You are on page 1of 32

Lời mở đầu

Xuyên suốt quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
việc bảo vệ và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân luôn luôn là ưu
tiên hàng đầu của bộ máy Chính quyền. Nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa - hiện đại hóa của đất nước, góp phần phát triển và hội nhập với nền kinh tế
toàn cầu đa lĩnh vực, nền hành chính hiện đại - dân chủ vừa “quản lý”, vừa
“phục vụ” cũng cần được chú trọng và nâng cao để mỗi người dân đều có thể
giám sát được bộ máy Nhà nước quản lý mình. Khi xảy ra sai phạm, gây thiệt
hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của một bộ phận nhân dân, người dân có thể
thực hiện khiếu kiện những quyết định, hành vi hành chính trái pháp luật.

Với tính chất quyền uy - mệnh lệnh của các cơ quan, bộ máy Nhà nước
quan hệ hành chính đã phần nào đó thể hiện sự thiếu bình đẳng giữa các cơ
quan Nhà nước và các nhóm đối tượng quản lý. Tuy nhiên, việc khiếu nại, tố
cáo và khởi kiện vụ án hành chính là một tín hiệu đáng mừng trong việc thể
hiện được trình độ dân trí cũng như ý thức của người dân về Luật pháp nhằm
góp phần tạo ra một nền hành chính trong sạch, vững mạnh.

Chính vì vậy, nhóm số 2 chúng em đã chọn “Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện
trong xử lý hành chính” làm đề tài bài tập nhóm trong học phần Pháp Luật Đại
Cương của mình.
I. Khái quát về khiếu nại, tố cáo, khởi kiện và pháp luật về giải
quyết khiếu nại, tố cáo, khởi kiện.
1. Khái niệm khiếu nại, tố cáo, khởi kiện.

1.1. Khiếu nại

- Khiếu nại là công dân, chính quyền, tổ chức, người điều hành hoặc viên
chức có thẩm quyền yêu cầu xem xét lại các quyết định hoặc hành động
hành chính. Quyết định hành pháp của cơ quan chính phủ hoặc người có
thẩm quyền trong cơ quan chính phủ hoặc quyết định kỷ luật một quan
chức hành pháp nếu có lý do để tin rằng quyết định hoặc hành vi đó là bất
hợp pháp hoặc bất hợp pháp. Vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Khiếu nại là quyền cơ bản của công dân. Trong đó:
- Quyết định hành chính là văn bản của cơ quan quản lý nhà nước hoặc
người có thẩm quyền quyết định đối với một trường hợp cụ thể thuộc
phạm vi hoạt động quản lý hành chính nhà nước được áp dụng một lần
cho một hoặc nhiều cơ sở cụ thể.
- Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan quản lý nhà nước hoặc người
có thẩm quyền trong cơ quan quản lý nhà nước nhằm thực hiện hoặc
không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.
- Quyết định kỷ luật là quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ
quan, tổ chức về việc áp dụng một trong các hình thức kỷ luật đối với cán
bộ, công chức do mình chỉ đạo theo quy định của Bộ luật kỷ luật. Có hai
loại khiếu nại: khiếu nại bằng văn bản hoặc khiếu nại trực tiếp:
- Trong trường hợp khiếu nại bằng đơn:
+ Đơn yêu cầu phải ghi rõ ngày, tháng, năm yêu cầu bồi thường; tên
và địa chỉ của người gửi đơn khiếu nại + Tên, địa chỉ của cơ quan,
tổ chức, người bị khiếu nại;
+ Nội dung và lý do khiếu nại;
+ Các tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại và đơn yêu cầu giải
quyết của nhà quảng cáo;
+ Đơn yêu cầu phải được người yêu cầu ký tên hoặc chỉ định.
- Trong trường hợp khiếu nại trực tiếp: Người thụ lý ghi đơn yêu cầu bằng
văn bản và yêu cầu người yêu cầu ký tên hoặc xác nhận vào văn bản.
1.2. Tố cáo

- Tố cáo là việc công dân có quyền tài phán đối với tổ chức, cơ quan có
thẩm quyền đối với các hoạt động vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ
chức, cá nhân làm tổn hại hoặc có thể làm tổn hại đến lợi ích quốc gia,
quyền và lợi ích hợp pháp theo thủ tục quy định. theo luật. Có nghĩa là
báo cáo cho một cá nhân. Cơ quan, tổ chức và cá nhân, bao gồm:
+ Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ,
công vụ:
+ Tố cáo hành vi bị nghiêm cấm trong thi hành công vụ là việc các
chủ thể sau đây tố cáo những hành vi bị nghiêm cấm trong thi hành
nhiệm vụ, công vụ:
+ Cán bộ, viên chức; người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công
vụ;
+ Người không còn là cán bộ, công chức, viên chức mà có hành vi
trái pháp luật với tư cách là cán bộ, công chức, viên chức; người
không còn được giao thi hành nhiệm vụ mà có hành vi vi phạm
pháp luật tại thời điểm được giao;
- Cơ quan, tổ chức.
- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực
là tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh
vực của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào về việc chấp hành quy định
của pháp luật, trừ hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm
vụ, công vụ.

1.3. Khởi kiện

- Khởi kiện vụ án hành chính là việc cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước,
theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính yêu cầu tòa án giải quyết
vụ án hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại
bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỉ luật
buộc thôi việc.
 Đơn khởi kiện:

- Đơn khởi kiện là văn bản mà một bên yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình không bị xâm phạm. Luật quy định đơn khiếu nại
phải có các thông tin cần thiết như: ngày, tháng, năm nộp đơn; tên tòa án
đã nhận đơn; tên và địa chỉ của người khởi kiện; tên và địa chỉ (nếu có )
của người có quyền lợi được bảo vệ; Tên, địa chỉ; tên, địa chỉ của người
có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (nếu có); những vấn đề cụ thể mà Tòa
án giải quyết cho bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; họ
tên, địa chỉ của người làm chứng (nếu có); bằng chứng chứng minh khiếu
kiện là Có căn cứ và các tài liệu, chứng cứ hợp pháp; các thông tin khác
mà người khiếu nại cho là cần thiết để kết thúc vụ án; người khởi kiện
phải là cá nhân ký tên hoặc điểm chỉ; nếu cơ quan, tổ chức khởi kiện thì
người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức cần ký tên vào cuối
đơn và đóng dấu.
- Khoản 8 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định: Người có quyền
khởi kiện bao gồm cá nhân, cơ quan, tổ chức bị ảnh hưởng bởi quyết định
hành chính, hành vi hành chính. Người khởi kiện là “cá nhân, cơ quan, tổ
chức khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi
hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu
nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, việc lập danh sách cử tri.”
- Người bị kiện là “cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành chính,
hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải
quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bị
khởi kiện.”

