiếu Z 'CV

Thị giá cổ phiếu luôn biến động, một phần do sự biến động
của tỷ suất lợi tức ngân hàng, một phần vì những đánh giá về
tình trạng hoạt động của công ty cổ phần, về lợi tức cổ phiếu dự
đoán sẽ thu được.
Người mua cổ phiếu gọi là cổ đông. Về mặt tổ chức và
quản lý, đại hội cổ đông có quyền bầu ra hội đồng quản trị và
thông qua các quyết định hoạt động của công ty. Nhưng phiếu
biểu quyết trong đại hội cổ đông do số lượng cổ phiếu quy định,
vì vậy những nhà tư bản nắm được số cổ phiếu khống chế sẽ có
khả năng thao túng mọi hoạt động của công ty.
Ngoài cổ phiếu, khi cần vốn cho hoạt động kinh doanh,
công ty cổ phần còn phát hành trái phiếu.
Khác với cổ phiếu, trái phiếu cho người sở hữu nó có
quyền được nhận một khoản lợi tức cố định và được hoàn trả lại
vốn sau thời hạn ghi trên trái phiếu.
49
Người mua trái phiếu không được tham gia đại hội cổ
đông.
- Thị trường chứng khoán:
Thị trường chứng khoán là trị trường mua bán các loại
chứng khoán. Chứng khoán là các loại giấy tờ có giá như cổ
phiếu, trái phiếu, công trái, tín phiếu, văn tự cầm cố…
Thị trường chứng khoán được phân thành hai cấp độ: thị
trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là thị
trường mua bán các chứng khoán trong lần phát hành đầu tiên.
Thị trường thứ cấp là thị trường mua đi bán lại các chứng khoán
và thường được thực hiện thông qua các sở giao dịch chứng
khoán.
Thị trường chứng khoán là loại thị trường phản ứng rất
nhạy bén đối với các biến động về kinh tế, chính trị, quân sự...,
là “phong vũ biểu” của nền kinh tế. Giá cả chứng khoán tăng,
biểu hiện nền kinh tế đang phát triển, ngược lại là biểu hiện nền
kinh tế đang sa sút, khủng hoảng. Vì vậy, trong nền kinh tế thị
trường, người ta luôn theo dõi sự biến động của thị trường này
bằng chỉ số chứng khoán.
b. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề này ở nước
ta:
Đối với nước ta hiện nay, việc nghiên cứu công ty cổ phần
và thị trường chứng khoán có ý nghĩa thực tiễn rất sâu sắc trong
việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, bởi vì:
- Nó huy động vốn có hiệu quả và giải quyết tốt mối quan
hệ vấn đề quyền sở hữu với quyền sử dụng nhằm ổn định giá cả,
chống lạm phát và thực hiện tốt việc lưu thông tiền tệ ở nước ta
hiện nay.

50
- Nó tích tụ và tập trung được các nguồn vốn nhàn rỗi trong
mọi tầng lớp dân cư, trong các thành phần kinh tế và thu hút
được vốn đầu tư ở nước ngoài để phát triển sản xuất kinh doanh.
- Kết hợp một cách chặt chẽ và hài hòa các lợi ích kinh tế.
Phát huy được sức mạnh của các hình thức sở hữu, các thành
phần kinh tế khác nhau.
Với ý nghĩa đó, Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định
cần phải thực hiện các biện pháp đồng bộ để phát triển nhanh thị
trường chứng khoán thành một kênh huy động vốn quan trọng
trong nền kinh tế.

Bài tập 62
a. Trình bày bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa và các
hình thức địa tô.
b. Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận địa tô.
Gợi ý trả lời:
a. Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa và các hình thức địa
tô:
- Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa: là một bộ phận lợi
nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân của tư bản đầu tư
trong nông nghiệp do công nhân nông nghiệp tạo ra mà nhà tư
bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp cho địa chủ để được quyền
sử dụng đất trong một thời gian.
Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa phản ánh quan hệ bóc
lột gián tiếp của địa chủ đối với công nhân nông nghiệp.
- Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa:
+ Địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi
nhuận bình quân thu được trên ruộng đất có điều kiện sản xuất
thuận lợi hơn. Nó là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung
51
được quy định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và
giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bình (ký hiệu
RCL ).

Địa tô chênh lệch có hai loại: địa tô chênh lệch I và địa tô


chênh lệch II.
• Địa tô chênh lệch I là loại địa tô thu được trên những
ruộng đất có điều kiện tự nhiên thuận lợi. Chẳng hạn, có độ màu
mỡ tự nhiên thuận lợi (trung bình hoặc tốt) và có vị trí địa lý gần
nơi tiêu thụ hay gần đường giao thông.
• Địa tô chênh lệch II là loại địa tô thu được gắn liền với
thâm canh tăng năng suất, là kết quả của tư bản đầu tư thêm trên
cùng một đơn vị diện tích.
+ Địa tô tuyệt đối là loại địa tô mà tất cả các nhà tư bản
kinh doanh nông nghiệp đều phải nộp cho địa chủ, cho dù ruộng
đất đó tốt hay xấu, ở xa hay gần. Cơ sở của địa tô tuyệt đối là do
cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong công
nghiệp.
+ Địa tô độc quyền là hình thức đặc biệt của địa tô tư bản
chủ nghĩa. Địa tô độc quyền có thể tồn tại trong nông nghiệp,
công nghiệp khai thác và ở các khu đất trong thành thị. Nguồn
gốc của địa tô độc quyền cũng là lợi nhuận siêu ngạch mà nhà tư
bản phải nộp cho địa chủ.
- Giá cả ruộng đất: ruộng đất trong xã hội tư bản không chỉ
cho thuê mà còn được bán. Giá cả ruộng đất là hình thức địa tô
tư bản hóa. Bởi ruộng đất đem lại địa tô, tức là đem lại một thu
nhập ổn định bằng tiền nên nó được xem như một loại tư bản đặc
biệt. Còn địa tô chính là lợi tức của tư bản đó. Do vậy, giá cả
ruộng đất chỉ là giá mua quyền thu địa tô do ruộng đất mang lại
theo tỷ suất lợi tức hiện hành. Nó tỷ lệ thuận với địa tô và tỷ lệ
52
nghịch với tỷ suất lợi tức tư bản gửi vào ngân hàng.
R

Giá cả ruộng đất Z ' NH

b. Ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận địa tô:


- Vạch rõ bản chất quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong
nông nghiệp, mà còn là cơ sở khoa học để nhà nước xây dựng
luật đất đai, các chính sách giá cả nông sản, thuế đối với nông
nghiệp và các ngành khác có liên quan đến đất đai, làm cho việc
sử dụng đất có hiệu quả hơn.
- Đây cũng là cơ sở để xác định rõ chủ sở hữu và chủ sử
dụng đất, để nhà nước giao quyền sử dụng đất cho nông dân và
các tổ chức kinh tế, xã hội; tạo điều kiện hình thành cơ chế
chuyển quyền sử dụng đất giữa các chủ thể kinh tế...
- Để việc sử dụng đất có hiệu quả, nhà nước cần có quy
hoạch tổng thể, ổn định; trên cơ sở đó định hướng sử dụng đất
cho các ngành, địa phương; tạo điều kiện cho các chủ đầu tư và
bảo đảm quyền sử dụng đất cũng như lợi ích lâu dài cho người
nông dân và các chủ thể kinh tế khác.

53
Chương VI
HỌC THUYẾT VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN
VÀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC

Bài tập 63
a. Trình bày nguyên nhân hình thành và bản chất của chủ
nghĩa tư bản độc quyền.
b. Nêu những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư
bản độc quyền.
Gợi ý trả lời:
a. Nguyên nhân hình thành và bản chất của chủ nghĩa tư
bản độc quyền:
- Nguyên nhân hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền:
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX trong đời sống kinh tế,
chính trị của các nước tư bản chủ nghĩa xuất hiện quá trình
chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa
tư bản độc quyền. Sự xuất hiện này do những nguyên nhân chủ
yếu sau:
+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của
tiến bộ khoa học - kỹ thuật đã đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập
trung sản xuất, hình thành các xí nghiệp có quy mô lớn; từ đó đòi
hỏi phải có những hình thức tổ chức kinh tế mới.
+ Sự tác động của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản
như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích lũy… ngày càng
mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội theo hướng tập
trung sản xuất quy mô lớn.
+ Sự cạnh tranh tự do, một mặt, buộc các nhà tư bản phải
tích cực cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô tích lũy để thắng thế trong
cạnh tranh. Mặt khác, dẫn đến nhiều doanh nghiệp nhỏ, kỹ thuật
54
thấp kém, hoặc bị các đối thủ mạnh hơn thôn tính, hoặc phải liên
kết với nhau để đứng vững trong cạnh tranh. Vì vậy, xuất hiện
một số xí nghiệp tư bản lớn nắm địa vị thống trị một ngành hay
một số ngành công nghiệp.
+ Sự khủng hoảng kinh tế làm cho nhiều xí nghiệp nhỏ và
vừa bị phá sản; một số tồn tại phải đổi mới kỹ thuật để thoát khỏi
khủng hoảng, do đó thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất.
+ Những xí nghiệp lớn có tiềm lực kinh tế mạnh tiếp tục
cạnh tranh với nhau ngày càng khốc liệt, khó phân thắng bại, vì
thế nảy sinh xu hướng thỏa hiệp, từ đó hình thành các tổ chức
độc quyền.
+ Sự phát triển của tín dụng tư bản chủ nghĩa mở rộng, trở
thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc
hình thành các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các
tổ chức độc quyền.
- Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền:
Chủ nghĩa tư bản độc quyền là chủ nghĩa tư bản trong đó ở
hầu hết các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế tồn tại các tổ
chức tư bản độc quyền và chúng chi phối sự phát triển của toàn
bộ nền kinh tế. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền vẫn
không làm thay đổi được bản chất của chủ nghĩa tư bản. Bản
thân quy luật lợi nhuận độc quyền cũng chỉ là hình thức biến
tướng của quy luật giá trị thặng dư.
b. Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc
quyền:
- Sự tập trung sản xuất và sự thống trị của các tổ chức độc
quyền. Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các
tổ chức độc quyền. Nhờ nắm được địa vị thống trị trong lĩnh vực
sản xuất và lưu thông, các tổ chức độc quyền có khả năng định ra

55
giá cả độc quyền. Khi bán, họ định ra giá cả độc quyền cao; khi
mua, họ định ra giá cả độc quyền thấp, qua đó họ thu được lợi
nhuận độc quyền.
- Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính. Tích tụ, tập
trung tư bản trong ngân hàng dẫn đến sự hình thành các tổ chức
độc quyền trong ngân hàng. Các tổ chức độc quyền này có quyền
lực vạn năng chi phối mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Các tổ
chức độc quyền ngân hàng cho các tổ chức độc quyền công
nghiệp vay và nhận gửi những số tiền lớn của các tổ chức độc
quyền công nghiệp trong một thời gian dài, nên lợi ích của chúng
xoắn xuýt với nhau, hai bên tìm cách thâm nhập vào nhau. Từ
đó, hình thành một loại tư bản mới gọi là tư bản tài chính.
- Xuất khẩu tư bản. Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra
nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm mục đích chiếm
đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi khác ở nước nhập khẩu tư
bản. Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai hình thức chủ
yếu: xuất khẩu tư bản trực tiếp và xuất khẩu tư bản gián tiếp.
Xuất khẩu tư bản trực tiếp là đưa tư bản ra nước ngoài để trực
tiếp kinh doanh thu lợi nhuận cao. Xuất khẩu tư bản gián tiếp là
cho vay để thu lợi tức.
- Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc
quyền. Việc xuất khẩu tư bản tăng lên về quy mô và mở rộng
phạm vi, tất yếu dẫn đến việc phân chia thế giới về mặt kinh tế,
nghĩa là phân chia lĩnh vực đầu tư tư bản, phân chia thị trường
thế giới giữa các tổ chức độc quyền. Nó được thực hiện thông
qua ký kết các hiệp định để phân chia thị trường, khu vực xuất
khẩu, dựa trên tương quan lực lượng kinh tế giữa các cường
quốc tư bản.
- Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế

56
quốc. Sự phân chia thế giới về kinh tế được củng cố và tăng
cường bằng sự can thiệp, phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các
cường quốc tư bản. Sự can thiệp này đã biến các nước đó thành
một nước đế quốc tư bản chủ nghĩa.

