You are on page 1of 40

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP LLDH NĂM HỌC 2021 - 2022

MỤC LỤC:
Câu 1: Khái niệm và bản chất của quá trình dạy học.
Câu 2: Các qui luật cơ bản của quá trình dạy học.
Câu 3: Một số biện pháp xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh.
Câu 4: Các nguyên tắc dạy học ở trường phổ thông.
Câu 5: Khái niệm và chức năng của mục tiêu dạy học
Câu 6: Khái niệm và cấu trúc nội dung dạy học phổ thông.
Câu 7: Mối quan hệ giữa các thành phần của nội dung dạy học.
Câu 8: Một số kĩ thuật và phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của người học.
Câu 9: Phương tiện tiện dạy học và vai trò của nó.
Câu 10: Mối quan hệ của phương tiện dạy học với các yếu tố của quá trình dạy học.
Câu 11: Các đặc điểm của cơ chế học tập theo các lí thuyết học tập và việc vận dụng
các lí thuyết dạy học trong môn học mình sẽ đảm nhận.
Câu 12: Đặc điểm cơ bản của từng loại trí tuệ theo Howard Gardner và phân tích các
chiến lược dạy học tương ứng.
Câu 13: Khái niệm năng lực. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành phát triển
năng lực của học sinh.
Câu 14: Các đặc điểm của dạy học tích hợp.
Câu 15: Các biện pháp dạy học phân hóa.
Câu 16: Mối quan hệ giữa dạy học trải nghiệm với hoạt động giáo dục trải nghiệm
trong nhà trường.

Câu 1: Khái niệm và bản chất của quá trình dạy học.
1) Khái niệm quá trình dạy học
- Quá trình dạy học là một quá trình dưới sự tổ chức, hướng dẫn, điều khiển của
người dạy, người học tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tổ chức, tự điều khiển
hoạt động nhận thức – học tập của mình nhằm thực hiện tốt mục đích dạy học, qua
đó, phát triển nhân cách.
- Ví dụ: QTDH ở trường HNUE là hệ thống những hành động liên tiếp và thâm nhập
vào nhau của giáo viên và học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên, nhằm trang bị
cho học sinh những kiến thức, kỹ năng và bước đầu hình thành kỹ xảo liên quan đến
một nghề nhất định, qua đó góp phần hoàn thiện nhân cách nói chung, hình thành và
phát triển nhân cách nghề nghiệp nói riêng ở học sinh.

2) Bản chất của quá trình dạy học


a. Cơ sở xác định bản chất của quá trình dạy học
* Mối quan hệ giữa nhận thức và dạy học trong sự phát triển xã hội:
- Trong xã hội diễn ra hoạt động nhận thức của loài người và hoạt động dạy học cho
thế hệ trẻ. Trong đó, hoạt động nhận thức của loài người có trước hoạt động dạy
học và là nhu cầu tất yếu của xã hội. Tuy nhiên, hoạt động của người học trong dạy
học diễn ra trong môi trường sư phạm đặc biệt và có sự hướng dẫn, tổ chức, điều
khiển của thầy.
* Mối quan hệ giữa dạy và học, thầy và trò:
- Dạy và học là hai hoạt động đặc trưng cơ bản của quá trình dạy học có mối quan
hệ thống nhất biện chứng với nhau. Xét cho cùng, mọi hoạt động giảng dạy của thầy
và hoạt động học tập của trò là nhằm thúc đẩy hoạt động nhận thức của người học
chiếm lĩnh nội dung học tập được quy định trong chương trình dạy học nhằm thực
hiện tốt mục tiêu nhiệm vụ dạy học.
- Dạy là gì?
"Dạy là một hoạt động đặc trưng của người dạy nhằm tổ chức, điều khiển, tạo ra
nhiều điều kiện và cơ hội cho quá trình học diễn ra một cách thuận lợi và đạt mục
đích". Hoạt động phải tổ chức, sắp xếp các điều kiện, tạo ra các cơ hội thuận lợi và
điều khiển, kiểm soát quá trình học nhằm làm tăng thêm lượng kiến thức, kỹ năng và
thay đổi thái độ, cách đánh giá hiện có của người học. Kết quả cuối cùng là tạo điều
kiện và thúc đẩy quá trình học diễn ra trong một môi trường thuận lợi nhất
- Học là gì?
"Học là một hoạt động tích cực (TC), tự lực và sáng tạo của người học nhằm tạo ra
sự thay đổi trong nhận thức, thái độ và kỹ năng trên cơ sở những kiến thức, thái độ
và kỹ năng hiện có của bản thân".
Học chính là tạo ra sự thay đổi, nếu người học không thay đổi, điều có có nghĩa là
chưa diễn ra quá trình học. Tuy nhiên, sự thay đổi về mặt nhận thức sẽ là mục tiêu
cuối cùng của quá trình học. Nhờ có nhận thức, qua quá trình TC hoạt động, các
hành vi, kỹ năng và thái độ của người học sẽ được điều chỉnh theo hướng hoàn
thiện hơn.
- Mối quan hệ giữa dạy và học:
+) Dạy và học là hai hoạt động thống nhất biện chứng (nhưng không đồng nhất) với
nhau, phản ánh tính hai mặt của QTDH và là một quy luật cơ bản của QTDH.
+) Trong lượng kiến thức mà người dạy cung cấp cho người học thì sẽ có một phần
không được người học tiếp nhận
+) Phần vòng tròn tượng trưng cho những kiến thức do người dạy cung cấp bao giờ
cũng nhỏ hơn những gì người học học được
+) Phần vòng tròn tượng trưng cho "những gì được học nhưng không được dạy" sẽ
tác động đến "những gì được dạy và được học".
b. Bản chất của quá trình dạy học là quá trình tổ chức hoạt động nhận
thức có tính chất độc đáo của người học dưới sự tổ chức, định hướng,
điều khiển của người giáo viên nhằm giúp người học chiếm lĩnh tri
thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo trên cơ sở đó phát triển các phẩm chất
và năng lực, đáp ứng mục tiêu dạy học.
- Quá trình nhận thức của học sinh giống với các quá trình nhận thức khác
(nhận thức thông thường và nhận thức của nhà khoa học)
Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào não người thông qua chủ thể –
đó là sự phản ánh tâm lý của con người bắt đầu từ cảm giác, tri giác đến tư duy,
tưởng tượng. Sự học tập của học sinh cũng là quá trình như vậy.Quá trình nhận
thức của học sinh cũng diễn ra theo quy luật nhận thức chung của loài người.
Trong quá trình nhận thức, con người muốn nhận thức đầy đủ một vấn đề, một sự
vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, cần phải huy động các thao tác tư duy ở
mức độ cao nhất. Việc huy động các thao tác tư duy cũng không theo một trình tự
đơn thuần mà đó là một sự phối hợp sáng tạo tùy thuộc vào mỗi cá nhân. Kết quả
nhận thức học sinh nói riêng và loài người nói chung đều có điểm chung là làm cho
vốn hiểu biết của chủ thể tăng lên. Sau mỗi một giai đoạn nhận thức, vốn hiểu biết
của chủ thể tăng lên nhờ sự tích lũy những tri thức, hình thành những kinh nghiệm
mới trong quá trình nhận thức của mình.
- Tính độc đáo quá trình nhận thức của học sinh trong quá trình học tập (điểm
khác biệt với nhận thức thông thường và nhận thức của nhà khoa học)
Trong dạy học, quá trình nhận thức của học sinh diễn ra trong điều kiện sư phạm
đặc biệt. Vì vậy, hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học được tối ưu hoá,
chỉ trong thời gian học tập ngắn, học sinh đã nắm vững được hệ thống tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo một cách hiệu quả.
Mục đích quá trình nhận thức của học sinh là nhận thức được cái mới đối với bản
thân mình, rút ra từ kho tàng hiểu biết chung của nhân loại. Những tri thức này rút ra
từ tri thức khoa học của các ngành khoa học tương ứng và được gia công về mặt sư
phạm thể hiện trong nội dung dạy học. Trong khi đó, mục đích quá trình nhận thức
của nhà khoa học là mang lại cái mới không chỉ cho nhà khoa học mà cho cả nhân
loại về tri thức đó, một chân lý mới làm sâu sắc và phong phú thêm kho tàng tri thức
của nhân loại.
Kết quả quá trình nhận thức của học sinh là nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo, hòa được những tri thức đó vào hệ thống vốn kinh nghiệm của bản thân mình,
lưu trữ được bền vững, khi cần có thể tái hiện và vận dụng được trong cuộc sống. Vì
vậy những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo được hình thành ở học sinh phải được kiểm tra,
đánh giá một cách có kế hoạch và có hệ thống nhằm đảm bảo tính vững chắc của tri
thức thực hiện những yêu cầu về mặt dạy học và giáo dục. Trong quá trình nhận
thức của học sinh, phải có khâu kiểm tra và đánh giá, đảm bảo cho quá trình này
hợp thành một chu trình kín.
Quá trình nhận thức của học sinh trong dạy học luôn mang ý nghĩa giáo dục, bởi
thông qua dạy học các môn học, người học lĩnh hội tri thức khoa học các môn học
trên cơ sở đó hình thành được cơ sở thế giới quan khoa học, nhân sinh quan đúng
đắn, phát triển trí tuệ và những phẩm chất đạo đức của người công dân, người lao
động mà xã hội yêu cầu.

Kết luận sư phạm


- Cần dạy học phát huy được tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo hoạt động
học tập của học sinh tham gia vào quá trình dạy học.
- Tổ chức, hướng dẫn hoạt động học tập của học sinh một cách khoa học dựa trên
cơ sở quy luật nhận thức, các lý thuyết hoạt động học tập nhằm thực hiện tốt mục
tiêu, nhiệm vụ dạy học.
- Đảm bảo ý nghĩa giáo dục của dạy học , được thể hiện trong mọi hoạt động, mọi
khâu, mọi thành tố của quá trình dạy học. Ví dụ: nội dung dạy học, phương pháp,
hình thức tổ chức dạy học, mối quan hệ giao tiếp ứng xử của giáo viên với học
sinh…
- Không nên quá cường điệu những nét riêng biệt, độc đáo trong hoạt động
học tập của người học. Nếu như vậy sẽ rơi vào xu hướng sai lầm là chỉ chú trọng
truyền đạt cho học sinh một số tri thức có sẵn, quy trình hoạt động máy móc, mà coi
nhẹ việc tổ chức cho học sinh độc lập nghiên cứu để nắm lấy tri thức và rèn luyện
phương pháp học tập, phương pháp nghiên cứu.
- Trong quá trình dạy học, bên cạnh việc trang bị cho học sinh những tri thức
khoa học cơ bản, tổ chức thực hành để hình thành kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ
thống thì người giáo viên còn cần chú ý sử dụng những phương pháp dạy học, đề
xuất các bài tập nhận thức có tác dụng phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của học sinh trong quá trình học tập, giúp họ tiếp cận với hoạt động nhận thức
của các nhà khoa học.

Câu 2: Các qui luật cơ bản của quá trình dạy học.
1. Khái niệm:
- Quy luật là hiện tượng có tính bản chất, là mối quan hệ bản chất, bên trong xuyên
suốt đối tượng và quá trình (quan hệ khách quan, tất yếu, lặp lại, phổ biến, bền vững
trong những điều kiện xác định).
- Quy luật dạy học phản ánh những quan hệ chủ yếu, bên trong của những hiện
tượng dạy học quy định sự thể hiện tất yếu và sự phát triển của chúng.

2. Quy luật cơ bản của quá trình dạy học


Quá trình dạy học là một hiện tượng xã hội, tồn tại như một hệ thống: chứa đựng
các thành tố và những mối quan hệ giữa chúng. Việc xác định những mối quan hệ
này, sắp đặt chúng theo thứ bậc là nhiệm vụ của lí luận dạy học. Dựa trên những
thành quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước, cho tới nay,
người ta nêu ra một số những mối quan hệ tồn tại trong quá trình dạy học mà sự
vận động của chúng mang tính chất như là những quy luật của quá trình dạy học.
Trong số những quy luật đó có thể kể tới:
- Quy luật về tính quy định của xã hội đối với quá trình dạy học;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa dạy và học;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa dạy học và phát triển trí tuệ;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa dạy học và giáo dục tư tưởng chính
trị, đạo đức;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa nội dung dạy học với phương pháp
và phương tiện dạy học;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa việc xây dựng kế hoạch, việc tổ chức,
việc điều chỉnh và việc kiểm tra hoạt động của học sinh trong tiến trình thực hiện;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa nội dung, phương pháp, hình thức tổ
chức dạy học với mục đích dạy học;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa phương pháp dạy học với phương
pháp khoa học. v.v...
Trong các quy luật nêu trên, lí luận dạy học coi quy luật về sự thống nhất biện chứng
giữa dạy và học là quy luật cơ bản của quá trình dạy học, bởi sự có mặt những yếu
tố dạy và học quy định sự tồn tại, phát triển của quá trình dạy học. Ở đâu nói tới sự
dạy thì ở đó theo nó là sự học.

Câu 3: Một số biện pháp xây dựng động cơ học tập đúng đắn
cho học sinh.
a . Động cơ học tập:
- Khái niệm: Động cơ học tập của học sinh là hợp kim giữa sự thúc đẩy bởi động
lực học, trong đó, nhu cầu học là cốt lõi với sự hấp dẫn, lôi cuốn của đối tượng học
mà học sinh thấy cần chiếm lĩnh để thoả mãn nhu cầu học của mình.
- Các loại động cơ học tập:
+ Động cơ học tập trong là động cơ liên quan trực tiếp đến hoạt động học tập, do
chính sự tồn tại của hoạt động học: nhu cầu học, sự ham hiểu biết, hứng thú học,
niềm vui và thử thách bản thân, sự thỏa mãn do thành tựu học tập đem lại.
+ Động cơ học tập ngoài là động cơ rất ít liên quan trực tiếp tới hoạt động học tập
mà thường là do kết quả của hoạt động học tập mang lại: Lời khen, phần thưởng, sự
trừng phạt, ý thức trách nhiệm v.v, tóm lại là toàn bộ các phẩm chất tâm lí cá nhân,
các trạng thái tâm lí (vui vẻ/ lo âu v.v) cá nhân và các yêu cầu, áp lực từ bên ngoài
khi tiến hành hoạt động đều có thể trở thành nguồn ở để tạo ra động lực thúc đẩy
hoạt động của cá nhân.
- Khi được thúc đẩy từ động cơ trong, học sinh ít cần đến sự khuyến khích hay trừng
phạt, bởi vì chính hoạt động học và sản phẩm của nó là một phần thưởng cao quý.
Học sinh học tập được thúc đẩy bởi động cơ trong thường ít phải diễn ra sự “đấu
tranh động cơ”giữa giá trị của những phần thưởng do việc học mang lại với sự khó
khăn, trở ngại do chính việc học nảy sinh. Còn khi hoạt động học được kích thích bởi
động cơ ngoài, thì học sinh không quan tâm đến bản thân hoạt động học, mà chỉ
quan tâm qua hoạt động đó ta sẽ được cái gì? được bằng cấp, phần thưởng hay
tránh được sự trừng phạt từ phía nhà trường hay gia đình v.v…
- Động cơ trong có tác dụng thúc đẩy và phát triển hoạt động học của học sinh và
không làm suy giảm xu thế tích cực của hoạt động học, vì những thành tựu mà học
sinh đạt được trong quá trình học là nguồn vô tận nuôi dưỡng và phát triển động cơ.
Còn phần thưởng (động cơ ngoài) cũng kích thích tính tích cực hoạt động học,
nhưng về bản chất sẽ giảm xu thế tích cực của hoạt động, vì sức mạnh kích thích
phụ thuộc vào giá trị của phần thưởng và nhu cầu, sở thích của học sinh đối với
phần thưởng đó.
b . Một số biện pháp xây dựng động cơ học tập:
* Các biện pháp kích thích từ bên trong:
- Hoàn thiện những yêu cầu cơ bản:
+ Cung cấp một môi trường lớp học có tổ chức.
+ Là một người giáo viên luôn quan tâm đến lớp học.
+ Giao những bài tập có thử thách nhưng không quá khó.
+ Làm cho bài tập trở nên có giá trị với học sinh.
- Xây dựng niềm tin và những kì vọng tích cực:
+ Bắt đầu công việc ở mức độ vừa sức của học sinh.
+ Làm cho mục tiêu học tập rõ ràng, cụ thể và có thể đạt tới được.
+ Nhấn mạnh vào sự tự so sánh hơn là cạnh tranh.
+ Thông báo cho học sinh thấy được rằng năng lực học thuật có thể được nâng cao.
+ Làm mẫu những mô hình giải quyết vấn đề tốt.
– Chỉ cho thấy giá trị của học tập:
+ Liên kết giữa bài học với nhu cầu của học sinh.
+ Gắn các hoạt động của lớp học với những nhu cầu, hứng thú của học sinh.
+ Kích thích tính tò mò, ham hiểu biết.
+ Làm cho bài học trở thành “niềm vui”.
+ Cung cấp sự khích lệ, phần thưởng nếu cần thiết.
– Giúp học sinh tập trung vào bài tập:
+ Cho học sinh cơ hội thường xuyên trả lời.
+ Cung cấp cơ hội cho học sinh để có thể tạo ra một sản phẩm cuối cùng nào đó.
+ Tránh việc nhấn mạnh quá mức vào việc tính điểm.
+ Giảm bớt rủi ro khi thực hiện bài tập, không xem thường bài tập quá mức.
+ Xây dựng mô hình động cơ học tập.
+ Dạy những chiến thuật, kĩ thuật học tập.
* Các biện pháp kích thích từ bên ngoài:
- Khen thưởng:
• Biểu dương thành công từng phần. Trong mỗi việc nên tìm ra một cái gì đó đáng
mừng để động viên. Nếu xét kĩ lưỡng việc làm của học sinh, chắc chắn ta sẽ tìm ra
điểm tốt của họ.
• Biểu dương cố gắng, tiến bộ và thành tích trong những việc làm đơn giản, cũng
như những thành tích hiển hiện. Quan tâm động viên thích đáng đến các học sinh có
hoàn cảnh khó khăn, vẫn khắc phục vượt qua.
- Trách phạt:
• Tìm hiểu kĩ, chỉ trách phạt học sinh khi nào thật đáng trách; khi khen nên hào
phóng còn khi chê nên chặt chẽ.
• Về nguyên tắc hạn chế việc chê, trách học sinh trước tập thể và trước người
khác, nhất là đối với học sinh lớn tuổi.
• Không đột ngột quát tháo. Cần chỉnh lại chỗ sai của học sinh rồi giảng giải
cho các em biết để sửa.
• Không để tình cảm riêng xen vào; nên tỏ thái độ hi vọng vào sự tiến bộ khi
trách phạt.
• Không trách phạt với thái độ mỉa mai, miệt thị.
• Chỉ phạt vì công việc, không xúc phạm nhân cách hoặc đưa việc khác vào.
• Sau khi trách, nên có lời động viên, khích lệ để học sinh có niềm tin và cố
gắng sửa.

