You are on page 1of 15

SÔNG ĐÀ

“Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ”


(Trích “Tiếng hát con tàu”)
Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng phải thốt lên như vậy, Tây Bắc là mẹ của hồn thơ và cả hồn văn. Mảnh đất
đau thương mà dũng cảm ấy đã chắp bút cho biết bao nghệ sĩ để chúng ta, thế hệ mai sau, được đắm mình
trong những tác phẩm, lời văn thật đẹp. Một “Tây Tiến” của Quang Dũng lãng mạn hào hoa, một “Tiếng
hát con tàu” của Chế Lan Viên trí tuệ triết lí và cả “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân rất mực tài
hoa, uyên bác. Dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ suốt đời say mê kiếm tím cái đẹp, một miền Tây
Bắc rộng lớn xa xôi bỗng hiện lên trước mắt độc giả, đặc biệt thể hiện qua hình ảnh Đà giang-hình tượng
chính của tùy bút sông Đà. Đoạn trích từ “…” đến “…” đã tập trung khắc hoa hình ảnh sông Đà qua
nhiều góc độ/ Song song với hình tượng con sông Đà vừa dữ dội, vừa dịu dàng ấy lại là hình ảnh người
lái đò sông Đà – hình tượng chinh của tùy bút can trường, dũng cảm, độc hành đưa con đò mưu sinh
chiến đấu với sông Đà hung bạo.

Nguyễn Tuân đã dành nữa cuộc đời mình cống hiến cho nền văn chương nước nhà với hai giai đoạn sáng
tác nổi bật, từ một nhà văn lãng mạn, Nguyễn Tuân chân thành đem ngòi bút của mình phục vụ cuộc
chiến đấu của dân tộc, theo sát từng nhiệm vụ. Văn ông in đậm bản ngã cá nhân, đó là văn phong có thể
thâu tó trong một chữ “ngông”, thể hiện sự tài hoa, uyên bác cùng những cảm giác mãnh liệt qua từng câu
chữ. “Người lái đò sông Đà”, một trong những tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn, là
thành quả của một chuyến đi thực tế gian khổ mà hào hùng đến miền Tây Bắc rộng lớn. Sông Đà dưới
ngòi bút tài tình của Nguyễn Tuân hiện lên như một sinh thể sống động, một nhân vật rất có cá tính. Đoạn
trích đề bài đã đi sâu khắc họa hình ảnh con sông Đà trữ tình trên nhiều góc độ, từ trên cao cho đến màu
nước, cảnh ven sông/con sông đà hung bạo qua miêu tả đá sông đà, nước sông đà và sự phối hợp giữa
sóng-gió-đá-nước.

Như vậy, qua ngòi bút mềm mại tài hoa của Nguyễn Tuân, độc giả đã được chiêm ngưỡng một vẻ đẹp
khác của Đà giang, biểu tượng cho thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng trữ tình. Hình ảnh con sông Đà cũng in
đậm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân song có những sự chuyển biến lớn. Bên cạnh sự am hiểu
sâu sắc về địa lí sông ngòi, nhất là sông Đà cùng vốn kiến thức sâu rộng về văn chương nghệ thuật, ông
đã hướng tầm mắt của mình đến với cái đẹp ở thời khắc hiện tại, ở phong cảnh quê hương đất nước, con
người. Có một dòng sông thực của miền quê Tổ quốc và một dòng sông trong tác phẩm văn chương còn
chảy mãi. Tài quan sát của Nguyễn Tuân nhạy bén, tinh tế, sắc sảo song song cùng với trí tưởng tượng
giàu có phong phú độc đáo vô cùng, ngòi bút tả cảnh, dựng cảnh và dựng hình bậc thầy. “Người lái đò
sông Đà” là một áng văn đẹp, được viết lên từ tình yêu đất nước say đắm thiết tha của một con người
muốn dùng văn chương để ngợi ca vẻ đẹp, vừa kì vĩ hào hùng, vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên,
nhất là con người bình dị miền Tây Bắc.

SÔNG HƯƠNG
Đã có một dòng thi ca viết về sông Hương mà lạ thay, dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong
cảm hứng của các nghệ sĩ, mỗi người lại có một khám phá riêng về nó. Viết “Ai đã đặt tên cho dòng
sông”, Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã không để cho dòng sông ấy tự lặp lại mình. Với vốn hiểu biết sâu
rộng về Huế, từ lịch sử, địa lí cho đến văn học, nhà văn đã thành công khắc họa một sông Hương khác
biệt, mới mẻ, mang trong mình dáng hình duyên dáng tài hoa của một người thiếu nữ xuân sắc xuân tình.
Ông đã mang cả tâm tình và tài năng để vẽ nên một dòng sông như nó vốn có, là một thứ tài sản ông
muốn gửi lại cho thế hệ sau này với nhiều lời nhắn gửi tâm tình. Đoạn trích từ “…” đến “…” đã vẽ lên
bức tranh sông Hương khi chảy vào thành phố Huế, làm nổi bật lên nét mềm mại, nhẹ nhàng, tình tứ của
dòng sông trọn đời trọn kiếp điểm tô cho xứ Huế mộng mơ. Từ đó, …
Hoàng Phủ Ngọc Tường gắn bó máu thịt suốt cả cuộc đời và luôn dành cho xứ Huế những tình cảm đặc
biệt. Gần như đụng đến vấn đề gì liên quan đến Huế, ở thời điểm nào và ở ddau, ông cũng có thể tung
hoành thoải mái ngòi bút được. Ông là một trong số ít những nhà văn Việt dành trọn sự nghiệp văn
chương của mình cho thể kí, vẫn luôn được đánh giá là viết hay nhất. Bên cạnh lối hành văn hướng nội,
súc tích, đắm say, kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường còn là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và trí
tuệ, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều. “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, một trong những bài kí dài
nhất và tâm huyết nhất của ông về Huế, đã trải qua một lần thay đổi nhan đề, từ “Hương ơi, e phải mày
chăng”, đem đến cho độc giả cái nhìn trọn vẹn hơn về đối tượng cảm xúc của bài kì – dòng sông Hương.
Sông Hương đẹp từ cái tên và bước vào trang văn Hoàng Phủ Ngọc Tường càng đẹp hơn nữa. Nó mang
vẻ đẹp riêng so với những dòng sông đẹp khác, được phát hiện từ góc độ cảnh sắc thiên nhiên cho đến
lịch sử văn hóa. Đoạn trích đề bài đã (đi sâu khắc họa hình ảnh sông Hương khi chảy vào thành phố Huế
mộng mơ, mang theo vẻ nhẹ nhàng, êm đềm, sâu lắng)
Dù so sánh, ẩn dụ hay nhân hóa, sông Hưỡng đều được nhìn như một người con gái đẹp, rất thơ mộng trữ
tình. Nàng duyên dáng tài hoa, có nhan sắc, có cá tính, tâm hồn dịu dàng mà sâu sắc, đa tình lẳng lơ kín
đáo mà rất chung tình. Khác với dòng sông Đà của Nguyễn Tuân, gây ấn tượng hơn cả lại là vẻ hung bạo,
dữ dằn, sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường lại thơ, lại đẹp như một bức tranh, nhất là khi quấn quýt
bên thành phố Huế mộng mơ. Từ đó, ta thấy được sự tài hoa, uyên bác, cùng trí tưởng tượng phong phú
giàu có, lãng mạn độc đáo của nhà văn. Ông mang một tình cảm yêu mến gắn bó thiết tha với dòng sông
quê hương, với mảnh đất cố đó, niềm tự hào trân trọng những vẻ đẹp tự nhiên, đậm màu sắc văn hóa.
Có thể nói “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã mang đến cho độc giả những phát hiện mới lạ và độc đáo của
sông Hương. Nó là một dòng sông man dại, hoang tàn ở khúc thượng nguồn rồi lại trở nên mê đắm, thủy
chung khi gặp được người tình trong mộng của mình là xứ Huế. Sông Hương đi vào trong trang viết của
Hoàng Phủ Ngọc Tường không vô tri vô giác mà nó còn có cảm xúc, có tình yêu. Tác phẩm đã thể hiện
được tình yêu quê hương, xứ sở nồng nàn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một kí giả nặng lòng với Huế:
“Dòng sông ai đã đặt tên
Để người đi nhớ Huế mãi không quên
Xa con sông mang bao nhiêu nỗi nhớ
Người ở lại tháng năm đợi chờ”.

