Professional Documents
Culture Documents
Tiểu Luận KTCT Mác-Lênin
Tiểu Luận KTCT Mác-Lênin
ĐỀ TÀI: Cách mạng công nghiệp 4.0, những cơ hội và thách thức đối với sức
cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa
Phần mở đầu
1. Sự cần thiết của đề tài
2. Đối tượng nghiên cứu
3. Phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
2
Phần mở đầu
Bài làm của em còn nhiều sai sót, em rất mong thầy có thể nhận xét, đánh giá cụ thể để
bài làm được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
3
Phần nội dung
Chương I: Khái quát lý luận về sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội
4
thức mà con người sử dụng để tiến hành quá trình sản xuất của xã hội ở những giai đoạn
lịch sử nhất định.
- Mỗi xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định đều có phương thức sản xuất của nó với
những đặc điểm riêng.
- Mỗi phương thức sản xuất đều có hai phương diện cơ bản là kỹ thuật và kinh tế của
nó.
2. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống
nhất biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ
sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản
xuất, trong đó, lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan
hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó. Như vậy, lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất tồn tại trong tính qui định lẫn nhau, thống nhất với nhau. Đây là yêu cầu tất
yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện thực của xã hội. Tương ứng với
thực trạng phát triển nhất định của lực lượng sản xuất cũng tất yếu đòi hỏi phải có quan
hệ sản xuất phù hợp với thực trạng đó trên cả ba phương diện: sở hữu tư liệu sản xuất,
tổ chức, quản lý và phân phối. Chỉ có như vậy, lực lượng sản xuất mới có thể được duy
trì, thai thác - sử dụng và phát triển trong một hình thức kinh tế nhất định, không thể tồn
tại lực lượng sản xuất bên ngoài các hình thức kinh tế nhất định. Mối thống nhất biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên tắc khách quan
quan hệ sản xuất phụ thuộc vào thực trạng phát triển thực tế của lực lượng sản xuất hiện
thực trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất, với tư cách là
hình thức kinh tế của quá trình sản xuất, nó luôn luôn có tác động trở lai lực lượng sản
xuất. Sự tác động này có thể diễn ra theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó
phụ thuộc vào tính phù hợp hay không phù hợp của quan hệ sản xuất với thực trạng và
nhu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nếu “phù hợp” nó sẽ có tác
dụng tích cực và ngược lại, nếu “không phù hợp” nó sẽ có tác dụng tiêu cực.
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống
nhất có bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn.
Trong phạm vi tương đối ổn định của một hình thức kinh tế xác định, lực lượng sản
xuất của xã hội được bảo tồn, không ngừng được khai thác - sử dụng và phát triển trong
quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội. Tính ổn định, phù hợp của quan hệ sản
xuất đối với lực lượng sản xuất càng cao thì lực lượng sản xuất càng có khă năng phát
triển, nhưng chính sự phát triển của lực lượng sản xuất lại luôn luôn tạo ra khả năng phá
vỡ sự thống nhất của nó với những hình thức kinh tế hiện thực. Những hình thức kinh tế
5
hiện thực này, từ chỗ là những hình thức phù hợp và cần thiết cho sự phát triển của các
lực lượng sản xuất đã trở thành những hình thức kìm hãm sự phát triển đó, nó đã tạo ra
một mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, từ đó xuất hiện nhu cầu
khách quan phải thiết lập mối quan hệ thống nhất giữa chúng theo nguyên tắc quan hệ
sản xuất phải phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Như vậy, mối quan
hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ mâu thuẫn biện chứng
giữa nội dung vật chất, kỹ thuật với hình thức kinh tế của quá trình sản xuất xã hội. Sự
vận động của mâu thuẫn này là một quá trình đi từ sự thống nhất đến những sự khác
biệt và đối lập, từ đó làm xuất hiện nhu cầu khách quan phải được giải quyết theo
nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với thực trạng phát triển của lực lượng sản
xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này cũng tuân theo qui luật: từ những sự thay đổi về
lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại”, qui luật “phủ định của phủ định”,
khiến cho quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội vừa diễn ra với tính chất tiệm
tiến, tuần tự lại vừa có tính nhảy vọt với những bước đột biến, kế thừa và vượt qua của
nó ở trình độ ngày càng cao hơn.
