You are on page 1of 64

Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản

______________________________________________________________________________
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG


ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ

GIÁO TRÌNH

KỸ THUẬT NUÔI VÀ SẢN XUẤT


GIỐNG THỦY ĐẶC SẢN

Biên Soạn
ThS. TRẦN NGỌC HUYỀN

Cần Thơ, 2021

2
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________

3
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
MỞ ĐẦU HIÊN ̣ TRẠNG, TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN VÀ ĐỊNH HƯỚNG
NGHỀ NUÔI THỦY SẢN
Viê ̣t Nam là mô ̣t quốc gia ven biển, có đường bờ biển dài trên 3.200 km. Diê ̣n tích
đă ̣c quyền kinh tế biển rô ̣ng khoảng mô ̣t triê ̣u km.Theo Bô ̣ thủy sản năm 2001 thì Viê ̣t
Nam có tổng diê ̣n tích nuôi thủy sản khoảng 879500 ha trong đó nuôi thủy sản nước ngọt
chiếm 408700 ha, qua đó cho thấy tiềm năng hải sản, thủy sản nước ngọt của đất nước ta
vô cùng to lớn và vô cùng quan trọng.
Vì vai trò ngày càng quan trọng của Ngành Thuỷ sản trong viê ̣c góp phần cải thiê ̣n
và nâng cao đời sống người dân, không những thế trong sản xuất hàng hoá ngành thủy
sản còn phục vụ nhu cầu tiêu dùng thực phẩm trong nước và thu ngoại tê ,̣ từ những năm
cuối của thâ ̣p kỉ 90, Chính phủ đã có những chú ý trong qui hoạch hê ̣ thống thuỷ lợi để
không những phục vụ tốt cho phát triển nông nghiê ̣p mà còn tạo điều kiê ̣n thuâ ̣n lợi cho
phát triển mạnh về nuôi trồng thuỷ sản, đă ̣c biê ̣t đối với vùng Đồng bằng Sông Cửu Long.
Kể từ năm 2000, nuôi thuỷ sản nước lợ đã chuyển mạnh từ phương thức nuôi quảng canh
sang quảng canh cải tiến, bán thâm canh và thâm canh. Nhiều mô hình nuôi thâm canh
theo công nghê ̣ nuôi công nghiê ̣p đã được áp dụng, các vùng nuôi tôm lớn mang tính chất
sản xuất hàng hoá lớn được hình thành, sản phẩm nuôi mă ̣n lợ đã mang lại giá trị xuất
khẩu rất cao cho nền kinh tế quốc dân và thu nhâ ̣p đáng kể cho người lao đô ̣ng. Mô ̣t bô ̣
phâ ̣n dân cư các vùng ven biển đã giàu lên nhanh chóng, rất nhiều gia đình thoát khỏi
cảnh đói nghèo nhờ nuôi trồng thuỷ hải sản.
Trên thế giới, ước tính có khoảng 150 triê ̣u người sống phụ thuô ̣c hoàn toàn hay mô ̣t phần
vào Ngành Thuỷ sản. Ngành Thuỷ sản được coi là ngành có thể tạo ra nguồn ngoại tê ̣ lớn
cho nhiều nước, trong đó có Viê ̣t Nam. Xuất khẩu thuỷ sản của Viê ̣t Nam đã trở thành
hoạt đô ̣ng có vị trí quan trọng hàng nhất nhì trong nền kinh tế ngoại thương Viê ̣t Nam,
kim ngạch xuất khẩu vẫn gia tăng hàng năm và năm 2004 đạt gần 2,4 tỷ USD, vượt 20%
so với kế hoạch, đưa chế biến thuỷ sản trở thành mô ̣t ngành công nghiê ̣p hiê ̣n đại, đủ
năng lực hô ̣i nhâ ̣p, cạnh tranh quốc tế và dành vị trí thứ 10 trong số nước xuất khẩu thuỷ
sản hàng đầu trên thế giới.
Theo Quy hoạch phát triển chế biến thủy sản toàn quốc đến năm 2020 vừa được Bô ̣ Nông
nghiê ̣p và Phát triển nông thôn phê duyê ̣t, mục tiêu sản lượng thủy sản chế biến tiêu thụ
nô ̣i địa và xuất khẩu lần lượt là 950.000 tấn và 2 triê ̣u tấn.
Cụ thể, đến năm 2020 phấn đấu sản lượng thủy sản chế biến xuất khẩu khoảng 2 triê ̣u tấn
với tốc đô ̣ tăng trưởng bình quân khoảng 3,5%, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 10 tỷ
USD với tốc đô ̣ tăng trưởng bình quân trên 7% năm.

4
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
Tương tự, sản lượng thủy sản chế biến tiêu thụ nô ̣i địa đạt 950 nghìn tấn với tốc đô ̣ tăng
trưởng khoảng 3,3%/năm. Giá trị thủy sản chế biến tiêu thụ nô ̣i địa tăng trưởng bình quân
5,8%/năm.
Tổng công suất chế biến thủy sản quy mô công nghiê ̣p đạt 2,13 triê ̣u tấn sản phẩm/năm,
hê ̣ thống kho lạnh đạt công suất 1,1 triê ̣u tấn.
Thực hiê ̣n định hướng phát triển thuỷ sản từ nay đến năm 2020 sẽ là:
1) Công nghiê ̣p hoá, hiê ̣n đại hoá đi đôi với chuyển dịch cơ cấu để đảm bảo
phát triển bền vững, hiê ̣u quả. Ưu tiên xây dựng và hoàn thiê ̣n hạ tầng cơ sở nghề cá, coi
trọng phát triển nguồn nhân lực để qua từng kế hoạch 5 năm đạt được các tiến bô ̣ vững
chắc, nhằm cơ bản công nghiê ̣p hoá ngành theo hướng hiê ̣n đại vào năm 2020.
2) Tăng cường quản lý để nghề khai thác thuỷ sản có sự tăng trưởng hợp lý
gắn với bảo vê ̣ và phát triển nguồn lợi. Đẩy mạnh nuôi trồng thuỷ sản, khai thác mạnh
các tiềm năng nuôi biển và các khu vực nước ngọt. Khai thác hợp lý tuyến nước lợ, kết
hợp nuôi thâm canh hợp lý với phát triển nuôi sinh thái các đối tượng xuất khẩu. Giảm
thất thoát sau thu hoạch gắn liền với áp dụng hê ̣ thống thống nhất bảo đảm an toàn vê ̣
sinh từ khai thác, nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
3) Gắn xây dựng thuỷ sản thành ngành sản xuất hàng hoá tâ ̣p trung, thống nhất
với quản lý và phát triển theo vùng, phù hợp với cơ cấu kinh tế được quy hoạch cho các
vùng, miền.
4) Lựa chọn, phát triển và áp dụng các công nghê ̣ sản xuất tiên tiến, bảo đảm
sức cạnh trạnh cao, đáp ứng các yêu cầu bền vững, các đòi hỏi của hô ̣i nhâ ̣p nhưng cũng
đồng thời phù hợp với khả năng đầu tư và đă ̣c thù của nghề cá nhân dân.
5) Thông qua triển khai các chính sách đổi mới, đă ̣c biê ̣t là các chính sách về
thị trường, về các thành phần kinh tế và về đất đai, mă ̣t nước để phát huy cao nhất tiềm
năng và các nguồn lực cho phát triển ngành. Sử dụng hiê ̣u quả các nguồn vốn tài trợ, các
dự án quốc tế.
6) Xây dựng cơ cấu thị trường và cơ cấu sản phẩm ổn định, vừa có tính cạnh
tranh cao, vừa chủ đô ̣ng đối phó với các rào cản thương mại trong quá trình hô ̣i nhâ ̣p.
Nâng dần tiêu thụ trong nước gắn với phát triển thị trường thuỷ sản nô ̣i địa. Phát triển
mạnh mẽ và đổi mới dịch vụ hâ ̣u cần nghề cá.
7) Bảo đảm an toàn cho ngư dân đi biển. Giảm thiểu rủi ro về người và tài sản
do thiên tai, dịch bê ̣nh hoă ̣c do sự bất thường trong mua bán sản phẩm mà thị trường bên
ngoài chi phối.

5
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________

Phần I
Chương 1 LƯƠN ĐỒNG (Monopterus albus Zuiew)
1. 1. Giới thiệu
Tên khoa học là Monopterus albus (Zuiew).
Lươn là loài cá nước ngọt thịt ngon, bổ, giá trị dược học cao, bổ gân cốt, khử phong hàn,
lươn có tác dụng an thần, tăng trí thông minh, hạn chế phát triển khối u, chống viêm…
ngoài ra khi kết hợp lươn với mô ̣t số thành phần thảo mô ̣c khác, lươn sẽ trở thành mô ̣t
loại thuốc bổ có tác dụng nâng cao sức khoẻ, có khả năng chữa trị mô ̣t số bê ̣nh như viêm
gan mạn tính, đại tiê ̣n ra máu (Nguyễn Hữu Đảng, 2004). Trong 100gr thịt lươn chứa
18,8g đạm, 0,9g chất béo, 150mg lân, 39mg canxi, 1,6mg sắt, và nhiều loại vitamin B1,
B2, DHA,….thịt lươn cung cấp khoảng 83kcal/100gr.
Lươn đồng phân bố ở Hàn Quốc, Nhâ ̣t Bản, Thái Lan, Malaysia, Indonesia,
Philippin, Trung Quốc. Ở Viê ̣t Nam lươn đồng phân bố ở tất cả các vùng, miền trong cả
nước. Hiê ̣n nay ở ĐBSCL, phong trào nuôi lươn cũng khá phổ biến do giá trị kinh tế khá
cao, kỹ thuâ ̣t nuôi tương đối đơn giản, và đã đem lại hiê ̣u quả kinh tế nhất định. Tuy
nhiên, những người nuôi lươn chưa nắm được bị kỹ thuâ ̣t nuôi thêm vào đó nguồn lươn
giống vẫn còn phụ thuô ̣c vào tự nhiên nên nhìn chung, hiê ̣u quả nuôi lươn vẫn còn bấp
bênh. Khó khăn về nguồn giống lươn không chỉ gă ̣p riêng ở Viê ̣t Nam mà kể cả mô ̣t số
quốc gia có nghề nuôi cá nước ngọt phát triển, tiên tiến. Các vấn đề trình bày dưới đây sẽ
giúp người nuôi giải quyết mô ̣t số khó khăn vừa nêu ở trên.
1.2. Đặc điểm sinh học
1.2.1. Hình thái
Thân tròn dài, gần cuối đuôi dẹp bên. Đầu tròn, tương đối lớn cao hơn thân. Miê ̣ng
bé, hai lỗ mũi cách xa nhau, đường bên liên tục. Vây ngực, vây bụng thoái hóa. Vây lưng,
vây hâ ̣u môn tiêu giảm chỉ còn lại dạng nếp da mỏng nối liền với đuôi. Lươn không có
vẩy.
Lươn có màu vàng da cam, vàng nhạt, nâu sẫm, phía lưng thường đâ ̣m hơn, bụng
trắng nhạt.

Hình 1. Hình dạng bên ngoài của


Lươn đồng (Monopterus albus)
6
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
1.2.2. Dinh dưỡng
Là loài ăn tạp thiên về thức ăn có nguồn gốc từ đô ̣ng vâ ̣t, nhất là đô ̣ng vâ ̣t có mùi
tanh.
Khi còn nhỏ, lươn ăn sinh vâ ̣t phù du, giai đoạn tiếp theo có thể ăn côn trùng, bọ
gâ ̣y, ấu trùng chuồn chuồn,,... Khi trưởng thành thức ăn chủ yếu của lươn là giun, tôm,
tép, cá con… Khi nuôi thương phẩm có thể cho lươn ăn đô ̣ng vâ ̣t như thịt trai, ốc, hến đâ ̣p
dâ ̣p, nhô ̣ng tằm, phế liê ̣u lò mổ, v.v. Nhìn chung lươn là loài có tính ăn đô ̣ng vâ ̣t đă ̣c biê ̣t
là đô ̣ng vâ ̣t có mùi tanh. Khi bị đói lâu ngày lươn có thể ăn thịt lẫn nhau. Thị lực của lươn
kém, nhưng khứu giác và xúc giác rất phát triển. Mùa lươn đẻ chúng hầu như không ăn.
Lươn ăn chủ yếu vào ban đêm
1.2.3. Sinh trưởng
Sinh trưởng của lươn phụ thuô ̣c nhiều vào nhiều yếu tố. Nhưng nhìn chung tốc đô ̣ sinh
trưởng của lươn châ ̣m so với mô ̣t số giống loài thuỷ sản khác. Ở môi trường tự nhiên sau
mô ̣t năm, lươn có thể đạt trọng lượng 200-300g/con. Lươn 1 tuổi dài khoảng 27cm, nă ̣ng
18 – 60g.
Lươn 2 tuổi dài 36 – 48cm, nă ̣ng 74 – 270g; loại lớn dài 70 – 80cm, nă ̣ng 1,5kg. Ở miền
Bắc Viê ̣t Nam lươn lớn chiều dài 62cm, nă ̣ng 300g, ở Điê ̣n Biên có con nă ̣ng trên 900g.
Lươn con năm thứ nhất lớn nhanh về chiều dài, sang năm thứ hai tăng trọng nhanh về
trọng lượng là chủ yếu.
Nhiê ̣t đô ̣ thích hợp cho lươn sinh sống khoảng 22 – 25 oC, nếu nhiê ̣t đô ̣ xuống thấp
dưới 10oC lươn ngừng ăn và đào hang sâu để trú đông. Lươn chết khi nhiê ̣t đô ̣ lớn hơn
36oC. Lươn đi ăn chủ yếu vào ban đêm.
1.2.4. Sinh sản
Lươn là loài sinh sản lưỡng tính (trong tuyến sinh dục có cả tinh sào và trứng xen kẽ lẫn
nhau).
Theo Mai Ðình Yên (1978), lươn có kích cỡ nhỏ (dưới 25 cm) hoàn toàn là lươn cái, cỡ
25 - 54 cm có cả con đực, con cái và con lưỡng tính, cỡ lớn hơn (trên 54 cm) thì hoàn
toàn là lươn đực. Tuy nhiên đă ̣c điểm này lươn ở Đồng Bằng Sông Cửu Long không rõ
ràng.
Mô ̣t số nghiên cứu cho thấy, lươn ở ÐBSCL có kích cỡ từ 18 - 38 cm là lươn đực và trên
38 cm có cả lươn cái, lươn đực và lưỡng tính. Tùy vào kích cỡ của lươn, sức sinh sản có
thể dao đô ̣ng từ 100- 1500 trứng/con. Đường kính trứng có thể đến 4 mm.
Mùa lươn đẻ chủ yếu vào tháng 3 – 4 dương lịch, ở miền Nam lươn đẻ chủ yếu vào tháng
5 – 6, có khi kéo dài đến tháng 8 – 9. Lươn làm tổ ở nơi đất sét pha thịt như bờ ruô ̣ng,
ven kênh mương, chuôm,…trước khi đẻ lươn đực có nhiê ̣m vụ đào hang. Hang thường có
7
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
hình chữ “U” cao hơn mực nước ruô ̣ng 5 – 10cm. Trước khi lươn cái đẻ, lươn đực phun
đầy bọt trong tổ đẻ, lươn cái đẻ trên đám bọt đó. Lúc đầu đám bọt có màu trắng khi sắp
nở ngả sang màu ngà.. Trứng lươn màu vàng ánh, không có tính dính. Ở nhiê ̣t đô ̣ nước
30oC trứng lươn sau 210 giờ thì nở, 10 ngày sau lươn con tiêu hết noãn hoàng, cả lươn bố
và lươn mẹ đều có tâ ̣p tính bảo vê ̣ lươn con.
1.2.5. Tập tính sống
Lươn là loài sống đáy, thích chui rút ở nơi đất thịt pha sét, đất bùn. Màu sắc lươn
biến đổi theo môi trường sống.
Ban ngày lươn ít di chuyển, đêm bò đi kiếm ăn, lươn hoạt đô ̣ng mạnh vào mùa hè, hay đi
kiếm ăn sau những trâ ̣n mưa rào, có khi sống thành đàn khi kiếm ăn. Mùa rét nhiê ̣t đô ̣
thấp khoảng 10oC lươn rút xuống bùn trú đông, mùa xuân khi nhiê ̣t đô ̣ trên 10oC lươn bắt
đầu ra khỏi hang đi kiếm ăn, lươn có thể sống được 2 – 3 tháng ở lớp đất sâu dưới 1m
trong ruô ̣ng khô nẻ nhờ cơ thể lấy không khí trực tiếp bằng miê ̣ng và da, có sức chịu
đựng cao với môi trường xấu.
Tất cả các đă ̣c điểm sinh học nêu trên có liên quan chă ̣t chẽ đến quá trình nuôi lươn
vì vâ ̣y trong quá trình ương nuôi cần phải lưu ý.
1.3. Sản xuất giống
1.3.1. Giống tự nhiên
Hiê ̣n nay nguồn lươn giống chủ yếu vẫn là thu giống ngoài tự nhiên hoă ̣c vớt lươn
bô ̣t, vớt trứng ấp.
Vớt lươn bô ̣t: Hàng năm cứ đến mùa lươn đẻ nhìn kỹ ở các mép bờ ao, các khe hở
thấy có các khối bọt trắng, đối diê ̣n các lỗ hang sẽ phát hiê ̣n lươn con. Dùng vợt xúc lươn
con, hoă ̣c các ổ trứng cho vào thùng có sẵn nước đem về ấp. Nếu mua giống ở các chợ
phải chọn giống cẩn thâ ̣n, lươn con ( khoảng 30 – 40 con/kg), khoẻ mạnh, không bị
thương, đă ̣c biê ̣t chú ý không mua lươn bị câu làm lươn giống.
Vớt trứng về ấp: Mùa hè từ tháng 5 – 9 là mùa lươn sinh sản, người ta tìm những nơi
bờ ruô ̣ng, bờ mương, ao, hồ nơi có nhiều cây cỏ mọc, có đám bọt khí nổi lên, dùng vợt
có mắc lưới dày để vớt các ổ trứng cho vào thùng có sẵn nước, đưa về ao ấp. Khi nhiê ̣t đô ̣
từ 25 – 30oC sau mô ̣t tuần trứng nở thành lươn con, vớt lươn con về ương. Thức ăn dùng
để nuôi lươn con là lòng đỏ trứng gà, tảo, trứng nước, dòi, trùn chỉ, v.v..
Nếu được chăm sóc tốt nuôi đến cuối năm có thể đạt cỡ 20g/ con.
1.3.2. Sản xuất giống lươn nhân tạo
Do nguồn giống lươn bắt từ tự nhiên ngày càng cạn kiê ̣t. Bởi vâ ̣y muốn có đủ lươn
giống cần phải có nguồn giống chủ đô ̣ng. Vì vâ ̣y, người ta đã tiến hành cho lươn đẻ nhân
tạo.

8
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
Kỹ thuâ ̣t sản xuất lươn giống về cơ bản giống kỹ thuâ ̣t sản xuất cá giống, nhưng vì
lượng trứng của lươn ít (khoảng 80 đến 1.100 trứng trên mô ̣t cá thể) nên cần nhiều lươn
bố mẹ.
1.3.3. Chọn lươn bố mẹ
Có thể chọn từ lươn đã nuôi hay lươn mua ở chợ (phải lựa con khỏe, không bị xây
xát, không bị đánh bắt bằng điê ̣n).
Lươn cái cỡ dài 25 – 3cm, nă ̣ng 100 – 200g có bụng trứng to, ấn nhẹ thấy mềm, lỗ
sinh dục đỏ, da mỏng.
Lươn đực chọn con cỡ 150 – 250g, ấn nhẹ tay thấy tinh dịch màu trong suốt chảy
ra. Đuôi con đực thường dài hơn con cái, đầu thon mõm nhọn, hay hoạt đô ̣ng mạnh hơn
con cái.
1.3.4. Cho lươn đẻ
Cho lươn đẻ vào tháng 4 – 5 là tốt nhất (khi nhiê ̣t đô ̣ nước 23 – 27oC).
Kích dục tố: có thể dùng các loại kích dục tố khác nhau như LRH – A, HCG và não
thùy cá chép để kích thích lươn đẻ.
Tốt nhất là nên sử dụng LRH – A, lươn cái cỡ 50 – 250g, tiêm 10 – 30µg/con và
tiêm mô ̣t liều duy nhất.
Kỹ thuâ ̣t tiêm: trước khi tiêm dùng khăn mềm lau sạch và giữ cho lươn khỏi cựa
quâ ̣y, tiêm vào xoang ngực, mũi kim sâu không quá 0,5cm, mỗi liều tiêm không quá 1
ml/con.
Sau khi tiến hành tiêm cho lươn cái xong khoảng 24 giờ, tiêm cho lươn đực, liều
lượng tiêm 10 – 20µg/con.
Sau khi tiêm xong thả lươn vào bể hoă ̣c giai chứa để theo dõi, mực nước trong bể
không sâu quá 20 – 30cm, mỗi ngày thay nước mô ̣t lần.
Sau khi tiêm được 40 giờ (nhiê ̣t đô ̣ nước khoảng 25 oC) lươn đẻ, lưu ý phải kiểm tra
liên tục 3 giờ mô ̣t lần vì thời gian hiê ̣u ứng của lươn cái rất khác nhau, nên phải kiểm tra
sau 75 giờ mới kết thúc.
Cách kiểm tra: Bắt lươn cái khẽ ấn bụng trứng, có trứng rời ra lâ ̣p tức bố trí thụ tinh
nhân tạo.
Có thể cho thụ tinh nhân tạo: Bắt lươn cái đã rụng trứng lau sạch bụng ép nhẹ cho
trứng chảy ra dụng cụ chứa trứng (dùng gàu, thau hay đĩa sứ). Nếu trứng vuốt không
được thì dùng kéo con rạch lỗ sinh dục 0,5 – 1cm để ép trứng chảy ra, ép 3 – 5 lần thấy
hết trứng thì dừng lại. Sau khi vuốt trứng xong lâ ̣p tức cho tinh dịch vào thụ tinh bằng
cách mổ lươn đực lấy mô ̣t phần tinh sào, soi vào kính hiển vi (đô ̣ phóng đại 400 lần) nếu
thấy tinh trùng hoạt đô ̣ng bình thường thì lấy cả buồng sẹ (tinh sào) ra cắt vụn bỏ vào đĩa
9
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
chứa trứng, dùng lông gà nhẹ tay khuấy đều (1 con đực dùng cho 2 – 3 con cái), sau đó
dùng 200ml nước muối sinh lý cho vào, sau khoảng 5 phút cho nước sạch vào rửa hết tạp
chất rồi đưa trứng vào ấp.

1.3.5. Ấp trứng lươn


Dụng cụ dùng để ấp có thể sử dụng như đĩa sứ, giai chứa, bể kính v.v... đều được.
Kích cỡ dụng cụ ấp tùy số lượng trứng nhiều hay ít.
Rải trứng ở đáy dụng cụ ấp, dùng nước sạch, sâu khoảng10 cm, thay nước thường
̣ quá 5 oC. Nếu nhiê ̣t đô ̣ ấp ổn
xuyên. Không để nhiê ̣t đô ̣ ấp và nhiê ̣t đô ̣ nước chênh lêch
định khoảng 24oC, thời gian nở khoảng 240 – 280 giờ (khoảng mô ̣t tuần), tỉ lê ̣ nở 80 -
95%.
Lươn bô ̣t sau khi nở 24 giờ có chiều dài thân 16 – 21mm, sau 72 giờ lươn bô ̣t dài 19
mm, sau 120 giờ dài 22 – 30mm,và sau 144 giờ lươn bô ̣t dài đến 23 – 33mm.
Trong thời gian trên lươn bô ̣t sống nhờ dinh dưỡng của noãn hoàng, luôn cựa mình
bơi trong nước rồi chìm xuống đáy nằm nghỉ. Hết giai đoạn noãn hoàng lươn bô ̣t bơi
nhanh trong nước và bắt đầu tìm mồi như trùn chỉ, đô ̣ng vâ ̣t phiêu sinh để ăn.
1.3.6. Ương lươn giống
Ương trong bể xi măng loại nhỏ, sâu 30 – 40cm, mă ̣t bể cao hơn nền đáy bể 20cm,
đề phòng nước tràn lươn con đi mất. Bể ương có chỗ cấp và thoát nước, có lưới cước bịt
không cho lươn con chui qua.
Diê ̣n tích bể ương: 1 – 2m 2, lớn nhất không quá 10m2. Đáy bể cho lớp đất dày 5cm,
bón lót phân hữu cơ như phân lợn, phân bò 0,5 – 1 kg/ m 2, cho ngâ ̣p nước 10 – 20cm, cấy
giun giống vào đáy bể. Sau khi lươn bô ̣t đã nở 5 – 7 ngày (đã hết noãn hoàng) thì bố trí
vào bể ương.
Mâ ̣t đô ̣ ương: 100 – 200 con/ m2
Thức ăn nuôi vài ngày đầu tốt nhất là ăn giun con, đô ̣ng vâ ̣t phù du, có thể tăng dần
bằng thịt cá xay nhuyễn. Không thả lẫn con to với con nhỏ vì chúng dễ ăn thịt lẫn nhau.
Hàng ngày cần chú ý thay nước. Sau khi ương mô ̣t tháng lươn con dài trung bình
8cm, đến vụ ương sẽ thu được khoảng 100 con/m2, lươn giống có chiều dài bình quân
15cm, nă ̣ng 3g.
Nếu ương với mâ ̣t đô ̣: 150 – 200 con/m 2. Cho ăn thức ăn gồm: trùn chỉ, cá tép con,
cám, cơm. Ngày cho ăn hai lần. Số lượng thức ăn bằng 8 – 10% tổng trọng lượng lươn,
sau mô ̣t tháng dài 50 - 55 mm, nuôi tiếp ở bể khác.

