You are on page 1of 3

- Bổ sung thêm note sgk + cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Mở đầu bài thơ gợi lên cho độc giả nỗi niềm cô đơn buồn tủi giữa đêm khuya thanh vắng
của một tâm hồn đa sầu, đa cảm khiến ta không khỏi xót thương:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Khi màn đêm buông xuống chính là lúc con người ta được nghỉ ngơi, đoàn viên bên gia
đình, bỏ lại sau lưng biết bao lo toan, bộn bề của cuộc sống để cùng nhau chìm sâu vào
giấc ngủ ấm êm. Nhưng cũng chính lúc này, vẫn còn một người phụ nữ đang bơ vơ giữa cái
vô thủy, vô chung của không gian, của thời gian. Đêm nay hẳn cũng như bao đêm khác,
người phụ nữa ấy có bao giờ hết lẻ loi một mình đâu? Cái không gian tĩnh lặng đến đáng
sợ, không còn tiếng ồn ào náo nhiệt mà chỉ còn tiếng trống canh dồn hối hả, giục giã như
muốn đớp lấy thời gian, tàn phá không gian vậy. Tiếng trống canh đâu có bình thường mà
nó còn “văng vẳng” giữa không gian yên tĩnh, cái mô tip “văng vẳng” dù có đùa vui đi chăng
nữa nhưng cũng đầy não lòng: “Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì” (Dỗ người đàn bà chồng
chết) còn đến với “Tự tình II” thì nó lại não lòng gấp bội. Tiếng trống “dồn” là một đặc sắc
nghệ thuật được Hồ Xuân Hương khéo léo sử dụng, tiếng trống canh thường được đánh
một lần để điểm qua mỗi canh giờ vậy cớ sao thi nhân lại cảm nhận nó một cách hối hả,
giục giã đến thế? Dường như bà không nghe được âm thanh tiếng trống ấy, tiếng trống mà
bà nghe thấy đang được phát ra từ một không gian hoàn toàn tách biệt với thế giới thực tại
và nó vẫn luôn dồn dập trong lòng bà như một tiếng lòng rạo rực muốn cất lên tiếng nói bất
bình trước thời đại, nó còn là bước đi hối hả của thời gian, là tâm trạng bức bối, rối bời của
nhân vật trữ tình trong tuyệt vọng. Tưởng rằng thủ pháp lấy động tả tĩnh sẽ giúp bức tranh
thấm đượm nỗi buồn trở nên vui tươi nhưng hóa ra chỉ làm mọi thứ đắm chìm vào nỗi ngao
ngán trong đêm chường, để rồi chỉ biết tự trách chính mình sao để thời gian tuổi xuân qua
nhanh đến vậy. Và khi mối tơ lòng không thể gỡ nhưng thời gian vẫn không ngừng trôi thì
chỉ còn đọng lại trong người phụ nữ là sự bất lực đến bẽ bàng mà thôi:
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
Từ “trơ” được đảo lên đầu câu kết hợp nhịp thơ 1/3/3 bất thường như khắc sâu thêm vào
cái sự bẽ bàng. “Trơ” là tủi hổ, là trơ trụi, thêm vào đó là cách kết hợp từ độc đáo hai từ
“hồng nhan” vốn chỉ nhan sắc của người phụ nữ nay lại đi cùng từ “cái” nghe mới rẻ rúng,
mỉa mai biết nhường nào. Cái hồng nhan trơ với nước non không chỉ gợi sự dãi dầu mà hơn
thế là sự cay đắng cho số phận, câu thơ như chì chiết, mỗi lúc một khơi sâu vào nỗi đau
khôn tả, nó làm ta nhớ đến tâm trạng Thúy Kiều khi bị bỏ rơi không chút đoái hoài:
“Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ”
Nghệ thuật đối giữa “cái hồng nhan” với “nước non”, giữa thân phận nhỏ bé với tầm vóc
không gian lớn lao, bỏ lại nỗi đau phía sau là nỗi đau đớn thân phận, Hồ Xuân Hương như
muốn thách thức, bền gan, đối chọi với xã hội phong kiến hà khắc:
“Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài”
Khi nỗi buồn đã thấm đến tận tâm can thì con người cũng chỉ biết mượn rượu giải sầu và
Hồ Xuân Hương cũng vậy, nhưng liệu rượu có giúp người phụ nữ ấy quên đi tất cả:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Khi xưa Thúy Kiều rơi vào lầu xanh cũng uống rượu thâu đêm suốt sáng và rồi khi tỉnh
dậy thì cũng chỉ biết “Giật mình mình lại thương mình xót xa” còn sau này ta lại bắt gặp Chí
Phèo, khi gã tìm đến men rượu để quên đi tất cả nỗi đau của cuộc sống nhưng rồi khi hắn
tỉnh rượu thì lại càng thấm thía, càng thấy rõ cuộc đời mình bất hạnh là do đâu, càng thấy rõ
mình chẳng thể quay lại làm người lương thiện được nữa… Có lẽ Hồ Xuân Hương cũng
vậy, người phụ nữ ấy say để quên đi nỗi sầu nhưng uống rồi thì thấm thía nỗi đau đến tột
cùng. Từ “lại” hiện lên như một vòng luẩn quẩn mà thi nhân mãi không thoát ra được, say
rồi lại tỉnh mau như cuộc tình đến rồi cũng tan mau vậy. Hương rượu khi ấy để lại vị đắng
chát, hương tình khi ấy chỉ còn thoáng qua như trò đùa của tạo hóa. Hồ Xuân Hương xinh
đẹp thật đấy, tài giỏi thật đấy nhưng “Có tài mà cậy chi tài/ Chữ tài liền với chữ tai một vần”.
Cuộc đời của người lấy chồng muộn, hai lần làm lẽ rồi cũng hai lần góa bụa, suốt đời sống
trong cảnh đơn côi, cuộc đời ấy đã bao giờ được hưởng hạnh phúc trọn vẹn đâu, đã bao
giờ có cho mình vầng trăng viên mãn đâu, cho nên vầng trăng hạnh phúc đó chưa bao giờ
thuộc về Hồ Xuân Hương, nó chỉ có thể là trăng khuyết, trăng xế mà thôi:
“Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
“Vâng trăng bóng xế” là bước đi của thời gian , ẩn dụ cho chính cuộc đời cả bà đã đi qua
tuổi xuân tươi đẹp. Vầng trăng phi logic như muốn nhận mạnh nỗi buồn duyên phận hẩm
hiu vẫn luôn mong chờ tình yêu đến với mình và cũng chính vâng trăng phi logic ấy là nguồn
cảm hứng để sau này thi sĩ Phi Tuyết Ba từng có bài thơ tuyệt bút:
“Anh ngỏ lời yêu em
Vào một đêm trăng khuyết
Bằng tình yêu tha thiết
Biết tròn trước đêm rằm.
Em vui lúc trăng tròn
Chạnh lòng khi trăng khuyết
Anh ơi anh có biết
Trăng như tình lứa đôi
Sao anh vội ngỏ lời
Vào một đêm trăng khuyết
Để bây giờ thầm tiếc
Một vầng trăng chưa tròn.”
(Trăng khuyết)
Vầng trăng tuy đẹp đến bao nhiêu nhưng rồi “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Hai
câu thực khép lại đã hé mở thân phận, cuộc đời người nữ sĩ, với nghệ thuật tiểu đối đã giúp
Hồ Xuân Hương bày tỏ nỗi xót xa, cay đắng cho thân phận dở dang, tình duyên lỡ làng
ngang trái.