6
Sự vận động, phát triển quá trình sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản
xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ
sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đề tạo địa bàn đầy đủ cho
lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một
cách tối ưu giữa người lao động và tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở
để phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ
sản xuất từ chỗ phù hợp trở nên không phù hợp. Khi đó quan hệ sản xuất trở thành “xiềng
xích” của lực lượng sản xuất, kiềm hãm lực lượng sản xuất phát triển.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ quá trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế phát
triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ,
chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác
động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
7
Chương II: Ảnh hưởng của Cách mạng Công nghiệp 4.0 đến sức cạnh
tranh của Việt Nam
1. Khái quát tiến trình Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới trong xu thế toàn cầu hóa
Trong công cuộc phát triển đất nước ở thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, Việt
Nam đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa, hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới. Hiện
nay, tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đang được triển khai tích cực trong bối
cảnh mới của thế giới có nhiều biến động.
Trước Đại hội IX năm 2001, văn kiện của Đảng chỉ nói đến “quốc tế hóa”, chưa
đề cập tới “toàn cầu hóa”. Từ Đại hội IX của Đảng, Việt Nam đề cập đến “toàn cầu hóa
kinh tế”. Khi đó, Báo cáo chính trị Đại hội IX nhận định: “Toàn cầu hóa kinh tế là một
xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số
nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều
mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh”.
Qua hai nhiệm kỳ Đại hội IX và Đại hội X của Đảng, Việt Nam nhấn mạnh tới “toàn
cầu hóa kinh tế”. Đến Đại hội XI của Đảng (năm 2011), Việt Nam chuyển từ nhận thức
về “toàn cầu hóa kinh tế” sang nhận thức về “toàn cầu hóa”. Báo cáo chính trị Đại hội
XI nhận định: “Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ,
thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức”. Đại hội XII của Đảng
(năm 2016) tiếp tục khẳng định: “Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học -
công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh”. Báo cáo chính trị Đại hội XIII của
Đảng (năm 2021) nhấn mạnh: “Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển
nhưng đang phải đối mặt với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc...”
2. Khái quát thành tựu của các cuộc Cách mạng KHKT trong lịch sử nhân loại
3. Cơ hội nâng cao sức cạnh tranh của Việt Nam do Cách mạng Công nghiệp 4.0
- Đầu tiên, phải nói tới cơ hội do tính chất của thời đại, do bối cảnh tình hình
quốc tế ngày nay tạo ra. Đảng CSVN luôn xác định, để sự nghiệp cách mạng của Việt
Nam thắng lợi phải phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc và kết hợp với sức mạnh
của thời đại. Việt Nam là một nước kinh tế phát triển còn thấp, chưa qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa, nhưng Việt Nam có thể phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, có thể phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do tính chất của thời đại ngày nay
là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đúng như nguyên lý mà C.Mác, đã nêu ra: loài
người chỉ đặt ra những vấn đề mà điều kiện, những yếu tố để giải quyết vấn đề đó đã
xuất hiện. Thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới đã tạo ra cơ
hội để một đất nước chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa có thể phát triển
theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa.
10
- Ngày nay, trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế trở thành xu thế chung
của tất cả các quốc gia để phát triển. Hàng hóa, dịch vụ, tiền tệ, vốn đầu tư của các nước
đều có thể lưu thông, luân chuyển trên quy mô toàn cầu; phân công và hợp tác sản xuất
cũng có thể diễn ra ở nhiều quốc gia trên quy mô toàn cầu; doanh nghiệp của một nước
có thể tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu… Toàn cầu hóa tạo ra cơ hội cho mọi quốc
gia, đặc biệt là các quốc gia nghèo, chậm phát triển. Việt Nam, trong hơn 30 năm đổi
mới vừa qua, thực hiện đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đã sớm chủ trương hội nhập quốc tế, bắt đầu từ hội nhập kinh tế quốc tế, từng
bước mở rộng ra các lĩnh vực khác. Đến nay, Việt Nam đã hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng, có quan hệ ngoại giao, kinh tế với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế
giới; tham gia, trở thành thành viên của nhiều tổ chức quốc tế có uy tín, toàn cầu và khu
vực (Liên hợp quốc, Tổ chức thương mại quốc tế, Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc
tế, tổ chức ASEAN…), đã ký 16 hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương,
trong đó có những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nhờ hội nhập, Việt Nam đã
mở rộng thị trường cho xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài, các nguồn vốn, thành tựu khoa học – công nghệ, để đạt được những thành tựu
phát triển như những năm qua. Trong những năm tới, những nền tảng hội nhập kinh tế
quốc tế đã xây dựng được, những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã ký kết sẽ có
hiệu lực và những hiệp định sẽ được ký kết mới, sẽ tiếp tục mở ra cơ hội cho Việt Nam
tiếp tục phát triển.