10
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
Còn nếu ương với thưa hơn khoảng 100 – 120 con/m2 thì thức ăn là trùn chỉ, các
đô ̣ng vâ ̣t khác... và kết hợp 2 – 3% thức ăn chế biến. Năm đầu lươn có thể đạt 15 – 25cm,
nă ̣ng 5 – 10 g/con, cá biê ̣t có con nă ̣ng 10 – 15 g/con.
Chú ý:
Trước khi thả lươn 10 – 15 ngày phải tiêu diê ̣t hết cóc, nhái, kết hợp bón vôi 100 –
150g vôi bô ̣t/1m2 tháo nước vào ngâm sau mô ̣t tuần lễ tháo hết nước và cấp nước mới
vào.
Giữ sạch nước là điều quyết định thành bại khi nuôi lươn giống, đảm bảo đủ lượng
oxy, nước ở bể sâu 10 – 15cm. Quan sát lươn hoạt đô ̣ng, vớt thức ăn thừa ở sàn cho ăn,
kiểm tra vòi, van nước...
1.4. Kỹ thuật nuôi lươn thịt
Tùy vào điều kiê ̣n từng hô ̣ nuôi, tùy khu vực địa hình, nguồn giống, thức ăn mà có các
hình thức nuôi lươn khác nhau.
Hiê ̣n nay có nhiều hình thức nuôi lươn phổ biến như: nuôi lươn trong bể xi măng, hoă ̣c
chuồng lợn cải tạo lại, nuôi trong bể lót bạt hoă ̣c nuôi lươn trong ao.
1.4.1.Xây dựng ao nuôi
a. .Nuôi lươn trong ao
Diê ̣n tích ao nuôi lươn phụ thuô ̣c vào điều kiê ̣n thực tế của từng nơi. Bờ ao đầm nén kỹ
và đủ đô ̣ rô ̣ng (1,5-2,0 m) vừa có tác dụng giữ nước vừa có tác dụng chống lại viê c̣ lươn
đào hang qua bờ. Không nên nuôi lươn trong các ao có diê ̣n tích quá lớn. Ở ĐBSCL, các
ao nuôi lươn có diê ̣n tích từ 100-200m2. Xung quanh bờ và đáy ao có thể dùng ni-lon để
lót hoă ̣c bờ ao có thể xây cao có gờ để tránh lươn vượt bờ đi mất khi có điều kiê ̣n thuâ ̣n
lợi. Nơi nuôi lươn phải có điều kiê ̣n thay nước thuâ ̣n lợi và cũng cần tạo được nơi cho
lươn đào hang trú ẩn gần giống như trong tự nhiên
Đáy ao có thể phủ đáy ao mô ̣t lớp bùn non có trô ̣n phân chuồng mục dày khoảng 20-30
cm. Bùn không lẫn sỏi đá vì sẽ làm xây xát lươn. Trên lớp bùn, trải mô ̣t lớp rơm, cỏ mục
hay thân cây chuối đã mục. Mực nước trong ao nuôi sâu từ 0,5-1,2 m .Ðể tạo điều kiê ̣n
cho lươn sinh sản trong ao, xung quanh bờ ao (hoă ̣c làm cù lao/gò đất giữa ao nuôi) bằng
đất sét để lươn làm tổ. Trong ao nên thả thêm lục bình, bèo, rau muống và trên bờ trồng
cây để tạo bóng mát cho lươn.
b. Nuôi lươn trong bể xi măng
Có thể tâ ̣n dụng bể chứa nước, chuồng heo sau khi đã sửa chữa lại để nuôi lươn.
Nếu xây bể nuôi mới thì nên xây nửa nổi, nửa chìm với chiều cao khoảng 1m với diê ̣n
tích từ 6-20 m2. Bể có dạng hình chữ nhâ ̣t chiều rô ̣ng 1m để dễ dàng chăm sóc. Tốt nhất

11
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
nên chia bể thành 3 ngăn: ngăn cho lươn sinh sống (A) lớn nhất, ngăn thứ hai (B) nhỏ
hơn cho lươn đẻ và cho ăn và ngăn thứ ba (C) dùng để thu hoạch.
Ngăn A có phủ mô ̣t lớp bùn non và thân chuối như đối với ao nuôi và cách đáy bể 30 cm
có lổ thoát nước. Xếp gạch ở đáy trong ngăn này thành nhiều ngách. Ngăn B xây vách
bằng gạch hình mắt cáo cho lươn chui ra vào và quanh bên có đắp đất sét và đất thịt thành
bờ rô ̣ng 0.5 m để lươn làm tổ đẻ. Ngăn C kín và thông với ngăn B bằng mô ̣t ống có
đường kính 20 cm và có lổ thoát nước ra ngoài có lưới chắn dạng chảy tràn phòng khi
mưa to nước đầy, lươn sẽ thoát ra ngoài.
Trong bể nuôi thả bèo, lục bình làm bóng mát khoảng 1/2 diê ̣n tích. Bờ đất cũng trồng
các loại như cỏ, rau, khoai, môn để che mát cho lươn. Mức nước 0,4-0,5m
nước vào
vách ngăn bằng gạch ống nước ra

A B C

Hình 2 . Bể xi măng nuôi lươn chia 3 ngăn

nước cấp

nước thoát

cù lao
cù lao bằng đất

Hình 3. Bể xi măng nuôi lươn có cù lao bằng đất

12
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________

cấp nước
cấp thoát

cù lao để lươn sinh


sống và đẻ

Hình 4 . Ao nuôi lươn lót cao su và có cù lao bằng đất

1.4.2. Chọn lươn giống và mật đô ̣ thả


Nên chọn lươn có màu xẫm, không nên chọn lươn có kích cỡ quá nhỏ, hoă ̣c lươn đánh
bắt bằng mồi thuốc, đánh bắt bằng mồi câu hoă ̣c bằng xung điê ̣n.
Kích thước lươn giống khoảng 30 – 40 con/kg.
Lươn khỏe, không bị xây xát, đồng cỡ.
Mâ ̣t đô ̣ thả: 40 – 50 con/m2.
Phương pháp thuần dưỡng:
Do không rõ nguồn gốc, phương pháp đánh bắt trước khi thả lươn cần phải thuần lươn.
Nên có nhiều bể để thuần dưỡng chứa nhiều cỡ lươn khác nhau.
Bể thuần dưỡng lươn đă ̣t nơi thoáng mát, yên tĩnh, tránh ánh nắng trực tiếp và gây
tiếng đô ̣ng.
Lươn thu gom về xử lý bằng nước muối 4 – 5% trong 4 – 5 ph để trị ký sinh trùng,
hoă ̣c dùng dung dịch xanh Malaxit 10g/m3 để trị nấm trong 25 – 30 phút.
Trong 2 – 3 ngày đầu không cho lươn ăn. Nhiê ̣t đô ̣ nước từ 23 – 28oC, pH 6,5 – 8, đô ̣
mă ̣n không quá 6‰.
Thay nước 1 – 2 lần/ngày. Sau mô ̣t tuần cho ăn trùn chỉ hoă ̣c cá, tép xay nhuyễn. Sau
10 – 15 ngày có thể thả vào bể nuôi.
1.4.3. Thức ăn
Nhìn chung thức ăn cho lươn bao gồm nhiều loại tùy từng điều kiê ̣n mà có thể tâ ̣n
dụng các loại thức ăn có sẵn ở địa phương như: giun, ốc, hến, cá, tép vụn, phế phẩm lò
mổ, thịt hến, trai…

13
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
Khẩu phần ăn là 5-8% trọng lượng thân. Cho lươn ăn ngày 2 – 3 lần. Trong quá trình
chăm sóc cần phải nắm vững nguyên tắc “ 4 định” (định chất, định lượng, định thời gian,
định vị trí). Không cho lươn ăn thức ăn bị ươn thối, lươn ăn tốt nhất là vào buổi chiều mát
từ 15 – 17 giờ.
1.4.4. Chăm sóc và quản lý
Giữ nguồn nước sạch, không bị ô nhiễm.
Định kỳ 2 - 3 ngày thay nước 1 lần. Mùa hè thay nước hằng ngày. Giữ nhiê ̣t đô ̣ nước
ổn định, do mực nước trong bể nuôi thấp nên ở phía trên phải trồng các loại cây cỏ
thủy sinh hoă ̣c thả bèo để tránh nắng cho lươn.
Lưu ý: giữ lươn không bò trốn vào những ngày trời mưa liên tục lươn hay tìm cách bò
trốn ra ngoài vì vâ ̣y cần kiểm tra bờ, cống thường xuyên.
1.4.5. Thu hoạch
Sau khoảng 8-10 tháng nuôi có thể thu hoạch, khi đó lươn đạt kích cỡ khoảng
200g. trước khi thu hoạch nên ngưng cho lươn ăn 2-3 ngày sau đó dùng cám, gạo
rang trô ̣n với cua, tép và giun làm mồi và dụ lươn vào ngăn thu hoạch. Khi thấy lươn
tâ ̣p trung nhiều trong ngăn thu hoạch thì đóng nút thông với ngăn B và dùng vợt bắt
lươn.
Nên thu vào buổi sáng sớm hay chiều mát.
Nên bắt từng mẽ, thu gọn vâ ̣n chuyển nhanh.
Rửa sạch bùn đất bám trên da lươn, mang lươn trữ trong bể chứa trước khi vâ ̣n
chuyển đến nơi tiêu thụ.
Không vâ ̣n chuyển lươn với mâ ̣t đô ̣ quá cao làm lươn dễ bị ngô ̣p và chết.
Năng suất: lươn nuôi trong bể có thể đạt từ 6 – 10 kg/m 2/ vụ. Trong năm có thể tiến
hành thả 2 – 3 vụ nuôi.
1.5. Mô ̣t số bệnh thường gặp, cách phòng và trị bệnh cho lươn
Nguyên nhân gây ra và cách phòng bê ̣nh
Nguyên nhân: có rất nhiều nguyên nhân làm cho lươn bị bê ̣nh có thể là do khi vâ ̣n chuyển
lươn bị xây xát, sự thay đổi đô ̣t ngô ̣t về thời tiết, môi trường nước bị ô nhiễm, thức ăn,
cách quản lý chăm sóc chưa hợp lý…
Cách phòng trị bê ̣nh: khi lươn bị bê ̣nh hiê ̣u quả chữa trị không cao nên phải thực hiê ̣n
phương châm phòng bê ̣nh là chính. Khi mua lươn giống phải thuần dưỡng và xử lý, khi
phát hiê ̣n bê ̣nh phải kịp thời xử lý nhanh.
Mô ̣t số bê ̣nh thường gă ̣p:

14
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
1.5.1. Bệnh sốt nóng
- Nguyên nhân: Bê ̣nh xảy ra do nuôi lươn với mâ ̣t đô ̣ cao, dịch nhầy lươn tiết ra, lên
men
- Triê ̣u chứng: lươn bị xáo đô ̣ng trong bể, quấn quýt vào nhau, dịch nhầy tiết vào
trong nước, đô ̣ nhớt của nước tăng lên, đầu lươn sưng phồng to, lươn chết hàng loạt.
- Phòng trị: Giảm mâ ̣t đô ̣ nuôi, thay nước, dùng dung dịch Sulphate đồng 0,07%,
pha dung dịch xử lý khoảng 5ml/ m3.
1.5.2. Bệnh lở loét (bệnh đóng dấu)
- Nguyên nhân: do ký sinh trùng, vi trùng bám vào vết thương.
- Triê ̣u chứng: trên mình lươn xuất hiê ̣n nhiều vết tròn hay hình bầu dục xen lẫn các
vùng da bị dâ ̣p nát
- Phòng trị: Trước khi nuôi sát trùng bể bằng vôi, phun thuốc Streptomycin ở toàn
bể, dùng 250.000 UI/m2, hoă ̣c dùng Cenplex đồng để tắm lươn.
- 1.5.3. Bệnh nấm thủy mi
- Nguyên nhân: Do mốc ký sinh trùng trên mình hay trứng lươn gây ra, sợi hình bông
bám vào lươn để hút dinh dưỡng làm lươn mất máu rồi chết.
- Triê ̣u chứng: Có thể thấy những đốm trắng như bông gòn bám trên cơ thể lươn.
- Phòng trị: vôi hòa tan tưới vào bể. Ngâm lươn vào dung dịch nước muối 3 – 5%
trong 3 – 5 phút,. Hoă ̣c sử dụng Cenplex Cu liều dùng khoảng 10gr/m3 nước.
1.5.4. Bệnh tuyến trùng
- Nguyên nhân: Do ký sinh trùng đường ruô ̣t gây viêm ruô ̣t sưng đỏ.
- Triê ̣u chứng: Kí sinh trùng có màu trắng dài khoảng 1 mm, đầu bám vào niêm mạc
phá hoại mô, làm lươn gầy mòn, rối loạn tiêu hóa, hâ ̣u môn sưng đỏ, kiê ̣t sức mà chết.
- Phòng trị: Sử dụng thuốc xổ sán lãi như Vime Clean với liều dùng 1kg/4 tấn lươn,
cho ăn liên tục 3 ngày, hoă ̣c sử dụng 0,1g sunfathiozol bôi hoă ̣c trô ̣n lẫn với thức ăn cho
lươn ăn liên tục khoảng mô ̣t tuần.
1.5.5. Bệnh đỉa
- Nguyên nhân: Do đỉa bám.
- Triê ̣u chứng: đỉa nhỏ liti bám vào đầu lươn hút máu làm lươn mất máu,
- Phòng trị: Dùng dung dịch Sulphate đồng nòng độ 100ppm,
IV. Mô ̣t số trở ngại khi nuôi lươn
Khó khăn lớn nhất trong nghề nuôi lươn hiê ̣n nay là nguồn giống. Do lươn có sức sinh
sản thấp, thời gian phát triển phôi dài (khoảng 200 giờ) nên viê ̣c sản xuất lươn giống

15
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
nhân tạo với số lượng lớn gă ̣p rất nhiều khó khăn (trên thế giới chưa có quốc gia nào có
quy trình sản xuất lươn giống hoàn chỉnh).
Hiê ̣n nay ở ĐBSCL người nuôi lươn vẫn phải thu gom lươn giống ngoài tự nhiên. Đây là
khó khăn lớn nhất cho người nuôi vì chất lượng giống nuôi không bảo đảm nhất là khi
nuôi với diê ̣n tích lớn, số lượng lượng giống cần nuôi nhiều. Nguồn giống nuôi không
bảo đảm có thể do mô ̣t số nguyên nhân sau:
Lươn thu gom từ nhiều nguồn khác nhau, thời gian lưu giữ lươn dài.
Phương tiê ̣n đánh bắt (có thể bắt bằng dòng diê ̣n) làm ảnh hưởng sức khoẻ lươn. Kích
cỡ lươn không đều.
Người nuôi chưa được trang bị đầy đủ về kỹ thuâ ̣t nuôi và chăm sóc lươn.
Thức ăn không đủ trong quá trình nuôi nên tỷ lê ̣ hao hụt cao.
Chưa có thuốc đă ̣c trị mô ̣t số bê ̣nh của lươn

16
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________

Chương 2 ẾCH ĐỒNG (RANA TIGRINA)


2.1. Giới thiệu
Nhóm ếch nhái trên thế giới có đến 2000 loài. Viê ̣t Nam có nguồn lợi ếch hết sức
phong phú như: ếch xanh, ếch gai, ếch vạch, ếch cốm, ếch giun, ếch bám đá, ếch leo cây.
Trong đó, ếch đồng là loài có giá trị hơn cả.
Từ lâu ếch đã được xem là đối tượng hữu ích đối với đời sống con người trong sản xuất
nông nghiê ̣p. Ếch giúp tiêu diê ̣t côn trùng, sâu bọ phá hoại mùa màng. Nhiều nghiên cứu
ở Trung Quốc cho thấy khi nuôi ếch trong ruô ̣ng lúa đã làm tăng năng suất luá rõ rê ̣t.
Ếch không những là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao mà ếch còn là đối tượng dùng
trong các thí nghiê ̣m và góp phần quan trọng trong viê ̣c nghiên cứu về lĩnh vực thần kinh
và sinh lý học. Ngoài ra thịt ếch cũng được dùng chữa trị mô ̣t số bê ̣nh như chữa tắc kinh
ở phụ nữ, bê ̣nh đái dầm ở trẻ em (Nguyễn Hữu Đảng, 2004).
Ở Ðài loan loài ếch bò được nhâ ̣p từ Nhâ ̣t bản vào năm 1924 và là đối tượng nuôi chính ở
đây. Ngoài ra Singapore cũng có dự án nuôi ếch rất qui mô. Ở Ðức, Ba lan và Anh đều có
trại nuôi ếch. Tại Viê ̣t nam, loài ếch bò được di nhâ ̣p từ Cu ba vào miền Bắc từ những
năm 1960, tuy nhiên, viê ̣c nuôi loài ếch này cho thấy hiê ̣u quả không cao.
Trong những năm gần đây, các tỉnh phía nam cũng có mô ̣t số hô ̣ nuôi ếch như Cần thơ,
An giang. Tuy hiên hiê ̣u qủa kinh tế của mô hình nuôi ếch này chưa cao vì chưa chủ đô ̣ng
được nguồn giống, hơn nữa ếch ở Viê ̣t Nam chưa được thuần dưỡng nên khi nuôi tỷ lê ̣
sống không cao. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến viê ̣c nuôi ếch chưa phát triển thành
phong trào.
Năm 2001-2002, đã có mô ̣t số hô ̣ ở thành phố Hồ Chí Minh, An Giang, Đồng Tháp nhâ ̣p
ếch Thái Lan (Rana rugulosa) về nuôi. Đây là đối tượng mới di nhâ ̣p nên cần có thời gian
theo dõi. Nhưng những kết quả ban đầu cho thấy ếch Thái Lan có thể phát triển nuôi rô ̣ng
rãi và có thể nuôi với quy mô công nghiê ̣p.
2.2. Đặc điểm sinh học
2.2.1.Phân bố, hình thái, cấu tạo
Ếch đồng sống ở khắp nơi ao hồ, đồng ruô ̣ng, sông ngòi, mương, những nơi ẩm ướt
và có nguồn nước ngọt. Là loại đô ̣ng vâ ̣t máu lạnh, thuô ̣c lớp lưỡng cư, sống được ở cả 2
môi trường trên cạn và dưới nước.

17
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
Ngoài thở bằng phổi, ếch còn thở bằng da.
Ếch có thể sống tới 15 – 16 năm. Ếch kém chịu rét và nóng, lại không biết đào hang
hầm để trú đông.
2. 2.2. Tập tính sống
Mắt ếch kém tinh, ếch chỉ nhìn rõ những con vâ ̣t di đô ̣ng. Da ếch có khả năng thay
đổi màu sắc để phù hợp với môi trường sống, là cách ngụy trang trốn tránh kẻ thù và rình
bắt mồi, ếch không ưa đất nước chua mă ̣n, sợ rắn, chuô ̣t, sợ kim loại nă ̣ng, sợ tàn thuốc
lá, và các chất đô ̣c khác.
2.2.3. Dinh dưỡng
Khi còn nhỏ, chúng rất thích ăn cám gạo, ốc, cua, cá giã nhỏ. Ếch thường ngồi mô ̣t chỗ để
quan sát những con mồi di đô ̣ng và ăn chúng.
2.2.4. Sinh trưởng
Vòng đời: trứng – nòng nọc – ếch con – ếch trưởng thành. sau 1 tháng có thể đạt 25 - 30
g/con, ếch thương phẩm cỡ 80 - 100 g/con.
2.2.5. Sinh sản
Ếch từ 2-3 năm tuổi cho kết quả sinh sản cao nhất
Ếch đẻ rô ̣ vào mùa xuân.
Ếch đực kêu to vang vọng là nhờ có hai túi kêu mỏng thông với xoang miê ̣ng như hai
chiếc loa thùng khuếch đại âm thanh.
Bàn tay (chi trước) của ếch đực còn có chai tay sinh dục.
Ếch đẻ trứng ra ngoài môi trường nước và thụ tinh ngoài (giống như cá).
nhiê ̣t đô ̣ 25-30oC, thời gian phát triển phôi là 18-24 giờ. Sự biến thái của nòng nọc thành
ếch con có thể được chia thành 2 thời kỳ:
Thời kỳ 1: Nòng nọc mới chỉ có đầu, thân và đuôi.
Nòng nọc bơi lô ̣i dễ dàng trong nước. Thức ăn chủ yếu là đô ̣ng vâ ̣t thủy sinh cỡ nhỏ.
Thời kỳ 2:
Ðuôi và mang tiêu biến đồng thời xuất hiê ̣n mi mắt, lưỡi, phổi, cơ.
Sau đó nòng nọc trở thành ếch con.
Ở nhiê ̣t đô ̣ 28-30oC, sau 3 tuần nòng nọc sẽ biến thái thành ếch con
2.3. Sản xuất giống
2.3.1. Nuôi vỗ bố mẹ
Khối lượng ếch bố mẹ trung bình 100gr/con.
Mâ ̣t đô ̣ nuôi vỗ: 4-6 că ̣p/ m2
Tỉ lê ̣ đực cái là 1:1
18
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
Chế đô ̣ nuôi vỗ:
Khẩu phần ăn là 5-10% trọng lượng thân ( tăng tỉ lệ đạm động vật trong khẩu phần ăn.
2.3.2. Cho đẻ
khi thấy bụng ếch cái to mềm và có tiếng kêu thưa thớt của ếch đực, là báo hiê ̣u 3 – 4
ngày sau ếch sẵn sàng đi đẻ. chọn nơi yên tĩnh.
Ao cho đẻ nên chia hai phần: phần có mực nước sâu 10-15cm là nơi cho ếch bắt că ̣p
và đẻ, diê ̣n tích phần này chiếm khoảng 30%, phần còn lại sâu 30-40cm để ếch bơi lô ̣i và
gọi đàn trước khi bắt că ̣p.
2.3.3. Ấp trứng và ương nòng nọc
Dụng cụ dùng ấp trứng ếch và ương nòng nọc trong giai đoạn đầu có thể là những thau,
châ ̣u, bể lót nilon, giai hay bể xi măng.
Ếch đẻ đêm thì sáng hôm sau chuyển hết ếch bố mẹ, để nguyên các ổ trứng trong ao,
ương cho nở tự nhiên.
Khi vớt trứng thao tác phải nhẹ nhàng, không làm trứng vón cục và khi đưa trứng vào ấp
không lâ ̣t ngược khối trứng
Khi ấp trong giai bằng lưới nilon mềm, giai đă ̣t ngâ ̣p 15-20cm trong ao nước sạch.
mâ ̣t đô ̣ 1000-3000 con/m2. Trong 10 ngày đầu thức ăn bổ sung bao gồm các loại bô ̣t bắp,
bô ̣t gạo nấu chín
Sau 2 tuần, nọc bắt đầu ngoi lên mă ̣t nước để đớp khí, chân cũng xuất hiê ̣n.
2.3.4. Nuôi ếch con thành ếch giống
Mâ ̣t đô ̣ ếch thả 500-1.000 con/m2.
thức ăn cho ếch bao gồm các mồi di đô ̣ng như cá con, giáp xác nhỏ, trùng chỉ, giun đất,
và có thể kết hợp với thức ăn hổn hợp.
Lượng thức ăn cho ếch trung bình 7-10% trọng lượng thân.
Cho ăn mỗi ngày 2 lần vào buổi sáng và buổi chiều.
2.3.5. Vận chuyển
Chọn ngày trời mát, nhiê ̣t đô ̣ không khí dưới 30oC. Nòng nọc vâ ̣n chuyển bằng
thùng, xô, châ ̣u có nước sạch; mâ ̣t đô ̣ 80 - 100 con/lít; bằng túi nylong có bơm oxy: 600 –
800 con/lít. Ếch con vâ ̣n chuyển bằng sọt, rổ tre, lồng (có lót nilon).
Ếch thịt vâ ̣n chuyển dụng cụ lớn hơn, thiết kế nhiều tầng, không chồng đè lên nhau,
thoáng và giữ được đô ̣ ẩm bão hoà.
2.4. Nuôi ếch thương phẩm
2.4.2. Thả giống
Ếch giống cỡ 5 – 10g/con, đảm bảo chất lượng. Mâ ̣t đô ̣ thả: 40 – 60 con/m2.

