You are on page 1of 29

1.

Sản xuất hàng hóa


Trước khi có kinh tế hàng hóa, con người tổ chức sản xuất theo kiểu tự
cung tự cấp, sản phẩm làm ra chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu của người sản xuất
(kinh tế tự nhiên). Kiểu tổ chức kinh tế này gắn liền với sản xuất nhỏ, năng
suất lao động thấp, phân công lao động kém phát triển. Trong quá trình lịch
sử rất dài từ thời kỳ cuối công xã nguyên thủy đến xã hội chiếm hữu nô lệ và
xã hội phong kiến, kinh tế tự nhiên luôn giữ vai trò thống trị. Kinh tế hàng
hóa ra đời cùng với sự xuất hiện của hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế xã hội trong đó sản phẩm sản
xuất ra dùng để mua bán, trao đổi trên thị trường.
Sản xuất hàng hóa không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của xã hội
loài người. Sản xuất hàng hóa ra đời, tồn tại dựa trên hai điều kiện:
Thứ nhất: Phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao
động xã hội ra thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau
Do sự phân công lao động xã hội nên việc trao đổi sản phẩm trở thành tất
yếu. Khi có phân công lao động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất một hoặc một
vài thứ sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi họ phải có
nhiều loại sản phẩm khác nhau, do đó, họ cần đến sản phẩm của nhau, buộc
trao đổi với nhau. Mặt khác, đồng thời với đơn nhất hóa sản phẩm của người
lao động, nhu cầu của con người ngày càng đa dạng hóa, nên người sản xuất
sản phẩm khác nhau càng cần trao đổi với nhau nhiều hơn. Mặt khác, phân
công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất đồng thời làm cho năng suất
lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều nên càng thúc đẩy sự
trao đổi sản phẩm.
Như vậy, phân công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất
hàng hóa. Phân công lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi
hàng hóa càng mở rộng hơn, đa dạng hơn. Tuy nhiên, nếu chỉ có phân công
lao động thì vẫn chưa thể có kinh tế hàng hóa như “ Trong xã hội Ấn Độ thời
cổ và trong cộng đồng gia tộc Nam Xlavơ, các sản phẩm không biến thành
hàng hóa”
Thứ hai: Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản
xuất
Khi những người sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất
định với nhau, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế,
người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải thông
qua trao đổi, mua bán hàng hóa
Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy
định. Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu
của mỗi cá nhân và kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ
Hai điều kiện trên cho thấy, phân công lao động xã hội làm cho những
người sản xuất phụ thuộc vào nhau, còn sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế
giữa những người sản xuất lại chia rẽ họ, làm cho họ độc lập với nhau. Đây là
một mâu thuẫn chỉ có thể giải quyết thông qua việc trao đổi, mua bán sản
phẩm dưới hình thái hàng hóa.
Đó là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hóa. Thiếu một trong hai
điều kiện đó sẽ không có sản xuất hàng hóa.
*Mâu thuẫn của sản xuất hàng hóa
Trong nên sản xuất hàng hóa lao động tư nhân và lao động xã hội ko
phải là hai lao động khác nhau, mà chỉ là hai mặt đối lập của một lao động
thống nhất. Giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau.
Đó là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa. Điều này thể hiện ở chỗ:
Sản phẩm do người sản xuất hàng hóa tạo ra có thể không ăn khớp hoặc
không phù hợp với nhu cầu xã hội.
Hao phí lao động cá biệt của người sản xuất có thể cao hơn hoặc thấp
hơn hao phí lao động xã hội có thể chấp nhận.
*Đặc trưng của sản xuất hàng hóa (GT)
Thứ nhất, sản xuất hàng hóa là sx để trao đổi, mua bán, không phải để
người sản xuất ra nó tiêu dùng
Thứ hai, lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính chất tư
nhân, vừa mang tính xã hội. Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã
hội là cơ sở, mầm mống của khủng hoảng trong kinh tế hàng hóa
Thứ ba, mục đích của sản xuất HH là giá trị, là lợi nhận chứ ko phải là
GTSD
*Ưu thế của sản xuất hàng hóa (GT)
* Liên hệ với quá trình phát triển của kinh tế hàng hóa ở nước ta trước và
sau thời kỳ Đổi mới
Trước Đổi mới, kinh tế nước ta được quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa
tập trung, sản xuất hàng hóa không phát triển, về cơ bản không sử dụng quan
hệ hàng hóa - tiền tệ, thể hiện: các doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà nước,
hoạt động theo chỉ tiêu kế hoạch do nhà nước giao (phương hướng sản xuất,
nguyên vật liệu, lao động, tiền lương,... đều do nhà nước quyết định) và sản
phẩm thuộc sở hữu của nhà nước.
Đường lối Đổi mới do Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-
1986) đưa ra, và đến nay Đảng ta tiếp tục hoàn thiện và phát triển. Quá trình
Đổi mới về kinh tế đã phát triển 2 điều kiện dẫn đến sự ra đời và phát triển
kinh tế hàng hóa, tiến tới kinh tế thị trường như hiện nay
Về phân công lao động: từ chủ trương phát triển nhiều thành phần kinh
tế, thực hiện phân công lao động xã hội sâu rộng, đến nay, nền kinh tế đã có
nhiều loại thị trường: thị trường lao động, thị trường công nghệ, thị trường tài
chính, tiền tệ ... Hơn nữa, kinh tế Việt Nam dần hội nhập, tham gia vào quá
trình phân công lao động quốc tế nhằm khai thác lợi thế về địa lý, tài nguyên,
dân số, lao động ...
Về sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất: nền
kinh tế nước ta đã phát triển nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, tạo
nên một môi trường sản xuất có cạnh tranh, kích thích hoạt động trao đổi,
mua bán. Quan trọng hơn, về cơ chế quản lý của nhà nước đã chuyển sang
giao quyền tự chủ cho doanh nghiệp (doanh nghiệp tự lập kế hoạch sản xuất,
tự hạch toán, tìm kiếm thị trường, thực hiện trao đổi mua bán hàng hóa trong
khuôn khổ pháp luật).
Quá trình Đổi mới không chỉ làm ra đời kinh tế hàng hóa mà còn hình
thành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, từ đó đưa nước ta
từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, khủng hoảng (lạm phát trên 700% vào
năm 1986) chuyển sang tăng trưởng cao và ổn định (tăng trưởng kinh tế đạt
trung bình 7.01%/năm giai đoạn 2006 - 2010, từ 5 - 7%/năm giai đoạn 2010 -
2015).
2. Hàng hóa
Khái niệm: Hàng hóa là sản phẩm của lao động , có thể thỏa mãn nhu cầu nào
đó của con người thông qua trao đổi, mua bán. Sản phẩm của lao động là
hàng hóa khi nhằm đưa ra trao đổi, mua bán trên thị trường. Hàng hóa có thể
ở dạng vật thể hoặc phi vật thể.
Thuộc tính của hàng hóa
Hàng hóa có 2 thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị
+ Giá trị sử dụng là công dụng của các vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào
đó của con người. Ví dụ giá trị sử dụng của quyển sách là để đọc, áo là để
mặc, cơm là để ăn,..
Giá trị sử dụng của hàng hóa là do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa
quyết định. Với ý nghĩa như vậy, giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn, là
thuộc tính tự nhiên của vật, luôn tồn tại cùng với xã hội loài người. Theo đà
phát triển của khoa học kỹ thuật, con người ngày càng phát hiện thêm những
thuộc tính mới của sản phẩm và phương pháp để lợi dụng chúng, do đó số
lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chất lượng ngày càng tốt
Giá trị sử dụng chỉ thể hiện trong lĩnh vực tiêu dùng, chỉ khi nào con người sử
dụng hàng hóa cho tiêu dùng thì giá trị đó mới phát huy tác dụng. . Nếu hàng
hóa chưa được tiêu dùng thì giá trị sử dụng của nó chỉ ở dạng tiềm năng.
Trong nền kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng mang trên mình một giá trị trao
đổi nhất định. Một vật khi đã là hàng hóa thì nhất thiết phải có một giá trị sử
dụng nào đó, tuy nhiên không phải vật nào mang giá trị sử dụng cũng là hàng
hóa. Ví dụ: Không khí.
+ Giá trị của hàng hóa là một thuộc tính của hàng hoá, đó chính là lao động
hao phí của người sản xuất để sản xuất ra nó đã được kết tinh vào trong hàng
hoá. Giá trị của hàng hoá là giá trị lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng
hoá đó và tính bằng thời gian lao động XH cần thiết.
Thời gian lao động XH cần thiết là thời gian lao động XH trung bình để sản
xuất ra hàng hoá. Thời gian lao động XH cần thiết có thể thay đổi.
(Giá trị HH biểu hiện thông quá giá trị trao đổi. Tức là, giá trị là nội dung, là
cơ sở của giá trị trao đổi
Đặc điểm giá trị của HH: Giá trị biểu hiện mối quan hệ xã hội giữa những
người sản xuất HH vì trao đổi HH là so sánh lượng hao phí lao động giữa
những người sản xuất hàng hóa. Quan hệ giữa người với người được thay thế
bằng quan hệ giữa vật với vật ( hàng - hàng). Giá trị HH là một phạm trù lịch
sử, chỉ tồn tại trong nền kinh tế HH, có sản xuất HH thì mới có giá trị hàng
hóa. Giá trị hàng hóa có yếu tố tinh thần và lịch sử)
Có ba nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới lượng giá trị của hàng hoá:
Thứ nhất, đó là năng suất lao động.
Thứ hai, đó là cường độ lao động.
Thứ ba là mức độ phức tạp của lao động.

