Professional Documents
Culture Documents
Result 0002
Result 0002
Giáo sư Trần Thúy Viện trưởng Viện y học cổ truyền Việt Nam
CHƯƠNG 1 MẠCH CHỨNG TIÊN HẬU BỆNH TẠNG
PHỦ KINH LẠC
1. Kinh văn 1: Vẫn viết: "Thương công (1) trị vị bệnh (2) hà dã? Sự viết: phu trị vị bệnh
giá, kiểu can chi bệnh, tri can truyền tỳ, đương tiện thực tỳ, tứ quy tỳ vượng (3) bất thụ
tà tức vật bố chi. Trong công (1) bất hiểu tượng truyền, kiên an chi bệnh, Bộ dụng toan,
trợ dụng tiêu khổ (4), ích dụng cam vị chi dược diều chi. Toan nhập cảnh, tiêu khô nhập
tâm, cam nhập tỳ, tỳ năng thương thận (5) thận khi vi nhược tắc thủy bất hành, thủy bất
hành tắc tâm hỏa khí thịnh tắc thương phế, phế bị thương tắc kim khí bất hành tác can
khí thịnh, tắc can tư duệ 6), thử trị can bổ tỳ chi yêu diệu dã, Can hư tác dụng thư pháp,
thực tắc bất tại dụng chi kinh viết " Hư hư thực thực, bổ bất túc, tổn hữu dư" (7) thị kỳ
nghìa dã dư tạng chuẩn thử.
Cli lich:
1, Thượng công: là thầy thuốc bậc cao kiến, danh sự trung công là
thày thuốc bậc vừa.
2. Vị bệnh; là lúc chưa phát bệnh
3. Tý quy tỳ vượng: Là tỳ vượng vào cuối thời kỳ tứ quy và mùa trưởng hạ ( cuối hạ
đầu thu). Tứ quý vượng là căn cứ theo học thuyết ngũ hành phối hợp với ngũ tạng và
tử thời,
4. Tiêu khô: Khét đắng
5. Tỳ nắng thượng thận là căn cứ học thuyết ngũ hành sinh khắc phối hợp với ngũ tạng mà suy
ra tức là tỳ thổ khắc thận thủy.
6.Tự dũ: Là khỏi bệnh
7. Hư hư thực thực, bổ bất túc, tổn hữu dư theo nạn kinh 81: không làm thực thềm chỗ
đã thực, hư thêm chỗ đã hư, tổn hại chỗ không đủ, bổ ích chỗ có thừa đó là chỉ vào hư
thực vốn có của bệnh tật.
Dịch nghĩa:
Hỏi: Bậc thượng công trị lúc chưa bệnh là như thế nào?
.
--
--
Thầy đáp: trị lúc chưa có bệnh, nghĩa là thấy can bị bệnh thì sẽ biết
bệnh truyền đến tỳ, trước tiên phải là tỳ nhanh lên. Bốn mùa tỳ
vượng, không thụ tà, tức là không cần bổ nó.
Bậc trung công không hiểu qui luật tương truyền thấy can bị bệnh không lành cho tỳ
mạnh lên mà chỉ chữa vào can. Bệnh của can, đúng vị toàn để bổ, dùng vị khét đắng để
trợ nó, dùng thuốc vị ngọt để bổ ích cho nó: chua nhật can, khót đăng nhập tành, ngọt
nhập tỳ, tỳ có khả năng làm thận vị tổn thương. Thật khí suy yếu thì thuỷ không vận
hành; thuỷ không vận hành thì tầ11 hỏa khí thịnh lên sẽ làm thương tổn ghế phế bị
thương thì kinh khí không vận hành; kinh khí không vận hành thì can khí thịnh và bệnh
của can tự khỏi. Đó là liệu pháp trị can thông qua bổ tỳ. Can hự thì dùng phép này còn
can thực thì không cùng. Kinh viết: "không lược làm hư thêm cái đã hư, làm thực thêm
cái đã thực, mà phải bổ vào chỗ không đủ và bớt chỗ có thừa nghĩa là như vậy. Các
tạng kia cũng theo cách đó là chữa".