2. Khái niệm về quyền khiếu nại, quyền tố cáo, quyền khởi


kiện.
 Quyền, vai trò, ý nghĩa khiếu nại
- Khái niệm quyền khiếu nại: Khiếu nại là yêu cầu của người có quyền,
lợi ích bị coi là trái pháp luật hoặc liên quan trực tiếp đến quyết định,
hành vi hành chính, quyết định kỷ luật xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp.
- Vai trò của khiếu nại: Khiếu nại là một hình thức đặc biệt để người lao
động tham gia trực tiếp vào các hoạt động quản lý nhà nước hoặc xã
hội. Ngoài quyền được báo cáo, quyền khiếu nại là một trong những
quyền dân sự chính trị và hợp pháp. Vì vậy, thực hiện quyền khiếu nại
có vai trò to lớn trong việc phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
phát huy quyền kiểm soát của nhân dân, góp phần tích cực vào việc
củng cố và bảo vệ pháp luật. Cụ thể, vai trò của khiếu nại là:
+ Thứ nhất, việc ghi nhận các quyền và nghĩa vụ công dân trong
Hiến pháp và Luật Khiếu nại và Thông báo đã tái khẳng định
quyền của công chúng đối với quyền lực nhà nước có chủ
quyền. Thể hiện bản chất của dân tộc ta là chính quyền của dân,
do dân, vì dân, vì dân. Với cơ chế người ta biết, người ta nài nỉ,
người ta làm, người ta kiểm tra. Công dân khiếu nại và thực
hiện quyền được báo cáo là một hình thức hành chính quốc gia.
Thông qua các hình thức này người dân có thể nhanh chóng
nhận ra các hiện tượng tiêu cực trong chính quyền các bang và
có biện pháp chấn chỉnh kịp thời. Bảo đảm pháp luật xã hội chủ
nghĩa được thực thi trong quá trình hành pháp của nhà nước.
+ Thứ hai, “đơn khiếu nại” không chỉ có thông tin về việc quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị xâm phạm mà còn
có sự đồng ý hay không theo quan điểm của người khởi kiện
nên quyền và lợi ích bị xâm phạm giúp bảo vệ khỏi . Nó xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện, từ đó
đảm bảo tính pháp quyền trong quản lý hành chính của nhà
nước.
+ Thứ ba, khiếu nại cung cấp thông tin về các quyết định và hành
động bất hợp pháp của chính quyền, tổ chức và cá nhân, mà
hành động của họ ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan
nhà nước nói chung và cuộc sống của các cơ quan chức năng
khác. Vì vậy, việc phát hiện và xử lý hành vi này nhằm đảm bảo
tính hợp pháp của công tác quản lý.
+ Thứ tư, đơn khiếu nại phản ánh hoạt động công dân của người
khiếu nại. Khiếu nại giúp tăng cường sự kiểm soát của cá nhân
đối với hoạt động của các thể chế nhà nước và chống lại các
triệu chứng quan liêu. Kiểm tra nhân dân thông qua quyền
khiếu nại củng cố pháp luật xã hội chủ nghĩa trong nền hành
chính quốc gia.
+ Thứ năm, vai trò của khiếu nại cũng là tiêu chuẩn để những
người có trách nhiệm quản lý hành chính nhà nước có thể xác
định những yếu kém trong lĩnh vực quản lý nhà nước, cải cách
nhanh chóng theo hướng phù hợp nhất và xử lý những vi phạm
mà mình mắc phải.
- Ý nghĩa của khiếu nại: Khiếu nại là một phương thức để tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa và là một trong nhiều phương thức bảo đảm
các quyết định, hành vi hành chính được thực hiện đúng pháp luật,
không vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, chính quyền,
tổ chức nhất là. Khiếu nại khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của
chính quyền, tổ chức và công dân bị thương tật hoặc bị đe dọa gây
thương tích. Ngoài ra, khiếu nại giúp cơ quan hành chính có hiệu quả
trong việc kiểm tra, kiểm soát, sửa chữa hoặc bãi bỏ ngay các quyết
định, hành vi hành chính trái pháp luật và do đó ngăn ngừa được hành
vi vi phạm pháp luật của công chức. Vì vậy, chúng tôi thấy rằng sự bất
mãn có ý nghĩa quan trọng trong việc củng cố pháp luật xã hội chủ
nghĩa. Ý nghĩa thiết thực được thể hiện trực tiếp trong các mối quan
hệ giữa con người, giữa các đảng và các quốc gia trong đời sống xã
hội ngày nay..
 Quyền, vai trò, ý nghĩa khởi kiện vụ án hành chính
- Giúp cho cá nhân, cơ quan, tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.

Đây là phương thức mà cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể thực hiện để


tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình, tránh nguy cơ bị
xâm hại bởi các quy định hành chính, hành vi hành chính,.. Với hành vi khởi
kiện như vậy thì tòa án có thẩm quyền sẽ thụ lý vụ việc, đây là hành vi tố
tụng đặc biệt quan trọng làm cơ sở để tiến hành các hoạt động tố tụng tiếp
theo trong đó có hoạt động xét xử đây là hoạt động trung tâm của các hoạt
động tố tụng thông qua đó tỏa bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các nhân,
tổ chức. Một quy định hành chính, hành vi hành chính nào đó hoặc một
quyết định kỷ luật buộc thôi việc ...khi bị khởi kiện nếu trái pháp luật sẽ bị
hủy bỏ, hành vi hành chính bị tuyên chấm dứt thực hiện khi tòa ra phán
quyết trong một bản án hành chính

- Là cơ sở để tòa án có thẩm quyền tiến hành thụ lý và giải quyết vụ án hành


chính bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức

Khởi kiện vụ án hành chính là hành vi tố tụng đầu tiên của người khởi
kiện, làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng hành chính. Nếu không có hoạt
động khởi kiện thì cũng không có việc tiến hành các giai đoạn tiếp theo, đây
chính là căn cứ để tòa án thụ lý vụ án hành chính. Nội dung quan trọng của
việc khởi kiện là người khởi kiện đề nghị tòa án xem xét tính đúng sai của
quy định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc,
quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh
sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân làm rõ các quyền, lợi ích mà họ bị xâm hại từ đó yêu cầu tòa
án bảo vệ cho quyền lợi của mình, yêu cầu của người khởi kiện được thể
hiện trong nội dung đơn khởi kiện giúp tòa án dựa trên cơ sở đó để thụ lý và
giải quyết vụ án.

- Việc khởi kiện của các đương sự nhằm góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu
quả quản lý hành chính nhà nước,

Việc khởi kiện vụ án hành chính của các đương sự có tác động tích
cực nâng cao tinh thần, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong quá
trình thực hiện chức năng quản lý, điều hành. Bản thân cá nhân cán bộ, công
chức trong các cơ quan nhà nước phải tích cực học tập nâng cao trình độ,
năng lực, nghiên cứu kỹ các quy định của pháp luật, ban hành các quy định
hành chính theo đúng pháp luật, đúng trình tự, thủ tục và thận trọng khi thực
hiện các hành vi hành chính.

Việc khởi kiện còn có ý nghĩa hết sức quan trọng, đó là một trong
những phương thức giúp cho người dân tham gia giám sát hoạt động của các
cơ quan nhà nước, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước, loại trừ những
biểu hiện quan liêu hách dịch, sách nhiễu của những người có thẩm quyền.

Như vậy có thể nói, việc khởi kiện kiện của các đương sự thực sự góp
phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý hành chính nhà nước, có tác
động tích cực trong việc xây dựng nền hành chính trong sạch phục vụ nhân
dân.

 Quyền, vai trò, ý nghĩa của tố cáo:

- Khái niệm: Quyền tố cáo là quyền của công dân thông báo cho cơ quan có
thẩm quyền hoặc cá nhân về hành vi vi phạm pháp luật.
- Hình thức: Đơn, thư, báo đài, trực tiếp.
- Vai trò của tố cáo: Có thể nói, trong xã hội hiện nay thì tố cáo là một trong
những hình thức đặc biệt quan trọng để nhân dân trực tiếp tham gia vào hoạt
động quản lý nhà nước và quản lí xã hội phát huy vai trò của quần chúng
nhân dân Đối với việc Công dân vừa có quyền, hay công dân vừa có nghĩa
vụ thực hiện hoạt động tố cáo theo quy định của pháp luật Việt nam. Từ việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ này, đối với pháp luật xác định trách nhiệm của
công dân trong việc xây dựng bộ máy nhà nước và có năng lực cũng như bổn
phận của họ trong xã hội. thông Qua đó có thể thấy, vai trò quan trọng của
khiếu nại và tố cáo trong việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính
nhà nước với một số đặc điểm như sau:
+ Việc tố cáo theo quy định của pháp luật Việt nam, tố cáo tạo điều kiện
thuận lợi để công dân, tạo điều kiện cho các tổ chức bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình bị xâm hại bởi quyết định hành chính, hay
hành chính của cơ quan hành chính, cá nhân có thẩm quyền và bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại bởi các nhân, tổ chức
khác theo quy định của pháp luật Việt Nam
+ Hai là tố cáo giúp cơ quan hành chính nhà nước kịp thời phát hiện, xử
lý những hành vi vi phạm pháp luật. Công tác giải quyết tố cáo ở cơ sở
góp phần khôi phục lại những quyền và lợi ích chính đáng của công
dân, mặt khác kịp thời phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp
luật nhằm giữ gìn kỷ cương, trật tự tại cơ sở, tạo lòng tin của người
dân vào chính quyền và cơ quan quản lý Nhà nước nơi mình đang sinh
sống và lao động, động viên nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý
nhà nước, thúc đẩy mọi người hoàn thành tốt các nghĩa vụ đối với Nhà
nước và xã hội. Cho nên, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công
tác này và không ngừng đẩy mạnh, nâng cao tính hiệu quả của nó.
Ngoài ra, làm tốt công tác này còn giúp các cơ quan nhà nước nhanh
chóng phát hiện những sai sót, hạn chế trong hoạt động của mình để
chấn chỉnh, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
- Trách nhiệm và ý nghĩa của tố cáo:
+ Là quyền của công dân được quy định trong hiến pháp
+ Là công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
+ Là phương tiện cho công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội
+ Trách nhiệm của nhà nước:Nghiêm cấm việc trả thù người tố cáo,
hoặc lợi dùng quyền tố cáo để vu khống, vú cao cho người khác.

3. Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo, khởi kiện.

3.1. Khái niệm về pháp luật khiếu nại, tố cáo

3.1.1. Khái niệm

- Pháp luật về khiếu nại, tố cáo là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại,
tố cáo. Cụ thể hơn đó là hệ thống các quy định của pháp luật về quyền khiếu
nại, tố cáo; quyền và nghĩa vụ các bên trong khiếu nại, tố cáo; thẩm quyền,
trách nhiệm và trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo.
3.1.2. Đặc điểm của pháp luật về khiếu nại, tố cáo

- Các quy phạm pháp luật giữ vai trò chủ đạo. Bản thân các quy phạm pháp
luật khiếu nại, tố cáo không quy định về nội dung cụ thể của quản lý. Nó quy
định những vấn đề về quyền khiếu nại, tố cáo; thẩm quyền, trình tự, thủ tục
giải quyết khiếu nại, tố cáo được áp dụng chung điều chỉnh tất cả các hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước khi xem xét giải quyết các vụ
việc.
- Pháp luật khiếu nại, tố cáo phản ánh tính chất của nền dân chủ, tính chất của
chế độ chính trị Nhà nước. Vấn đề cơ bản của pháp luật khiếu nại, tố cáo là
bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong mối quan hệ với cơ quan
công quyền.

Ở nước ta, từ trước đến nay, đều ghi nhận khiếu nại, tố cáo là một trong
những quyền cơ bản của công dân, trong đó Hiến pháp 1992 ghi nhận tại
điều 74:

“Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền về những công việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào.
Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết
trong thời hạn pháp luật quy định…”

Quy định này đã được Hiến pháp 2013 sửa đổi, bổ sung tại Điều 30, cụ
thể là:

“Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu
nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh
thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật. Nghiêm cấm việc trả
thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu
khống, vu cáo làm hại người khác”.

Theo quy định này, khiếu nại, tố cáo không chỉ là quyền Hiến định của
công dân Việt Nam (những người có quốc tịch Việt Nam) mà đã được công
nhận là quyền con người, được tôn trọng, đảm bảo và bảo vệ. Khiếu nại và tố
cáo là một trong những phương thức thực hiện quyền tự do, dân chủ, góp
phần giải quyết các vấn đề xã hội, giảm bức xúc trong nhân dân. Đây cũng là
phương thức để nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của mình và
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Khiếu nại, tố cáo đều hướng tới bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và đảm bảo pháp luật được
thực thi nghiêm minh, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng
nhà nước pháp quyền.

- Pháp luật khiếu nại, tố cáo là phương tiện đấu tranh, phòng chống các hành
vi vi phạm pháp luật và tăng cường pháp chế.

Quyền khiếu nại, tố cáo là những quyền tự do dân chủ quan trọng của
công dân được quy định trong hiến pháp và được cụ thể hóa trong hệ thống
các quy phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo. Không chỉ là phương tiện để công
dân thực hiện quyền của mình mà pháp luật khiếu nại, tố cáo còn là phương
tiện để công dân cũng như nhà nước đấu tranh phòng, chống các hành vi vi
phạm pháp luật. Theo đó, các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia quan hệ
khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo nếu có sai phạm thì tùy theo
tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính
hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường
hoặc bồi hoàn theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào các quy định của
pháp luật khiếu nại, tố cáo các đối tượng vi phạm sẽ phải chịu sự trừng phạt
thích đáng của pháp luật, của dư luận.

3.1.3. Những nội dung cơ bản của pháp luật khiếu nại, tố cáo

Những nội dung cơ bản của pháp luật khiếu nại, tố cáo bao gồm các
chế định về:

- Chủ thể quyền khiếu nại, tố cáo: Xác định địa vị pháp lý của công dân, cá
nhân, cơ quan, tổ chức trong quan hệ với cơ quan nhà nước hoặc với cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác.
- Đối tượng của quyền khiếu nại, tố cáo: Đó là những vi phạm pháp luật
trong hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước, thể hiện là tính trái
pháp luật của các quyết định quản lý hoặc các hành vi quản lý
- Quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo và người bị khiếu nại, tố
cáo: Những quy định này nhằm bảo đảm thực tế quyền khiếu nại, tố cáo
của công dân và bảo đảo những điều kiện cần thiết cho quá trình giải
quyết
- Thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Xác định đúng thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức
trong giải quyết khiếu nại, tố cáo là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt
đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện
nay
- Thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo xác định nội dung công việc và trình
tự thực hiện khi cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ, việc
- Giám sát thi hành pháp luật khiếu nại, tố cáo. Các quy định về giám sát
thi hành nhằm đảm bảo cho các quy định của pháp luật khiếu nại, tố cáo
được thực hiện nghiêm chỉnh
- Đối tượng của quyền khiếu nại, tố cáo. Đó là những vi phạm pháp luật
trong hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước, thể hiện là tính trái pháp
luật của các quyết định quản lý hoặc các hành vi quản lý.
- Đặc biệt, pháp luật khiếu nại, tố cáo đã quan tâm đề cập tới những quy
định về việc tiếp công dân. Tiếp công dân là giai đoạn đầu của công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo, đóng vai trò quan trọng như là một khâu then
chốt góp phần giải quyết có hiệu quả việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân, qua đó bảo vệ lợi ích của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân..

3.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật giải quyết khiếu
nại, tố cáo ở Việt Nam

3.2.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về khiếu nại, tố cáo và giải quyết
khiếu nại, tố cáo.

-Khiếu nại, tố cáo là một phương thức thể hiện quyền dân chủ của nhân dân
và là một trong những phương thức thực hiện quyền giám sát của nhân
dân đối với bộ máy Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi giải quyết
khiếu nại, tố cáo chính là một biện pháp quan trọng và thiết thực để củng
cố mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Làm tốt công tác
tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo là một hình thức thể hiện trực tiếp
của mối quan hệ giữa nhân dân với Nhà nước.
-Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 64/SL thành lập
Ban Thanh tra đặc biệt, đã xác định một trong những nhiệm vụ của Ban
Thanh tra đặc biệt là “nhận các đơn khiếu nại của nhân dân”. Đây là văn
bản pháp lý quan trọng đầu tiên xác định quyền khiếu nại của công dân
đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước,
cán bộ, nhân viên làm việc trong cơ quan đó và trách nhiệm của cơ quan
thanh tra trong việc giải quyết các khiếu nại của nhân dân. Điều này cho
thấy mặc dù trong giai đoạn này đất nước còn gặp nhiều khó khăn song
Đảng ta đã coi hoạt động giải quyết khiếu nại, tiếp công dân là nhiệm vụ
hết sức quan trọng.
- Hiến pháp năm 1946 đã ấn định các quyền và tự do cơ bản của công dân
cùng với bộ máy nhà nước bảo đảm các quyền và tự do dân chủ đó, đã
gián tiếp khẳng định quyền năng chủ thể khiếu nại, tố cáo của công dân
cũng như trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà
nước. Tuy Hiến pháp năm 1946 chưa có một điều khoản cụ thể nào quy
định quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, song thể chế dân chủ mà Hiến
pháp này tạo dựng nên đã là nền tảng cơ bản hình thành quyền khiếu nại,
tố cáo của công dân trên thực tế.
- Kế thừa và phát triển tư tưởng dân chủ của Hiến pháp năm 1946, Hiến
pháp năm 1959 đã chính thức ghi nhận quyền khiếu nại, tố cáo là một
trong những quyền cơ bản của công dân. Điều 29 Hiến pháp 1959 quy
định:

“Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền khiếu nại và tố
cáo với bất kỳ cơ quan nào của Nhà nước về những việc làm vi phạm
pháp luật của cán bộ, nhân viên cơ quan nhà nước. Các khiếu nại, tố cáo
cần phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại do
những việc làm trái pháp luật gây ra có quyền được bồi thường”.