- Những biến động phức tạp gần đây trên thế giới, trong quan hệ quốc tế, sự nổi
lên của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân túy, chủ trương bảo hộ thị trường trong nước,
cản trở toàn cầu hóa ở một số nước lớn, nhất là cuộc chiến tranh thương mại Mỹ -
Trung Quốc, đang và sẽ ảnh hưởng lớn tới lưu thông hàng hóa, đầu tư quốc tế, tăng
trưởng kinh tế thế giới. Bối cảnh này có những ảnh hưởng nhất định tới Việt Nam, tạo
ra những khó khăn, thách thức cho Việt Nam; nhưng đồng thời, cũng tạo ra cơ hội cho
Việt Nam, khi Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Mỹ, vào thị trường
Trung Quốc thay thế cho hàng hóa của một số nước bị cản trở xuất khẩu vào những thị
trường này. Việt Nam có cơ hội thu hút các nhà đầu tư nước ngoài rút khỏi Trung Quốc
và thu hút cả các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam sản xuất hàng hóa để
xuất khẩu vào Mỹ, đi vòng, tránh thuế quan cao và hàng rào thương mại của Mỹ với
hàng hóa Trung Quốc.
- Thời đại ngày nay là thời đại cách mạng khoa học – công nghệ, trực tiếp hiện
nay là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) đang diễn ra mạnh mẽ, tạo ra những
bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất xã hội; trong đó, khoa học – công nghệ,
tri thức trở thành nguồn lực và động lực quan trọng nhất đối với sự phát triển. Vai trò
của các yếu tố sản xuất khác, như vốn, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, trước đây từng là
11
yếu tố quyết định đối với sự phát triển của các quốc gia, giảm xuống. Với sự phát triển
của hệ thống internet và các mạng thông tin kết nối toàn cầu, tạo ra điều kiện thuận lợi
cho việc tiếp cận và truyền bá tri thức. Những điều này tạo ra cho Việt Nam, một nước
luôn quan tâm tới phát triển giáo dục, có nền giáo dục phát triển; có hệ thống hạ tầng
công nghệ thông tin, tỷ lệ người sử dụng internet cao so với nhiều nước có thu nhập
bình quân đầu người như Việt Nam, cơ hội để có thể đi ngày vào hiện đại, phát triển
theo hình thức rút gọn, đi tắt đón đầu, phát triển kinh tế nhanh, rút ngắn khoảng cách về
phát triển kinh tế với các nước tiên tiến trên thế giới.
- Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, trở
thành khu vực phát triển năng động, có vai trò ngày càng quan trọng đối với phát triển
kinh tế thế giới. Trong khu vực, có nhiều nền kinh tế lớn, có tiềm lực tài chính, khoa
học – công nghệ mạnh, phát triển năng động như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan, có những thị trường lớn, các nguồn vốn đầu tư lớn. Là một nước nằm
trong khu vực phát triển năng động nay, thu hút được sự quan tâm của cộng đồng quốc
tế, cũng tạo ra những cơ hội phát triển cho Việt Nam.