Câu 4: Các nguyên tắc dạy học ở trường phổ thông.


Nguyên tắc dạy học là những luận điểm cơ bản có tính quy luật của lí luận dạy học,
chỉ đạo toàn bộ tiến trình dạy và học nhằm thực hiện tốt mục đích, nhiệm vụ dạy học.
Hệ thống các nguyên tắc dạy học ở trường phổ thông bao gồm:
1. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính
giáo dục:
Nội dung nguyên tắc:
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học phải vũ trang cho người học những
tri thức khoa học chân chính, phản ánh những thành tựu khoa học, công nghệ và
văn hoá hiện đại, phải dần dần giúp học sinh tiếp cận với những phương pháp học
tập, nhận thức, thói quen suy nghĩ và làm việc một cách khoa học. Thông qua đó mà
dần dần hình thành cơ sở thế giới quan khoa học, tình cảm và những phẩm chất đạo
đức cao quý của con người hiện đại.
Chính vì vậy, để thực hiện nguyên tắc này cần phải:
- Vũ trang cho người học những tri thức khoa học chân chính, hiện đại nhằm giúp
cho họ nắm được quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội, tư duy, có cách nhìn và
thái độ hành động đúng đắn đối với hiện thực.
- Cung cấp cho họ những hiểu biết sâu sắc về thiên nhiên, xã hội, con người Việt
Nam.Từ đó giáo dục cho học sinh tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ công dân trước sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong học tập và tu dưỡng.
- Bồi dưỡng cho học sinh ý thức và năng lực phân tích, biết phê phán một cách đúng
mức những thông tin đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, những quan
niệm khác nhau về một vấn đề.
- Vận dụng các phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học theo hướng giúp học
sinh làm quen với một số phương pháp nghiên cứu khoa học ở mức độ đơn giản
nhằm dần dần tiếp cận với hoạt động khoa học, rèn luyện những tác phong, phẩm
chất của người nghiên cứu khoa học.
Ví dụ: Khi dạy học sinh bài VIỆT NAM TRÊN ĐƯỜNG ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP,
GV cần phải giúp HS biết được:
Về kiến thức:
- Nắm được các thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới ở nước ta.
- Nắm được một số định hướng chính để đẩy mạnh công cuộc đổi mới.
Bối cảnh
- Ngày 30 - 4 - 1975: Đất nước thống nhất, cả nước tập trung vào hàn gắn các vết
thương chiến tranh và xây dựng, phát triển đất nước.
- Nước ta đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu.
Thành tựu
- Nước ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài. Lạm phát
được đẩy lùi và kiềm chế ở mức một con số.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, (đạt 9,5% năm 1999, 8,4% năm 2005).
Về kĩ năng:
- Khai thác được các thông tin kinh tế - xã hội từ bảng số liệu, biểu đồ.
- Biết liên hệ các kiến thức địa lí với các kiến thức về lịch sử, giáo dục công dân
trong lĩnh hội tri thức mới.
Về thái độ:
Xác định tinh thần trách nhiệm của mỗi người đối với sự nghiệp phát triển của đất
nước.
Như vậy: Sự thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục được đảm bảo.
2.Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Nội dung nguyên tắc:
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học nắm vững tri thức, nắm vững cơ sở
khoa học, kỹ thuật, văn hoá khi kết hợp hai điều kiện: Thứ nhất tri thức là những
điểm có hệ thống, quan trọng và then chốt hơn cả. Thứ hai tri thức đó phải được vận
dụng trong thực tiễn để cải tạo hiện thực, cải tạo bản thân. Thông qua đó mà giúp họ
ý thức rõ tác dụng của tri thức lý thuyết đối với đời sống, với thực tiễn, với công cuộc
xây dựng và bảo vệ đất nước, hình thành cho họ những kỹ năng vận dụng chúng ở
những mức độ khác nhau mà mức độ cao nhất là góp phần phát triển kinh tế¬ xã hội
và văn hoᬠkhoa học của đất nước.
Để thực hiện nguyên tắc này cần phải:
- Khi xây dựng kế hoạch chương trình dạy học cần lựa chọn những môn học
và những tri cơ bản, phù hợp với những điều kiện thiên nhiên, với hoàn cảnh
thực tiễn xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội.
- Về nội dung dạy học phải làm cho người học nắm vững tri thức lý thuyết,
thấy rõ nguồn gốc của những tri thức đó và vai trò của tri thức khoa học đối
với thực tiễn.
- Về phương pháp dạy học cần khai thác vốn sống của người học để minh
hoạ, để đặt ra và giải quyết những vấn đề lý luận. Thông qua đó, bước đầu
giúp học sinh làm quen với những phương pháp nghiên cứu khoa học
- Về hình thức tổ chức dạy học thì cần kết hợp các hình thức tổ chức dạy học
khác nhau.
Ví dụ: Giáo viên dạy về phát triển cây công nghiệp lâu năm ở Tây Nguyên
Về lí thuyết:
Cho học sinh đọc SGK nắm lí thuyết về phát triển cây công nghiệp như:
Các loại cây công nghiệp lâu năm về diện tích, sản lượng, phân bố
Về điều kiện thuận lợi: khí hậu, thổ nhưỡng,thị trường, nguồn vốn.
Về thực tiễn
Cho học sinh quan sát át lát.
Giới thiệu các hình ảnh về các loại cây công nghiệp.
Kết quả đạt được của học sinh
Biết quan sát và trình bày nội dung bài học
Nắm được lí thuyết và hiểu bài hơn
Vận dụng vào làm các bài tập một cách nhanh chóng
Làm cho tiết học hứng thú hơn
3. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính trực quan và tính trừu
tượng trong dạy học.
Nội dung nguyên tắc:
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học có thể cho học sinh tiếp xúc trực tiếp
với sự vật, hiện tượng hay hình tượng của chúng, từ đó hình thành những khái
niệm, quy luật, lý thuyết; ngược lại, có thể từ việc lĩnh hội những tri thức lý thuyết
trước rồi xem xét những sự vật, hiện tượng cụ thể sau. Trong việc vận dụng nguyên
tắc này bao giờ cũng đảm bảo mối quan hệ qua lại giữa tư duy cụ thể và tư duy trừu
tượng.
Để thực hiện nguyên tắc này cần:
- Sử dụng phối hợp nhiều phương tiện trực quan khác nhau với tư cách là
phương tiện và nguồn nhận thức.
- Kết hợp việc trình bày các phương tiện trực quan và lời nói sinh động, diễn
cảm, nghĩa là kết hợp hai hệ thống tín hiệu.
- Cần sử dụng lời nói giàu hình ảnh để giúp học sinh vận dụng những biểu
tượng đã có để hình thành những biểu tượng mới, qua đó mà hình thành
những khái niệm, định luật mới.
- Cần vận dụng một trong những cách sử dụng trực quan nêu trên phù hợp với
lứa tuổi, nội dung và hoàn cảnh cụ thể nhằm hình thành và phát triển tư duy
lý thuyết cho họ.
- Cần sử dụng phối hợp các hình thức tổ chức dạy học một cách hiệu quả.
- Đề ra cho học sinh những bài tập nhận thức đòi hỏi phải thiết lập được mối
quan hệ giữa cái cụ thể, cái trừu tượng và ngược lại.
Ví dụ: Tư duy cánh chim bay lên trời và con người cũng có thể đi trên không,
sáng chế ra máy bay giúp con người đi trên không lĩnh hội khái niệm tư duy,
trừu tượng, khoa học ở trên lớp và về nhà mới cụ thể, chi tiết.

Cụ thể: những mặt, những thuộc tính có quan hệ với hiện tượng của hiện thực
khách quan (hiện tượng, sự vật tự nhiên: trời, mây, mưa, gió, chim bay trên trời,
nước chảy…)
Trừu tượng: là bộ phận của cái toàn bộ được tách ra và cô lập với mối quan hệ và
sự tương tác giữa các thuộc tính, các mặt của toàn bộ ấy, cho phép lĩnh hội gián tiếp
4. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính vững chắc của tri thức,
kĩ năng, kĩ xảo và tính mềm dẻo của tư duy.
Nội dung nguyên tắc:
Nguyên tắc này đòi hỏi học sinh nắm chắc bản chất vấn đề trong sự hòa trộn với
kinh nghiệm bản thân. Mặt khác, học sinh cần phải nhớ lâu, nhớ nhiều, nhớ nhanh,
nhớ chính xác kiến thức phù hợp nhằm giải quyết có hiệu quả từng tình huống cụ
thể.
Quá trình nắm kiến thức liên quan mật thiết đến các phẩm chất tư duy. Tư duy mềm
dẻo, linh hoạt trong lĩnh hội, đồng thời phải cơ động trong việc vận dụng giải quyết
những tình huống quen thuộc và tình huống mới.
Để thực hiện nguyên tắc này cần:
- Cần làm nổi bật cái cơ bản, bản chất của vấn đề.
- Học sinh phải biết sử dụng phối hợp các loại ghi nhớ: ghi nhớ chủ định, ghi
nhớ không chủ định, ghi nhớ máy móc, ghi nhớ có ý nghĩa. Tuy nhiên, ghi nhớ có
chủ định có tầm quan trọng đặc biệt, vì nó là cơ sở của sự học thuộc và nhớ lâu.
- Bên cạnh việc hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa, cần hướng dẫn
các em biết cách sưu tầm và tra cứu tài liệu tham khảo.
- Trong quá trình dạy học, chú ý ôn tập cho học sinh. Song, trong ôn tập phải
yêu cầu học sinh nắm được tính hệ thống của kiến thức, thấy được cái mới, đồng
thời tạo điều kiện cho học sinh vận dụng kiến thức vào nhiều tình huống thực tiễn
khác nhau. Điều đó có tác dụng làm cho học sinh vừa nắm chắc kiến thức, vừa rèn
luyện phẩm chất linh hoạt trong tư duy.
Ví dụ:
Đối với học sinh lớp 10 khi học về bài “DÒNG BIỂN”
- Học sinh gặp một số khó khăn trong quá trình tiếp nhận tri thức: khó nắm quy
luật hoạt động của các dòng biển, khó nhớ tên cũng như vị trí của các dòng
biển.
- Giáo viên giúp học sinh hình thành hệ thống tri thức: các dòng biển nóng
thường di chuyển từ vĩ độ thấp đến vĩ độ cao; các dòng biển lạnh thì ngược
lại; ở BBC, Các dòng biển di chuyển theo hướng cùng chiều kim đồng hồ; ở
NBC, thì ngược lại; các dòng biển nóng lạnh đối xứng nhau qua xích đạo
Đặc tính của các dòng biển:
Dòng biển nóng mang đặc tính ẩm và gây mưa nhiều, mùa đông thì ấm, mùa hè thì
mát cho nơi nó đi qua.
Dòng biển nóng thì ngược lại ,mang khí hậu khô và lạnh cho vùng nó đi qua.
Qua đó học sinh hình thành các kĩ năng, kĩ xảo về đọc bản đồ về các dòng biển,
bảng đồ thế giới…
Từ bài học trên, khả năng tư duy của học sinh cũng được hình thành. Lúc này học
sinh vận dụng tính mềm dẻo của tư duy để giải thích các hiện tượng liên quan đến
các dòng biển:
Khí hậu của các nơi khác nhau khi có dòng biển chạy qua.
5.Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và tính tuần tự trong dạy học
Nguyên tắc này đòi hỏi phải giúp người học lĩnh hội hay nói cách khác là nhận thức
được trình tự hệ thống logic, phải cho người học biết hệ thống những kiến thức khoa
học hiện đại. Trong lịch sử khoa học, sự nhận thức những vật thể và hiện tượng
phức tạp hơn thường đi trước sự nhận thức những thành phần của nó, trong quá
trình dạy học ở trường phổ thông khi muốn giới thiệu về tế bào của động, thực vật
thì cần phải giới thiệu những thực vật, động vật trước hay việc trình bày các hợp
chất trước tiên phải nghiên cứu các phân tử, nguyên tử,… Chính vì thế hệ thống hợp
lý về mặt lý luận dạy học của những giáo trình phải được xây dựng trên sự nghiên
cứu cẩn thận logic của khoa học và sự phát triển của những khái niệm, định luật
trong lịch sử khoa học và trong ý thức của người học sinh.

