You are on page 1of 5

I.

Hoàn cảnh lịch sử:


1. Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ:
- Ngày 1-9-1939, phátxít Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau Anh và
Pháp tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
Phátxít Đức lần lượt chiếm các nước châu Âu. Đế quốc Pháp lao vào
vòng chiến. Chính phủ Pháp đã thi hành biện pháp đàn áp lực lượng
dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận
nhân dân Pháp tan vỡ. Đảng cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp
luật.
- Tháng 6- 1940, Đức tấn công Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng Đức.
Ngày 22-6-1941, quân phátxít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi Phátxít
Đức xâm lược Liên Xô, tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành
chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các
lực lượng phátxít do Đức cầm đầu.
2. Tình hình trong nước:
- Chiến tranh thể giới thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến
Đông Dương và Việt Nam. Ngày 28-9-1939, Toàn quyền Đông Dương
ra nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, cấm lưu hành, tàng trữ tài
liệu cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp
luật, giải tán các hội hữu ái, nghiệp đoàn và tịch thu tài sản của các tổ
chức đó, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập
đông người.
- Trong thực tế, ở Việt Nam và Đông Dương, thực dân Pháp đã thi
hành chính sách thời chiến rất trắng trợn. Chúng phátxít hóa bộ máy
thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân, tập
trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Hàng nghìn
cuộc khám xét bất ngờ đã diễn ra khắp nơi. Một số quyền tự do, dân
chủ đã giành được trong thời kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu. Chúng ban bố
lệnh tổng động viện, thực hiện chính sách "kinh tế chỉ huy" nhằm
tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ chiến tranh của đế
quốc. Hơn bảy vạn thanh niên bị bắt sang Pháp để làm bia đỡ đạn.
- Lợi dụng lúc Pháp thua Đức, ngày 22-9-1940 phátxít Nhật đã tiến vào
Lạng sơn và đổ bộ vào Hải Phòng. Ngày 23-9-1940, tại Hà Nội, Pháp
ký hiệp định đầu hàng Nhật. Từ dó, nhân dân ta chịu cảnh một cổ hai
tròng áp bức, bóc lột của Pháp - Nhật. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta và
đế quốc, phátxít Pháp — Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
 Trước những chuyển biến của tình hình, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Đông Dương liên tiếp mở các hội nghị để hoạch định
chủ trương, nhiệm vụ, chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng,
đặt “nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu”. Chủ trương này của
Đảng tập trung ở 03 hội nghị lần thứ sáu, lần thứ bảy và lần thứ tám
của Ban chấp hành Trung ương.

II. Nội dung:


- Hội nghị BCHTW 6: Được tiến hành từ ngày 06 đến 08/11/1939 tại Bà
Điểm, Gia Định do đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư BCHTW
Đảng chủ trì (Tham dự có các đồng chí: Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Võ
văn Tần)
- Hội nghị BCHTW 7: Tổ chức vào tháng 11/1940 tại Đình Bảng, Bắc
Ninh, có Đ/c Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phan Đăng Lưu, Trần
Đăng Ninh tham dự.
- Hội nghị BCHTW8: Tổ chức vào tháng 5/1941, tại Pắc Pó, Cao Bằng do
đồng chí Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì, tham dự có các đồng chí
Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên và
một số đồng chí đại biểu của xứ uỷ Bắc kỳ, Trung kỳ, đại biểu của tổ
chức Đảng ta ở nước ngoài;
(4 ảnh ở slide 13 hỏi wibu xem là những ai)
1. Hội nghị BCHTW 6:
Hội nghị đánh dấu sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược;
- Hội nghị quyết định: Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng Đông Dương;
- Hội nghị quyết định thay đổi một số khẩu hiệu, chuyển hướng hình
thức đấu tranh:
+ Tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ mà chủ trương
tịch thu ruộng đất của đế quốc và tay sai;
+ Không nêu khẩu hiệu thành lập chính phủ Xô viết công nông binh
mà đề ra khẩu hiệu lập Chính phủ Liên bang cộng hoà dân chủ Đông
Dương;
+ Về phương pháp đấu tranh:
Chuyển từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ sang đấu tranh
trực tiếp đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai;
Từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và
bất hợp pháp.
- Ngoài ra, hội nghị quyết định: Thành lập Mặt trận thống nhất phản đế
Đông Dương, thay thế cho Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương.
->Nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp, các giai cấp, các dân tộc, các
cá nhân yêu nước tập trung đấu tranh vào kẻ thù chủ yếu trước mắt
là chủ nghĩa đế quốc phát xít.
 Hội nghị Trung ương lần thứ 6 đánh dấu sự chuyển hướng đúng
đắn về chỉ đạo chiến lược cách mạng, giương cao ngọn cờ giải
phóng dân tộc, đặt cơ sở nền tảng cho toàn bộ cuộc vận động giải
phóng dân tộc trong những năm 1939 - 1945, mở đường đi đến
thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.