- Việt Nam là đất nước có sự ổn định chính trị - xã hội cao, con người thông
minh, nhân hậu, mến khách, có phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, nhiều danh lam thắng
cảnh nổi tiếng, nhiều bãi biển đẹp, nhiều di sản văn hóa - lịch sử có sức thu hút lớn, có
nhiều món ăn và nghệ thuật ẩm thực được bạn bè quốc tế yêu thích. Sau nhiều năm phát
triển, đã xây dựng được hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, sân bay, cảng biển, đường
cao tốc, hệ thống điện, nước, công nghệ thông tin, viễn thông khá đồng bộ, hiện đại, kết
nối quốc tế. Nền kinh tế của Việt Nam hiện nay là nền kinh tế thị trường đã có nhiều
yếu tố của kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập ngày càng phù hợp với các thông lệ và
tiêu chuẩn quốc tế. Cải cách các thủ tục hành chính được đẩy mạnh, các quy định về
điều kiện kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh có điều kiện được thu hẹp, ngày càng công
khai, minh bạch; môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện, thông thoáng, được
nâng bậc theo xếp hạng của các tổ chức quốc tế có uy tín. Nền kinh tế năng động, đạt
được tốc độ tăng trưởng hàng năm ở mức cao hàng đầu các quốc gia trên thế giới; dân
số Việt Nam đông, gần 100 triệu người với mức thu nhập ngày càng được cải thiện,
đang ở giai đoạn dân số vàng, là thị trường và địa chỉ đầu tư hấp dẫn đối với các doanh
nghiệp, các nhà đầu tư trên thế giới. Nền kinh tế Việt Nam đang được cơ cấu lại, đổi
mới mô hình tăng trưởng để phát triển nhanh, bền vững trên nền tảng khoa học - công
nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao… Những điều này tạo ra cơ hội lớn cho kinh tế
Việt Nam phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới.
4. Thách thức với khả năng cạnh tranh của Việt Nam
12
Trong những năm tới, sự phát triển kinh tế của Việt Nam không chỉ có cơ hội,
mà còn có không ít thách thức, thậm chí cả những nguy cơ. Điều đáng chú ý là nhiều
thách thức trong đó lại xuất phát từ những mặt khác của chính những yếu tố tạo ra cơ
hội cho phát triển kinh tế đất nước.
- Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng sẽ đặt doanh nghiệp Việt Nam, các sản
phẩm hàng hóa của Việt Nam trước thách thức phải cạnh tranh quyết liệt với các doanh
nghiệp, các sản phẩm hàng hóa của nước ngoài không chỉ ở thị trường nước ngoài mà
ngay cả ở thị trường trong nước của Việt Nam; trong khi các doanh nghiệp Việt Nam
phổ biến là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trình độ công nghệ thấp, năng lực tài chính hạn
chế, phải cạnh tranh với những doanh nghiệp lớn, công nghệ cao, tiềm lực tài chính
hùng hậu, có những sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Doanh nghiệp Việt
Nam tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, hiện nay, phần lớn là ở những công
đoạn có trình độ công nghệ thấp, gia công, lắp ráp.
- Hội nhập quốc tế, kinh tế Việt Nam đứng trước thách thức sẽ chịu tác động trực
tiếp, nhanh chóng từ những biến động kinh tế từ bên ngoài, từ những biến động trên thị
trường khu vực, thế giới về giá cả, lãi suất, tỷ giá của các đồng tiền, nhất là những đồng
tiền có ảnh hưởng lớn; từ những thay đổi của các luồng hàng hóa, tài chính, đầu tư quốc
tế và nghiêm trọng hơn là chịu sự tác động, ảnh hưởng rất nhanh của các cuộc khủng
hoảng kinh tế, tài chính khu vực và trên thế giới. Tác động với nền kinh tế đất nước sẽ
rất nghiêm trọng nếu Việt Nam không chủ động có biện pháp ứng phó và nếu nội lực
của nền kinh tế yếu. Đồng thời, các doanh nghiệp Việt Nam còn đối mặt với những
thách thức từ những cuộc tấn công mạng vào các hệ thống quản lý, hệ thống dữ liệu để
ăn cắp dữ liệu, ăn cắp công nghệ, kế hoạch, các bí quyết kinh doanh, nhất là của những
đối thủ cạnh tranh.