Bài tập 64
a. Trình bày nguyên nhân ra đời, bản chất và biểu hiện chủ
yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
b. Phân tích những nét mới trong sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản hiện đại.
Gợi ý trả lời:
a. Nguyên nhân ra đời, bản chất và biểu hiện chủ yếu của
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước:
- Nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước:
+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến quy mô của
nền kinh tế ngày càng lớn, tính chất xã hội hóa của nền kinh tế
ngày càng cao đòi hỏi phải có một hình thức quan hệ sản xuất
mới, sự điều tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối, một kế
hoạch hóa tập trung từ một trung tâm.
+ Sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất
hiện một số ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân
không thể hoặc không muốn kinh doanh đòi hỏi nhà nước tư sản
phải đứng ra đảm nhiệm kinh doanh các ngành đó, tạo điều kiện
cho các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác
có lợi hơn.
+ Sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối
kháng giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao
động. Nhà nước tư sản phải có những chính sách để xoa dịu
57
những mâu thuẫn đó bằng các hình thức khác nhau như trợ cấp
thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát triển phúc lợi xã
hội...
+ Sự tích tụ và tập trung tư bản cao dẫn đến mâu thuẫn giữa
các tổ chức độc quyền với nhau, mâu thuẫn giữa tư bản độc
quyền với các tổ chức kinh doanh vừa và nhỏ... trở nên gay gắt
cần có sự điều tiết, can thiệp của nhà nước bằng các hình thức
khác nhau.
+ Cùng với xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự bành
trướng của các tổ chức độc quyền quốc tế vấp phải những hàng
rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi ích với các đối thủ trên thị
trường thế giới. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự điều tiết các
quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế của nhà nước.
- Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước:
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức
mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà
nước tư sản thành một thiết chế và thể chế thống nhất, trong đó
nhà nước tư sản bị phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền và can
thiệp vào các quá trình kinh tế nhằm bảo vệ lợi ích của các tổ
chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản.
- Những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước:
+ Sự kết hợp về nhân sự giữa các tổ chức độc quyền và nhà
nước tư sản. Sự kết hợp này được thực hiện thông qua các đảng
phái tư sản. Chính các đảng phái này đã tạo ra cho tư bản độc
quyền một cơ sở xã hội để thực hiện sự thống trị và trực tiếp xây
dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà nước.
+ Sự hình thành và phát triển của sở hữu tư bản độc quyền
nhà nước. Sở hữu độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai

58
cấp tư sản độc quyền có nhiệm vụ phục vụ lợi ích của tư bản độc
quyền. Nó biểu hiện ở chỗ sở hữu nhà nước được tăng lên và
mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền tư nhân
được tăng cường.
+ Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản. Sự điều tiết kinh
tế của nhà nước được thực hiện bằng nhiều công cụ khác nhau
như pháp luật, giá cả, thuế khóa, tài chính - tiền tệ, ngân hàng,
phát triển các xí nghiệp nhà nước... trên cơ sở dung hợp cả ba cơ
chế: thị trường, độc quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước
nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ
chế.
b. Những nét mới trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
hiện đại:
- Sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất. Cùng với sự
lan rộng và phát triển của cách mạng công nghệ thông tin, các
ngành công nghệ cao mới khác như sinh học, vật liệu mới, năng
lượng mới, hàng không vũ trụ... cũng phát triển mạnh mẽ mở ra
không gian mới cho phát triển sức sản xuất xã hội.
- Nền kinh tế đang có xu hướng chuyển từ kinh tế công
nghiệp sang kinh tế tri thức. Cách mạng công nghệ thông tin
hiện nay đang thúc đẩy nền kinh tế tư bản chủ nghĩa chuyển từ
nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Tăng trưởng
của nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức hay tri thức hóa các
quyết sách kinh tế.
- Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp.
Biểu hiện nổi bật là sự phân tán quyền nắm cổ phiếu tăng lên,
người lao động cũng có quyền sở hữu một số cổ phiếu tại doanh
nghiệp. Ngoài ra, xuất hiện và có xu hướng tăng lên của tầng lớp
trung lưu, bao gồm những người lao động hoạt động trong lĩnh

59
vực công nghệ thông tin, quản lý
- Thể chế quản lý kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp có
những biến đổi lớn. Doanh nghiệp cải cách cơ chế quản lý, thiết
lập cơ cấu tổ chức hàng ngang và mạng lưới. Phương hướng cải
cách là giảm bớt khâu trung gian, thông tin thuận lợi, phát huy
đầy đủ tính chủ động và trách nhiệm của công nhân, nhằm nâng
cao hiệu quả công tác.
- Điều tiết vĩ mô của nhà nước ngày càng được tăng cường.
Điều này giúp kịp thời điều chỉnh chiến lược tổng thể phát triển
kinh tế, nhằm nâng cao sức cạnh tranh tổng thể của quốc gia.
Đồng thời, vận dụng linh hoạt chính sách tài chính và chính sách
tiền tệ để điều chỉnh các mâu thuẫn trong nền kinh tế, xã hội.
- Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng quan
trọng trong hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, là lực lượng chủ
yếu thúc đẩy toàn cầu hóa kinh tế. Dựa vào thực lực hùng hậu
của mình, các công ty xuyên quốc gia đã trở thành lực lượng chủ
yếu thúc đẩy toàn cầu hóa kinh tế và chủ nghĩa tư bản độc quyền
xuyên quốc gia phát triển.
- Sự điều tiết và phối hợp quốc tế được tăng cường. Trong
bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nhà nước của các quốc gia tư
bản chủ nghĩa ngày càng chú trọng phối hợp các chính sách kinh
tế vĩ mô. Sự phối hợp và hợp tác quốc tế được tăng cường rõ rệt,
hiệu quả cũng không ngừng được nâng cao, như sự phối hợp
giữa các nước tư bản về chính sách tài chính, tiền tệ trong từng
khu vực và trên thế giới.

Bài tập 65
a. Phân tích vai trò, hạn chế của chủ nghĩa tư bản.
b. Xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản diễn ra như
60
thế nào trong thời gian tới?

Gợi ý trả lời:


a. Vai trò của chủ nghĩa tư bản:
Trong quá trình phát triển, nếu chưa xét đến hậu quả
nghiêm trọng đã gây ra đối với loài người thì chủ nghĩa tư bản đã
có những đóng góp tích cực đối với sự phát triển sản xuất. Đó là:
+ Thực hiện xã hội hóa sản xuất. Chủ nghĩa tư bản đã thúc
đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh, đạt tới mức điển
hình trong lịch sử và cùng với nó là quá trình xã hội hóa sản xuất
cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Sự phát triển của phân công lao
động và xã hội hóa sản xuất không chỉ diễn ra trong phạm vi
quốc gia mà còn trên phạm vi quốc tế, thúc đẩy mạnh mẽ quá
trình quốc tế hóa sản xuất và đời sống xã hội.
+ Phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động
xã hội. Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực
lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ với trình độ kỹ thuật và công
nghệ ngày càng cao. Cùng với sự phát triển của kỹ thuật và công
nghệ là quá trình giải phóng sức lao động, nâng cao năng lực
chinh phục tự nhiên của con người, nâng cao năng suất lao động
xã hội, tạo ra khối lượng của cải vật chất khổng lồ.
+ Chủ nghĩa tư bản lần đầu tiên trong lịch sử đã thiết lập
nên nền dân chủ tư sản. Nền dân chủ này tuy chưa phải là hoàn
hảo, song so với thể chế chính trị trong các xã hội trước chủ
nghĩa tư bản, thì nó vẫn tiến bộ hơn rất nhiều, vì nó được xây
dựng trên cơ sở thừa nhận quyền tự do thân thể của cá nhân.
- Hạn chế của chủ nghĩa tư bản:
+ Chủ nghĩa tư bản ra đời gắn liền với quá trình tích lũy
nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản. Thực chất, đó là quá trình tích
61
lũy tiền tệ bằng con đường bạo lực tước đoạt đối với những
người sản xuất nhỏ và nông dân tự do và thực hiện sự bóc lột, nô
dịch đối với những nước lạc hậu. Quá trình đó đầy máu, bùn nhơ
và tội ác mà chủ nghĩa tư bản đã gây ra đối với loài người.
+ Cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản
là quan hệ bóc lột của các nhà tư bản đối với công nhân làm
thuê. Chừng nào chủ nghĩa tư bản còn tồn tại thì chừng đó quan
hệ bóc lột còn tồn tại và sự bất bình đẳng, phân hóa xã hội vẫn là
điều không tránh khỏi.
+ Các cuộc chiến tranh thế giới do chủ nghĩa tư bản gây ra
đã để lại cho loài người những hậu quả nặng nề: hàng chục triệu
người vô tội bị giết hại, sức sản xuất xã hội bị tàn phá nặng nề,
tốc độ phát triển kinh tế của thế giới bị kéo lùi lại hàng chục
năm.
+ Chủ nghĩa tư bản phải chịu trách nhiệm chính trong việc
tạo ra hố ngăn cách giữa các nước giàu và các nước nghèo trên
thế giới; trong đó có việc nghèo đói, lạc hậu, thất nghiệp của
hàng trăm triệu người ở các nước kém phát triển.
b. Xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản:
Chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển của nó, một mặt
đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, tạo ra cơ sở
vật chất - kỹ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại; mặt khác, làm
cho mâu thuẫn cơ bản của nó - mâu thuẫn giữa tính chất xã hội
hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với tính chất chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thêm gay gắt.
Ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại đang nắm ưu thế về
vốn, khoa học, công nghệ, thị trường, đang có khả năng thích
nghi và phát triển trong chừng mực nhất định; chủ nghĩa tư bản
cũng buộc phải thực hiện một số điều chỉnh giới hạn về quan hệ

62
sản xuất trong khuôn khổ của nó. Song những điều chỉnh của
chủ nghĩa tư bản không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn
có của nó, không thể vượt quá giới hạn lịch sử của nó.
Mặt khác, các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường cuộc
đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con đường phát triển của
mình. Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành
công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các
dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Vì
vậy, sớm hay muộn chủ nghĩa tư bản cũng sẽ bị thay thế bằng
một chế độ mới cao hơn - đó là chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn
thấp là chủ nghĩa xã hội.

63
Phần thứ ba
LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Chương VII
SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Bài tập 66
a. Phân tích khái niệm "giai cấp công nhân".
b. Sự khác nhau cơ bản giữa "giai cấp công nhân" và "giai
cấp vô sản" là gì?
c. Ý nghĩa của sự phân chia "giai cấp công nhân "và "giai
cấp vô sản"?
Gợi ý trả lời:
a. Khái niệm giai cấp công nhân:
“Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình
thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công
nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có
tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản
tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản
xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực
lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội”1.
- Cách hiểu trên đây về “giai cấp công nhân” đã làm rõ ba
yếu tố cơ bản sau đây:

1
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012. tr.363.
64
+ Một là, về phương thức lao động của giai cấp công
nhân. Nói đến giai cấp công nhân là nói đến một tập đoàn người
lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành những công cụ sản xuất
có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và có trình độ xã hội
hóa, quốc tế hóa ngày càng cao.
+ Hai là, về địa vị của giai cấp công nhân trong hệ thống
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong các nhân tố cấu thành
lực lượng sản xuất thì giai cấp công nhân là lượng sản xuất cơ
bản, tiên tiến nhất của xã hội, là một lực lượng tạo ra của cải vật
chất, làm giàu cho xã hội bằng phương pháp đại công nghiệp.
+ Ba là, về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân. Hai yếu
tố kể trên tất yếu tạo cho giai cấp công nhân có một vai trò vô
cùng quan trọng: là lực lượng chủ yếu trong việc xóa bỏ chế độ
tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, “là lực
lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội”.
b. Phân biệt "giai cấp công nhân" với "giai cấp vô sản":
- Trong quan hệ sản xuất của xã hội tư bản chủ nghĩa,
người công nhân không có tư liệu sản xuất (vì họ đã bị giai cấp
tư sản tước đoạt bằng cách này hay cách khác), để có thể tồn tại
được, họ buộc phải đi làm thuê, bán sức lao động của mình cho
nhà tư bản. Đây là cơ sở và đặc trưng nổi bật nhất để gọi giai cấp
công nhân là “giai cấp vô sản”.
- Tuy nhiên, điều này không còn đúng trong trong quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, trong quan hệ sản xuất này,
giai cấp công nhân đã cùng với toàn thể nhân dân lao động trở
thành người làm chủ đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng
nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó
có lợi ích chính đáng của bản thân họ. Chính vì thế, trong trường

65
hợp này, không thể gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản.
c. Ý nghĩa của sự phân biệt “giai cấp công nhân” với “giai
cấp vô sản”:
Một là, giai cấp công nhân chỉ được coi là giai cấp vô sản
khi gắn liền với điều kiện lịch sử cụ thể, đó là trong quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Do đó, hiện nay, mặc dù giai cấp công
nhân ở các nước tư bản phát triển đã có một số biến đổi (so với
thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX) về một số mặt như tình trạng
sở sở hữu, trình độ lao động, mức sống, điều kiện làm việc,...
nhưng tất cả những khác biệt này không phải vì thế mà làm đổi
thay địa vị “vô sản” của họ trong hệ thống quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa.
Hai là, giai cấp công nhân chỉ có thể xóa bỏ địa vị “vô sản”
của mình trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa khi nào
họ xóa bỏ được chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, và
do đó xóa bỏ được hiện trạng làm thuê nhằm giải phóng giai cấp
mình đồng thời giải phóng toàn bộ xã hội.
Ba là, xuất phát từ địa vị của giai cấp công nhân trong hệ
thống quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nên giai cấp này có lợi
ích cơ bản đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Trong
cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, lật đổ toàn bộ
trật tự xã hội tư sản, họ là giai cấp khởi xướng, đi đầu trong cuộc
đấu tranh mà ở đó, họ “chẳng mất gì hết ngoài những xiềng xích
trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới” về cho mình. Và sứ
mệnh lịch sử đó của giai cấp công nhân là hoàn toàn tất yếu,
khách quan.

Bài tập 67
a. Trình bày nội dung cơ bản của sứ mệnh lịch sử của giai

66
cấp công nhân?
b. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được quy định
bởi những điều kiện khách quan nào?
c. Liên hệ với sứ mệnh lịch sử cụ thể của giai cấp công
nhân Việt Nam?
Gợi ý trả lời:
a. Nội dung cơ bản của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân:
Từ nội dung khái niệm về “giai cấp công nhân” và “giai
cấp vô sản”, có thể thấy nét đặc trưng nổi bật của giai cấp công
nhân là ở chỗ: họ vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của bản thân
nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại. Do đó, đây là lực
lượng đại biểu cho sự phát triển của lực lượng sản xuất ngày
càng tiến bộ, cho xu hướng phát triển của phương thức sản xuất
tương lai. Vì vậy, có thể khẳng định rằng: sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân là lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xóa
bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ mọi chế độ áp bức, bóc lột
và xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa. Nói như Ph.Ăngghen: “thực hiện sự nghiệp giải
phóng thế giới ấy, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện
đại” 1.
b. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân:
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hoàn toàn không
phải do ý muốn chủ quan của bản thân giai cấp này, cũng tuyệt
nhiên không dựa trên những ý niệm, những nguyên lý do một
nhà cải cách thế giới nào phát minh hay phát hiện ra. Sứ mệnh