Điều 73, Hiến pháp 1980:

“Công dân có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan nào
của Nhà nước về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc
các cơ quan, tổ chức và đơn vị đó.

Các điều khiếu nại và tố cáo phải được xem xét và giải quyết
nhanh chóng. Mọi hành động xâm phạm quyền lợi chính đáng của công
dân phải được kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại
có quyền được bồi thường.

Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo”.

Điều 74, Hiến pháp 1992:

“Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất
cứ cá nhân nào.
Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem xét và giải
quyết trong thời hạn pháp luật quy định.

Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh.
Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh
dự.

Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng
quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”.

Điều 30, Hiến pháp 2013 đều ghi nhận với tinh thần:

“Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá


nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ
chức, cá nhân.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải


quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về
vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật.

Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng
quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”.

Như vậy, có thể khẳng định rằng quyền khiếu nại, tố cáo chính
là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến
pháp, một quyền có tính chất chính trị và pháp lý của công dân, là một
hình thức biểu hiện của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Việc thực hiện quyền
khiếu nại, tố cáo sẽ là cơ sở cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
khác của công dân. Qua đó, nó còn là phương tiện để công dân đấu tranh
chống lại các hành vi trái pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình. Mặt khác, quyền
khiếu nại, tố cáo của công dân là quyền dân chủ trực tiếp, một chế định
của nền dân chủ trực tiếp để công dân thông qua đó thiết thực tham gia
vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

3.2.2. Luật khiếu nại 2011, Luật tố cáo 2011 và những đổi mới cơ bản
về giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Luật khiếu nại, Luật tố cáo được Quốc hội thông qua ngày
11/11/2011 có hiệu lực thi hành từ 01/7/2012 thể hiện những điểm tiến bộ
vượt bậc, phù hợp hơn với thực tế giải quyết khiếu nại, tố cáo và có
những điểm khác biệt so với Luật khiếu nại, tố cáo trước đây. Luật khiếu
nại 2011, Luật tố cáo 2011 đã tạo cơ sở pháp lý thuận lợi hơn cho người
dân trong việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình. So với Luật
khiếu nại, tố cáo 1998 ( đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005) Luật
khiếu nại 2011, Luật tố cáo 2011 đã có nhiều quy định mới tiến bộ.

3.3. Khái niệm về pháp luật tố tụng hành chính

3.3.1. Khái niệm

- Luật tố tụng hành chính quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng
hành chính; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố
tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; trình tự, thủ tục khởi kiện,
giải quyết vụ án hành chính, thi hành án hành chính và giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong tố tụng hành chính.
- Luật tố tụng hành chính góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; bảo đảm tính ổn
định, thông suốt và hiệu lực của nền hành chính quốc gia.
- Để giải quyết những công việc thuộc nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt
động quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật, các cơ quan nhà
nước hoặc cán bộ công chức thường ban hành các quyết định hành chính
hay thực hiện các hành vi hành chính. Trên thực tế, nhiều quyết định
hành chính hay hành vi hành chính vì nhiều lý do khác nhau mà có thể
được ban hành hoặc thực hiện một cách trái pháp luật. Từ đó gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ
quan, tổ chức có liên quan. Nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp
của công dân, tổ chức, đồng thời duy trì trật tự xã hội, kỷ cương trong
quản lý nhà nước, pháp luật quy định quyền khiếu kiện đối với các quy
định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật của cơ quan Nhà nước,
của cán bộ, công chức và đó là các khiếu kiện hành chính.
- Về tố tụng hành chính: Tố tụng hành chính là toàn bộ hoạt động của Tòa
án, Viện kiểm sát, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá
nhân, của cơ quan Nhà nước và tổ chức trong việc giải quyết vụ án hành
chính, cũng như trình tự do pháp luật quy định đối với với việc khởi kiện,
thụ lý, giải quyết vụ án hành chính và thi hành bản án, quyết định của Tòa
án về vụ án hành chính
- Về luật tố tụng hành chính: Luật tố tụng hành chính là một ngành luật
trong hệ thống pháp luật của nước ta, tổng hợp các quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ tố tụng hành chính phát sinh giữa Tòa án với
những người tham gia tố tụng, những người tiến hành tố tụng trong quá
trình Tòa án giải quyết vụ án hành chính nhằm bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan và tổ chức. Luật tố tụng hành chính
quy định các hành vi tố tụng của Tòa án, Viện kiểm sát, bên khởi kiện,
bên bị kiện và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình Tòa án
giải quyết vụ án hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan
tiến hành tố tụng tìm ra sự thật khách quan của vụ án, trên cơ sở đó Tòa
án có thể tiến hành việc giải quyết vụ án được đúng đắn. Ðể đạt được
những điều đó, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong công tác xét xử
không những phải nắm vững pháp luật nội dung mà còn phải nắm vững
pháp luật tố tụng hành chính.

3.2.2. Đặc điểm của Pháp Luật về khởi kiện

Luật tố tụng hành chính Việt Nam có những đặc điểm cơ bản sau đây:

- Một là, Luật tố tụng hành chính Việt Nam quy định quá trình tài phán
hành chính phải trải qua hai giai đoạn là: giai đoạn tiền tố tụng và giai
đoạn tố tụng. Ðây là điểm đặc thù của Luật tố tụng hành chính mà các
ngành Luật hình thức khác không có .

Giai đoạn tiền tố tụng: đây là giai đoạn bắt buộc phải trải qua để có
thể thực hiện được giai đoạn tố tụng. Giai đoạn này được các cơ quan
Nhà nước, cán bộ, công chức Nhà nước thực hiện theo quy định của pháp
luật khiếu nại, tố cáo nói riêng và pháp luật hành chính nói chung và theo
thủ tục hành chính. Ðiều này đã được quy định trong Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính và hiện tại là trong Luật tố tụng hành
chính.

Giai đoạn tố tụng: là giai đoạn tài phán do cơ quan tiến hành tố
tụng có thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng hành
chính.

- Hai là, tố tụng hành chính Việt Nam là tố tụng viết, nghĩa là các chứng cứ
mà các bên nêu ra trong tố tụng hành chính phải ñược thể hiện bằng hình
thức văn bản; các chứng cứ này được trao đổi công khai, tức là các đương
sự có quyền được đọc, sao chép và xem các tài liệu, chứng cứ do đương
sự khác cung cấp. Quan hệ giữa các đương sự (người khởi kiện, người bị
kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) trong vụ án hành chính là
quan hệ bình đẳng theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính.

3.2.3. Những nội dung cơ bản của pháp luật khởi kiện hành chính

Theo Luật Tố tụng hành chính 2015: Đối tượng của các khiếu kiện
hành chính là quyết định hành chính, hành vị hành chính và quyết định kỷ
luật buộc thôi việc đối với công chức.

Các quyết định hành chính và hành vi hành chính trong phần này
được hiểu khác với phần chế độ pháp lý về khiếu nại, cụ thể là theo Luật
Tố tụng hành chính:

Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước,
cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước hoặc
người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về
vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng với một
hoặc một số đối tượng cụ thể.

Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước
hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc
cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực
hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp
luật.

Điểm khác trong đối tượng khiếu kiện hành chính so với khiếu nại
không phải tất cả mọi quyết định kỷ luật công chức đều là đối tượng
khiếu kiện hành chính mà ở đây chỉ là quyết định kỷ luật buộc thôi việc
đối với một số công chức nhất định.

Quyết định kỷ luật buộc thôi việc quyết định bằng văn bản của
người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi
việc công chức giữ chức vụ từ Tổng cục trưởng và tương đương trở
xuống thuộc quyền quản lý của mình theo quy định của pháp luật về cán
bộ, công chức
3.4. Các giai đoạn chủ yếu của thủ tục tố tụng hành chính

3.4.1. Khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính

Khi công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế
thấy rằng quyết định, hành vi hành chính cụ thể nào đó xâm phạm quyền,
lợi ích hợp pháp của mình thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính để
yêu cầu Toà hành chính giải quyết. Trước khi khởi kiện, cá nhân, cơ quan
nhà nước, tổ chức phải khiếu nại với cơ quan hành chính mà họ mà họ
cho là trái pháp luật; trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải
quyết khiếu nại thì họ có quyền khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của cơ
quan nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi mà
theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đó hay
khởi kiện vụ án hành chính tại toà án có thẩm quyền.