ĐẤT NƯỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỀM


Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp đất nước chìm trong
đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp cảnh đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ
Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ Nguyễn Khoa Điềm với trường ca “Mặt đường khát vọng” lại là
người mang đến cho ta đầy đủ, trọn vẹn những khía cạnh của Tổ quốc, quê hương hơn cả. Hình
hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến bao năm tháng sóng gió chiến tranh được tái diễn sinh
động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn trích “Đất Nước” đã
thành công thể hiện những cảm nhân sâu sắc, tình cảm tha thiết của tác giả về đất nước trên
nhiều bình diện, từ địa lí đến văn hóa, lịch sử với tư tưởng bao trùm: Đất Nước của nhân dân
(đặc biệt qua đoạn thơ …)

(Văn học Việt Nam thời kì chống Mỹ cứu nước đã phát triển mạnh mẽ trên nhiều thể loại để
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Trong sự phát triển đó, thơ chống Mỹ đặc biệt là thơ của
những nhà thơ trẻ đã nổi lên nhanh chóng và đạt được nhiều thành tựu to lớn.) Chỉ trong vòng
mười năm, nền thơ ca Việt Nam liên tiếp xuất hiện những gương mặt thơ trẻ như Lê Anh Xuân,
Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Nguyễn Hữu Thỉnh, Hoàng Nhuận Cầm và cả
Nguyễn Khoa Điềm. Đây là những tác giả tiêu biểu, đem lại vinh quang cho cả một thể hệ thơ
ca. Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ triết luận trữ tình. Thơ ông giàu vốn tri thức, trí tuệ, hấp dẫn
người đọc bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người tri thức, về non
sông đất nước con người Việt Nam. Trường ca “Mặt đường khát vọng”, ra đời trong thời gian
cuộc kháng chiến chống Mỹ đang ở giai đoạn ác liệt gay go, đã đánh dấu bước trưởng thành vượt
bậc của Nguyễn Khoa Điềm trên con đường sáng tác. Chính ông đã từng bộc bạch: “”Mặt đường
khát vọng” được viết nhằm mục đích thức tỉnh tuổi trẻ ở những đô thị bị tạm chiếm ở miền Nam,
về ý thức của họ đối với đất nước, nhân dân.” Đoạn trích “Đất Nước” thuộc phần đầu chương
năm của bản trường ca. Đây là chương hay nhất, đoạn trích hay nhất, thể hiện sâu sắc tập trung
vấn đề cốt lõi nhất của nội dung tư tưởng tác phẩm cũng là của thời đại kháng chiến chống Mỹ:
Đất Nước của Nhân dân, một đoạn trích trọn vẹn về nội dung, đặc sắc về nghệ thuật và đậm chất
trữ tình – chính luận. Đoạn trích, được viết dưới hình thức trò chuyện tâm tình của một đôi trai
gái, đi sâu vào giải đáp những câu hỏi lớn: “Đất Nước có từ bao giờ?”, “Đất Nước là gì?”,
“Trách nhiệm của mọi người đối với Đất Nước như thế nào?”, “Ai đã làm ra Đất Nước?”, trong
đó câu hỏi quan trọng bao trùm nhất là “Đất Nước của ai?”. Tất cả đều quy tụ về tư tưởng: Đất
Nước của nhân dân.

Ở phần thơ đầu tiên (Từ “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi” đến “Đất Nước có từ ngày đó…”)
đã tập trung trả lời một trong những câu hỏi lớn của đoạn trích: “Đất Nước có từ bao giờ?”, hay
chính là cách tác giả lí giải nguồn gốc, sự ra đời, hình thành của Đất Nước. Mở đầu đoạn thơ, tác
giả không trả lời bằng mốc thời gian cụ thể xác định, không đưa ra những sự kiện lịch sử mà nói
về mỗi chúng ra và gợi nhớ tới những câu chuyện cổ, những bài ca dao, những truyền thống
ngàn đời của dân tộc:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
“Ta” là anh và em hay còn chỉ chung thế hệ bao đời, bất cứ ai từ thời ông cha ta hàng ngàn năm
trước đến chúng ra rồi con cháu chúng ta sau này. Một chữ “ta” rộng lớn, bao trùm, trải dài. Cụm
từ “đã có rồi” khẳng định sự ra đời, hình thành, tồn tại từ rất lâu, rất xa xưa của Đất Nước. Khi ta
sinh ra, Đất Nước đã bao bọc, nuôi dưỡng tâm hồn ta. Thật không nói quá khi ví Đất Nước như
một chiếc nôi lớn lao mà gần gũi với mỗi con người. Đặc biệt hơn cả, tác giả viết hoa hai chữ
“Đất Nước” cho thấy trong tâm tưởng của nhà thơ, Đất Nước không phải cái gì chung chung,
trừu tượng mà rất cụ thể, thân thuộc. Cách viết đã bộc lộ lòng thành kính của nhà thơ đối với Đất
Nước, trước hình ảnh thiên nhiên lớn lao mà quen thuộc. Mỗi lần hai tiếng “Đất Nước” vang lên
lại chứa đựng biết bao tình cảm, cảm xúc của nhà thơ. Bên cạnh đó, xuyên suốt đoạn thơ này, từ
“Đất Nước” được lặp đi lặp lại liên tiếp năm lần, từ đó đã nhấn mạnh làm nổi bật đối tượng được
cảm nhận suy ngẫm trong bài.