Giá trị hàng hóa biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất,
trao đổi hàng hóa và là phạm trù có tính lịch sử. Khi nào có sản xuất và trao
đổi hàng hóa, khi đó có phạm trù giá trị hàng hóa. Giá trị trao đổi là hình thức
biểu hiện ra bên ngoài của giá trị; giá trị là nội dung, là cơ sở của trao đổi. Khi
trao đổi người ta ngầm so sánh lao động đã hao phí ẩn dấu trong hàng hóa với
nhau. Trong thực hiện sản xuất hàng hóa, để thu được hao phí lao động đã kết
tinh người sản xuất phải chú ý hoàn thiện giá trị sử dụng để được thị trường
chấp nhận. Hàng hóa phải được bán đi.
Lượng giá trị của hàng hóa là một khái niệm trong kinh tế chính trị Mac-
Lenin chỉ về một đại lượng được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất
ra hàng hóa đó, lượng lao động tiêu hao đó được tính bằng thời gian lao động,
cụ thể là thời gian lao động xã hội cần thiết. Lượng lao động xã hội cần thiết,
hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa, mới quyết
định đại lượng giá trị của hàng hóa.
Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa:
Năng suất lao động:
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động. Nó được đo bằng số
lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian
lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Năng suất lao động
lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
- Trình độ khéo léo (thành thạo) trung bình của người công nhân
- Mức độ phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ
- Mức độ ứng dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào
sản xuất
- Trình độ tổ chức quản lý
- Quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất
- Các điều kiện tự nhiên.
 Muốn tăng năng suất lao động phải hoàn thiện các yếu tố trên.
Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, tích cực của hoạt động lao động
trong sản xuất.
Hai là tính chất phức tạp của lao động.
Căn cứ vào mức độ phức tạp của lao động mà chia thành lao động giản đơn
và lao động phức tạp
Lao động giản đơn là hoạt động lao động không đòi hòi có quá trình đào tạo
một cách hệ thống, chuyên sâu về chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ cũng có
thể làm được.
Lao động phức tạp là hoạt động lao động yêu cầu phải được đào tạo về kĩ
năng, huấn luyện nghiệp vụ theo yêu cầu của những nghề nghiệp chuyên môn
nhất định mới có thể làm được.
Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra
nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. Lao động phức tạp là lao động
giản đơn được nhân bội lên. Đây là cơ sở lý luận để cả nhà quản trị và người
lao động xác định mức thù lao cho phù hợp với tính chất của hoạt động lao
động trong quá trình tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội.
* Mối quan hệ giữa 2 thuộc tính của hàng hóa
GTSD và giá trị của HH vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau trong một
HH
Mặt thống nhất: Hai thuộc tính này cùng tồn tại trong một HH. Một vật muốn
trở thành HH thì ko thể thiếu bất kì một thuộc tính nào trong 2 thuộc tính trên.
Ta có thể thấy một vật có ích tức là có GTSD nhưng ko do lao động tạo ra tức
là không có lao động xã hội kết tinh trong đó thì không phải là HH. VD: ánh
sáng mặt trời, không khí,...
Mặt mâu thuẫn: Thứ nhất, với tư cách là một giá trị sử dụng thì các HH không
đồng nhất về chất vì mỗi HH có một công dụng khác nhau. Ngược lại, với tư
cách là giá trị thì các HH đồng nhất về chất, chúng đều là kết tinh của lao
động, đều là lao động được vật hóa. Thứ 2, tuy giá trị và GTSD cùng tồn tại
trong một HH nhưng quá trình thực hiện GTSD và giá trị khác nhau về thời
gian và không gian. Cụ thể là giá trị được thực hiện trước trong lĩnh vực lưu
thông, còn giá trị được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng. Nếu không
thực hiện được giá trị HH ( HH ko bán được) thì ko thực hiện được GTSD có
thể dẫn đến khủng hoảng sản xuất “thừa”
Liên hệ với sản xuất và trao đổi HH ở VN
Về sản xuất: HH đa dạng về GTSD và có giá trị cạnh tranh thì càng được ưa
chuộng. Vì vậy, trong sản xuất, cần tăng cường ứng dụng KH, công nghệ
mới, nâng cao tay nghề để giảm chi phí sản xuất HH; thường xuyên thay đổi
mẫu mã, nâng cao GTSD. Mặt khác, cần tăng cường hoạt động thăm dò, dự
báo nhu cầu thị trường, nhằm sản xuất được những hàng hóa phù hợp với nhu
cầu của xã hội, quảng cáo, thông tin về hàng hóa đến người tiêu dùng một
cách trung thực, hiệu quả.
Trong trao đổi HH: Việc kết nối hiệu quả giữa nhà sx - nhà phân phối - người
tiêu dùng sẽ quyết định đến quá trình tiêu thụ HH, tránh tình trạng “thừa”,
“thiếu” HH. Việc tiêu thụ HH cần chú trọng đến cả nhu cầu thị trường trong
nước và quốc tế. Vì vậy, cần gia tăng hoạt động của các hiệp hội ngành nghề,
kết nối người sản xuất với người tiêu dùng, thiết lập mạng lưới phân phối hiệu
quả, tận dụng tiến bộ KH để nâng cao hiệu quả bán hàng, rút ngắn chi ph.
3. Thị trường và nền kinh tế thị trường. Vai trò của một số chủ thể tham
gia thị trường.
Thị trường là tổng hòa những quan hệ kinh tế trong đó nhu cầu của các chủ
thể được đáp ứng thông qua việc trao đổi, mua bán với sự xác định giá cả và
số lượng hàng hóa, dịch vụ tương ứng với trình độ phát triển nhất định của
nền sản xuất xã hội.
Cơ chế thị trường là hệ thống các quan hệ mang tính tự điều chỉnh tuân theo
yêu cầu của các quy luật kinh tế.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường.
Đó là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao
đổi đều được thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật
thị trường.
Có rất nhiều chủ thể khác nhau tham gia thị trường, mỗi chủ thể có những vai
tròquan trọng riêng. Có 4 chủ thể chính sau: người sản xuất, người tiêu dùng,
chủ thể trung gian, Nhà nước.
Người sản xuất hàng hóa là những người sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch
vụ ra thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
Người tiêu dùng là những người mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trường để
thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng. Có vai trò rất quan trọng trong định hướng sản
xuất.
Các chủ thể trung gian trong thị trường là những cá nhân, tổ chức đảm nhiệm
vai trò cầu nối giữa các chủ thể sản xuất, tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trên thị
trường. Nhờ vai trò của các trung gian này mà nền kinh tế thị trường trở nên
linh hoạt hơn.
Trong nền kinh tế thị trường, xét về vai trò kinh tế thì Nhà nước thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về kinh tế đồng thời thực hiện những biện pháp
để khắc phục những khuyết tật của thị trường. vai trò chủ yếu của Nhà nước
là kiến tạo môi trường vĩ mô của nền kinh tế.
4. Lý luận của C.Mác về giá trị thặng dư.
Bản chất của “Tư bản”: Tư bản là một quan hệ sản xuất xã hội giữa
người với người mà trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt GTTD mà người
công nhân làm ra. Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc
lột không công của người công nhân làm thuê.
+TB bất biến: (không biến đổi) (là c) tư liệu sản xuất, giá trị được bảo toàn
chuyển vào sản phẩm. Không biến đổi về lượng.
+TB khả biến: (có thể biến đổi) (là v) sức lao động, thông qua lđ trừu
tượng của người công nhân tăng lên. Có biến đổi về lượng.
*Tư bản bất biến tư bản hả biến
Để tiến hành sản xuất tư bản nào cũng phải ứng ra một só lượng tư bản
nhất định để mua tư liệu sản xuất và sưc lao động, tức là biến thân tư bản tiền
tệ thành các yếu tố của quá trình sản xuất, thành các hình thức tồn tại khác
nhau của tư bản sản xuất.
- Tư bản bất biến là bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất, mà giá
trị của nó được bảo toàn và chuyển vào sản phẩm, tức là không thay đổi về
lượng giá trị của nó, được C.Mác gọi tư bản bất biến ( kí hiệu là c).
Đặc điểm : Giá trị của tư bản bất biến được lao động cụ thể của người
công nhân bảo toàn trong sản phẩm mới.
- Tư bản khả biến : ộ phận tư bản biết thành sưc lao động không tái hiện
ra nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên,
tức là biến đổi về lượng giá trị của nó, được C,Mác gọi là tư bản khả biến (kí
hiệu là v).
Đặc điểm : giá trị của tư bản bất biến được lao động cụ thể của người công
nhân bảo toàn trong sản phẩm mới, luôn tạo ra giá trị mứi lớn hơn giá trị bản
thân, chính vì nó tạo ra giá trị thặng dư.
Như vậy tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu được để sản
xuất ra giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến có vai trò quyết định trong quá
trình đó, vì nó chính là bộ phận tư bản đã lớn lên sau quá trinh sản xuất
*Tư bản cố định tư bản ưu động
Tư bản cố định là bộ phận tư bản tồn tại dưới dạng máy móc thiết
bị nhà xưởng vv.. về hiện vật, tư bản cố định luôn luôn bị cố định trong quá
trình sản xuất, chỉ có giá trị của tư bản cố định mới tham gia toàn bộ vào quá
trình sản xuất và lưu thông cùng sản phẩm, nhưng giá trị của nó bị khấu hao
từng phần và được chuyển dần vào sản phẩm mới được sản xuất ra.
Đặc điểm : tư bản cố định được sử dụng trong nhiều năm và luôn chịu
tai họa hao mòn đó là hao mòm hữu hình và hao mòn vô hình.
- Hao mòn hữu hình là hao mòn do sử dụng hoặc do bị phá hủy của tự
nhiên làm cho các bộ phận của tư bản cố định hao mòn dần đi tới chỗ hỏng
cần phải thay thế
- Hao mòn vô hình là hao mòn do ảnh hưởng của sự tiến bộ khoa học và
công nghệ . Hao mòn vô hình xảy ra trước khi máy móic vẫn còn mới , còn
tốt nhưng bị mất giá vì sự xuất
Đặc điểm : Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Nếu
tư bản cố định muốn chi chuyển hết giá trị của nó phảu mất nhiều năm , thì
trái lại tư bản lưu động trong một năm giá trị của nó có thể nhiều lần hay
nhiều vòng
*M c đích ngh a của việc phân chia tư bản thành c c cặp ph tr trên
Trong đời sống hiện thực người ta thấy xí nghiệp nào được sử dụng
máy móc và công nghệ hiện đại thì năng suất lao động cao hơn và nhờ đó thu
được lợi nhuận cao hơn. Điều đó gây ra một cảm tưởng sai lầm là máy móc
cao cũng tạo ra giá trị thặng dư. Khi phân tích nguồn gốc giá trị thặng dư do
đâu sinh ra C.Mác đã đưa ra pham trì tư bản bất biến và tưi bản khả biến
nhằm mục đích vạch trần bản chất bóc lột của giai cấp tư sản đối với giai cấp
công nhân làm thuê.
Nghiên cứu phạm trù tư bản khả biến của C.Mác giúp ta hiểu rằng máy
móc dù hiện đại thế nào cũng chỉ là lao động quá khứ, nó phải được lao động
sống “ cải tử hoàn sinh “ để biến thành nhân tố quá trình lao động.
Việc nhân chia tư bản thành cố định và tư bản lưu động được đưa dựa
trên phương thức dịch chuyển giá trị của tư bản vào sản phẩm để xem xét tốc
độ chu chuyển của tư bản sử dụng vốn cố định và vốn lưu động có hiệu quả.
ởi vậy việc phân chia tư bản thành cố định và tư bản lưu động tuy
không vạch trần bản chất bóc lột cửa giai cấp tư sản đối với giai cấp công
nhân làm thuê nhưng lại là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để các nhà tư
bản , các nhà đầu tư hoạch định chiến lược sản xuất kinh doanh để thu lợi
nhuận cao nhất.