Sau khi nhận được đơn kiện, Tòa hành chính phải xem xét nếu xét
thấy không thuộc trường hợp trả lại đơn thì Tòa án thụ lý vụ việc kiện
theo thẩm quyền.

3.4.2. Thủ tục đối thoại và chuẩn bị xét xử

Trong giai đoạn này, Toà hành chính thực hiện các công việc
chuẩn bị, như yêu cầu các bên cung cấp thông tin, tài liệu, ….khi xét thấy
cần thiết Toà có thể thu thập chứng cứ, xem xét tại chỗ, trưng cầu giám
định … sau khi nhận thấy việc thu thập chứng cứ đã đầy đủ, Toà hành
chính phải xem xét và đưa ra một trong các quyết định: Đưa vụ án ra xét
xử, tạm đình chỉ vụ án; đình chỉ giải quyết vụ án.

3.4.3. Thủ tục xét xử sơ thẩm

Theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, Hội đồng
xét xử vụ án hành chính gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân.

Phiên toà có sơ thẩm được tiến hành với sự có mặt của đương sự
hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Đối với người làm chứng, người
phiên dịch, người giám định thì tuỳ từng vụ án cụ thể mà Toà hành chính
xét thấy cần có mặt hay không. Sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát
nhân dân cũng được pháp lệnh quy định tại Điều 18.

Về thủ tục phiên toà, pháp lệnh cũng quy định giống như thủ tục
bắt đầu phiên toà xét xử vụ án dân sự hoặc vụ án kinh tế.
Các quyết định của Hội đồng xét xử phải do các thành viên của hội
đồng thảo luận và quyết định theo đa số.

3.4.4. Thủ tục phúc thẩm

Để bảo vệ quyền lợi cho các đương sự, trong tố tụng hành chính có
quy định về quyền kháng cáo của đương sự và kháng nghị của Viện kiểm
sát để yêu cầu toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Xét
lại bản án và quyết định chưa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc
thẩm là một giai đoạn độc lập trong tố tụng hành chính. Giai đoạn này có
nhiệm vụ sửa chữa những sai lầm và vi phạm của tòa án cấp sơ thẩm, bảo
đảm việc áp dụng pháp luật đúng đắn và thống nhất.

3.4.5. Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

3.4.6. Thi hành bản án hành chính.

3.5. Điều kiện khởi kiện vụ án hành chính

Cá nhân, tổ chức khởi kiện phải đáp ứng các điều kiện khởi kiện do
pháp luật tố tụng hành chính quy định. Điều kiện khởi kiện là yêu cầu
mang tính bắt buộc đối với các đường sự khi thực hiện quyền khởi kiện.
Việc khởi kiện theo đúng yêu cầu đảm bảo cho các đương sự thuận lợi
trong việc thực hiện quyền khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình.

Khi khởi kiện vụ án hành chính ra tòa thì việc khởi kiện phải đáp
ứng các điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật tố tụng hành
chính. Các điều kiện khởi kiện phải đáp ứng các điều kiện cơ bản sau:

a. Chủ thể khởi kiện

Trước hết chủ thể khởi kiện phải trực tiếp có quyền và lợi ích hợp
pháp bị xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính. Chủ thể
khởi kiện gồm cả nhân, cơ quan, tổ chức. Đối với cá nhân phải có đủ
năng lực pháp luật tố tụng hành chính và năng lực hành vi tố tụng hành
chính. Nếu thuộc trường hợp bị hạn chế về năng lực hành vi tố tụng hành
chính thì phải thực hiện khởi kiện thông qua người đại diện theo pháp
luật. Đối với cơ quan phải là những cơ quan trong bộ máy nhà nước được
thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật, có chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn, có tư cách pháp nhân. Việc khởi kiện của cơ quan nhà
nước được thực hiện thông quan người đại diện theo pháp luật hoặc theo
ủy quyền. Đối với tổ chức thi bao gồm tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
- xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân
dân. Các tổ chức này phải được được thành lập và hoạt động theo quy
định của pháp luật, có tư cách pháp nhân hoặc có đủ dấu hiệu của một tổ
chức (có cơ cấu tổ chức, trụ Sở, con dâu...). Việc khởi kiện của tổ chức
cũng được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc theo
ủy quyền.

b. Đối tượng khởi kiện

Đối tượng khởi kiện là các quyết định hành chính, hành vi hành
chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc và cả quyết định giải quyết khiếu
nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bầu cử đại
biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.

Tuy nhiên với quyết định hành chính thì đó phải là quyết định cá
biệt, đồng thời phải là quyết định hành chính lần đầu. Quyết định hành
chính cá biệt được ban hành dưới hình thức là văn bản với tên gọi là
quyết định; dưới dạng thông báo, kết luận, công văn theo quy định cũng
thuộc đối tượng khởi kiện. Ngoài ra quyết định giải quyết khiếu nại về
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh cũng là đối tượng khởi kiện.

Hành vi hành chính thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính
phải là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác
hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc
không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Căn cứ
vào quy định của pháp luật về thẩm quyền, thời hạn thực hiện đối với
nhiệm vụ, công vụ để xác định hành vi thực hiện hoặc không thực hiện
nhiệm vụ, công vụ đó là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ
chức, hay là của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
nước, cơ quan, tổ chức đó.

c. Thời hiệu khởi kiện

Thời hiệu khởi kiện "là thời hạn ta chủ thể được quyền khởi kiện,
nếu thời hiệu đó kết thúc thì chủ thể mất quyền khởi kiện". Việc khởi
kiện phải được thực hiện trong khoảng thời gian mà pháp luật đã quy
định, trừ trường hợp do trở ngại khách quan thì thời gian có trở ngại
khách quan không được tính vào thời hiệu khởi kiện. Hết khoảng thời
gian quy định mà người đó không thực hiện việc khởi kiện thì được coi là
từ bỏ quyền của mình. Điều kiện về thủ tục, hình thức, nội dung đơn khởi
kiện

Khởi kiện phải được thể hiện bằng hình thức văn bản mà cụ thể là
bằng đơn khởi kiện. Việc quy định như vậy nhằm bảo đảm sự thống nhất
về hình thức đối với việc khởi kiện, đồng thời đề cao trách nhiệm của
người khởi kiện và phù hợp với tính chất “tố tụng viết”. Hình thức này
giúp cho người khởi kiện thể hiện một cách rõ ràng ý chí của mình. Về
nội dung của đơn khởi kiện cũng phải thực hiện theo quy định. Nội dung
khởi kiện có thể là khởi kiện về một quyết định xử phạt vi phạm hành
chính, quyết định thu hồi đất đai, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết
định truy thu thuế hoặc hành vi tháo dỡ công trình xây dựng trái phép.

d. Vụ việc khởi kiện phải thuộc thẩm quyền về loại việc của tòa án

Người khởi kiện chỉ có quyền khởi kiện trong phạm vi các loại
việc mà pháp luật đã quy định là loại việc thuộc thẩm quyền xét xử vụ án
hành chính của tòa án. Đây là điều kiện đương nhiên người khởi kiện
phải tuân thủ, bởi vì nếu không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì
tòa án sẽ không thụ lý đơn khởi kiện.