1
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.20,
tr.393.
67
lịch sử ấy là khách quan. Tính khách quan này được quy định
bởi hai yếu tố cơ bản sau:
- Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong nền
sản xuất hiện đại:
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, dựa trên
sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại thì công nhân vừa là
chủ thể trực tiếp nhất, vừa là sản phẩm căn bản nhất của nền sản
xuất đó. Từ đó:
+ Giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất hàng đầu của
toàn nhân loại hiện nay.
+ Đây chính là giai cấp ngày càng tạo ra giá trị thặng dư
khổng lồ, làm giàu cho xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của con người.
+ Khi sản xuất đại công nghiệp ngày càng phát triển hiện
đại thì “tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong”, còn
giai cấp công nhân, trái lại ngày càng phát triển về số lượng và
chất lượng.
Địa vị trên khiến cho giai cấp công nhân trở thành lực
lượng duy nhất có khả năng cải tạo các quan hệ xã hội, thực hiện
tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
- Những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân:
Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách
mạng. Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng vì họ
đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, do đó mà cũng đại
diện và quyết định cho sự phát triển tương lai của xã hội loài
người. Ngoài ra, giai cấp công nhân có hệ tư tưởng tiên phong
của thời đại ngày nay đó là chủ nghĩa Mác - Lênin mang tính
cách mạng và khoa học được xây dựng trên cơ sở tiếp thu những
tri thức tiên tiến nhất của thời đại.
68
Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách
mạng triệt để nhất. Với tư cách là “người lao động”, giai cấp
công nhân có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của đại
đa số quần chúng nhân dân lao động. Mục tiêu của sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân là không chỉ giải phóng giai cấp mình
mà còn giải phóng toàn bộ xã hội thông qua việc tiến hành cuộc
cách mạng không ngừng nhằm đạt tới mục tiêu cuối cùng.
Thứ ba, giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ
luật cao nhất. Là lực lượng lao động trong nền đại công nghiệp
với hệ thống sản xuất mang tính chất dây chuyền và nhịp độ làm
việc khẩn trương, chuẩn xác đã buộc giai cấp này phải tuân thủ
nghiêm ngặt kỷ luật lao động, tiêu chuẩn kỹ thuật,... Đặc biệt,
khi giai cấp công nhân có chính Đảng của mình lãnh đạo và
được vũ trang bởi lý luận khoa học và cách mạng thì tính tổ chức
kỷ luật sẽ càng được củng cố và tăng cường.
Thứ tư, giai cấp công nhân là giai cấp có bản chất quốc tế.
Đã là giai cấp công nhân thì ở đâu cũng có chung những điểm
như nhau (tuy mức độ “đậm nhạt” có thể khác nhau) về địa vị
kinh tế - xã hội, đặc điểm chính trị - xã hội, lợi ích cơ bản và sứ
mệnh lịch sử của mình. Đây là điều kiện để giai cấp công nhân
trên toàn thế giới liên minh, liên kết nhằm chống lại kẻ thù
chung là giai cấp tư sản.
c. Liên hệ với sứ mệnh lịch sử cụ thể của giai cấp công
nhân Việt Nam:
Sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam là thông qua đội
tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo nhân
dân giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính dân chủ nhân
dân (thông qua cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) và
từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa

69
cộng sản nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng con người (thông
qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa).
Đây là sứ mệnh rất khó khăn, gian khổ, lâu dài và phức tạp.
Để thực hiện thắng lợi sứ mệnh cao cả này, giai cấp công nhân
Việt Nam cần thực hiện tốt vai trò là giai cấp lãnh đạo cách
mạng, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập
dân tộc, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và là lực lượng
nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và các tầng lớp khác trong xã hội.

Bài tập 68
a. Đảng Cộng sản có vai trò như thế nào trong quá trình
thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân?
b. Những thành tựu vĩ đại của cách mạng nước ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam?
Gợi ý trả lời:
a. Vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Sự ra đời và lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện nhân
tố chủ quan hàng đầu bảo đảm cho giai cấp công nhân thực hiện
được sứ mệnh lịch sử của mình. Điều này được lý giải ở những
điểm chính sau:
- Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân giữ
vai trò sáng tạo lịch sử nhưng vai trò đó không thể thực hiện
được nếu như không được tổ chức lại thành lực lượng chính trị
có tổ chức vững chắc, một tổ chức có sự lãnh đạo đúng đắn theo
lý luận khoa học dẫn đường với đội ngũ lãnh tụ có tài năng và
lập trường kiên định. Đối với quá trình thực hiện sứ mệnh của
giai cấp công nhân thì tổ chức đó chính là Đảng Cộng sản.
70
- Sau khi ra đời, Đảng đưa lý luận khoa học và cách mạng
vào phong trào cách mạng, làm cho giai cấp công nhân nhận
thức được vai trò, vị trí của mình trong xã hội; đưa ra con đường,
mục tiêu, phương pháp và biện pháp đấu tranh cách mạng; giáo
dục, giác ngộ và tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân lao
động và thông qua đường lối chiến lược và sách lược cách mạng
để tổ chức phong trào đấu tranh nhằm thực hiện việc lật đổ chế
độ cũ, lỗi thời; thiết lập quyền lực chính trị của giai cấp công
nhân, tổ chức xây dựng xã hội mới về mọi mặt; từng bước tạo ra
những điều kiện giải phóng giai cấp, giải phóng con người và
giải phóng toàn xã hội.
- Đảng chính trị là tổ chức cao nhất, đại biểu tập trung cho
trí tuệ và lợi ích của toàn thể giai cấp. Vì thế, với sự ra đời của
Đảng Cộng sản, phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động mới thật sự mang tính tự giác, mang tính chất
chính trị.
b. Những thành tựu vĩ đại của cách mạng nước ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam:
- Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhiều phong trào
yêu nước đã nổ ra nhằm đánh đuổi bọn thực dân, đế quốc và giải
phóng dân tộc. Tuy nhiên, tất cả các phong trào ấy đều thất bại,
đất nước và nhân dân bị chìm đắm trong đêm dài nô lệ và áp
bức. Sự khủng hoảng về đường lối cứu nước và con đường giải
phóng dân tộc chỉ được chấm dứt với sự ra đời và lãnh đạo
phong trào cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo nhân dân ta
tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua
muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ

71
đại như sau:
+ Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan
ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên Nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự
do.
+ Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà
đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại
thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
+ Thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng
bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới
đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua,
nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một
quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ
nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ
đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước
nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng
trong khu vực và trên thế giới.

Bài tập 69
a. Trình bày nguyên nhân, mục tiêu, tiến trình, động lực và
nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa?
b. Liên hệ với nguyên nhân, mục tiêu, động lực và nội dung
phương hướng của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam?
Gợi ý trả lời:
72
a. Nguyên nhân, mục tiêu, tiến trình, động lực và nội dung
của cách mạng xã hội chủ nghĩa:
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng nhằm thay
thế chế độ xã hội cũ, lỗi thời (chế độ phong kiến, chế độ tư bản
chủ nghĩa) bằng chế độ xã hội chủ nghĩa. Theo nghĩa hẹp, đây là
một cuộc cách mạng chính trị, được kết thúc bằng việc giai cấp
công nhân cùng với nhân dân lao động giành được chính quyền,
thiết lập được nhà nước chuyên chính vô sản. Còn theo nghĩa
rộng, cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm cả hai thời kỳ: cách
mạng về chính trị với việc thiết lập được lập nhà nước chuyên
chính vô sản và tiếp theo là thời kỳ giai cấp công nhân và nhân
dân lao động sử dụng nhà nước của mình để cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới về mọi mặt nhằm thực hiện thắng lợi chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
- Nguyên nhân của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa: cách
mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra có nguyên nhân sâu xa là do mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính xã hội hóa cao với tính
chất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dưới
chủ nghĩa tư bản. Biểu hiện của mâu thuẫn này về mặt chính trị -
xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản
và mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ
nghĩa thực dân, đế quốc. Mâu thuẫn này chỉ có thể được giải
quyết bằng con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa: thực hiện
thành công chủ nghĩa cộng sản để giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội, giải phóng con người: “biến con người từ vương
quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do”; tạo nên một thể
liên hiệp trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện

73
cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” 1. Mục tiêu này
được thực hiện dần từng bước qua hai giai đoạn trong tiến trình
của cuộc cách mạng gắn với hai mục tiêu cụ thể là: chiếm lĩnh
quyền lực nhà nước và tổ chức xây dựng xã hội mới (xã hội xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
- Động lực của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa: các lực
lượng tạo thành động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa bao
gồm: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các lực lượng tiến
bộ khác trong xã hội.
+ Giai cấp công nhân vừa là giai cấp lãnh đạo, vừa là động
lực chủ yếu trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Giai cấp nông dân có nhiều lợi ích cơ bản thống nhất với
lợi ích của giai cấp công nhân, trở thành động lực to lớn trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Trong nhiều tầng lớp nhân dân lao động khác thì đội ngũ
(tầng lớp) trí thức có vị trí hết sức quan trọng, đặc biệt là trong
nền sản xuất công nghiệp hiện đại.
- Nội dung của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa: với tính
chất là cuộc cách mạng triệt để nhất trong lịch sử, cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực
đời sống xã hội, bao gồm:
+ Trên lĩnh vực chính trị: đập tan nhà nước của giai cấp
bóc lột, giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân
lao động. Đây là điều kiện có tính chất tiền đề quyết định mở đầu
cho quá trình cải biến cách mạng để xây dựng xã hội mới.
+ Trên lĩnh vực kinh tế: thay đổi vị trí, vai trò của người

1
1. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4,
tr.628.

74
lao động đối với tư liệu sản xuất, thay thế chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất bằng chế độ sở hữu xã
hội chủ nghĩa với những hình thức thích hợp.
+ Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa: làm cho hệ tư tưởng
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành hệ tư tưởng chính
thống trong đời sống tư tưởng - văn hóa của toàn xã hội; trở
thành thế giới quan khoa học phổ biến, định hướng mọi hoạt
động sáng tạo của Đảng và quần chúng nhân dân.
Các nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa nói trên có
quan hệ gắn kết với nhau, tác động qua lại, thúc đẩy nhau cùng
phát triển, trong đó kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo và xây dựng mà
xây dựng là chủ yếu.
b. Nguyên nhân, mục tiêu, động lực và nội dung phương
hướng của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Nguyên nhân của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam: bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với bọn thực
dân đế quốc cùng bè lũ tay sai và mâu thuẫn giữa giai cấp công
nhân, nông dân với địa chủ phong kiến và tư sản đế quốc. Chính
vì thế, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta đã chỉ rõ: con
đường cách mạng nước ta là “làm tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản" 1. Từ khi Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời, sự nghiệp đấu tranh của nhân dân
Việt Nam đã kết hợp hai sự nghiệp: giải phóng dân tộc bị áp bức
và giải phóng giai cấp những người lao động.
- Về mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam: giành độc lập cho dân tộc và xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội. Kết quả của những mục tiêu này là nhằm xây dựng
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,

1
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 3, tr.1.
75
văn minh.
- Về động lực của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam: phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với
khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức làm nòng cốt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
- Về nội dung, phương hướng của cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam:
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn
dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự
cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt
qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các nội dung, phương
hướng cơ bản sau đây:
+ Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn
với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
+ Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
+ Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội.
+ Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội.
+ Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình,
hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế.
+ Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại
đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc
thống nhất.
+ Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
76
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
+ Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Bài tập 70
a. Trình bày tính tất yếu và nội dung của liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân?
b. Để xây dựng khối liên minh này, cần phải quán triệt
những nguyên tắc cơ bản nào ?
Gợi ý trả lời:
a. Tính tất yếu, cơ sở khách quan, nội dung của liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân.
- Tính tất yếu của liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân:
+ Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng thực
hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Nhưng nếu cuộc
cách mạng vĩ đại ấy chỉ có một mình giai cấp công nhân độc lập,
riêng lẻ tiến hành, thì cuộc cách mạng đó chẳng qua chỉ là “một
bài đơn ca ai điếu” (C.Mác).
+ Cách mạng xã hội chủ nghĩa muốn thắng lợi, một trong
những điều kiện tiên quyết là phải có sức mạnh. Sức mạnh này
chỉ có thể có được khi giai cấp công nhân thông qua sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản thiết lập, củng cố, tăng cường vững chắc
khối liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động
khác trong xã hội. Với sức mạnh đó mà giành chính quyền; với
sức mạnh đó mà xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản, hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân.
- Nội dung của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân:
77
Liên minh về chính trị: đoàn kết để giành lấy chính quyền
về tay giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động; cùng
nhau tham gia vào chính quyền nhà nước từ cơ sở đến trung
ương, cùng nhau bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và mọi thành
quả cách mạng.
Liên minh về kinh tế: kết hợp đúng đắn lợi ích giữa hai giai
cấp trong các hoạt động kinh tế để vừa bảo đảm lợi ích của nhà
nước, xã hội, đồng thời phải thường xuyên quan tâm tới lợi ích
của từng giai cấp; thường xuyên quan tâm tới xây dựng một hệ
thống chính sách phù hợp đối với nông dân, nông nghiệp và
nông thôn.
Liên minh về văn hóa - xã hội: thường xuyên giáo dục chủ
nghĩa Mác - Lênin trong công nhân, nông dân và các tầng lớp
nhân dân lao động; không ngừng nâng cao trình độ văn hóa,
khoa học, kỹ thuật, công nghệ cho mọi người lao động nhằm đáp
ứng yêu cầu phát triển của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên mọi lĩnh vực.
b. Những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng khối liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân:
Một là, phải bảo đảm vai trò lãnh đạo của giai cấp công
nhân trong khối liên minh công - nông. Giai cấp nông dân là giai
cấp gắn với phương thức sản xuất nhỏ, cục bộ, phân tán, không
có hệ tư tưởng độc lập. Do đó, chỉ đi theo hệ tư tưởng của giai
cấp công nhân mới có thể tiến lên nền sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa. V.I.Lênin khẳng định: “chỉ có sự lãnh đạo của giai cấp vô
sản mới có thể giải phóng quần chúng tiểu nông thoát khỏi chế
độ nô lệ tư bản và dẫn họ tới chủ nghĩa xã hội” 1.
Hai là, phải bảo đảm nguyên tắc tự nguyện. Bất cứ một sự

1
1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t.44, tr.12
78
liên minh nào cũng cần phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện mới
có thể bền vững, lâu dài và có hiệu quả. Phải bằng những việc
làm cụ thể để cho giai cấp nông dân nhận thấy rằng đi với giai
cấp vô sản có lợi hơn đi với giai cấp tư sản, từ đó họ tự nguyện
đi theo giai cấp công nhân.
Ba là, phải kết hợp đúng đắn các lợi ích của giai cấp công
nhân và giai cấp nông dân. Nguyên tắc này là cần thiết khi giữa
giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là những chủ thể kinh tế
khác nhau. Do vậy, cần phải quan tâm giải quyết mâu thuẫn này,
phải thường xuyên phát hiện những mâu thuẫn nảy sinh và giải
quyết kịp thời; phải chú ý tới những lợi ích thiết thực của nông
dân nhằm có sự kết hợp đúng đắn, hợp lý, hài hòa về các lợi ích,
trong đó lợi ích kinh tế là căn bản và quan trọng nhất.