*Tu n hoàn và chu chu n của tư bản


a. Tuần hoàn của TB
Tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục của tư bản trải qua ba giai
đoạn, lần lượt mang 3 hình thái khác nhau, thực hiện 3 chức năng khác nhau
để rồi lại qua trở về hình thái ban đầu có kèm theo giá trị thặng dư (hai giai
đoạn lưu thông và một giai đoạn sản xuất).
3 giai đoạn
+ Giai đoạn 1 - giai đoạn lưu thông: T - H (tư bản tiền tệ)
Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường các yếu tố sản xuất để mua tư liệu sản
xuất và sức lao động, biến tư bản tiền tệ thành tư bản SX
+Giai đoạn 2 - giai đoạn sản xuất: H - H’ (tư bản sx)
T SX có chức năng thực hiện sự kết hợp hai yếu tố tư liệu sản xuất và
sức lao động để sản xuất ra hàng hóa mà trong giá trị của nó có giá trị thặng
dư. Giai đoạn sản xuất có ý nghĩa quyết định nhất, vì nó gắn trực tiếp với mục
đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Kết thúc của giai đoạn thứ hai là tư bản sản xuất chuyển hóa thành tư bản
hàng hóa.
+ Giai đoạn 3 - giai đoạn lưu thông: H' - T' (tư bản HH)
T HH có chức năng thực hiện giá trị của khối lượng hàng hóa đã sản xuất
ra trong đó đã bao hàm một lượng giá trị thặng dư. Trong giai đoạn này, nhà
tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán hàng. Hàng hóa của nhà tư
bản được chuyển hóa thành tiền.
Kết thúc giai đoạn thứ 3, TB HH chuyển hóa thành T Tiền tệ. Đến đây,
mục đích của nhà tư bản đã được thực hiện, tư bản quay trở lại hình thái ban
đầu trong tay chủ của nó nhưng với số lượng lớn hơn trước.
=> Sự vận động của tư bản qua ba giai đoạn nói trên là sự vận động có tinh
tuần hoàn: tư bản ứng ra dưới hình thái tiền và rồi đến khi quay trở về cũng
dưới hình thái tiền có kèm theo giá trị thặng dư. Quá trình đó tiếp tục được
lặp đi, lặp lại không ngừng gọi là sự vận động tuần hoàn của tư bản.

KL chung: Tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục của tư bản trải
qua ba giai đoạn, lần lượt mang ba hình thái khác nhau, thực hiện ba chức
năng khác nhau để rồi lại quay trở về hình thái ban đầu có kèm theo giá trị
thặng dư.

b. Chu chuyển của tư bản


Sự tuần hòan của tư bản, nếu xét nó với tư cách là một quá trình định kỳ
đổi mới và thường xuyên lặp đi lặp lại thì gọi là chu chuyển của tư bản.
Thời gian chu chuyển của TB bao gồm thời gian và thời gian lưu thông:
- Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm ở trong lĩnh vực sản xuất. Bao
gồm: thời gian lao động, thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản
xuất. Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn là do tác động của nhiều
nhân tố như: tính chất của ngành sản xuất; quy mô hoặc chất lượng ; sự tác
động của quá trình tự nhiên đối với sản xuất; năng suất lao động và tình trạng
dự trữ các yếu tố sản xuất.
- Thời gian lưu thông là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông.
Trong thời gian lưu thông, tư bản không làm chức năng sản xuất, do đó không
sản xuất ra hàng hóa, cũng không sản xuất ra giá trị thặng dư.
Thời gian lưu thông gồm có thời gian mua và thời gian bán hàng hóa.
Thời gian lưu thông dài hay ngắn phụ thuộc các nhân tố sau đây: thị
trường xa hay gần, tình hình thị trường xấu hay tốt, trình độ phát triển của vận
tải và giao thông.
Tốc độ chu chuyển của tư bản là số vòng (lần) chu chuyển của tư bản
trong một năm. Ta có công thức số vòng chu chuyển của tư bản như sau:
n = CH/ch
Trong đó: (n) lả số vòng (hay lần) chu chuyển của tư bản; (CH) là thời
gian trong năm; (ch) là thời gian cho 1 vòng chu chuyển của tư bản.
Ví dụ: Một tư bản có thời gian 1 vòng chu chuyển là 6 tháng thì tốc độ chu
chuyển trong năm là:
n = 12 tháng / 6 tháng = 2 vòng
iên pháp thúc đẩy tuần hoàn, tăng tốc chu chuyển Tuần hoàn:
+ Thời gian sản xuất: ứng dụng CN mới, hợp lý hòa quy trình sản xuất, sử
dụng lao động tay nghề cao
+ Thời gian lưu thông: xử lý tốt vấn đề thị trường yếu tố đầu vào, ra; phân
phối HH hiệu quả; thông tin liên lạc, vân chuyển.
c. Tư bản cố định và tư bản ưu động
Các bộ phận khác nhau của tư bản sản xuất không chu chuyển giống nhau.
Căn cứ vào phương thức chu chuyển khác nhau của từng bộ phận tư bản,
người ta chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
- Tư bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy móc,
thiết bị, nhà xưởng, v.v. về hiện vật tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất,
nhưng giá trị của nó bị khấu hao từng phần và được chuyển dần vào sản phẩm
mới được sản xuất ra.
Tư bản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất và nó bị
hao mòn dần trong quá trình sản xuất. Có hai lại hao mòn là hao mòn hữu
hình và hao mòn vô hình:
+ Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất, hao mòn về cơ học có thể
nhận thấy. Hao mòn hữu hình do quá trình sử dụng và sự tác động của tự
nhiên làm cho các bộ phận của tư bản cố định dần dần hao mòn đi tới chỗ
hỏng và phải được thay thế.
+ Hao mòn vô hình là sự hao mòn thuần túy về mặt giá trị. Hao mòn vô
hình xảy ra ngay cả khi máy móc còn tốt nhưng bị mất giá vì xuất hiện các
máy móc hiện đại hơn, rẻ hơn hoặc có giá trị tương đương nhưng công suất
cao hơn. Để tránh hao mòn vô hình, các nhà tư bản tìm cách kéo dài ngày lao
động, tăng cường độ lao động, tăng ca kíp làm việc, v.v. nhằm tận dụng công
suất của máy móc trong thời gian càng ngắn càng tốt.
- Tư bản lưu động là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên
liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ, sức lao động, V.V., giá trị của nó lưu thông toàn
bộ cùng với sản phẩm và được hoàn lại toàn bộ cho các nhà tư bản sau mỗi
quá trình sản xuất.

*Tư bản thương nghiệp và ợi nhuận thương nghiệp


Tư bản thương nghiệp là một bô phận của tư bản công nghiệp được tách ra
và phục vụ quá trình lưu thông hàng hóa của tư bản công nghiệp (không bao
giờ mang hình thái T SX).
Công thức: T - H – T’
- Nguồn gốc: phái sinh từ T thương nghiệp.
- Lợi nhuận thương nghiệp là một phần của giá trị thặng dư được sáng tạo
ra trong lĩnh vực sản xuất và do nhà tư bản công nghiệp nhượng lại cho nhà tư
bản thương nghiệp, để nhà tư bản thương nghiệp thực hiện chức năng lưu
thông.
Trên thực tế, các nhà tư bản thương nghiệp thu lợi nhuận thương nghiệp từ
chênh lệch giữa giá mua và giá bán. T thương nghiệp mua hàng của TB CN
với giá thấp hơn giá trị, sau đó, T thương nghiệp lại bán hàng cho người tiêu
dung với giá đúng giá trị của nó.
- Nguồn gốc:

Hai phương pháp sản xuất GTTD và GTTD siêu ngạch


* Tuyệt đối => Kéo dài TG ngày lđ, giữ nguyên TG lđ tất yếu (tăng cường
độ lđ) >< giới hạn sức khỏe của người lao động, giới hạn thời gian tự nhiên
=> đấu tranh CN(gđ tích lũy nguyên thủy TB).
* Tương đối => Rút ngắn TG lđ tất yếu, giữ nguyên độ dài ngày lđ (tăng
NS lđ) => áp dụng KHKT vào sản xuất => giai đoạn phát triển của CNTB

Tương đối Siêu ngạch


Tăng năng suất lđ xã hội Tăng năng suất lđ cá biệt
Toàn bộ các nhà T thu Từng nhà T thu
Biểu hiện mối quan hệ các nhà Biểu hiện mqh các nhà T , giữa T vs người
TB công ngân

Hai phương ph p sản uất gi trị thặng dư và gi trị thặng dư siêu ng ch.
Phương pháp sản xuất GTTD tuyệt đối
Sản xuất GTTD tuyệt đối là phương pháp sản xuất ra GTTD được thực
hiện trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong điều kiện
thời gian lao động tất yếu không đổi và GTTD được sản xuất ra bằng phương
pháp này được gọi là GTTD tuyệt đối
- Các nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động, nhưng ngày lao
động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do thể
chất và tinh thần của người lao động quyết định. Vì công nhân phải có thời
gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Việc kéo dài ngày lao
động còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân. Còn giới hạn dưới
của ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian
lao động thặng dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải
dài hơn thời gian lao động tất yếu, nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể
chất và tinh thần của người lao động.
Phương pháp sản xuất GTTD tương đối
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất ra giá trị
thặng dư được thực hiện bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu lại để
kéo dài một cách tương ứng thời gian lao động thặng dư trên cơ sở tăng năng
suất lao động xã hội trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. Giá trị
thặng dư được sản xuất ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư
tương đối.
- Thời gian lao động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn
rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ
thấp giá trị sức lao động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm
vi tiêu dùng của công nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tăng
năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc
phạm vi tiêu dùng của công nhân và tăng năng suất lao động trong các ngành
sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó, tức là
tăng năng suất lao động xã hội.
- Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng
dư tuyệt đối là phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật
phát triển, sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Hai
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng
kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá
trình phát triển của chủ nghĩa tư bản.
GTTD siêu ngạch
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng
năng suất lao động cá biệt, làm cho giá trị củ biệt của hàng hóa thấp hơn giá
trị thị trường của nó.
- Xét từng trường hợp thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm
thời, nhanh chóng xuất hiện rồi cũng lại nhanh chóng mất đi. Nhưng xét toàn
bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường
xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là
động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản
xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên
nhanh chóng. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tứơng của
giá trị thặng dư tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư
tương đối dều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động (mặc dù một bên là dựa
vào tăng năng suất lao động cá biệt, còn một bên dựa vào tăng năng suất lao
dộng xã hội).