3.6. Lịch sử khiếu kiện hành chính và tổ chức giải quyết khiếu
kiện hành chính ở nước ta

Từ những năm đầu thập kỉ 90 của thế kỷ XX, nhu cầu của thực tiễn
đòi hỏi phải thiết lập hệ thống cơ quan tài phán hành chính độc lập để giải
quyết các tranh chấp hành chính bằng con đường tư pháp. Đáp ứng nhu
cầu đó, các chuyên gia pháp lý đã tập trung nghiên cứu và tiến hành khảo
sát thực tế các mô hình tài phán hành chính cũng như kinh nghiệm thực
tiễn giải quyết khiếu kiện hành chính trên thế giới để đưa ra mô hình phù
hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam. Sau quá trình đó, Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 9 của Ban Chấp Hành Trung ương Đảng khóa VII
(23/1/1995) đã quyết định “xúc tiến việc thiết lập hệ thống tòa án hành
chính” trong Tòa án nhân dân để xét xử các khiếu kiện hành chính. Ngày
28/10/1995, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
IX, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
tổ chức Tòa án nhân dân, trong đó giao cho Tòa án nhân dân chức năng
xét xử những vụ án hành chính. Với một hệ thống cơ quan tài phán hành
chính mới ra đời đó là hệ thống Tòa hành chính nằm trong Tòa án nhân
dân, cần phải có một hệ thống chính sách tương ứng để nó có thể vận
hành và đi vào hoạt động một cách hữu hiệu. Bước ngoặt quan trọng
trong quá trình phát triển của pháp luật về giải quyết khởi kiện hành
chính ở nước ta là ngày 21/5/1996 Uỷ ban thường vụ quốc hội thông qua
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, có hiệu lực từ ngày
01/7/1996 (Pháp lệnh 1996). Theo đó trong một số trường hợp, ngoài việc
khiếu nại theo thủ tục khiếu nại, tố cáo, mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức
còn có quyền khởi kiện vụ án hành chính đến Tòa án để yêu cầu Tòa án
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cuả mình khi bị các hành vi hành
chính cuả các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, người có thẩm quyền
trong các cơ quan nhà nước xâm phạm. Văn bản này ghi nhận Tòa án có
thẩm quyền giải quyết 8 loại khiếu kiện. Trong quá trình thực thi, Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội đã được sửa đổi, bổ sung lần 2 vào năm 1998 và 2006.

II. Thực trạng hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, khởi kiện
ở Hà Nội (Trường hợp thực tế về hoạt động giải quyết khiếu
nại, tố cáo, khởi kiện đất đai).
1. Khái quát về hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, khởi kiện ở
Hà Nội.

1.1 Khái quát tình trạng khiếu nại tố cáo về đất đai ở Hà Nội

Khiếu nại tố cáo về đất đai ở Hà Nội thường chiếm tỷ lệ cao nhất
trong số các đơn khiếu nại tố cáo (Cho đến năm 2020, tỉ lệ này vẫn chiếm
đến 61.5%). Tuy nhiên, tình trạng giải quyết đơn khiếu nại vẫn còn nhiều
vướng mắc.
Tình trạng khiếu nại tố cáo về vấn đề đất đai ở Hà Nội luôn là vấn
đề nóng do chính sách chưa đồng bộ, chồng chéo, và không ổn định, việc
phân loại, xử lý đơn thư chưa chính xác, quá hạn giải quyết cộng với sự
buông lỏng quản lý của chính quyền cơ sở… đặc biệt là trong giai đoạn
năm 2009-2013.
Cho đến năm 2018, việc giải quyết khiếu nại tố cáo về đất đai ở Hà
Nội vẫn còn nhiều vấn đề. Theo báo cáo của UBND thành phố Hà Nội,
tình hình khiếu nại tố cáo vẫn còn tiềm ẩn phức tạp, chủ yếu phát sinh
trong quá trình triển khai giải phóng mặt bằng tại một số dự án phát triển
giao thông, đô thị; công tác quản lý, sử dụng đất nông nghiệp tại một số
huyện. Vẫn còn tình trạng khiếu nại tố cáo đông người.
Đến năm 2021, Các cơ quan hành chính của Thành phố tiếp 755
lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo và 04 đoàn đông người; tiếp nhận và
xử lý 2.448 đơn; gồm có khiếu nại 446 đơn; tố cáo 254 đơn; kiến nghị,
phản ánh, nặc danh 1.748 đơn. Tổng số vụ khiếu nại, tố cáo 259 (trong đó
khiếu nại 225, tố cáo 134); đã xem xét, giải quyết: 189 vụ (khiếu nại 109,
tố cáo 80).
Thực hiện Chỉ thị 17/CT-UBND ngày 23/07/2021 của Chủ tịch
UBND Thành phố về thực hiện giãn cách xã hội trên địa bàn Thành phố
để phòng chống dịch bệnh Covid-19, các cơ quan hành chính của Thành
phố đã tạm dừng hoạt động tiếp công dân từ ngày 26/7/2021; do đó, tình
hình khiếu nại, tố cáo có chiều hướng giảm so với tháng trước (số vụ
khiếu nại, tố cáo giảm 10%; số lượt tiếp công dân giảm 77%, số đơn
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị phản ánh do các cơ quan hành chính của
Thành phố tiếp nhận giảm 43%).

1.2 Nội dung cơ bản của các đơn khiếu nại tố cáo đất đai ở Hà Nội

Nội dung khiếu nại, tố cáo tập trung vào việc bồi thường giải phóng
mặt bằng, bố trí tái định cư, đòi lại đất cũ và tranh chấp quyền sử dụng
đất...Chủ yếu là một số nội dung cơ bản sau:
- Bồi thường giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư (khi Nhà nước thu hồi
đất để thực hiện các dự án)
- Khiếu nại về bồi thường giải phóng mặt bằng thường gay gắt, công dân tụ
tập đông người, xảy ra tập trung ở những nơi thu hồi diện tích đất lớn để
bố trí phát triển các dự án, người có đất bị thu hồi khiếu nại về thực hiện
không đúng quy hoạch, không đúng diện tích, vị trí, giá đền bù thấp,
không đáp ứng yêu cầu ổn định cuộc sống…
- Nhiều trường hợp sau khi thu hồi đất nông nghiệp, giao cho các Công ty
để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh, người dân không chấp
nhận dẫn đến tình trạng các hộ dân chống đối, không thực hiện các quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và đã có nhiều hành vi ngăn
cản, đập phá phương tiện và chống người thi hành công vụ như ở Hà
Nội .v.v..
- Ngoài ra, còn một số khiếu nại: đòi thực hiện chính sách bồi thường về
đất đai do trước đây chưa được thực hiện trong việc trưng dụng, thu hồi
đất; giải toả hành lang an toàn giao thông.
- Tranh chấp quyền sử dụng đất.
- Việc thực hiện dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp; quản lý trật tự xây
dựng...
2. Kết quả hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về đất
đai ở Hà Nội.

Trong những năm vừa qua, các cấp, các ngành đã cố gắng thực
hiện công tác giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về đất đai.
Từ đó đã khôi phục, bảo vệ lợi ích và quyền hợp pháp của công
dân, cơ quan, tổ chức. Đồng thời thông qua giải quyết đơn thư, các
cấp, các ngành đã có những điều chỉnh, sửa chữa, uốn nắn kịp thời
những sơ hở trong cơ chế, chính sách, những khuyết điểm trong
công tác quản lý đất đai, qua đó có những quyết định, định hướng
đúng đắn để hướng tới ổn định tình hình an ninh, trật tự xã hội,
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.

Dưới sự chỉ đạo của UBND Quận, huyện và các ngành chức
năng trong quá trình xem xét giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo
theo thẩm quyền các đơn vị, cơ quan Nhà nước đã tuân thủ chặt
chẽ trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, đảm bảo kết quả giải
quyết kịp thời, khách quan và đúng pháp luật. Điều này đã góp
phần tạo được niềm tin trong nhân dân, hạn chế được các vụ việc
giải quyết kéo dài, vượt cấp.

Cụ thể, tại buổi giao ban báo chí do Ban Tuyên giáo TP Hà
Nội tổ chức, Phó chủ tịch UBND Quận Đống Đa cho biết về công
tác giải quyết khiếu nại tố cáo trên địa bàn Quận Đống Đa năm
2020, UBND Quận đã tiếp nhận 11.603 đơn thư khiếu nại, tố cáo
và với chức năng thẩm quyền UBND Quận đã giải quyết được
1071 đơn, thư khiếu nại, tố cáo. Giải quyết được phần nào nỗi lo
cho nhân dân.

- Công tác tiếp dân

Tổ chức tốt công tác tiếp dân là một biểu hiện cụ thể hóa
quan điểm "Dân là gốc" của đảng và Nhà nước ta. Nơi tiếp công
dân là nơi mà cán bộ, thủ trưởng các cấp tiếp nhận được các thông
tin phản hồi về công việc, chính sách đã triển khai đến nhân dân có
hiệu quả không và những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của nó, lắng
nghe tâm tư, nguyện vọng và những băn khoăn, bức xúc của nhân
dân thông qua đó để có những điều chỉnh cơ chế quản lý phù hợp
và hiệu quả hơn.