Bảy câu thơ kế tiếp mang đậm đặc chất văn hóa, văn học dân gian, có những câu được nhào lặn,
tái tạo từ nhiều nguồn. Chất liệu dân gian phong phú đa dạng với những phong tục tập quán quen
thuộc, những câu chuyện cổ tích cho đến những câu thành ngữ ca dao. Với ngòi bút tinh tế,
Nguyễn Khoa Điềm đã gợi lên trong tâm trí người đọc cả bề dày chiều sâu văn hóa nghìn đời của
dân tộc, tạo nên cảm giác quen thuộc, gần gũi ngày từ những câu thơ đầu tiên. Trong một lần trả
lời phỏng vấn, nhà thơ có chia sẻ: “Tôi cố gắng thể hiện hình ảnh Đất Nước giản dị, gần gũi
nhất. Đó là cách để đi vào lòng người đồng thời là cách để tôi đi con đường riêng tôi, không lặp
lại người khác.” Trước hết, tác giả nhắc đến cội nguồn Đất Nước từ những câu chuyện cổ, phong
tục tốt đẹp của người Việt:
“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.”
Đất Nước đã có từ thuở rất xa xưa, trong những câu chuyện cổ tích mà mẹ hay kể cho con nghe ở
những năm tháng tuổi thơ. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” mở đầu mỗi câu chuyện đưa ta trở về
với thế giới của những cô Tấm, chàng Thạch Sanh, vừa gợi khoảng thời gian dài thăm thẳm, vừa
thể hiện được chiều sâu văn hóa, truyền thống, tư tưởng tình cảm của người Việt. Khi nói về sự
hình thành, định hình của Đất Nước, tác giả nhắc đến hình ảnh đã quá đỗi quen thuộc đối với
mỗi con người Việt Nam, những miếng trầu của bà. “Miếng trầu bây giờ bà ăn” đồng thời cũng
gợi người đọc nhớ đến những câu thành ngữ quen thuộc như “Miếng trầu là đầu câu chuyện” hay
“Miếng trầu nên dâu nhà người”. Nhà thơ từ đó nhìn Đất Nước trong mối quan hệ ruột thịt hay
phải chăng khi nhắc đến Đất Nước là phải nhắc đến những người bà, người mẹ. Đất Nước khởi
nguồn, hình thành cùng những phong tục tập quán của ta suốt mấy nghìn năm qua. Có những
phong tục đã bị mai một song cũng có những phong tục vẫn tiếp tục được lưu truyền cho đến
ngày nay. Nhà thơ đề cập đến một tiêu chí vĩnh hằng, điều hình thành, định hình đất nước. Đó
chính là truyền thống văn hóa, phong tục tập quán. Ở câu thơ thứ ba, tác giả nói đến đất nước
trong quá trình “lớn lên” hay chính là đất nước trong giai đoạn phát triển, trưởng thành. Hình ảnh
dân mình trồng tre mà đánh giặc thành công diễn tả tình thần bất khuất chống giặc ngoại xâm,
tình yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Hai chữ “dân mình” nghe thật thân thương và gần gũi. Ta
bỗng nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng chống giặc ngoại xâm cùng bài ca giữ nước hào hùng:
“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khỏe như ngựa sắt
Chí căm thì rèn thép làm roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi”
Đất Nước dưới ngòi bút thần kì của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên như một sinh thể hữu hình, có
quá trình sinh ra và lớn lên giống như con người, phải trải qua gian nan bão tố thì mới có thể
trưởng thành. Hệ thống những từ ngữ “đã có”, “có trong”, “bắt đầu”, “lớn lên” nói nên được sự
vững bền của Đất Nước trên cả một chặng đường dài.

Khời nguồn của Đất Nước chưa phải là những trang sử hào hung với các chiến tích huy hoàng
mà là những huyền thoại, những truyền thuyết, những phong tục tập quán riêng. Lịch sử lâu dài
của Đất Nứi không được cắt nghĩa bằng sự nối tiếp của các triều đại hay những mốc son lịch sử
chói lọi mà được nhìn trong chiều sâu văn hóa văn học dân gian:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”.
Đất Nước hiện lên ngay trong những thói quen, tập tục bình thường giản dị cúa những người phụ
nữ Việt, khi lao động thường quấn tóc thành búi rồi kẹp ở sau gáy. Từ đó, nhà thơ thể hiện được
hình ảnh những người bà, người mẹ, người chị khỏe khoắn trong lao động. Đất Nước còn lớn lên
trong tình thủy chung, mặn mà của mẹ cha, Đất Nước của những con người sống nghĩa tình, son
sắt. Thành ngữ “gừng cay muối mặn” đã sâu sắc diễn tả được những đắng cay gian nan trong
tình cảm vợ chồng song cũng là chất kết dính cần thiết cho tình thêm đậm thêm sâu. Bao câu ca
dao được đánh thức, ta trân trọng tình nghĩa vợ chồng trọn vẹn trong câu:
“Muối ba năm muối ăn còn mặn
Gừng chin tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình đầy
Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa.”
Tiếp đến, tác giả nhắc đến “cái kèo”, “cái cột”, những bộ phận vô cùng quen thuộc trong những
ngôi nhà xưa. Đất Nước hiện hình gần gũi chứ không xa lạ, cụ thể chứ không siêu hình trong mỗi
tổ ấm gia đình. Tác giả từ đó muốn nói đén thói quen đặt tên cho con cháu của ông cha ta thời xa
xưa. Cha ông ta xưa gắn liền với những miền quê thuần phác của nền nồng nghiệp với thóc, với
gạo, với mái nhà tranh nên thường đặt tên cho con cháu bằng chính những cái tên nôm na dân dã
đó, có khi dung chính những vật dụng, bộ phận ngôi nhà tre gỗ để đặt tên. Thói quen đặt tên này
thể hiện sự gắn bó, gần gũi với thế giới xung quanh. Trong lời tâm tình của mình, tác giả nhắc
đến những hạt gạo, thứ lương thực gắn liền với con người Việt Nam. Chữ “phải” tạo cho câu thơ
giọng điệu khẳng định, nói đến một điều hiển nhiên gần như chân lí. Để có được hạt gạo trắng
ngần, dẻo thơm, người lao động phải một nắng hai sương lam lũ vất vả. Bốn động từ liên tiếp
“xay”, “giã”, “giần”, “sàng” cùng thành ngữ quen thuộc “một nắng hai sương” cho thấy để “dẻo
thơm một hạt” thì “đắng cay muôn phần”. Câu thơ gợi đến nền văn minh lúa nước sông Hồng.
Đất Nước có trong tất cả những gì thân quen gần gùi nhất, trong hạt gạo ta ăn hàng ngày. Đất
Nước trưởng thành trong gian lao vất vả, trong mồ hôi và nước mắt, trong sự tảo tần chịu thương
chịu khó của người lao động hàng nghìn năm nay. Sang dòng thơ kế tiếp, nhà thơ nhắc đến
“ngày đó” hay chính là những ngày tháng rất xa xưa. “Đó” có thể thay thể cho toàn bộ những câu
thơ trên. Dấu “…” cuối câu là cách tác giả đưa người đọc vào chiều sâu thăm thẳm, lịch sử hình
thành và phát triển ngàn đời của Đất Nước với những phong tục tập quán, những hình ảnh con
người vô cùng thân thiết gần gũi.

Sau chín câu thơ giải đáp câu hỏi “Đất Nước có từ bao giờ?”, đoạn thơ tiếp theo xoay quanh câu
hỏi lớn “Đất Nước là gì?”:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Trong từ vựng của Tiếng Việt, ta có hai từ “đất”, “nước”. Khi ghép hai từ này lại, ta được “đất
nước” chỉ quốc gia, Tổ quốc. Nhà thơ đã dung lối chiết tự nhưng không sa vào hiểu sai, vụn vặt
mà giúp độc giả có cái nhìn mới mẻ, trọn vẹn về Đất Nước. Nguyễn Khoa Điềm đã từng nói:
“Thực ra Đất Nước là một từ ghép hai yếu tố chỉ vật chất “Đất” và “Nước”. Đất và nước là hai
khởi nguyên của thế giới để tạo thành một khái niệm giang sơn, Tổ quốc”. Trước hết, đối với tác
giả, Đất Nước là không gian học tập, sinh hoạt quen thuộc thường ngày, rất gân gũi với mỗi
người “Đất là nơi anh đến trường”, “Nước là nơi em tắm”. Đất Nước gắn bó với cuộc sống hàng
ngày của anh và em. Đất nâng bước chân dẫn dắt anh đến chân trời tri thức còn Nước làm dịu
mát trong sáng tâm hồn em. Mỗi câu là một hình ảnh cho thấy Đất Nước không phải là cái gì xa
xôi, trừu tượng. Hai câu thơ được viết theo lối song hành, đối ứng nhau, một câu viết về em, một
câu viết về anh, thực chất là muốn nói đến mọi người. Đặc biệt, Đất Nước còn tồn tại ngay cả
trong không gian hò hẹn của tình yêu đôi lứa, trong khoảng thời gian riêng tư thầm kìn. Hai câu
thơ sau được lấy ý từ bài ca dao vẫn luôn được xem là viên ngọc sáng long lanh của người bình
dân “Khăn thương nhớ ai”:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thường nhớ ai
Khăn chùi nước mắt.”
Nói như Nguyễn Khoa Điềm: “Khi ta yêu nhau, Đất Nước là nơi ta hò hẹn, Đất Nước là không
gian hò hẹn của tình yêu đôi lứa. Trong mắt của người trẻ tuổi, Đất Nước là cõi đầy thơ mộng
với biết bao những kỉ niệm ngọt ngào của tình yêu. Không gian của tình yêu đôi lứa không phải
chỉ là của thế hệ anh và em mà còn là của bao thế hệ đã qua và các thế hệ kế tiếp. Những từ ngữ
hình ảnh “hò hẹn”, “chiếc khăn”, “nỗi nhớ thầm” đã đậm sâu thêm màu sắc của ái tình.