Bài tập 71
a. Trình bày những cơ sở để các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin đưa ra dự báo về sự xuất hiện tất yếu của
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa?
b. Đặc trưng của từng giai đoạn của hình thái kinh tế - xã
hội này?
c. Đảng ta đã xác định những đặc trưng cơ bản của xã hội
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như thế nào?
Gợi ý trả lời:
a. Những cơ sở để các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin đưa ra dự báo về sự xuất hiện tất yếu của hình thái kinh tế
- xã hội cộng sản chủ nghĩa:
Những dự báo của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin về sự ra đời, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa dựa trên hai cơ sở chính sau đây:
79
Một là, dựa vào tính chất “lịch sử - tự nhiên” của quy luật
thay thế các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao trong lịch
sử phát triển của xã hội loài người. Đó là một quá trình hoàn
toàn tuân theo quy luật khách quan với nguồn gốc sâu xa là sự
phát triển tiến bộ của các phương thức sản xuất kế tiếp nhau.
Yếu tố quyết định của sự phát triển đó chính là do sự phát triển
về trình độ của lực lượng sản xuất.
Hai là, dựa vào việc phân tích và chỉ ra những quy luật
khách quan quá trình ra đời, phát triển và tất yếu diệt vong của
hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa từ cơ sở kinh tế khách
quan của nó. Kết quả phân tích cho thấy với bản chất bóc lột,
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chứa đựng bên trong
những mâu thuẫn không thể điều hòa được và chính mâu thuẫn
này là nguyên nhân sâu xa của một cuộc cách mạng xã hội nhằm
lật đổ phương thức sản xuất cũ và xây dựng một phương thức
sản xuất mới tiến bộ hơn.
Dựa trên hai cơ sở trên, các nhà kinh điển đã chỉ ra: dưới
chủ nghĩa tư bản, lực lượng sản xuất phát triển đến trình độ xã
hội hóa càng cao thì càng làm cho mâu thuẫn giữa nhu cầu phát
triển của lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản
xuất mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa càng thêm sâu sắc. Để
giải quyết mâu thuẫn cơ bản này, giai cấp công nhân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tổ chức toàn bộ quần chúng nhân
dân lao động, bằng con đường cách mạng, lật đổ nhà nước của
giai cấp phản động, thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, tiến hành cải biến cách mạng lâu dài đối với
mọi mặt đời sống xã hội, từng bước xây dựng hình thái kinh tế -
xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong cuộc đấu tranh ấy, “sự sụp đổ
của giai cấp tư sản và sự thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất

80
yếu như nhau”1.
b. Đặc trưng của từng giai đoạn của hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa
Căn cứ vào cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học
của chủ nghĩa Mác - Lênin; từ những kết quả nghiên cứu, tổng
kết thực tiễn của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, có thể chia
quá trình phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa thành ba giai đoạn cơ bản sau:
- Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (thời kỳ của "những
cơn đau đẻ kéo dài"). Thời kỳ này được bắt đầu khi thiết lập
được chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
dựa trên nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác do Đảng Cộng sản
lãnh đạo. Đây là thời kỳ cải biến cách mạng toàn diện, sâu sắc,
triệt để nhằm xóa bỏ những yếu tố lạc hậu của xã hội cũ bên
cạnh việc tạo ra những nhân tố mới cho chủ nghĩa xã hội.
- Giai đoạn đầu xã hội cộng sản chủ nghĩa (tức chủ nghĩa
xã hội hay xã hội xã hội chủ nghĩa). Đây là giai đoạn đầu (giai
đoạn thấp) của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, là
kết quả trực tiếp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với
những đặc trưng sau:
Về kinh tế: nền đại công nghiệp có trình độ phát triển cao,
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu chiếm vị trí thống trị
vững chắc trong nền kinh tế quốc dân; tạo ra được phương thức
tổ chức lao động mới và chế độ phân phối theo lao động.
Về chính trị: Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân,
có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền
lực và lợi ích của nhân dân.

1
1. C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.613.
81
Về tư tưởng, văn hóa: xã hội đã thực hiện được sự giải
phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột; thực hiện quyền bình
đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện.
- Giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa (tức chủ
nghĩa cộng sản). Đây là giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa với những đặc trưng cơ bản:
Về kinh tế: có lực lượng sản xuất phát triển vô cùng hiện
đại; có tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của toàn xã hội; năng suất
lao động hết sức cao (“một ngày tạo ra một lượng sản phẩm bằng
hai mươi năm”, “của cải tuôn ra dào dạt” (C.Mác); phân phối của
cải trong xã hội theo nhu cầu.
Về chính trị: Nhà nước bị tiêu vong; không có sự khác biệt
về giai cấp, giữa lao động chân tay và lao động trí óc.
Về tư tưởng, văn hóa: con người được hoàn toàn tự do, “sự
phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người”.
c. Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam:
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc
trưng của từng giai đoạn trong hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa và căn cứ vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, đặc biệt là qua những năm thực hiện sự nghiệp đổi
mới, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã xác định những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam là:
- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
- Do nhân dân làm chủ;
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp;
82
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện;
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển;
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế
giới.
Các đặc trưng kể trên đã bao trùm và phản ánh khá đầy đủ
các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế đến chính trị, từ văn
hóa đến xã hội, từ đối nội đến đối ngoại. Quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta cũng chính là quá trình làm cho các đặc
trưng trên dần được biểu hiện ra trong thực tiễn xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để và là cuộc đấu
tranh đầy khó khăn, gian khổ, phức tạp giữa cái cũ và cái mới
nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Vì thế, thời kỳ quá độ này nhất thiết phải trải qua rất
lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh
tế, xã hội đan xen.

Bài tập 72
a. Làm rõ tính tất yếu, đặc điểm, thực chất và nội dung của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội?
b. Đảng ta đã xác định đặc điểm, thực chất và nội dung
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như thế nào?
Gợi ý trả lời:
a. Tính tất yếu, đặc điểm, thực chất và nội dung của thời kỳ
83
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Tính tất yếu của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội:
Để chuyển từ xã hội cũ (phong kiến, tư bản chủ nghĩa) lên
xã hội mới (xã hội xã hội chủ nghĩa) - một xã hội phát triển trên
cơ sở vật chất kỹ thuật của chính nó - tất yếu phải trải qua một
thời kỳ quá độ nhất định. Đây chính là thời kỳ cải biến cách
mạng sâu sắc, toàn diện, lâu dài toàn bộ đời sống xã hội; tạo ra
những tiền đề vật chất, tinh thần cần thiết để chủ nghĩa xã hội
thực hiện những nguyên tắc cơ bản trên cơ sở của chính nó. Tính
tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải từ
các căn cứ sau đây:
+ Một là, bất kỳ quá trình chuyển biến nào của xã hội từ
trình độ thấp lên trình độ cao hơn đều nhất định phải trải qua một
thời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Thời kỳ ấy tất yếu diễn ra vì ở đó
luôn có sự tồn tại đan xen và đấu tranh lẫn nhau giữa các yếu tố
mới và cũ trong quá trình phát triển. Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội cũng không nằm ngoài quy luật đó. Đó là chưa kể
sự chuyển biến này là một bước nhảy vọt và căn bản về chất, từ
một chế độ áp bức, bóc lột đến một chế độ giải phóng con người
thì thời kỳ quá độ càng phải mang tính tất yếu, thậm chí có thể
kéo dài, nhất là đối với những nước chưa trải qua phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
+ Hai là, sự ra đời của một xã hội mới bao giờ cũng có sự
kế thừa nhất định từ nhân tố do xã hội cũ tạo ra. Đối với những
nước đã trải qua quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa, cần phải
có thời gian để tổ chức, sắp xếp các cơ sở vật chất - kỹ thuật mà
chủ nghĩa tư bản đã tạo ra, hướng nó phục vụ có hiệu quả cho
chủ nghĩa xã hội. Đối với những nước chưa qua quá trình phát
triển tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội thì cần phải có một

84
thời kỳ lịch sử lâu dài để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ trọng tâm là tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự
phát nảy sinh trong lòng xã hội cũ (phong kiến, tư bản) mà nó
chỉ có thể là kết quả của quá trình cải tạo và xây dựng xã hội chủ
nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản dù ở trình độ cao cũng
chỉ có thể tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các
quan hệ xã hội mới. Đây là một công việc mới mẻ, khó khăn và
phức tạp vì vậy rất cần có thời gian để Đảng Cộng sản, giai cấp
công nhân và nhân dân lao động từng bước xây dựng và phát
triển những quan hệ đó.
- Đặc điểm của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội:
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên
cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ
vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Đặc điểm trên đòi hỏi giai cấp công nhân và
quần chúng nhân dân lao động phải biết xoá bỏ những cái gì là
bảo thủ lạc hậu, phản nhân văn, đồng thời phải biết tiếp thu
những cái gì là tiến bộ, nhân văn mà nhân loại đã tạo ra, đồng
thời biết kế thừa những giá trị truyền thống của dân tộc mình.
- Thực chất của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội:
Thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội là sự cải biến cách mạng toàn diện, sâu sắc, triệt để
nhằm tạo ra những cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là thời
kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại,
không còn là giai cấp thống trị và những thế lực chống phá chủ
nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao

85
động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới, nội
dung mới, mục tiêu mới, hình thức mới và phương pháp mới.
- Nội dung của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội:
Trong lĩnh vực kinh tế:
+ Sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã
hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới
theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm
phục vụ ngày càng tốt đời sống nhân dân lao động.
+ Đối với những nước chưa trải qua phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa nhằm tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội. Đối với những nước này, đây là nhiệm vụ trọng tâm trong
suốt thời kỳ quá độ.
Trong lĩnh chính trị:
+ Đấu tranh chống lại những thế lực thù địch, phá hoại sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Củng cố nhà nước và xây dựng các tổ chức chính trị - xã
hội ngày càng vững mạnh, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân
trong hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,…
Trong lĩnh vực tư tưởng, văn hóa:
+ Tuyên truyền, phổ biến những tư tưởng khoa học và cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong toàn xã hội.
+ Xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa đậm đà bản
sắc dân tộc, tiếp thu những giá trị tiên tiến của các nền văn hóa
thế giới.
Trong lĩnh vực xã hội:
+ Khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại.
+ Từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển

86
giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực
hiện mục tiêu bình đẳng.
+ Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người theo
mục tiêu lý tưởng: tự do của người này là điều kiện, tiền đề cho
sự tự do của người khác.
b. Đặc điểm, thực chất và nội dung thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam:
- Về đặc điểm:
Quá độ ở nước ta là quá độ từ chế độ phong kiến lạc hậu
(xã hội cũ) lên chủ nghĩa xã hội (xã hội mới) bỏ qua chủ nghĩa tư
bản. Đây là con đường “quá độ gián tiếp” đầy khó khăn, gian
khổ, lâu dài, phức tạp với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức
tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.
- Về thực chất:
Ở nước ta, thời kỳ quá độ để xây dựng xã hội mới được bắt
đầu ngay khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân hoàn
thành. “Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu
tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về
chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”1.
- Về nội dung:
Nội dung chủ yếu của thời kỳ quá độ là tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây cũng chính là nhiệm vụ
trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Thời kỳ quá độ ở nước ta sẽ
kết thúc đạt được mục tiêu tổng quát “xây dựng được về cơ bản
nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng
về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở
thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh

1
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.70.
87
phúc”2.

2
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd,
tr.71.
88
Chương VIII
NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CÓ TÍNH QUY
LUẬT
TRONG TIẾN TRÌNH CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA

Bài tập 73
a. Có sự khác nhau cơ bản nào giữa nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa và nền dân chủ tư sản?
b. Vì sao nói: “Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là
quá trình tất yếu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”?
Gợi ý trả lời:
a. Sự khác nhau giữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nền
dân chủ tư sản:
- Nền (chế độ) dân chủ là khái niệm dùng để chỉ hệ thống
các thiết chế được xác lập và thực thi trong hiện thực xã hội theo
mục tiêu thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong xã hội đó.
- Nền dân chủ (hay chế độ dân chủ) xã hội chủ nghĩa là hệ
thống thiết chế (nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội,...) được
xác lập và thực thi trong xã hội theo mục tiêu thực hiện quyền
lực cai trị (quản lý, điều khiển, kiểm soát,…) thực sự thuộc về
nhân dân.
- Giữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ tư sản
có sự khác nhau rất căn bản, chủ yếu được phân biệt trên các
điểm chính sau đây:
+ Một là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế
của nó là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội;
còn chế độ dân chủ tư sản có cơ sở kinh tế của nó là chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
89
+ Hai là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ
được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, quản lý xã hội
bằng Nhà nước xã hội chủ nghĩa; còn nền dân chủ tư sản là nền
dân chủ đặt dưới sự lãnh đạo của các đảng tư sản - tổ chức chính
trị đại biểu cho lợi ích của các tập đoàn tư bản, thông qua nhà
nước tư sản với nhiều hình thức tổ chức cụ thể khác nhau.
+ Ba là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cho
đại đa số nhân dân lao động; còn nền dân chủ tư sản là nền dân
chủ cho thiểu số, phục vụ lợi ích cho thiểu số - đó là giai cấp tư
sản.
- Đấu tranh cho dân chủ là một quá trình lâu dài và không
thể dừng lại ở dân chủ tư sản. Sự tất yếu diễn ra và thắng lợi của
cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng là sự tất yếu ra đời của một
nền dân chủ mới - dân chủ xã hội chủ nghĩa. Sự hình thành nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước phát triển mới về chất
của chế độ dân chủ trong lịch sử. Lần đầu tiên trong lịch sử, chế
độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân được hình thành. Tuy
nhiên, sự hình thành và phát triển của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là một quá trình lâu dài. Cách mạng xã hội chủ nghĩa tạo
ra những điều kiện cần thiết để giải phóng quần chúng nhân dân
lao động, mở rộng dân chủ và trên cơ sở đó cách mạng xã hội
chủ nghĩa cũng lôi cuốn nhân dân lao động vào công cuộc cải tạo
xã hội, xây dựng nền dân chủ mới.
b. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất
yếu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội:
Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu. Điều này được
lý giải ở những điểm sau:
- Một là, bắt nguồn từ bản chất của chế độ xã hội chủ

90
nghĩa. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng chính là quá
trình vận động của dân chủ từ khả năng thành hiện thực trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; là quá trình đưa các giá trị,
chuẩn mực, nguyên tắc của dân chủ vào thực tiễn xây dựng cuộc
sống mới. Từ đó, hướng tới một xã hội mà ở đó, mọi tầng lớp
nhân dân được sống trong bầu không khí dân chủ thực sự cũng
chính là một trong những mục tiêu của cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Với nghĩa này, dân chủ là mục tiêu của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
- Hai là, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, quần
chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Với sự khác biệt
về chất của mình so với các cuộc cách mạng khác, cách mạng xã
hội chủ nghĩa chỉ có thể có thành công bằng phương pháp thực
hành dân chủ một cách rộng rãi trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, biết “động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân,
dựa vào lực lượng vĩ đại của nhân dân”1. Chỉ khi thực hiện được
điều này mới giúp huy cao độ tính tích cực, sáng tạo của nhân
dân. Như vậy, thực hiện dân chủ đầy đủ, rộng rãi trở thành một
yêu cầu khách quan, bảo đảm cho sự thành công của chủ nghĩa
xã hội, đem lại tự do, hạnh phúc thật sự cho tất cả mọi người.
Với ý nghĩa này, dân chủ là động lực của quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
- Ba là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng chính
là quá trình thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội dưới sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản. Nó trở
thành điều kiện, tiền đề thực hiện quyền lực, quyền làm chủ của
nhân dân. Đây cũng là nhân tố quan trọng chống lại những biểu
hiện của dân chủ cực đoan, vô chính phủ, ngăn ngừa mọi hành vi
coi thường kỷ cương, pháp luật.
1
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.12, tr.505.
91
Tóm lại, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một quá
trình tất yếu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, của quá
trình vận động để nền dân chủ “ngày càng tiến tới cơ sở hiện
thực của nó, tới con người hiện thực, nhân dân hiện thực và được
xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân”2.