19
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
2.4.3. Cho ăn
Thức ăn: Ngoài các loại giun đất, giòi, tôm tép, cua và các loại côn trùng
Khẩu phần ăn trong ngày bằng 8 – 10%
2.4.4. Chăm sóc quản lý
Sau khi thả giống, nuôi 4 – 5 tháng, ếch có thể đạt 80 – 100 g/con.
2.4.5 Thu hoạch, vận chuyển
Trước khi thu hoạch và vâ ̣n chuyển, cần phải ngừng cho ăn và luyê ̣n ếch bằng cách gom
chúng lại với mâ ̣t đô ̣ dày cho quen dần với điều kiê ̣n châ ̣t hẹp để giảm tỉ lê ̣ tử vong trong
quá trình vâ ̣n chuyển.
2.5. Phòng và trị bệnh
2.5.1. Phòng bệnh
Vê ̣ sinh, tẩy trùng ao, vườn trước khi nuôi. ếch giống khi mua về, có thể tắm nước
muối 3%.
2.5.2. Chữa bệnh
2.5.2.1. Bệnh ghẻ lở ở ếch
Dùng thuốc sát trùng
2.5.2.2. Bệnh trướng hơi
Phổ biến ở nòng nọc.
- Nguyên nhân: Do nước bẩn, thức ăn dư thừa, hôi thối. - Triê ̣u chứng:
Nòng nọc bị mắc bê ̣nh này bụng trương to, ngửa lên rồi chết.
Cách phòng: Thay nước thường xuyên, giữ môi trường trong sạch
2.5.2.3. Bệnh trùng bánh xe
Cả nòng nọc và ếch đều có thể mắc bê ̣nh;
Nguyên nhân: Do Trichodina gây ra.
Triê ̣u chứng: Có nhiều điểm trắng bạc trên da và đuôi, thân có nhiều dịch nhờn.
Cách phòng: Dùng CuSO4
2.5.2.4. Bệnh kiết lỵ
Nguyên nhân: Do vi khuẩn gây ra.
Triê ̣u chứng: phân ếch màu trắng hay phân sống, nếu bị nă ̣ng hâ ̣u môn bị đỏ, có máu
chảy ra khi nhấn vào.
Cách phòng Trị: Giảm lượng thức ăn xuống còn 50% trong ngày và trô ̣n Ganidan
giã nhỏ trô ̣n vào thức ăn với liều lượng 1 viên/1 kg thức ăn

20
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________

Chương 3 BA BA (Trionyx sinensis, Wiegman)


3.1. Giới thiệu
3.2. Đặc điểm sinh học
3.2.1. Hình thái
Hình dạng ngoài: dẹt ngang, bầu dục, mắt nhỏ, cổ dài, có thể thụt vào trong giáp,
đầu trước mõm có lỗ mũi. Lưng màu xanh mờ hoă ̣c vàng nâu. Bụng màu trắng pha vàng
nhạt, Mai lưng và mai bụng do biểu bì và chân bì cấu thành. Biểu bì cấu thành chất keo
diềm mai.

“Ba ba trơn” trên mai không có những nốt sần, bụng có màu vàng phân bố ở các
thủy vực như sông, ao, hồ ở đồng bằng miền Bắc
“Ba ba gai” trên mai có những nốt sần, càng về cuối mai nốt sần càng to dần. Chúng phân
bố ở miền núi phía Bắc.
“Cua đinh” cổ có vòng gai sần. Trên đầu và mai có những vạch trắng. Loài này phân bố ở
các đầm lầy ở miền Nam.

3.2.2. Tập tính sống


Ba ba thuô ̣c đô ̣ng vâ ̣t biến nhiê ̣t (máu lạnh).
Thở bằng phổi, nhiê ̣t đô ̣ thích hợp 25-32oC.
Sống trong môi trường yên tĩnh.
dưới 15oC nó ngừng ăn, khi 10oC ba ba ở vào trạng thái ngủ đông.
3.2.3. Dinh dưỡng
Ba ba ở ngoài tự nhiên ăn thức ăn đô ̣ng vâ ̣t như ốc, trai, giun, hến, cua và cá. Khi
nuôi còn ăn thêm cả thức ăn thực vâ ̣t như cám, bắp, khoai lang.
Ba ba không chủ đô ̣ng bắt mồi.

21
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
ba ba có thể ăn cả mồi đã ươn thối, có khả năng chịu đói.
3.2.4. Sinh trưởng
Ba ba là đô ̣ng vâ ̣t lớn châ ̣m, dễ bị bê ̣nh. Ba ba lớn nhanh khi nhiê ̣t đô ̣ trên 25oC, thấp hơn
khoảng 15oC, ba ba ít ăn và vì thế cũng rất châ ̣m lớn và dễ bị chết. Cỡ 2 – 3 tuổi ba ba
lớn nhanh nhất.
Điều đă ̣c biê ̣t ba ba không lô ̣t xác khi lớn lên như các loài bò sát khác.
3.2.5. Sinh sản
ba ba 2 – 3 tuổi bắt đầu thành thục, chúng thường giao phối vào tháng 3, tháng 4. Trước
khi giao phối có biểu hiê ̣n truy đuổi lẫn nhau trong nước, thụ tinh trong.
khi nhiê ̣t đô ̣ nước lên tới 28 oC thì ba ba đẻ, đẻ rô ̣ nhất từ tháng 6 – 7, mùa sinh sản kéo
dài tới tháng 10.
ba ba thường đẻ 2 – 3 lần, có con đẻ 4 – 5 lần.
Trứng mới đẻ ra hơi tròn, đường kính 1,5 – 2 cm, nă ̣ng 3 – 5g.
3.3. Sản xuất giống
3.3.1. Ao nuôi
Diê ̣n tích ao: 50 – 200 m2
Mực nước: 1,2 – 1,5m
Nền đáy cát mịn dày khoảng 15 -20 cm hoă ̣c đất thịt pha sét.
Nguồn nước sạch, có cống cấp, thoát.
3.3.2. Chọn ba ba giống
Ba ba đực: Sống mai hơi lõm xuống, sau mai có hình tròn. Đuôi dài cuống đuôi dầy
hơn ba ba cái.
Ba ba cái: Mai gồ nhiều, có hình bầu dục, cuống đuôi mỏng hơn ba ba đực,
Khoảng cách giữa hai chân sau con cái rô ̣ng hơn con đực
3.3.3. Nuôi vỗ ba ba bố mẹ
chọn những con to khỏe, tốt nhất nên chọn ba ba có trọng lượng từ 1,5 – 2,0 kg/con. Mâ ̣t
đô ̣ 3 – 5 con/m2. Tỷ lê ̣ đực cái 1: 1.
Cho ăn đầy đủ dinh dưỡng,
lượng cho ăn bằng 5 – 8 % trọng lượng thân.
3.3.4. Bãi đẻ trứng của ba ba
Làm ở cạnh ao, hay giữa ao rô ̣ng khoảng 2 – 5m2, có đô ̣ dốc 25o, nên phủ mô ̣t lớp
đất cát pha để ba ba dễ đào hố đẻ trứng.
. Bãi đẻ cần yên tĩnh
3.3.5. Đẻ trứng

22
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
Sau khi con đực và con cái giao phối (hay còn gọi là “quần hôn”). Ba ba cái đi tìm nơi có
đất xốp, kín đáo ở các bụi cỏ râ ̣m rồi đẻ trứng. thời gian đẻ 5 – 10 phút. 60 – 70 ngày
trứng nở ra con.

3.3.6. Thu trứng và ấp trứng


a. Ấp trứng tự nhiên
Tổ trứng ba ba cần đảm bảo đủ đô ̣ ẩm bằng cách tưới nước (dạng phun sương) hoă ̣c trồng
nhiều cây bóng mát để luôn giữ ẩm.
Trứng thường nở về đêm.
b. Ấp trứng nhân tạo
Sau 7 – 10 ngày khẽ đất lên nhă ̣t trứng đưa về ổ ấp ở trong nhà
Trứng được thụ tinh, vỏ có màu ngà vàng và nhìn rõ túi hơi trong trứng. Trứng không
được thụ tinh thì không rõ túi hơi và trên vỏ có những chấm trắng loang lổ.
nếu giữ nhiê ̣t đô ̣ ổn định khoảng 30 - 34oC thì thời gian ấp sẽ được rút ngắn đáng kể (35 -
40 ngày) và tỷ lê ̣ nở của trứng có thể đạt 80 - 90%. Nhiê ̣t đô ̣ thấp hơn 20 oC hoă ̣c cao hơn
37oC trứng sẽ bị hỏng.
3.3.7. Ương ba ba giống, con
khi ba ba sắp nở phải kê khay ấp trứng lên châ ̣u. Ba ba mới nở ra rất yếu, có thể dùng
nước muối 10% hoă ̣c dung dịch thuốc tím 1ppm tắm cho ba ba.
Sau 2 ngày ương cho ăn lòng đỏ trứng gà, sau 1 tuần đưa ra bể nuôi.
Mâ ̣t đô ̣ ương khoảng 30 – 50 con/m2.
Thức ăn của chúng chủ yếu trong mô ̣t tuần đầu là các loại trùng chỉ với tỉ lê ̣ khoảng 10%
trọng lượng thân.
cho ba ba ăn 2 - 3 lần: sáng, chiều và tối.
Chú ý khi nhiê ̣t đô ̣ xuống dưới 10oC phải chuyển ba ba vào trong nhà, chống rét cho
ba ba.
3.4. Kỹ thuật nuôi ba ba thịt
3.4.1. Ao nuôi ba ba
Căn cứ vào đă ̣c điểm sinh sống và sinh sản của ba ba, trong sản xuất người ta lợi
dụng kỹ thuâ ̣t nhân tạo để sản xuất giống và nuôi ba ba thịt.
Căn cứ đă ̣c điểm sinh trưởng và sinh sống của ba ba, phần lớn áp dụng phương pháp
nuôi phân cấp: ba ba con, ba ba giống và ba ba thịt, ba ba bố mẹ. Cũng có nơi nuôi ghép
với cá giống và cá thịt. Ao nuôi gồm: a. Ao nuôi ba ba con
Ao nuôi là các bể xây trong nhà, diê ̣n tích 5 – 10m2, cao 0,8 – 1m, mực nước sâu 0,5

23
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
– 0,7m, đáy bể rải mô ̣t lớp cát nhỏ dày 3 – 5cm, xung quanh xây tường chắn, có gờ chắn
nhô ra phía trong bể 5 – 8cm. Hai đầu bể đă ̣t cống cấp nước và cống thoát nước, miê ̣ng
cống có chắn lưới sắt. Cống thoát nước đă ̣t sát đáy bể, đă ̣t sàn cho ăn ở gần đầu cống
thoát nước.
b. Ao nuôi ba ba thịt
Phần lớn là ao đất, cũng có thể dùng bể xây, diê ̣n tích 50 – 100m2, cao 1,2 – 1,5m,
nước sâu 0,7 – 1m, xung quanh có tường chắn, có gờ nhô 10 – 15cm về phía trong, đáy
ao rải mô ̣t lớp cát nhỏ dày 15 – 20cm. Đă ̣t giàn cho ăn ở đầu phía nam của ao có chiều
dài bằng 80% cạnh dài của ao.
c. Ao nuôi ba ba bố mẹ
Dùng ao đất, diê ̣n tích 600 – 2000m2, sâu 2m, mức nước 1,3 – 1,5m, đáy ao rải mô ̣t
lớp cát nhỏ dày 20 – 25cm, xung quanh ao có tường chắn, tường cao 60 – 80cm, có gờ
chắn 15 – 20cm, quanh ao và tường chắn để đất lưu không rô ̣ng 1,5m, đắp thành bờ dốc
khoảng 30o để làm chổ cho ba ba phơi nắng. Ở đầu hướng nam của ao làm khu đẻ trứng
rô ̣ng 40 – 60m2, đô ̣ dốc khoảng 30o, trên rãi lớp cát nhỏ dày 25cm, trên đó trồng loại cây
có thân cao, lá rô ̣ng.
3.4.2. Ương ba ba con
Da ba ba con còn mỏng dễ bị cắn tổn thương, tạo cơ hô ̣i cho vi khuẩn hoă ̣c nấm xâm
nhâ ̣p gây bê ̣nh. Khi nuôi ba ba con nếu cho ăn thức ăn nhiều mỡ quá dễ sinh bê ̣nh về
đường tiêu hóa, làm ba ba bị chết. Vì vâ ̣y cần chú ý trong nuôi dưỡng. Thường để ba ba
mới nở hoạt đô ̣ng tự do trên khay cát khoảng 2 giờ để chúng trút hết màng nhớt, cuống
rốn, đợi cho noãn hoàng tự tiêu hết và khép kín lỗ rốn khô lại rồi chuyển vào nuôi trong
châ ̣u sứ, cho ăn bằng thức ăn dạng cháo, hồ nhão, tắm khử trùng cho ba ba con bằng dung
dịch thuốc tím 0,1ppm để phòng bê ̣nh, thời gian tắm khoảng 15 phút. Với con đã bị nấm
thủy mi thì dùng nước muối nồng đô ̣ 3 – 5% tắm trong vòng từ 5 đến 10 phút, sau đó mới
đưa vào ao ương, mâ ̣t đô ̣ ương 7 – 12 con/m2, hàng ngày cho ăn bằng cá tạp, tôm xay nhỏ
hay giun theo mức 5% trọng lượng ba ba, nếu cho ăn bằng thức ăn hỗn hợp thì pha chế
theo tỷ lê ̣: bô ̣t cá, bô ̣t ngũ cốc, ruô ̣t đô ̣ng vâ ̣t mỗi loại 28 – 29%, bô ̣t vỏ sò lẫn giun 10%,
ngoài ra cho ăn thêm thức ăn bổ sung như dầu thực vâ ̣t 3,5 – 5%. Khi nuôi cần đă ̣t biê ̣t
chú ý chất lượng nước.
Khi nhiê ̣t đô ̣ không khí ngoài trời xuống dưới 10oC thì phải chuyển ba ba vào trong
nhà, cho vào hòm gỗ rải sẵn 30cm cát nhỏ ẩm để chống rét, phải hết sức đề phòng chuô ̣t
đến ăn, giữ nhiê ̣t đô ̣ trong phòng từ 10 – 15oC. Chống rét cho ba ba con ở ao thì trên mái
che ao phải phủ rơm, cỏ, đáy ao phủ cát nhỏ dày thêm 5cm.

24
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
Nếu mùa đông ương trong nhà, giữ nhiê ̣t đô ̣ khoảng 30oC, tới đầu mùa hạ năm sau
ba ba có thể đạt cỡ 100g, ương tiếp qua hè tới thu – đông thì đạt khoảng 500g.
3.4.3. Nuôi ba ba giống và ba ba thịt
Hiê ̣n nay ba ba có 2 nguồn giống có thể chọn nuôi: giống tự nhiên và giống nhân tạo. Tuy
nhiên, đối với giống tự nhiên, cần chọn cẩn thâ ̣n. Không nên mua ba ba bị câu, giâ ̣t điê ̣n,
xây sát hay thương tích, dị tâ ̣t. Ba ba yếu thường có biểu hiê ̣n bò châ ̣m, cổ rụt không hết,
mắt đục, không chúi được xuống bùn khi thả xuống ao. Những con khỏe khi bị lâ ̣t ngửa
sẽ tự lâ ̣t sấp lại.
Ba ba làm giống nuôi nên có kích cở đồng đều với trọng lượng trung bình 100-200g
Trường hợp khác biê ̣t lớn về kích cỡ thì nên tách nuôi riêng để tránh cạnh tranh thức ăn
hoă ̣c có thể ăn lẩn nhau.
Mùa vụ thả giống từ tháng 2 - 3. Tùy vào kích cỡ giống mà mâ ̣t đô ̣ thả như sau:
Cỡ giống (gam) Mâ ̣t đô ̣ (con/m2)
50-100 10-15
100-150 7-10
150-200 3-5
400-600 1-3
Thức ăn cho ba ba bao gồm các loại thịt đô ̣ng vâ ̣t cá, tép, cua, ốc, giun đất hay cả các loại
phế phẩm lò sát sinh. Cũng có thể cho ăn bổ sung thức ăn chế biến với thành phần bao
gồm: bô ̣t bắp 30%, cám 30%, đâ ̣u nành 20%, bô ̣t cá 20%.
Cho ba ba ăn mỗi ngày 2 - 3 lần vào sáng và chiều với khẩu phần ăn 5 - 8% trọng lượng
ba ba nuôi. Có thể cho ba ba ăn trên sàn đă ̣t trên bờ hoă ̣c đă ̣t sàn ăn ngâ ̣p sâu trong nước
20 - 25 cm. Hàng ngày trước khi cho ăn cần vê ̣ sinh kỹ sàn ăn, và thông qua kiểm tra thức
ăn mà điều chỉnh lượng thức ăn thích hợp, tránh quá dư thừa làm bẩn nước mà dễ dàng
gây bê ̣nh cho ba ba nuôi. Để dễ kiểm tra mức sử dụng thức ăn của ba ba cần tâ ̣p cho ba ba
ăn cố định ở mô ̣t vị trí và ở mô ̣t thời gian ổn định.

rào chắn trên bờ (h:0,5 -0,6m


cỏ cầu để ba ba lên bờ hoặc đi đẻ
bè để ba ba phơi nắng

H: 0,8 -1,2m

Hình 1. Mô hình nuôi ba ba thịt

25
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________

Ngoài ra, cũng có thể thả nuôi thêm các loài ốc, cá rô phi để chúng sinh sản làm mồi trực
tiếp cho ba ba hoă ̣c nuôi giun đất trên bờ để chủ đô ̣ng nguồn thức ăn cho chúng.
Nhiê ̣t đô ̣ thích hợp cho ba ba bắt mồi từ 22 - 32 oC. Ba ba sẽ ngừng ăn khi nhiê ̣t đô ̣ quá
cao (toC> 35oC) hay quá thấp (toC< 12oC).
Trong quá trình nuôi, cần định kì thay nước để giữ môi trường trong sạch và cũng cần giữ
môi trường yên tĩnh, tránh gây tiếng đô ̣ng.
Khi đạt kích cỡ thương phẩm thì có thể thu hoạch. Cần cẩn thâ ̣n khi bắt, vì có thể bị ba ba
cắn.
Nên thu hoạch ba ba vào thời gian có nhiê ̣t đô ̣ tương đối thấp (20-25oC) tránh hao hụt. Có
thể vâ ̣n chuyển ba ba bằng bao bố (vâ ̣n chuyển gần) hoă ̣c bằng những dụng cụ khác nhau
có lót rong, cỏ mềm để giữ đủ đô ̣ ẩm khi vâ ̣n chuyển xa.
3.4.4 Nuôi ba ba bố mẹ
Sau mùa đông, vào tháng 1 – 2 chọn những con to khỏe để làm ba ba bố mẹ. Mâ ̣t đô ̣
nuôi 0,3 – 0,5 con/m2, tỷ lê ̣ ghép đực/cái là 1/3 – 1/4. Quan trọng là cho ăn hợp lý, cần đủ
chất dinh dưỡng để chuyển hóa vào noãn sào, cần mô ̣t lượng khá lớn chất vôi để tạo vỏ
trứng. Từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 4 nên cho ăn bằng ốc sống, mức cho ăn từ 0,4 –
0,5kg/m2, ốc sống còn tự sinh sản trong ao. Ngoài ra còn thường xuyên cho ba ba ăn phụ
phế phẩm của nhà máy chế biến thịt hô ̣p như da đô ̣ng vâ ̣t, thịt cá mè, cá tạp, nô ̣i tạng
đô ̣ng vâ ̣t, các thức ăn thực vâ ̣t như khô đâ ̣u, bầu bí,…Thường ngày cho ăn 1 lần, lượng
cho ăn bằng 5 – 8% trọng lượng. Thức ăn cho vào giàn hay máng ăn. Máng xây bằng xi
măng dài 3m, rô ̣ng 0,7m, sâu 20cm, mô ̣t đầu máng ngâ ̣p nước, đă ̣t chìm 20cm và bỏ thức
ăn vào đầu này. Như vâ ̣y tránh thức ăn trôi dạt khắp ao hay chìm xuống đáy gây lãng phí
và làm ô nhiễm nước ao. Mỗi tháng dùng vôi sống khử đô ̣c mô ̣t lần đồng thời tăng trọng
lượng Ca2+ cho ao, lượng vôi 450kg/ha.
Nếu nuôi ghép cá trong ao ba ba bố mẹ, khi tháo cạn ao để thu cá xong phải cho
nước mới vào đầy ao, nếu để cạn quá lâu mă ̣t bùn ao bị khô làm cho ba ba rúc vào bùn,
trú đông không bò lên được để thở, nếu lúc này cho nước vào thì rất có thể làm cho ba ba
bị chết chìm. Vì thế giữ mức nước ổn định là cấn thiết. Sau vụ đông, đă ̣c biê ̣t là ba ba bố
mẹ cần giao phối thì phải cho nước mới thường xuyên để kích thích ba ba cái đực vờn
nhau, giao phối thuâ ̣n lợi, khống chế đô ̣ trong của ao từ 20 – 25cm, duy trì màu nước
xanh vỏ đâ ̣u nhạt hoă ̣c xám. Màu nước như vâ ̣y còn phù hợp với sự sinh trưởng của cá,
ốc và thực vâ ̣t có trong ao.

26
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
3.5. Phòng chữa bệnh khi nuôi Ba ba
Trong quá trình nuôi phải thực hiê ̣n nghiêm ngă ̣t các khâu xây ao, tẩy ao nuôi,
chọn giống, cho đẻ, quản lý chăm sóc. Đă ̣c biê ̣t là phòng trị mô ̣t số bê ̣nh. Sau đây là
mô ̣t số bê ̣nh thường gă ̣p khi nuôi ba ba.
3.5.1. Bệnh sưng cổ
Nguyên nhân: là bê ̣nh truyền nhiễm do vi khuẩn gây ra.
Triê ̣u chứng: Cổ sưng to, bụng có các nốt mụn đỏ, mắt trắng đục, khi bị nă ̣ng chảy
máu mũi, hai mắt sưng đỏ có khi bị mù.
Cách phòng trị: Đảm bảo nước ao nuôi sạch sẽ.
Trô ̣n thuốc Tetracyline hay streptomicin hoă ̣c Sulfamidine, penicilin... vào thức
ăn, cho ăn trong 3 ngày liền, lượng thuốc ngày đầu 0,2g/10 kg thức ăn, các ngày sau
giảm đi mô ̣t nửa.
3.5.2. Bệnh nấm thủy mi
Nguyên nhân: Do nấm thủy mi gây ra thường thấy ở ba ba giống vào mùa xuân khi
nhiê ̣t đô ̣ lạnh (18-22oC).
Triê ̣u chứng: Trên vùng da ba ba bị thương có các bông nấm trắng, thường ký
sinh ở cổ, chân, mai, bụng. Lúc mới phát bê ̣nh ba ba kém ăn, lờ đờ. Bê ̣nh nă ̣ng mai
lưng ba ba mềm và mỏng, hoạt đô ̣ng yếu ớt rồi chết.
Cách phòng trị: Cho ba ba bò lên cạn phơi nắng để diê ̣t nấm, bảo đảm nước ao sạch
sẽ. Dùng thuốc sát khuẩn hoă ̣c thuốc trị nấm,…

3.5.3. Bệnh loét da


Nguyên nhân: Bê ̣nh do nhiễm trùng vết thương gây ra, chất đô ̣c do vi khuẩn tiết ra
làm loét da chân, cổ, nách... khi nă ̣ng còn lòi cả xương.
Cách phòng trị: Đảm bảo nước ao luôn sạch sẽ. Cách ly ba ba bị bê ̣nh với ba ba
khỏe. Ngâm ba ba bị bê ̣nh trong dung dịch thuốc kháng sinh 10 ppm Sulfamis, trong
48 giờ. Hạn chế ba ba cắn nhau dễ gây bị thương.
3.5.4. Bệnh nấm lông (bệnh đốm trắng)
Nguyên nhân: là bê ̣nh truyền nhiễm do nấm gây ra.
Triê ̣u chứng: Bốn chân và viền mép có đốm, lúc đầu xuất hiê ̣n ở viền áo sau đó
lan rô ̣ng thành đốm trắng làm cho da bị thối rữa, ba ba kém ăn, hoạt đô ̣ng không
bình thường. Nếu bê ̣nh phát sinh ở hầu làm nó khó thở, mà chết. Bê ̣nh xảy ra thường
vào tháng 5-7.