Liên hệ thực tiễn Việt Nam


- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư
siêu ngạch có thể vận dụng trong các doanh nghiệp nước ta nhằm kích thích
sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, sử dụng kỹ thuật mới, cải tiến tổ
chức quản lý, tiết kiệm chi phí sản xuất. Đối với quá trình phát triển nền kinh
tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu sản xuất giá trị thặng dư gợi mở cho
các nhà hoạch định chính sách phương thức làm tăng của cải, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, cần tận dụng triệt để các nguồn lực, nhất là lao động và sản
xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài, cần phải coi trọng việc tăng năng suất lao
động xã hội, coi đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc
dân là giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối được
vận dụng và công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa của nước ta hiện nay.
Giá trị thặng dư là do lao động không công của công nhân lao động làm thuê
tạo ra, là mục đích, kết quả hoạt động của tư bản,của giai cấp tư sản. Trong xã
hội chủ nghĩa, việc bóc lột sức lao động không công của con người công nhân
không còn nữa, nhưng không có nghĩa là giá trị thặng dư không còn tồn tại
mà giá trị thặng dư được sử dụng vào mục đích khác không giống như giai
cấp tư sản, đó là giá trị thặng dư thu được là cơ sở, tiền đề để xây đất nước,
xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, vì mục đích phát triển xã hội
chủ nghĩa. Vì con người không tách ra khỏi xu hướng của xã hội, Việt Nam
vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư vào công cuộc dây dựng
đất nước, trong đó tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa là một nhiệm vụ
hàng đầu, đây cũng là một quy luật đặc biệt của quá trình sản xuất phát triển
kinh tế mỗi quốc gia.
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta là quá trình chuyển đổi căn
bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế
xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là sử dụng một cách phổ biến công
nghệ,phương tiện tiêu biểu,hiện đại hóa là quá trình tạo ra những tiền đề về
vật chất, kỹ thuật, về con người, công nghệ, phương tiện, phương pháp,
những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất cho chủ nghĩa xã hội. Nội dung
cốt lõi của công nghiệp hóa – hiện đại hóa là cải tiến lao động thủ công lạc
hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến hiện đại đạt tới năng suất lao
động xã hội cao, tạo thành sự đổi mới trong tất cả các ngành nghề lĩnh vực.
Là một nước tiến lên xã hội chủ nghĩa và không qua giai đoạn thống trị
của giai cấp tư sản. Vì vậy, chúng ta không được thừa kế tất cả những tiền đề
nảy sinh một cách tự phát như những sáng tạo của người đi trước cho dù
chúng chỉ là nhân tố vô cớ. Điểm xuất phát để nhận thức tầm quan trọng của
học thuyết giá trị thặng dư chính là luận điểm sản phẩm của lao động thừa
vượt qua những chi phí để duy trì lao động và việc xây dựng, tích lũy quỹ sản
xuất xã hội và dự trữ “ tất cả những cái đó đã đang và sẽ mãi mãi vẫn là cơ sở
cho mọi sự tiến bộ về xã hội, về chính trị và về tinh thần. Nó sẽ là điều kiện
và động cơ kích thích sự tiến bộ hơn nữa”. Chúng ta lựa chọn con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát là nước tiểu nông cũng có nghĩa từ một
nước chưa có nền kinh tế hàng hóa mặc dù có sản xuất hàng hóa. Cái thiếu
của đất nước ta là chưa chải qua sự ngự trị của cách tổ chức của kinh tế xã hội
theo kiểu tư bản chủ nghĩa.
Đất nước ta đang đứng trước một nhiệm vụ cháy bỏng và tạo ra tiền đề
thực tiễn tuyệt đối cần thiết, đó là sự phát triển của sức sản xuất, phát triển
kinh tế hàng hóa sẽ tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư dù chúng biểu hiện
những quan hệ xã hội khác nhau. Chúng ta không thể đạt được những mục
tiêu kinh tế ấy ngay trong thời gian ngắn mà phải rút ngắn những quá trình tất
yếu mà chủ nghĩa tư bản đã phải trải qua và đang thực hiện để có một nền
kinh tế thị trường như ngày nay. Đó là một quá trình phát triển trải qua nhiều
giai đoạn phân công lao động, khi khoa học công nghệ phát triển sản xuất và
chiếm đoạt giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản đã diễn ra một cách tự phát
và tuần tự.
Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay cần có phương hướng khai thác
và vận dụng những tư tưởng và các nguyên lý của học thuyết giá trị thặng dư
một cách hiệu quả để đạt được những thành tựu mới đưa nền kinh tế đất nước
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần phải nhận thức lại hàng hóa
sức lao động không phải là phạm trù riêng có của chủ nghĩa tư bản và phạm
trù giá trị thặng dư xét về mặt định lượng cũng vậy. Nó tồn tại như một bước
tiến của các xã hội mà ở đó năng suất lao động vượt khỏi lao động tất yếu của
họ. Nó là nguồn gốc của tích lũy để mở rộng và hiện đại hóa sản xuất kinh
doanh, là nguồn gốc của sự giàu có văn minh. Chính nó đòi hỏi xã hội cần
phải:
• Tìm mọi cách để tăng thời gian lao động thặng dư và nhất là tăng
năng suất của lao động thặng dư.
- Tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản của vốn khi đầu tư, và sử dụng nó. Đó
là nguyên tắc bảo tồn vốn và nguyên tắc sinh lợi, nhất là nguyên tắc sinh lợi,
để cho một đồng vốn đầu tư sử dụng được tăng thêm giá trị.
- Xây dựng đồng bộ các loại thị trường, kể cả thị trường sức lao động.
- Vấn đề thu hồi giá trị thặng dư và định hướng xã hội chủ nghĩa trong
điều kiện cho phép bóc lột giá trị thặng dư đã được Lê Nin trình bày lý luận
và kinh nghiệm chỉ đạo thực tiễn vấn đề đặt cho chúng ta là :
+ Điều tiết một cách đúng đắn, đầy đủ, không để thất phần giá trị thặng
dư vào ngân sách nhà nước.
+ Nhà nước sử dụng giá trị thặng dư được điều tiết sao cho có lợi đối
với việc thực hiện mục tiêu “ Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ
văn minh”.
+ Nhà nước phải đủ mạnh về thực lực kinh tế, năng lực quản lý và uy
tín đối với xã hội.
+ Ngăn chặn được những ma lực hút sự vận động của nền kinh tế đi
lệch khỏi quỹ đạo xã hội chủ nghĩa. Kết quả phát triển khả quan của Việt
Nam cho thấy trong những năm vừa qua nước ta đã xác định đúng mục tiêu
và nhiệm vụ của mình. Chúng ta đã đi đúng hướng trong phát triển kinh tế,
con đường phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước là hoàn toàn phù hợp nhưng cũng phải khẳng định rằng Việt Nam cần
phải cố gắng nhiều hơn nữa thì mới có thể đạt được mục tiêu.
5. Lợi nhuận: chi phí sản suất; Lợi nhuận; Tỉ suất lợi nhuận; Các nhân
tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận; Lợi nhuận bình quân.
Để làm rõ bản chất của lợi nhuận, trước hết C.Mác phân tích làm rõ chi phí
sản xuất.
*Chi phí sản xuất là phần giá trị của hàng hóa, bù lại giá cả của những tư
liệu sản xuất đã tiêu dùng và giá cả của sức lao động đã được sử dụng để sản
xuất ra hàng hóa ấy. Đó là chi phí mà nhà tư bản đã bỏ ra để sản xuất ra hàng
hóa.
Chi phí sản xuất được kí hiệu là k, về mặt lượng: k = c + v
Khi xuất hiện phạm trù chi phí sản xuất thì giá trị hàng hóa:
G = c + (v + m) sẽ biểu hiện thành G = k + m
Chi phí sản xuất có vai trò rất quan trọng, nó bù đắp cho tư bản về giá trị
và hiện vật, bên cạnh đó đảm bảo điều kiện cho tái sản xuất trong kinh tế thị
trường. Chi phí sản xuất còn tạo cơ sở cho cạnh tranh, là căn cứ quan trọng
cho cạnh tranh về giá cả bán hàng giữa các nhà tư bản.
Trong thực tế của sản xuất kinh doanh, giữa giá trị hàng hóa và chi phí
sản xuất có một sự chênh lệch, do đó sau khi bán hàng hóa với quy luật ngang
giá thì nhà tư bản không những bù đắp được số chi phí đã ứng ra để sản xuất
mà còn thu được số chênh lệch này bằng giá trị thặng dư. Số chênh lệch này
được C.Mác gọi là lợi nhuận.
Theo quan điểm của P.Samuelson thì lợi nhuận là phần thu nhập thặng dư
tính bằng hiệu quả giữa giá trị tổng doạn thu trừ đi tổng chi phí. Đặc biệt, lợi
nhuận là phần thường cho việc gánh chịu rủi ro và sự đổi mới.
Kí hiệu lợi nhuận là p.
Và khi đó, giá trị hàng hóa sẽ là : G = k + p
Suy ra : p = G – k
Trên thực tế, người ta chỉ quan tâm đến khoản chênh lệch giữa giá trị
hàng hóa bán được và chi phí sản xuất ra. Ta phát hiện nguồn gốc sâu xa của
khoản chênh lệch là giá trị thặng dư chuyển hóa thành, hay nói cách khác, lợi
nhuận là hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư trên bề mặt nền kinh tế thị
trường.
C.Mác đã khái quát : giá trị thặng dư được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư
bản ứng trước, mang hình thái chuyển hóa là lợi nhuận.
Để có lợi nhuận thì nhà tư bản cá biệt chỉ cần bán hàng hóa với giá cả cao
hơn chi phí sản xuất, nếu bán hàng hóa đúng bằng chi phí sản xuất thì sẽ
không có lợi nhuận. Đặc biệt, nếu giá hàng hóa bán ra thấp hơn giá trị và cao
hơn chi phí sản xuất thì cũng có thể đã có được lợi nhuận, và lợi nhuận nhỏ
hơn giá trị thặng dư.
Như vậy, lợi nhuận chính là mục tiêu, động cơ và là động lực của sản xuất
và kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Lợi nhuận còn bao gồm hai mặt
tác động, thứ nhất là mặt tích cực, lợi nhuận sẽ làm cho….. tiêu cực : các chủ
thể cạnh tranh với nhau, bán phá giá làm ảnh hưởng đến nền kinh tế/ bỏ qua
chất lượng sản phẩm để thu được lợi nhuận cao,….
*Tỷ suất lợi nhuận và c c nhân tố ảnh hưởng đến tỉ suất lợi nhuận:
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận và toàn bộ giá trị
của tư bản ứng trước (ký hiệu là p’).
Công thức tính tỷ suất lợi nhuận : p = x100%
Tỷ suất lợi nhuận thường được tính hàng năm, do đó hình thành nên khái
niệm tỷ suất lợi nhuận hàng năm. Tỷ suất lợi nhuận phản ánh đầy đủ hơn mức
độ hiệu quả kinh doanh so với lợi nhuận bởi nó thể hiện rất rõ ràng hiệu quả
kinh tế. Từ đó, tỷ suất lợi nhuận đã trở thành động cơ quan trọng nhất trong
hoạt động cạnh tranh của tư bản chủ nghĩa với tư cách là số đo tương đối của
lợi nhuận.
Qua đây ta thấy lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận chính là những phạm trù thể
hiện lợi ích kinh tế của các nhà tư bản trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa, do vậy các nhà tư bản muốn làm giàu và làm giàu nhanh thì cần tìm ra
cách thức để có được tỷ suất lợi nhuận cao nhanh nhất.
*C c nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận:
Thứ nhất là tỷ suất giá trị thặng dư. Sự tăng lên của tỷ suất giá trị thặng dư sẽ
có tác động trực tiếp làm tăng tỷ suất lợi nhuận.
Thứ hai là cấu tạo hữu cơ tư bản. Cấu tạo hữu cơ là c/v có tác động đến chi
phí sản xuất, do đó sẽ tác động đến lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận.
Thứ ba là tốc độ chu chuyển tư bản. Khi tốc độ chu chuyển của tư bản càng
lớn thì tỷ lệ giá trị thặng dư hàng năm càng tăng lên, kéo theo đó là tỷ suất lợi
nhuận tăng.
Thứ tư là tiết kiệm tư bản bất biến. Trong điều kiện tư bản khả biến không đổi
và giá trị thặng dư giữ nguyên thì tiết kiệm tư bản bất biến làm tăng tỷ suất lợi
nhuận.
*Lợi nhuận bình quân
Lợi nhuận bình quân hình thành khi xảy ra sự cạnh tranh giữa các ngành.
Các ngành sản xuất kinh doanh khác nhau với những điều kiện tự nhiên, kinh
tế, kỹ thuật và tổ chức quản lý khác nhau thì tỷ suất lợi nhuận giữa các ngành
cũng khác nhau.
Lợi nhuận bình quân kí hiệu là ̅ và được tính theo tỷ suất lợi nhuận bình
quân (là con số trung bình của các tỷ suất lợi nhuận, ký hiệu là ̅ ).
Tỷ suất lợi nhuận bình quân được tính bằng số bình quân gia quyền của các tỷ
suất lợi nhuận như sau:

̅

Như vậy, lợi nhuận bình quân là số lợi nhuận bằng nhau của tư bản như nhau
đầu tư vào các ngành khác nhau (ký hiệu là ̅)
Và nếu ký hiệu giá trị tư bản ứng trước là K thì lợi nhuận bình quân được tính
như sau : ̅ ̅
Nếu lợi nhuận chuyển hóa thành lợi nhuận bình quân thì giá trị của hàng hóa
chuyển hóa thành giá cả sản xuất và được tính như sau : GCSX = k + ̅
Tóm lại, những điều kiện hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận
bình quân bao gồm tư bản tự do di chuyển và sức lao động tự do di chuyển.
Và trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận bình quân chính là
căn cứ để các doanh nghiệp lựa chọn ngành nghề và các phương án kinh
doanh sao cho hiệu quả nhất.
6. Lý luận của V.I.Lênin về các đặc điểm kinh tế của độc quyền và độc
quyền nhà nước trong nền kinh tế thị trường TBCN.
Các đặc điểm kinh tế của độc quyền:
a. Tập trung sản xuất và sự hình thành c c tổ chức độc quyền
Nguyên nhân hình thành các tổ chức độc quyền là do sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật, làm xuất hiện nhiều ngành kinh tế mới. ên cạnh đó là do
cạnh tranh giữa các chủ thể trong thị trường, cạnh tranh có hai khuynh hướng:
một là cạnh tranh gay gắt hơn, phức tạp hơn thường dẫn đến khuynh hướng
thoả hiệp, liên minh với nhau của các nhà tư bản; hai là, các tư bản nhỏ muốn
cạnh tranh với các tư bản lớn thường dễ liên minh, thoả hiệp với nhau để nắm
độc quyền.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền là sự liên minh, cấu kết giữa các nhà tư
bản lớn để tập trung vào trong tay một phần lớn (thậm trí toàn bộ) sản xuất và
tiêu thụ của một ngành, nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.
Bản chất tổ chức độc quyền là sự liên minh các nhà tư bản dưới nhiều
hình thức khác nhau, các tổ chức độc quyền nắm giữ phần lớn việc sản xuất
kinh doanh một hoặc một số ngành hàng và có khả năng thao túng thị trường
đầu vào và đầu ra, để thu lợi nhuận độc quyền cao.
Các hình thức tổ chức độc quyền:
Cácten (cartel), là hình thức tổ chức độc quyền đầu tiên và ở trình độ thấp.
Cáctel là sự liên minh giữa các tư bản trong lĩnh vực bán hàng hoá dựa trên
thoả thuận, quy định: giá cả, khối lượng hàng hoá, thị trường tiêu thụ. Các
nhà tư bản tham gia cácten vẫn độc lập về sản xuất và thương nghiệp. Và đây
là liên minh độc quyền không vững chắc.
Xanđica (cyndicate), là hình thức tổ chức độc quyền liên minh trong lĩnh vực
lưu thông, cao hơn, ổn định hơn Cáctel. Các nhà tư bản độc lập ở khâu sản
xuất nhưng mất độc lập ở khâu lưu thông. Điều hành Xanđica là an Quản trị
với mục đích là mua rẻ bán đắt, thu lợi nhuận độc quyền cao.
Tơ-rớt (trust), là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn Cáctel và Xanđica. Tơ-
rớt thống nhất cả sản xuất và lưu thông vào một ban quản trị chung, còn các
thành viên là cổ đông, thu lợi nhuận theo cổ phần. Tơ-rớt đánh dấu bước
ngoặt trong sự vận động của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Conxoocxiom, là hình thức tổ chức độc quyền cao nhất, bao gồm cả Cáctel,
Xanhdica và Tơ rớt, tồn tại dưới dạng hiệp định ký kết giữa công nghiệp và
ngân hàng cùng nhau chi phối các nghiệp vụ tài chính. Đứng đầu các
Conxoocxiom thường là một ngân hàng độc quyền lớn, liên kết hàng trăm xí
nghiệp.
Biểu hiện mới của CNT ĐQ: Từ giữa thế kỷ 20, bên cạnh các mối liên
kết dọc và liên kết ngang còn phát triển các liên kết mới - liên kết đa ngành,
đa lĩnh vực thành những conglômêrat hay conxơn khổng lồ.
Về hình thức: Conxơn (concern) là tổ chức độc quyền đa ngành (liên
kết dọc, các ngành hàng có liên hệ với nhau về kỹ thuật và chuỗi giá trị) có
hàng trăm xí nghiệp, kinh doanh đa ngành và có nhiều chi nhánh trên thế giới.
Conglomerate là tổ chức độc quyền kết hợp với các hãng vừa và nhỏ có thể
không liên quan đến sản xuất hoặc dịch vụ (liên kết ngang, các ngành hàng
không có liên hệ với nhau). Lợi nhuận thu được từ hoạt động chứng khoán.
Về cơ chế thao túng: Xuất hiện trở lại hệ thống doanh nghiệp nhỏ, là
nhà cung cấp, gia công, đại lý cho các tổ chức độc quyền. Quá trình tích tụ và
tập trung sản xuất trên quy mô lớn diễn ra đồng thời với quá trình phi tập
trung sản xuất, ngày càng xuất hiện nhiều các tổ chức độc quyền vừa và nhỏ.
b. Tư bản tài chính và bọn đ u sỏ tài chính
Tư bản tài chính là sự thâm nhập và dung hợp vào nhau giữa T độc
quyển trong ngân hàng và độc quyền trong công nghiệp. Cùng với sự hình
thành độc quyền trong công nghiệp thì trong ngân hàng cũng hình thành các
tổ chức độc quyền. Quá trình độc quyền hóa trong công nghiệp và trong ngân
hàng xoắn xuýt với nhau và thúc đẩy lẫn nhau làm nảy sinh một thứ tư bản
mới, gọi là tư bản tài chính. Sử dụng nguồn tư bản to lớn của mình, các chủ
ngân hàng gây áp lực đối với các ngành sản xuất. Từ đó, đại diện của ngân
hàng thường tham gia các ban quản trị, có khi nắm chức vụ giám đốc của xí
nghiệp, hội buôn, công ty vận tải bảo hiểm.
Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc
quyền chi phối toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn xã hội tư bản gọi
là bọn đầu sỏ tài chính. Sự xuất hiện của tư bản tài chính làm tách rời cao độ
tư bản sở hữu và tư bản chức năng. Là cơ sở cho ra đời các sản phẩm chứng
khoán và mở rộng thị trường tiền.
Cơ chế thống trị của tư bản tài chính:
+ Cơ chế tham dự: Nhà tư bản tài chính tham dự vốn, đầu tư nắm giữ tỷ lệ cổ
phần chi phối trong nhiều tổ chức độc quyền (không nhất thiết nắm giữ đa số
cổ phần). Từ đó chi phối luôn hệ thống các công ty con của mỗi tổ chức độc
quyền này. Nhờ vậy, tư bản tài chính đã bành trướng ảnh hưởng trong nhiều
lĩnh vực.
+ Cơ chế ủy thác: Để có vốn lớn đầu tư vào nhiều tổ chức độc quyền trong
“cơ chế tham dự”, tư bản tài chính lại có thể lập Quỹ đầu tư, nhận ủy thác vốn
từ nhiều nhà đầu tư khác. Do vậy, phạm vi ảnh hưởng của tư bản tài chính
càng được nhân rộng. Tư bản tài chính mở rộng sự thống trị bằng “chế độ uỷ
nhiệm”.
Biểu hiện mới của tư bản tài chính:
+ Về kinh tế: tư bản tài chính nắm giữ, chi phối nền kinh tế TBCN, thậm chí
chi phối nền kinh tế thế giới.
+ Về chính trị: tư bản tài chính chi phối đường lối đối nội và đối ngoại của
Nhà nước tư sản.
+ Sự hoạt động của tư bản tài chính trên thế giới tạo nên các trào lưu đầu cơ,
lũng đoạn và nguy cơ khủng hoảng tài chính tiền tệ tại nhiều quốc gia, nhất là
các nền kinh tế đang phát triển.
c. Xuất khẩu tư bản.
Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài nhằm mục đích
chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập k
Phân biệt xuất khẩu tư bản với xuất khẩu hàng hoá: theo V.I.Lênin,
xuất khẩu hàng hóa là đặc điểm của giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh
tranh, còn xuất khẩu tư bản là đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Xuất
khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngoài để thực hiện giá trị và giá trị
thặng dư. Còn xuất khẩu tư bản là mang tư bản đầu tư ở nước ngoài để sản
xuất giá trị thăng dư tại nước sở tại.
Xuất khẩu tư bản đã trở thành tất yếu bởi các nước tư bản phát triển đã
tích lũy được một số lượng tư bản lớn và nảy sinh ra tình trạng “thừa tư bản”
và cần tìm nơi đầu tư có thuận lợi hơn so với đầu tư trong nước. Trong khi đó
các nước lạc hậu về kinh tế có giá ruộng đất thấp, tiền lương thấp, nguyên liệu
rẻ nhưng lại thiếu tư bản nên hấp dẫn tư bản đầu tư, mang lại tỷ suất lợi nhuận
cao.
Hình thức xuất khẩu tư bản:
+ Xét theo cách thức đầu tư: Đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp
Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí
nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư,
biến nó thành một chi nhánh của công ty mẹ ở chính quốc. Các xí nghiệp mới
hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song phương hoặc đa phương,
nhưng cũng có những xí nghiệp toàn bộ vốn của công ty nước ngoài.
Đầu tư gián tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản dưới dạng cho vay thu
lãi. Đó là hình thức xuất khẩu tư bản cho vay.
+ Xét theo Chủ thể xuất khẩu: Xuất khẩu tư bản nhà nước nhằm các
mục tiêu kinh tế, chính trị, quân sự. Hoặc xuất khẩu tư bản tư nhân nhằm mục
đích lợi nhuận.
+ Xét về hình thức hoạt động: Chi nhánh của công ty xuyên quốc gia,
hoạt động tài chính, tín dụng của các ngân hàng, chuyển giao công nghệ.
Xuất khẩu tư bản có những biểu hiện mới như:
+ Hướng xuất khẩu tư bản có sự thay đổi cơ bản. Xuất hiện thêm dòng xuất
khẩu tư bản giữa các nước phát triển. Vì KHKT đã phát triển nhiều lĩnh vực
mới, mà tại nước nhỏ, chưa đủ điều kiện để tiếp nhận sản xuất. Hoặc để tránh
rào cản chính sách giữa hai Nhà nước, có thể nhà tư bản phải đầu tư vòng qua
nước thứ ba. Xuất khẩu tư bản trở thành một phương thức để nước lớn chi
phối nước nhỏ. an đầu là chi phối về kinh tế (do ưu thế về vốn, công nghệ,
thị trường …), tiếp đến là chi phối về chính trị XH.
+ Chủ thể xuất khẩu tư bản có thay đổi. Vai trò của các công ty xuyên quốc
gia ngày càng to lớn; và sự xuất hiện nhiều chủ thể xuất khẩu tư bản là các
nước đang phát triển như ở châu Á.
+ Hình thức xuất khẩu tư bản ngày càng đa dạng đan xen với xuất khẩu hàng
hoá.
+ Sự áp đặt mang tính thực dân trong xuất khẩu tư bản được bỏ dần thay vào
đó là nguyên tắc cùng có lợi được tôn trọng.
Xuất khẩu tư bản cũng có hai mặt tác động:
Thứ nhất là mặt tích cực: quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được mở rộng
trên địa bàn quốc tế, thúc đẩy nhanh quá trình Phân công lao động và xu thế
quốc tế hoá đời sống kinh tế ở nhiều nước. Các nước nhập khẩu đẩy nhanh