Để thực hiện nguyên tắc dạy học này, về mặt nội dung dạy học cần: Xây dựng
hệ thống dạy học cần phải phụ thuộc vào lý thuyết làm cơ sở cho việc giảng dạy, với
tính tuần tự như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi để phát triển tư duy lý luận cho học
sinh.
6.Thống nhất vai trò chủ đạo của người dạy và vai trò tích cực, tự giác,
sáng tạo độc lập của học sinh trong dạy học
Trong dạy học, phải đảm bảo mối quan hệ thuận lợi nhất giữa sự chỉ đạo sư phạm
của thầy giáo và lao động tích cực, tự giác, sáng tạo của học sinh.
- Tính tự giác nhận thức thể hiện ở chỗ người học phải tự nhận thức đầy đủ mục
đích của việc học này, nhiệm vụ của mình cần phải làm gì.
- Tính tích cực nhận thức ở đây được hiểu là người học có thái độ tích cực trọng
việc học, có sự tương tác cao trong việc dạy và học của hai.
- Tính sáng tạo độc lập ở đây được hiểu là học sinh tự độc lập trong việc giải quyết
các vấn đề, cần sáng tạo trong lúc cần thiết điều này cần phải linh động từ ý thức tới
hành động.
Để thực hiện nguyên tắc này, trong quá trình dạy học cần:
- Hoạt động dạy học phải hướng vào người học sinh, phải phát huy cao độ tính tích
cực, độc lập, sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện cho họ có thể học tập bằng chính
hoạt động của mình.
- Giáo dục cho học sinh ý thức đầy đủ, sâu sắc về mục đích, nhiệm vụ học tập, từ đó
có động cơ, thái độ học tập đúng đắn.
- Phát huy tư duy ngôn ngữ cho học sinh, khéo léo dẫn dắt học sinh vào các tình
huống có vấn đề, giải các bài tập có tính độc lập.
- Bồi dưỡng cho các em năng lực tự học, tự nghiên cứu, óc hoài nghi khoa học…
- Trong giảng dạy, giáo viên phải thu được thông tin ngược chiều từ phía học sinh để
điều chỉnh và hoàn thiện hơn công tác dạy và học.
8. Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức và chú ý tới đặc điểm lứa tuổi, đặc
điểm cá biệt và tính tập thể của việc dạy học
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học, khi lựa chọn nội dung, phương pháp,
hình thức tổ chức dạy học phải không ngừng nâng cao mức độ khó khăn trong học
tập, gây nên sự căng thẳng về trí lực, thể lực một cách cần thiết, nói cách khác, dạy
học vừa sức có nghĩa là trong dạy học phải tạo nên khó khăn vừa sức, những yêu
cầu và nhiệm vụ học tập đề ra phải tương ứng với giới hạn cao nhất của vùng phát
triển trí tuệ gần nhất.
Để đảm bảo tính vừa sức và chú ý tới những đặc điểm cá biệt trong điều kiện
tiến hành dạy và học với cả tập thể cần:
- Xác định mức độ tính chất khó khăn trong quá trình dạy học để thiết lập những
cách thức chủ yếu tạo nên động lực học tập, mở rộng khả năng nhận thức của học
sinh, suy nghĩ những biện pháp tiến hành chung với cả lớp và với từng học sinh.
- Phối hợp hình thức lên lớp, hình thức độc lập công tác của học sinh và hình thức
học tập nhóm tại lớp, trước tập thể lớp, giáo viên đề ra nhiệm vụ chung và dưới sự
chỉ đạo của giáo viên, từng cá nhân suy nghĩ cách giải quyết và trong thời gian đó,
giáo viên giúp đỡ những học sinh yếu kém.
- Cách tiến hành dạy học như vậy không chỉ giáo dục tinh thần tập thể cho học sinh,
mà từng học sinh giúp đỡ lẫn nhau nên nhiệm vụ học tập đề ra trở nên vừa sức mỗi
người.

Câu 5: Khái niệm và chức năng của mục tiêu dạy học
1.Khái niệm
Mục tiêu dạy học là trạng thái phát triển nhân cách được dự kiến trước của người
học sau một quá trình đào tạo dựa trên yêu cầu phát triển của một ngành nghề nhất
định.
Ví dụ: Từ một thanh niên (hoặc quân nhân) trúng tuyển vào trường sĩ quan, sau 4
năm đào tạo trở thành một sĩ quan quân đội có trình độ cử nhân quân sự và là 1
đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.Trạng thái phát triển nhân cách của người được
đào tạo thể hiện ở phẩm chất và năng lực hoàn thành nhiệm vụ sau khi tốt nghiệp
mà trước khi được đào tạo họ không thể làm được. Như vậy, hiểu một cách cụ thể
hơn:
Mục tiêu dạy học là những nhiệm vụ, công việc mà học viên phải làm được sau một
quá trình học tập mà trước đó họ chưa làm được.
Quá trình đào tạo trong nhà trường là tổng hòa của nhiều hoạt động khác nhau:quá
trình dạy học; quá trình giáo dục (hiểu theo nghĩa hẹp); quá trình rèn luyện…Quá
trình dạy học có thể là quá trình dạy học toàn khóa, một môn học, một bài học. Như
vậy, mục tiêu dạy học xác định những kết quả cần đạt được ở người học. Nó không
phải là bản liệt kê hay mô tả nội dung dạy học.
2. Chức năng
- Chức năng định hướng: Giáo viên căn cứ vào mục tiêu dạy học để thiết
kế nội dung dạy học, lựa chọn phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy
học phù hợp nhằm mang lại hiệu quả tối ưu cho hoạt động dạy học. Còn học sinh,
trên cơ sở ý thức được mục tiêu dạy học sẽ có ý thức, hành vi điều chỉnh hoạt động
học tập của bản thân để hoàn thành tốt các nhiệm vụ dạy học.
- Chức năng kiểm tra - đánh giá: Mục tiêu dạy học như là những thước đo mà
giáo viên căn cứ vào đó để đánh giá kết quả học tập của học sinh, cũng như tự đánh
giá hiệu quả hoạt động dạy học của bản thân.

Câu 6: Khái niệm và cấu trúc nội dung dạy học phổ thông.
1. Khái niệm nội dung dạy học và nội dung dạy học phổ thông
Nội dung dạy học là hệ thống những tri thức, kinh nghiệm thực hiện những cách thức
hoạt động đã biết, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo và kinh nghiệm về thái độ đối với
thế giới, con người, được xử lí về mặt sư phạm và được định hướng về mặt chính trị,
mà người giáo viên cần tổ chức cho học sinh lĩnh hội để đảm bảo hình thành và phát
triển nhân cách học sinh theo mục tiêu dạy học đã định.
Từ định nghĩa trên, có thể thấy những đặc trưng của nội dung dạy học là:
- Là một hệ thống bao gồm đầy đủ các yếu tố của cấu trúc kinh nghiệm xã hội cần
truyền đạt cho thế hệ trẻ.
Ví dụ: Chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 thực hiện mục tiêu giáo dục hình
thành, phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh thông qua các nội dung giáo
dục ngôn ngữ và văn học, giáo dục toán học, giáo dục khoa học xã hội, giáo dục
khoa học tự nhiên, giáo dục công nghệ, giáo dục tin học, giáo dục công dân, giáo
dục quốc phòng và an ninh, giáo dục nghệ thuật, giáo dục thể chất, giáo dục hướng
nghiệp. Mỗi nội dung giáo dục đều được thực hiện ở tất cả các môn học và hoạt
động giáo dục, trong đó có một số môn học và hoạt động giáo dục đảm nhiệm vai trò
cốt lõi.
- Được lựa chọn và xây dựng từ kinh nghiệm xã hội của loài người theo một định
hướng chính trị nhất định. Điều đó nói lên tính lịch sử, tính giai cấp của nội dung dạy
học.
Ví dụ:
+ Chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 xây dựng trên cơ sở quan điểm của
Đảng, Nhà nước về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; kế thừa và phát
triển những ưu điểm của các chương trình giáo dục phổ thông đã có của Việt Nam;
gắn với nhu cầu phát triển của đất nước, những tiến bộ của thời đại về khoa học -
công nghệ và xã hội; phù hợp với đặc điểm con người, văn hoá Việt Nam, các giá trị
truyền thống của dân tộc và những giá trị chung của nhân loại cũng như các sáng
kiến và định hướng phát triển chung của UNESCO về giáo dục; tạo cơ hội bình đẳng
về quyền được bảo vệ, chăm sóc, học tập và phát triển, quyền được lắng nghe, tôn
trọng và được tham gia của học sinh; đặt nền tảng cho một xã hội nhân văn, phát
triển bền vững và phồn vinh.
+ Luật giáo dục 2019: “Nội dung phải bảo đảm […] coi trọng giáo dục tư tưởng,
phẩm chất đạo đức và ý thức công dân; kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp,
bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại…nội dung sách giáo
khoa không mang định kiến dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, giới, lứa tuổi và địa vị xã
hội”.
+ Chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 môn Lịch sử: “…giúp học sinh có nhận
thức đúng về chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, tiến bộ của dân
tộc Việt Nam, vị thế của quốc gia –dân tộc trong khu vực và trên thế giới trong các
thời kì lịch sử, hướng tới xây dựng lòng tự hào dân tộc chân chính, nhận thức được
thế mạnh và cả những hạn chế trong di tồn lịch sử của dân tộc…”
- Đã được xử lí về mặt sư phạm để phù hợp với đặc điểm tâm lí – sinh lí của học
sinh ở từng lứa tuổi, từng cấp học, bậc học.
Ví dụ (Luật giáo dục 2019): “Giáo dục tiểu học phải bảo đảm cho học sinh nền tảng
phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, kỹ năng xã hội; có hiểu biết đơn giản, cần
thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có nhận thức đạo đức xã hội; có kỹ năng cơ
bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ
sinh; có hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mỹ thuật”.
Nội dung dạy học phổ thông là hệ thống những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo về nhiều lĩnh
vực ở trình độ phổ thông mà học sinh cần nắm vững trong suốt thời gian học phổ
thông và hệ thống những hoạt động được tổ chức trong quá trình dạy học nhằm đảm
bảo hình thành ở người học thế giới quan, nhân sinh quan khoa học và những phẩm
chất nhân cách của con người mới, chuẩn bị cho các em bước vào cuộc sống, và
lao động sản xuất.
2. Cấu trúc nội dung dạy học:
Nội dung dạy học có 4 thành phần, được cụ thể hóa như sau:
- Thứ nhất: Tri thức về nhiều lĩnh vực khác nhau (tự nhiên, xã hội, tư duy, kĩ
thuật, phương pháp…). Sự lĩnh hội các tri thức này sẽ giúp cho học sinh có
vốn hiểu biết phong phú, có công cụ để hình thành thế giới quan khoa học.
Ví dụ: Trong môn chủ nghĩa xã hội khoa học, chúng ta được học về Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là kiểu Nhà nước xã hội chủ nghĩa, mang bản chất
của giai cấp công nhân, khác biệt với kiểu Nhà nước tư bản chủ nghĩa của đa số các
quốc gia phương Tây. Việc trang bị những nhận thức chính trị - xã hội về quá trình
tất yếu lịch sử dẫn đến hình thành, phát triển hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ
nghĩa góp phần vào sự hình thành niềm tin, lý tưởng và bản lĩnh cách mạng vững
vàng trong mọi tình huống, đồng thời góp phần định hướng chính trị - xã hội cho
hoạt động thực tiễn của Đảng cộng sản trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
- Thứ hai: Kinh nghiệm tiến hành các phương thức hoạt động đã biết (KN, KX
chung và chuyên biệt, phương pháp, quy trình…). Nắm vững yếu tố này giúp
học sinh vận dụng tri thức để giải quyết vấn đề cụ thể.
Ví dụ: Trong môn Sinh học 10, qua kiến thức về bài học lên men lactic, học sinh hiểu
được nguyên lý của quá trình lên men (cần điều kiện gì, diễn ra như thế nào,…),…
từ đó có thể áp dụng để tiến hành tự làm sữa chua, dưa cải muối hoặc muối chua
hoa quả ở nhà sao cho chất lượng tốt nhất.
- Thứ ba: Kinh nghiệm tiến hành các hoạt động sáng tạo (vận dụng tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo, phương pháp và các thao tác tư duy trong những tình huống
mới, không giống mẫu). Nhờ có yếu tố này mà học sinh có năng lực giải
quyết vấn đề mới, cải tạo hiện thực, thực hành nghiên cứu khoa học.
Ví dụ: Hoạt động nghiên cứu khoa học trong giáo dục STEM (chương trình giáo dục
phổ thông mới 2018) yêu cầu học sinh vận dụng linh hoạt, sáng tạo, tích hợp kiến
thức liên môn để giải quyết hoặc xây dựng các mô hình giải quyết vấn đề thực tiễn,
đa dạng, mới lạ trên cơ sở phân tích, xử lý vấn đề theo cách tiếp cận khoa học. Học
sinh lúc này không chỉ đơn giản là học và làm theo mẫu mà được định hướng để tự
do sáng tạo, xây dựng phương pháp giải quyết một cách linh động, tích cực, sáng
tạo, tự bản thân làm chủ và vận dụng kiến thức.
- Thứ tư: Kinh nghiệm về thái độ cảm xúc đánh giá đối với thế giới, đối với
con người. Thành phần này thể hiện tính giáo dục của nội dung dạy học. Đây
là các tri thức, thái độ và hành vi trong các quan hệ theo những chuẩn mực
xã hội. Lĩnh hội yếu tố này sẽ tạo nên niềm tin, lí tưởng, hình thành hệ thống
giá trị đúng đắn ở học sinh.
Ví dụ: Qua môn chủ nghĩa xã hội khoa học, học sinh biết đánh giá hành vi nào là đi
ngược lại quan điểm của nhà nước chủ nghĩa xã hội, từ đó biết phân tích đúng và
đấu tranh chống lại những nhận thức sai lệch, những tuyên truyền chống phá của
chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động, biết cảnh giác trong mọi tình huống.

Câu 7: Mối quan hệ giữa các thành phần của nội dung dạy
học
a. Các thành phần của nội dung dạy học:
- Thứ nhất: Tri thức về nhiều lĩnh vực khác nhau (tự nhiên, xã hội, tư
duy, kĩ thuật, phương pháp…). Sự lĩnh hội các tri thức này sẽ giúp
cho học sinh có vốn hiểu biết phong phú, có công cụ để hình thành
thế giới quan khoa học.
- Thứ hai: Kinh nghiệm tiến hành các phương thức hoạt động đã biết
(KN, KX chung và chuyên biệt, phương pháp, quy trình…). Nắm vững
yếu tố này giúp học sinh vận dụng tri thức để giải quyết vấn đề cụ thể.
- Thứ ba: Kinh nghiệm tiến hành các hoạt động sáng tạo (vận dụng tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo, phương pháp và các thao tác tư duy trong
những tình huống mới, không giống mẫu). Nhờ có yếu tố này mà học
sinh có năng lực giải quyết vấn đề mới, cải tạo hiện thực, thực hành
nghiên cứu khoa học.
- Thứ tư: Kinh nghiệm về thái độ cảm xúc đánh giá đối với thế giới, đối
với con người. Thành phần này thể hiện tính giáo dục của nội dung
dạy học. Đây là các tri thức, thái độ và hành vi trong các quan hệ theo
những chuẩn mực xã hội. Lĩnh hội yếu tố này sẽ tạo nên niềm tin, lí
tưởng, hình thành hệ thống giá trị đúng đắn ở học sinh.
b. Mqh giữa các thành phần của nội dung dạy học:
Bốn thành phần trên của nội dung dạy học liên hệ mật thiết với nhau, quy
định lẫn nhau: Tri thức là cơ sở hình thành KN, KX. Tri thức và KN, KX lại là
cơ sở để tạo ra kinh nghiệm hoạt động sáng tạo. Không có tri thức thì không
thể có KN, KX và cũng không thể có hoạt động sáng tạo. Bởi hoạt động sáng
tạo bắt nguồn từ những cái đã biết, trên cơ sở đó mới có những thay đổi,
chỉnh sửa thích hợp. Song, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo không phải tỉ lệ
thuận với khối lượng tri thức mà phụ thuộc vào cách thức lĩnh hội và vận
dụng tri thức đó. Đến lượt mình, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo lại tạo điều
kiện để lĩnh hội tri thức, KN, KX nhanh hơn, tốt hơn, sâu sắc hơn. Nắm vững
các thành phần trên giúp học sinh có thái độ đánh giá đúng đắn với tự nhiên,
XH và con người. Còn thái độ tác động trở lại tạo ra sự tích cực hay không
tích cực trong việc lĩnh hội tri thức, KN, KX và hoạt động sáng tạo.
Bốn thành phần này không thể thiếu trong NDDH để giáo dục nên con người
phát triển toàn diện, cho nên không được coi nhẹ bất cứ thành phần nào.