Ở những dòng thơ kế tiếp, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục định nghĩa Đất Nước, nhưng ở đây là
theo không gian Tổ quốc rộng lớn:
“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
“Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ.”
Đất Nước bình dị quen thuộc nhưng cũng rộng lớn, tráng lệ, kì vĩ vô cùng. Đó là không gian núi
rừng, sông bể mênh mông rộng lớn, là Bắc Trung Nam nối liền một dải. Không gian Đất Nước
mở ra bát ngát bao la với những ngọn núi, biển khơi. Nhà thơ lấy cảm hứng trọn vẹn từ câu hò
bình dân Bình Trị Thiên của quê hương mình:
“Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc
Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi
Gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời
Kẻo mai kia con cá về sông vịnh, con chim nọ đổi dời về non xanh.”
Ngoài ra, Đất Nước còn là không gian sinh tồn, đoàn tụ hết sức đời thương của người dân bao
thế hệ. Khi nói riêng về từng người, Đất Nước đứng tách làm hai. Khi anh và em kết thành đôi,
khi dân mình đoàn tụ thì nhà thơ lại rất tinh tế đặt hai chữ “Đất” và “Nước” cạnh nhau. Nếu cụm
từ “dân mình” gợi nên giọng điệu thân thương, trìu mến thì từ “đoàn tụ” lại nói về sự xum vầy,
quần tụ bên nhau hay còn là khát vọng, là lí tưởng tranh đấu. Trong cách nhìn về không gian Đất
Nước, Nguyễn Khoa Điềm nghiêng nhiều hơn về các không gian riêng tư đời thường. Lâu nay
chúng ta vẫn thường quen nhìn Đất Nước ở tầm vóc lớn lao kì vĩ mà chưa chú ý đến những
không gian rất mực bình dị xung quanh mình. Cách nhìn ấy dễ tạo ra khoảng cách. Ngược lại,
Nguyễn Khoa Điềm nhìn Đất Nước ở một cự li gần, từ đó phát hiện ra một Đất Nước rất thân
quen, gần gữi với cá nhân mỗi người.

Sau khi nói lên những nhận thức về Đất Nước trên bình diện không gian địa lí, tác giả hướng
ngòi bút tới bình diện thời gian lịch sử của dân tộc:
“Thời gian đằng đẵng”
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Đất Nước được cảm nhận suốt chiều dài thời gian từ quá khứ. Từ láy “đằng đẵng” đưa người đọc
đến với chiều dài, chiều sâu của lịch sử Đất Nước, gợi nói được cả quá trình hình thành từ nguồn
cội. Tác giả nhắc đến truyền thuyết “Tiên Rồng”, Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết về cội
nguồn người Việt. Đất gắn với mẹ Âu Cơ, Nước gắn với cha Lạc Long Quân vốn là thần rồng
biển cả. Năm mươi con theo ca xuống biển, năm mươi con theo mẹ lên núi, từ đó tạo nên Tổ
quốc con người Việt Nam. Cha rồng mẹ tiên gợi niềm tự hào sâu sắc về nòi giống Việt. Những
câu thơ nói về nguồn gốc tổ tiên và nhắc nhở chân tình mỗi người dân về ý nghĩa thiêng liêng
của hai tiếng “đồng bào”, về cội nguồn chung của mỗi con người đất Việt. “Đồng” là cùng,
“đồng bào” là cùng một bọc, cùng tổ tiên gắn bó đoàn kết.

Trách nhiệm của mỗi con cháu đất Việt cũng được tác giả nhắc đến ở những câu thơ tiếp theo:
“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.”
“Những ai đã khuất” là những người trong quá khứ, “những ai bây giờ” lại là những con người
trong hiện tại. Bao người đã sinh con và đẻ cái để duy dưỡng giống nòi, tạo nên sự nối tiếp của
các thế hế tương lai. Người đi sau sẽ gánh vác phần người đi trước để lại. Mỗi người dân Việt
Nam sẽ bằng chính máu xương, mồ hôi công sức của mình lao đầu chiến đấu để mở mang hoàn
thiện Đất Nước. Trên bình diện thời gian, Đất Nước là sự nối tiếp của các thế hệ theo một dòng
chảy liên tục. Đó không phải chỉ là sự tiếp nối đơn thuần mà còn là sự đồng lòng chung sức để
làm nên Tổ quốc muôn đời. Chiều sâu của lịch sử, truyền thống, phong tục tập quán của Đất
Nước một lần nữa được gợi lên từ truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng 8
hàng năm. Con cháu mai sau tất cả cần có ý thức sâu sắc về cội nguồn, không bao giờ được phép
quên đi gốc gác của mình, đoàn kết thành một khối với bao con người khác để vun đắp và phát
triển Đất Nước vẹn tròn, to lớn. Cụm từ “cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ” thể hiện lòng thành kính
hướng về tổ tiên và nhu cầu đoàn tụ trong một đại gia đình của cộng đồng người Việt. Bái vọng
tiên tổ đã là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc của ta từ ngàn đời. Như chính ông bà ta luôn
nhắc nhở:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”
Trên bình diện lịch sử, Đất Nước có chiều dài đằng đẵng, có nguồn cội lâu đời, vẻ vang, tự hào.
Đất Nước là sự kế tiếp dòng chảy liên tục của các thế hệ với những truyền thống, tư tưởng, văn
hóa tinh thần tốt đẹp của người Việt.

Đoạn thơ từ câu “Trong anh là em hôm nay” đến câu “Làm nên Đất Nước muôn đời” xoay
quanh câu hỏi về mối quan hệ giữa con người với Đất Nước và thái độ trách nhiệm của mỗi
người đối với Đất Nước như thế nào. Những câu thơ đầu là cuộc trò chuyện giữa “anh” và “em”
về ý nghĩa của non sông Tổ quốc, của tinh thần đoàn kết:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước của chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến với những tháng ngày thơ mộng.”
“Anh” là nhân vật trữ tình, là cái tôi tác giả hay chỉ chung nhiều người còn “em” là người con
gái, cũng hiểu rộng hơn là bao người khác, là thế hệ trẻ. “Anh” và “em” vì thế không phải chỉ
riêng hai cá nhân trong quan hệ tình yêu đôi lứa mà con mang ý nghĩa khái quát. Sự xuất hiện
của anh và em cùng cách xưng hô, cách viết dịu dàng nồng thắm đã tạo giọng điệu tâm tình, tha
thiết, dễ đi vào lòng người. Nói đến “hôm nay” hay chính là thời gian hiện tại, tác giả muốn nhấn
mạnh tới anh và em của thời đại cuộc kháng chiến chống Mỹ đang lúc ác liệt. Đất Nước không ở
đâu xa mà rất gần gũi, gắn bó với mỗi người, mõi người “đều có một phần Đất Nước”. Đó là bới
mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hóa vật chất tinh thần của cha ông hàng
nghìn năm, kế thừa từ cha ông một cuộc sống tươi đẹp, yên bình, rộng lớn với bề dày truyền
thống. Phải chăng sự sống của mỗi cá nhân không phải chỉ riêng cá nhân đó mà còn lả của Đất
Nước? Hình ảnh thơ, ý thơ được triển khai theo hình thức mở rộng dần, từ “anh”, “em”, “chúng
ta” tới “mọi người”, từ “Đất Nước hài hóa nồng thắm” đến “Đất Nước vẹn tròn to lớn”. Theo tác
giả, tình yêu thương đoàn kết gắn bó giữa anh và em, giữa chúng ta với mọi người sẽ làm nên
Đất Nước hài hòa nồng thắm, vẹn tròn to lớn. Cầm tay là yêu thương gắn bó, là tinh thần đoàn
kết rộng lớn, là tình cảm đồng bào. Hình ảnh trong bốn câu thớ rất đẹp, đẹp bởi tình anh em, tình
anh em với mọi người, đẹp ở mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, nhờ đó đã có một hình
ảnh đẹp về Đất Nước. Phải chăng từ đây tác giả còn muốn nói: hạnh phúc riêng tư chỉ vẹn tròn
trong hạnh phúc chung?
Ba câu sau của đoạn nói đến tương lai mai này với thế hệ sau “con ta”. Thế hệ sau lớn lên sẽ
mang Đất Nước đi xa, đến với những tháng ngày thơ mộng, tươi đẹp. Những câu thơ phơi phới
niềm tin, niềm hi vọng vào tương lai Đất Nước. Nhà thơ từng tâm sự: ““Những ngày tháng thơ
mộng” là tương lai tươi sáng mà thế hệ chúng tôi mang trong tim. Trong mơ ước của chúng tôi
hồi đó, cuộc sống và Đất Nước sau này sẽ tươi sáng, rực rỡ, tràn trề hạnh phúc. Chúng tôi đã
tranh đấu để giành lấy hòa bình cho Đất Nước. Con cái chúng tôi sẽ nối tiếp, làm cho Đất Nước
giàu đẹp hơn. Thế hệ sau sẽ biến khát vọng của thế hệ trước thành hiện thực và cứ như thế, Đất
Nước ngày càng vươn tới tầm cao mới.”