- Thách thức rất lớn đối với Việt Nam là vấn đề tốc độ phát triển rất nhanh của
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, của những thay đổi, phát triển công nghệ diễn
ra nhanh chóng trên thế giới. Theo kịp tốc độ phát triển này đối với Việt Nam là một
thách thức lớn. Hơn nữa, trong khi ở Việt Nam, hệ thống thể chế cho các hoạt động, các
lĩnh vực, các mô hình kinh doanh mới, việc bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu
dùng, xử lý tranh chấp,… việc quản lý các hoạt động kinh tế, sinh hoạt xã hội trong thời
đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn chưa hình thành; việc đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực, phát triển khoa học - công nghệ, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng…
đáp ứng đòi hỏi phát triển kinh tế đất nước trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
tư cũng không phải là nhiệm vụ đơn giản, dễ dàng.
-Thách thức khác đối với Việt Nam là trình độ khoa học - công nghệ rất cao, rất
mới, diễn ra trên diện rất rộng, hầu như tất cả các lĩnh vực kinh tế, phạm vi tác động rất
lớn của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Để nắm bắt được cơ hội, đòi hỏi phải
13
đáp ứng được đồng thời tất cả các yêu cầu đặt ra, đòi hỏi đất nước cũng phải có trình độ
phát triển cao về khoa học - công nghệ, có nguồn nhân lực chất lượng cao, từ cán bộ
nghiên cứu khoa học, sáng tạo công nghệ, thiết kế sản phẩm đến những người trực tiếp
sản xuất; đòi hỏi cả những thay đổi tâm lý, nếp sống của các tầng lớp xã hội, thay đổi tổ
chức, quản lý của hệ thống chính quyền các cấp, các ngành; đây không phải là vấn đề
dễ dàng, mà thật sự là những thách thức. Không vượt qua được những thách thức nhỏ,
cụ thể này thì thách thức lớn nhất với Việt Nam sẽ là tụt hậu xa hơn, so với các nước
khác
- Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á phát
triển năng động, nhưng cũng là khu vực có sự cạnh tranh, tranh giành ảnh hưởng mạnh
mẽ, kìm chế lẫn nhau giữa các nước lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc. Đặc biệt là
tranh chấp chủ quyền Biển Đông giữa các nước trong khu vực hết sức căng thẳng, có
nguy cơ gây mất ổn định khu vực. Giữ vững chủ quyền biển, đảo của đất nước, đồng
thời phải giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế đất nước là thách
thức lớn đối với Việt Nam.
- Kinh tế Việt Nam phát triển chưa ổn định, bền vững. Nợ công, thâm hụt ngân
sách nhà nước cao, kéo dài. Doanh nghiệp trong nước 95-96% là doanh nghiệp nhỏ,
trình độ công nghệ thấp. Nền kinh tế cơ bản còn phát triển theo chiều rộng, dựa vào vốn
đầu tư, tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông, chuyển dịch sang phát triển theo
chiều sâu dựa trên khoa học – công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao còn chậm.
Năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh kinh tế thấp, chuyển biến chậm.
- Hiện nay, Việt Nam đang ở thời kỳ dân số vàng, nhưng theo dự báo, thời kỳ dân
số vàng của Việt Nam sẽ kết thúc sớm hơn so với một số nước, dân số già nhanh. Kinh
nghiệm các nước cho thấy, các nước cất cánh được trở thành nước phát triển, vượt qua
bẫy thu nhập trung bình đều diễn ra trong thời kỳ dân số vàng. Nếu kinh tế Việt Nam
không cất cánh được trong thời kỳ dân số vàng, Việt Nam sẽ khó thoát khỏi bẫy thu
nhập trung bình, chưa giàu đã già.
- Đời sống nhân dân được cải thiện, nhưng khoảng cách giàu nghèo, phân tầng xã
hội có xu hướng mở rộng không chỉ ảnh hưởng tới ổn định xã hội mà còn ảnh hưởng tới
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vào phát triển kinh tế. Tình trạng ô nhiễm môi
trường được quan tâm ngăn ngừa, xử lý, nhưng chưa ngăn chặn được, vẫn có xu hướng
tăng lên, nguồn lực, chi phí cho bảo vệ môi trường cũng ngày càng tăng lên. Kinh tế
phát triển, thu nhập bình quân đầu người tăng lên, điều kiện sống được cải thiện, nhưng
môi trường văn hóa, đạo đức xã hội bị suy thoái, xuống cấp; tình trạng tham nhũng,
lãng phí, nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ, công chức làm ảnh hưởng xấu đến môi
trường đầu tư, làm giảm hiệu quả sử dụng các nguồn lực và hoạt động của các doanh
nghiệp.