27
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
Cách phòng trị: Khi có bê ̣nh dùng vôi tẩy ao, đảm bảo nước luôn sạch. Ba ba
bị bê ̣nh dùng thuốc xanh Methylen 1%, hay Tetracycline 1% bôi vào chỗ nấm. Dùng
Refamicine bôi trực tiếp vào vết loét sau khi bóp kén ra.
3.5.5. Bệnh lở cổ
Nguyên nhân: Là loài bê ̣nh truyền nhiễm do vi khuẩn gây ra.
Triệu chứng: chỗ bị bê ̣nh bị sinh vâ ̣t bám như miếng bông. Cổ ba ba hoạt đô ̣ng
khó khăn, kém ăn, có con không cử đô ̣ng, nếu không chữa sau vài ngày là chết.
Cách phòng trị: Dùng nước muối 5% tắm cho ba ba trong 1giờ, hay dùng
0,05ppm xanh Methylen tắm trong 15 phút, hay dùng các loại thuốc Peniciline bôi
vào chỗ bị bê ̣nh. 3.5.6. Bệnh đỏ cổ
Nguyên nhân: Là loại bê ̣nh truyền nhiễm, tác nhân gây bê ̣nh có thể là vi rút, cũng có
thể là vi khuẩn đơn bào. Bê ̣nh hay phát sinh vào mùa mưa phùn.
Triê ̣u chứng: ba ba bị bê ̣nh bụng có đốm đỏ, hầu và cổ sưng, đầu thò ra nhưng
không rụt lại được, hoạt đô ̣ng châ ̣m chạp kém ăn. Bê ̣nh nă ̣ng thì mồm và mũi ba ba bị
chảy máu, ruô ̣t viêm tấy, toàn thân sưng đỏ, mắt đục trắng, bị mù, không bao lâu thì chết.
Cách phòng trị: Khi phát hiê ̣n bê ̣nh lâ ̣p tức cách ly con bê ̣nh, dùng vôi tẩy ao và thay
nước mới. Dùng các loại kháng sinh Biomyxin, tetracycline, Peniciline tiêm trực tiếp vào
cơ thể ba ba (tiêm vào đùi) hoă ̣c trô ̣n vào thức ăn.

Chương 4 CÁ SẤU (Crocodylus.sp)


4.1. Giới thiệu
Cá sấu có lịch sử xuất hiê ̣n và tồn tại khoảng 150-200 triê ̣u năm nay. Trong số 21 loài cá
sấu, có ít nhất 18 loài đã được báo đô ̣ng đỏ. Nguyên nhân của sự giảm sút này là do khai
thác quá mức và viê ̣c phá hoại nơi cư trú của chúng cùng với những tác đô ̣ng khác như
đắp đâ ̣p ngăn sông, phá rừng sát.
Viê ̣c bảo vê ̣ nguồn lợi này bằng cách cấm săn bắt, buôn bán sản phẩm cá sấu đã hình
thành trên qui mô quốc tế, nhiều nước đã có chương trình khôi phục bằng cách nuôi và
sinh sản nhân tạo cá sấu. Điều này cũng giúp nhiều quốc gia quản lý được cá sấu và là
nơi cho nghiên cứu, giáo dục về cá sấu kể cả viêc̣ phục vụ cho du lịch.
Từ 1967, ở Tân Guinea cả cá sấu nước ngọt và nước mă ̣n đều giảm sút rõ rê ̣t, đă ̣c biê ̣t cá
sấu nước mă ̣n từ năm 1969 hầu như không còn tìm thấy trong vùng nữa. Năm 1972, viê c̣
nuôi cá sấu chính thức được bắt đầu. Nhiều trại với nhiều qui mô khác nhau đã được
thành lâ ̣p. Năm 1981, cả nước có khoảng 30000 cá sấu nuôi.
Ở Thái lan, trại cá Sấu Saumut Prakan được thành lâ ̣p vào năm 1950 với khoảng 20 con
cá sấu tự nhiên. Đến nay nuôi khoảng 30000 con và được xem là trại cá sấu lớn nhất thế
28
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
giới. Hai loài được nuôi chủ yếu là cá sấu nước mă ̣n (Crocodylus procosus) và cá sấu
nước ngọt (Crocodylus siamensis).
Ở Ấn Ðô ̣, năm 1974, chính phủ đã có chương trình bảo vê ̣ và quản lý cá sấu. Người ta đã
thu trứng cá sấu ngoài tự nhiên về ấp và ương nuôi đến khi chiều dài khoảng 1,2m thì thả
lại ngoài tự nhiên cho chúng tự sinh sống và tự sinh sản. Tính đến năm 1979, đã có
khoảng 200 con được thả lại. Ngoài các hình thức trên, các hoạt đô ̣ng nghiên cứu, tâ ̣p
huấn về cá sấu cũng được thực hiê ̣n.
Ngoài những nước trên, các nước khác như Trung Quốc, Ðài Loan, Philippines,
Indonesia, Singapore, Malaysia, Mỹ, Cuba, Mexico, El Sanvador, Venezuela..đều có
những trại nuôi cá sấu. Ngoài mục đích bảo vê ̣ và phát triển quần thể cá sấu, viêc̣ nuôi cá
sấu cũng đã góp phần tăng sản phẩm và thu nhâ ̣p từ da, thịt kể cả du lịch.
Ở nước ta, có 2 loài cá sấu là cá sấu nước mă ̣n (Crocodylus porosus) và cá sấu nước ngọt
(Crocodylus siamensis). Trước đây, ở nước ta cá sấu có rất nhiều ở các sông rạch, rừng
sát...nhất là ở miền Nam. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau 2 loài cá sấu này
không còn. Cá sấu Cuba (Crocodylus rhobifer) được nhâ ̣p vào năm 1985 và 1997.
Trong những năm gần đây, sau những thành công trong viê ̣c sinh sản nhân tạo cá cấu,
phong trào nuôi đang được gây dựng và phát triển. Ðến năm 1988, ở Thành phố Hồ Chí
Minh đã có tổng cô ̣ng hơn 150 con. Ngoài các công viên, lâm viên, sở thú.. của nhà nước,
cũng có rất nhiều tư nhân nuôi với số lượng 2-10 con mỗi trại.
Hiê ̣n nay, cá cấu con rất có giá trị trên thị trường. Cá sấu trong 1 tháng tuổi giá 1-1,5 triê ̣u
đồng, 1 tuổi khoảng 2,5 triê ̣u, 2 tuổi 3,5-4 triê ̣u, 3 tuổi khoảng 6 triê ̣u và 4 tuổi khoảng
810 triê ̣u đồng mỗi con. Tuy nhiên, viê ̣c buôn bán cá sấu thịt vẫn còn bị hạn chế để bảo
vê ̣ nguồn lợi.
4.1.1. Phân loại: Cá sấu thuô ̣c Ngành
dây sống: Chordata
Phân ngành có xương sống: Vertebrata
Nhóm có hàm: Gnathostomata
Lớp bò sát: Reptilia
Bô ̣ cá sấu: Crocodilia
Họ cá sấu: Crocodyidae
Họ phụ cá sấu: Crocodylinae
Giống cá sấu: Crocodylus
Tên tiếng Anh: Crocodile (Cuban crodile, Siamese, Siamese crocodile, Estuarine
crocodile and Saltwater crocodile)

29
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
Tên tiếng Viê ̣t: Cá sấu, ông sấu (cá sấu Cu Ba, cá sấu xiêm, cá sấu hoa cà, cá sấu
bông).

H ì nh 1. H ì nh dạng bên ngoài c á S ấu

Ở nước ta hiê ̣n đang nuôi 3 loài cá sấu:


* Cá sấu hoa cà (cá sấu nước lợ, cá sấu đa sừng, cá sấu lửa, cá sấu Đồng Nai-
Crocodylus porosus). Loài này thích sống ở nước lợ, vùng cửa sông Mekong, sông Đồng
Nai. Trước đây ở nước ta, chúng phân bố nhiều từ Vũng Tàu, Cần Giờ,Vịnh Kiên Giang,
Phú Quốc, Côn Đảo. Là loài có kích thước lớn, hung dữ, khó thuần hoá.
* Cá sấu nước ngọt (cá xấu Xiêm, sấu Xiêm-Viê ̣t Nam-Crocodylus siamensis). Thân
có màu vàng, trưởng thành dài 3-4m. Đầu to và ngắn. Phân bố ở Cà Mau, U Minh, các
sông vùng Nam Trung Bô ̣ như sông Ba, sông Thày, sông Easup, sông Đồng Nai...là loài
dễ thuần hoá, thích hợp với viê ̣c nuôi ở nước ngọt.
Cả hai loài cá sấu trên hiê ̣n nay không còn bắt gă ̣p ở ngoài tự nhiên nữa
* Cá sấu nhâ ̣p từ Cuba (Crocodylus rhombifer). Thân có màu vàng sẫm pha nâu và
xen các chấm đen, đầu dài hơi thon. Trưởng thành dài 2,5-3m, thích hợp với viê c̣ nuôi
nước ngọt. Năm 1975, Viê ̣t Nam nhâ ̣p vào 100 con, 1997 nhâ ̣p tiếp 150 con. Hiê ̣n nay ở
nước ta đã cho cá sấu Cuba đẻ và lai tạo được với cá xấu Xiêm. Cá sấu lai dễ nuôi, thích
hợp với nhiều vùng nước.
4.1.2. Phân bố
Cá sấu xuất hiê ̣n trên trái đất cách đây 230 triê ̣u năm và phân bố rải rác trên thế giới.
Các nhà khoa học đã xác minh được 3 họ với 23 loài cá sấu phân bố ở các vùng nước ấm
châu Á, vùng trung nam châu Mỹ, châu Phi và châu Úc. Indonesia và Nam Mỹ
(Venezuela, Bolivia và Braxin) là những nơi có sự đa dạng loài cá sấu nhất thế giới.
Ở Viê ̣t Nam, cá sấu phân bố ở các tỉnh phía Nam nơi có nhiều đầm lầy, sông ngòi,
kênh rạch và không có mùa đông khô lạnh. Hiê ̣n nay, ở Nam Bô ̣, phát hiê ̣n 3 loài, bao
gồm: 1 loài cá sấu nước ngọt (cá sấu xiêm), 2 loài cá sấu nước lợ (cá sấu hoa cà và cá sấu
Cu Ba). Chúng có thể sống ở vùng cửa sông (nước ngọt) tới các vùng đất ngâ ̣p nước chịu
ảnh hưởng của chế đô ̣ thủy triều (nước lợ).

30
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________

31
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________

4.2. Đặc điểm sinh học


4.2.1 Cấu tạo ngoài
Cơ thể cá sấu có dạng thằn lằn, dài từ 1,5-6m.
Cá sấu cũng như các loài bò sát khác, có đầu và cổ rõ ràng. Đốt sống lõm trước. Bốn
chân ngắn, khỏe, có năm ngón. Chi nằm ngang, nâng được thân khỏi mă ̣t đất và có đuôi
dài. Giữa các ngón chân có mang bơi.
Do sự tiến hóa từ đời sống nước lên cạn nên da cá sấu có tầng hóa sừng cao giữ cho
cơ thể khỏi mất nước. Tầng ngoài hóa sừng tạo thành vẩy sừng xếp kề lên nhau theo lớp
như ngói lợp. Lớp bì ở dưới có tính đàn hồi cao nên cá sấu cử đô ̣ng khá linh hoạt. Lớp
vẩy cá sấu ghép lên nhau tạo ra bô ̣ giáp bảo vê ̣ chắc chắn. Căn cứ vào số lượng răng, trâ ̣t
tự và đô ̣ lớn của vẩy – vị trí vẩy để sắp xếp và phân loại các loài cá sấu có trong tự nhiên.
Nhiệt độ cơ thể
Cá sấu là loài bò sát có thân nhiê ̣t thay đổi. Nhiê ̣t đô ̣ môi trường phù hợp cho sinh
trưởng và phát triển từ 25 – 30oC. Khi trời nắng nóng, cá sấu thường thích ngâm mình
dưới nước vừa để săn mồi vừa để lẫn trốn kẻ thù. Khi trời lạnh, cá sấu ẩn nấp nơi kín gió
hay phơi mình trên cạn dưới ánh nắng mă ̣t trời để sưởi ấm.

Cá sấu thường tự chọn chỗ nằm cho thích hợp. Khi nhiê ̣t đô ̣ cơ thể giảm cá sấu bỏ
ăn, ít hoạt đô ̣ng. Khi nhiê ̣t đô ̣ thấp hơn 15oC cá sấu ngừng ăn và dưới 7oC cá sấu mất
thăng bằng. Đây cũng là nguyên nhân chính cá sấu không phân bố ở vùng và hàn đới.
Ở những nơi có nhiê ̣t đô ̣ thấp khi nuôi cần chú ý chống rét cho cá sấu. Khi bị buô ̣c phơi
dưới ánh nắng mă ̣t trời với thời gian dài cá sấu có thể bị chết vì chúng không tự làm giảm
thân nhiê ̣t.
Cá sấu thường há miê ̣ng và nằm bất đô ̣ng, do da cá sấu dầy, không có tuyến mồ hôi
nên cá sấu há miê ̣ng để bài tiết hơi nóng ra ngoài. Cá sấu thành thục tìm các ao đầm có
nước để sinh sản. Nước còn giúp cá sấu khỏi khô mắt và bảo vê ̣ giác mạc. Tuyến lê ̣ trong
mắt cá sấu có khả năng bài tiết mô ̣t lượng muối dư thừa của cơ thể ra bên ngoài đó là hiê ̣n
tượng “nước mắt cá sấu” mà ta thường quan sát thấy trong các trại nuôi.
Hô hấp
Cá sấu hô hấp bằng phổi và phổi có cấu tạo khá hoàn chỉnh, có nhiều túi phổi làm tăng
viê ̣c trao đổi khí. Do lỗ mũi của sấu thông với đỉnh hàm trên của mõm nên khi hô hấp, cá
sấu chỉ cần để lô ̣ lỗ mũi lên khỏi mă ̣t nước trong khi miê ̣ng bị ngâ ̣p nước. Cử đô ̣ng hô
hấp của cá sấu nhờ cơ hoành co giãn và đẩy nô ̣i quan xuống bụng. Trong quá trình nuôi
cá sấu có hiê ̣n tượng cá bị chết ngạt nếu ngâ ̣p trong quá lâu dưới nước.
32
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
Cơ quan cảm giác
Não cá sấu tuy nhỏ nhưng phát triển hoàn thiê ̣n hơn những loài bò sát khác. Cá sấu nhâ ̣n
biết mùi khá tốt. Ở đáy họng có hai tuyến xạ và hai tuyến khác nằm trong lỗ huyê ̣t. Nhờ
các tuyến này mà cá sấu nhâ ̣n biết nhau qua mùi và chúng có thể phát hiê ̣n được mùi
trong không khí bằng cử đô ̣ng ngửi đă ̣c biê ̣t.
Tai cá sấu cũng phát triển tốt và có thể cử đô ̣ng được. Âm thanh đóng vai trò rất quan
trọng đối với cá sấu để giữ mối liên lạc trong đàn. Vào mùa sinh sản (hoă ̣c gă ̣p nguy
hiểm) cá trưởng thành cũng có thể cất tiếng kêu. Tần số âm thanh phát ra là tín hiê ̣u gọi
đàn hoă ̣c báo hiê ̣u nguy hiểm .
Mắt cá sấu có khả năng thấy được vào cả ban ngày và ban đêm. Mắt có thể nhìn thấy cả
phía trước và hai bên. Ngoài ra ở cá sấu còn có những cơ quan cảm giác khác như những
nút vị giác trong miê ̣ng, cảm giác qua va chạm ở hàm, và đă ̣c biê ̣t trong lớp bò sát, chỉ có
cá sấu là có cơ quan cảm giác áp suất nằm dưới răng.
4.2.2 Tính ăn và sinh trưởng
Cá sấu là loài ăn đô ̣ng vâ ̣t. Răng của chúng cắm sâu vào xương hàm và có hình nón, hơi
cong. Trong suốt đời sống, cá sấu thay răng liên tục vì thế không thể đánh giá tuổi cá sấu
qua răng. Hàm cá sấu rất cứng dùng để giử và xé mồi, tuy nhiên, chúng không thể xé mồi
thành những miếng nhỏ để nuốt. Nhưng chúng cũng không thể nuốt được những miếng
mồi to. Vì thế, chúng phải lắc, xé, vă ̣n mồi mô ̣t mình hoă ̣c cùng với những con khác.
Hê ̣ tiêu hóa của cá sấu cũng khá phát triển và tiêu hóa nhanh (thời gian tiêu hóa khoảng
sau 72 giờ). Ở cá sấu hoang dã, trong dạ dày còn có nhiều hòn đá giúp tiêu hóa. Chúng
cũng có thể sống nhiều tháng mà không cần ăn nhưng sẽ gầy yếu đi, nếu thiếu thức ăn
kéo dài chúng trở nên chán ăn. Vì thế khi nuôi cần phải cho ăn thường xuyên và nếu được
cho ăn tốt, chúng sẽ lớn nhanh hơn cả cá sấu ngoài tự nhiên.
Điều kiê ̣n nhiê ̣t đô ̣ thích hợp cho sấu sinh trưởng là 30-32 oC, khi nhiê ̣t đô ̣ không thích
hợp sấu có thể ngừng ăn, sinh trưởng giảm.
4.2.3. Ðặc điểm sinh sản
Thông thường rất khó phân biê ̣t giới tính cá sấu qua dấu hiê ̣u bên ngoài. Tuy nhiên, khi
sấu lớn, cũng có thể phân biê ̣t dựa vào kích cỡ của chúng. Sấu cái thường có thân hình
nhỏ, đầu nhỏ và thường có hai u nhỏ trên đầu. Sấu đực có thân hình to, đầu to, cổ bạnh ra,
đầu có hai u nhô cao. Ngoài ra cũng có thể dựa vào bô ̣ phâ ̣n sinh dục của chúng. Ở sấu
cái, bô ̣ phâ ̣n sinh dục như cá, con đực có ngọc hành.
Tuổi thành thục sinh dục của cá sấu khác nhau tùy từng loài và tình trạng nuôi dưỡng. Cá
sấu sông Nile trong điều kiê ̣n tự nhiên sẽ làm tổ đẻ lần đầu tiên ở khoảng 10-15 năm tuổi,

33
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
trong khi cá sấu Mỹ sẽ đẻ ở đô ̣ 9-10 tuổi. Cá sấu có thể đẻ liên tục đến khi già (có thể hơn
40 năm).
Mỗi năm cá sấu đẻ mô ̣t lần và đẻ theo mùa. Thường mùa mưa là mùa sinh sản của chúng
nhưng đôi khi cũng có trường hợp đă ̣c biê ̣t. Mỗi con đực thường giao phối với nhiều con
cái. Trong thời gian đô ̣ng dục giao phối, cá sấu thường cất tiếng kêu thể hiê ̣n mức đô ̣
hưng phấn khi sinh sản. Cá sấu thường giao phối vào ban đêm và hiê ̣n tượng giao phối có
thể lâ ̣p lại nhiều lần trong thời gian dài (có thể đến vài tuần). Do đó, khó xác định được
chính xác thời gian thụ tinh của chúng
Trước khi đẻ khoảng 1 tuần, cá sấu cái bắt đầu lên bờ tìm nơi làm tổ đẻ. Trứng có vỏ
cứng và số lượng trứng thay đổi từ 15-70 trứng tùy từng loài và đô ̣ tuổi.
Trong suốt đời sống, mỗi con có thể đẻ khoảng 1500-1700 trứng, khối lượng trứng tùy
từng loài. Cách làm tổ của chúng cũng khác nhau, mô ̣t số làm tổ bằng cây cỏ, lá mục; mô ̣t
số bằng đất, bùn đắp thành những ụ; có loài đào cát thành những hố để đẻ rồi lấp lại như
rùa. Cá sấu cái thường kiểm tra tổ mô ̣t cách cẩn thâ ̣n, khi trứng sắp nở hoă ̣c nghe tiếng
kêu của cá sấu con, cá sấu mẹ sẽ bới đất trên nắp tổ để cá sấu con chui ra . Tùy từng loài
và điều kiê ̣n nhiê ̣t đô ̣, thời gian ấp trứng có thể kéo dài 9-13 tuần. Nhiê ̣t độ 31 32oC được
cho là an toàn cho quá trình phát triển phôi. Trung bình tỷ lê ̣ nở tự nhiên khoảng 70-80%.
Từ 45-90 ngày trứng sẽ nở.
Sau khi nở, cá sấu con theo mẹ ra mép nước và đã biết săn mồi nhưng chúng sống cùng
cá sấu mẹ vài tuần rồi tách đàn.
4.3 Phân loại cá sấu
4.3.1 Cá sấu xiêm (Crocodylus siamensis) (cá sấu nước ngọt)
Cá sấu xiêm sống ở vùng nước ngọt sâu trong nô ̣i địa miền Nam Viê ̣t Nam. Loài cá
này có kích thước nhỏ hơn các loài khác. Thường dài 3 – 4,3m. Màu xám và không có vê ̣t
đen. Đầu ngắn và rô ̣ng, có vẩy chấm dạng tròn, cao và có sắc cạnh. Vẩy ở gáy to và có cả
vẩy ở hông. Thức ăn trong điều kiê ̣n hoang dã là cá. Sản phẩm có giá trị là da và thịt. Bảo
tồn cá sấu nhằm duy trì và cân bằng sinh học trong tự nhiên. Cá sấu sinh sản châ ̣m và tỷ
lê ̣ tử vong cao. Cá sấu còn có ý nghĩa cho nghiên cứu khoa học, chế biến các chất có tính
dược lý cao. Con cái đẻ 20 – 50 trứng/năm, giới tính đực cái phụ thuô ̣c vào nhiê ̣t đô ̣.
4.3.2 Cá sấu hoa cà (Crocodylus porosus) (cá sấu nước lợ)
Là loài cá có kích thước lớn còn sót lại đến ngày nay. Ở Viê ̣t Nam ước tính còn khoảng
100 con trong các đầm lầy nước lợ. Trọng lượng từ 1000 đến 1200kg. Đầu thon và dài,
không có vẩy chấm, vẩy ở gáy nhỏ, không có vẩy hông. Vẩy 2 bên cổ dạng hình vuông.
Chiều dài con đực 6 – 7m, con cái dài 2,5 – 3m, đầu lớn. Các vẩy sừng hình ô van, kích
thước nhỏ hơn các loài khác. Cá sấu non có vạch sọc xanh nhạt lốm đốm chấm trên thân