Vưu tại linh chi
- Tố vấn Inói khi tà khí xâm nhập vào cơ thể, nó sẽ truyền biến theo vòng tương khắc,
can chủ mộc mà khắc tỳ thổ. Cho nên biết can bị bệnh sẽ truyền sang tỳ lành cho tỳ
nạnh lên (thực tỳ) và trợ cho khí vượng lên để không t}hu tà, cho viên gọi là trị lúc chưa
có bệnh. Nếu không biết điều đó là chữa vào cai, thì bệnh can chưa khỏi nhà bệnh lý
đã phát. Đó chính là việc làm của thượng công nà ! Bệnh của can dùng vị chua để bổ,
cài bất túc thì thùng bản vị của nó mà bổ ích cho nó. +)ây là điều khác với nội kinh dùng
chất cay để bổ ca:1. Can thể âm dụng cdươ11g dùng chất cay trị cho các tác dụng của
nó dùng vị toan là điểm thêm cho các thể của nó. Tuy cách nói khác nhau, nhưng về lý
luận thì giống nhau dùng chất khét đáng để trợ cho nó theo sách thiên kim phương gọi
là tâm vượng thì khí của Lâm tồn bởi khí của can. Dùng thuốc có vị ngọt để điều hoà
nó. Đó là cái mà Việt nhân gọi là tổn bớt cân, hoãn bớt trung từ câu “toan nhập can"
đến 15 câu sau đó nghi không phải là nguyên văn của Trọng Cảnh mà đó là lời chú
thích của người đời sau thu là nguyên văn. Bởi vì Trọng Cảnh chữa cân bổ tỳ cốt yếu là
thực tỳ (là tỳ mạnh lên) mà không thụ tà của ca chứ không phải bổ tỳ để làm tổn
thương thận để dùng loả khắc hại kim. Quả vậy cái còn nguyên thì ít mà cái tôn |
thương thì nhiều tỳ được bổ nhà phế tự vượng. Thận bị tổn thương tất nhiên sẽ làn hư
con của nó đâu phải cơ chế kim làm lạnh mộc ?
Xét kỹ ý của câu nói từ câu thấy can bị bệnh tới 9 câu dưới là trả lời về thượng công trị
vị bệnh, 3 câu "dùng chất ngọt để bổ" đó không phải xuất phát
. .
.
. .
-
--
từ phép chính trị can hư. Can hư thì dùng phép này, can thực thì không dùng. Tạng bệnh dùng
tạng hư là nó thực tà mà tạng thực thì không thực tà. Tà của tạng chỉ có trường hợp tạng thực
thì mới thấy truyền. Do đó chữa can thực, trước tiên phải thực tỳ để khỏi mắc họa phức tạp. Trị
cạn hư bổ trực tiếp vào can, đề phòng mối lấn áp từ bên ngoài. Đó là Trọng Cảnh nêu ra yếu
chỉ cả Jhư và thực.
- Y tổng kim giảm viết: Bậc trung công không hiểu rõ hư thực, đã hư lại ta làm cho hư thêm, đã
thực lại bổ làm cho thực thêm nghĩa là ở chỗ đó. Bậc thượng công hiểu rõ hự thực, bổ cái bất
túc và bỏ cái hữu dư ý nghĩa là như vậy.
2. Kinh văn 2:
Phu nhân bẩm ngũ thường, nhân phong khí mà sinh trưởng, phong khí tuy năng sinh vạn vật,
diệc nâng hại vạn vật, như thủy năng phù châu (1) diệc năng phục châu (2). Nhược ngũ tạng
nguyên chấu (3) thông sướng, nhận tức an hòa. Khách khí (4) tà phong (5) trúng nhân đa tử,
thiên ban sấn nạn (6) nhập tạng phủ vị nội sở nhận dã, nhị giá, tứ chi cửu khiếu (7) huyết mạch
tương truyền ủng tắc bất thông, vị ngoại bị phu sở trung dã; tam gia phòng thất kim đao trùng
thú sở thương. Di thử tường chi, bệnh do đô tận, nhược nhận năng dường chân, bất lệnh tà
phong can ngõ kinh lạc, thích trúng kinh lạc vị lưu truyền phủ tạng, tức y trị chi, tứ chi tài giác
trọng trệ tức đạo dân âu nam châm cứu các ma (8) vật lệnh cửu khiểu bế tắc; cánh nắng vô
phạm vương pháp, cầm thú tài thương, phòng thất, vật lệnh kiệt chi, phục thực thiết kỳ lãnh
nhiệt khổ toan tam cam, bất di hình thể hữu suy, bệnh tắc vô do nhập kỳ tản lý tẩu gia, thị tán
tiêu thông hội nguyên chân chi xử, vì huyết khí sở chủ; lý giải thị bì phục tạng phủ chị văn lý dã
Chú thích
1. Phù châu: nâng thuyền
2. Phúc châu: lật thuyền.
3. Ngũ tạng nguyên chân; là tinh khí của ngũ tạng
4. Khách khí: là danh từ của học thuyết vận khí chỉ khí hậu trái thường,