Bài tập 74
a. Trình bày những đặc trưng cơ bản của nhà nước xã hội
chủ nghĩa?
b. Trong các chức năng cơ bản của nhà nước xã hội chủ
nghĩa, đâu là chức năng chủ yếu nhất? Vì sao?
Gợi ý trả lời:
a. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa:
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước mới, thay
thế cho nhà nước tư sản nhờ kết quả của cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa; là tổ chức quyền lực đặc biệt, thể hiện lợi ích, ý chí
của nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của chính Đảng của
giai cấp công nhân; là tổ chức mà thông qua đó, Đảng của giai
cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn
xã hội.
Khác với các hình thức nhà nước đã từng có trong lịch sử,
nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt với
những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ cơ bản để
thực hiện quyền lực của nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản.
Hai là, nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng là công cụ chuyên

2
1. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, t.1,
tr.349.
92
chính của giai cấp nhưng không phải là công cụ để đàn áp một
giai cấp nào đó mà chỉ thực hiện sự trấn áp với những thế lực
phá hoại sự nghiệp cách mạng. Vì thế, nhà nước xã hội chủ
nghĩa là công cụ cơ bản để bảo vệ lợi ích của tuyệt đại đa số
nhân dân. Đây là đặc trưng về nguyên tắc khác hẳn với nhà nước
tư sản.
Ba là, nhà nước xã hội chủ nghĩa trong khi nhấn mạnh sự
cần thiết của bạo lực và trấn áp, vẫn coi vấn đề tổ chức, xây
dựng là đặc trưng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa, của
chuyên chính vô sản. V.I.Lênin cho rằng: chuyên chính vô sản
không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột, và cũng không
phải chủ yếu là bạo lực mà mặt cơ bản của nó là tổ chức xây
dựng toàn diện xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa.
Bốn là, nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm trong nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, và theo V.I.Lênin, con đường vận động, phát
triển của nó là: ngày càng hoàn thiện các hình thức đại diện nhân
dân, mở rộng dân chủ nhằm lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân
dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Năm là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước
đặc biệt, “nhà nước không còn nguyên nghĩa”, là “nửa nhà
nước”. Sau khi những cơ sở kinh tế - xã hội cho sự tồn tại của
nhà nước mất đi thì nhà nước cũng không còn, nhà nước “ tự tiêu
vong”. Đây cũng là một đặc trưng nổi bật của nhà nước vô sản.
Những đặc trưng trên cho thấy nhà nước xã hội chủ nghĩa
có sự khác biệt về chất so với tất cả các kiểu nhà nước khác
trong lịch sử nhân loại. Mục tiêu cuối cùng của nhà nước xã hội
chủ nghĩa là bảo đảm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân trong việc giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và

93
giải phóng con người.
b. Chức năng chủ yếu nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa:
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa có hai chức năng sau:
+ Một là, xây dựng những công cụ bạo lực để trấn áp, đập
tan sự phản kháng của kẻ thù với âm mưu chống lại sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất
nước, giữ vững an ninh xã hội. Bạo lực, trấn áp là cái vốn có của
mọi nhà nước, do đó, chức năng này cũng là cái vốn có của nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
+ Hai là, cải biến xã hội cũ, tổ chức có hiệu quả công cuộc
xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa. Từ đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền
lực, vừa là bộ máy hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế,
văn hóa xã hội của nhân dân.
- Bạo lực, trấn áp là cái vốn có của mọi nhà nước, trong đó
có nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin đều cho rằng với bản chất của nhà nước
vô sản, thì việc tổ chức, xây dựng mang tính sáng tạo nhằm cải
biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là chức năng căn bản, chủ
yếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Từ hai chức năng trên, nhà nước xã hội chủ nghĩa có
những nhiệm vụ chính là: quản lý kinh tế, xây dựng và phát triển
kinh tế; cải thiện không ngừng đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân; quản lý văn hóa - xã hội, xây dựng nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa, thực hiện giáo dục - đào tạo con người phát triển toàn
diện, chăm sóc sức khỏe nhân dân… Ngoài ra, nhà nước xã hội
chủ nghĩa còn có chức năng, nhiệm vụ đối ngoại nhằm mở rộng
quan hệ hợp tác, hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì sự
phát triển và tiến bộ xã hội của tất cả các nước trên thế giới.

94
Bài tập 75
a. Trình bày những đặc trưng của nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa?
b. Vì sao nói: “văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội”?
Gợi ý trả lời:
a. Những đặc trưng của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa:
- Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong
quá trình lịch sử của mình, biểu hiện trình độ phát triển xã hội
trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
- Sự ra đời, xác lập của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa gắn
liền với hai tiền đề quan trọng là tiền đề chính trị (sau khi giai
cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền) và
tiền đề kinh tế (chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu
được thiết lập). Từ hai tiền đề chính trị và kinh tế đó, tiến trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được thực hiện trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực đời sống tinh thần
và nền văn hóa vô sản (hay còn gọi là nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa). Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng sau:
+ Một là, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là nội dung
cốt lõi, giữ vai trò chủ đạo, quyết định phương hướng phát triển
nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Trong xã hội có giai cấp, tư tưởng,
ý thức hệ giai cấp là nội dung cốt lõi của mọi nền văn hóa. Trong
mọi thời đại, tư tưởng của giai cấp thống trị luôn là tư tưởng
thống trị của thời đại đó. Sau khi giai cấp công nhân trở thành
giai cấp cầm quyền thì chủ nghĩa Mác - Lênin giữ vai trò chủ
đạo trong đời sống tinh thần của xã hội là một tất yếu. Vai trò
95
chủ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa là điều kiện quyết định đưa nhân dân lao động thực sự
trở thành chủ thể tự giác trong sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.
Đặc trưng nói trên phản ánh bản chất của giai cấp công nhân và
tính đảng cộng sản của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
+ Hai là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa có
tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. Đặc trưng này thể
hiện mục đích và động lực nội tại của quá trình xây dựng nền
văn hóa xã hội chủ nghĩa. Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa, hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hóa không còn là
đặc quyền, đặc lợi của thiểu số giai cấp bóc lột. Ngược lại, giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc là chủ thể
sáng tạo và hưởng thụ. Công cuộc cải biến cách mạng toàn diện
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa từng bước tạo ra tiền
đề vật chất, tinh thần để đông đảo nhân dân lao động tham gia
xây dựng nền văn hóa mới. Chính trong quá trình đó, văn hóa
hướng tới nhân dân, dân tộc và mọi thành tựu văn hóa trở thành
tài sản của nhân dân.
+ Ba là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa được
hình thành, phát triển một cách tự giác, đặt dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân thông qua tổ chức đảng cộng sản, có sự quản
lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
không hình thành và phát triển một cách tự phát. Trái lại, nó phải
được hình thành và phát triển một cách tự giác, có sự quản lý của
nhà nước và có sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công
nhân. Mọi sự coi nhẹ hoặc phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng
cộng sản và vai trò quản lý của nhà nước đối với đời sống tinh
thần của xã hội, đối với nền văn hóa xã hội chủ nghĩa đều nhất
định sẽ làm cho đời sống văn hóa tinh thần của xã hội mất đi
phương hướng chính trị của mình.
96
b. Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội:
- Văn hóa là mục tiêu của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Bởi vì, bản chất của văn hoá là sự kết tinh năng lực của con
người. Văn hoá là phương thức bộc lộ, phát huy những năng lực
bản chất con người gắn với những hoạt động sống của họ, làm
cho con người trở nên tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn. Những nội
dung này cũng là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. C.Mác đã từng
khái quát: mỗi bước con người tiến đến văn hoá là mỗi bước con
người tiến đến tự do. Đến V.I.Lênin, tư tưởng đó đã được diễn
đạt cụ thể hơn khi ông đưa ra luận điểm “văn hóa vô sản phải là
sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài
người tích lũy được”1. Chính vì thế, hiểu theo góc độ này thì chủ
nghĩa xã hội là chế độ xã hội mang những đặc trưng của văn hoá
và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng chính là quá trình
xây dựng nền văn hóa tiến bộ nhất, hướng đến phục vụ con
người.
- Văn hóa là động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Bởi vì, các nhân tố văn hoá cũng luôn gắn bó với đời sống
kinh tế - xã hội. Chỉ có làm cho tất cả mọi người đều phải có văn
hóa, phải nâng cao trình độ văn hóa của quần chúng nhân dân thì
mới có thể khắc phục tình trạng thiếu hụt văn hóa, giúp đông đảo
nhân dân lao động chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, nâng cao
trình độ và nhu cầu thụ hưởng văn hóa. Nền văn hoá mới xã hội
chủ nghĩa sẽ tạo những tiền đề quan trọng nâng cao năng suất lao
động, phẩm chất, năng lực, học vấn, giác ngộ chính trị cho quần
chúng nhân dân lao động, v.v.. Đến lượt nó, những cơ sở, điều
kiện vật chất và tinh thần ấy trở thành động lực, yêu cầu cần thiết
trong việc đưa quần chúng nhân dân thực sự trở thành chủ thể
1
1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t.41, tr. 362.
97
sản xuất và tiêu dùng, sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá
tinh thần.

Bài tập 76
a. Dân tộc là gì?
b. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
trong việc giải quyết vấn đề dân tộc?
c. Một số quan điểm lớn của nhà nước ta trong việc giải
quyết vấn đề dân tộc?
Gợi ý trả lời:
a. Khái niệm dân tộc:
Dân tộc là một hình thức tổ chức cộng đồng người có tính
chất ổn định được hình thành trong lịch sử; là sản phẩm của quá
trình phát triển lâu dài của lịch sử xã hội. Khái niệm dân tộc
thường được dùng với hai nghĩa:
- Một là, dùng để chỉ cộng đồng người cụ thể nào đó có
mối liên hệ chặt chẽ, bền vững do có chung một số đặc điểm như
kinh tế, ngôn ngữ, tập quán, sinh hoạt văn hóa tạo nên nét đặc
thù so với những cộng đồng khác.
- Hai là, dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định, bền
vững hợp thành nhân dân của một quốc gia, có lãnh thổ chung,
nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung, có truyền thống văn hóa
, truyền thống đấu tranh chung trong quá trình dựng nước và giữ
nước.
Như vậy, về khái niệm dân tộc, nếu theo nghĩa thứ nhất,
dân tộc là bộ phận của quốc gia, là các tộc người; còn theo nghĩa
thứ hai thì dân tộc là toàn bộ nhân dân một nước, là quốc gia -
dân tộc.
b. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
98
trong việc giải quyết vấn đề dân tộc:
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, cùng với vấn
đề giai cấp, dân tộc là một bộ phận của những vấn đề chung về
cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản; là nội dung quan
trọng, có ý nghĩa chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Giải quyết vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề có ý nghĩa
quyết định đến sự ổn định, phát triển hay khủng hoảng, tan rã
của một quốc gia dân tộc.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng nhấn mạnh đến nguyên tắc
chung nhất khi giải quyết vấn đề dân tộc, đó là phải luôn đứng
vững trên lập trường giai cấp công nhân. Điều đó giúp bảo đảm
lợi ích cơ bản, lâu dài của dân tộc.
- Giải quyết vấn đề dân tộc, thực chất là xác lập quan hệ
công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc trong một quốc gia, giữa
các quốc gia - dân tộc trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội và ngôn ngữ. Nội dung cơ bản của việc giải quyết
vấn đề dân tộc được thể hiện rõ trong Cương lĩnh dân tộc của
V.I.Lênin. Đây cũng được xem là cương lĩnh dân tộc của chủ
nghĩa Mác - Lênin và Đảng Cộng sản với ba nội dung cơ bản sau
đây:
+ Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng. Đây là quyền
thiêng liêng của các dân tộc. Tất cả các dân tộc, dù đông hay ít
người, có trình độ phát triển cao hay thấp đều có quyền lợi và
nghĩa vụ như nhau, không có đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính
trị, văn hóa, ngôn ngữ cho bất cứ dân tộc nào. Trong một quốc
gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc phải được pháp
luật bảo vệ và phải được thực hiện trong thực tế. Trong quan hệ
giữa các quốc gia - dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc gắn liền với
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa

99
sôvanh nước lớn, chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản
phát triển đối với các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế
nhằm thực hiện sự bình đẳng giữa các quốc gia trong quan hệ
quốc tế.
+ Hai là, các dân tộc được quyền tự quyết. Về thực chất,
quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc, quyền
tự quyết định con đường phát triển kinh tế, chính trị - xã hội của
dân tộc mình. Quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự do phân
lập thành cộng đồng quốc gia dân tộc độc lập (vì lợi ích của các
dân tộc, chứ không phải vì mưu đồ và lợi ích của một nhóm
người nào) và quyền tự nguyện liên hiệp lại với các dân tộc khác
trên cơ sở bình đẳng. Khi xem xét, giải quyết quyền tự quyết của
dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân:
ủng hộ các phong trào tiến bộ, kiên quyết đấu tranh chống lại
những mưu toan lợi dụng quyền dân tộc tự quyết làm chiêu bài
để can thiệp vào công việc nội bộ các nước, đòi ly khai chia rẽ
dân tộc.
+ Ba là, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây là tư
tưởng, nội dung cơ bản trong Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin.
Tư tưởng này là sự thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công
nhân, phong trào công nhân và phản ánh tính thống nhất giữa sự
nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp. Đoàn kết giai
cấp công nhân các dân tộc có ý nghĩa lớn lao đối với sự nghiệp
giải phóng dân tộc. Nó có vai trò quyết định đến việc xem xét,
thực hiện quyền bình đẳng dân tộc và quyền dân tộc tự quyết.
Đồng thời, đây cũng là yếu tố tạo nên sức mạnh bảo đảm cho
thắng lợi của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
c. Một số quan điểm lớn của nhà nước ta trong việc giải

100
quyết vấn đề dân tộc:
Xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc và tình hình, đặc điểm
dân tộc ở nước ta, quan điểm lớn của nhà nước ta trong việc giải
quyết vấn đề dân tộc bao gồm những điểm sau:
- Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
cách mạng của nước ta.
- Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
- Nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách, tạo chuyển
biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội vùng dân tộc
thiểu số.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện
các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các
cấp.
- Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành
động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.