34
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
và đuôi. Các màu sắc đó duy trì cho đến khi trưởng thành có màu đen nhạt hay vê ̣t xám.
Mă ̣t bụng màu vàng sáng, vạch sọc chạy dọc phía dưới sườn bên nhưng không chạm tới
vùng dạ dày. Đuôi có vạch xám và đen. Do có những vẩy vàng lẫn vẩy đen xen lẫn nhau
(còn gọi là cá sấu bông). Có 2 gờ chạy từ mũi tới mắt. Răng phát triển. Sinh sản vào mùa
mưa ẩm. Đẻ trứng nơi bờ cạn vùng có nước ngọt và khi trưởng thành thích sống vùng
nước lợ. Cá sấu cái thành thục sau 10 – 12 năm, con đực thì 16 năm và tự xác định lãnh
địa riêng. Cá sấu cái đẻ 40 – 60 trứng, có khi tới 90 trứng. Cá sấu đào tổ ở các mô đất,
sau khi đẻ lấy cây, lá và bùn lấp lại. Điều lý thú là cá sấu chọn mô đất cao vừa phải, có đủ
đô ̣ ẩm và tránh ngâ ̣p nước trong mùa mưa. Con cái nằm gần tổ để bảo vê ̣ khỏi kẻ thù tấn
công. Thời gian ấp 55 – 90 ngày. Nhiê ̣t đô ̣ quyết định giới tính cá sấu con. Khi nhiê ̣t dao
đô ̣ng xung quanh 31,6oC, trứng nở ra cá sấu đực, khi cao hơn hay thấp hơn nhiê ̣t đô ̣ này,
nở ra cá sấu cái. Gần đến ngày nở, trứng cựa quâ ̣y và phát ra tiếng đô ̣ng, cá sấu mẹ tới
bới tổ, giúp con chui ra khỏi vỏ, ngâ ̣m con trong mồm và tiếp tục huấn luyê ̣n, ở gần bên
cá sấu con cho đến khi cá sấu con có thể tự bơi và bắt đầu kiếm mồi được. Khi mát trời,
chúng lên bờ phơi nắng. Khi nóng chúng xuống nước ngâm mình hay nằm nơi ẩm mát,
mồm há ra.
Khi còn nhỏ chúng ăn côn trùng, ếch nhái, giáp xác, cá nhỏ và rắn rết. Khi lớn hơn chúng
ăn cua, rắn, chim, bò,...Khi săn mồi chúng ẩn mình trong làn nước, chỉ có mũi, mắt và
lưng lâ ̣p lờ trên mă ̣t nước. Khi tiếp câ ̣n con mồi, nó lao vào đốp lấy con mồi chỉ trong
chớp mắt. Nó giết con mồi chỉ bằng mô ̣t cú táp của bô ̣ hàm khỏe đầy răng và dìm con
mồi trong nước cho dễ nuốt.
4.3.3. Loài cá sấu Cu Ba (Crocodylus rhombifer) (cá sấu nước lợ)
Là loài cá sấu có kích thước nhỏ, được di nhâ ̣p vào Viê ̣t Nam. Trong rừng tự nhiên ở Cu
Ba, cá sấu cái trưởng thành dài không quá 3,5m, con đực khoảng 5m. Đầu ngắn và to với
xương đỉnh nằm sau mắt. Lớp vẩy sừng lớn kéo dài từ lưng tới cổ. Lớp vẩy chân to nhất
là ở hai chi sau. Màu sẫm ở phần trên lưng. Đuôi đen kèm các vạch sọc. Bô ̣ răng phát
triển và dài. Đuôi rất khỏe giúp cá sấu có thể nhảy và bơi.
Cá sấu cái đẻ 30 – 40 trứng, có thể tới 60 trứng. Trứng dài 5 – 7,6cm, trọng lượng 112g.
Thời gian ấp 58 – 70 ngày. Nở ra con đực ở 30 – 32oC. Nở ra cá sấu cái khi nhiê ̣t đô ̣ thấp
hơn hoă ̣c cao hơn nhiê ̣t đô ̣ này. Tỷ lê ̣ tử vong cao. Cá sấu con ăn đô ̣ng vâ ̣t chân đốt và cá
nhỏ. Khi lớn chúng ăn nhiều cá, rùa nước ngọt và các đô ̣ng vâ ̣t có vú ăn thịt lớn.
4.4 Sản xuất giống cá sấu
4.4.1 Xây dựng chuồng trại
Chuồng trại phải tương đối lớn.
Tùy từng nơi, viê ̣c cho cá sấu sinh sản có thể được áp dụng với những mô hình khác

35
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
nhau. Chuồng nuôi bao gồm mô ̣t bể nuôi cá sấu bố mẹ và mô ̣t bể cho ăn bằng xi măng
xây thành từng ngăn có hố chim. Ngoài ra chuồng nuôi cũng cần có khu đất rô ̣ng dùng
làm nơi cho cá sấu nằm phơi nắng hoă ̣c làm tổ đẻ khi cá sấu thành thục. Xung quanh
chuồng nuôi phải rào bằng lưới thép hoă ̣c tường xây gạch.
Bể nuôi cá sấu bố mẹ phải cấp thoát nước thuâ ̣n tiê ̣n, có đô ̣ sâu 1,5 m để chúng bắt că ̣p bể
cho ăn sâu trung bình 0,5 m nước và được vê ̣ sinh hàng ngày sau khi cho ăn. Mâ ̣t đô ̣ nuôi
tối đa 1 con/8-10m2. Tỷ lê ̣ đực cái 1:3.
Bố mẹ : Con đực và cái phải có thân hình cân đối không bị dị tật, khỏe mạnh.
Khu đẻ gần với bể nuôi bố mẹ, cần có cây cỏ mục, đất tơi, hay cát để chúng làm tổ đẻ.
Nếu thiếu, sẽ gây trở ngại trong viê ̣c đẻ trứng và trứng có thể sót trong bụng mà gây chết
sấu mẹ. Có thể chia khu cho cá sấu đẻ thành nhiều ô mỗi ô có diê ̣n tích 4x4 m (có rào
bằng chắn) và có cửa 0,6x0,6m hướng về bể nuôi bố mẹ.
Khi vào mùa sinh sản, và trước khi đẻ mô ̣t tuần, cá sấu cái thường tìm và chọn khu đẻ
trứng để làm tổ. Thời điểm cá sấu đẻ thường 5-9 giờ sáng và chỉ mất vài phút. Sau khi đẻ,
đuổi cá ra và đóng cửa khu đẻ để ấp trứng. Tỷ lê ̣ nở có thể đạt 70-86%.
Nếu chuồng nuôi sấu bố mẹ có nhiều con đực, chuồng nên có hình dạng sao cho tạo được
nhiều bể riêng biê ̣t để đạt hiê ̣u quả cao trong viê ̣c bắt că ̣p giao phối và.tránh hiê ̣n tượng
sát hại lẩn nhau khi tranh giành con cái. Chuồng có mô ̣t bể chính ở giữa và nhiều bể nhỏ
xung quanh. Các bể nhỏ nối với bể chính nhờ các kênh nhỏ và có cửa đóng mở được khi
cần thiết.
4.4.2 Thu và ấp trứng
a. Thời điểm thu trứng
Trứng cá sấu có mô ̣t đĩa nhỏ trên mă ̣t túi noãn hoàng. Ðĩa này sau đó phát triển thành
phôi. 24 giờ sau khi đẻ, khối noãn hoàng có thể chuyển đô ̣ng bên trong trứng mà không
ảnh hưởng đến đĩa này. Tuy nhiên, sau ngày đầu tiên này, đĩa phôi sẽ dính vào màng vỏ
và vì thế, nếu trứng chuyển đô ̣ng sẽ làm hư hỏng phôi. Sau 3-4 tuần ấp, phôi và màng
phôi phát triển mạnh hơn và có thể chịu được những chuyển đô ̣ng nhẹ. Chính vì thế nếu
như không thể thu trứng ngay sau khi đẻ ra thì phải để yên trong tổ đến 3-4 tuần mới
được thu đem ấp.
Dụng cụ thu trứng có thể khác nhau tùy từng trường hợp. Khi vâ ̣n chuyển, nên chuyển
trứng cùng với cả cát, đất hay lá, cỏ mục của tổ cũ về ấp. Thao tác cần phải nhẹ nhàng.
Các lứa trứng khác nhau nên được xếp trong những thùng riêng để trứng nở đồng loạt.
b.Ấp trứng
Điều kiê ̣n để trứng phát triển tốt là nhiê ̣t đô ̣. Khi nhiê ̣t đô ̣ thích hợp và ổn định (28-32oC).
Ẩm đô ̣ cao (75-85%). Trứng đă ̣t đúng hướng sẽ có tỷ lê ̣ nở cao ( 60-70%).

36
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
c.Ấp trứng bằng tổ nhân tạo
Tổ ấp trứng nhân tạo nên được phỏng theo tổ tự nhiên của chúng. Trong tổ nhân tạo có đủ
đất cát thích hợp để ấp trứng. Lớp đất phủ mă ̣t tổ trứng phải bảo đảm ổn định được nhiê ̣t
đô ̣ trong phạm vi thích hợp từ đó lớp đất này có thể dầy hay mỏng khác nhau . Đối với
đất mịn hay sét, có thể phủ 15-20cm; đối với đất cát phủ 30-45cm là thích hợp nhất.
Ở Ấn đô ̣ dùng bể bằng gạch 1x1x1m và có chứa đầy cát và mỗi lứa trứng được ấp trong
mô ̣t bể .
Ðể đảm bảo nhiê ̣t đô ̣ ổn định, nên dùng nhiê ̣t kế đă ̣t vào tổ đẻ theo dõi thường xuyên và
đất, cát, rơm,... được đắp thêm vào hay lấy bớt ra khi cần thiết để giữ nhiê ̣t đô ̣ ổn định
trong khoảng 31-32oC. Cần giữ tổ đủ đô ̣ ẩm, không bị địch hại, ngâ ̣p nước...
Ngoài ra, để đảm bảo ổn định về điều kiê ̣n môi trường và an toàn có thể ấp trứng trong
phòng. Phòng ấp trứng có thể xây bằng gỗ hay gạch có cửa ra vào và có mái che để tránh
mưa nắng trực tiếp. Kích cỡ thùng ấp khoảng 54x34x34cm được xem là thuâ ̣n tiê ̣n (có
thể ấp 40 trứng gồm 2 lớp trứng). Lớp cát lót giữa hai lớp trứng và phủ mă ̣t trứng dày
khoảng 6-8cm.
d. Ấp bằng máy ấp
Ấp trứng bằng máy sẽ có thuâ ̣n lợi là có thể quan sát được trứng trong suốt quá trình ấp
và kiểm soát được kỹ điều kiê ̣n môi trường. Máy ấp trứng ở đây dưới dạng thiết bị nuôi
cấy mô ở phòng thí nghiê ̣m. Ðiều kiê ̣n cần phải đảm bảo là ẩm đô ̣ từ 90-100% để trứng
không mất nước và cá sấu con chui ra khỏi vỏ dễ dàng, lưu thông khí đầy đủ và nhiê ̣t đô ̣
ở mức tối ưu (31-32oC). Mâ ̣t đô ̣ ấp 250 trứng/m2, cũng có thể đă ̣t vâ ̣t đê ̣m bằng cây cỏ
mục sẽ có tác dụng tốt cho quá trình nở của trứng.
e. Xác định các giai đoạn phát triển của trứng và phôi
Trứng mới đẻ có màu trắng trong suốt. Sau khi đĩa phôi bám vào trong màng vỏ, ở đó sẽ
xuất hiê ̣n mô ̣t đốm trắng đục. Khi trứng nằm yên, đốm này luôn nằm ở đỉnh trứng. Nếu
trứng phát triển mạnh, đốm trắng này sẽ lan rô ̣ng thành vòng xung quanh giữa trứng. Sau
khoãng 45 ngày, toàn bô ̣ trứng sẽ có màu trắng đục.Vòng trắng quanh trứng có thể quan
sát dễ dàng bằng cách xem dưới ánh đèn dầu. Nếu trứng không thụ tinh thì không xuất
hiê ̣n vòng trắng mà sẽ trong suốt.
Khi nghiên cứu các giai đoạn phát triển phôi cá sấu, Ferguson (1985) đã phân biê ̣t được
28 giai đoạn:
* Dưới mô ̣t tuần: Khi đâ ̣p đỉnh vỏ (không làm rách màng vỏ) sẽ thấy đốm máu dưới
màng vỏ là vị trí của phôi. Phôi lúc này có đô ̣ dài khoảng 1mm
* 7 ngày: Phôi vẩn còn trong suốt và khó thấy, tuy nhiên, vùng máu có thể thấy rõ. Phôi
lúc này dài 8mm, hơi cong, xuất hiê ̣n khối lồi của tim và mầm chân.

37
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
*14 ngày: Vê ̣t máu dài khoảng 20mm, mắt phôi có sắc tố và là mô ̣t đốm hơi đen, đường
kính khoảng 1,5mm, phôi vẩn trong suốt. Mầm chân có thể thấy dễ dàng.
* 24 ngày: Vùng máu kéo dài với mạng lưới mạch máu nối hai đầu trứng. Phôi dài 22mm
và cuối đuôi uốn cong. Đã có khủyu chân và đầu gối. Phôi có màu hơi trắng nhưng
không còn trong nữa.
* 38 ngày: Phôi dài khoảng 30mm. Bàn chân đã có ngón chân và có thể thấy được móng
chân dưới kính lúp. Cơ thể có màu hồng và có các tấm sừng trên lưng và đuôi. Não có
thể phân biê ̣t được và có màu trắng. Ðầu dẹp, hàm trên dài và sắc ở đỉnh, mắt lớn.
* 49 ngày: Có nhiều vạch sắc tố màu hồng trên cơ thể. Tim chiếm mô ̣t phần hay gần hết
xoang cơ thể. Vảy xuất hiê ̣n trên chân. Móng còn mềm.
* 61 ngày: Các tấm lưng màu hơi trắng và mềm. Mắt đầy đủ. Não vẫn còn nhìn thấy qua
nắp xương sọ. Mô ̣t số răng xuất hiê ̣n. Noãn hoàng đă ̣c lại.
* 77 ngày: Màu sắc giống như lúc được nở ra. Có nhiều tấm sừng. Nắp sọ chắc hơn
nhưng chưa cứng.
* 84 ngày: Khối noãn hoàng được di chuyển vào trong bụng và được da bụng bao lại.
Răng cứng và nhọn. Nắp xương sọ cứng chắc.
* 92 ngày: Ðầy đủ các bô ̣ phâ ̣n. Khối noãn hoàng đã nằm trong bụng. f. Thời gian phát
triển phôi
Tùy điều kiê ̣n nhiê ̣t đô ̣ và loài khác nhau, thời gian nở của trứng thường chênh lêch
̣ nhau
trong vòng khoảng 3 tuần và thời gian nở cho các loài không dưới 8 tuần. Khi trứng sắp
nở, cá sấu con trong trứng sẽ phát ra tiếng kêu. Sau khi nở, cần để cá sấu con trong thùng
ấp trong vòng 24-48 giờ cho chúng khô màng nở. Tránh kiến hay côn trùng khác làm hại
cá sấu con. Cá sấu con mới nở có chiều dài 28-30 cm.
4.5 Chăm sóc và nuôi sấu con
Chuồng nuôi cá sấu con có thể được thiết kế theo hình chữ nhâ ̣t bằng xi măng, hoă ̣c bể
đất lót cao su. Trong mỗi ô chuồng có hai rãnh nước rô ̣ng 60cm, sâu 15cm chạy dọc theo
hai bên. Khoảng giữa chuồng còn lại là dải đất cao hơn mă ̣t nước. Thành trong của
chuồng và sàn nên làm trơn nhẵn để tránh làm xây sát cá sấu. Hai rãnh nước này có tác
dụng làm giảm mức đô ̣ sát hại lẩn nhau do cá sấu tâ ̣p trung quá đông ở mô ̣t nơi.
Hê ̣ thống chuồng nên được che mát và có hê ̣ thống sưởi ấm sấu con vào ban đêm. Giữ ấm
trong quá trình ương nuôi sấu con là rất quan trọng vì nhiê ̣t đô ̣ thấp sẽ ảnh hưởng đến tỉ lê ̣
sống. Có thể dùng dụng cụ điều hòa nhiê ̣t đô ̣, hê ̣ thống nước chảy hay hê ̣ thống đèn để
giữ nhiê ̣t đô ̣ không dưới 30oC.
Mâ ̣t đô ̣ ương thích hợp nhất 10-12 con/m2 và không nên thả trên 60 con/m2 .
Thức ăn cho cá sấu con bao gồm tôm, tép, cá tạp, thịt, gà, vịt, gan đô ̣ng vâ ̣t băm nhỏ.
Không nên cho ăn thức ăn nhiều mỡ. Thức ăn cần phải tươi, không ươn thối. Có thể giữ
38
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
lạnh thức ăn dành cho cá sấu. Ðôi khi, cũng có thể dùng đèn để hấp dẩn côn trùng tâ ̣p
trung lại làm mồi cho cá sấu con. cá sấu con có khối lượng 40-70g có thể ăn mồi với tỉ lê ̣
5-10% trọng lượng của chúng. Sau vài tháng, lượng thức ăn có thể 25-30% khối lượng
thân. Nên cho ăn đều hàng ngày, đôi khi cá sấu chỉ ăn vào ban đêm, vì thế cần cho sấu ăn
thêm vào ban đêm.
Thay nước và vê ̣ sinh chuồng vào buổi sáng hàng ngày. Trong quá trình ương nuôi, cần
hạn chế quấy phá sấu, trừ những lúc cần thiết như cho ăn, vê ̣ sinh.
4.6 Nuôi cá sấu thương phẩm
4.6.1 Vị trí
Vị trí làm chuồng nuôi nơi phải có nguồn nước đầy đủ và chất lượng nước (đô ̣ mă ̣n,
pH,...) trong phạm vi thích hợp. Khi dùng nước máy, cần kiểm tra nồng đô ̣ Chlorine trong
nước trước khi dùng. Nước cũng không được nhiễm các sinh vâ ̣t gây bê ̣nh hay gây hại.
Nơi nuôi cần thoáng mát để nhâ ̣n được ánh nắng mă ̣t trời. Ðể thuâ ̣n lợi cho viê ̣c thay
nước, cần chọn nơi có nền đất dốc thoai thoải. Chuồng nuôi cũng cần có nhiều cây hoă ̣c
vâ ̣t cản gió, nhất là gió Đông Bắc. Tuy nhiên, vâ ̣t cản gió này cũng không nên gần
chuồng quá vì sẽ che mất nắng.
4.6.2 Xây dựng trại nuôi
Chuồng nuôi cá sấu có diê ̣n tích rất biến đô ̣ng tùy theo qui mô nuôi nhiều hay ít, nền
chuồng có thể là đất hoă ̣c láng xi măng (có thể láng xi măng toàn bô ̣ chuồng hoă ̣c chỉ
láng những nơi là bể chứa nước, bể cho cá ăn). Quanh chuồng rào bằng rào gỗ, lưới thép
hay bằng xi măng. Thông thường nên làm phần dưới của rào bằng tường xây và phần
trên bằng gỗ hay lưới. Rào có đô ̣ cao khoảng 1,3 m và âm xuống đất 0,5 m để tránh cá
sấu đào hang ra ngoài. Các góc rào nên bo tròn để tránh sấu nằm chồng chất thành đống
nơi góc rào.
Dạng bể đất có chứa nước có thuâ ̣n lợi là giá thi công thấp, giống với điều kiê ̣n tự nhiên
cuả cá sấu. Khi điều kiê ̣n thời tiết không thuâ ̣n lợi, cá cá sấu có thể vùi mình trong bùn.
Tuy nhiên, dạng này bất lợi là khó giữ nước, làm vê ̣ sinh khó khăn. Muốn khắc phục
nhược điểm trên thì bể chứa nước phải đào sâu, diê ̣n tích lớn. Nhưng nếu đào sâu, cá sấu
sẽ khó lên bờ khi cần thiết.
Tốt nhất nên có hai chuồng để có thể thay phiên và dọn tẩy, phơi khô chuồng. Ðối với
chuồng bằng xi măng có thuâ ̣n lợi là dễ dàng quản lí như dọn tẩy, thay nước, nước không
bị rò rỉ nhưng đòi hỏi đầu tư cao.
Trong chuồng, các bể chứa nước nên có nhiều hình dạng khác nhau và tránh tạo thành
góc nhọn hoă ̣c vuông tránh sấu nằm chồng chất lên nhau. Đô ̣ sâu của bể chứa ít nhất là
0,6m. Tỷ lê ̣ diê ̣n tích mă ̣t nước trong chuồng khoảng 30-60% diê ̣n tích chuồng. Bờ của bể
chứa nước nên có đô ̣ đô ̣ dốc thấp để cá sấu có thể lên xuống thuâ ̣n tiê ̣n.
39
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
Ðối với các chuồng nhỏ, có thể cho ăn bằng các khay, nhưng đối với chuồng lớn cần phải
xây các máng ăn bằng xi măng cố định, máng xây gần bể chứa nước và có ống dẫn đến
rãnh thoát nước.
4.6.3 Quản lý, chăm sóc cá sấu
Mâ ̣t đô ̣ sấu nuôi có thể dao đô ̣ng tùy theo kích cỡ của chúng. Trong điều kiê ̣n thực tế ở
nước ta, cá sấu dưới 2kg/con thường thả với mâ ̣t đô ̣ 0,5m2/con; 4 m2/con đối với cá sấu
lớn (10kg/con). Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là không nên thả nuôi với mâ ̣t đô ̣
quá cao vì chúng sẽ cạnh tranh thức ăn nhau, sát hại lẫn nhau. Ngoài ra giống thả nuôi
phải đồng kích thước và trong quá trình nuôi phải định kỳ phân loại kích thước để nuôi
trong những chuồng riêng biê ̣t.
Bảng 4: Lượng thức ăn tính theo tuần khi nuôi cá sấu
Cỡ cá sấu Lượng thức ăn tươi Tỷ lê ̣ % so với
(cm chiều dài) trong tuần (g)/ con thể trọng trong
tuần
45-60 80-210 26
61-90 210-415 20
91-120 415-940 15
121-140 940-1310 13
141-160 1310-1910 12
161-180 1910-2430 11

Các loại thức ăn và cách cho ăn có thể thay đổi tùy theo kích cỡ của chúng. Thức ăn bao
gồm các loại đô ̣ng vâ ̣t như côn trùng, cá nhỏ, tép nhỏ, thịt thái nhỏ cho sấu con. Thức ăn
có kích cỡ lớn, để nuôi cá sấu lớn. Các loại này cần phải tươi và cho ăn cả xương. Cá sấu
rất cần chất can-xi trong khẩu phần của chúng.
Sấu có thể nhịn đói nhiều ngày, nhưng nên cho ăn đều khoảng 5 ngày mỗi tuần ở năm đầu
tiên, sau đó có thể cho ăn 3 ngày mỗi tuần. Tỷ lê ̣ thức ăn được tính theo thể trọng của
chúng được trình bày ở bảng 4.
Thông thường cho sấu ăn vào lúc chiều mát, sáng hôm sau dọn thức ăn dư thừa cùng với
vê ̣ sinh chuồng trại. Đây là công viêc̣ rất quan trọng và phải tiến hành hàng ngày nhằm
giữ môi trường nuôi sạch sẽ hạn chế được tác nhân gây bê ̣nh cho sấu.
4.6.4 Quản lý sức khỏe và phòng trị bệnh
Trong điều kiê ̣n nuôi nhốt cá sấu có thể gă ̣p nhiều trở ngại về sức khỏe do thời tiết khí
hâ ̣u, chế đô ̣ chăm sóc quản lý vê ̣ sinh không thoả đáng hay do các loại bê ̣nh tâ ̣t khác.
a. Nhiệt độ
Nhiê ̣t đô ̣ có tác đô ̣ng rất lớn đến hoạt đô ̣ng sống của cá sấu và được xem là mô ̣t trong
những vấn đề quan trọng nhất. Nhiê ̣t đô ̣ thích hợp cho sinh trưởng khoảng 32oC. Khi
40
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
nhiê ̣t đô ̣ thấp hơn 25oC, chúng bắt đầu giảm ăn. Khi bị phơi nắng quá lâu chúng cũng có
thể bị chết. Vì thế viêc̣ che mát chuồng nuôi với tỷ lê ̣ hợp lý là vấn đề rất cần thiết.
b. Vệ sinh chuồng nuôi
Khi chuồng, bể nuôi vê ̣ sinh kém, mầm bê ̣nh sẽ có điều kiê ̣n tích tụ và có thể gây bê ̣nh
cho cá sấu, nhất là đối với sấu nhỏ. Ngoài ra, nước ô nhiễm cũng có thể ảnh hưởng trực
tiếp đối với cá sấu nuôi.
c. Vấn đề dinh dưỡng
Trong thực tế, sấu có thể nhịn đói được nhiều ngày, song, nếu kéo dài hay cho ăn thiếu
thành phần các chất dinh dưỡng, cá sấu sẽ bị gầy ốm, châ ̣m lớn, sinh bê ̣nh và chết. Nhiều
nghiên cứu cho thấy rằng, khi cá sấu bị thiếu lượng đường trong máu trầm trọng chúng sẽ
bị sốc. Triê ̣u chứng có thể thấy là chúng hướng mũi lên cao, con ngươi mắt nở rô ̣ng, mất
thăng bằng. Để xử lý trường hợp này, cần cung cấp đường Glucose với lượng 3g/kg thể
trọng hoă ̣c hoà tan 2g đường và 12ml nước/1 kg thể trọng bơm trực tiếp vào miê ̣ng cá
sấu.
Trường hợp khác đã được báo cáo là bê ̣nh đau nhức mà nguyên nhân là do thức ăn có
hàm lượng protein quá cao (P>50%) làm các amino acid dư thừa trong máu chuyển thành
sản phẩm thải tích tụ trong ống thâ ̣n, hoă ̣c bề mă ̣t các cơ quan nô ̣i tạng. Khi bị bê ̣nh,
trước tiên sấu sẽ bị liê ̣t các chân sau rồi dần dần liê ̣t các phần khác và chết.
Khi khẩu phần ăn của sấu thiếu canxi và trong trường hợp ít được phơi nắng, quá trình
trao đổi canxi sẽ bị ảnh hưởng. Triê ̣u chứng có thể thấy mõm cứng như cao su, răng rụng
hay mọc không bình thường. Cung cấp thức ăn với thành phần Canxi, Phostpho thích hợp
có thể là mô ̣t biê ̣n pháp xử lý.
Ngoài ra, khi cá sấu bị thiếu các loại Vitamin cũng bị bê ̣nh. Khi thức ăn có quá nhiều các
acid béo không no, chúng sẽ làm cạn kiê ̣t các Vitamine E dự trữ và vì thế có thể gây bê ̣nh
mỡ vàng. Xử lý trường hợp này có thể bổ sung Vitamine E với lượng 100 UI/kg thể trọng
mỗi ngày. Khi sấu thiếu Vitamine B1, chúng thường bỏ ăn, gầy ốm, và dễ nhiễm bê ̣nh.
Có thể tiêm Vitamine B1với liều 44mg/kg thể trọng hay bổ sung vào thức ăn với lượng
1000 mg/100 kg thức ăn. d. Bệnh do vi khuẩn
Cũng như ở nhiều đối tượng nuôi khác, ở cá sấu, bê ̣nh do vi khuẩn cũng được xem là
bê ̣nh thứ cấp. Có rất nhiều chủng vi khuẩn đã được phân lâ ̣p từ những cá sấu bị bê ̣nh và
ngay cả cá sấu khỏe hay trong môi trường nuôi đều tồn tại nhiều chủng vi khuẩn gây
bê ̣nh cho cá sấu..
Tùy từng loài sấu khác nhau, thành phần vi khuẩn cũng khác nhau, nhưng nhìn chung, vi
khuẩn Aeromonas, Pseudomonas và Salmonella vẫn phổ biến nhất. Cá sấu bị bê ̣nh do vi
khuẩn gây ra thường bị xuất huyết ruô ̣t, bê ̣nh đường hô hấp, bê ̣nh thối mõm. Có thể trị