Sang bốn câu thơ cuối chúng của Đoạn, Nguyễn Khoa Điềm bày tỏ những suy nghĩa sâu sắc về
trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với cái nôi đầu đời của mình “Đất Nước”:
“Em ơi em Đất Nước là màu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời.”
Tiếng gọi “em ơi em” tha thiết, yêu thương, ngọt ngào, trìu mến tạo giọng điệu thơ đầy chất trữ
tình, thiết tha, sâu lắng, lời thơ vì thế không giáo huấn khô khan. Đất Nước, trong tâm tưởng tác
giả, là “máu xương của mình”, là thân thể ruột thịt của mình, là một phần sự sống, là một yếu tố
không thể thiếu được ở mỗi con người. Như vậy, với giọng điệu trìu mến, tâm tình, anh muốn em
phải nhớ, phải khắc ghi trong lòng mình hình ảnh Đất Nước. Lời thơ là lời nhắn nhủ, nhắc nhở
và khẳng định sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận mệnh chung của cộng đồng, Đất
Nước. Điệp ngữ “phải biết” đứng ở đầu hai câu sau nghe mạnh mẽ, khẳng định để nói về bổn
phận, trách nhiệm của mỗi người đối với Đất Nước. Nói như tác giả, phải biết gắn bó và san sẻ,
phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở. Đó không phải sự lên ngôn mà là sự chân thành và hoàn
toàn tự nguyện. Mệnh lệnh ở đây là mệnh bặng của cả lí trí và trái tim. “Gắn bó và san sẻ” là gắn
bó với Đất Nước, với người dân mình, với đồng bào ta trong bọc trứng, đoàn kết san sẻ nhiệm vụ
khó khăn “gánh vác phần người đi trước để lại”. Phải biết cống hiến bằng mồ hôi công sức, thậm
chí bằng xương máu của mình để làm nên dáng hình xứ sở, làm nên Đất Nước muôn đời trường
tồn vĩnh hẳng với tiền đề tươi sáng. Dấu “…” ở cuối câu ngân vang, hướng tới cái muôn đời. Đất
Nước có trường tồn hay không là do sự san sẻ, hóa thân của mỗi người. Các động từ xuất hiện
dồn dập tăng tiến “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” chỉ những hành động thiết thực của mỗi người
cần làm cho Đất Nước. Đất Nước là máu xương của mình nên trách nhiệm bổn phận đối với Đất
Nước cũng chính là đối với bản thân. Những câu thơ vừa tha thiết tâm tình, nhắn nhủ, vừa mạnh
mẽ khẳng định khơi dậy tinh thân trách nhiệm ở mỗi người. Trên thực tế, thơ của Nguyễn Khoa
Điềm đã có tác động không nhỏ đến thanh niên lúc bấy giờ. Đoạn thơ nói về một vấn đề lớn lao,
về nghĩa vũ, về bổn phận, trách nhiệm nghĩa là có tính chính luận nhưng không phải giáo huấn
khô khan mà rất dễ đi vào lòng người. Đó là vẻ đẹp riêng của đoạn trích mang phong cách
Nguyễn Khoa Điềm.