Bài tập 77
a. Khái niệm, nguồn gốc ra đời của tôn giáo?
b. Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội?
c. Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong
việc giải quyết vấn đề tôn giáo?
d. Một số quan điểm lớn của nhà nước ta trong việc giải
quyết vấn đề tôn giáo?
101
Gợi ý trả lời:
a. Khái niệm và nguồn gốc ra đời của tôn giáo:
- Khái niệm tôn giáo:
Khi phân tích bản chất tôn giáo với tư cách là một hình thái
ý thức xã hội, Ph.Ăngghen đã cho rằng: “tất cả mọi tôn giáo
chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con
người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống
hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở
trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế” 1. Qua
luận điểm này cần lưu ý một số điểm sau đây:
- Tôn giáo không phải là cái tự có mà là sản phẩm của con
người, là sự phản ánh một phần xã hội vào trong ý thức của con
người.
- Tôn giáo sự phản ánh phi lý tính, hoang đường, để rồi sau
đó lấy cái phi lý, cái hoang đường làm chân lý, chuẩn mực để
giải thích hoặc chi phối cái hiện thực.
- Tôn giáo là sản phẩm của con người, nhưng không phải là
con người cá nhân, riêng lẻ, mà là con người xã hội, do đó tôn
giáo là một hiện tượng xã hội.
- Xét về bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội tiêu
cực, nó vừa biểu thị sự phản kháng tiêu cực trước những nỗi khổ
đau và bất hạnh của con người, vừa biểu thị sự nhẫn nhục, sự bất
lực của con người trước những sức mạnh tự phát của tự nhiên và
xã hội.
Tôn giáo được tạo thành bởi ba yếu tố cơ bản, bao gồm ý
thức tôn giáo (gồm tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo), hệ
thống nghi lễ tôn giáo (trong đó hoạt động thờ cúng là yếu tố cơ

1
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20,
tr.437.
102
bản) và tổ chức tôn giáo (thường có hệ thống từ trung ương đến
cơ sở). Vì vậy, tôn giáo là một lực lượng xã hội trần thế, có tác
động không nhỏ đến đời sống xã hội.
- Nguồn gốc ra đời của tôn giáo:
+ Một là, về nguồn gốc kinh tế - xã hội.
• Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, trình độ thấp kém
của lực lượng sản xuất đã làm cho con người không nắm bắt
được thực tiễn. Do vậy, con người cảm thấy yếu đuối và bất lực
trước tự nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì thế, họ đã gán cho tự nhiên
những sức mạnh, quyền lực to lớn, thần thánh hóa những sức
mạnh đó. Đó là hình thức tồn tại đầu tiên của tôn giáo.
• Khi xã hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh
cảm giác yếu đuối trước sức mạnh tự phát của tự nhiên, con
người lại cảm thấy bất lực trước những sức mạnh tự phát của xã
hội hoặc của một thế lực nào đó của xã hội. Không giải thích
được nguồn gốc của sự phân hoá giai cấp và áp bức bóc lột, của
những ngẫu nhiên, may rủi, con người lại hướng niềm tin hư ảo
vào “thế giới bên kia” dưới hình thức các tôn giáo. Như vậy, sự
yếu kém về trình độ phát triển lực lượng sản xuất cùng với sự
bần cùng về kinh tế, áp bức về chính trị, thất vọng, bất lực trước
những bất công xã hội là một trong những nguồn gốc sâu xa của
tôn giáo.
+ Hai là, về nguồn gốc nhận thức.
• Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con
người về tự nhiên, xã hội và bản thân mình là có giới hạn.
Khoảng cách giữa cái biết và cái chưa biết luôn luôn tồn tại. Cho
nên, trước mắt con người, thế giới vừa luôn là cái hiểu được, vừa
luôn là cái bí ẩn. Do không giải thích được cái bí ẩn ấy nên con
người dễ xuyên tạc nó, điều gì khoa học chưa giải thích được,

103
điều đó dễ bị tôn giáo thay thế.
• Sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo còn gắn liền với đặc
điểm nhận thức của con người. Con người ngày càng nhận thức
đầy đủ hơn, sâu sắc hơn thế giới khách quan, khái quát hoá thành
các khái niệm, phạm trù, quy luật. Nhưng càng khái quát hoá,
trừu tượng hóa thì nhận thức của con người ngày càng có nguy
cơ xa rời hiện thực và dễ phản ánh sai lạc hiện thực. Như vậy,
thực chất nguồn gốc nhận thức của tôn giáo là sự tuyệt đối hoá,
cường điệu hoá mặt chủ thể của nhận thức con người, dẫn đến
thiếu khách quan, mất dần cơ sở hiện thực, dễ rơi vào ảo tưởng,
thần thánh hoá đối tượng.
+ Ba là, về nguồn gốc tâm lý.
• Trong cuộc sống, những trạng thái tâm lý mang tính tiêu
cực như sự bất hạnh, đau khổ, nỗi kinh hoàng, sợ hãi,… dễ dẫn
con người đến với tôn giáo để mong được sự an ủi, che chở, giúp
đỡ nhằm làm giảm nỗi khổ đau của con người trong cuộc sống
hiện thực.
• Những trạng thái tâm lý tích cực như sự hân hoan, vui
sướng, mãn nguyện, v.v., đôi khi cũng có thể là một nguyên
nhân dẫn con người đến với tôn giáo. Sự thành đạt, may mắn,
hạnh phúc trong cuộc sống nhiều khi lại được hiểu là do thần
thánh ban cho.
• Lòng kính trọng, sự biết ơn cũng có thể làm xuất hiện
trong con người nhu cầu muốn thần thánh hoá, linh thiêng hoá để
thể hiện lòng kính trọng, sự biết ơn ấy (ví dụ; thờ cúng tổ tiên,
thờ anh hùng dân tộc, ….).
• Một số yếu tố như thói quen, truyền thống, phong tục, tập
quán cũng là những nguyên nhân tâm lý dẫn đến sự hình thành,
duy trì và phát triển niềm tin tôn giáo.

104
b. Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội:
Việc nghiên cứu các nguồn gốc của tôn giáo cung cấp cho
chúng ta cơ sở khoa học để có thể lý giải về nguyên nhân tồn tại
của tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Có nhiều
nguyên nhân cho sự tồn tại của tín ngưỡng tôn giáo, trong đó có
những nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, nguyên nhân nhận thức. Trong tiến trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều
hiện tượng tự nhiên, xã hội và của con người mà khoa học chưa
lý giải được. Do đó, trước những sức mạnh tự phát của giới tự
nhiên và xã hội mà con người vẫn chưa thể nhận thức và chế ngự
được đã khiến cho một bộ phận nhân dân đi tìm sự an ủi, che chở
và lý giải chúng từ sức mạnh của thần linh.
Hai là, nguyên nhân kinh tế. Trong tiến trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều thành phần với
những lợi ích khác nhau của các giai cấp, tầng lớp xã hội. Trong
đời sống hiện thực, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội vẫn còn diễn ra, sự cách biệt khá lớn về đời sống vật
chất và tinh thần giữa các nhóm dân cư còn tồn tại phổ biến. Do
đó, những yếu tố may rủi, ngẫu nhiên vẫn tác động mạnh mẽ đến
con người, làm cho con người dễ trở nên thụ động với tư tưởng
nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.
Ba là, nguyên nhân tâm lý. Tín ngưỡng, tôn giáo đã tồn tại
lâu đời trong lịch sử nhân loại, đã trở thành niềm tin, lối sống,
phong tục, tập quán, tình cảm của một bộ phận đông đảo quần
chúng nhân dân qua nhiều thế hệ. Bởi vậy, cho dù trong tiến
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa
đã có những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, chính trị - xã hội

105
nhưng tôn giáo vẫn không thể biến đổi ngay cùng với tiến độ của
những biến đổi kinh tế - xã hội mà nó phản ánh.
Bốn là, nguyên nhân chính trị - xã hội. Xét về mặt giá trị,
một số nguyên tắc của tôn giáo là phù hợp với chủ trương,
đường lối, chính sách của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nổi bật
nhất là giá trị đạo đức và giá trị văn hóa với tinh thần nhân đạo,
hướng thiện…, đáp ứng được nhu cầu của một bộ phận quần
chúng. Chính vì thế, trong một chừng mực nhất định, tôn giáo có
sức hút mạnh mẽ đối với một bộ phận quần chúng nhân dân.
Năm là, nguyên nhân văn hóa. Trong thực tế sinh hoạt văn
hóa xã hội, sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo đã đáp ứng được phần
nào nhu cầu văn hóa tinh thần của cộng đồng xã hội và trong một
mức độ nhất định, có ý nghĩa giáo dục ý thức cộng đồng, phong
cách, lối sống của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Những sinh
hoạt văn hóa có tính chất tín ngưỡng, tôn giáo ấy đã lôi cuốn một
bộ phận quần chúng nhân dân khi đáp ứng được nhu cầu văn hóa
tinh thần, tình cảm của họ.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản khiến tôn giáo vẫn
còn tồn tại trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã
hội xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cùng với tiến trình đó, tôn giáo
cũng có những biến đổi cùng với sự đổi thay của những điều
kiện kinh tế - xã hội, với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới.
c. Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong
việc giải quyết vấn đề tôn giáo:
Tín ngưỡng, tôn giáo là những vấn đề nhạy cảm và phức
tạp. Do đó, những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải được xem
xét, giải quyết hết sức thận trọng, cụ thể, chuẩn xác và có tính
nguyên tắc. Giải quyết vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng

106
chủ nghĩa xã hội cần dựa trên những nguyên tắc sau đây:
- Một là, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn
giáo trong đời sống xã hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đó là yêu cầu khách quan của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Hai là, khi tín ngưỡng, tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần
của một bộ phận nhân dân thì nhà nước xã hội chủ nghĩa phải
tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín
ngưỡng của mọi công dân. Cần phát huy những giá trị tích cực
của tôn giáo, nghiêm cấm mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín
ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân.
- Ba là, thực hiện đoàn kết những người có tôn giáo với
những người không có tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết
toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nghiêm cấm mọi
hành vi chia rẽ cộng đồng vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
- Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong
vấn đề tôn giáo. Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn
giáo. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, khắc phục mặt
này là việc làm thường xuyên, lâu dài. Mặt chính trị là sự lợi
dụng tôn giáo của những phần tử phản động nhằm chống lại sự
nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đấu
tranh loại bỏ mặt chính trị phản động trong lĩnh vực tôn giáo là
nhiệm vụ thường xuyên, vừa phải khẩn trương, kiên quyết, vừa
phải thận trọng và phải có sách lược phù hợp với thực tế.
- Năm là, phải có quan điểm lịch sử - cụ thể khi giải quyết
vấn đề tôn giáo. Trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò và
sự tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội cũng khác
nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về
các lĩnh vực, các vấn đề của xã hội có sự khác biệt. Do đó, cần

107
phải có quan điểm lịch sử - cụ thể khi xem xét, đánh giá và giải
quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo.
d. Một số quan điểm và chính sách lớn của Nhà nước trong
việc giải quyết vấn đề tôn giáo ở nước ta:
Xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo và thực tiễn tình hình
tôn giáo của nước ta, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra một số
quan điểm và chính sách lớn trong việc giải quyết vấn đề tôn
giáo như sau:
- Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng,
tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng.
- Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các
tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống
tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh
hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà
nước công nhận, đúng quy định của pháp luật.
- Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những
hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá
hoại khối đại đoàn kết dân tộc.