2. Hội nghị BCHTW 7:


- Hội nghi nhận định cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy, Đảng
phải chuẩn bị giành lấy sứ mệnh thiêng liêng cao cả là lãnh đạo cách
mạng võ trang giành chính quyền;
- Hội nghị xác định kẻ thù chính của cách mạng Đông Dương lúc này là
phát xít Nhật - Pháp;
- Hội nghị quyết định duy trì cuộc khởi nghĩa Bắc sơn, xúc tiến xây
dựng căn cứ cách mạng;
- Hội nghị cử ra BCHTW lâm thời do đồng chí Trường Chinh làm quyền
Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.

3. Hội nghị BCHTW 8:


- Hội nghị phát triển, hoàn chỉnh đường lối cách mạng của nghị quyết
BCHTW6, 7 và khẳng định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ
hàng đầu, cấp bách của cách mạng Việt Nam;
- Hội nghị chủ trương không giữ khẩu hiệu thành lập Chính phủ Liên
bang cộng hoà dân chủ Đông Dương như trước đây mà giải quyết vấn
đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước. Hội nghị chỉ rõ: Chuẩn bị khởi
nghĩa vũ trang giành chính quyền là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và
nhân ta trong giai đoạn hiện tại.
- Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh
(gọi tắt là Mặt trận Việt Minh)
- Hội nghị quyết định những vấn đề quan trọng về tư tưởng chỉ đạo
chiến lược như:
+ Mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp;
+ Giữa nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến;
+ Về sách lược tập hợp lực lượng cách mạng; tư tưởng giải quyết vấn
đề dân tộc theo khuôn khổ mỗi nước…
- Hội nghị cử ra Ban Chấp hành Trung ương, bầu đồng chí Trường
Chinh làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng; bầu Ban
Thường vụ gồm các đồng chí Trường chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng
Quốc Việt.
- Bên cạnh đó, Hội nghị quyết định xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách
mạng, xây dựng lực lượng để chuẩn bị tiến hành khởi nghĩa vũ trang,
coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại.

(Ảnh tìm tên trong files)

 Như vậy, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (5/1941) đã hoàn
chỉnh sự chuyển hướng chiến lược và sách lược cách mạng đã đề
ra từ Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11/1939), thể hiện rõ sự phát
triển sáng tạo về mặt chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, có
tác dụng quyết định trong việc vận động toàn Đảng, toàn dân tích
cực chuẩn bị tiến tới Cách mạng tháng Tám 1945.

III. Tổng kết nội dung:


Sau 03 hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Đảng khẩn trương chuẩn bị
mọi mặt về chính trị, tư tưởng và tổ chức để khởi nghĩa giành chính
quyền cách mạng tháng 8/1945.
- Đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu giải quyết cấp bách
mâu thuẫn chủ yếu lúc này giữa dân tộc ta với Đế Quốc, phát xít
Pháp- Nhật.
- Thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) đoàn kết, tập hợp
lực lượng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc.
- Xác định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang được coi là nhiệm vụ
trung tâm trong giai đoạn hiện tại.
- Xác định phương châm và hình thái khởi nghĩa ở nước ta:
+ Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương giành
thắng lợi mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.
+ Chú trọng công tác xây dựng Đảng
IV. Ý nghĩa:
Như vậy: với 3 hội nghị TW 6,7,8 Đảng ta đó hoàn chỉnh sự chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược để đi đế giành thắng lợi cách mạng 8/1945,
thể hiện:
- Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược giương cao ngọn cờ giải phóng
dân tộc của Hội nghị Trung ương lần 6, 7, 8 chính là sự kế tục và hoàn
chỉnh tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh đã
vạch ra trong Cương lĩnh tháng 02/1930. Đây là bước trưởng thành
vượt bậc của Đảng ta về lãnh đạo chính trị, về xây dựng đường lối
cách mạng giải phóng dân tộc.
- Sự điều chỉnh chiến lược trên rất đúng đắn, sáng tạo, phát huy được
tiềm năng, sức mạnh của toàn dân tộc, trực tiếp dẫn đến thành công
của cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
- Đưa nhiệm vụ lên giải phóng dân tộc lên hàng đầu
- Thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết, tập hợp các lực lượng
cách mạng nhằm mục tiêu giải giải phóng dân tộc. Lực lượng chính trị
của quần chúng ngày càng đông đảo và được rèn luyện trong đấu
tranh chống Pháp – Nhật theo khẩu hiệu của mặt trận Việt Minh.
- Trên cơ sở lực lượng chính trị của quần chúng , Đảng đã chỉ đạo việc
vũ trang cho quần chúng cách mạng, từng bước tổ chức, xây dựng lực
lượng vũ trang trong nhân dân

You might also like