Câu 8: Một số kĩ thuật và phương pháp dạy học phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
1. Dạy học nêu và giải quyết vấn đề
Bản chất của dạy học nêu và giải quyết vấn đề là tạo nên một chuỗi những tình
huống có vấn đề hấp dẫn, vừa sức và điều khiển học sinh giải quyết các vấn đề học
tập đó thông qua thực hiện các nhiệm vụ học tập.
học sinh sử dụng tri thức đã có nỗ lực giải quyết tình huống nhưng không thể đạt
kết quả. Lúc này xuất hiện mâu thuẫn nhận thức giữa điều đã biết và điều chưa biết
nhưng muốn biết. sau khi giải quyết xong vấn đề mình đạt được tri thức mới.

Ưu điểm của pp:


+ Phương pháp này góp phần tích cực vào việc rèn luyện tư duy phê phán, tư duy
sáng tạo cho HS. Trên cơ sở sử dụng vốn kiến thức và kinh nghiệm đã có HS sẽ
xem xét, đánh giá, thấy được vấn đề cần giải quyết.
+ Đây là phương pháp phát triển được khả năng tìm tòi, xem xét dưới nhiều góc độ
khác nhau. Trong khi phát hiện và giải quyết vấn đề, HS sẽ huy động được tri
thức và khả năng cá nhân, khả năng hợp tác, trao đổi, thảo luận với bạn bè để
tìm ra cách giải quyết vấn đề tốt nhất.
+ Thông qua việc giải quyết vấn đề, HS được lĩnh hội tri thức, kĩ năng và phương
pháp nhận thức.

- Nhược điểm của pp:


+ Phương pháp này đòi hỏi GV phải đầu tư nhiều thời gian và công sức, phải có
năng lực sư phạm tốt mới suy nghĩ để tạo ra được nhiều tình huống gợi vấn đề
và hướng dẫn tìm tòi để phát hiện và giải quyết vấn đề.
+ Việc tổ chức tiết học hoặc một phần của tiết học theo phương pháp phát hiện và
giải quyết vấn đề đòi hỏi phải có nhiều thời gian hơn so với các phương pháp
thông thường.
- Ví dụ: Hình thành khái niệm “bằng nhau” trong môn Toán ở cấp Tiểu học:
+ Khi vào lớp, GV có thể hỏi: các em cho cô biết một cân sắt và một cân bông bên
nào nặng hơn?
+ HS có thể trả lời như sau:
● TH1: Sắt nặng hơn. TH này GV cho HS dùng 2 tay cầm 2 vật để so sánh
để đi đến kết luận: 1 cân sắt = 1 cân bông.
● TH2: Bông nhiều hơn. TH này GV giải thích cho HS về khái niệm nặng
chứ ko phải là nhiều, và tiếp tục cho HS tự cân bằng tay để đi đến KL.
● TH3: Bằng nhau. Trong TH này Gv phải hỏi tại sao, để xem HS có hiểu
đúng bản chất vấn đề không.

● Dạy học nêu và giải quyết vấn đề có các mức độ khác nhau như sau:
– Trình bày có tính chất vấn đề (thuyết trình nêu vấn đề). Giáo viên nêu vấn đề và
chủ động giải quyết vấn đề đó; chỉ ra con đường giải quyết những mâu thuẫn. Học
sinh kiểm tra tính đúng đắn, phù hợp của tiến trình giải quyết vấn đề.
– Tìm tòi bộ phận – Ơristic. Giáo viên nêu vấn đề và dưới sự hướng dẫn, tổ chức
của giáo viên, học sinh thực hiện từng phần, từng bước trong tiến trình giải quyết
vấn đề do giáo viên đặt ra (inquiry-based learning).
- Tìm tòi toàn phần. Giáo viên nêu vấn đề; học sinh chủ động đề xuất và thực hiện
giải pháp giải quyết vấn đề (problem solving) dưới sự hỗ trợ của giáo viên khi cần.
– Tự lực nghiên cứu. Giáo viên chỉ đưa ra tình huống có vấn đề; học sinh sau khi tìm
hiểu đã xác định được vấn đề; sau đó, tự lực giải quyết. Trong quá trình học tập, đôi
khi học sinh tự phát hiện ra tình huống có vấn đề mới và giải quyết vấn đề mới nảy
sinh đó.

2. Phương pháp dạy học qua trò chơi, đóng kịch


Trò chơi là hình thức phản ánh hiện thực khách quan qua hoạt động của trẻ em với
sự đan xen của những yếu tố tưởng tượng.
Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh chơi trò chơi để:
- tạo hứng thú, liên kết kiến thức đã biết;
- hình thành thông qua trải nghiệm (học đếm, làm phép tính cộng trừ,…);
- củng cố, vận dụng kiến thức, kĩ năng một cách nhẹ nhàng, phù hợp với đặc điểm
tâm sinh lí của học sinh.
Đóng kịch là phương thức trải nghiệm trong dạy học các môn học như ngữ văn, lịch
sử, giáo dục công dân … Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh tham gia xây
dựng và thực hiện kịch bản, qua đó hiểu sâu sắc hơn các nội dung học tập.

- Ưu điểm pp:
+ Tạo hứng thú và chú ý cho HS.
+ Tạo đk phát triển óc sáng tạo của HS.
+ Rèn luyện cho HS những kĩ năng ứng xử, bày tỏ thái độ.
+ Góp phần thúc đẩy động cơ và hiệu quả học tập của HS.
- Nhược điểm của pp:
+ Nội dung của trò chơi, kịch bản thường ko gắn với nd học tập 1 cách có hệ
thống, vì vậy việc truyền thụ tri thức mới cho HS sẽ gặp nhiều kk.
+ Tâm lý e ngại, ngượng ngùng của HS (sợ trả lời sai, sợ đóng kịch không
hay,..) có thể làm giảm hiệu quả của pp.
+ Việc áp dụng pp này đôi khi khá mất thời gian nên có thể sẽ ảnh hưởng đến
kế hoạch lên lớp theo chương trình chính khóa nếu GV không phân bố thời
gian hợp lý.
- Ví dụ: Trong tiết học TA lớp 4, GV tổ chức cho các HS trong lớp chơi một trò chơi
ghép từ về các từ mới đã học ở bài trước (chủ đề ngôi nhà của tôi: my house), mục
đích vừa nhằm tạo không khí mở đầu tiết học thoải mái, sôi động cho các em; vừa là
để kiểm tra và củng cố lại phần từ vựng đã học. Cụ thể, GV sẽ xáo trộn trật tự các
chữ cái trong từ tạo thành một dãy chữ cái bất kì (ví dụ: từ kitchen sẽ xáo trộn thành:
C H N E T I K), sau đó trình chiếu slide có kèm nhạc và hình ảnh (ở mức phù hợp)
và mời các em phát biểu, những em phát biểu đúng có thể nhận được phần thưởng
nhỏ để khích lệ tinh thần học tập của các em.

3. Phương pháp thảo luận nhóm


- Thảo luận nhóm là phương pháp dạy học theo nhóm, trong đó học
sinh hợp tác trong nhóm nhỏ để cùng thực hiện một nhiệm vụ cụ thể
trong một thời gian nhất định. Trong nhóm, dưới sự chỉ đạo của nhóm
trưởng, học sinh kết hợp giữa làm việc cá nhân, làm việc theo cặp,
chia sẻ kinh nghiệm và hợp tác cùng nhau để giải quyết nhiệm vụ
được giao. Qua đó, mỗi học sinh đạt được sự hiểu biết sâu rộng, đồng
thời phát huy tính tự lực và hợp tác trong học tập.
- Ưu điểm của pp:
+ Phát huy tính sáng tạo, chủ động của HS; tạo sự đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau
giữa các em.
+ GV rèn luyện dần pp học tập, nghiên cứu và thái độ học tập tập thể, tạo đk tốt cho
các em học tập cao hơn.
+ Rèn luyện vốn ngôn ngữ cho HS thông qua giao tiếp trong nhóm, kết chặt tình bạn
bè.
+ Giúp Hs tự tin hơn qua các lần thảo luận, thuyết trình, đưa ra ý kiến.
+ Là cơ hội tốt để các HS được học tập, trao đổi với nhau, từ đó hoàn thiện hơn vốn
kiến thức của mình.
- Nhược điểm của pp:
+ Tốn khá nhiều thời gian.
+ Dễ gây mất trật tự, rối loạn lớp học.
+ Nếu trình độ các HS trong nhóm ko đều nhau thì các HS khá, giỏi sẽ
lấn lướt các bạn hs trung bình, yếu. các bạn kém hơn sẽ có ít cơ hội
để nêu lên ý kiến của mình, từ đó cảm thấy bất mãn, tự ti hoặc thiếu
chú ý vào buổi thảo luận.
Ví dụ: Dạy học nhóm khi hình thành kiến thức mới thông qua thí nghiệm trong
môn KHTN. (tổ chức nghiên cứu thí nghiệm qua nhóm bàn HS).
- Trong các môn KHTN như Hóa học, Sinh học, Vật lý ở THCS hoặc môn Khoa học ở
lớp 4,5 thường có thí nghiệm thực hiện theo hướng nghiên cứu. Có thể phân công
nhiệm vụ cho các HS trong các nhóm như sau:
+ Nhóm trưởng: nhận nhiệm vụ, phân công, điều khiển, KL chung, báo cáo KQ.
+ Thư ký: ghi chép kq.
+ các thành viên: dự đoán hiện tượng xảy ra. phải dùng thí nghiệm để kiểm tra
hiện tượng nào là đúng.
● quan sát hiện tượng.
● mỗi thành viên thực hiện một thí nghiệm.
● quan sát, ghi chép hiện tượng xảy ra. Giải thích, dự đoán, nêu hiện
tượng, rút ra nhận xét.
+ Nhóm trưởng: KL vấn đề. Đại diện nhóm báo cáo kq.
+ Các thành viên: tham gia thảo luận toàn lớp. Hoàn chỉnh KL.

4. Phương pháp dạy học dựa trên tình huống


- Dạy học dựa trên tình huống là phương pháp dạy học, trong đó việc dạy học được tổ
chức dựa trên những tình huống gắn với cuộc sống thường ngày hoặc thực tiễn lao
động, sản xuất. Hoạt động học của học sinh lúc này gần giống như hoạt động của
nhà khoa học, kĩ sư tự lực tìm tòi, khám giá kiến thức mới; xây dựng, thử nghiệm
giải pháp mới cho tình huống đặt ra.
- Tình huống thực tiễn cần có tính chất điển hình, hàm chứa nội dung học tập (tri thức
khái quát), hấp dẫn học sinh vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học hoặc phải cấu trúc,
liên kết chúng lại để giải quyết vấn đề.
● Ưu điểm của pp:
+ Nâng cao tính thực tiễn của môn học.
+ Nâng cao tính chủ động, sáng tạo và sự hứng thú của HS trong quá trình
học.
+ Nâng cao kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng phân tích, giải quyết vấn đề, khả
năng trình bày, phản biện trước đám đông.
+ Các tình huống có tính liên kết lý thuyết cao.
+ GV cũng sẽ tiếp thu được nhiều kinh nghiệm và những cách nhìn/giải pháp
của hs để làm phong phú thêm bài giảng và điều chỉnh nd tình huống nghiên
cứu.
- Nhược điểm:
+ GV:
● mất nhiều thời gian tìm kiếm, lựa chọn các tình huống phù hợp, sát
thực tế.
● đòi hỏi những kĩ năng phức tạp hơn trong giảng dạy (vd: tổ chức lớp
học, bố trí lớp học, đặt câu hỏi, dẫn dắt mạch thảo luận,...).
+ HS:
● PP này chỉ dành cho những HS có sự tham gia chủ động và iu thích.
● Do đã quen với việc tiếp thu kiến thức một cách thụ động nên khi chuyển
sang một pp khác sẽ có nhiều hs ko thích ứng được; dẫn đến việc tham gia
học như một nghĩa vụ, ko tiếp thu được nhiều.

- Ví dụ: Nêu tình huống: trên đường đi học về, A và B thấy một ống bê tông
nặng bị lăn xuống mương. 2 bạn đố nhau có thể nâng ống lên bằng cách nào cho đỡ
vất vả.
+ Các bước tiến hành: gv giới thiệu tình huống → tổ chức phân tích tình huống
→ tổ chức giải quyết tình huống theo nhóm hoặc cá nhân → các nhóm/ cá
nhân trình bày cách giải quyết tình huống → gv làm trọng tài để đi đến KL giải
quyết tối ưu.

5 Phương pháp dạy học theo dự án


- Trong dạy học ở đại học và các lớp cuối THPT, giáo viên có thể dạy học một số chủ
đề thông qua hướng dẫn học sinh thiết kế, thực hiện dự án học tập. Phương pháp
dạy học theo dự án có các đặc điểm sau:
+ Định hướng học sinh: Học sinh được tham gia vào các giai đoạn của quá
trình dạy học, kể cả giai đoạn xác định chủ đề dự án; vai trò của giáo viên là
định hướng cho họ.
+ Định hướng hành động: Học sinh thực hiện các nhiệm vụ giàu tính thực
hành. Lao động trí óc và chân tay, tư duy và hành động, lí thuyết và thực tiễn
kết hợp chặt chẽ với nhau.
+ Định hướng sản phẩm : Kết quả của dự án là sản phẩm mang tính chất vật
chất hoặc hành động.
+ Định hướng hợp tác: Học sinh thực hiện nhiệm vụ theo nhóm; mỗi nhóm giải
quyết các vấn đề cụ thể, góp phần giải quyết vấn đề chung của dự án của cả
lớp.
- Các dự án học tập của học sinh có thể được phân loại như sau:
+ Theo nội dung: dự án trong môn học, dự án liên môn, dự án
cộng đồng.
+ Theo thời lượng: dự án nhỏ, dự án trung bình, dự án lớn.
+ Theo hình thức: dự án cá nhân, dự án nhóm, dự án toàn lớp,
dự án toàn trường.
+ Theo nhiệm vụ: dự án tìm hiểu, dự án nghiên cứu, dự án kiến
tạo, dự án hành động.
- Ưu điểm của pp:
+ Học sinh có hứng thú say mê với việc thực hành
+ Phát triển được sự tư duy cũng như nhận thức
+ Là người có trách nhiệm trong công việc hơn vì học sinh sẽ phải làm việc nhóm và
thực hiện một phần công việc trong đó.
+ Rèn luyện được sự bền bỉ kiên trì trong công việc
+ Phát triển được khả năng sáng tạo cũng như ham học hỏi mọi thứ
+ Có được kỹ năng giải quyết vấn đề phức hợp để sau này giúp ích được cho công việc
sau này.
- Nhược điểm:
+ Tốn nhiều thời gian và công sức nếu như học sinh không đi
đúng hướng vấn đề
+ Phương pháp dạy học theo dự án sẽ không phù hợp với những
vấn đề trừu tượng vì như vậy học sinh khó liên tưởng cũng như
khó thực hiện được dự án.
+ Dạy học theo dự án đòi hỏi nhiều phương tiện cũng như công
nghệ và tài chính để phục vụ nó.

Ví dụ về thực hiện PPDH dự án trong dạy học chuyên ngành môn tiếng Anh:
Tìm hiểu về việc cải thiện thực trạng học tiếng Anh của HS phổ thông hiện nay.

I. Xác định loại dự án dựa trên các tiêu chí

- Theo nội dung: dự án trong môn học.

- Theo thời lượng: dự án trung bình.

- Theo hình thức: dự án nhóm.

- Theo nhiệm vụ: dự án tìm hiểu.

II. Các bước thực hiện

1. Xác định chủ đề: mỗi HS xác định được chủ đề xoay quanh việc thực trạng học tiếng
Anh của HS phổ thông hiện nay và các phương pháp để giải quyết những điểm yếu.