Nếu những đoạn thơ trên đi sâu trả lời ba câu hỏi “Đất Nước có từ bao giờ”, ‘Đất Nước là gì” và
“Trách nhiệm của mỗi người đối với Đất Nước như thế nào” thì đến đoạn thơ này, câu hỏi “Ai đã
làm ra Đất Nước” lại được giải đáp trên phương diện không gian địa lí:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chin con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Những người học trò nghèo đã góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc con gà quê hương góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điềm”
Đoạn thơ nhắc đến nhiều truyện cổ dân gian, sự tích hòn vọng phu, sự tích hòn trống mái, truyền
thuyết Thánh Gióng, truyền thuyết về các vua Hùng vừa đưa người đọc trở về với không gian
quen thuộc của truyện cổ Việt Nam, vừa gợi truyền thống tư tưởng tình cảm tốt đẹp của dân tộc.
Nhà thơ sử dụng chất liệu dân gian để nói về Việt Nam. Đây chính là biểu hiện của chiều sâu tư
tưởng tình cảm Đất Nước của Nhân Dân. Trước hết, nhà thơ gọi tên hàng loạt các địa danh, danh
lam thắng cảnh ở trên khắp mọi miền Tổ quốc, từ Bắc, Trung, đến Nam bộ: Núi Vọng Phu ở
Lạng Sơn, hòn Trống Mái ở Thanh Hóa, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm ở Nam bộ…
Thêm mỗi câu thơ là thêm mỗi hình ảnh, đoạn thơ dần mở ra không gian địa lí Việt Nam rộng và
đẹp. Cảm xúc của nhà thơ như một dòng chảy liên tục, ngọt ngào trước non nước Việt Nam.
Những cảnh quan thiên nhiên kì thú không chỉ được nhìn một cách đơn thuần là tạo vật của tạo
hóa mà còn gắn với những câu chuyện về cuộc đời, số phân của người dân, với đời sống tinh
thần tâm hồn người Việt. Những tạo vật của tạo hóa chỉ trở thành danh lam thắng cảnh khi được
tiếp nhận, cảm thụ qua tâm hồn nhân dân và qua lịch sử dân tộc. Nếu không có những người vợ
mòn mỏi chờ chồng thì sẽ không có sự cảm nhận về núi Vọng Phu. Nếu không có câu chuyện về
tình yêu lưu truyền trong dân gian thì sẽ không có cảm nhận về Hòn Trống Mái. Nếu không có
truyện Hùng Vương dựng nước và giữ nước thì sẽ không có cảm nhận về núi đồi xung quanh đền
vua Hùng. Mỗi danh lam thắng cảnh không chỉ điểm tô cho non sông đất nước mà còn ẩn chứa
những vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân trong mấy nghìn năm lịch sử: sự thủy chung, tình nghĩa vợ
chồng, tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm, ý thức hướng tới tổ tiên nguồn cội, tinh thần
hiếu học, ý chí vượt khó vươn lên. Nguyễn Khoa Điềm đã nói: “Những yếu tố vật chất địa lí
thấm đẫm một cái nhìn huyền thoại, đầy màu sắc lãng mạn. Thực ra phủ cho các danh lam thắng
cảnh sự vật một đời sống tinh thần, nói một cách khác là khoác cho nó một lớp huyền tích là điều
thường gặp trong đời sống văn hóa dân gian. Chính điều này làm cho giá trị vật chất trở nên đẹp
đẽ, sống động, hấp dẫn và quyến rũ đặc biệt. Đi vào ca dao dân ca hay những câu chuyện kể, các
huyền thoại đã góp phần nuôi dưỡng tình yêu Đất Nước của các thế hệ người Việt.” Đoạn thơ
cũng là một phát hiện lí thú về cách đặt tên của người Việt cho những danh lam thắng cảnh,
những cái tên đều có ý nghĩa gần gũi với đời sống tinh thần của nhân dân. Mỗi chủ thể, từ
“những người vợ nhớ chồng” cho đến “những người dân nào” đều gắn với mỗi danh lam thắng
cảnh, với truyện cổ dân gian với ý nghĩa tên gọi danh lam. Tất cả đều là những danh từ chung.
Đây chính là chủ ý của tác giả, như ông đã nói: “Làm nên sự trường cửu, làm nên vẻ đẹp đất
nước không phải chỉ có các bậc anh hùng cái thế. Đó còn là những con người vô danh bình dị
trong nhiều thời đại như những người vợ nhớ chồng, những người học trò nghèo cho đến gót
ngựa Thánh Gióng, chin mươi chin voi chầu đất tổ Hùng Vương. Mỗi người mỗi vật đi qua trong
lịch sử, không gian và thời gian đều để lại một chút gì đó cho Đất Nước. Cái bình thường đã hóa
thân, làm nên sự bất tử của giang sơn Tổ quốc như thế”. Đặc biệt, gần như câu nào cũng có từ
“góp”, khẳng định nhấn mạnh vai trò của nhân dân và nói lên được sự chung tay góp sức của
nhiều người trong việc làm nên vẻ đẹp cho quê hương, Tổ quốc.
Ý thơ được triển khai từ cụ thể đến khái quát, từ một loạt những câu thơ trên, nhà thơ đã đi đến
khẳng định:
“Dù ở đâu trên khắp ruộng đồng gõ bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...”
Ruộng đồng gò bãi là những hình ảnh đã rất đỗi quen thuộc gần gũi với người dân lao động.
Khắp ruộng đồng gò bãi, ở khắp mọi nơi túc là khắp mọi không gian ba miền, nơi nào cũng in
dáng hình, ao ước, lối sống ông cha ta. Không gian địa lí đã trở thành không gian văn hóa khi
chứa đựng đời sống tinh thần, tâm hồn của nhân dân. Đất Nước là dáng hình, là lối sông của ông
cha mình. Nhân dân đã hóa thân vào dáng hình xứ sở, là người đã tạo dựng đặt tên, đã ghi lại dấu
ấn cuộc đời mình làm nên mỗi ngọn núi, dòng sông. Thán từ “Ôi” đem đến chất trữ tình, cảm
xúc đậm nét. Thơ Nguyễn Khoa Điềm đúng là đậm phong cách chính luận trữ tình. Xuyên suốt
tác phẩm là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc nồng nàn và những dòng suy tư sâu lắng.
Dấu “…” cuối câu là cách tác giả đưa người đọc đến với biết bao cuộc đời vô danh bình dị đã
hóa núi sông ta. Lắng trong dấu “…” còn là tấm lòng thành kính của một người con biết hướng
về Đất Nước, những con người làm nên Đất Nước.

Với ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, Nguyễn Khoa Điềm đã đi sâu giải đáp những câu hỏi lớn về Đất
Nước, con người, hỏi về nguồn gốc, và định nghĩa của Đất Nước cho đến trách nhiệm của mỗi
người đối với Tổ quốc, giang sơn. Trong đó, câu hỏi bao trùm nhất, chuyên chở nội dung ý
nghĩa, tư tưởng của toàn đoạn trích hay cũng chính là toàn tác phẩm là “Đất Nước của ai?”. Tất
cả đều quy tụ về Đất Nước của Nhân Dân. Những đặc sắc nghệ thuật của thi phẩm được thể hiện
rõ từ thể loại trường ca cho đến hình thức một cuộc trò chuyện tâm tình giữa anh và em. Song,
đặc sắc hơn cả lại là chất liệu văn hóa văn học dân gian, bầu không khí truyền thống của những
truyền thuyết, câu ca dao, câu chuyện cổ xưa kia. Xuyên suốt tác phảm là sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa hai yếu tố làm nên đặc điểm, phong cách nghệ thuật riêng của Nguyễn Khoa Điềm,
chất chính luận và trữ tình, suy tưởng và cảm xúc. Nhà thơ cảm nhận, suy ngẫm, trăn trở với
những câu hỏi lớn, với mục đích của bản trường ca, song lại thấm đượm tình cảm, cảm xúc qua
từng câu chữ, lời thơ. Như vậy, những nét đặc sắc về nội dung cùng hình thức nghệ thuật, tư
tưởng sâu sắc đã tạo nên chỗ đứng cho đoạn trích, cho bản trường ca. Dù viết về một đề tài rất
quen thuộc nhưng Nguyễn Khoa Điềm vẫn có được những khám phá mới mẻ riêng.

Có một tư tưởng về đất nước được vẽ lên bình yên từ những điều giản dị. Có một hình ảnh đất
nước được lý giải với những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết ngày xửa ngày xưa. Có những giá
trị của một đất nước được cắt nghĩa từ một không gian tình tứ như chuyện tình của đôi lứa, uyên
ương. Tất cả những điều này đã được Nguyễn Khoa Điềm truyền tải trọn vẹn trong trích đoạn
“Đất Nước" của mình. Cuộc chiến tranh chống Mỹ gian khổ đã làm con người xích lại gần nhau,
tất cả đều hướng đến nhiệm vụ chung cao cả để bảo vệ Tổ Quốc. Tình yêu và trách nhiệm cao cả
ấy trong thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng chính là quyết tâm của cả một thời đại: “Thời đại của
chúng tôi là thời đại của những thanh niên xuống đường chiếm lĩnh từng tầng cao của mái nhà,
của ngọn đồi, của nhịp cầu để bắn toả lương tâm lên bầu trời đầy giặc giã” (Chu Lai).