Việc tiếp công dân là khâu quan trọng hàng đầu trong quá
trình giải quyết khiếu nại, tố cáo, góp phần không nhỏ vào việc
nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo. Thông qua tiếp dân, các cơ quan nhà nước biết được tâm tư,
nguyện vọng của người dân cũng như làm sáng tỏ nội dung vụ việc
đã được trình bày trong đơn khiếu nại, tố cáo để từ đó tìm ra giải
pháp giải quyết đúng đắn vụ việc. Quá trình tiếp dân cũng là dịp để
các cơ quan nhà nước tuyên truyền cho nhân dân hiểu thêm về
chính sách pháp luật của nhà nước nhất là những vấn đề liên quan
đến quyền và lợi ích của họ, hướng dẫn họ thực hiện đúng đắn
quyền khiếu nại, tố cáo của mình, có thái độ đúng đắn và hợp tác
với cơ quan nhà nước để giải quyết khiếu nại, tố cáo. Do vậy làm
tốt công tác này tức là đã làm tốt một bước quan trọng trong giải
quyết các khiếu nại, tố cáo. Với ý nghĩa quan trọng đó cho nên tại
UBND Quận, huyện, các phòng, ban chuyên môn, UBND các xã,
thị trấn đều bố trí phòng tiếp dân, địa điểm tiếp được bố trí thuận
tiện, đầy đủ trang thiết bị, có nội quy, quy chế tiếp dân.

Công tác tiếp dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố
cáo luôn giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo, tuân thủ
pháp luật, không né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, đúng thẩm quyền.
Tuy nhiên việc giải quyết khiếu nại là công việc phức tạp, đòi hỏi
người làm công tác này phải có trình độ chuyên môn vững vàng,
kinh nghiệm thực tiễn và am hiểu về kiến thức xã hội, còn phải có
phẩm chất đạo đức chính trị, có tâm huyết với công việc được giao
và đặc biệt phải có tinh thần trách nhiệm, đạo đức của người công
chức tận tâm, tận tụy phục vụ dân.

Những năm qua các cơ quan chuyên môn, các quận, huyện,
thị xã đã làm tốt được việc tiếp nhận những ý kiến phản ánh, đơn
thư khiếu nại, tố cáo, tuyên truyền giáo dục pháp luật và quan trọng
hơn nữa là lãnh đạo quận, huyện, xã, thị trấn gần dân hơn và lắng
nghe những kiến nghị, phản ánh những nội dung có thể trả lời ngay
cho dân nhằm rút ngắn thời gian chờ đợi kết quả giải quyết. Những
nội dung phức tạp có thể bàn giao trực tiếp cho các phòng, ban
chuyên môn tham mưu giải quyết và trả lời công dân. Cán bộ tiếp
dân vừa thực hiện chức trách tiếp dân vừa thực hiện công việc giải
thích cho dân hiểu chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Vì
vậy, đã hạn chế những bức xúc của công dân tại nơi tiếp dân và
hạn chế được đơn thư vượt cấp.

3. Đánh giá về hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, khởi kiện ở
Hà Nội.

Theo Hiến pháp quy định tại điều 74 : “Công dân có quyền
khiếu nại, quyền tố cáo với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất kỳ cá
nhân nào.”

Có thể thấy, nhà nước đã rất quan tâm tới việc bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của công dân. Đây là công cụ pháp lý để công dân có
thể bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng của mình và đây cũng
là phương thức để công dân tham gia vào quản lý nhà nước
Tình hình thực tế về hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo
khởi kiện về đất đai ở thành phố Hà Nội : Trong quá trình làm việc
đôi khi để xảy ra tranh chấp án hành chính, nguyên nhân sâu xa để
xảy ra tình trạng này có thể kể đến như việc người khởi kiện không
đồng ý với các quyết định hành chính, hành vi hành chính mà cơ
quan hành chính nhà nước hoặc người đại diện pháp luật của các
cơ quan này đã ban hành có ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của
người khởi kiện. Trên thực tế, việc giải quyết đã cho thấy rằng các
quá trình khiếu kiện hành chính vô cùng là phức tạp ( chủ yếu liên
quan đến quản lý đất đai, ví dụ như việc cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, khiếu kiện có liên quan đến vấn đề thu hồi đất;
việc hỗ trợ tái định cư, khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại,
công việc cưỡng chế thu hồi đất và giải phóng mặt bằng và rất
nhiều công việc khác ...). Có thể nói công việc xử lý án hành chính
có liên quan mật thiết với sự ổn định tình hình chính trị địa
phương, thực tế đã chỉ ra có quá nhiều vụ khiếu kiện theo số đông
nên đường lối giải quyết xử lý phải xây dựng dựa trên cơ sở xem
xét toàn diện hệ thống văn bản pháp luật có liên quan, cơ chế điều
chỉnh của thành phố có phù hợp với quy phạm pháp luật. Đôi khi,
cần xem xét liệu yêu cầu khởi kiện có chính đáng hay không, có
phù hợp với pháp luật và người khởi kiện đã có đầy đủ tài liệu để
minh chứng yêu cầu của mình hay chưa.

Kết quả khả quan :

Nhìn chung, thực tế đã ghi nhận rất nhiều kết quả tích cực liên
quan đến vấn đề giải quyết khiếu nại, khởi kiện và tố cáo về đất đai
ở thành phố Hà Nội. Có rất nhiều vụ việc được giải quyết một cách
thấu đáo, hợp lý dựa trên cơ sở của pháp luật đã đem lại sự công
bằng và thỏa đáng cho mọi người.

Một số hạn chế tồn tại :

Đầu tiên, có thể thấy tình trạng án hành chính sơ thầm còn tồn
tại rất nhiều, vi phạm thời hạn giải quyết vẫn còn diễn ra, cho dù
VKS đã ban hành kiến nghị đến Tòa án ngang cấp nhưng đôi khi
Tòa án vẫn chưa có những giải pháp thật sự thấu đáo.Trên thực tế,
từ các số liệu có thể thấy tỷ lệ án đối thoại thành công vẫn không
đáng kể.
Từ thực tế có thể thấy tình trạng án sửa, hủy có lỗi của VKS
vẫn còn.

Viện Kiểm Sát đôi khi vẫn chưa phát hiện ra vi phạm để kịp
thời đưa ra kiến nghị, kháng nghị kịp thời đối với những vụ án có
vi phạm, trong các vi phạm thì một số vi phạm về thời hạn tố tụng
vẫn diễn ra mặc dù hàng năm VKs đều làm công tấc tổng hợp vụ
ban hành đưa ra kiến nghi để khắc phục

Về nguyên nhân :

Nguyên nhân chủ quan:

- Phần lớn người khởi kiện là cá nhân bị ảnh hưởng bởi các quyết
định hành chính, vi phạm hành chính, khi khởi kiện họ luôn giữ
tâm lý “mình là người bị hại, các quyết định hành chính, vi phạm
hành chính của Chính phủ là vi phạm pháp luật nghiêm trọng”, để
chứng minh, yêu cầu bồi thường hoặc yêu cầu không đúng, không
cung cấp đầy đủ chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án, nhiều trường
hợp các bên không hợp tác với Tòa án để giải quyết vụ án.
- Bị cáo khi tham gia tố tụng còn mang tính chất đối chất. Trên thực
tế, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn chỉ có lời khai, trình
bày trước Tòa, hoặc có văn bản từ chối tham gia đối thoại. vắng
mặt tại các phiên làm việc, phiên họp và phiên tòa.
- Vì án hành chính là loại án đặc biệt nên một trong các đương sự là
cơ quan hành chính nhà nước hoặc cá nhân chủ trì còn băn khoăn
về việc hủy quyết định của ủy ban nhân dân, chủ tịch ủy ban nhân
dân các cấp.
- Việc thu thập chứng cứ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
của Tòa án chưa thực sự hiệu quả do các cơ quan này thường chậm
trả lời công văn, cung cấp tài liệu không đầy đủ dẫn đến nhiều
trường hợp phải thi hành án. Tạm dừng để chờ phản hồi của các cơ
quan, tổ chức có liên quan.
- Án hành chính chủ yếu liên quan đến khiếu kiện về lĩnh vực đất đai
đặc biệt liên quan đến giải phóng mặt bằng và tranh chấp quyền sử
dụng đất, có thể nói đây là loại án phức tạp, còn về tài liệu chứng
cứ đương sự cung cấp, đôi khi tòa án thu thập không đầy đủ nên
không có căn cứ để có thể chấp nhận yêu cầu khởi kiện; văn bản
pháp luật về đất đai qua các thời kỳ vẫn còn rất nhiều nội dung còn
mâu thuẫn, chồng chéo dẫn đến việc nhận thức pháp luật của người
tiến hành tố tụng còn không thống nhất, nhiều vụ án quan điểm giải
quyết giữa Thẩm phán và Kiểm sát viên; hoặc giữa cấp huyện và
cấp tỉnh khác nhau; việc ban hành giải đáp thắc mắc của cấp trên
còn chậm, không kịp thời.