2. Xây dựng đề cương, kế hoạch thực hiện

2.1: Xây dựng đề cương:

a. Thực trạng trình độ và việc học tiếng Anh của HS hiện nay.

b. Nguyên nhân dẫn đến việc nhiều HS học chưa tốt môn tiếng Anh.
c. Hậu quả của việc học không tốt môn tiếng Anh.

d. Các phương pháp để cải thiện thực trạng học tiếng Anh chưa tốt của nhiều HS.

2.2: Kế hoạch thực hiện:

a. Những việc cần làm:

- Thu thập thông tin về thực trạng học tiếng Anh của HS trong phạm vi khối học (ví dụ: khối
11, 12,…).

- Xử lí thông tin: đánh dấu các thông tin quan trọng, lược bỏ các thông tin không cần thiết

- Viết báo cáo bằng tiếng Anh.

b. Thời gian: 1 tuần

c. Phương pháp tiến hành:

- Khảo sát : lập một bảng khảo sát mời các bạn HS trong khối tham gia về việc học
tiếng Anh của các bạn (trình độ, cách học, những khó khăn mà các bạn gặp phải trong quá
trình học tiếng Anh,…).

- Phỏng vấn: tương tự như khảo sát nhưng theo hình thức vấn đáp.

- Tìm hiểu thêm và phân tích các thông tin trên Internet một cách hợp lý để đưa vào
bài báo cáo của nhóm mình.

3. Thực hiện dự án

- Lựa chọn địa điểm tiến hành: trong nhà trường nơi HS theo học.

- Khảo sát thực tế; thu thập thông tin từ Internet, báo đài,…: tổ chức các buổi phỏng vấn về
vấn đề đã nêu trên.

- Xử lý thông tin và tiến hành viết báo cáo bằng tiếng Anh.

4. Giới thiệu sản phẩm: các bài viết, tranh ảnh, video phỏng vấn, biểu đồ khảo kết quả
khảo sát,…

5. Đánh giá dự án

- Tổ chức cho các nhóm HS tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau về kết quả làm việc của từng
nhóm.
- GV tổng kết, đánh giá về phương pháp tiến hành và kết quả làm việc của từng nhóm.

Câu 9: Phương tiện tiện dạy học và vai trò của nó.
1. Phương tiện dạy học:
A. Khái niệm:
- Phương tiện dạy học là các thiết bị, dụng cụ, phần mềm ứng dụng CNTT…
mà giáo viên sử dụng để biểu diễn, minh hoạ nội dung dạy học hoặc để tổ chức hoạt động
thực hành, thí nghiệm, chế tạo của học sinh, qua đó nâng cao hiệu quả của quá trình dạy
học
- Khoa học và công nghệ ngày càng phát triển thì vai trò và yêu cầu đối với
phương tiện dạy học càng cao. Việc lựa chọn và sử dụng phương tiện dạy học cần
phù hợp với mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học và từng đối tượng học sinh
B. Phân loại phương tiện dạy học
a) Theo tính chất của phương tiện dạy học
- Phương tiện mang tin. Tự bản thân phương tiện chứa đựng một lượng thông tin
nhất định về nội dung dạy học; ví dụ: tài liệu in, tài liệu số, vật thật, mô hình, tranh
ảnh, thẻ nhớ chứa âm thanh, hình ảnh, video dạy học, phần mềm dạy học,...
- Phương tiện truyền tin. Dùng để truyền tin tới học sinh; ví dụ: máy vi tính, tivi, máy
chiếu đa phương tiện, máy chiếu vật thể, hệ thống âm thanh,...
b) Theo cách sử dụng phương tiện dạy học
- Phương tiện dùng trực tiếp để dạy học. Gồm phương tiện truyền thống (bảng,
phấn, bút, tranh ảnh, mô hình, vật thật,…) và phương tiện hiện đại (máy chiếu đa
phương tiện, máy quay/ảnh số, bảng tương tác, bút thông minh, cảm biến, phần
mềm, internet…).
- Phương tiện dùng để hỗ trợ quá trình dạy học. Gồm toàn bộ cơ sở vật chất lớp
học, phòng học bộ môn, vườn trường với hệ thống ánh sáng, âm thanh, internet, tủ,
bàn, ghế và các máy scan, in, photocopy,…
c) Theo mức độ chế tạo phương tiện dạy học
- Dụng cụ đơn giản. Có cấu tạo đơn giản, bằng vật liệu dễ kiếm trên thị trường, giá
thành thấp, dễ chế tạo nhưng thường không bền.
- Thiết bị hiện đại. Được thiết kế, chế tạo công phu bằng vật liệu đắt tiền, có cấu tạo
phức tạp, giá thành cao nhưng sử dụng tiện lợi và tuổi thọ cao.
C. Nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học
a) Đảm bảo an toàn
Sử dụng các thiết bị dạy học phải đảm bảo các yếu tố an toàn cho con người
(phòng, tránh giảm thị lực/thính lực, sốc điện, phỏng da, đứt tay…) và cho chính thiết
bị (phòng, tránh cháy, nổ, chập điện, gỉ sét, đổ vỡ…).
b) Đúng lúc, đúng chỗ và đủ cường độ
- Đúng lúc. Sử dụng phương tiện dạy học vào thời điểm cần thiết; đó là lúc học sinh
cần được quan sát, gợi nhớ kiến thức hoặc cần thực hành, rèn luyện kĩ năng. Nếu
sử dụng nhiều phương tiện trong một bài học thì cần đưa ra các phương tiện lần
lượt theo tiến trình dạy học; tránh trưng bày đồng loạt, biến lớp học thành một phòng
trưng bày, gây phân tán sự chú ý.
- Đúng chỗ. Tìm vị trí đặt phương tiện một cách hợp lí để giúp học sinh quan sát, sử
dụng phương tiện thuận lợi. Khi không sử dụng, cần phải bố trí chỗ để phương tiện
không làm phân tán tư tưởng của học sinh khi tiếp tục bài học.
- Đủ cường độ. Từng loại phương tiện có mức độ sử dụng tại lớp khác nhau. Nếu
kéo dài việc trình diễn, thực hành hoặc dùng lặp lại một loại phương tiện quá nhiều
lần trong một bài học, hiệu quả của sử dụng chúng sẽ giảm sút.
c) Đảm bảo tính hiệu quả
- Sử dụng kết hợp nhiều loại phương tiện dạy học một cách có hệ thống và đồng
bộ; các phương tiện dạy học không mâu thuẫn, loại trừ nhau.
- Phù hợp với đối tượng học sinh, với nhân trắc và tiêu chuẩn Việt Nam.
- Bảo đảm sự tương tác trong quá trình dạy học. Phương tiện dạy học dù có hiện đại
đến đâu thì bản thân nó cũng không thể thay thế được vai trò của giáo viên mà trước
hết là phương pháp dạy học của họ. Ngược lại, phương pháp dạy học của giáo viên
cũng lại chịu sự quy định của điều kiện, phương tiện dạy học cụ thể. Vì vậy, các yếu
tố nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học có mối quan hệ tác động qua với
nhau và với chủ thể học tập (học sinh).

2. Vai trò của PTDH:


Vai trò của phương tiện trong việc dạy
Phương tiện dạy học đóng nhiều vai trò trong quá trình dạy học. Các phương tiện
dạy học thay thế cho những sự vật, hiện tượng và các quá trình xảy ra trong thực
tiễn mà giáo viên và học sinh không thể tiếp cận trực tiếp được.
Chúng giúp cho thầy giáo phát huy tất cả các giác quan của học sinh trong quá trình
truyền thụ kiến thức, do đó giúp cho học sinh nhận biết được quan hệ giữa các hiện
tượng và tái hiện được những khái niệm, quy luật làm cơ sở cho việc đúc rút kinh
nghiệm và áp dụng kiến thức đã học vào thực tế sản xuất.
Vai trò của phương tiện trong việc học
Phương tiện dạy học cũng được sử dụng có hiệu quả trong các trường hợp dạy học
chính quy không có thầy giáo hay dùng để học nhóm.
Trong giáo dục không chính quy (đào tạo từ xa), các phương tiện như video cassette
và các phần mềm của máy vi tính được các học viên sử dụng để tự học tại chỗ làm
việc hay nhà riêng.
Việc học theo nhóm trên lớp có liên quan chặt chẽ với việc tự học. Các học sinh học
tập cùng nhau trong một nhóm hay kết hợp với thầy giáo trong một đề án họ sẽ có
trách nhiệm cao hơn trong học tập.
Các công nghệ dạy học mới như phương tiện đa năng khuyến khích học sinh tin
tưởng vào khả năng nhận thức của bản thân trong học tập. Sử dụng các tài liệu tự
học tạo cho thầy giáo có nhiều thời gian để chẩn đoán và sửa chữa các sai sót của
học sinh, khuyên bảo các cá nhân hay dạy kèm một người hay một nhóm nhỏ.
Thời gian mà thầy giáo có được để làm các hoạt động như vậy phụ thuộc vào chức
năng giáo dục được giao cho các phương tiện dạy học. Trong một vài trường hợp ,
nhiệm vụ dạy học hoàn toàn có thể giao cho phương tiện dạy học

Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học


Hiện nay, CNTT là một lĩnh vực phát triển nhanh và đạt được những thành tựu to
lớn, là động lực của quá trình chuyển đổi số trong hầu hết các ngành nghề, trong đó có
ngành giáo dục. Ứng dụng CNTT không chỉ giải phóng sức lao động của giáo viên, nâng
cao hiệu quả dạy học trên lớp mà còn mở rộng không gian, thời gian học tập; làm cho
việc học mọi lúc, mọi nơi, học tập suốt đời trở nên khả thi.

a. Các ứng dụng CNTT giúp giáo viên thực hiện các công việc chuyên môn hàng ngày
dễ dàng, nhanh chóng và chính xác hơn. Ngày nay, máy tính lưu trữ được một
lượng dữ liệu ngày càng lớn; các máy tính kết nối với nhau tạo thành các mạng
thông tin khổng lồ (internet). Giáo viên có thể sử dụng các nền tảng, phần mềm
CNTT như Google, Youtube, Google Drive/One Drive (kho dữ liệu đám mây),
Microsoft Word, Excel, Onenote, Camscaner…để truy cập, chia sẻ và xử lí thông tin;
xây dựng và quản lí hồ sơ chuyên môn, hồ sơ dạy học dưới dạng số. Giáo viên cũng
có thể sử dụng các phần mềm như eBIB Teachers, McMIX, BingClass, Tnmaker…
để tạo, trộn đề thi trắc nghiệm khách quan.
b. Việc ứng dụng CNTT trong dạy học sẽ khiến máy tính trở thành một công cụ hỗ trợ
đắc lực cho quá trình dạy học, cụ thể là:
● Tăng cường khả năng biểu diễn thông tin. Máy tính có thể cung cấp thông tin dưới
dạng văn bản, đồ thị, hình ảnh, âm thanh..., giúp trực quan hoá tài liệu dạy học. Giáo
viên có thể sử dụng các phần mềm như PowerPoint, Sway, Prezi để xây dựng bài
trình chiếu đa phương tiện trên lớp. Học sinh có thể sử dụng phần mềm như Edraw
Mindmap, Mindjet Mind manager, Coggle để tạo sơ đồ tư duy.
● Tăng cường khả năng thực hiện trong một khối thống nhất các quá trình thông tin,
giao lưu và điều khiển trong dạy học: Dưới góc độ điều khiển học thì quá trình dạy
học là một quá trình điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh. Với một chương
trình phù hợp, ví dụ: hệ thống quản lí học tập trên không gian mạng (Learning
Management System - LMS), máy tính có thể điều khiển được hoạt động nhận thức
của học sinh thông qua việc cung cấp thông tin, thu nhận thông tin ngược, xử lí
thông tin và đưa ra các giải pháp cần thiết giúp hoạt động nhận thức của học sinh
đạt kết quả cao; mặt khác mở ra cơ hội học tập thường xuyên, liên tục, tại chỗ. Ví
dụ, Trường ĐHSP Hà Nội triển khai đào tạo một số học phần, chuyên đề qua LMS
tại http://fitel.hnue.edu.vn (đối với đào tạo chính quy) và tại http://cpd.hnue.edu.vn
(đối với bồi dưỡng thường xuyên giáo viên); hỗ trợ trường phổ thông tổ chức dạy
học qua mạng LMS tại https://olm.vn/.
Giáo viên cũng có thể sử dụng các nền tảng CNTT như Mentimeter, Kahoot,
Quizizz, Quizlet, Socrative, Padlet…(trắc nghiệm trực tuyến, lấy phản hồi tức thì) để tạo
môi trường dạy học tương tác, hấp dẫn ngay trên lớp học. Đây chính là thời điểm mà
học sinh nên được phép sử dụng điện thoại thông minh trong giờ học.

● Đảm bảo tính lặp lại một cách hiệu quả trong dạy học: Khác với giáo viên, máy tính
có thể lưu trữ một thông tin nào đó, cung cấp và lặp lại nó cho đến khi học sinh đạt
được mục tiêu sư phạm cần thiết. Trên cơ sở này, sự phát triển của từng cá thể học
sinh trong quá trình dạy học trở thành hiện thực.
● Tăng cường khả năng mô hình hoá các đối tượng: Trong dạy học, có nhiều quá
trình, hiện tượng, quy luật khó có thể minh hoạ, biểu diễn bằng các thiết bị dạy học
thông thường; ví dụ: phản ứng hạt nhân, nguyên lí hoạt động của động cơ, quá trình
diễn ra trong cơ thể người, cây cối...trong khi đó, máy tính có thể mô hình hoá dưới
dạng các phần mềm mô phỏng.
c. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học có thể hỗ trợ cho nhiều hình thức học
tập khác nhau như học trực tiếp (face to face), học trực tuyến (online learning); học
qua mạng (e-learning)...đáp ứng được nhu cầu học tập đa dạng của học sinh và các
đối tượng người học khác (sinh viên, giáo viên, người đi làm…).

Ứng dụng CNTT trong dạy học dẫn đến việc giao cho máy tính thực hiện một số
chức năng của người thầy giáo ở những khâu khác nhau của quá trình dạy học. Cách
dạy này có nhiều ưu điểm về mặt sư phạm như khuyến khích học sinh làm việc độc lập,
đảm bảo mối liên hệ ngược và cá biệt hoá quá trình học tập. Ví dụ, giáo viên có thể kết
hợp việc học qua LMS (Moodle, Google Classroom, ClassDojo, Edmodo, MS Teams…),
học trực tuyến (Zoom, Hangouts Meet, Free Conference Call, Skype, Zalo, MS Teams…)
với việc học trực tiếp trên lớp để tạo môi trường học tập hấp dẫn, linh hoạt và hiệu quả
trong thời đại chuyển đổi số trong giáo dục. Để xây dựng học liệu số cho môi trường học
tập này, giáo viên có sử dụng các phần mềm như Movie Maker, Camtasia (biên tập
Video); Google Form, iSpring, Survey Monkey (tạo bài kiểm tra trực tuyến); Violet,
Lectora, iSpring (tạo và đóng góp bài giảng điện tử).