14
Chương III: Một số khuyến nghị để khai thác cơ hội và vượt qua thách thức
từ CM Công nghiệp 4.0
1. Mục tiêu
Chủ động tận dụng có hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư; cơ bản làm chủ và ứng dụng rộng rãi công nghệ mới trong các lĩnh vực kinh tế -
xã hội; từng bước sáng tạo được công nghệ mới nhằm thúc đẩy quá trình đổi mới mô
hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện các đột phá chiến lược và
hiện đại hoá đất nước; phát triển mạnh mẽ kinh tế số; phát triển nhanh và bền vững dựa
trên khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất
lượng cuộc sống, phúc lợi và sức khỏe của người dân; bảo đảm vững chắc quốc phòng,
an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái; nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế và gắn kết
chặt chẽ quá trình ứng dụng Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với công tác bảo vệ an
ninh mạng.
Chiến lược đặt mục tiêu đến năm 2030 duy trì xếp hạng Đổi mới sáng tạo toàn cầu
(GII) của WIPO thuộc nhóm 40 nước dẫn đầu thế giới; Chỉ số An toàn, an ninh mạng
toàn cầu của ITU thuộc nhóm 30 nước đứng đầu; Chỉ số Chính phủ điện tử theo xếp hạng
của Liên hợp quốc thuộc nhóm 50 nước đứng đầu.
Kinh tế số chiếm khoảng 30% GDP; năng suất lao động tăng bình quân trên
7,5%/năm.
Phổ cập dịch vụ mạng Internet băng rộng cáp quang; phổ cập dịch vụ mạng di động
5G; hoàn thành xây dựng Chính phủ số.
Hình thành một số chuỗi đô thị thông minh tại các khu vực kinh tế trọng điểm phía
Bắc, phía Nam và miền Trung; từng bước kết nối với mạng lưới đô thị thông minh trong
khu vực và thế giới.
Nâng cao chất lượng thể chế và năng lực xây dựng chính sách; phát triển hạ tầng
kết nối, xây dựng và khai thác cơ sở dữ liệu; phát triển nguồn nhân lực; xây dựng Chính
phủ điện tử hướng tới Chính phủ số; phát triển và nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo
quốc gia; đầu tư, nghiên cứu, phát triển một số công nghệ ưu tiên để chủ động tham gia
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như công nghệ rô-bốt, vật liệu tiên tiến, năng
lượng tái tạo, trí tuệ nhân tạo, công nghệ trong y học, internet vạn vật, dữ liệu lớn, chuỗi
khối...; mở rộng hợp tác quốc tế và hội nhập về khoa học và công nghệ, nhất là trong các
lĩnh vực công nghệ ưu tiên để chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư.
15
Đẩy mạnh phát triển internet tốc độ cao, hạ tầng số an toàn, đáp ứng nhu cầu về
kết nối và xử lý dữ liệu lớn; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số vào quản lý nhà nước
trong tất cả các lĩnh vực; đầu tư, phát triển các ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ
quản lý nhà nước (GovTech) và cung cấp dịch vụ công. Xây dựng hệ thống thông tin
kinh tế - xã hội thời gian thực phục vụ chỉ đạo, điều hành của Chính phủ…
16
phía sẽ dễ tạo ra các phản ứng tiêu cực trong hệ thống tổ chức. Ngược lại nếu tiếp cận từ
hai phía sẽ có tác động tích cực tới người lao động.
- Chuỗi cung ứng thông minh: CMCN lần thứ 4 sẽ tạo ra một mô hình chuỗi cung ứng
mới gắn kết chặt chẽ hơn với nhu cầu của khách hàng. Chuỗi cung ứng mới này sẽ tạo ra
một cơ sở dữ liệu duy nhất, làm cho chuỗi cung ứng thông minh hơn, minh bạch hơn và
hiệu quả hơn ở mọi giai đoạn, từ khi phát sinh nhu cầu cho đến khi giao hàng.
- Hậu cần thông minh: Trong thời đại số, các quá trình hậu cần sẽ phải trở nên thông minh
hơn trong mạng lưới chuỗi giá trị toàn cầu. Bao gồm cả hai quá trình 44 quản lý cung ứng
vật tư và phân phối sản phẩm.