VIỆT BẮC – TỐ HỮU


Một trong những cái tên nổi bật của phong trào thơ ca Cách mạng, nhà thơ Tố Hữu từng bộc
bạch: “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim cuộc sống đã thật đầy.” Nói một cách khác, chính những
niềm thương nỗi nhớ vô bờ bên, những nỗi niềm trào dâng không ngừng trong sâu thẳm con tim
đã tạo nên những rung động mãnh liệt trong cảm xúc rồi thơ ca bỗng trào ra với tất cả niềm
thương nỗi nhớ. “Việt Bắc” chính xác là những rung động mãnh liệt ấy mà nhà thơ Tố Hữu cảm
nhận được trong khoảng thời gian chia tay với con người, núi rừng Việt Bắc đáng thương đáng
mến. Tác phẩm chính là đỉnh cao của thơ Tố Hữu, tiêu biểu của thơ ca Cách mạng Việt Nam thời
kì kháng chiến chống Pháp. Xuyên suốt thi phẩm là dòng chảy tự nhiên của nỗi nhớ, về những kỉ
niệm về người và cảnh nơi chiến khu năm xưa, đặc biệt thể hiện qua bức tranh tứ bình trong
đoạn thơ: “Ta về mình có nhớ ta…Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”
Tố Hữu xứng đáng là lá cờ đầu, là cánh chim đầu đàn trong thơ ca Cách mạng Việt Nam, con
người sinh ra như để làm thơ Cách mạng. Con đường thơ ca của ông như bắt đầu cùng một lúc
và luôn gắn bó song hành với con đường Cách mạng của ông hay của chính dân tộc. Một phần
chính vì thế, phong cách nghệ thuật trong thơ ông luôn mang một màu sắc mới mẻ, khó có thể
tìm thấy ở bất kì nhà văn, nhà thơ nào khác. Tố Hữu vốn là nhà thơ của lí tưởng Cộng sản nên
thơ ông luôn đậm chất trữ tình, chính trị. Bên cạnh đó, tính dân tộc đậm đà cùng giọng điệu tâm
tình ngọt ngào cũng là điều không thể thiếu trong các tác phẩm của ông. Bài thơ “Việt Bắc”,
trích từ tập thơ cùng tên, được viết trong khoảng thời gian có ý nghĩa lịch sử lớn của dân tộc, khi
mà những người kháng chiến từ căn cứ trở về xuôi, trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu
Việt Bắc để trở về thủ đô. Kết cấu bài thơ đi theo hình thức đối đáp bằng lối giao duyên dân ca
truyền thống, giữa “mình” với “ta”, giữa người ra đi với người ở lại, giữa cán bộ với nhân dân
kháng chiến, giữa người miền xuôi với người miền ngược.” Chính thể loại và kết cấu này đã tạo
nên phong vị ca dao dân ca cùng tính dân tộc đậm đà cho tác phẩm. Đoạn trích với bức tranh bốn
mùa về cảnh và người thuộc phần đầu bài thơ, vẫn được xem là hay nhất và đặc sắc nhất.
Hai dòng thơ đầu của đoạn trích đã khái quát cảm xúc chủ đạo xuyên suốt đoạn thơ, là lời bộc
bạch tâm sự của người ra đi đáp lời người ở lại:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Ở dòng lục đầu tiên, tác giả sử dụng liên tiếp hai đại từ “mình”, “ta”, cũng là hai từ xuất hiện rất
nhiều lần, được sử dụng linh hoạt và sáng tạo xuyên suốt tác phẩm. Nếu “ta” là người ra đi, là
cán bộ kháng chiến, người miền xuôi thì “mình” lại là người ở lại, là nhân dân Việt Bắc, người
miền ngược. Đây là cách xưng hô thường thấy trong ca dao dân ca Việt Nam, nhất là ca dao viết
về tình cảm lứa đôi, một cách xưng hô bình dị, thương mến vô cùng của đôi lứa yêu nhau, tạo
nên phong vị ca dao dân ca đậm đà:
“Mình nhớ ta như cà nhớ muối
Ta nhớ mình như Cuội nhớ trăng”
Bên cạnh đó, cách xưng hộ còn gợi được tình cảm gắn bó gần gũi, thân mật, nghe rất tâm tình
giữa cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bặc. Nhà thơ đã rung cảm người đọc bằng chính sự
ngọt ngào của hai tiếng “mình”-“ta”. Câu hỏi đầu tiên được cất lên từ người ra đi, một câu hỏi
phảng phất phong vị tình yêu trong giờ phút chia ly. Người ra đi hỏi người ở lại có nhớ ta không,
nghĩa là hỏi về tâm trạng cảm xúc, hỏi khi biết người ở lại cũng đang trào dâng trong nỗi nhớ.
Câu hỏi không chờ lời đáp này vừa là lời đối thoại, vừa là cầu nối xuống câu sau đồng thời là cái
cớ để giãi bày, bộc lộ tâm trạng, nỗi lòng của người ra đi. Sang câu bát, người ra đi đã trực tiếp
bộc lộ tâm trạng, nỗi nhớ khi phải chia xa. Đây là chỗ tinh tế của bức thơ Tố Hữu, một kì tài diệu
bút. Trong một cuộc chia ly thì người ở lại thường là người nhạy cảm hơn với sự đổi thay. Song,
nhà thơ không chọn cách nói vòng vo, kín đáo mà để người ra đi trực tiếp đáp vào câu hỏi “Mình
đi có nhớ?”, “Mình về có nhớ”, làm an lòng người ở lại, tạo niềm tin vững vàng cho người ở lại.
Trở về xuôi, người ra đi nhớ tha thiết những bông hoa của núi rừng hay chính là vẻ đẹp thiên
nhiên Việt Bắc – “hoa” và cả những con người Việt Bắc đáng yêu đáng mến, đã từng gắn bó
trong suốt mười lăm năm – “người”. Chữ “cùng” xen giữa thật giản dị mà giàu sức gợi. Hoa và
người quấn quit bên nhau, hài hòa tạo nên vẻ đẹp riêng cho vùng đất này. Đáp lại người ở lại hỏi,
người ra đi khẳng định mình không bao giờ quên. Trong nỗi nhớ của người ra đi vẫn luôn vẹn
nguyên từng hình ảnh thiên nhiên và con người miền núi rừng Việt Bắc.

Tám câu thơ tiếp theo tiếp tục đi sâu, miêu tả cụ thể hơn cảnh và người trong từng mùa. Tác giả
đã dựng lên bức tranh tứ bình bằng ngôn từ, về cảnh và người Việt Bắc trong dòng thời gian luân
chuyển giữa bốn mùa Đông-Xuân-Hạ-Thu. Cứ mỗi câu lục nói về cảnh sẽ đan xen một câu bát
nói về người. Cảnh và người hài hòa, gắn bó, tôn lên vẻ đẹp cho nhau. Trước hết, tác giả vẽ lên
một không gian mùa đông sinh động với thiên nhiên núi rừng rộng lớn cùng con người Việt Bắc
khỏe khoắn, rắn rỏi:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Cảnh mùa đông được miêu tả trước tiên là tuân theo quy luật tâm lí bình thường của con người.
Tác giả và cán bộ kháng chiến rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội vào tháng 10 năm 1954, lúc đó
đang là thời điểm mùa đông. Có lẽ bởi vậy, một cách tự nhiên, nhà thơ nhắc đến mùa đông trước
hay đây là cách sắp xếp đầy dụng ý của tác giả để diễn tả quá trình đi đến thắng lợi của dân tộc.
Trên nền xanh thẳm, hùng vĩ của cánh rừng đại ngàn điểm một sắc đỏ tươi của những bông hoa
chuối. Màu đỏ giữa sắc xanh trải dài, bất tận đã trở thành điêm nhấn nổi bật của bức tranh, làm
cho thiên nhiên Việt Bắc thêm tươi sáng, ấm áp. Mỗi bông hoa như một ngọn lửa thắp sáng, xua
đi cái hoang sơ lạnh giá, vẻ hiu hắt vốn có của núi rừng. Ánh nắng trên đèo cao càng làm cho
khu rừng trở nên sáng và ấm áp hơn. Sự xuất hiện của con người ở dòng thơ bát làm cho bức
tranh vốn tưởng như tĩnh trở nên sinh động, có hồn, hữu tình hơn, tăng thêm vẻ ấm áp, thơ mộng
cho mùa đông Việt Bắc. Con người mới chính là trung tâm. Người lao động trên đèo cao với dao
gài thắt lưng vốn là hình ảnh quen thuộc của đồng bào miền bắc mỗi khi lên núi đèo làm lương
làm rẫy. Nhà thơ ghi lại khoảnh khắc ánh sáng lấp lánh, hình ảnh phán chiếu của nắng qua chiếc
dao gài thắt lưng. Con người đã trở thành tụ điểm của ánh sáng. Tác giả không miêu tả cụ thể,
không khắc họa rõ nét một gương mặt, một dáng hình song vẫn gợi được hình ảnh con người lao
động khỏe khoắn, mạnh mẽ, rắn rỏi trong tư thẻ làm chủ đầy kiêu hãnh, vững chãi giữa đất trời
bao la. Nhà thơ đã nâng cao tầm vóc của con người, khiến họ trở lên lớn lao. Đông về nhớ rét đã
là quy luật muôn đời của tự nhiên song bức tranh mùa đông của Tố Hữu lại không mang đến cảm
giác lạnh lẽo, ngược lại rất ấm áp. Chính gam màu nóng của sắc đỏ hoa chuối, ánh nắng vàng rực
rỡ cùng hình ảnh con người lao động khỏe khoắn đã lan tỏa sự ấm áp. Đây là sự ấm áp của cảnh
hay của lòng người nhìn cảnh.