Câu 10: Mối quan hệ của phương tiện dạy học với các yếu tố
của quá trình dạy học.
1. Quan hệ của phương tiện dạy học với mục đích dạy học
- Mục đích được coi như biểu tượng cần đạt được của quá trình hoạt động mà
chủ thể đã định trước. Nó là cơ sở định hướng đúng cho việc thực hiện nội dung
phương pháp, tìm kiếm phương tiện hoạt động của chủ thể.
- Mục đích dạy học là cơ sở để chủ thể tiến hành định hướng cho việc lựa
chọn phương tiện dạy học. Tính chất và đặc trưng của mục đích dạy học sẽ quy định
tính chất đặc thù của việc lựa chọn và sử dụng phương tiện dạy học của chủ thể
trong quá trình dạy học.
2. Quan hệ của phương tiện dạy học với nội dung dạy học
- Mỗi nội dung dạy học cụ thể cần đến các phương pháp cũng như các
phương tiện dạy học đặc thù khác nhau để giúp người dạy truyền tải và người học
lĩnh hội. Việc học sinh nắm vững chắc nội dung dạy học cụ thể sẽ phụ thuộc vào việc
lựa chọn và vận dụng một cách phù hợp có hiệu quả phương tiện dạy học tương
ứng của người giáo viên
- Nói chung, các phương tiện kỹ thuật có thể được vận dụng vào để tổ chức
dạy học cho nhiều nội dung dạy học khác nhau. Vấn đề ở chỗ người dạy phải biết
cách tiến hành khai thác các phương tiện dạy trong phạm vi nội dung cụ thể, chọn
được phương tiện dạy học phù hợp với nội dung sẽ làm tăng hiệu quả truyền tải
- Người dạy cần am hiểu mối quan hệ này để có sự sáng tạo và tích cực trong
việc tìm, chọn và vận dụng hợp lí các phương tiện dạy học trong qui trình giảng dạy
ở lớp

3. Quan hệ của phương tiện dạy học với phương pháp dạy học
- Giữa phương pháp và phương tiện cũng có mối quan hệ qua lại tương hỗ
nhau.
• Phương tiện hỗ trợ cho việc thực hiện các tác động của phương pháp dạy
học
• Phương pháp dạy học khi đã được xác định sẽ cần tới sự trợ giúp của các
phương tiện dạy học thích hợp, ứng với nội dung dạy học nhất định
- Để làm tăng hiệu quả vận dụng phương pháp dạy học, người ta căn cứ vào
thực tiễn mà nỗ lực tư duy nhằm tìm kiếm cho bằng được các phương tiện dạy học
sẵn có để tiến hành thực hiện các nhiệm vụ dạy học. Sự lựa chọn được các phương
tiện phù hợp sẽ đem lại hiệu quả tối ưu của sự vận dụng phương pháp trong quá
trình dạy học cụ thể của mỗi giáo viên.

Câu 11: Các đặc điểm của cơ chế học tập theo các lí thuyết
học tập và việc vận dụng các lí thuyết dạy học trong môn học
mình sẽ đảm nhận.
1. Thuyết hành vi: Học là sự thay đổi hành vi
- Dạy học được định hướng theo các hành vi đặc trưng có thể quan sát được.
- Các quá trình học tập phức tạp được chia thành một chuỗi các bước học tập đơn
giản, trong đó bao gồm các hành vi cụ thể.
- Giáo viên hỗ trợ và khuyến khích hành vi đúng đắn, tức là tổ chức việc học tập sao
cho học sinh đạt được hành vi mong muốn và sẽ được phản hồi trực tiếp (khen
thưởng và công nhận).
- Giáo viên thường xuyên điều chỉnh và giám sát quá trình học tập để kiểm soát tiến
độ học tập và điều chỉnh kịp thời những sai lầm.
-Thuyết hành vi được ứng dụng đặc biệt trong dạy học chương trình hóa, dạy học
bằng máy vi tính, trong dạy học thông báo tri thức và huấn luyện thao tác. Trong đó
nguyên tắc quan trọng là phân chia nội dung học tập thành những đơn vị kiến thức
nhỏ, tổ chức cho học lĩnh hội tri thức, kĩ năng theo một trình tự và thường xuyên
kiểm tra kết quả đầu ra để điều chỉnh quá trình học tập.
Ví dụ minh họa
- Khi dạy về phần “Cân bằng phản ứng oxi hóa khử bằng phương pháp thăng
bằng electron" Giáo viên chia việc “cân bằng phản ứng oxi hóa khử bằng
phương pháp thăng bằng electron thành nhiều bước sau đó yêu cầu học sinh
làm từng bước nhỏ rồi tổng hợp các bước nhỏ lại để cân bằng được một
phản ứng oxi hóa khử
- Cụ thể:
Bước 1: Xác định số oxi hóa của các nguyên tố trong các chất tham gia và chất sản
phẩm của nhiều phương trình phản ứng oxi hóa khử khác nhau để học sinh thành
thạo việc xác định số oxi hóa. Nếu học sinh xác định sai giáo viên có thể gợi ý điều
chỉnh lại cho đúng
Bước 2: Xác định vai trò của các chất trong phương trình (đâu là chất khử đâu là
chất oxi hóa) để học sinh có thể viết đúng được các quá trình oxi hóa và quá trình
khử. (Cho học sinh làm với nhiều phương trình khác nhau)
Bước 3: Hướng dẫn học sinh cách thăng bằng electron (Cho học sinh làm với nhiều
cặp quá trình khác nhau)
Bước 4: Hướng dẫn học sinh cách điền hệ số
- Cứ cho học sinh tiến hành thành thạo nhiều bước nhỏ đó để học sinh nắm
được các bước cân bằng phản ứng oxi hóa khử, từ đó học sinh biết cách cân
bằng phản ứng oxi hóa khử bằng phương pháp thăng bằng electron.

2.Thuyết nhận thức: Học là giải quyết vấn đề


- Cơ chế của quá trình học tập: Coi học tập là quá trình xử lí thông tin
- Mô hình học tập:
Thông tin đầu vào -> học sinh ( quá trình nhận thức giải quyết vấn đề) -> Kết quả
đầu ra
- Những đặc điểm cơ bản của học tập theo quan điểm của thuyết Nhận thức là:
- Mục đích của dạy học là tạo ra những khả năng để người học hiểu thế giới thực
(kiến thức khách quan). Vì vậy, để đạt được các mục tiêu học tập, không chỉ kết quả
học tập mà quá trình học tập và quá trình tư duy là điều quan trọng.
- Nhiệm vụ của người dạy là tạo ra môi trường học tập thuận lợi, thường xuyên
khuyến khích các quá trình tư duy, HS cần được tạo cơ hội hành động và tư duy tích
cực.
- Giải quyết vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát triển tư duy. Các
quá trình tư duy được thực hiện không chỉ thông qua các vấn đề nhỏ, đưa ra một
cách tuyến tính, mà thông qua việc đưa ra các nội dung học tập phức hợp.
- Các phương pháp học tập có vai trò quan trọng trong quá trình học tập của HS.
Các phương pháp học tập gồm tất cả các cách thức làm việc và tư duy mà HS sử
dụng để tổ chức và thực hiện quá trình học tập của mình một cách hiệu quả nhất.
- Việc học tập thực hiện trong nhóm có vai trò quan trọng, giúp tăng cường những
khả năng về mặt xã hội.
- Cần có sự kết hợp thích hợp giữa những nội dung do GV truyền đạt và những
nhiệm vụ tự lực chiếm lĩnh và vận dụng tri thức của HS.

Ví du 1: Khi dạy bài oxi SGK 10


- Giáo viên gợi ý để học sinh trả lời thành phần chính của không khí (bao gồm những
khí nào? Chiếm % là bao nhiêu)
- Từ việc học sinh trả lời được thành phần chính của không khí là Na (578%) và O (=
20%), học sinh có thể nêu được một số tính chất vật lý cơ bản của
oxi từ đó suy ra được ứng
dụng và phương pháp thu khí oxi khi điều chế oxi trong phòng thí nghiệm
Ví du 2:
Khi dạy về tính chất của muối sắt (III)
-Giáo viên sẽ đưa ra tình huống là khi cho các kim loại Zn, Mg, Fe, Cu tác dụng với
dung dịch muối FeCl thì có bao nhiêu phản ứng xảy ra.
-Học sinh suy nghĩ và đưa ra các đáp án khác nhau
-Giáo viên cho học sinh tự giải quyết vấn đề trên bằng cách tiến hành thí nghiệm để
học sinh tự rút ra nhận xét, tự rút ra kết luận rồi từ đó lĩnh hội được kiến thức mới đó
là Fe3+ có thể oxi hóa được cả kim loại Fe và Cu
3. Thuyết kiến tạo: Học là kiến tạo tri thức
Cơ chế học tập theo thuyết Kiến tạo trái ngược với cách học tập cơ học theo
thuyết Hành vi: thay cho việc HS tham gia các chương trình dạy học được lập trình
sẵn, người ta để cho HS có cơ hội để tự tìm hiểu. HS phải học tập từ lí trí riêng và có
thể làm điều này càng tốt hơn nếu không phải tuân theo một chương trình giảng dạy
cứng nhắc, mà có thể tự mình điều chỉnh rất nhiều quá trình học tập của chính mình.
-Trong mô hình học tập theo thuyết kiến tạo thì học sinh tự tìm hiểu kiến thức chứ
không tham gia các chương trình dạy học được lập trình sẵn.
- Những đặc điểm cơ bản của học tập theo thuyết kiến tạo:
+Tri thức được lĩnh hội trong học tập là một quá trình và sản phẩm kiến tạo theo
từng cá nhân thong qua tương tác giữa người học và nội dung học tập.
+ Dạy học phải định hướng theo các lĩnh vực và vấn đề phức hợp gần với cuộc sống
và nghề nghiệp, được khảo sát một cách tổng thể.
+ Việc học tập chỉ có thể thực hiện trong hoạt động tích cực của người học, vì chỉ từ
những kinh nghiệm và kiến thức mới của bản thân thì mới có thể thay đổi và cá nhân
hóa những kiến thức kĩ năng đã có.
+Học tập trong nhóm có ý nghĩa quan trọng, thông qua tương tác xã hội trong nhóm
góp phần cho người học tự điều chỉnh sự học tập của bản thân.
+ Học qua sai lầm là điều có ý nghĩa
+Nội dung học tập cần định hướng vào hứng thú người học vì có thể học hỏi dễ nhất
từ những nội dung mà người ta thấy hứng thú hoặc có tính thách thức
+ Thuyết kiến tạo không chỉ giới hạn ở những khía cạnh nhận thức của việc dạy và
học. Sự học tập hợp tác đòi hỏi và khuyến khích phát triển không chỉ có lý chí mà cả
mặt tình cảm, thái độ, giao tiếp.
+ Mục đích học tập là kiến tạo kiến thức của bản thân, nên khi đánh giá các kết quả
học tập không định hướng theo các sản phẩm học tập, mà cần kiểm tra những tiến
bộ trong quá trình học tập và trong những tình huống học tập phức hợp.
Ví dụ 1:
Khi học sinh đã học và đã biết được tính chất của một số chất mà nó được sử dụng
làm thực phẩm trong gia đình ví dụ như dấm ăn, nước đường, nước muối, rượu,
nước cất (đều
là những dung dịch không có màu), không được dùng cách nghĩ và nếm thử làm sao
có thể
phân biệt được
Học sinh sẽ tự tìm tòi các cách làm khác nhau để tìm ra cách phân biệt.
Ví dụ 2:
- Khi học sinh học về các hợp chất cacbohidrat và tính chất của chúng yêu cầu học
sinh nêu quá trình nấu rượu xuất phát từ nguồn nguyên liệu nào?
- Có thể thêm nguồn nguyên liệu đó bằng các chất khác được không?
- Học sinh sẽ phải tự tìm hiểu thêm để biết được các nguồn nguyên liệu khác có thể
sản xuất ra rượu