- Quản lý an ninh mạng: CMCN lần thứ 4 đã đẩy cao mức độ chia sẻ thông tin từ đó tạo
ra một nhu cầu rất lớn về an ninh mạng.
- Mô hình thuế mới: Công nghệ in 3D trong tương lai sẽ cho phép sản xuất trên khắp các
quốc gia và châu lục, không có còn biên giới quốc gia nữa. Điều này sẽ tạo ra một nhu
cầu mới về các quy định hải quan, thuế giá trị gia tăng mới.
- Hệ thống quản lý sở hữu trí tuệ mới: Quản lý sở hữu trí tuệ cũng sẽ phải thay đổi để phù
hợp với CMCN lần thứ 4. Những mô hình kinh doanh mới và các mô hình hợp tác mới
xuất hiện yêu cầu phải có những giải pháp tốt hơn trong vấn đề sở hữu trí tuệ thời đại số.
17
Phần kết luận
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra với tốc độ nhanh đang làm
thay đổi bối cảnh toàn cầu và có tác động ngày một gia tăng đến Việt Nam, cả tác động
tích cực cũng như bất lợi. Với tư cách là người tiêu dùng, tất cả người dân đều được
hưởng lợi do hàng hóa và dịch vụ sẽ phong phú hơn và giá cả hợp lý hơn. Tuy nhiên,
trong trung hạn nhiều lao động có thể sẽ bị ảnh hưởng, đặc biệt là lao động ít kỹ năng
nên phải chịu tác động mạnh mẽ của quá trình tự động hóa đang tăng tốc ở các nước
phát triển.
Lịch sử tiến bộ khoa học và công nghệ thế giới đã chứng kiến nhiều cuộc cách
mạng trong đó trí tuệ con người đã làm chủ, dẫn dắt sự đổi mới của máy móc để tăng
năng suất, mang lại thêm nhiều giá trị cho xã hội và đóng góp tích cực cho sự phát triển
về thể chất và tinh thần của nhân loại. Tuy nhiên, cuộc CMCN lần thứ tư không chỉ đơn
thuần là sự kế thừa thành quả của ba cuộc cách mạng công nghiệp trước đó với thế giới
kỹ thuật số mà còn tạo ra sự thay đổi toàn diện kinh tế thế giới trên 3 khía cạnh vận tốc,
phạm vi và hệ thống, chứng kiến sự suy giảm của các quốc gia phát triển chủ yếu vào
khai thác tài nguyên, tăng cường vai trò chủ đạo của những nước chú trọng nền công
nghệ sáng tạo. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đem lại nhiều cơ hội phát triển nhưng
cũng không ít thách thức cho Việt Nam.
Nếu tận dụng tốt cơ hội và vượt qua được các thách thức, Việt Nam sẽ có khả
năng thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến hơn, và sớm thực hiện được
mục tiêu trở thành nước được công nghiệp hóa theo hướng hiện đại. Trong trường hợp
ngược lại, khoảng cách phát triển với các nước đi trước sẽ tiếp tục gia tăng. Chúng ta
cần chung tay góp sức để đưa đất nước Việt Nam sớm thoát khỏi lạc hậu, trở thành một
nước công nghiệp hiện đại trong tương lai gần
18
Danh mục tài liệu tham khảo
- Giáo trình “Những Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin” (NXB Chính trị
Quốc Gia, Hà Nội – 2009)
- Giáo trình “Kinh tế chính trị Mác – Lênin” (NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội – 2009)
- Bài giảng môn Kinh tế Chính trị (Giảng viên: Ngô Quế Lân – ĐH Bách Khoa Hà Nội)
- Tổng luận “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4”(Cục Thông tin KH&CN Quốc gia)
- Các Báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
- Tài liệu nghiên cứu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư 4.0 (Trung tâm Phân tích
và Dự báo, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam xây dựng dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt
Nam. Nhóm nghiên cứu bao gồm TS.Nguyễn Thắng (Trưởng nhóm), TS. La Hải Anh,
Ths. Nguyễn Thu Hương, Ths. Phạm Minh Thái, Ths. Nguyễn Thị Kim Thái và Nguyễn
Thị Vân Hà.)
19