quá trình CNH, HĐH...
Tiếp đến là mặt hạn chế: Nền kinh tế các nước nhập khẩu bị lệ thuộc và mất
cân đối, nợ chồng chất do chính sách bóc lột nặng nề của các nước xuất khẩu.
d. Sự phân chia thị trường thế giới về mặt kinh tế
Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng lên
cả về quy mô và phạm vi tất yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt kinh tế
giữa các tập đoàn tư bản độc quyền và hình thành các tổ chức độc quyền quốc
tế.
Năm 1907, 2 công ty điện của Mỹ và Đức chia nhau thị trường. Công ty Đức
được nhận phần nước Mỹ và Canada, công ty Mỹ được nhận phần Đức, Áo,
Nga, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thổ Nhĩ Kỳ, bán đảo ancang. Đến năm
1914, đã có 114 cácten quốc tế, chia nhau thị trường tiêu thụ ở nhiều nước.
Biểu hiện mới trong giai đoạn hiện nay:
+ Xuất hiện thêm xu thế khu vực hóa (tức là các thỏa hiệp trong phạm vi một
khu vực các quốc gia) bên cạnh xu thế quốc tế hóa (tức là các thỏa hiệp phân
chia thị trường toàn cầu). V.I.Lênin nhận xét: “ ọn tư sản chia nhau thế giới,
không phải do tính độc ác đặc biệt của chúng, mà là do sự tập trung đã tới
mức độ buộc chúng phải đi vào con đường ấy để kiếm lời”.
+ Các tổ chức độc quyền tăng cường khai thác sự can thiệp của Nhà nước tư
sản để hỗ trợ việc mở rộng ảnh hưởng thao túng thị trường toàn thế giới. Sự
phân chia hình thành nên các tổ chức độc quyền quốc gia, các nhà nước tư
bản phát triển và đang phát triển. Hình thành các liên minh và các khối liên
kết kinh tế khu vực.
e. Sự phân chia thị trường thế giới về mặt ãnh thổ.
ên cạnh sự phân chia thị trường về mặt kinh tế, sự phân chia thị
trường thế giới về mặt lãnh thổ cũng diễn ra rất quyết liệu. Khi chủ nghĩa tư
bản phát triển càng cao thì sự thiếu thốn nguyên liệu càng rõ rệt, các tư bản
cạnh tranh gay gắn với nhau để tìm kiếm nguồn nguyên liệu, tất yếu dẫn đến
các cuộc chiến tranh chiếm thuộc địa.
Thuộc địa chính là nơi đảm bảo cung cấp nguồn nguyên liệu và thị
trường, là nơi tương đối an toàn trong cạnh trannh và đảm bảo thực hiện đồng
thời cả mục đích về kinh tế, quân sự và chính trị. Ngay từ sau năm 1880, các
cuộc xâm chiếm thuộc địa đã nổ ra và đến cuối thể kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, các
nước đế quốc đã hoàn thành việc phân chia thị trường thế giới về mặt lãnh
thổ. Trong đó Anh chiếm được nhiều thuộc địa nhất, sau đó đến Nga và Pháp:
Đến năm 1914, các nước đế quốc Anh; Nga; Pháp; Đức; Mỹ; Nhật chiếm một
khu vực thuộc địa rộng 65 triệu km2 với số dân 523.4 triệu người (so với diện
tích các nước đó là 16.5 triệu km2 và dân số 437.2 triệu). Riêng diện tích các
thuộc địa của Pháp là 10.6 triệu km2 với số dân 55.5 triệu người (so với diện
tích nước Pháp là 0.5 triệu km2 và dân số là 39.6 triệu người).
Sự phân chia lãnh thổ và sự phát triển không đồng đều của chủ nghĩa tư
bản đã dấn đến tất yếu các cuộc đấu tranh đòi chia lại thế giới. Các cuộc đấu
tranh này thể hiện rất rõ qua cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất 1914 – 1918
và cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai 1939 – 1945.
Biểu hiện mới của sự phân chia thể giới về mặt lãnh thổ:
+ Về phạm vi: sự phân chia thế giới không chỉ về lãnh thổ, mà còn về biển,
không gian, ắc Cực.
+ Về phương thức: Nước lớn tăng cường dùng kinh tế để chi phối nước nhỏ,
mở rộng biên giới mềm, thay cho chế độ thực dân kiểu cũ và chế độ thực dân
kiểu mới.
+ Về cục diện: Sự phân chia thế giới hai cực (sau Thế chiến II) chuyển sang
thế giới đơn cực (cuối thế kỷ XX), rồi hướng tới thế giới đa cực (từ đầu thế kỷ
XXI).
 Như vậy, năm đặc điểm kinh tế tư bản đã liên kết, móc xích chặt chẽ
với nhau thể hiện rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế. Đó
là sự thống trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền, về mặt chính trị là hiếu
chiến, xâm lược.
Trong 5 đặc đi m kinh tế cơ bản của chủ ngh a tư bản độc quyền đặc đi m
nào quan trọng và qu ết định nhất? Vì sao?
-> Trong 5 đặc điểm kinh tế trên, đặc điểm “ tập trung sản xuất và sự ra đời
của các tổ chức độc quyền” là quan trọng nhất vì nó là nguyên nhân, quyết
định đến tính chất của chủ nghĩa tư bản, các đặc điểm khác chỉ là hệ quả. Tập
trung sản xuất đạt đến trình độ cao sẽ hình thành các doanh nghiệp có quy mô
lớn, do đó quá trình cạnh tranh tất yếu dẫn đến xu hướng thỏa hiệp, phân chia
thị trường cả trong và ngoài nước. Tập trung sản xuất cao độ và sự ra đời,
phát triển mạnh mẽ của các tổ chức độc quyền là nguyên nhân dẫn đến hiện
tượng xuất khẩu tư bản nhằm tối đa hóa giá trị thặng dư.
*Liên hệ với vấn đề độc quyền và c nh tranh trong nền kinh tế Việt Nam
hiện nay.
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường. Một số yếu tố bất hợp
lý của mô hình kinh tế trước đây vẫn còn tồn tại và đòi hỏi cần phải có những
giải pháp cụ thể để giải quyết trong thời gian tới. Một trong những vấn đề cần
giải quyết là tình trạng độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước.
Sự tồn tại quá nhiều doanh nghiệp nhà nước (rất nhiều trong số đó kinh
doanh không hiệu quả) và việc độc quyền của doanh nghiệp nhà nước trong
nhiều lĩnh vực là một trong những lý do được các luật sư Mỹ sử dụng để
khẳng định Việt Nam không có nền kinh tế thị trường trong vụ kiện cá da trơn
của Việt Nam. Để hội nhập kinh tế thế giới cũng như đảm bảo các điều kiện
gia nhập WTO trong thời gian tới và tránh thua thiệt trong thương mại quốc
tế, vấn đề này cần phải được hoàn thiện để quy định một mức độ hợp lý cho
sự độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước, vừa phù hợp với thông lệ quốc
tế, vừa đảm bảo thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển.
Thực tế ở Việt Nam hiện nay có hai loại hình độc quyền sau: Loại thứ nhất
là kết quả cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Trường hợp công ty Coca
Cola như đã phân tích ở trên được coi là ví dụ về hình thức độc quyền là kết
quả của cạnh tranh trên thị trường nước uống có ga của Việt Nam. Tuy thế,
như đã đề cập ở trên, nền kinh tế thị trường Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn
đầu của sự phát triển, vì vậy, cho đến nay chỉ có một vài trường hợp liên quan
đến độc quyền là kết quả của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Chắc
chắn trong tương lai, loại hình độc quyền này sẽ phổ biến hơn. Tuy nhiên, đây
là hiện tượng bình thường của bất kỳ nền kinh tế cạnh tranh nào.
Theo kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, vấn
đề này sẽ được giải quyết bằng những quy định về chống độc quyền trong
luật cạnh tranh như các quy định về cấm đoán tự thân (per se prohibition),
quy định về thoả thuận giá cả giữa các đối thủ cạnh tranh, tẩy chay hàng hoá,
lạm dụng sức mạnh thị trường, tập trung kinh tế v.v... Luật cạnh tranh của
Việt Nam 5 cũng đã bao gồm các quy định này. Đó là những quy định tại
chương 2 về các vấn đề thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường và vị trí độc quyền, tập trung kinh tế. Nếu so với các nước có
nền kinh tế thị trường phát triển thì những quy định trong Luật cạnh tranh của
Việt Nam về kiểm soát độc quyền chưa thể nói là đầy đủ. Tuy thế, trong điều
kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, việc quy định như vậy là tương đối rõ ràng
và thống nhất. Trong tương lai, khi tính cạnh tranh của thị trường đạt ở mức
độ cao hơn với nhiều hành vi cạnh tranh khác phát sinh, sự bổ sung các quy
định mới về kiểm soát độc quyền sẽ là cần thiết.
Loại thứ hai là loại hình độc quyền được coi là phổ biến nhất ở Việt Nam
hiện nay là độc quyền là kết quả của cơ chế hành chính trước đây và một số
quy định của pháp luật cũng như các chính sách kinh tế hiện hành. Trong nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ trước đây, chúng ta chỉ thừa nhận hình
thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân không tồn tại trong
thời gian đó. Chế độ công hữu này đã tạo ra sự độc quyền nhà nước trong tất
cả các ngành kinh tế. Nhà nước thành lập các xí nghiệp quốc doanh để sản
xuất và cung ứng sản phẩm cho người tiêu dùng. Cơ chế quản lý kinh tế bằng
các mệnh lệnh hành chính đã hình thành nên các doanh nghiệp nhà nước độc
quyền mà một số vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
Hơn nữa, hiện nay còn có xu hướng độc quyền nhà nước biến thành độc
quyền doanh nghiệp. Việc nắm giữ đường trục viễn thông quốc gia sẽ tạo lợi
thế cho VNPT ngăn cản các công ty khác tham gia vào thị trường viễn thông,
bởi lẽ nếu các công ty khác muốn cung cấp dịch vụ viễn thông họ buộc phải
sử dụng đường trục viễn thông quốc gia do VNPT quản lý. Với lợi thế về thị
phần sẵn có từ trước cùng với các quy định của pháp luật, VNPT đã tính giá
dịch vụ viễn thông cung cấp cho người sử dụng cao hơn 30% so với các nước
ASEAN. Tình trạng này cũng tương tự như ở Tổng công ty điện lực Việt
Nam (EVN). ở nước ta đã có một số doanh nghiệp sản xuất điện nhưng chỉ
EVN đ-ợc nắm giữ hệ thống truyền tải điện. Trong thị trường điện lực, việc
sản xuất điện có liên quan mật thiết đến việc truyền tải điện. Điều này làm
cho các doanh nghiệp sản xuất điện phải phụ thuộc vào EVN - một đối thủ
cạnh tranh trên cùng thị trường. Chính vì vậy, độc quyền của EVN đối với
việc kinh doanh điện là điều không thể tránh khỏi.
Nói tóm lại, viêc pháp luật quy định nhà nước nắm độc quyền đối với các
“ phương tiện thiết yếu” như đường trục viễn thông quốc gia, hệ thống dây tải
điện hay các nhà ga sân bay, hệ thống đường sắt nhưng không có sự tách biệt