108
Chương IX
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC VÀ TRIỂN VỌNG

Bài tập 78
a. Trình bày những thành tựu to lớn của chủ nghĩa xã hội
hiện thực?
b. Những thành tựu ấy có ảnh hưởng như thế nào đối với
phong trào cách mạng và tiến trình lịch sử của thế giới?
Gợi ý trả lời:
a. Những thành tựu to lớn của chủ nghĩa xã hội hiện thực:
- Chủ nghĩa xã hội hiện thực là chế độ xã hội được xây
dựng trên thực tế với hai tiền đề quan trọng là tiền đề kinh tế
(chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu được thiết lập) và
tiền đề chính trị (chính quyền đã thuộc về giai cấp công nhân và
quần chúng nhân dân lao động). Từ hai tiền đề kinh tế và chính
trị đó, giai cấp công nhân thông qua chính đảng của mình là
Đảng Cộng sản lãnh đạo quần chúng nhân dân tiến hành cuộc
đấu tranh cách mạng mới nhằm bảo vệ thành quả cách mạng và
cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới với đầy đủ những đặc
trưng của chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên ra đời ở nước Nga
Xôviết gắn với sự kiện Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Ngoài Mông Cổ tuyên bố con đường chủ nghĩa xã hội năm 1921,
trong và sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ở châu Âu, châu Á và
khu vực Mỹ Latinh đã có nhiều nước do Đảng Cộng sản lãnh
đạo bằng các phương thức khác nhau đã giành được chính quyền
và sau đó đi lên chủ nghĩa xã hội, bao gồm Nam Tư (1944), Ba
Lan (1945), Việt Nam (1945); Anbani (1946), Bungari (1946),
Hunggari (1947), Rummani (1948), Tiệp Khắc (1948); Triều
109
Tiên (1948), Trung Quốc (1949), Cộng hòa Dân chủ Đức (1949),
Cuba (1959).
- Vậy là, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa xã hội
từ một nước đã mở rộng ra nhiều nước ở châu Âu, châu Á và
khu vực Mỹ Latinh. Những nước này đều dựa vào những tiền đề
chủ yếu về kinh tế và chính trị của hình thái kinh tế - xã hội mới
để xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó,
chủ nghĩa xã hội trở thành hệ thống tồn tại song song với hệ
thống tư bản chủ nghĩa. Đến năm 1991, từ những sai lầm của mô
hình phát triển kinh tế - xã hội và đường lối cải tổ, công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã
thất bại. Bên cạnh đó, bằng đường lối cải cách và đổi mới đúng
đắn, một số nước xã hội chủ nghĩa khác đã vượt qua khủng
hoảng và đạt được những thành tựu quan trọng. Chủ nghĩa xã hội
với tư cách là một chế độ xã hội hiện thực vẫn đang được xây
dựng ở Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, Cuba và Lào.
- Cho dù lịch sử có biến động thế nào, dù ai cố tình xuyên
tạc lịch sử cũng không thể phủ nhận được sự thật là từ năm 1991
đến nay, đặc biệt là từ thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng xã
hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917 đến sự kiện tháng 8
năm 1991, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã vượt qua muôn trùng
khó khăn, phát triển rực rỡ với những thành tựu to lớn, tác động
mạnh mẽ đến tiến trình phát triển lịch sử loài người. Có thể kể ra
những thành tựu hết sức to lớn như sau:
+ Về chính trị: chế độ người bóc lột người đã bị xoá bỏ,
trên phạm vi toàn xã hội không còn tồn tại giai cấp bóc lột, chế
độ xã hội chủ nghĩa từng bước được xây dựng, nhân dân lao
động trở thành người làm chủ đất nước.
+ Về kinh tế: trong hơn 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội,

110
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt được sự phát
triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất của
chủ nghĩa xã hội trên quy mô lớn với trình độ hiện đại, bảo đảm
ngày càng tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
+ Về văn hóa, khoa học kỹ thuật: các nước xã hội chủ
nghĩa cũng đã đạt được những thành tựu rực rỡ: nâng cao trình
độ học vấn cho người lao động, dẫn đầu thế giới về nhiều lĩnh
vực, nhất là lĩnh vực nghiên cứu chinh phục khoảng không vũ
trụ. Các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế cũng có những thành
tựu to lớn.
Những thành tựu kể trên càng trở nên vĩ đại hơn khi đặt nó
trong bối cảnh trước lúc nhân dân các nước bắt tay xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Khi bắt đầu sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và
xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nước này đều có điểm chung nổi
bật là điểm xuất phát thấp với một nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu, đất nước bị tàn phá nặng nề vì phải trải qua những cuộc
chiến tranh kéo dài, các thế lực thù địch trong và ngoài nước
điên cuồng chống phá hòng tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản,... Có
thấy hết những khó khăn trên khi bắt tay vào thực hiện những
nhiệm vụ chưa từng có tiền lệ trong lịch sử mới thấy được giá trị,
những thành tựu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội của
các nước xã hội chủ nghĩa tạo ra.
b. Ảnh hưởng của những thành tựu đối với phong trào cách
mạng và tiến trình lịch sử của thế giới:
Với những thành tựu kể trên, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã
có những ảnh hưởng, tác động to lớn đối với phong trào cách
mạng và tiến trình lịch sử của thế giới, có thể kể ra như sau:
- Một là, việc có được một nền kinh tế hùng cường, chế độ
chính trị và nền quốc phòng hùng mạnh, sức mạnh của chủ nghĩa

111
xã hội hiện thực đã đóng vai trò quyết định trong việc đánh
thắng và cứu loài người ra khỏi thảm họa phátxít, đẩy lùi nguy
cơ chiến tranh hủy diệt, trở thành thành trì của hòa bình thế giới,
giữ cho nhân loại được sống trong môi trường hòa bình dài nhất
thế kỷ để có điều kiện đầu tư phát triển kinh tế, đi đến những
“hiện tượng thần kỳ” ở nhiều quốc gia, khu vực.
- Hai là, với sự lớn mạnh toàn diện, chủ nghĩa xã hội có
ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống chính trị thế giới, đóng vai trò
quyết định đối với sự sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế
quốc, hạn chế sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa
bá quyền của các nước đế quốc, góp phần làm phát triển mạnh
mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, trở thành chỗ dựa
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, mở ra kỷ nguyên
mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và thời đại quá độ lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
- Ba là, sức hấp dẫn thực tế của chủ nghĩa xã hội đã thúc
đẩy trào lưu đấu tranh cho nền tự do dân chủ ở các nước tư bản
chủ nghĩa và trên toàn thế giới, cổ vũ và củng cố niềm tin vào sự
nghiệp đấu tranh của nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ
nghĩa vì tiến bộ xã hội, đòi các quyền dân sinh, dân chủ, phúc lợi
xã hội. Với sức ép từ phía các nước xã hội chủ nghĩa, các thế lực
cầm quyền ở các nước phương Tây buộc phải nhượng bộ và
chấp nhận thực hiện nhiều yêu sách tiến bộ của nhân dân lao
động.
Như vậy, mặc dù chưa được xây dựng và phát triển đầy đủ
nhưng chủ nghĩa xã hội hiện thực đã tác động và có ảnh hưởng
to lớn đến đời sống chính trị thế giới, đã đóng góp quyết định
vào những thay đổi chính trị sâu sắc và những bước tiến bộ trọng
đại của loài người trong thế kỷ XX. Ngày nay, diện mạo và xu

112
hướng phát triển của thế giới tiếp tục cho thấy có một phần là
nhờ có chủ nghĩa xã hội hiện thực và hệ thống xã hội chủ nghĩa
thế giới. Đây cũng là những bằng chứng đầy sức thuyết phục về
tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã
hội mới và tiến bộ trong lịch sử loài người.

Bài tập 79
Mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực đã được xác định và thực
thi như thế nào ở Liên Xô và các nước Đông Âu? Nêu những
nhận định về vai trò lịch sử của các mô hình đó?
Gợi ý trả lời:
Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành
công, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông
Âu trong thực tế được thực hiện với các mô hình sau:
- Mô hình gắn liền với “Chính sách cộng sản thời chiến”
(1918-1921).
+ Mô hình này chứa đựng những chính sách kinh tế phù
hợp với đặc trưng của thời chiến tranh với hàng loạt những biện
pháp có tính chất cưỡng chế. Chẳng hạn như: tiến hành thủ tiêu
quan hệ hàng hóa, tiền tệ, tiến hành trưng thu lương thực thừa,....
+ Chính sách này phù hợp với điều kiện lịch sử cấp bách
của nước Nga Xôviết trong hoàn cảnh “thù trong, giặc ngoài”
cùng với những khó khăn chồng chất mà nước Nga Sa hoàng để
lại. Việc thực thi chính sách này có một tác dụng vô cùng quan
trọng trong việc đập tan sự can thiệp vũ trang của thế lực đế
quốc bên ngoài và bọn phản loạn chống phá cách mạng từ bên
trong, bảo vệ được chính quyền Xôviết non trẻ.
- Mô hình gắn liền với “Chính sách kinh tế mới" (1921-
1926):
113
+ Chính sách này được thực hiện trong thời kỳ bắt đầu
chuyển sang xây dựng và khôi phục kinh tế trong thời bình để
khắc phục nguy cơ khủng hoảng kinh tế và chính trị nghiêm
trọng. Đặc trưng cơ bản của chính sách này là chuyển từ chính
sách kinh tế thời chiến sang phát triển kinh tế hàng hóa, coi trọng
phát triển lực lượng sản xuất, khẳng định kinh tế thị trường, lợi
dụng chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội,…
+ Việc thực thi chính sách kinh tế mới đã trở thành mấu
chốt cho việc cứu nguy sự khủng hoảng kinh tế của nước Nga,
làm sống động lại nền kinh tế nông thôn của nước Nga Xôviết,
phát triển sản xuất, tăng cường cơ sở kinh tế, cải thiện đời sống
vật chất, tinh thần của công nhân, nông dân và người lao động
nói chung. Chính sách này không những làm cho nhà nước
Xôviết trụ vững mà còn mở ra con đường phát triển về mọi mặt
cho xã hội mới.
- Mô hình Liên Xô:
+ Sau khi V.I.Lênin qua đời, do bối cảnh quốc tế và do yêu
cầu phải nhanh chóng đưa Liên Xô trở thành cường quốc công
nghiệp, nên từ cuối những năm 20 đầu những năm 30 của thế kỷ
XX, "Chính sách kinh tế mới" không còn được thực hiện mà
thay vào đó là một mô hình khác. Mô hình này có nét đặc trưng
nổi bật như: coi trọng phát triển công nghiệp nặng, xoá bỏ chế độ
sở hữu tư nhân, thực hiện công hữu đơn nhất về tư liệu sản xuất,
hoàn toàn loại trừ cơ chế thị trường, áp dụng cơ chế kế hoạch
hóa có tính pháp lệnh tập trung cao độ, dồn sức tiến hành công
nghiệp hóa, tập thể hóa bằng phương pháp hành chính, mệnh
lệnh và bao cấp. Nhà nước trực tiếp điều hành nền kinh tế theo
kế hoạch tập trung thống nhất, Đảng giữ vai trò lãnh đạo nhưng
thực chất lại trực tiếp điều hành nhà nước,…

114
+ Với mô hình này, Liên Xô đã thành công rực rỡ trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, tập thể hóa với thời gian chưa đầy 20
năm, tạo cho Liên Xô có sức mạnh to lớn bảo vệ được Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa; đóng vai trò quan trọng trong việc tiêu diệt chủ
nghĩa phátxít; nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh; giúp
đỡ có hiệu quả các nước Đông Âu thiết lập chế độ xã hội chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội; đưa Liên Xô lên hàng siêu
cường.
Từ thực tế đó, Đảng Cộng sản Liên Xô, sau đó là các Đảng
Cộng sản cầm quyền ở các nước Đông Âu và những nơi khác
tiến hành tổng kết thực tiễn, khái quát thành lý luận và nguyên
tắc cơ bản - coi đó là những quy luật phổ biến của chủ nghĩa
Mác - Lênin về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội để tất cả các nước đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa đều phải thực hiện.
Từ những năm 50 đến những năm 80 của thế kỷ XX, hệ
thống lý luận và các nguyên tắc cơ bản đó được áp dụng một
cách phổ biến ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa và đã đạt được
những thành tựu vĩ đại, đưa loài người đi vào một thời đại mới -
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi thế giới.
Tuy nhiên, dần theo thời gian, cùng với sự phát triển của
kinh tế - xã hội thì những hạn chế của mô hình này cũng dần dần
bộc lộ ra mà chủ yếu là: quản lý quá chặt theo kiểu hành chính,
phủ nhận giá trị của kinh tế thị trường, không phát huy được sức
sáng tạo của quần chúng nhân dân. Chính vì thế, bắt đầu từ cuối
những năm 80 của thế kỷ XX, hạn chế của mô hình này và nhiều
nguyên nhân bên trong và bên ngoài đã dẫn tới tình trạng khủng
hoảng nghiêm trọng, toàn diện ở tất cả các nước xã hội chủ

115
nghĩa.