Nguyên nhân khách quan :

- Nói về nguyên nhân khách quan có thể thấy do số lượng án hành


chính sơ thẩm có xu hướng tăng mạnh ở cấp thành phố là do theo
như Luật TTHC 2015 có hiệu lực từ ngày 01/7/2016 thì lượng án
hành chính sơ thẩm từ quận, huyện chuyển thẩm quyền lên cấp
thành phố giải quyết. Án hành chính có thể nói là một trong những
loại án khó, có mối quan hệ phức tạp, nhiều đương sự tham gia,
nhiều văn bản pháp luật có liên quan nên khó mà có thể đưa ra giải
quyết so với thời hạn luật định dẫn đến vụ án bị kéo dài vi phạm
thời hạn giải quyết VKS đã ban hành kiến nghị đến Tòa án nhưng
đến nay vẫn chưa được khắc phục triệt để.
- Có một số văn bản quy phạm pháp luật đã được thi hành trong thời
gian dài nhưng nhiều quy định trong các văn bản này chưa được
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ
quan hữu quan thuộc thẩm quyền ban hành văn bản quy định chi
tiết thi hành nên nhiều khi đã để xảy ra tình trạng áp dụng pháp luật
một cách chưa thống nhất.

Giải pháp:

- Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát xét xử vụ án
hành chính, Viện kiểm sát hai cấp cần tập trung bố trí đủ kiểm sát
viên đủ năng lực và kiểm sát viên được bổ nhiệm phải có trách
nhiệm, tích cực học tập, tự bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất, kinh
nghiệm. . Người phụ trách công tác kiểm sát giải quyết án hành
chính phải là điều tra viên có kinh nghiệm trong lĩnh vực.
- Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, KSV cần xác định rõ yêu cầu khởi
kiện, ý kiến của các đương sự đối với từng yêu cầu tranh tụng,
chứng cứ của nguyên đơn, bị đơn và các đương sự khác. Trình tự,
thủ tục ban hành quyết định hành chính và trình tự thực hiện các
quy định hành chính. Kiểm sát viên cần kịp thời phát hiện những
tài liệu, chứng cứ đã thu thập còn thiếu, xác định danh tính người
tham gia tố tụng, tống đạt văn bản tố tụng ... để yêu cầu bổ sung tài
liệu, thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho vụ án được khép
lại. một cách toàn diện, kịp thời và không được để xảy ra tình trạng
thu thập tài liệu không đầy đủ và phiên điều trần đã phải hoãn lại.
- Nâng cao công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính
của Tòa án cùng cấp, đảm bảo nắm chắc số vụ, thời hạn và kết quả
giải quyết từng vụ án tại Tòa án này. Làm tốt công tác xây dựng hồ
sơ, sổ sách, thống kê thanh tra, đảm bảo phát hiện kịp thời những
vụ án sắp đến thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn tạm hoãn, có văn
bản đôn đốc yêu cầu. Và luật pháp. Về những sai phạm mang tính
hệ thống, đề nghị tập thể lãnh đạo viện cùng nhau góp ý.
- Tiếp tục tăng cường sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa Viện
kiểm sát hai cấp và Tòa án để bảo đảm các vụ án được xét xử kịp
thời, xử lý nghiêm minh theo pháp luật trong hoạt động tư pháp.
Làm tốt công tác phối hợp triển khai hệ thống thông tin của Viện
kiểm sát hai cấp (ra "Thông báo thụ lý", "Quyết định khép lại vụ án
hình sự, bản án", "Đơn đề nghị", "Đơn kiến nghị" (khi xét thấy cần
thiết), và báo cáo Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình
kiểm sát các vụ án hành chính để VKS tỉnh theo dõi sát diễn biến
vụ án, đồng thời có biện pháp chỉ đạo kịp thời khi phát hiện vi
phạm.
- Bên cạnh đó, sẽ là tuyệt vời khi hoàn thiện hơn các quy định trong
pháp luật về khiếu nại tố cáo như về thẩm quyền giải quyết khiếu
nại, các quy định về đối thoại, thời hạn giải quyết đối thoại,...
- Nâng cao công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về
khiếu nại khởi kiện tố cáo trong quần chúng nhân dân, giúp nhân
dân hiểu và thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình khi thực
hiện việc khiếu nại, tố cáo và khởi kiện.

Ngoài ra, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa viện kiểm sát và tòa
án. Theo con số thống kê, tỷ lệ thụ lý và giải quyết án hành chính
sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội năm 2017
tăng gấp 9 lần (516 vụ / 52 vụ) so với năm 2016, gấp 4 lần so với
án sơ thẩm so với các vụ án xét xử năm 2012 - 2016. Không có sự
thay đổi lớn về số lượng Kiểm sát viên, Hòa giải viên, đây là một
trong những khó khăn, thách thức mà các cơ quan tố tụng phải đối
mặt. Ngày nay, để khắc phục khó khăn, làm tốt công tác nghiên
cứu hồ sơ vụ án, đối với những vụ án phức tạp, Viện kiểm sát và
Tòa án cần có sự trao đổi khi thu thập chứng cứ để hạn chế tối đa
vi phạm tố tụng, đảm bảo xét xử sớm.

Kết Luận

Việc khiếu nại, tố cáo và khởi kiện hành chính đòi hỏi phải tuân thủ chặt
chẽ và nghiêm ngặt các quy định luật pháp về mặt nội dung lẫn hình thức dựa
trên Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính; Luật Khiếu nại, tố cáo, … đi kèm đó là các văn bản luật khác cùng
với hướng dẫn thi hành. Việc tuân thủ các quy định nói trên sẽ giúp cho việc
khiếu nại, tố cáo và khởi kiện hành chính diễn ra một cách một cách thuận lợi,
đảm bảo đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan.

Với vai trò là một người công dân, mỗi người chúng ta cần phải có cho
mình sự hiểu biết nhất định về khiếu nại, tố cáo và khởi kiện hành chính để
không những đảm bảo được lợi ích của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng mà
còn góp phần tạo ra sự trong sạch, vững mạnh cho nền hành chính của Việt
Nam.
Nguồn tham khảo

Huế, T. N. (n.d.). Đại cương về Nhà nước và Pháp luật. Khoa Luật
trường Đại học Kinh tế Quốc dân.

(n.d.). Luật Khiếu nại 2011.

(n.d.). Luật tố cáo 2018.

(n.d.). Luật Tố tụng Hành chính 2015.

Ninh, Đ. T. (n.d.). Khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính theo quy định
của pháp luật tố tụng hành chính Việt Nam.

Quốc hội nước CHXHCNVN (1946), Hiến pháp 1946,

Quốc hội nước CHXHCNVN (1959), Hiến pháp 1959;

Quốc hội nước CHXHCNVN (1980), Hiến pháp 1980;

Quốc hội nước CHXHCNVN (1992), Hiến pháp 1992;

Quốc hội nước CHXHCNVN (2001), Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001;

Quốc hội nước CHXHCNVN (1991), Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của
công dân năm 1991;

Quốc hội nước CHXHCNVN (1996), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính;

Bộ chính trị (2008), Thông báo số 130/-TB-TW ngày 10/01/2008 về công


tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo;

Chính phủ (2011), Nghị định số 75/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật khiếu nại 2011;

Chính phủ (2011), Nghị định số 76/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật tố cáo 2011

www.vkshanoi.gov.vn

You might also like