rõ ràng các yếu tố thuộc về cạnh tranh tiềm năng và các yếu tố thuộc về độc
quyền tự nhiên đã làm cho độc quyền nhà nước biến thành độc quyền doanh
nghiệp. Qua đó cho thấy rằng: những quy định này là không phù hợp với các
quy luật của nền kinh tế thị trường và cần phải được thay đổi trong thời gian
tới.
Không những thế, một số chính sách kinh tế thời gian qua cũng là nguyên
nhân tạo ra độc quyền trong nền kinh tế nước ta. Điển hình là chính sách
thành lập các tổng công ty đã tạo ra sự độc quyền của một vài doanh nghiệp
nhà nước trong các lĩnh vực như xây dựng, xi măng, lắp máy... Để thành lập
các tổng công ty này, một loạt các công ty nhỏ có cùng tính chất ngành nghề
được sáp nhập theo quyết định của Chính phủ. Hơn nữa, nhà nước cũng đầu
tư một lượng vốn lớn vào các tổng công ty. Kết quả là các công ty có một sức
mạnh thị trường đáng kể trong ngành nghề mà nó kinh doanh và nhanh chóng
có vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực đó, không một doanh nghiệp nào
có thể cạnh tranh với các tổng công ty nhà nước. Hiện nay, Chính phủ chủ
trương thành lập một số tập đoàn kinh tế nhất định. Việc xây dựng các tập
đoàn kinh tế là quan trọng bởi vì xét về mức độ tập trung vốn và công nghệ,
hầu hết các doanh nghiệp của Việt Nam đều rất nhỏ bé so với các công ty
nước ngoài, đặc biệt là các tập đoàn đa quốc gia. Trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, hợp tác đi cùng với cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi.
Để có thể tham gia và cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, Việt Nam rất cần
thiết phải thành lập các tập đoàn kinh tế đủ mạnh trong những lĩnh vực nhất
định.
Theo Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM), trước hết, sẽ
có 4 tập đoàn kinh tế được thành lập trong các lĩnh vực điện, ga và khí đốt,
viễn thông và xây dựng. Theo chính sách này, các tập đoàn kinh tế được
thành lập dựa trên việc sáp nhập các công ty nhỏ thành công ty lớn hơn. Về
mặt lý thuyết cũng như thực tế của luật cạnh tranh, việc sáp nhập chỉ bị cấm
trong trường hợp làm giảm đáng kể cạnh tranh hoặc đi ngược lại với lợi ích
công cộng, liên quan đến các vấn đề như lợi ích khách hàng, giải quyết việc
làm và tăng trưởng xuất khẩu. Ngược lại, nếu việc sáp nhập mà có nhiều khả
năng mang lại hiệu quả kinh tế vượt qua sự hạn chế cạnh tranh, nó sẽ không
bị cấm. Trong trường hợp các tập đoàn kinh tế của Việt Nam, việc tránh xung
đột giữa độc quyền là kết quả của sáp nhập và lợi ích công cộng là rất cần
thiết. Khi các tập đoàn kinh tế được thành lập bởi Chính phủ thì sẽ rất dễ
dàng cho các doanh nghiệp này có được vị trí thống lĩnh thị trường và sức
mạnh thị trường đáng kể so với các doanh nghiệp khác. Chính vì thế, nếu
không có những quy định cụ thể chính sách này có thể tạo ra vị trí độc quyền
cho các tập đoàn kinh tế.
Thêm vào đó, do hình thức sở hữu mà một số chính sách của nhà nước
cũng có ưu đãi hơn cho các doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, doanh nghiệp nhà
nước được hưởng một số lợi thế khi tiến hành hoạt động kinh doanh trên thị
trường so với các thành phần kinh tế khác. Cụ thể là, trong một số trường hợp
nhất định, nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp bảo đảm cho các khoản nợ của
doanh nghiệp, ưu đãi về quyền sử dụng đất, miễn thuế trong một số trường
hợp, được chỉ định ngân hàng cho vay vốn hoặc được vay vốn với lãi suất ưu
đãi. Vì thế, có thể nói rằng: ở một chừng mực nhất định, chính sách kinh tế đã
trở thành rào cản tạo ra độc quyền trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
7. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế thị
trường, phát triển tới trình độ cao, trong đó, quan hệ sản xuất và trao đổi đều
thông qua thị trường và chịu sự điều tiết bởi các quy luật khách quan của thị
trường.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế vận hành theo
các quy luật của thị trường, mang đặc trưngs định hướng XHCN, có sự điều
tiết của Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhằm mục tiêu xác
lập một xã hội mà ở đó “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh”.
Và hiện nay, để xã hội có một hệ giá trị toàn diện gồm cả dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh thì mỗi quốc gia đều phải nỗ
lực, phấn đấu hết mình. Do đó, định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là
hướng đến hệ giá trị cốt lõi ấy, qua đó hướng tới xác lập nền kinh tế thị
trường trong chính xã hội ấy.
Và để đạt được mục tiêu đó, nền kinh tế thị trường Việt Nam cần phải
có vai trò điều tiết của nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Kết hợp với nó là sự nỗ lực xây dựng, phát triển của toàn thể nhân dân.
Cơ sở tất yếu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam:
Cơ sở lý luận:
Thứ nhất, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là phù hợp
với xu hướng phát triển khách quan của Việt Nam ta trong bối cảnh thế giới
hiện nay. Và ta được biết, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát
triển ở trình độ cao, và sự phát triển nền kinh tế hàng hóa theo các quy luật tất
yếu thì sẽ đạt đến trình độ nền kinh tế thị trường. Quy luật ấy diễn ra hoàn
toàn hợp lý ở Việt Nam bởi các điều kiện cho sự hình thành và phát triển kinh
tế thị trường tồn tại khách quan nên kéo theo đó, sự hình thành nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam cũng là tất yếu khách quan.
Trong lịch sử, mỗi hình thái kinh tế - xã hội cụ thể, gắn bó hữu cơ và
chịu sự chi phối của các quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó. Ta đã từng
bắt gặp kinh tế hàng hóa giản đơn là chiếm hữu nô lệ, phong kiến và cả kinh
tế phát triền cao là thị trường tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, thực tế là khi đặt
đến trình độ phát triển cao thì kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa vẫn tồn tại
những mâu thuẫn không thể nào khắc phục được. Cuối cùng nó đã tự tiến hóa
và tạo ra những điều kiện cần và đủ cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Và với xu hướng phát triển của dân tộc ta, mô hình kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn phù hợp ở Việt Nam và không bị
mâu thuẫn với tiến trình phát triển của đất nước.
Thứ hai, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những ưu
việt để thúc đẩy Việt Nam phát triển.
Trên thực tế của thế giới và Việt Nam, so với các mô hình kinh tế phi
thị trường thì kinh tế thị trường là phương thức phân bổ nguồn lực hiệu quả
hơn cả. Kinh tế thị trường chính là động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh, có
hiệu quả của lực lượng sản xuất. Kéo theo đó nền kinh tế luôn phát triển theo
hướng năng động, tích cực, kích thích tiến bộ kỹ thuật công nghệ, đặc biệt
năng suất lao động và chất lượng sản phẩm được nâng cao, trong khi giá
thành sản phẩm được hạ xuống.
Do đó, phát triển kinh tế thị trường là tất yếu để thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển nhanh, nhằm thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. ên cạnh đó nhà nước ta
cũng cần chú ý đến những khuyết tật của thị trường để có những tác động kịp
thời đến sự phát triển của nền kinh tế.
Thứ ba, theo nguyện vọng và mong muốn dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh thì kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
hoàn toàn phù hợp.
Việc thực hiện kinh tế thị trường hướng đến những giá trị mới để hiện
thực hóa nguyện vọng ấy là tất yếu khách quan. Mặt khác, kinh tế thị trường
rất cần thiết cho công cuộc xây dựng và phát triển của nước ta. Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ phá bỏ những lạc hậu của nền kinh tế,
đẩy mạnh sự phân công lao động xã hội và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển mạnh mẽ. Cùng với đó, nó cũng khuyến khích ứng dụng khoa học công
nghệ vào trong sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, dịch vụ và góp
phần cải thiện, nâng cao đời sống của nhân dân. Từ đó, sự giao lưu kinh tế
giữa các vùng miền trong nước và cả nước ngoài cũng sẽ được mở rộng, đưa
kinh tế Việt Nam phát triển lên mộ tầm cao mới.
Cơ sở thực tiễn: Việt Nam cần hội nhập, phát triển kinh tế, thực hiện
mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Để hội nhập
hệ thống phân công lao động thế giới, Việt Nam cần nền kinh tế thị
trường. Để hạn chế sự bất bình đẳng, phân hóa giai tầng, VN cần có định
hướng XHCN.
Do đặc thù lịch sử Việt Nam: ĐCS lãnh đạo thành công Cách mạng
Dân tộc Dân chủ, khác với quy luật phổ biến của thế giới là giai cấp tư sản
thực hiện Cách mạng Dân chủ.
Nội dung Nền KTTT định hướng XHCN Nền KTTT Tư bản chủ nghĩa
Xây dựng cơ sở vật chất kỹ Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
Mục đích thuật của CNXH, đặt lợi ích của CNT , đặt lợi ích của các
của nhân dân lên trên tập đoàn tư bản lên trên
Nhiều thành phần kinh tế, Nhiều thành phần kinh tế, trong
Quan hệ sở
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò đó kinh tế tư nhân giữ vai trò chủ
hữu
chủ đạo đạo
Quan hệ Cơ chế thị trường tự điều tiết Cơ chế thị trường tự điều tiết
quản lý nền Sự điều tiết Nhà nước định Sự điều tiết của Nhà nước T CN
kinh tế hướng XHCN và sự chi phối của giới tài phiệt
Quan hệ Nhiều hình thức phân phối, Nhiều hình thức phân phối, phân phối
phân phối phân phối theo lao động là chủ đạo theo vốn góp là chủ đạo
Kiến trúc Nhà nước do các Đảng phái
Nhà nước do ĐCS cầm quyền
thượng tầng tranh cử nắm quyền

8. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam: khái niệm và nội dung hội
nhập kinh tế quốc tế; Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát
triển Việt Nam. (trang 160)
Khái niệm: Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình
quốc gia đó thực hiện gắn kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới
dựa trên sự chia sẻ lợi ích đồng thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung.
Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế:
Thứ nhất, chuẩn bị các điều kiện để thực hiện hội nhập thành công.
Hội nhập kinh tế là tất yếu, nhưng Việt Nam ta không dùng mọi giá để
hội nhập mà cân nhắc rất kĩ càng với các cách thức tối ưu. Cách thức đó chính
là chuẩn bị các điều kiện trong nội bộ nền kinh tế và các mối quan hệ quốc tế
thích hợp. Những điều kiện chủ yếu để thực hiện hội nhập thành công là các
điều kiện sẵn sàng về tư duy, kết hợp với đó là sự tham gia của toàn xã hội, sự
hoàn thiện và hiệu lực của thể chế, sự am hiểu môi trường quốc tế,…
Thứ hai, thực hiện theo đa dạng các hình thức, các mức độ hội nhập
kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể diễn ra dưới nhiều hình thức, là toàn bộ
các hoạt động kinh tế đối ngoại của một quốc gia như ngoại thương, đầu tư
quốc tế, hợp tác quốc tế, dịch vụ thu ngoại tệ…
Các mức độ hội nhập kinh tế nông hay sâu còn tùy vào mức độ tham
gia của một nước vào các quan hệ kinh tế đối ngoại và các tổ chức kinh tế
quốc tế hoặc các khu vực. Và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được chia
thành các mức độ từ thấp đến cao là: Thỏa thuận thương mại ưu đã (PTA),
Khu vực mậu dịch tự do (FTA), Liên minh thuế quan (CU), Thị trường
chung, Liên minh kinh tế - tiền tệ,…
*T c động của hội nhập kinh tế quốc tế đến ph t tri n của Việt Nam:
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gia tăng sự liên hệ giữa nền kinh
tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới. Quá trình ấy một mặt tạo ra nhiều tác
động tích cực đối với quá trình phát triển của Việt Nam, mặt khác mang lại
nhiều thách thức, đòi hỏi phải vượt qua mới có thể thu được những lợi ích to
lớn từ quá trình hội nhập kinh tế thế giới đem lại.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã mang đến những tác động tích cực và lợi
ích to lớn trong sự phát triển của các nước và lợi ích kinh tế:
Trước hết, hội nhập kinh tế đã tạo điều kiện mở rộng thị trường, tiếp
thu khoa học công nghệ, mở rộng vốn đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong nước.
Khi hội nhập kinh tế, thị trường các nước được tạo điều kiện mở rộng,
kéo theo đó thương mại cũng được thúc đẩy phát triển, tạo điều kiện cho sản
xuất trong nước và tận dụng các lợi thế kinh tế của nước nhà phục vụ cho mục
tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững.
Cùng với đó, hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo động lực thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiệu quả hơn, nhằm hình thành các
lĩnh vực kinh tế mũi nhọn để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế. Nó cũng làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp
cận với thị trường quốc tế, và làm cho các nhà hoạch định chính sách nắm bắt
tốt hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó đưa ra chính sách phát
triển phù hợp cho đất nước.
Đặc biệt, hội nhập kinh tế mang lại nguồn hàng hóa tiêu dùng vô cùng
đa dạng về chủng loại, mẫu mã với chất lượng và giá cả cạnh tranh, từ đó góp
phần cải thiện tiêu dùng trong nước.
Tiếp theo, hội nhập kinh tế quốc tế chính là cơ hội để nâng cao chất
lượng nguồn lực. Bởi có sự đẩy mạnh hợp tác giáo dục, đào tạo và nghiên cứu
khoa học nên khả năng hấp thụ khoa học công nghệ hiện đại được tăng lên
thông qua sự đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Cuối cùng, hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện để thúc đẩy hội nhập
của các kĩnh vực văn hóa, chính trị và củng cố an ninh quốc phòng.
Hội nhập kinh tế quốc tế chính là nền tảng cho hội nhập về văn hóa, từ
đó những giá trị tinh hoa của thế giới sẽ được tiếp thu và làm giàu thêm nền
văn hóa dân tộc, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Cùng với đó, hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động mạnh mẽ đến hội
nhập chính trị, hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
xây dựng xã hội dân chủ, văn minh.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng giúp đảm bảo an ninh quốc gia diu trì
hóa bỉnh và ổn định khu vực để tập trung phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời
góp phần giải quyết những vẫn đề của toàn thế giới như môi trường, biến đổi
khí hậu, phòng chống tội phạm, buôn lậu quốc tế. Qua đó nâng cao vị thế, uy
tín của nước nhà trên trường quốc tế.
Bên c nh những t c động tích cực, hội nhập kinh tế quốc tế còn
mang l i nhiều rủi ro, bất lợi và th ch thức:
- Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt, làm cho
nhiều doanh nghiệp và ngành kinh tế gặp khó khăn trong phát triển,
và gặp bất lợi về kinh tế - xã hội, thậm chí là phá sản.
- Hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền
kinh tế quốc gia với thị trường bên ngoài, dẫn đến dễ bị tổn thương
do những biến động liên tục về chính trị, kinh tế và thị trường quốc
tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế có nguy cơ làm gia tăng khoảng cách giàu
nghèo, bất bình đẳng xã hội do sự phân phối không công bằng lợi ích
và rủi ro cho các nước và các nhóm trong xã hội.
- Các nước đang phát triển như Việt Nam phải đối mặt với nguy cơ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do sự tập trung nhiều vào
các ngành sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động nhưng có giá
trị gia tăng thấp. Do đó dễ trở thành bãi thải công nghiệp và công
nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi
trường ở mức độ cao.
- Hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối với
quyền lực Nhà nước, chủ quyền quốc gia và nhiều vấn đề phức tạp
đối với việc duy trì an ninh và ổn định trật tự, an toàn xã hội.
- Đặc biệt, hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bị đồng hóa văn hóa,
các bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống có thể bị xói mòn.
- Hội nhập cũng có thể làm tăng nguy cơ gia tăng tình trạng khủng bố
quốc tế, buôn lậu, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp,…
Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay vừa là cơ hội, vừa là thách
thức cho mỗi nền kinh tế. Đó là cơ hội thuận lợi cho sự phát triển, bên
cạnh đó là những nguy cơ to lớn với hậu quả khôn lường. Vì vậy mỗi
quốc gia cần phải biết tranh thủ thời cơ và vượt qua thách thức để mang
về lợi ích, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

You might also like