Tản Đà từng nhận xét thơ của Hồ Xuân Hương rằng: “Trong thơ Hồ Xuân Hương có quỷ”
bởi lẽ mọi sự vật trong thơ bà lúc nào cũng cựa quậy, căng đầy sức sống:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”
Dưới ngòi bút tài hoa của nữ sĩ họ Hồ, những sự vật hèn mọn như đám rêu kia vẫn
không chịu nhỏ bé, những viên đá vô tri vô giác cũng không chịu đứng yên. Biện pháp nghệ
thuật đảo ngữ kết hợp động tự mạnh “xiên ngang”, “đâm toạc” cho ta thấy những hoạt động
dữ dội, phá phách, ngang ngạch và bướng bỉnh. Không phải “xiên thẳng” mà phải là “xiên
ngang”, chẳng phải “đâm rách” mà cứ là “đâm toạc” đó là cách dùng từ rất “Xuân Hương”.
Hai câu luận như nói lên chính tính cách của bà vậy, chẳng bao giờ tuân theo lễ giáo, ngang
ngạch, bướng bỉnh, dù ở hoàn bi thảm nhất nhưng trong người phụ nữ ấy vẫn luôn ẩn chứa
mạnh mẽ một sức sống, một khát khao đến cháy bỏng:
“Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”
Say đến đâu rồi cũng phải tỉnh, ngày dài đến mấy thì cũng sang đêm, “xuân xanh” biết
bao vẫn phải úa tàn và ngang ngạch nhường cũng phải chịu thua trước cái xã hội phong
kiến mục nát “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng”:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
“Ngán” là chán ngán, là ngán ngẩm. Hồ Xuân Hương ngán lắm rồi nỗi đời éo le bạc bẽo
bởi xuân cứ đi rồi xuân lại lại như một vòng luẩn quẩn. Từ “xuân” vừa dùng để chỉ mùa
xuân, vừa được dùng với nghĩa chỉ tuổi xuân. Mùa xuân đi rồi mùa xuân trở lại với thiên
nhiên, với đất trời:
“Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước một nhành mai”
(Cáo tật thị chúng)
Nhưng với con người thì tuổi xuân qua đi sẽ không bao giờ quay lại nữa. Trong cụm từ
“xuân lại lại” cũng mang hai nghĩa khác nhau, từ “lại” thứ nhất là thêm một lần nữa, từ “lại”
thứ hai nghĩa là trở lại. Mùa xuân thì trở lại nhưng tuổi xuân lại qua đi, qua đi mãi không
ngưng đó chính là cái gốc sâu xa của sự chán ngán đến khôn nguôi của nữ sĩ đa sầu đa
cảm. Thời gian vẫn luôn là thế lực nghịch đối với cuộc sống con người đặc biệt là tuổi trẻ và
tình yêu, nhiều khi chính bà dám thách thức nó để nở nụ cười chiến thắng “Thân này đâu đã
chịu già tom” nhưng rồi đành phải thừa nhận một thực tế phũ phàng rằng: “Ngán lỗi xuân đi
xuân lại lại”, cảm nhận của bà làm ta nhớ câu thơ của Nguyễn Khuyến:
“Ngày xuân tuổi hạc càng cao
Non xanh nước biếc càng ngao ngán lòng”
Trong câu thơ cuối, nghệ thuật tăng tiến được Hồ Xuân Hương sử dụng khéo léo làm cho
nghịch cảnh của nhân vật trữ tình càng éo le hơn: mảnh tình – san sẻ – tí – con con. Ở đây
không còn là “Khối tình cọ mãi với non sông” mà là “mảnh tình”. “Mảnh tình” vốn đã ít ỏi, đã
nhỏ bé, đã không còn trọn vẹn nay lại còn phải sẻ ra mà chia, mà đong, mà đếm gần như
không còn lại gì cả (tí con con). Phải chăng đó chính là nỗi lòng của người phụ nữ trong xã
hội phong kiến xưa, khi với họ, hạnh phúc chỉ là một chiếc chăn quá nhỏ:
“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
Năm thì mười hoạ hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không.”
(Lấy chồng chung)

Nếu như đương thời chỉ có một Phạm Thái tài hoa mà ngang tàn, ngang tàn mà chân
thực, chân thực mà ngông nghênh, bảo thủ hay một Tố Như “lời văn tả ra hình như máu
chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy”, một Tố Như “có con mắt trọng thấu sáu
cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời” và đương nhiên cũng chỉ có một Hồ Xuân Hương “học
rộng mà thuần thục, dùng chữ ít mà đầy đủ, từ mới lạ mà đẹp đẽ, thơ đúng phép mà văn
hóa” khiến cho thi phẩm trường tồn cùng năm tháng cũng như chẳng bao giờ mất đi cái giá
trị nhân đạo cao đẹp của nó.

Xuyên suốt trong bài thơ Tự tình (II) là tâm trạng, thái độ của Hồ Xuân Hương vừa đau
buồn, vừa phẫn uất trước duyên phận, gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch.
Trước sự trớ trêu của số phận, người phụ nữ luôn khát khao hạnh phúc, vẫn muốn cưỡng
lại sự nghiệt ngã do tạo hóa trêu ngươi, đồng thời qua bài thơ cho ta thấy tài năng độc đáo
của “Bà chúa thơ Nôm” trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ và hình tượng nhân vật.

You might also like