Câu 12: Đặc điểm cơ bản của từng loại trí tuệ theo Howard
Gardner và phân tích các chiến lược dạy học tương ứng.
A, Đặc điểm
- Trí tuệ ngôn ngữ. Đó là khả năng sử dụng một cách có hiệu quả các từ ngữ, hoặc
bằng lời nói (như một người kể chuyện, một thuyết khách hay một nhà chính trị),
hoặc bằng chữ viết (như một nhà thơ, nhà soạn kịch, biên tập viên hay nhà báo).
Dạng trí tuệ này bao gồm khả năng xử lí văn phạm hay cấu trúc ngôn ngữ, âm vị học
hay âm thanh của ngôn ngữ, ngữ nghĩa học hay nghĩa của ngôn ngữ, ngữ dụng học
hay việc sử dụng thực tiễn ngôn ngữ. Một số ứng dụng của trí tuệ ngôn ngữ:
+ Thuật hùng biện (dùng lời nói để thuyết phục người khác làm theo một mệnh lệnh,
hành động cụ thể).
+ Thuật gợi nhớ (mượn ngôn ngữ để hồi tưởng các thông tin).
+ Thuật giải thích (dùng lời nói để thuyết trình cho người khác hiểu).
+ Thuật siêu ngôn ngữ (dùng ngôn ngữ để nói về ngôn ngữ).
Vận dụng:
Giáo viên xây dựng phiếu học tập, học sinh nêu cảm nhận của mình về nội
dung chính của bài học thông qua phiếu học tập trong tiết học văn bản “Hai đứa trẻ”
(chương trình Ngữ Văn lớp 11). Học sinh được yêu cầu nêu lên cảm nghĩ của bản
thân, đặc biệt với phiếu học tập, phương pháp này giúp các em có cơ hội vận động
khả năng ngôn ngữ, sử dụng từ ngữ, đặt câu và viết đoạn văn bày tỏ quan điểm của
cá nhân mình. Qua đó, phát huy khả năng xử lí văn phạm, luyện tập khả năng trình
bày ý tưởng bằng ngôn ngữ viết trôi chảy, sâu sắc.
- Trí tuệ logic – toán học. Đó là khả năng sử dụng có hiệu quả các con số (như nhà
toán học, người lập biểu thuế, nhà thống kê) và lí luận thông thạo (như nhà khoa
học, lập trình viên máy tính hay nhà logic học). Dạng trí tuệ này bao gồm: tính nhạy
cảm với các mối quan hệ và các sơ đồ logic; các mệnh đề và tỉ lệ thức (nếu – thì,
nguyên nhân – hệ quả); các hàm số và các dạng trừu tượng hóa có liên quan. Các
ứng dụng của trí tuệ logic – toán học: Thuật xếp loại, phân lớp, suy luận, khái quát
hóa, tính toán và kiểm nghiệm giả thuyết.
Vận dụng:
Giáo viên dựa theo chiến lược Phân loại và xếp hạng để lên giáo án những
phần nội dung tổng kết chương, phần, quá trình học. Giáo viên có thể khai thác mô
hình dạng bảng, để hệ thống kiến thức cho học sinh, đặc biệt là phần văn bản, phần
ngữ pháp Tiếng Việt. Ví dụ như bảng phân loại các biện pháp tu từ (tên biện pháp tu
từ, tác dụng, cách sử dụng, ví dụ). Giáo viên hướng dẫn học sinh, học sinh là người
vận dụng, xử lí mô hình bảng mà giáo viên đưa ra. Qua bảng phân loại đó, các em
được hệ thống lại toàn bộ những phần nội dung biện pháp tu từ đã được học một
cách logic, tiện lợi, đầy đủ, khái quát, các em dễ nắm bắt, dễ ghi nhớ, dễ vận dụng
khi cần.
- Trí tuệ không gian. Đó là khả năng tiếp nhận một cách chính xác vị trí, định hướng
không gian qua thị giác (ví dụ, một người đi săn, người dẫn đường, người lái xe, cầu
thủ) và thực hiện thành thạo các hoạt động thay hình đổi dạng trên cơ sở các năng
khiếu đó (chẳng hạn, một nhà trang trí nội thất, kiến trúc sư, hoạ sĩ hay một nhà phát
minh). Dạng trí tuệ này liên hệ chặt chẽ với tính nhạy cảm về màu sắc, đường nét,
hình dạng và các tương quan vốn có giữa những yếu tố đó. Dạng trí tuệ này bao
gồm khả năng quan sát, khả năng thể hiện bằng đồ thị và khả năng tự định hướng
một cách thích hợp trong không gian.
Vận dụng:
trong giờ học thông qua bài thơ ‘Mùa thu câu cá’ của Nguyễn Khuyến.
-Giáo viên sẽ đặt ra các hình thức khác nhau để học sinh có thể tiếp thu một cách
hiệu quả nhất với việc đưa và sử dụng các tranh ảnh ,phim chiếu hoặc yêu cầu học
sinh có thể thiết kế sơ đồ hay vẽ tranh để trình bày trước lớp về không gian ‘mùa
thu’ của Nguyễn Khuyến.
+Giáo viên sẽ có thể trực tiếp tạo hình ảnh thông qua việc vẽ lên bảng tóm tắt sơ đồ
gợi ý cho học sinh về tác phẩm của Nguyễn Khuyến.(ảnh minh họa)
+Từ đây,giáo viên có thể yêu cầu học sinh sẽ vẽ một bức họa về mùa thu thông qua
cảnh vật về màu sắc của ‘ nước trong veo,sóng biếc,trời xanh ngắt’ ; về hình ảnh
bình dị ,thân thuộc ‘ao,thuyền câu,ngõ trúc,...’ trong bài thơ ,từ đó giúp học sinh thoải
mái giảm ,giảm bớt sự nhàm chán trong tiết học tạo nên không gian học đầy thú vị
hiểu rõ hơn về đặc trưng của mùa thu đồng bằng Bắc Bộ mà nhà thơ Nguyễn
Khuyến đã phác họa.
+Cuối cùng sau khi thảo luận ,phân tích xong qua các cách thức giảng bài của giáo
viên,giáo viên có thể lại tiếp tục yêu cầu học sinh có thể tự vẽ lại bằng sơ đồ tư duy
về bài thơ hoặc thông qua một số trò chơi trên bảng tạo không khí hứng thú để học
sinh có thể hiểu bài tốt nhất.
- Trí tuệ hình thể - động năng. Đó là sự thành thạo trong việc sử dụng toàn bộ cơ
thể để thể hiện các ý tưởng và cảm xúc (chẳng hạn như một diễn viên kịch, người
thuyết minh bằng ngôn ngữ kí hiệu, một lực sĩ hoặc một nghệ sĩ múa), cũng như sự
khéo léo trong việc sử dụng hai bàn tay để sản xuất hay biến đổi sự vật (chẳng hạn
như một nghệ nhân, một nhà điêu khắc, một thợ cơ khí hay một bác sĩ phẫu thuật).
Dạng trí tuệ này bao gồm các kĩ năng cơ thể đặc biệt như sự phối hợp cử động, khả
năng giữ thăng bằng, sự khéo tay, sức mạnh cơ bắp, sự mềm dẻo (tài uốn éo) và
tốc độ. Cũng như các năng khiếu tự cảm, chẩn đoán bằng tay.
Vận dụng:
Dạng trí tuệ hình thể - động năng thường được vận dụng cho môn Ngữ Văn
bằng hình thức nhiệm vụ, trò chơi đóng kịch. Trong chương trình Ngữ Văn lớp 12,
học sinh được học văn bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, đây là một văn bản thể
loại kịch của tác giả Lưu Quang Vũ, là một vở kịch viết về cuộc xung đột căng thẳng
giữa Hồn và Xác mà Lưu Quang Vũ đã mượn cốt truyện dân gian để xây dựng nên.
Giáo viên đưa ra nhiệm vụ cho các nhóm học tập, 1 nhóm khoảng 5-7 bạn cùng thảo
luận và thực hiện yêu cầu sau: Đóng vai nhân vật trong vở kịch, nhóm các em hãy
diễn lại đoạn hội thoại giữa Hồn và Xác. Các thành viên trong nhóm sẽ cùng thống
nhất lại về nội dung phân cảnh được yêu cầu, đây là đoạn hội thoại chính và quan
trọng nhất, các em trước hết có cơ hội để chủ động ôn tập, tìm hiểu, nghiên cứu sâu
về phần nội dung quan trọng của văn bản, nắm bắt ở mức độ sâu để các em thực
hiện phân vai, diễn lại vở kịch. Sau đó các em phân công thành viên theo từng
nhiệm vụ: dựng khung cảnh nền, đóng vai Hồn, đóng vai Xác, người dẫn chuyện…
Kiến thức văn bản đã được các em diễn đạt bằng hình thể, bằng hành động cơ thể,
kịch nói, hội thoại. Qua hoạt động này, các em không những được trải nghiệm
những cảm xúc, suy nghĩ khi được sống là nhân vật trong chính câu chuyện trên
giấy các em được đọc, mà bên cạnh đó, các em được phát huy khả năng ứng biến,
diễn đạt hình thể, các em học sinh còn lại cũng được tiếp thu bài học một cách chân
thực, sống động hơn. Giáo viên cần cố gắng cho các em học sinh một tâm thế thoải
mái, tự tin, tự nhiên để hoạt động này được thực hiện một cách hiệu quả nhất.
- Trí tuệ âm nhạc. Đó là khả năng cảm nhận (như người yêu âm nhạc), phân biệt
(như nhà phê bình âm nhạc), biến đổi (như nhà soạn nhạc) và thể hiện (như một
nhạc công) các hình thức âm nhạc. Dạng trí tuệ này bao gồm tính nhạy cảm đối với
nhịp điệu, âm sắc, âm tần của một bản nhạc. Một người có thể nắm bắt âm nhạc
một các chung chung, tổng quát “từ trên xuống dưới” (sành nhạc theo lối trực giác)
hoặc nắm bắt âm nhạc một các chính quy, có bài bản, “từ dưới lên trên” (sành nhạc
theo lối phân tích, qua nhạc lí). Trí tuệ âm nhạc còn có thể là một kết hợp của hai
dạng thưởng thức này.
Vận dụng:
trong môn ngữ văn thông qua bài thơ ‘Sóng’ của nhà thơ Xuân Quỳnh trong tiết học
trên lớp.
-Trước hết,giáo viên sẽ yêu cầu học sinh đọc trôi chảy bài thơ và suy ngẫm trước khi
phân tích cụ thể và để làm rõ hơn có trí tưởng tượng sâu sắc hơn giáo viên sẽ tìm
những giai điệu ,bài hát ,âm thanh du dương,...để học sinh có thể cảm nhận tiếng
sóng’ của biển cả mênh mông rộng hơn là tiếng ‘sóng’ của nỗi lòng thi sĩ.Như việc
mở băng đoạn hát của các ca sĩ hay những bạn trẻ cover lại , hơn nữa giáo viên có
thể trực tiếp mời các thành viên trong lớp có thể tự thể hiện bạn thân trước lớp
thông qua việc hát,thổi sáo,... từ đó sẽ giúp âm nhạc đi vào trong suy nghĩ của học
sinh cảm nhận nó dễ dàng hơn trong bài thơ.
-Giáo viên cũng có thể hướng dẫn học sinh tìm kiếm trên mạng về những giai điệu
liên quan đến bài cụ thể như giai điệu của ‘tiếng sóng ào ạt’ giúp học sinh liên tưởng
đến con sóng tình yêu nồng cháy mãnh liệt của thi sĩ Xuân Quỳnh ,giai điệu của
‘tiếng sóng dịu êm’ lại giúp học sinh hình dung ra hình ảnh người phụ nữ đang có
một nỗi niềm riêng trong tình yêu,...nó sẽ giúp học sinh như hòa vào chính cảm xúc
của người viết trong bài thơ.
-Hơn nữa,giáo viên có thể yêu cầu học sinh ghi âm lại những trọng tâm bài học có
ghép nhạc kèm theo để dễ dàng tiếp thu hơn như hình tượng giữa ‘sóng’ và ‘em’ lúc
phân tách,lúc lại soi chiếu vào nhau,lúc hòa nhập làm nên một cái tôi trữ tình duy
nhất là Xuân Quỳnh thông qua việc ghi âm bài giảng về các đoạn thơ.
- Trí tuệ giao tiếp. Đó là khả năng cảm nhận và phân biệt giữa các tâm trạng,
ý đồ, động cơ và cảm nghĩ của người khác. Dạng trí tuệ này bao gồm năng khiếu
nắm bắt những thay đổi về nét mặt, giọng nói, động tác, tư thế; khả năng phân biệt
các biểu hiện giao lưu giữa người với người và đáp ứng các biểu hiện đó một cách
thích hợp.
Vận dụng:
Vận dụng kĩ thuật “ Chia sẻ nhóm đôi “

• Bước 1 : Giáo viên giới thiệu vấn đề, đặt câu hỏi mở và dành thời gian để
học sinh suy nghĩ
• Bước 2 : Học sinh thành lập nhóm đôi và chia sẻ ý tưởng, thảo luận, phân
loại với nhau
• Bước 3 : Nhóm đôi này lại tiếp tục chia sẻ với nhóm đôi khác hoặc với cả lớp
Việc sử dụng kĩ thuật “chia sẻ nhóm đôi” trong dạy học giúp cho không khí
lớp học thêm sôi nổi, học sinh được mạnh dạn, tự tin chia sẻ ý kiến của mình, giúp
cho các em được rèn luyện khả năng giải quyết vấn đề và kĩ năng lắng nghe tích
cực.
- Trí tuệ nội tâm. Đó là khả năng hiểu biết bản thân và hành động một cách thích
hợp trên cơ sở sự tự hiểu mình. Dạng trí tuệ này bao gồm khả năng có một hình ảnh
rõ nét về mình (về ưu điểm, hạn chế của chính mình); ý thức đầy đủ và đúng về tâm
trạng, ý đồ, động cơ, tính khí và ước ao của riêng mình; kèm theo khả năng tự kiềm
chế, tự kiểm soát (tính kỉ luật, tự kỉ), lòng tự trọng.
Vận dụng:
trong môn Ngữ Văn qua tác phẩm ‘Chí Phèo’ về diễn biến tâm trạng của Chí trong
giờ học.
- Thứ nhất,sau khi học sinh đọc văn bản xong giáo viên sẽ đặt ra các câu hỏi
để học sinh có thể suy ngẫm trong vài phút về tâm trạng trước và sau khi gặp
Thị Nở.Từ đó học sinh có thể tiếp thu,duy trì ‘tính năng động’ và ‘tính sẵn
sằng’, nghĩa là học sinh sẽ liên tưởng trong đầu những hình ảnh,âm
thanh,độc thoại nội tâm,....từ đó giúp học sinh sẵn sàng trả lời câu hỏi ,đạt
được hiệu quả tốt nhất .
+ Cụ thể như trong tác phẩm đó là sau khi gặp Nở ,học sinh sẽ liên tưởng đến
những cảm xúc ,tâm trạng của Chí về sự thức tỉnh của Chí Phèo thông qua
những hội thoại nội tâm của Chí về thời gian ,cảm thấy sự bâng khuâng,mơ
hồ trong lòng ,hắn nhận ra những âm thanh của sự sống ’tiếng chim hót,mặt
trời lên cao....’
- Thứ hai, giáo viên sẽ liên kết các cá nhân lại để học sinh tìm được ra câu trả
lời về những điều đã học với thực tiễn .Học sinh sẽ ngẫm ra từ cuộc đời của
Chí về xã hội đầy định kiến nhưng đã tìm thấy tình yêu thương sau khi gặp
Nở.
- Thứ ba,từ việc suy ngẫm đó học sinh sẽ bộc lộ cảm xúc thông qua một số
hình thức trong giờ học như phát biểu ý kiến về sự thức tỉnh của Chí,xem
trích đoạn video về hình ảnh Thị Nở nấu bát cháo hành,..để tăng thêm sự
tiếp thu thông qua một phân đoạn trong bài.
- Cuối cùng,giáo viên sẽ đưa ra phần kết luận này và đặt ra câu hỏi để học
sinh có thể tự đặt mục đích về việc hiểu bài như ‘Các bạn có thể liệt kê
những hình ảnh thích nhất trong cảnh Chí gặp Thị sau bài học hôm nay hay
không ?.Hay các bạn có suy nghĩ gì về tình yêu của Thị dành cho Chí ?
- Trí tuệ tự nhiên học. Đó là năng khiếu nắm bắt, nhận dạng và phân loại các loài
đông đảo (thực vật và động vật) có trong môi trường. Dạng trí tuệ này cũng bao gồm
sự nhạy cảm đối với các hiện tượng thiên nhiên (chẳng hạn, sự hình thành mây, sự
tạo thành núi…). Đối với những người sống ở đô thị, loại trí thông minh này thể hiện
ở năng khiếu phân biệt giữa các vật ô tô, quần áo, máy tính…
Vận dụng:
Tổ chức các chuyến đi thực tế ( Tham quan vườn bách thú, bảo tàng địa phương,
… ) hay các buổi dã ngoại, cắm trại ở công viên hay khu rừng nhỏ nào đó cho học
sinh và giáo viên vận dụng những vật tự nhiên mà học sinh có thể nhìn thấy, sờ
nắm, cảm nhận,… để dẫn dắt vào bài học
Tạo cơ hội cho học sinh tương tác với môi trường bên ngoài giúp các bạn hứng thú
với môn học đồng thời kích thích sự sáng tạo và để lại ấn tượng sâu sắc về bài học
với học sinh.
B. Chiến lược dạy học tương ứng
- Các chiến lược dạy học sử dụng trí tuệ ngôn ngữ. Các chiến lược dạy học trình
bày dưới đây có tác dụng với đông đảo học sinh vì mở rộng hoạt động đọc và nghe
của học sinh, qua đó phát triển trí tuệ ngôn ngữ ở các em.
+ Kể chuyện: Hãy biên soạn một câu chuyện thật hấp dẫn và gửi vào đấy những
kiến thức mà bạn định dạy.
+ Sử dụng kĩ thuật “Động não”: Chiến lược này giúp mọi học sinh được dịp đề xuất ý
kiến của mình cho tập thể bàn luận và khai thác.
+ Ghi âm: Chiến lược này cung cấp cho học sinh một phương tiện để học, thông qua
năng khiếu ngôn ngữ hay không gian giao tiếp… Học sinh có thể dùng băng đĩa,
USB đã ghi âm, ghi hình để “nói to” suy nghĩ của mình, biểu lộ nội tâm, giao lưu với
bạn bè, ghi nhớ chi tiết. Một số em nhút nhát, hay xúc động trước đám đông, có thể
dùng cách này như một phương tiện phát biểu hay thử nghiệm, hoàn chỉnh ý tưởng
của mình. Học sinh có thể dùng “ghi âm” như “bức thư sống động” để chia sẻ suy
nghĩ của mình hoặc để tiếp thu những phản ứng của người khác.
+ Viết nhật ký: Để thúc đẩy học sinh làm quen với việc ghi chép thường xuyên về
các chủ đề hay trải nghiệm học tập. Học sinh có thể sử dụng mọi dạng trí tuệ như
vẽ, phác hoạ, ảnh hay ghi âm, ghi hình các cuộc thảo luận… Chiến thuật này có thể
tác động đến trí tuệ giao tiếp của học sinh (nếu đem đọc ở lớp) cũng như đến trí tuệ
nội tâm của các em
- Các chiến lược dạy học sử dụng trí tuệ logic – toán học.
+ Tính toán và định lượng hoá: Ngoài các môn Toán và khoa học tự nhiên, trong dạy
học các môn Lịch sử và Địa lí, có thể tổ chức và khai thác các bảng, biểu đồ thống
kê như thiệt hại về người trong chiến tranh, biến động dân số các nước….
+ Phân loại và xếp hạng: Một trí tuệ logic có thể được phát triển trước mọi thông tin
trình bày dưới dạng cấu trúc logic – toán, ngôn ngữ, không gian…Giá trị của lối tiếp
cận này là tập hợp được nhiều sự vật, nhiều sự kiện vốn tản mạn, rời rạc xung
quanh những chủ đề trung tâm, khiến chúng dễ nhớ, dễ thảo luận, dễ suy nghĩ.
+ Hỏi đáp theo kiểu Socrates: Dùng chiến lược dạy học này giáo viên trở thành
người đối thoại với học sinh; học sinh nói lên những giả thuyết của mình và luận
chứng về những giả thuyết đó. Thông qua đó, giáo viên phát hiện sự đúng đắn hay
sai lạc của học sinh. Mục đích của chiến lược dạy học này thực chất là để giúp học
sinh tập dượt lập luận được sắc bén và chặt chẽ.
+ Khoa học về phát minh, sáng chế: Chiến lược dạy học này hướng dẫn học sinh
giải quyết vấn đề một cách logic bằng cách chia nhỏ vấn đề cần giải quyết thành
những mảnh vụn nhỏ hơn để dễ xử lí, đặt giả thuyết về cách giải quyết và cuối cùng
thực hiện giải quyết.
- Các chiến lược dạy học sử dụng trí tuệ không gian.
+ Tạo hình ảnh: Yêu cầu học sinh trình bày kiến thức hoặc tài liệu đọc thành hình và
ảnh. Giáo viên có thể vẽ lên bảng kiến thức cần dạy. Tập cho học sinh nhắm mắt lại
rồi mường tượng ra điều vừa đọc hay vừa học. Sau đó, học sinh có thể vẽ lại hoặc
nói về “hình bóng” của các kiến thức đã nhập vào trong đầu.
+ Lập mã bằng màu sắc: Học sinh có thể dùng bút màu để tạo ra các mật mã theo
quy ước để tạo ra tâm lí bớt căng thẳng đối với các vấn đề hay các nội dung “hóc
búa” và cũng nhằm làm bớt sự nhàm chán khi trong khung cảnh lớp học chỉ toàn
những hình đen – trắng (bảng đen, chữ và hình đen trắng trong sách giáo khoa,
phấn trắng).
+ Phác thảo hình tượng các ý tưởng: Chiến lược này đề nghị học sinh “vẽ” lại kiến
thức cốt lõi mà các em vừa học được, ví dụ như sơ đồ tư duy, biểu đồ. Sau đó, yêu
cầu học sinh thảo luận thêm về mối quan hệ giữa các hình vẽ và ý tưởng. Lưu ý,
không đánh giá chất lượng nghệ thuật của các hình phác thảo. Thay vào đó, nên
đánh giá mức độ nhận thức về một khái niệm của các em thông qua sự lựa chọn và
phác hoạ hình.
- Các chiến lược dạy học sử dụng trí tuệ hình thể
+ Sân khấu trong lớp: phương pháp đóng kịch, trò chơi vận động.
+ Diễn đạt một số khái niệm hay từ ngữ bằng các hành động cơ thể, kịch câm.
- Các chiến lược dạy học sử dụng trí tuệ âm nhạc.
+ Giai điệu, bài hát, nhịp và ca khúc: Chọn phần cốt lõi của bất cứ bài học và tạo vần
điệu cho nó dưới dạng thơ, hò, hát, gõ nhịp. Hoặc cũng có thể động viên học sinh có
năng khiếu “âm nhạc” phổ nhạc cho lời của bài học.
+ Ghi âm: Có thể bổ sung các tài liệu giáo khoa hoặc tài liệu tham khảo dưới dạng
file âm thanh trên máy tính, máy nghe nhạc, điện thoại thông minh…Có thể ghi âm
những nội dung trọng tâm của bài học có ghép nhạc.
+ Âm nhạc thể hiện các tâm trạng: Tìm file nhạc, âm thanh, tiếng động trong thiên
nhiên có khả năng tạo tâm trạng tương đồng hoặc một bầu không khí xúc cảm trong
một bài học cụ thể. Ví dụ âm thanh của tiếng sóng biển, tiếng hải âu để mở đầu khi
học sinh sắp đọc câu chuyện xảy ra trên bờ biển, tác phẩm văn học có nói về biển.
- Các chiến lược dạy học sử dụng trí tuệ giao tiếp:
+ Khuyến khích học sinh chia sẻ nội dung và trải nghiệm học tập với bạn bè.
+ Vận dụng phương pháp dạy học qua trò chơi, đóng kịch.
+ Vận dụng các kĩ thuật dạy học tích cực như kĩ thuật chia sẻ nhóm đôi, kĩ thuật
tranh luận ủng hộ - phản đối, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật mảnh ghép, kĩ thuật bể
cá, kĩ thuật ổ bi, kĩ thuật phòng tranh, ...
- Các chiến lược dạy học sử dụng trí tuệ nội tâm.
+ Suy ngẫm trong một phút: Những phút suy ngẫm chính là thời gian cần thiết để
học sinh “tiêu hoá” thông tin vừa học, liên kết với kinh nghiệm của bản thân. Những
phút suy ngẫm là dịp “đổi nhịp bước”, giúp cho học sinh duy trì “tính năng động” và
“tính sẵn sàng” để chuyển sang hoạt động tiếp theo. Một phút suy ngẫm có hiệu quả
tốt nhất ngay sau khi giáo viên giảng một đoạn khó hoặc trọng tâm của bài học.
+ Các liên kết cá nhân: Giáo viên giúp học sinh tìm được câu trả lời về sự kết nối
những điều đã học với cuộc sống sinh hoạt, lao động và sản xuất.
+ Phút giây biểu lộ cảm xúc: học sinh được khuyến khích biểu lộ cảm xúc trong một
số hoạt động cụ thể.
+ Hoạt động đặt mục đích: Một đặc tính của học sinh có trí tuệ nội tâm cao là khả
năng tự đặt mục đích thiết thực cho mình. Mục đích có thể là ngắn hạn: “Đề nghị các
em liệt kê 3 điều mà các em muốn học bài học ngày hôm nay” hoặc đặt mục đích dài
hạn trong một tháng, trong học kì, thậm chí sau 5, 10 năm.
- Các chiến lược dạy học sử dụng trí tuệ tự nhiên: Dạo chơi trong thiên nhiên;
trồng nhiều cây cảnh, bố trí mô hình động vật trong lớp học.