41
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
bằng cách dùng Oxytetracyline hydrochloride trô ̣n vào thức ăn với lượng 500 mg/kg
thức ăn và cho ăn liên tục trong 3 ngày.
Bê ̣nh đường hô hấp với các triê ̣u chứng như ho, chảy nước mũi và có thể xử lý bằng
Chloramphenicol (16 mg/kg thể trọng), bê ̣nh thối mõm thường gây ra do sấu bị thương
làm cơ hô ̣i cho các vi khuẩn tấn công. Xử lý bằng cách rửa nước muối và bôi
streptomycin. Trường hợp bê ̣nh sưng mắt, dùng chloramphenicol phun vào mắt. e. Bệnh
do nấm
Nấm thường là sinh vâ ̣t gây bê ̣nh thứ cấp sau khi có những vết thương. Bê ̣nh do nấm gây
ra thường kết hợp với bê ̣nh vi khuẩn. Các dấu hiê ̣u của bê ̣nh thường tương tự nhau, vì thế
khó chẩn đoán được nguyên nhân. Dấu hiê ̣u thông thường nhất là viêm da. Da lưng
thường có những đốm trắng. Ðể xử lý bê ̣nh này có thể dùng KMnO4 hay CuSO4 tẩy uế
chuồng sạch sẽ.
f. Bệnh do ký sinh trùng
Các loại ký sinh trùng gây bê ̣nh cho cá sấu bao gồm đô ̣ng vâ ̣t nguyên sinh, giun. Đô ̣ng
vâ ̣t nguyên sinh trong đường ruô ̣t, mâ ̣t, ống mâ ̣t mà phổ biến là nhóm Coccidia có thể
gây ra triê ̣u chứng tiêu chảy có xuất huyết. Bê ̣nh này có thể xử lý bằng
Sulphachloropyrazine trô ̣n vào thức ăn với lượng1,5g/kg thức ăn. Ðối với bê ̣nh giun gồm
có giun tròn ở đường ruô ̣t, ở phổi hay ở da bụng, xuất hiê ̣n phổ biến ở cá sấu nuôi hay bắt
tự nhiên. Có thể dùng thuốc trị giun sán trô ̣n với thức ăn với liều lượng 1g/10kg thức ăn
và cho ăn liên tục 3-5 ngày.
4.7. Quản lý nhà nước và bảo tồn nguồn lợi cá sấu ở Việt Nam
Hai loài cá sấu xiêm và cá sấu hoa cà đã được đưa vào các nhóm theo tiêu chí của IUCN
(Tổ chức bảo tồn thiên nhiên Quốc tế), nghị định 48/2002/TTg của thủ tướng chính phủ
và phụ lục 1 của Công ước CITES (Công ước về thương mai quốc tế các loài đô ̣ng vâ ̣t
hoang dã đang bị đe dọa). Nô ̣i dung chính của các văn bản này quy định cấm đánh bắt cá
sấu từ tự nhiên để buôn bán, giết thịt và xuất khẩu. Viê ̣c xuất khẩu cá sấu ở Viê ̣t Nam,
được chấp nhâ ̣n khi đáp ứng được các yêu cầu và tiêu chí do Bô ̣ Nông nghiê ̣p và Phát
triển Nông thôn quy định và được Thủ tướng Chính phủ phê duyê ̣t cụ thể là
- Trại nuôi cá sấu bằng giống được sinh sản nhân tạo và viê c̣ nuôi này phải đăng kí tại
Chi cục Kiểm lâm địa phương.
- Có các sản phẩm cá sấu thương phẩm và chế phẩm thải từ thế hê ̣ F2 trở đi. - Trại nuôi
cá sấu phải có đăng ký sản xuất kinh doanh với Ban thư kí Công ước CITES – Viê ̣t
Nam và cam kết thực hiê ̣n đầy đủ các yêu cầu và qui định của công ước.
- Có hợp đồng xuất khẩu được Ban thư kí Công ước phê duyê ̣t.

42
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
- Có hồ sơ ghi chép lưu trữ thực hiê ̣n các cam kết theo 15 tiêu chí liên quan của CITES
do người quản lý trại nuôi cá sấu thực hiê ̣n.
Hiê ̣n nay rất cần sự can thiê ̣p, điều phối và quản lý của nhà nước thông qua đào tạo
nguồn nhân lực, giáo dục cô ̣ng đồng, tiến hành đàm phán, xúc tiến thương mại, tìm thị
trường xuất khẩu và ban hành các văn bản pháp quy cho viê ̣c phát triển và xuất khẩu cá
sấu và các sản phẩm chế biến từ cá sấu.
Kết quả của hoạt đô ̣ng này sẽ tạo thu nhâ ̣p, viê ̣c làm và vừa bảo tồn được các loài sinh
vâ ̣t có nguy cơ tuyê ̣t chủng này, vừa thu về nguồn ngoại tê ̣ cho đất nước.

43
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________

Chương 5 ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ KỸ THUẬT NUÔI ĐỒI MỒI, VÍCH

5.1. Giới thiệu


Rùa biển (Sea Turtle) nói chung và vích, đồi mồi nói riêng là nhóm đô ̣ng vâ ̣t bò sát phổ
biến vào kỷ phấn trắng cách đây khoảng 130 triê ̣u năm (cùng thời với khủng long). Hiê ̣n
nay, tất cả những giống loài còn tồn tại đã được xuất hiê ̣n vào giai đoạn đầu kỷ Eocene
đến kỷ Pleitocene, cách đây 60-10 triê ̣u năm. Chúng là loài bò sát sống trong môi trường
biển và phân bố chủ yếu ở vùng nhiê ̣t đới và câ ̣n nhiê ̣t đới và chỉ vào đất liền khi đến mùa
sinh sản.
Tất cả những loài rùa biển đều có giá trị cao. Sản phẩm của chúng có thể là thịt, trứng, da,
vây phục vụ cho tiêu dùng của con người hoă ̣c phục vụ cho viê ̣c chế biến các mă ̣t hàng
mỹ nghê ̣. Ngày nay, với sự khai thác ngày càng gia tăng, sự ô nhiểm môi trường, quần
thể rùa biển đang trên đà nguy hiểm nếu như không có biê ̣n pháp thỏa đáng trong viê ̣c
bảo vê ̣ và nuôi dưỡng chúng. Theo thống kê của FAO, tổng sản lượng đồi mồi đánh bắt ở
Trung Tây Ðại Tây Dương là 318 tấn vào năm 1987 mà hầu hết là từ Cuba (277tấn) và
Cô ̣ng hòa Dominican (41 tấn).
Ở Nhâ ̣t Bản, vào cuối thế kỹ XIX, sản lượng vích đánh bắt hàng năm khoảng trên 1500
con. Tuy nhiên, sản lượng sau đó giảm dần và đă ̣c biê ̣t giảm nhanh chóng vào đầu thế kỷ
XX.
Năm 1911, mô ̣t trại nuôi vích đã được thành lâ ̣p ở đảo Ogasawara để cho sinh sản nhân
tạo và thả lại biển để duy trì quần thể tự nhiên. Tuy nhiên, trong chiến tranh thế giới lần
II, trại này đã ngưng hoạt đô ̣ng. Ðến năm 1973, trại này hoạt đô ̣ng trở lại và nâng cấp
thành trung tâm Ogasawara. Chỉ sau 5 năm hoạt đô ̣ng trở lại đã có khoảng 25 ngàn con
vích được thả xuống biển. Hiê ̣n nay, nghề sản xuất giống nhân tạo và nuôi thâm canh
vích đang mở ra nhiều triển vọng ở vùng này.
Ở nước ta, trước đây vích, đồi mồi có nhiều ở Nha Trang và Phú Quốc, Cát Bà, Côn Đảo,
song do khai thác quá mức nên sản lượng đang bị đe dọa nghiêm trọng. Vì thế cần có
biê ̣n pháp khắc phục kịp thời bằng cách cấm khai thác đồng thời phải tổ chức nuôi và sản
xuất giống để phục hồi lại quần đàn vích và đồi mồi ở nước ta.

44
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
5.2. Đặc điểm sinh học của vích, đồi mồi
5.2.1. Đặc điểm phân loại
Vích và đồi mồi là 2 trong số 4 loài rùa biển đã được phát hiê ̣n ở Viê ̣t Nam. Hê ̣ thống
phân loại của các loài này như sau:
Lớp bò sát (Reptile), bô ̣ rùa (Testudinata) và có hai họ được biết đến nhiều nhất: (i) Họ
vích (Cheloniidae) với 3 loài: đồi mồi (Ertmochelys imbricata), vích (Chelonia mydas)
và quản đồng (Careltta olivacea).
(ii) Họ rùa da (Dermochelyidae) có mô ̣t loài rùa da (Dermochelys coriacea)
Ðối với vích, ngoài tên khoa học trên, có rất nhiều đồng tên như: Testudo macropus
(Walbaum, 1782); T. viridis (Schelder, 1783); T. japonica (Thunberg, 1787); T. Marina
Vulgari (Lacepède, 1788)...
Đồi mồi cũng có những tên khác như sau: Chelone imbricata (Brongniart, 1805);
Chelone imbricata (Schweigger, 1812); Caretta imbricata (Merrem, 1820); Chelonia
pseudo-midas (Lesson, 1834); Caretta bissa (Bruppel, 1835)...
5.2.2. Ðặc điểm sinh học của vích.
a. Ðặc điểm hình thái của vích
Vích trưởng thành có thân hình dẹp theo hướng lưng bụng. Nhìn trên xuống mai có hình
oval với chiều rô ̣ng khoảng 88% chiều dài. Ðầu hơi nhỏ và chiếm khoảng 20% dài thân.
Ðầu có mô ̣t đôi vảy trước trán, thon dài nằm giữa hai hốc mắt.
Các tấm mai mỏng, trơn, phẳng và dể uốn. Mai gồm có bốn đôi tấm bên (tấm sườn) mà
tấm đầu tiên không giáp với tấm trước lưng. Giữa lưng có 5 tấm sống lưng. Ngoài ra, mai
vích còn có 12 đôi tấm bìa.
Mai vích thường có màu sắc thay đổi từ từ mô ̣t màu đến kết hợp nhiều màu như: vàng,
nâu, xanh nhạt; từ dạng có vạch phóng xạ hay có nhiều chấm đen. Vích ở Thái Bình
Dương thường có màu đen hơn vích ở Ðại Tây Dương.
Mă ̣t dưới (yếm), các tấm phẳng, hơi mỏng và gồm có: 1 tấm giáp họng, 1 đôi tấm cánh
tay, 2 đôi tấm ngực, 1 đôi tấm bụng, 1 đôi tấm đùi, 1 đôi tấm hâ ̣u môn, 4 đôi tấm bìa dưới
và 4-8 tấm nách rất nhỏ.
Bốn chi của vích biến thành dạng mái chèo, ở đầu chi trước và chi sau có mô ̣t vuốt nhỏ,
dẹp. Ðuôi ngắn.
Vích trưởng thành thường có thể nă ̣ng 100-200 kg, con lớn nhất đã gă ̣p nă ̣ng 400kg.
b. Phân bố
Ở nước ta, vích phân bố rô ̣ng rải từ vịnh Bắc Bô ̣ đến vịnh Thái Lan, nhiều nhất là ở Nha
Trang, Phan Thiết, Côn Ðảo, Trường Sa và Phú Quốc

45
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
Trên thế giới, vích phân bố chủ yếu ở vùng nhiê ̣t đới và câ ̣n nhiê ̣t đới từ 20 o Vĩ Bắc đến
20o Vĩ Nam, gần các thềm lục địa hay xung quanh các đảo. Tuy nhiên, chúng có thể di cư
thay đổi chỗ ở tuỳ theo nhiê ̣t đô ̣ môi trường. c. Tập tính sống
Vích thông thường sống đơn đô ̣c, song chúng cũng có thể tụ tâ ̣p thành đàn ở các vùng
nước cạn có nhiều rong tảo để ăn. Chúng có thể di cư dọc theo các thềm lục địa hàng
ngàn km để tìm thức ăn hoă ̣c tìm nơi sinh sản. Bãi đẻ của vích thường ở những vùng có
nhiê ̣t đô ̣ nước trên 25oC.
Hiê ̣n nay, vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về tuổi thành thục của vích. Vài tác giả cho
rằng, vích thành thục lần đầu tiên ở 6 năm tuổi nhưng cũng có tác gỉa cho từ 8-13 tuổi
vích mới thành thục.
Giữa các quần thể khác nhau thâ ̣m chí ngay cả trong cùng mô ̣t quần thể, tuổi và kích cỡ
thành thục lần đầu của vích cũng khác nhau. Trong điều kiê ̣n nuôi, vích đạt trọng lượng
35kg sau 3 năm nuôi và bắt đầu sinh sản ở khoảng 10 năm tuổi.
Do vích phân bố rô ̣ng trên thế giới, vì thế tùy từng vùng với những điều kiê ̣n khác nhau
mà mùa vụ sinh sản của vích cũng khác nhau. Ở nước ta, vích sinh sản chủ yếu vào
khoảng tháng 3-5.
Quá trình sinh sản của vích là quá trình bắt că ̣p, giao phối, làm tổ và đẻ trứng. Thông
thường, mô ̣t con cái bắt că ̣p với nhiều con đực và sự bắt că ̣p thường xảy ra ở gần bờ.
Vích bắt đầu giao phối vào đầu mùa sinh sản và kết thúc khi bắt đầu làm tổ đẻ trứng. Các
kết quả nghiên cứu về sinh sản của vích cho thấy tinh trùng của vích sống rất lâu trong
ống dẫn trứng con cái. Do đó lượng tinh trùng “chưa sử dụng tới” của những lần giao
phối sau sẽ được dùng để thụ tinh cho những lần đẻ tiếp theo trong năm.
Khi đẻ, vích cái sẽ bò lên những bãi cát ở các vùng ven biển hay các đảo vắng để làm tổ
đẻ. Chúng thường dùng chân sau để đào lỗ sâu 30-50cm rồi đẻ trứng vào. Sau đó lấp cát
lại cẩn thâ ̣n rồi quay xuống biển.
Vích có tâ ̣p tính làm tổ ở những nơi cố định nào đó và chúng có thể trở lại ngay bãi đẻ cũ
cho lần sinh sản sau. Chu kỳ sinh sản của vích có thể thay đổi tùy vào quần thể, chất
lượng của bãi ăn...
Mỗi con cái có thể đẻ từ 38-195 trứng tùy vào tuổi, kích cỡ của vích. Trứng có đường
kính từ 38-58 mm, trọng lượng từ 38-60g .
Ở nhiê ̣t đô ̣ 28-30oC, đô ̣ ẩm 75-80%, thời gian phát triển phôi 48-70 ngày. Hầu hết trứng
nở vào ban đêm. Sau khi nở, vích con bới cát chui lên và lâ ̣p tức chạy nhanh chóng xuống
biển tìm nơi ẩn trú.
Thức ăn của vích là thực vâ ̣t, tuy nhiên, trong điều kiê ̣n nuôi, chúng có thể ăn thực vâ ̣t lẫn
đô ̣ng vâ ̣t. Những nghiên cứu cho thấy, ở vích lớn (dài 31-120cm), trong cơ quan tiêu hoá

46
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
chứa khoảng 88,3-95,5% tảo đáy, phần nhỏ còn lại là các đô ̣ng vâ ̣t. Ngoài ra, mô ̣t số nhỏ
các loài đô ̣ng vâ ̣t sống trong những đám rong cỏ cũng được vích vô tình ăn phải và
thường chiếm tỷ lê ̣ dưới 2% vâ ̣t chất trong ruô ̣t. 5.2.3. Ðặc điểm sinh học của đồi mồi
a. Ðặc điểm hình thái
Đồi mồi có thân hình thon dẹp, nhìn trên có hình elip. Mai đồi mồi có những tấm vảy
sừng xếp lớp dạng mái ngói với chiều rô ̣ng mai khoảng 70-79% (trung bình 74.1%) chiều
dài. Ở đồi mồi mới nở và đồi mồi giống (1-2 tháng tuổi) có 3 đường gai sống trên lưng và
mất dần khi lớn lên. Ðầu có kích cỡ trung bình, hẹp và có mỏ nhọn. Chiều dài đầu
khoảng 21-33% chiều dài mai.
Trên đầu có hai đôi vảy trước trán và 3-4 vảy sau hốc mắt. Mỏ không có răng cưa nhưng
có móc ở đỉnh. Mõm hẹp, kéo dài và có những tấm vảy dày để thích nghi, chống chịu với
điều kiê ̣n sóng của biển và để tìm thức ăn trong những ră ̣ng san hô hay trong vùng đá sỏi.
Đồi mồi mới nở đã xuất hiê ̣n vảy, song lúc này còn mềm và nằm sát mai. Khi lớn lên, vảy
cũng lớn và cứng dần, gốc những tấm vảy lưng gắn chắc vào mai.
Lúc nhỏ, vảy có màu đen hay hơi vàng. Khi đạt đến kích cỡ 10cm trở lên vảy bắt đầu trổ
bông. Đồi mồi là loài có màu sắc să ̣c sỡ và đa dạng nhất trong số các loài rùa biển.
Đồi mồi có các chi biến thành dạng mái chèo, hai chi trước phát triển hơn chi sau và là
làm cơ quan bơi lô ̣i và xé mồi. Chi trước có 2 vuốt, chi sau có 1 vuốt. Đồi mồi đực có các
vuốt cong và chắc hơn và có đuôi dài hơn ở con cái. b. Ðặc điểm phân bố
Đồi mồi phân bố chủ yếu ở vùng nhiê ̣t đới, khắp vùng trung Ðại Tây Dương như từ Bắc
Mỹ đến nam Brazil, Ấn Ðô ̣ Dương thường gă ̣p ở Madagasca, Tây Thái Bình Dương như
ở Nhâ ̣t Bản, Trung Quốc, Phillippines, Viê ̣t Nam và Ðông Thái Bình Dương. Đồi mồi
thường hiê ̣n diê ̣n ở những vùng biển có nhiều rạn đá, nhưng đôi người ta vẫn phát hiê ̣n
được chúng ở vùng nước nông của các đầm, vịnh ven biển. Chúng thường làm tổ đẻ từ
25o Vĩ đô ̣ Bắc đến 35o Vĩ đô ̣ Nam.
Ở nước ta, đồi mồi phân bố khắp từ Vịnh Thái Lan và nhiều ở các đảo Cát Bà, Trường
Sa, Hòn Sa, Côn Ðảo. Vùng Hà Tiên trước đây có nhiều ở Hòn Heo, Hòn Móng Tay,
Hòn Ngang, Hòn Ðầm... và hiê ̣n nay chủ yếu ở các nơi xa thuô ̣c đảo Phú Quốc như: Hòn
Ông, Hòn Bà, Hòn Đồi Mồi, Thổ Chu... c.Tập tính sinh học
Đồi mồi sống chủ yếu ở vùng triều, đô ̣ trong cao (1-3m), ven các rạn san hô ngoài hải
đảo. Chúng có tâ ̣p tính di cư từ vùng này sang vùng khác, vì thế mâ ̣t đô ̣ quần thể của đồi
mồi thường biến đô ̣ng theo từng vùng và từng mùa khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay
người ta vẫn chưa gă ̣p đồi mồi di cư thành từng đàn lớn hàng ngàn con.
Đồi mồi được xem là loài làm tổ đẻ đơn lẻ, chúng thường đến làm tổ ở những nơi cố
định. Thông thường, đồi mồi sinh sản vào mùa mưa và ấm như mùa hè. Chu kỳ sinh sản

47
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
của chúng từ 2-3 năm. Nhiều báo cáo cho thấy rằng, trong suốt mùa sinh sản chúng có
thể đẻ 2-5 đợt, mỗi đợt và cách nhau 2-3 tuần.
Ở nước ta, mùa vụ sinh sản của đồi mồi ở vùng biển Hà tiên thường từ tháng 12 đến
tháng 7 hoă ̣c 8 hằng năm và rô ̣ nhất vào tháng 2-5. Ở các đảo càng xa bờ thì mùa vụ sinh
sản càng đến sớm.
Đồi mồi làm tổ vào ban đêm, song cũng có trường hợp làm tổ vào ban ngày. Những lúc
nước cường, biển đô ̣ng là lúc chúng đẻ rô ̣ nhất.
Hiê ̣n nay, người ta vẫn chưa biết được chắc chắn tuổi thành thục của đồi mồi. Nhiều báo
cáo cho biết, trong điều kiê ̣n nuôi, đồi mồi có thể thành thục sau 3-5 năm, tuy nhiên ở
ngoài tự nhiên, người ta cho rằng tuổi thành thục sẽ cao hơn.
Dựa trên đă ̣c điểm ngoại hình, có thể phân biê ̣t giới tính của đồi mồi như: con đực có
hình dạng dẹp, thon dài, vảy mỏng, đuôi dài, mỗi chân chèo có 2 vuốt dài; con cái thân
dày hơn, tròn, vảy dày, đuôi ngắn, chân sau có 2 vuốt và chân trước 1 vuốt nhưng ngắn
hơn con đực.
Con đực và cái thường bắt că ̣p và giao phối ở những vùng nước cạn (2-3m). Quá trình
giao phối và thường xảy ra trong vài giờ. Mỗi con cái thường có vài con đực theo đuổi
trong quá trình này.
Khi làm tổ, con cái thường làm tổ ở bãi cát ẩm cách mức nước cao nhất 5-6m, tổ tròn
thường có đường kính mă ̣t 0,5-1m, đường kính đáy khoảng 0,3m và tùy kích cỡ mà đào
sâu hay cạn. Đồi mồi đẻ trứng dính với nhau thành từng chùm nhờ chất nhớt. Sau khi đẻ
xong, chúng dùng chân trước lấp đất lại và nê ̣n bằng phẳng rồi bò quanh tổ, xới cát với
đường kính vài chục mét rồi bỏ đi. Có lẽ đây là tâ ̣p tính để tránh kẻ thù phát hiê ̣n ra tổ
của chúng.
Sức sinh sản của đồi mồi, tùy từng nơi, kích cỡ của con mẹ, cũng như mùa vụ mà số
lượng trứng thay đổi khá lớn từ 51-225 trứng. Thông thường, trong suốt mùa sinh sản,
đợt đầu đẻ 70-80 trứng, đợt giữa 150-200 trứng, và đợt cuối đẻ 80-100 trứng. Trứng có
đường kính từ 30-45mm với trọng lượng từ 20-31,6g.
Tùy điều kiê ̣n nhiê ̣t đô ̣ thời gian phát triển phôi trung bình 47-75 ngày ở nhiê ̣t đô ̣ khoảng
28 -30oC. Đồi mồi con mới nở có trọng lượng từ 8-17,9g. Thông thường chúng nở đồng
loạt vào sáng sớm. Sau khi nở, chúng bới cát chui lên và bò ra biển.
Đồi mồi là loài ăn thịt. Thành phần thức ăn của chúng có thể là: cá, giáp xác, nhuyễn thể,
sứa, hải quỳ, rắn biển.