Bài tập 80
a. Làm rõ nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ
của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu.
b. Từ việc chỉ ra nguyên nhân, hãy rút ra một số nhận định
về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của nhân loại.
Gợi ý trả lời:
a. Nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu:
Bắt đầu từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu bước vào thời kỳ khủng
hoảng. Để vượt qua khủng hoảng, các nước xã hội chủ nghĩa
phải tiến hành cải tổ, cải cách, đổi mới mô hình chủ nghĩa xã hội
cũ. Trong quá trình cải tổ, cải cách đó, nhiều Đảng Cộng sản lại
phạm phải những sai lầm nghiêm trọng mới, làm cho sự khủng
hoảng càng trở nên sâu sắc và trầm trọng hơn dẫn đến sự sụp đổ
hoàn toàn chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu vào
năm 1991. Tấn thảm kịch này có nguyên nhân sâu xa và nguyên
nhân chủ yếu, trực tiếp.
- Về nguyên nhân sâu xa: do chậm đổi mới đối với những
bất cập trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước những
biến đổi của hoàn cảnh lịch sử. Chủ nghĩa xã hội Xôviết ra đời
trong điều kiện lịch sử đặc biệt, mô hình tổ chức xã hội để thích
ứng với hoàn cảnh lịch sử đó khó tránh khỏi những khuyết tật.
Khi điều kiện lịch sử khác đi, mô hình đó không kịp thời được
thay đổi bổ sung để thích ứng thì những khuyết tật ấy tất yếu bộc
lộ ra và dẫn tới khủng hoảng toàn hệ thống. Nếu như mô hình tổ
chức xã hội dựa trên kế hoạch hoá tập trung đã phát huy được
116
sức mạnh cho cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại thì trong điều kiện
hoà bình xây dựng chủ nghĩa xã hội, kéo dãn việc thực hiện mô
hình này tỏ ra không còn phù hợp. Cơ chế kế hoạch hoá tập
trung làm mất đi tính chủ động sáng tạo của người lao động,
chậm trễ trong việc tiếp thu những thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ để nâng cao năng suất lao động (yếu
tố cuối cùng quyết định thắng lợi của một chế độ mới). Trong
khi đó, các nước tư bản chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường lại
nhanh hơn các nước xã hội chủ nghĩa trong việc tiếp nhận thành
tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ vào những năm
80 của thế kỷ XX.
- Về nguyên nhân chủ yếu, trực tiếp: do những sai lầm
trong đường lối chính trị, tư tưởng, tổ chức của công cuộc cải tổ.
Chủ trương đưa ra lúc đầu là tăng tốc về kinh tế để chấm dứt
khủng hoảng nhưng vấn đề tăng tốc như thế nào thì lại không có
câu trả lời đúng đắn. Sai lầm nối tiếp sai lầm khi sự bế tắc trong
cải tổ về kinh tế khiến công cuộc cải tổ chuyển trọng tâm sang
lĩnh vực chính trị trên cơ sở của cái gọi là "tư duy chính trị mới".
Thực chất đó là sự lùi dần từng bước trong việc từ bỏ lập trường
giai cấp, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và sự nghiệp xã hội
chủ nghĩa. Những điều đó cùng với sự thổi phồng những hạn chế
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các
nước Đông Âu từ bên bên ngoài nhanh chóng tạo ra làn sóng phê
phán, công kích, phủ nhận thành tựu vĩ đại của chủ nghĩa xã hội,
bôi đen quá khứ hào hùng của cha ông và từ bỏ chủ nghĩa xã hội,
gây hoang mang, xáo trộn đến cực độ trong tư tưởng xã hội, tạo
điều kiện thuận lợi cho đường lối hữu khuynh, cơ hội, xét lại,
phản bội hoành hành... Trách nhiệm lớn nhất của thất bại này
thuộc về Đảng Cộng sản Liên Xô với các hệ thống cơ quan lãnh
đạo cao nhất.
117
Những sai lầm trong đường lối, chính sách cải tổ kể trên đã
tạo ra cơ hội cho các thế lực thù địch tác động, chống phá đẩy
nhanh quá trình cải tổ đi đến sự thất bại hoàn toàn.
b. Một số nhận định về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội
của nhân loại:
- Sự thất bại của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Đông Âu và Liên Xô là một tổn thất vô cùng nghiêm trọng đối
với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và sự nghiệp cách
mạng thế giới đang đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội. Nó khiến
cho phong trào cách mạng bị đẩy lùi, nhân dân lao động lo âu,
tăng thêm cuồng vọng cho các thế lực phản động chống phá cách
mạng. Phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào thời kỳ thoái trào.
- Cần lưu ý rằng “khủng hoảng” và “sụp đổ” là hai hiện
tượng có quan hệ sâu xa với nhau, nhưng về cơ bản là khác
nhau. Khủng hoảng không tất yếu dẫn dến sụp đổ. Bởi vì, vào
những năm 80 của thế kỷ XX, hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa
đều rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, nhưng không phải tất cả
đều sụp đổ. Bên cạnh chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu bị đẩy lùi thì vẫn còn những nước khác với đường lối
cải cách, đổi mới đúng đắn đã đứng vững, vượt qua khủng hoảng
trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, đưa sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước mình tiếp tục bước vào thời kỳ phát triển
mới.
- Việc phân tích và chỉ ra nguyên nhân khủng hoảng và sụp
đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu đã để
lại một bài học sâu sắc rằng: xa rời những nguyên tắc cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội sẽ tất yếu lâm vào khủng hoảng chế độ và
những bi kịch lịch sử.

118
- Sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực
ở Liên Xô và Đông Âu không phải là “sự sụp đổ của chủ nghĩa
xã hội” mà đó chỉ là sự khủng hoảng và sụp đổ của một mô hình
cụ thể của chủ nghĩa xã hội trong tiến trình vận động và phát
triển lịch sử của nó. Giống như không thể có sự đồng nhất giữa
một hình thức cụ thể của quá trình phát triển với bản thân quá
trình ấy. Cũng giống như một quá trình phát triển cụ thể nào, chủ
nghĩa xã hội tuy đã giành được những thành tựu hết sức đáng
khâm phục nhưng quá trình phát triển của nó tất yếu cũng phải
trải qua con đường phát triển đầy quanh co, khúc khuỷu và thậm
chí cả những thất bại tạm thời. Tính tất yếu này sẽ càng được
nhận thức rõ ràng hơn khi chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng
ưu việt của nó thật sự là một chế độ xã hội khác biệt về chất so
với các chế độ khác trong quá trình vận động và phát triển của
lịch sử loài người.
- Từ đó, xét đến cùng, nguyên nhân của sự thất bại của chủ
nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu chính là bắt nguồn
từ việc khó khăn trong việc tìm kiếm những mô hình, những
hình thức, những phương pháp thử nghiệm xây dựng một xã hội
mới chưa từng có trong tiền lệ lịch sử. Như V.I.Lênin đã từng
nói: nếu thiết tưởng lịch sử sẽ thuận buồm xuôi gió, phát triển
tiến lên một cách dễ dàng, không có lúc xuất hiện sự thụt lùi to
lớn, thì đó là không biện chứng, không khoa học, không đúng
đắn về mặt lý luận. Do vậy, phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới
có một số thất bại, thậm chí là thất bại cực kì nghiêm trọng thì
cũng không nên ngạc nhiên, bi quan dao động, thất vọng mà nên
bình tĩnh để phân tích tỷ mỉ, rút ra bài học để tiếp tục tiến lên.

Bài tập 81

119
Dựa vào cơ sở nào để khẳng định “chủ nghĩa xã hội là
tương lai của xã hội loài người”?
Gợi ý trả lời:
“Chủ nghĩa xã hội là tương lai của xã hội loài người”, sự
khẳng định trên được căn cứ từ các cơ sở lý luận và thực tiễn sau
đây:
- Một là, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa
Mác - Lênin đã cho thấy, sự thay thế của các chế độ xã hội từ
thấp đến cao là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Nguyên nhân
của sự thay thế đó bắt nguồn từ sự phát triển không ngừng của
lực lượng sản xuất. Quy luật vận động, phát triển tất yếu của sự
vật là tương lai sẽ luôn thuộc về cái mới, cái tiến bộ. Quy luật đó
đã chỉ ra tính tất yếu sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa với tư cách là một hình thái ưu việt, tiến bộ và
phát triển. Tất nhiên, đó không bao giờ là một quá trình vận động
thẳng tắp, ngược lại, thường phải vượt qua những khúc quanh
co, phải đi vòng vèo, có cao trào, có thoái trào, thậm chí phải
làm lại trong quá trình phát triển.
- Hai là, với mục tiêu là giải phóng giai cấp, giải phóng con
người để hướng đến một thế giới tốt đẹp, văn minh, tiến bộ, nhân
văn, hạnh phúc, chủ nghĩa xã hội đã thật sự hòa nhịp, đồng điệu
với niềm mong nước, lýí tưởng, khát vọng, ước mơ của toàn
nhân loại từ xưa đến nay. Ngay trong thời đại này nay, mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội cũng tiếp tục chính là những mục tiêu lớn
của thời đại (hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội) mà nhân loại đang hướng tới. Chính vì vậy, lí tưởng và niềm
tin chủ nghĩa xã hội đã, đang và sẽ tiếp tục được thấm vào sâu
trong quảng đại quần chúng nhân dân không những ở các nước
xã hội chủ nghĩa mà còn là nhân dân trên toàn thế giới. Từ đó,

120
chủ nghĩa xã hội tất yếu trở thành ngọn cờ dẫn nhân dân thế giới
tiến lên phía trước trong thời đại ngày nay và mãi về sau.
- Ba là, chủ nghĩa tư bản có vai trò to lớn đối với lịch sử
phát triển của xã hội loài người nhưng lịch sử không thể dừng lại
ở phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nguyên nhân là do chủ
nghĩa tư bản không thể giải quyết được mâu thuẫn cơ bản, cố
hữu của nó, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính
chất xã hội hóa với quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Dù đã có những điều chỉnh để tồn tại nhưng với bản chất bóc lột,
phản dân chủ, vô nhân đạo của mình, chủ nghĩa tư bản không thể
giải quyết được những khuyết tật đã trở thành phổ biến ở các
nước tư bản, như: chăm sóc y tế không đầy đủ, giáo dục trung
học chất lượng kém, vấn đề phân biệt chủng tộc, nghèo đói, ngày
càng sâu sắc, tội ác bạo lực tràn lan, cảm giác trống về tinh thần,
chiến tranh và tạo nên bao tai họa về văn hoá, xã hội, môi sinh
trên thế giới… Những khuyết tật ấy chỉ có thể được giải quyết
được trong khuôn khổ của một chế độ tiến bộ và ưu việt hơn.
- Bốn là, trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản đã xuất
hiện những yếu tố của xã hội mới, những yếu tố của nền văn
minh hậu công nghiệp, kinh tế tri thức nảy sinh và phát triển;
tính chất xã hội của sở hữu ngày càng gia tăng; sự điều tiết của
nhà nước đối với thị trường ngày càng hữu hiệu; tính nhân dân
và xã hội của nhà nước tăng lên; những vấn đề phúc lợi xã hội và
môi trường… ngày càng được giải quyết tốt hơn. Những đặc
điểm trên đây cũng có thể xem đó là những xã hội quá độ, vì nó
chứa đựng trong nó cả các yếu tố của chủ nghĩa tư bản và xã hội
tương lai.
- Năm là, từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa xã hội hiện thực
với những thành tựu to lớn không thể phủ nhận đã chứng minh

121
được tính ưu việt, tiến bộ của mình với tư cách là một chế độ xã
hội mới. Cả lý luận và thực tiễn ngày càng cho thấy được bản
chất của sự thất bại của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và Đông Âu. Đó chỉ là sự thất bại của một mô hình
không khoa học, quy phạm những nguyên tắc cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Nó tuyệt đối không phải là sự sụp đổ của một
học thuyết, một chế độ và càng không phải là sự thất bại của một
phong trào hiện thực. Các nước kiên trì con đường xã hội chủ
nghĩa hiện nay với những thành tựu to lớn ban đầu nhờ chính
sách đúng đắn của cuộc cải cách, đổi mới tiếp tục là cơ sở thực
tiễn đầy sức thuyết phục trong việc minh chứng về tính tất yếu
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
- Sáu là, nhiều nước trước đây vốn là các nước xã hội chủ
nghĩa, thông qua công cuộc cải tổ, cải cách, đã phản bội lại chủ
nghĩa xã hội và đưa đất nước đi theo con đường của chủ nghĩa tư
bản hay chủ nghĩa xã hội dân chủ, hiện nay đang rơi vào khó
khăn về con đường phát triển của đất nước mình khi nhiều định
hướng giá trị của xã hội bị đảo lộn, xung đột dân tộc, tôn giáo,
phe phái gia tăng, đời sống của những người lao động ngày càng
khó khăn, sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội ngày càng gia
tăng, vị thế của các nước đó trên trường quốc tế giảm sút,…. Bên
cạnh đó, một số quốc gia sau khi giành được độc lập đã đưa đất
nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, nhưng đất nước vẫn
đang rơi vào tình trạng nghèo đói, khó khăn, chiến tranh, xung
đột, v.v.. Những khó khăn, bế tắc của những nước này cũng góp
phần cho thấy nhân loại đang có nhu cầu vượt qua chủ nghĩa tư
bản trong việc tìm kiếm một mô hình xã hội mới tiến bộ hơn.
- Bảy là, đã xuất hiện những nhân tố mới của xu hướng đi
lên chủ nghĩa xã hội ở một số quốc gia trong thế giới đương đại.
Ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là ở khu vực Mỹ Latinh, từ
122
những năm 1990 đã xuất hiện xu thế thiên tả và ngày càng phát
triển mạnh lên thành một trào lưu vào đầu thế kỷ XXI. Từ 1998
đến nay, thông qua bầu cử dân chủ, các chính phủ cánh tả, tiến
bộ đã lên cầm quyền ở 11 nước trong khu vực Mỹ Latinh. Sự
xuất hiện của “chủ nghĩa xã hội Mỹ Latinh” còn điểm này, điểm
khác phải tiếp tục nghiên cứu và theo dõi, nhưng rõ ràng những
biểu hiện đó đã và đang thể hiện sự tác động sâu xa và sức sống
mãnh liệt của chủ nghĩa xã hội hiện thực đối với các dân tộc này,
thể hiện bước tiến mới của chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Đó là
một thực tế lịch sử góp phần quan trọng trong việc minh chứng
cho sức sống và khả năng phát triển của chủ nghĩa xã hội, củng
cố niềm tin vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Tất cả các yếu tố trên đây đều phản ánh một thực tế là: mặc
dù còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng “cuộc đấu tranh của
nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát
triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng
sẽ có bước tiến mới; theo tiến hoá của lịch sử, loài người nhất
định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”1.

1
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.24.
123
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. C.Mác và Ph. Ăngghen: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản,


Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Chương trình môn học Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin (kèm theo Quyết
định số 52/2008/QĐ-BGDĐT ngày 18 tháng 9 năm 2008 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Triết học Mác - Lênin,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Kinh tế chính trị Mác -
Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa
học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
8. Mortimer J.Adler: Đọc sách như một nghệ thuật (Hải Nhi
dịch), Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2010.
9. Phan Trọng Ngọ: Dạy học và phương pháp dạy học trong
nhà trường, Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội, 2005.
10. Tony Buzan: Lập bản đồ tư duy (Nguyễn Thế Anh dịch),
Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2010.
12. Nguyễn Cảnh Toàn (Chủ biên): Quá trình dạy - tự học,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1997.
12. Thái Duy Tuyên: Phương pháp dạy học truyền thống và

124
đổi mới, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2008.
MỤC LỤC
Trang
Lời Nhà xuất bản
Phần một. PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP MÔN HỌC
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC - LÊNIN
Phần hai. CÂU HỎI - BÀI TẬP
Chương mở đầu
NHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC - LÊNIN
Phần thứ nhất. THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP
LUẬN TRIẾT HỌC CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
Chương I. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chương II. Phép biện chứng duy vật
Chương III. Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Phần thứ hai. HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC -LÊNIN VỀ PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT
TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
Chương IV. Học thuyết giá trị
Chương V. Học thuyết giá trị thặng dư
Chương VI. Học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền
và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Phần thứ ba. LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC -
LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Chương VII. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và
cách mạng xã hội chủ nghĩa
Chương VIII. Những vấn đề chính trị - xã hội có tính
quy luật trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa
Chương IX. Chủ nghĩa xã hội hiện thực và triển vọng
TÀI LIỆU THAM KHẢO

125

You might also like