Câu 13: Khái niệm năng lực. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự
hình thành phát triển năng lực của học sinh.
Khái niệm năng lực
Theo Chương trình GDPT 2018, “năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành,
phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người
huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng
thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả
mong muốn trong những điều kiện cụ thể”. Như vậy, năng lực là một thuộc tính tâm
lí phức hợp, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố như kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ,
kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách nhiệm. Khái niệm năng lực gắn liền
với khả năng hành động. Phát triển năng lực là phát triển khả năng hành động. Các
đặc điểm của dạy học phát triển năng lực cho học sinh.
Những yếu tố ảnh hưởng sự hình thành phát triển năng lực của học sinh:
- Các yếu tố bẩm sinh - di truyền của con người được biểu hiện bằng các tố chất sẵn
có và năng lực được biểu hiện bằng những khả năng sẵn có. Quá trình hình thành
và phát triển năng lực có tiền đề từ các yếu tố này. Cụ thể hơn, các khả năng sẵn có
nếu được phát hiện kịp thời và giáo dục đúng cách thì năng lực mới được phát huy.
Nếu không đảm bảo như vậy, mầm mống và các tố chất của cá nhân có nguy cơ mai
một. Do vậy, sự hình thành và phát triển năng lực chịu ảnh hưởng của yếu tố tiền đề
là bẩm sinh - di truyền nhưng KHÔNG do yếu tố này quyết định.
- Hoàn cảnh sống có tác động và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành và
phát triển năng lực của cá nhân. Tuy nhiên, hoàn cảnh sống cũng KHÔNG có vai trò
quyết định.
- Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành và phát triển năng lực của
cá nhân. Giáo dục sẽ định hướng cho sự phát triển năng lực, phát huy các yếu tố
bẩm sinh – di truyền, đồng thời giáo dục cũng khắc phục được một số biểu hiện của
phẩm chất chưa phù hợp. Tuy vậy, giáo dục KHÔNG quyết định mức độ phát triển
và xu hướng phát triển của mỗi cá nhân.
- Tự học tập và rèn luyện là yếu tố có vai trò QUYẾT ĐỊNH đến sự hình thành và
phát triển năng lực của học sinh.
Như vậy, giáo dục nói chung, giáo dục nhà trường nói riêng có vai trò chủ đạo đối
với sự hình thành, phát triển năng lực. Song song đó, cần quan tâm đến cá nhân mỗi
học sinh, gồm năng khiếu, phong cách học tập, các loại hình trí thông minh, tiềm lực
và nhất là khả năng hiện có, triển vọng phát triển (theo vùng phát triển gần nhất) của
mỗi học sinh… để thiết kế các hoạt động học hiệu quả. Đồng thời, cần chú trọng
phát triển năng lực tự chủ, tự học vì yếu tố “cá nhân tự học tập và rèn luyện” đóng
vai trò quyết định đến sự hình thành và phát triển năng lực của mỗi HS. Việc tổ chức
các hoạt động học của người học phải là trọng điểm của quá trình dạy học, giáo dục
để đạt được mục tiêu phát triển năng lực học sinh.

Câu 14: Các đặc điểm của dạy học tích hợp.
Để tìm hiểu các đặc điểm của dạy học tích hợp, cần biết rõ mục tiêu của dạy học tích
hợp.
Dạy học tích hợp hướng đến các mục tiêu cơ bản sau:
– Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa.
– Phân biệt cái cốt yếu với cái ít quan tâm.

– Dạy sử dụng kiến thức trong tình huống thực tiễn.


– Thiết lập mối liên hệ giữa các khái niệm
Như vậy, các đặc điểm cơ bản của dạy học tích hợp, đó là:
- Mang tính tích hợp, trong đó chú trọng tích hợp trong môn học, liên môn học nhằm
làm cho các nội dung kiến thức gần nhau hơn, quan hệ chặt chẽ hơn và do đó học
sinh có cái nhìn tổng thể, lô gíc hơn. Ví dụ: Tích hợp giáo dục về an toàn giao thông,
môi trường, các vấn đề về năng lượng và sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả,
các kiến thức toán, hoá học, tin học, ... vào vật lí, các kiến thức lịch sử với địa lí, lịch
sử với văn học, ... nhằm làm cho các kiến thức hỗ trợ nhau, gần với thực tiễn hơn và
do đó, tăng khả năng và hiệu quả vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề [2].
- Mang tính thực tiễn, các nội dung chủ đề phải gắn với thực tiễn cuộc sống. DHTH
tìm cách làm cho quá trình học tập có ý nghĩa qua việc vận dụng tổng hợp các kiến
thức, kĩ năng để giải quyết vấn đề thực tiễn. Ví dụ: Tích hợp định hướng nghề
nghiệp trong dạy học các môn học. Điều này sẽ giúp người học có điều kiện tiếp xúc,
làm quen với các thuật ngữ liên quan đến chuyên ngành, vận dụng kiến thức vào
các bối cảnh thực, cuộc sống thực để nhanh chóng hòa nhập, thích ứng và đáp ứng
được các đòi hỏi của thực tiễn nghề nghiệp.
- Mang tính hợp tác: vì hình thức hoạt động chủ yếu là theo nhóm nên tính hợp tác
giữa các học sinh thể hiện rất rõ.
- Phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh. Vì nội dung học mang tính thực tiễn
và hình thức học tập chủ yếu theo nhóm nên tạo cho học sinh sự hứng thú, học sinh
được tự tìm tòi, tự đưa ra phương án giải quyết, thu thập và xử lí thông tin, … tạo
điều kiện cho họ rèn kĩ năng tư duy bậc cao, giúp họ tiếp cận với tiến trình khoa học
giải quyết vấn đề.
Các đặc điểm này của dạy học tích hợp thể hiện ở các mức độ khác nhau, tùy thuộc
vào các mức độ tích hợp.
Câu 15: Các biện pháp dạy học phân hóa.
Carol Ann Tomlinson, nhà giáo dục, tác giả và diễn giả Mỹ, được biết đến bởi
những nghiên cứu, triển khai thành công về dạy học phân hóa, điển hình là các cuốn
sách “Lớp học phân hóa đáp ứng nhu cầu các đối tượng học sinh” (1999) và “Dạy
học phân hóa như thế nào trong các lớp học đa năng lực” (2001). Theo nghiên cứu
của Tomlinson, dựa trên những khả năng cá nhân của HS, GV cần phân biệt 04 yếu
tố sau đây trong lớp học phân hóa.
− Nội dung: Kiến thức, kĩ năng mà HS cần chiếm lĩnh;
− Sản phẩm: Sản phẩm của các hoạt động học, do HS hoàn thành ở từng khâu của
tiến trình dạy học: hình thành kiến thức, luyện tập, vận dụng và mở rộng.
− Quy trình: Cách tổ chức các hoạt động học để giúp HS chiếm lĩnh kiến thức, kĩ
năng và hoàn thành được sản phẩm học tập trên đây theo yêu cầu của GV;
− Môi trường học tập: Các yếu tố tạo nên bầu không khí của lớp học, ví dụ như cách
truyền cảm hứng của GV, không gian lớp học rộng rãi và yên tĩnh, phương tiện dạy
học thích hợp và đầy đủ.
Các biện pháp DHPH được thiết kế dựa trên 03 yếu tố đầu tiên trên đây. “Nội dung”
là yếu tố để phân hóa mục tiêu dạy học (xác định mục tiêu tối thiểu và mục tiêu nâng
cao) và để phân hóa nội dung (lựa chọn nội dung theo hướng phân hóa). “Sản
phẩm” là yếu tố để đưa ra nhiệm vụ học tập phân hoá, mà cụ thể là các yêu cầu, bài
tập phân hóa. “Qui trình” là yếu tố để lựa chọn, sử dụng các phương pháp, kĩ thuật
dạy học và cách tổ chức dạy học phù hợp với nhiệm vụ học tập phân hoá. “Nội
dung” và “sản phẩm” là các yếu tố để đánh giá phân hóa (kiểm tra, đánh giá theo
hướng phân hóa).
VÍ DỤ: *Mức 1:
Yêu cầu 1: Hãy đọc thuộc, diễn cảm bài thơ “ Ông đồ “ và nêu 1 số nét về tác
giả?
Yêu cầu 2: Qua tìm hiểu bài thơ em cảm nhận được những gì về nghệ thuật và
nội dung của bài thơ
*Mức 2:
Yêu cầu 1: Trong bài thơ ‘’ Ông đồ’’ tác giả đã thành công một số hình tượng
biểu tượng đặc sắc. Em hãy chứng minh?
Yêu cầu 2: Trong bài thơ có những câu thơ, những khổ thơ có những hình ảnh
thơ đặc sắc, hãy dùng một câu, một khổ để bình ?
*Mức 3:
Yêu cầu : Chính tác giả Vũ Đình Liên đã có lời nhận xét: hình ảnh ông đồ chỉ còn
lại là ‘’ cái di tích tiều tụy, đáng thương của một thời tàn’’ Em hiểu lời nhận xét đó
như thế nào ? Hãy giải thích cho cả lớp cùng hiểu ?
=> Như vậy, ở mức độ 1 học sinh chỉ cần đáp ứng các yêu cầu cơ bản của tiết
học, đảm bảo mục tiêu chung là nắm vững văn bản, nội dung và hình thức nghệ
thuật của bài thơ. Nhưng ở mức độ 2 và 3 yêu cầu đòi hỏi đã cao hơn và phức
tạp, đòi hỏi học sinh phải nắm vững chuyên sâu về kiến thức bài học, biết sàng
lọc kiến thức và dùng khả năng lập luận, diễn đạt , chứng minh về 1 vấn đề , 1
nhận xét. Không những thế, học sinh còn phải biết cảm thụ và thẩm bình, biết
cách vận dụng ngôn ngữ, khả năng diễn đạt để trình bày hiểu biết về bài thơ

Câu 16: Mối quan hệ giữa dạy học trải nghiệm với hoạt động
giáo dục trải nghiệm trong nhà trường.
Để nâng cao kết quả học tập, hướng tới hình thành và phát triển năng lực cho người
học, việc dạy học cần phải dựa trên quá trình trải nghiệm của người học, dựa trên
kiến thức và kinh nghiệm sẵn có của người học để tạo môi trường, cơ hội nhằm giúp
họ làm mới, bổ sung, nâng cao hoàn chỉnh... những kinh nghiệm cũ, đồng thời việc
xem xét mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, kiểm soát,
đánh giá quá trình học của người học phải dưới góc nhìn của trải nghiệm. Ngoài ra,
quá trình trải nghiệm của người học không nhất thiết phải là trải nghiệm hoạt động
mà có thể là trải nghiệm cảm xúc hoặc nhận thức.
Như vậy, dạy học theo tiếp cận trải nghiệm được định nghĩa như sau:
Dạy học theo tiếp cận trải nghiệm là một quan điểm dạy học, trong đó người dạy dựa
vào lý thuyết học tập trải nghiệm để tổ chức cho người học được tham gia vào các
hoạt động thực tiễn, dựa trên hiểu biết và kinh nghiệm sẵn có của chính người học,
nhằm giúp người học phát triển năng lực và cảm xúc học tập tích cực.

You might also like