48
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
5.3. Khai thác vích, đồi mồi từ tự nhiên
Vích, đồi mồi hiê ̣n nay là mô ̣t mă ̣t hàng rất hấp dẫn trên thị trường. Nhưng nguồn giống
vẫn phải dựa tự nhiên. Vì thế, người ta có thể đánh bắt cả trứng, con non và con trưởng
thành để phục vụ ch nhiều mục đích khác nhau.
5.3.1. Thu trứng và con mới nở
Ðể phát hiê ̣n ổ trứng vốn được ngụy trang rất kỹ bởi con mẹ, ngư dân có thể dùng chĩa
xom vào nền cát nghi ngờ. Nếu có trứng sẽ có dịch nhờn dính vào chĩa. Ngoài quan sát
dấu chi trên cát, những nơi trên nền cát có nhiều ruồi đâ ̣u do mùi tanh tiết ra lúc chúng đẻ
cũng có thể là dấu hiê ̣u của ổ trứng. Khi phát hiê ̣n ổ trứng hay khi phát hiê ̣n chúng làm tổ
đang đẻ, người ta có thể làm dấu và rào lại, đợi đến khi trứng nở thì bắt con non mang về
nuôi. Ngoài ra, cũng có thể thu trứng mang về ấp.
5.3.2. Ðánh bắt vích, đồi mồi lớn
Ðể đánh bắt vích, đồi mồi lớn, ngư dân có thể dùng lưới, câu giăng hay cả viê ̣c theo dấu
để bắt con mẹ sinh sản.
Ngoài ra, cũng có thể bao lưới bao quanh các hốc đá, rạn san hô sau đó dùng nhiều cách
để đuổi chúng vào lưới. Tuy nhiên, đôi khi người đánh cá vẫn có thể bắt được ngẫu nhiên
vích, đồi mồi ngoài biển khơi khi bủa lưới.
Người ta cũng có thể dùng mồicâu, giăng lưới ở mức nước sâu 3-4m. Cách này đơn giản,
nhẹ nhàng, song năng suất thấp.
5.4. Sản xuất giống và nuôi vích, đồi mồi
Hiê ̣n nay, với viêc̣ đánh bắt vích, đồi mồi ngày mô ̣t gia tăng đã làm nguồn lợi đang trên
đà suy giảm đáng kể. Vì thế, song song với viêc̣ tăng cường sản xuất giống và nuôi vích,
đồi mồi cho nhu cầu thị trường, cũng cần phải chú ý đến viêc̣ bảo vê ̣ và khôi phục nguồn
lợi tự nhiên mà Nhâ ̣t Bản là nơi có hoạt đô ̣ng tích cực nhất.
5.4.1.Thu trứng, ấp trứng và ương con non
Trứng vích, đồi mồi có thể thu từ tự nhiên hoă ̣c cho đẻ nhân tạo. Ðối với viê ̣c cho đẻ
nhân tạo, con trưởng thành sẽ được nuôi vỗ trong ao riêng biê ̣t, có bãi đẻ nhân tạo. Sau
khi chúng đẻ, trứng thu được nên vâ ̣n chuyển cẩn thâ ̣n vào thùng ấp, tránh va chạm, hay
đảo ngược trứng. Thùng ấp có thể là thùng gỗ có diê ̣n tích khoảng 1 m2 có chứa cát và
xếp trứng vào thùng, trên cùng là lớp cát dày 20-30cm. Cần giữ thùng nơi râm mát và
tưới nước để giữ ẩm với đô ̣ ẩm từ 5-10%. Trong điều kiê ̣n vùng Hà tiên, thông thường
45-60 ngày trứng sẽ nở.
Sau khi trứng nở, rốn rụng và khô thì thả bể nuôivới mức nước 4-5cm và đă ̣t nơi râm mát.

49
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
Tránh thả sớm vì có thể làm nhiểm bê ̣nh con non. Trong vòng 3 ngày đầu sau khi nở,
vích và đồi mồi con dinh dưỡng bằng noãn hoàng nên không cần cho ăn. Cần thay nước
hàng ngày với nước trong sạch và đủ mă ̣n (20-25o/oo).
Mỗi ngày cho ăn 3 lần: sáng, trưa và chiều. Thức ăn bao gồm các loại thịt hầu, thịt cá thái
mỏng. Trung bình cho ăn với lượng 1-1,3kg/100con mỗi ngày. Sau nửa tháng lượng thức
ăn được tăng lên với lượng 40-60g/con. Cho ăn mỗi ngày 2 lần lúc sáng và chiều. Sau khi
cho ăn nên thay nước. Sau 6 tháng có thể chuyển nuôi trong chuồng ở biển hay ương nuôi
tiếp trong bể tròn nước chảy.
5.4.2 Kỹ thuật nuôi vích, đồi mồi

Bảng 5 Mâ ̣t đô ̣ nuôi vích và đồi mồi


Tuổi Trọng lượng (kg) Mâ ̣t đô ̣ (con/m3)
1 2 10
2 10 4
3 25 1,6
4 40 1
Hiê ̣n nay có nhiều kiểu chuồng nuôi khác nhau. Chuồng có thể bằng xi măng đúc khối,
hay bằng gỗ chịu nước mă ̣n. Trường hợp chuồng bằng ximăng, đá hô ̣c phải xếp chừa
những lỗ thông nước với bên ngoài. Tùy điều kiê ̣n cụ thể, chuồng có thể có kích thước
nhỏ 5x2,5x2m và có thể rất lớn 20x10x3m. Trên chuồng nên có sàn để bảo vê ̣.
Chuồng nên xây dựng ven bờ biển nơi có nước sạch, thủy triều lên xuống được hàng
ngày. Tốt nhất chuồng phải phơi đáy được khoảng 1 giờ/ngày.
Thức ăn cung cấp hàng ngày với lượng 3% trọng lượng cơ thể. Rong biển, cỏ biển chỉ là
thức ăn bổ sung với lượng nhỏ. Khi mới thả, nên tâ ̣p cho chúng ăn trên sàn, sau đó có thể
rải khắp chuồng. Cần thiết kế vách chuồng sao cho có thể thông nước với nước biển bên
ngoài. Ngoài ra, cần vê ̣ sinh chuồng hàng ngày, dọn sạch rong cỏ bám bên ngoài để tăng
cường trao đổi nước.
5.4.3. Các bệnh thường gặp ở vích, đồi mồi
Rùa biển nói chung, vích và đồi mồi nói riêng, trong quá trình nuôi đã xuất hiê ̣n nhiều
bê ̣nh khác nhau.Tuy nhiên, viê ̣c điều trị bê ̣nh vẫn chưa được hiê ̣u quả ví chưa có những
công trình nghiên cứu chuyên sâu về bê ̣nh của chúng. a.Bệnh ở vích (i) Bệnh đốm
xám:
Dấu hiê ̣u: Bê ̣nh này thường là những vết thương lan rô ̣ng, màu xám trên da cổ, chân
chèo, hay đôi khi cả trên carapace. Nguyên nhân: Do virus dạng thuyền gây ra.
Ảnh hưởng: Bê ̣nh có thể làm lở lóet da và mai vích (carapace). Con mới nở bị bê ̣nh nă ̣ng
sẽ chết, những cá thể trên 1 tuổi còn sống sót sẽ được miễn dịch.
50
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
Phòng bê ̣nh: Có lẽ đây là loại bê ̣nh sốc do môi trường như mâ ̣t đô ̣ quá cao, nhiê ̣t đô ̣ tăng
cao đô ̣t ngô ̣t... Vì thế, những biê ̣n pháp như giảm mâ ̣t đô ̣, xử lý chlorine nước đã cho thấy
thành công.
(ii).Bệnh do Protozo
Dấu hiê ̣u: Thường xảy ra nghiêm trọng nhất đối với con mới nở. Rùa gầy yếu, lờ đờ, khi
bị bê ̣nh nă ̣ng ruô ̣t có thể bị tách ra khỏi lớp cơ gắn vào mai.
Nguyên nhân: do giống Caryspora thuô ̣c Protozoa gây bê ̣nh
Ảnh hưởng lên vâ ̣t chủ: Bê ̣nh sẽ xâm nhâ ̣p và phá vỡ niêm mạc ruô ̣t, phân không thải
được ra ngoài mà tâ ̣p trung thành khối làm tắc ruô ̣t.
Phòng bê ̣nh: Vê ̣ sinh là biê ̣n pháp quan trọng để tránh nhiểm bẩn môi trường.
a. Bệnh ở Đồi mồi
Giai đoạn mới nở đến 6 tháng tuổi đồi mồi con có thể mắc mô ̣t số bê ̣nh như nhiểm trùng,
lở lóet hâ ̣u môn...
* Bê ̣nh nhiễm trùng rốn có thể xảy ra đối với đồi mồi con mới nở có cuống rốn dài,
chưa khô. Nếu thả sớm khi rốn chưa khô và rụng thì sẽ làm nhiễm trùng cuống rốn và sẽ
gây chết. Vì thế không nên thả sớm con mới nở.
* Trường hợp khác, trong họng đồi mồi có nhiều mụn đẹn, đồi mồi không ăn được.
thông thường người ta có thể sát trùng và nuôi riêng đến khi khỏi bê ̣nh.
* Bê ̣nh lở loét hâ ̣u môn và nổ mắt cũng đã được phát hiê ̣n ở đồi mồi con. Tuy nhiên,
khi đạt kích cỡ 12-15cm thì hiếm khi xuất hiê ̣n bê ̣nh này.
Ngoài ra, do thể chất kém, đồi mồi con bị còi, hoạt đô ̣ng yếu. Những con này cần được
tách nuôi riêng với chế đô ̣ chăm sóc thỏa đáng.
Trong trường hợp môi trường nước nhiễm bẩn, nhiều chất vẩn lơ lững có thể làm nghẹt
mũi đồi mồi và có thể gây chết. Cần vớt lên ngay và xử lý đến khi thở được mới thả
xuống.
Bê ̣nh ở đồi mồi lớn
Da đồi mồi, đă ̣c biê ̣t là da cổ và chân chèo có thể có những đốm mốc, sau đó lan rô ̣ng gây
lở lóet. Bê ̣nh này lây lan nhanh và có khi gây chết.
Ngoài ra, đồi mồi còn có thể bị bê ̣nh đốm đỏ trên cổ và chân. Lúc đầu là những chấm đỏ
nhỏ, sau lan rô ̣ng và lở lóet. Bê ̣nh lây lan nhanh và trường hợp nă ̣ng sẽ gây chết. Dùng
thuốc kháng sinh streptomycin, penicilin bôi trực tiếp lân chỗ lở loét hoă ̣c tắm từng con
với liều lượng 1g/10lít nước.
Do nuôi thời gian dài, đồi mồi có thể bị Hà bám vào mai, đục khóet, làm hư hại vảy và có
khi ăn sâu cả vào thân. Xử lý bằng cách vê ̣ sinh chuồng kỹ và thường xuyên.

51
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
Bê ̣nh bong vảy thường xuất hiê ̣n ở đồi mồi lớn. Trên vảy xuất hiê ̣n những vết trắng rồi
bong ra thành từng mảng và làm giảm giá trị của vảy. Thông thường, cần phải san thưa và
cải tạo môi trường nuôi sạch sẽ để hạn chế bê ̣nh.

Chương 6 KỸ THUẬT NUÔI RẮN VI VOI


6.1. Đặc điểm sinh học
Enhydris bocourti (Jan, 1865)
Hypsirhina bocourti Jan
Hypsirhina multilineata Tirant, 1885
Họ: Rắn nước Colubridae
Bô ̣: Có vảy Squamata

52
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________

Hình 1. Hình dạng bên ngoài rắn vi voi


6.1.1. Hình thái
Đây là thành viên đông nhất của giống Enhydris được phát hiê ̣n trong khu vực châu Á.
Đầu khác biê ̣t, đồng tử hình elip đứng. Thân to chắc hình trụ, vảy láng. Màu sắc trên thân
nâu sẫm với các vạch ngang nhỏ, màu vàng không đều đă ̣n. Hai bên thân phía dưới màu
vàng với màu trên lưng sâ ̣m hơn đôi khi kéo ngang sang bụng. Đầu sâ ̣m màu với những
đốm vàng phiá trên và dưới. Chiều dài cơ thể khoảng 115cm.
6.1.2. Phân bố
Viê ̣t Nam: Sông Bé (Bến Cát), Đồng Nai (Biên Hòa), Kiên Giang (Rạch Giá), Cần Thơ,
Sóc Trăng, Minh Hải (Năm Căn, U Minh).
Thế giới: Thái Lan và phía Bắc bán đảo Mã Lai, Campuchia.
6.1.3. Dinh dưỡng
Thức ăn chính của loài này là cá, ếch nhái, và các loại cá da trơn. Đôi khi, do quá thiếu
thức ăn, rắn ăn cả các loại cá có vẩy.
Rắn tấn công và ăn cả những con mồi lớn hơn chúng 1,5 lần, do miê ̣ng của chúng có thể
há rô ̣ng rất lớn, vì xương hàm trên và hàm dưới ở rắn không ngoắc vào với nhau. Miê ̣ng
cứ giãn ra mãi và con mồi bị nuốt dần vào bụng. Con mồi bị nuốt tới đâu, ta nhìn thấy rõ
tới đó. Sau khi nuốt xong con mồi, rắn sẽ tìm nơi kín đáo ẩn nấp nằm chờ tiêu hóa con
mồi, có khi nó nằm tới cả tuần. Khi con mồi đã được tiêu hết nó mới tiếp tục đi tìm mồi
mới. Nhiều nghiên cứu cho thấy, rắn tiêu hóa con mồi trong môi trường nước nhanh hơn
trên cạn, vì vâ ̣y khi nuôi rắn ri voi cần hạn chế nhốt chúng ở trên cạn. Rắn ri voi thường
bắt mồi về đêm, chúng cũng dễ dàng thích ứng với điều kiê ̣n cho ăn vào ban ngày khi
nuôi nhốt. Ở miền Nam nước ta, rắn ri voi hoạt đô ̣ng mạnh vào mùa hè và mùa thu.
6.1.4. Sinh trưởng
Trong quá trình sinh trưởng và phát triển, rắn phải lô ̣t xác để lớn lên. Lúc nhỏ, rắn lô ̣t xác
định kỳ khoảng 28 - 30 ngày mô ̣t lần. Sau tuổi 2, chu kỳ lô ̣t xác của chúng dài hơn,
khoảng từ 35 - 45 ngày/lần. Mùa hè và mùa thu, rắn lô ̣t xác đều đă ̣n. Nhưng vào mùa

53
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
đông và mùa xuân, chúng lô ̣t xác thất thường hơn. Trước lúc lô ̣t xác, rắn bỏ ăn, lầm lì,
hung dữ. Da của chúng chuyển sang màu trắng đục. Mắt rắn mờ dần đi nhìn kém, ít hoạt
đô ̣ng hơn và loanh quanh tìm chỗ để lô ̣t xác.
Sau khi lô ̣t xác xong, rắn mang trên mình mô ̣t bô ̣ da mới sáng bóng và mềm mại. Nó
thích leo lên bờ để sưởi nắng vào lúc sáng (từ 7 - 9h). Khoảng 7 - 10 ngày sau da của
chúng mới trở lại bình thường. Lúc này, chúng bắt đầu ăn mạnh, lớn nhanh. Nhiê ̣t đô ̣,
thời tiết và thức ăn rất ảnh hưởng tới tốc đô ̣ lớn của rắn. Rắn ri voi có thể sống được 10
năm. Nếu nuôi tốt, rắn có thể nă ̣ng tới 7 - 9kg/con.
Con cái đẻ từ 6 đến 17 con có chiều dài là 22cm, giống như rắn trưởng thành.
6.1.5. Tập tính sinh sống
Nhiê ̣t đô ̣ thích hợp cho sự sống và phát triển của rắn từ 23 – 32 0C, rắn sống ở vùng nước
ngọt không thích vùng nước lợ.
Loài rắn ăn đêm này được tìm thấy ở các nơi đất thấp có nước nhiều và các vùng ven biển
và những nơi đất trũng.nướ
6.2. Kỹ thuật nuôi rắn thịt
Xử lý ao trước khi thả giống: Tháo cạn nước ao và bắt sạch các loại rắn, cá, lươn, ếch,….
trong ao. Rãi vôi bô ̣t đều khắp đáy ao với lượng 20 – 25 kg/ 100m2 phơi ao vài ngày rồi
cho nước vào vừa đủ, đồng thời thả lục bình, rau ngổ,…. vào ổn định từ 7 – 10 ngày mới
thả rắn giống vào nuôi.
6.2.1. Chọn con giống

Hình 2. Cách chọn rắn vi


voi con
- Chọn loại con giống nhỏ, mới đẻ cỡ 50 con/kg, thường xuất hiê ̣n vào khoảng
tháng 3(Âm lịch).
- Có thể bắt giống rắn con tự nhiên vào đầu mùa mưa. Rắn con được chăm sóc riêng
với mâ ̣t đô ̣ 30 – 40 con/m2.

54
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
- Chọn rắn Ri voi bố mẹ cỡ 0,4 - 0,6 kg/con trở lên. Mâ ̣t đô ̣ nuôi từ 5 - 10 con/m 2.
Nuôi dưỡng chúng từ mùa khô, vào khoảng tháng 4 - 5 (dương lịch) rắn đẻ, mỗi lần đẻ
khoảng 50 rắn con.
- Lưu ý: Chọn rắn phải đồng cỡ, khoẻ mạnh, không có sẹo vết, loại bỏ những con bị
dị tâ ̣t, dị hình.
6.2.2. Các hình thức nuôi
Rắn Ri voi tương đối dễ nuôi, có thể nuôi trong ao, mương vườn, bể, lu hay khạp vẫn có
thể nuôi được. Tùy vào điều kiê ̣n sẵn có để chọn cách nuôi và biê ̣n pháp chăm sóc, nuôi
dưỡng để chọn cách nuôi thích hợp nhất. Xin giới thiê ̣u mô ̣t số cách nuôi sau:

Hình 3. Mô hình nuôi rắn trong bể xi măng


Nuôi rắn ở bể xi măng, lu, khạp: Đáy bể và thành bể được trát láng xi măng. Trong bể
cho vào 0,1 - 0,2m là đất thịt, đất bùn. Diê ̣n tích ½ bể được thả lục bình, diê ̣n tích còn lại
để trống là bãi để mồi cho rắn ăn, trong bể tùy nơi rô ̣ng hẹp mà cho mô ̣t số lá chuối khô,
lá chuối có thể thả lên bè tre hoă ̣c can nhựa để lá chuối không bị ngâ ̣p sâu vào nước. Cho
nước vào bể 0,2 - 0,3m, thả rắn vào nuôi.

Hình 4. Mô hình nuôi rắn vi voi trong lu (khạp)


Nuôi trong ao: diê ̣n tích nên từ 50m trở lên. Sâu 1,3 - 1,5m. Ao cần phải dọn bớt bùn
sình, cây cỏ thối mục. Lớp bùn đáy ao dày 10 - 20cm. Mă ̣t ao, thả bèo hoă ̣c lục bình, rau
muống, rau ngổ. Diê ̣n tích thả, chiếm không quá 4/5 diê ̣n tích mă ̣t ao. Bít chă ̣t các hang
mọi. Dùng tấm chắn bọng thoát nước, bịt lưới kỹ, đă ̣t cách đáy ao 0,3 m. Cần lưu ý
55
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
không để bờ đất còn lại nhiều, rắn sẽ vào trú trong hang không ra ăn, rắn châ ̣m lớn. Thả
lá chuối khô thành đống cao khỏi mă ̣t nước 0,3 - 0,5m, lá chuối thả mé bờ. Nếu mé bờ bị
nước ngâ ̣p, đóng bè chuối bè tre, thả lá chuối khô vào để rắn trú sau khi ăn, ít đánh nhau
gây thương tích, khoảng trống còn lại là nơi làm bãi cho rắn ăn, cho vào ao 0,5 - 0,8m. -
Nuôi thương phẩm (nuôi vỗ béo): Cách nuôi này được nhiều hô ̣ áp dụng, thời gian nuôi
ngắn, lãi cao, mau thu hồi vốn.
+ Thu mua rắn Ri voi, trọng lượng từ 200 - 300g/con mang về để nuôi vỗ.
+ Nuôi khoảng 2 - 3 tháng trọng lượng trung bình của rắn đạt 600 - 800kg/con thâ ̣m chí
1kg/con nếu người nuôi theo dõi chăm sóc và quản lý tốt.
+ Tiến hành bán thu tỉa bán rắn thương phẩm (nếu chăm sóc tốt có thể bán đồng loạt)
chuẩn bị nuôi vụ kế.
* Chú ý: Nơi nuôi rắn phải gần nguồn nước sạch, thuâ ̣n tiê ̣n cho viê ̣c thay nước dễ
dàng,...
6.2.3. Thức ăn
Rắn ri voi thích ăn nhất là đô ̣ng vâ ̣t tươi sống, không ương thối như nòng nọc, ếch nhái,
lươn con, trùng, các loại cá không vảy hoă ̣c vảy nhỏ. Cứ bình quân 3 - 4 kg thức ăn rắn
tăng trọng 1 kg.
Lượng thức ăn hằng ngày khoảng 3 - 5% trọng lượng rắn trong ao, cho ăn hằng ngày.
Tùy theo khả năng tăng trọng của rắn mà tăng hoă ̣c giảm khẩu phần thức ăn. Không nên
để thức ăn dư thừa, làm thối nước.
Cần chuẩn bị nguồn thức ăn sẵn từ các ao, mương hiê ̣n có. Có thể nuôi thêm lươn, cá
să ̣c, cá trê, nhái... trong ao, vừa tâ ̣n dụng thức ăn thừa, bớt ô nhiễm, vừa làm thức ăn tại
chỗ cho rắn.
6.2.4 .Chăm sóc
Khoảng 1 - 2 tuần, thay nước mô ̣t lần
Rắn sắp lô ̣t da cá thì màu vảy trắng và mă ̣t đục.
Bổ sung ủ lá chuối khô để sau khi ăn xong rắn vào trú, ít cắn nhau và rắn mau lớn. Rắn
bê ̣nh hay bị thương tích được nuôi chăm sóc riêng, khi khoẻ mới tiến hành nuôi chung.
Rắn biếng ăn, cần thay đổi thức ăn và bổ sung kích thích tăng trưởng như B complex,
vitamin C để kích thích rắn ăn.

6.2.5. Thu hoạch


Khi rắn nuôi được 6 tháng đến 1 năm tuổi, có thể thu hoạch. Rắn 6 tháng tuổi, đạt trọng
lượng từ 500g/con trở lên (loại 1). Khi thu hoạch, rắn cái để lại, tiếp tục gây giống.

56
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
6.3. Kỹ thuật nuôi rắn sinh sản
6.3.1. Chọn giống bố mẹ
Khi chọn mua rắn giống nói chung cũng như mua giống bố mẹ. Không nên mua lại của
những thương lái thu gom ở chợ, vì rắn được bắt bằng nhiều cách, có thể đã ảnh hưởng
sức khỏe. Rắn giống làm rắn bố mẹ, nên mua ở những cơ sở sản xuất có uy tín, và mua cả
rắn đực và cái theo tỉ lê ̣ mô ̣t đực mô ̣t cái hoă ̣c tỉ lê ̣ đực/ cái: 1/3 – 5. Nếu mua rắn hâ ̣u bị
phải chọn rắn đực nă ̣ng từ 400g/con trở lên, rắn cái nă ̣ng từ 700g/con trở lên.
- Rắn cái : đầu nhỏ, cổ thon, phần bụng nở nang, đuôi ngắn và vót.
- Rắn đực : đầu hơi to hơn, phần bụng không nở nang như rắn cái, đuôi dài hơn và từ hâ ̣u
môn về sau hơi phình to hơn rắn cái. Nếu vuốt nhẹ phần gần hâ ̣u môn có thể phát hiê ̣n
cơ quan sinh dục đực.
Lưu ý: không nên chọn rắn cái quá mâ ̣p sẽ khó cho sinh sản.
6.3.2. Vị trí nuôi rắn bố mẹ
Tùy vào số lượng rắn bố mẹ mà ta bố trí ao nuôi rô ̣ng hay hẹp cho phù hợp. Nhưng phần
thềm đất từ mé ao đến chân rào phải rô ̣ng ít nhất 1,5 mét. Trên mă ̣t nước ao ta cũng thả
rau, bèo, lục bình chiếm 2/3 diê ̣n tích mă ̣t nước.
Chọn loại thức ăn ưa thích nhất cho rắn như cá trê vàng, ếnh, nhái, lươn... vì thời kỳ này
rắn cần đủ chất để tích lũy chất dinh dưỡng cho quá trình tạo tinh tốt và nuôi dưỡng rắn
con. Rắn mang thai trong thời gian 9 tháng, trong 6 tháng đầu rắn mang thai chỉ ăn từ 30
– 50% lượng thức ăn so với lúc bình thường, 3 tháng cuối rắn không ăn hoă ̣c chỉ ăn vài
lần thôi. Theo nghiên cứu người ta thấy rằng rắn cái sinh sản chỉ ăn từ 80 – 85 ngày trong
mô ̣t năm với lượng cá khoảng 3 - 3,5 kg/con/năm.
6.3.3. Chăm sóc rắn mang thai
Rắn ri voi đô ̣ng dục theo mùa khoảng từ tháng 7 - 9 âm lịch, và đẻ từ tháng 4 - 6 âm lịch
năm sau. Thông thường, cao điểm bắt că ̣p giao phối của rắn vào tháng 7 âm lịch hằng
năm, từ 7 - 10 giờ tối. Trong thời gian này chăm sóc rắn phải hết sức nhẹ nhàng, yên tĩnh,
tránh gây hoảng sợ cho rắn. Nhằm tránh trứng non trong bụng không bị vỡ, vì lúc này
trứng chỉ mới có lớp vỏ rất mỏng, nếu trứng bị vỡ trong bụng có thể gây chết luôn cả rắn
mẹ.
Để kiểm tra rắn chửa sắp đẻ hay chưa, ta nắm ¼ thân rắn tính từ phía đầu và nhất khỏi
mă ̣t đất. Nếu thấy phần bụng vẫn rắn chắc, to đều từ trên xuống dưới, bô ̣ phâ ̣n sinh dục
vẫn nằm kín bên trong thì rắn chưa đến thời kỳ đẻ. Nếu thấy bụng rắn nhão trứng dồn về
phía hâ ̣u môn và phình to, âm hô ̣ lô ̣ rõ ra ngoài màu hồng nhạt là rắn sắp đẻ.

57
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
6.3.4. Bể đẻ của rắn
Chuẩn bị mô ̣t bể đẻ riêng với kích cỡ rô ̣ng 0,8 mét, dài 1,2 mét, cao 1 mét. Đáy bể đẻ
phải có đô ̣ dốc về mô ̣t phía. Để khi cho nước vào, nơi có nước cao nhất là 25cm và nơi có
nước thấp nhất là 5 cm, vê ̣ sinh bể trước khi cho rắn sắp đẻ vào.
Bể đẻ nên thả lục bình vào 2/3 mă ̣t bể, sau đó bố trí rắn sắp đẻ vào bể. Lúc sắp đẻ ta thấy
rắn chửa không chịu nằm yên mà cứ bò tới bò lui liên tục, cơ thể run lên bần bâ ̣t, đuôi nó
cong về phía trước, âm hô ̣ mở rô ̣ng và rắn con chui ra dần dần.
Trong lúc rắn đẻ ta không nên gây tiếng ồn hay đụng chạm vào nó mà chỉ quan sát khi
thấy rắn con chui ra bị kẹt thì nhẹ nhàng kéo rắn con ra dần. Có khi ta cũng thấy rắn con
không phá được vỏ trứng thì ta dùng tay xé nhanh vỏ trứng rắn con chui ra, nếu châ ̣m trễ
chúng sẽ bị chết ngạt. Trường hợp có những rắn con yếu ta nên vớt chúng ra thau, châ ̣u
có mô ̣t ít rau bèo và chăm sóc riêng. Có thể cho vào thau, châ ̣u vitamin C trợ sức, trợ lực
với liều 0,5g/lít và cứ 6 giờ thay nước mô ̣t lần.
6.3.5. Nuôi dưỡng rắn con -
Ương nuôi rắn con trong vèo:
Có thể làm vèo bằng lưới nylon tốt, mịn và lớn nhỏ tùy vào lượng rắn con với mâ ̣t đô ̣
nuôi dưỡng 25 - 30 con/m2, mực nước vèo phải đạt 0,5m và nước ao đă ̣t vèo phải sạch.
Bên trong vèo thả lục bình, rau, bèo chiếm 2/3 mă ̣t nước. Tác dụng của lục bình, rau, bèo
là nơi rắn bám hoă ̣c nằm nghỉ ngơi đồng thời giữ mát cho rắn khi trời nắng nóng. Phía
đáy bốn gốc vèo ta cô ̣t neo vâ ̣t nă ̣ng để giữ cố định.
Sau khi rắn đẻ từ 3 – 4 ngày mới bắt đầu cho rắn ăn và vào thời điểm này rắn con cũng
bắt đầu biết tự bắt mồi. Thức ăn của rắn con là cá trê con, cá chốt con, loại 230 - 250
con/kg hoă ̣c cho ăn thêm nhái nhỏ, nòng nọc. Trong 3 ngày đầu lượng thức ăn tương
đương 1/3 trọng lượng ban đầu của rắn. Đến ngày thứ 4 ta cho ăn loại cá 170 – 200
con/kg và lượng thức ăn tăng lên gấp rưỡi. Cứ cho ăn tăng dần lượng thức ăn đến ngày
thứ 10 – 12 thì thả rắn ra ao nuôi.
Trong thời gian nuôi dưỡng rắn con trong vèo cũng là thời gian làm cho rắn quen dần với
người nuôi, tâ ̣p cho rắn săn mồi và có thói quen ăn no. Như vâ ̣y khi ra ao rắn sẽ háo ăn và
tích cực đi săn mồi. Từ đó chúng sẽ lớn nhanh hơn.
- Ương nuôi rắn con trong bể:
Tùy số lượng rắn con ta có thể ngăn bể ra làm nhiều ngăn để dễ kiểm tra, chăm sóc vừa
có được mâ ̣t đô ̣ thích hợp. Mực nước trong bể cũng chỉ khoảng 0,5 - 0,6 mét, cho lục
bình, rau, bèo vào 2/3 diê ̣n tích mă ̣t nước. Ta có thể làm mái che tạm cho bể để tránh
nước mưa. Lượng thức ăn, cách chăm sóc dùng cho nuôi dưỡng trong bể cũng giống như
nuôi dưỡng trong vèo. Tuy nhiên, phải hết sức chú ý thường xuyên thay nước.

58
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________

- Ương nuôi rắn con trong ao đất:


Nước ao nuôi dưỡng rắn con phải sạch, mực nước ao khoảng 0,6 – 0,7m, kích cỡ tùy
thuô ̣c vào số lượng rắn, ao có đô ̣ dốc về mô ̣t phía sao cho đầu dốc cạn nước khi đầu kia
có đô ̣ sâu như trên. Xung quanh ao có tường rào che chắn, thềm đất từ mép ao đến chân
tường rào ít nhất 1 mét. Cho lục bình, rau, bèo 2/3 mă ̣t nước ao để giữ mát và làm giá đỡ
cho rắn bám vào nghỉ ngơi. Có thể làm mái che tạm để tránh nước mưa chảy tràn. Cách
chăm sóc và lượng thức ăn cũng như ương nuôi trong vèo.
Ngoài ra, ta cũng có thể ương nuôi rắn con trong ao thau, châ ̣u nhưng mực nước trong
thau, châ ̣u chỉ khoảng 4 - 6 cm, cho lục bình, rau bèo vào để rắn trú ẩn. Thau, châ ̣u được
đă ̣t trong nhà để dễ chăm sóc, quản lý.
Sau khi nuôi được 10 - 12 ngày thì cho ra ao nuôi rắn thịt. Nếu có những con nhỏ, còn
yếu, ta nên để lại bể tiếp tục chăm sóc thêm 4 -5 ngày rồi thả ra ao nuôi sau.
Nhưng cần nhớ rằng rắn ri voi là loài rất háo ăn, ăn xong cá này nuốt tiếp cá khác, có khi
không thể nuốt hết được con mồi. Vì vâ ̣y không nên cho chúng ăn quá nhiều có thể sẽ bị
bô ̣i thực mà chết. Trường hợp 2 con rắn cùng nuốt mô ̣t con mồi thì ta dùng kéo cắt con
mồi ra làm 2 để chúng không ăn lẫn nhau. Nếu mồi là lươn con thì ta phải giết cho lươn
chết hẳn rồi mới cho ăn.
Chăm sóc rắn mẹ
Sau khi đẻ ta cho rắn mẹ vào bể chăm sóc đă ̣c biê ̣t có mực nước từ 10 - 20 cm, thoáng
mát, tránh mưa tạt, gió lùa. Cho ăn cá trê có trô ̣n vào thức ăn thuốc vitamin C, BComplex
giúp rắn mau phục hồi sức khỏe. Khoảng 7 – 10 ngày rắn sẽ phục hồi sức khỏe ta cho rắn
trở lại nơi nuôi ban đầu để tiếp tục chu kỳ sinh sản mới.
6.4. Phòng và trị bệnh rắn
Rắn có thế bị xây xát hoă ̣c lở miê ̣ng do vi khuẩn tấn công.
Dùng Streptomycine pha với nước cất bôi vào vết thương cho rắn. Xử lý nguồn nước
bằng muối.
Rắn bị đường ruô ̣t sình bụng, bỏ ăn dùng Sulfa Guanidin tán vào nồi để khô rồi cho rắn
ăn.
Rắn bị nấm miê ̣ng dùng Mycostatine tùy thuô ̣c vào mức đô ̣ nhiễm bê ̣nh của rắn mà sử
dụng liều lượng cho phù hợp.

59
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________

Chương 7 KỸ THUẬT NUÔI CÁ NGỰA (Hippocampus)

7.1. Giới thiệu


Cá ngựa phân bố chủ yếu ở vùng biển Ấn Đô ̣ -Tây Thái Bình Dương. Hiê ̣n nay,
trên thế giới có khoảng 35 loài cá ngựa. Viê ̣t Nam có khoảng 7 loài. Loài nhỏ nhất dài từ
10 đến 20 mm trong khi đó loài có kích thước lớn nhất dài đến 300 mm. Cá ngựa thường
bơi đứng, bắt mồi bằng cách mổ và hút. Di chuyển châ ̣m nên để tránh kẻ thù cá thường
sống “ngụy trang” bằng cách thay đổi màu sắc cơ thể theo môi trường. Thường sống
trong các thảm cỏ biển, rạn san hô... để trốn tránh kẻ thù. Chính vì thế, mà chỉ mô ̣t loài cá
ngựa nhưng có nhiều màu sắc khác nhau. Là loại lưỡng hình giới tính, cá ngựa đực
trưởng thành có túi ấp trứng nằm dưới phần bụng còn cá ngựa cái thì không có túi này. Là
loài duy nhất có con đực đóng vai trò làm bố đồng thời cũng làm mẹ (bố ấp trứng trong
túi trước bụng, trứng từ cá mẹ chuyển sang bố).
Người Trung Quốc từ lâu xem cá ngựa như “hải bảo”, dược tính cao nên được
dùng làm thuốc chữa bê ̣nh. Cá ngựa có nhiều công dụng trong các bài thuốc Đông y. Nó
có tác dụng kích thích về sinh dục. Thường dùng cho người già yếu, phụ nữ vô sinh hoă ̣c
thai khó. Trong nhiều trường hợp có thể chữa được bê ̣nh hen suyễn, dùng để chữa bê ̣nh
cao cholesterol, ung nhọt...
Hàng năm có khoảng 20 triê ̣u cá ngựa tiêu thụ trên thế giới, trong đó khoảng 6
triê ̣u con được sử dụng cho mục đích Đông y. Số còn lại dùng cho mục đích nuôi cảnh.
Đây là số liê ̣u thống kê từ những năm 90, thực tế hiê ̣n nay nhu cầu về cá ngựa đang ngày
mô ̣t gia tăng; trong khi nguồn lợi tự nhiên lại giảm mô ̣t cách đáng kể. Riêng ở Khánh Hòa
vào những năm 90 lượng cá ngựa đánh bắt ngoài tự nhiên mỗi ngày có khoảng 1 đến vài
kilogram nhưng những năm gần đây thì số lượng đánh bắt được mỗi ngày chỉ vài trăm
gram.
Cá ngựa Viê ̣t Nam xếp vào nhóm cá ngựa có chất lượng cao, con lớn, màu sáng
đẹp. Theo thống kê chưa đầy đủ, mỗi năm Viê ̣t Nam xuất khẩu khoảng 5 tấn cá ngựa khô.
Tùy loại và kích thước, giá 20.000 - 40.000 đồng/con. Từ thành công này, ngoài viêc̣ bảo

60
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
tồn bền vững giống cá ngựa ở biển Viê ̣t Nam, sẽ mở ra triển vọng mới cho người dân
vùng biển. Cá ngựa thích hợp ở nhiều vùng, đă ̣c biê ̣t là từ Khánh Hòa tới vùng biển Kiên
Giang.
7.2 Đặc điểm sinh học
7.2.1. Hình thái
Cá ngựa có hình dáng cong queo, gấp khúc, phần đầu và phần ngực gần như vuông góc;
mồm hình ống, ngực và bụng lồi (do 10-13 chiếc xương cong ra tạo thành), đuôi dài, nhỏ
và cuô ̣n khúc 4 vòng, không có vây bụng và vây đuôi.
Đầu vŕ thân cá đực có nhiều gai, cơ thể míu lá cọ, ở mô ̣t số con có thể có chấm nhỏ màu
nâu, bụng cá (phần gần đuôi) có túi sinh dục
Cá ngựa cái khác cá ngựa đực ở điểm không có gai, da sáng và nhẵn.
7.2.2. Dinh dưỡng
Cá ngựa thuô ̣c nhóm bắt mồi chủ đô ̣ng. Mõm dạng ống, không có răng. Chúng theo dõi
con mồi ở nhiều tư thế và vị trí khác nhau. Trong điều kiê ̣n nuôi nhốt chúng có thể ăn
nổi, ăn đáy hoă ̣c cả khi con mồi bám vào thành bể. Khi phát hiê ̣n con mồi , cá chọn vị trí
thích hợp và tấn công con mồi nhanh. Lưu ý viê ̣c bắt mồi của cá ngựa hiê ̣u quả hay
không là phụ thuô ̣c vào tốc đô ̣ vâ ̣n chuyển con mồi. Cá ngựa là loài di chuyển châ ̣m, khó
bắt mồi đối với những con mồi di chuyển nhanh, thức ăn của chúng thường là ấu trùng
giáp xác, Artemia, …
7.2.3. Sinh trưởng
Cá ngựa là loài sinh trưởng nhanh, vòng đời ngắn. Hầu hết các loài cá ngựa đánh bắt
khoảng 1 – 2 năm tuổi, kích thước dao đô ̣ng 80 -160 mm. trong điều kiê ̣n nuôi nhốt cá
đạt kích cỡ thương phẩm sau 5 – 6 tháng tuổi.
7.3 Kỹ thuật sản xuất và nuôi cá ngựa
7.3.1 Chọn cá bố mẹ
Đầu tiên, chọn cá ngựa bố mẹ có đô ̣ tuổi từ 1 đến 2 năm, cơ thể to, vóc dáng khỏe mạnh,
không bị bê ̣nh tâ ̣t.
Cá ngựa mẹ có phần bụng phình to, khoang bụng rô ̣ng. Cá ngựa bố cơ thể dài, to, túi
trước bụng phát triển hoàn chỉnh.
7.3.2 Kỹ thuật sinh sản cá ngựa
Thông thường, thả nuôi riêng rẽ cá ngựa bố mẹ với mâ ̣t đô ̣ 20 con/m3. Hằng ngày, tiến
hành cho cá ăn thức ăn tươi sống, giàu chất dinh dưỡng từ 3 đến 4 lần. Sau mô ̣t thời gian
vỗ béo, khi cá ngựa bố mẹ đă thành thục, người ta duy trì nhiê ̣t đô ̣ nước ổn định trong
khoảng >200C (khoảng 26 – 30 ), đô ̣ mă ̣n 30-34 phần nghìn, tiến hành phối giống với tỷ
lê ̣ là 1 con đực, 1-2 con cái.

61
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
Cá ngựa thường giao phối vào sáng sớm hoă ̣c châ ̣p tối. Vào thời kỳ này, cá bố mẹ ăn ít,
cơ thể nhạt màu hơn trước. Ban đầu cá đực và cá cái đuổi nhau, chúng tiến lại gần và áp
bụng vào nhau, cá đực sẽ mở rô ̣ng miê ̣ng túi đón lấy trứng từ lỗ sinh dục của cá cái, đồng
thời phóng tinh dịch để thụ tinh cho toàn bô ̣ số trứng đó. Trứng đã thụ tinh sẽ phát triển
trong túi của cá đực. Ngay sau khi giao phối, túi của cá ngựa đực nhỏ, trong và rất mềm.
Càng về sau, do các hợp tử phát triển, túi ngày mô ̣t to lên, màu sắc sẫm lại, túi có trạng
thái mô ̣t khối rắn chắc. Trong suốt thời gian ấp trứng, cá ngựa đực rất ít vâ ̣n đô ̣ng, chúng
có xu hướng lă ̣n sâu xuống đáy bể, ăn ít. ở thời kỳ này, cá ngựa bố hòan toàn tâ ̣p trung
vào công viê ̣c bảo vê ̣ và nuôi dưỡng phôi thai.
Thời gian phát triển từ hợp tử thành cá ngựa con lâu hay chóng phụ thuô ̣c phần lớn vào
nhiê ̣t đô ̣ môi trường nước. Nếu nhiê ̣t đô ̣ dao đô ̣ng trong khoảng 20-220C, thời gian này sẽ
là 16 đến 18 ngày, ở nhiê ̣t đô ̣ 28-30 0C, thời gian này chỉ còn 10-12 ngày.
Rất dễ nhâ ̣n thấy biểu hiê ̣n "sắp sinh" của cá ngựa đực: màu sắc của túi sinh dục chuyển
từ màu nâu vàng (hoă ̣c màu nâu nhạt) sang màu nâu sẫm, túi không còn cứng và chắc nữa
mà trở nên mềm và lỏng hơn, miê ̣ng túi mở rô ̣ng.
Thời gian "chuyển dạ" chỉ khoảng mấy phút đến mười mấy phút, nhưng nếu bị ảnh
hưởng bởi mô ̣t số nguyên nhân nào đó thì thời gian "chuyển dạ" thâ ̣m chí kéo dài từ mô ̣t
đến ba ngày.
Cá bố sinh xong phải được tách khỏi bể, để lại cá con và tiến hành nuôi dưỡng. Nếu viêc̣
tách cá bố không được tiến hành kịp thời, chúng sẽ ăn thịt chính các con của mình. Điều
cần chú ý : Trong điều kiê ̣n nuôi nhân tạo, có rất nhiều cá ngựa bố mẹ không phát dục.
Tỉ lê ̣ cá ngựa chấm và cá ngựa đen có khả năng sinh sản thường 20-80%.
7.3.3 Nuôi dưỡng cá con
Cá con nuôi với mâ ̣t đô ̣ 3- 5 con/lit
Cá ngựa con mới sinh đă có thể ăn các loại ấu trùng nhỏ như trùng bánh xe. Khi chiều dài
cơ thể của cá ngựa con đạt 5-6cm, tiến hành cho ăn tôm nhỏ. Với chiều dài 10cm, ngoài
viê ̣c ăn tôm nhỏ, cá ngựa cần được bổ sung thêm cá tươi (dưới dạng các mẩu vụn). Khẩu
phần ăn cá nhỏ 5 -8 %, cá lớn 10 -15% cá lớn.
Cần tuân thủ nghiêm ngă ̣t nguyên tắc: Cho cá ăn ít nhưng nhiều lần, để tránh viêc̣ cá bị
đói hoă ̣c ngược lại bị chết do bô ̣i thực.
7.3.4 Các yếu tố môi trường
Trong quá trình nuôi dưỡng, phải thường xuyên làm vê ̣ sinh bể nuôi, loại bỏ thức ăn thừa
và các chất thải, đảm bảo chất nước luôn trong sạch, duy trì đô ̣ nhìn thấu của nước ở mức
35-40cm, tránh ánh sáng mă ̣t trời chiếu trực tiếp, nhiê ̣t đô ̣ trung bình 26 – 30 %, đô ̣ muối
30 -35 phần nghìn, oxy 4- 5mg/l.

62
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________
Nếu nhiê ̣t đô ̣ môi trường tăng, phải chú ý lượng dưỡng khí hoà tan trong nước để đảm
bảo cá vẫn đủ ôxy để thở. Định kỳ tiến hành thay nước. Mùa hè, mô ̣t đến hai ngày thay
nước mô ̣t lần.
Khi chuyển cá sang bể khác, đô ̣ng tác phải hết sức nhẹ nhàng, không được gây thương
tổn cho cá, dù là nhỏ nhất, vì khi đó cá rất dễ nhiễm bê ̣nh
7.4. Các bệnh thường gặp và cách phòng trị
Cá ngựa là loài có khả năng đề kháng kém, rất dễ nhiễm bê ̣nh. Với bất cứ mô ̣t sự thay đổi
nŕo của môi trường sống, chúng đều khó thích nghi vŕ trở nên yếu hơn.
7.4.1.Bệnh do ký sinh trùng.
Bê ̣nh xuất hiê ̣n ở cá con 5 – 30 ngày tuổi.
Triê ̣u chứng: ký sinh trùng bám vào đuôi, sau đó có thể lan tỏa toàn cơ thể, cá mất khả
năng bơi lô ̣i và kiếm ăn.
Chữa trị: nguồn nước và thức ăn phải sạch, khi phát hiê ̣n bê ̣nh thì tiến hành tách cá bê ̣nh
ra riêng, có thể sử dụng Formol từ 20 -40 ppm để xử lý.
7.4.2. Bệnh đốm trắng
Nguyên nhân: do nhiểm Ichthyophthinius mutifiliis.
Triê ̣u chứng: xuất hiê ̣n các đốm trắng trên thân và đuôi, cá bơi lô ̣i kém linh hoạt, thường
ở trên mă ̣t nước, cá bị bê ̣nh nă ̣ng sẽ chết sau vài ngày.
Ngoài ra mô ̣t số bê ̣nh thường gă ̣p ở cá ngựa do chuyên gia Trung Quốc đúc rút được
trong quá trình nuôi là: Bê ̣nh đầy hơi trướng bụng, bê ̣nh phồng bong bóng, viêm ruô ̣t, mù
mắt do thiếu ánh sáng...
Trong công tác phòng trừ bê ̣nh tâ ̣t phải coi trọng viê ̣c phòng ngừa, tránh để phát sinh
thành bê ̣nh vì viêc̣ chữa trị vừa tốn kém vừa ít hiê ̣u quả.
Viê ̣c phòng ngừa bê ̣nh tâ ̣t được thực hiê ̣n bằng mô ̣t số công viê ̣c cụ thể như: Theo dõi
thường xuyên nhiê ̣t đô ̣ nước trong bể, ánh áng, đô ̣ mă ̣n, oxy, đô ̣ pH, mâ ̣t đô ̣ thả nuôi.
Ngoŕi ra, tiến hành vê ̣ sinh bể bằng các dụng cụ chuyên dụng. Thay nước định kỳ.

63
Giáo trình kỹ thuâ ̣t nuôi và sản xuất giống thủy đă ̣c sản
______________________________________________________________________________

64

You might also like