Ở cặp lục bát thứ hai, Tố Hữu tiếp tục miêu tả bức tranh mùa xuân xinh đẹp, hữu tình:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.
Cảnh mùa xuân được miêu tả với một loài hoa đặc trưng của núi rừng Việt Bắc, hoa mơ. Mơ nở
không rải rác, lác đác mà dường như nở đồng loạt cùng một lúc. Nhà thơ có ấn tượng đặc biệt và
ghi lại khoảnh khắc hoa mở lúc nở rộ nhất. Sắc trắng của hoa mơ như làm bừng sáng cả khu
rừng. Nếu gam màu của bức tranh mùa đông là sắc xanh bạt ngàn cùng màu đỏ tươi của hoa
chuối thì đến đây, gam màu củabức tranh mùa xuân là sắc trắng tinh khôi, thanh khiết, dịu dạng,
trong trẻo. Nhà thơ không thiên về miêu tả cụ thể nhưng vẫn vừa đủ để gợi tả bức tranh mùa
xuân đẹp, đầy sức sống, tràn ngập sắc xuân và rất Việt Bắc. Nói đến mùa xuân của núi rừng Việt
Bắc thì không thể nào thiếu hoa mơ. Sắc trắng mịn màng tuyệt đẹp của loài hoa này đã nhiều lần
đi vào thơ Tố Hữu:
“Ôi sáng xuân này xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
…Bác về…im lặng…con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”
Sang dòng bát, vẫn là hình ảnh người lao động nhưng xuất hiện với công việc đan nón, đan
những chiếc nón nghĩa tình để gửi tặng cho bộ đội dân công hay là một sự chuẩn bị cần thiết cho
những ngày hè với cái nắng chói chang sắp tới. Tác giả sử dụng hai chữ “chuốt” và “từng” để đi
sâu miêu tả công việc của người dân Việt Bắc. Nếu “chuốt” là làm cho sợ giang bóng lên, đẹp
hơn thì chữ “từng” lại là từ chỉ số lượng, gợi từng sợi giang một. Câu thơ của Tố Hữu đúng là
đẹp nhất từ những chữ bình thường. Hai chữ “chuốt”, “từng” rất giản dị mà giàu sức gợi, vừa gợi
được động tác lao động thuần thục khéo léo, điêu luyện, vừa gợi được dáng vẻ người đan nón rất
cẩn trọng, say mê và cả nét duyên dáng của những người bà, người mẹ, người chị, người em gái
Việt Bắc.

Bức tranh tứ bình tiếp tục được dựng lên với cảnh sắc, âm thanh, con người mùa hạ:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Nếu bức tranh mùa xuân và mùa đông chủ yếu được cảm nhận bằng thị giác thì bức tranh mùa hạ
vẫn là thị giác nhưng đan xen thêm ấn tượng thính giác. Ngày hè trong thơ Tố Hữu có âm thanh
rộn rã của tiếng ve kêu, thứ âm thanh quen thuộc đặc trưng của mùa hè cùng sắc vàng của hoa
phách. Một mùa hạ rộn rã, sinh động, căng tràn sức sống, rực rỡ sắc màu. Trên thực tế, âm thanh
rộn rã của tiếng ve và màu vàng của rừng phách chỉ là hai hiện tượng thiên nhiên xuất hiện trong
cùng một thời điểm là mùa hè, tưởng như không liên quan gì đến nhau nhưng cách viết của Tố
Hữu lại đem đến một sự tương gian kì diệu, khiến cảnh và vật như có linh hồn và sự giao cảm.
Nghe tiếng ve kêu ran lên báo hiệu hạ đến như thúc dục nên rừng phách đổ vàng. Cả khu rừng
phút chốc được khoác lên tấm áo vàng lộng lẫy. Hay chính vì sắc vàng rực rỡ của rừng phách
nên những bầy ve càng không thể cầm lòng, phải náo nức cất lên tiếng gọi hè về. Âm thanh gọi
sắc màu, sắc màu gọi âm thanh, cả âm thanh và sắc màu đều gọi hè, nhà thơ phối màu, phối âm
thật hài hòa. Chữ “đổ” là một chữ đẳ, giàu sức gợi tả, gợi sự chuyển đổi mau lẹ. Cả rừng phách
bỗng như đồng loạt chuyển sang màu vàng. Sắc vàng bung nở, đổ tràn cũng như sắc trắng của
hoa mơ đổ khắp tràn trề, đem đến cảm giác ngỡ ngàng, choáng ngợp. Những vần thơ của thơ
Xuân Diệu trong bài “Thơ duyên” cũng sử dụng chữ đổ để diễn tả ấn tượng về sắc màu:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến-nơi nơi động tiếng huyền.”
Hiện lên trong khung cảnh mùa thu rộn rã chính là cô em gái trẻ trung cần mẫn hái măng, góp
phần nuôi quân để phục vụ Cách mạng, kháng chiến. Cách gọi “em gái” đem đến cho giọng thơ
vẻ thân thương, trìu mền, gần gũi. Tình cảm giữa cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc như
tình cảm gia đình ruột thịt, anh em gắn bó. Thông thường, cụm từ “một mình” sẽ gợi cảm giác cô
đơn, lẻ loi, buồn hiu hắt, song ở đây lại không mang đến cảm giác đó. Ngược lại, người đọc ấn
tượng về vẻ đẹp lao động rất khỏe khoắn bởi người em gái trẻ trung này đang lao động trong
khúc nhạc rừng rộn rã được tấu lên bởi âm thanh tiếng ve. Hình ảnh thơ từ đó gợi được sự chịu
thương chịu khó của con người Việt Bắc, đằng sau từ ngũ là biết bao tình cảm yêu mến, thân
thương của tác giả.

Và cặp câu thơ cuối đoạn, tác giả đã khắc họa nên một khung cảnh thiên nhiêu mùa thu với ánh
trăng, tiếng hát đầy mộng ảo:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Bức tranh tứ bình khép lại với cảnh mùa thu êm ả khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, có ánh trăng
sáng lung linh. Không phải bỗng nhiên viết về mùa thu mà tác giả lại chọn ánh trăng. Trăng thu
thường sáng nhất, đẹp nhất. Ánh trăng đậu trên cành lá, rọi qua những kẽ lá hàng cây làm bừng
sáng cả rừng đêm. Ánh sáng chiếu xuống mặt đất, tràn trề khắp không gian hòa bình, một không
khí thật yên bình, thơ mộng. Khi đất nước hòa bình, ánh trăng càng trở nên đẹp hơn, yên bình
hơn. Mùa thu càng ngọt ngào hơn với “tiếng hát ân tình thủy chung”. Hình ảnh con người không
hiện lên với công việc lao động cụ thể như những câu thơ trên mà có đại từ phiếm chỉ “ai” cùng
tiếng hát gợi ca cuộc sống thanh bình, gợi ca nghĩa tình của những con người đã từng một thời
gắn bó. Âm thanh ngọt ngào tha thiết của tiếng hát vang vọng rừng thu làm cho cảnh trở nên có
hồn, ấm áp. Câu thơ viết về mùa thu của Tố Hữu có cái êm dịu ngọt ngào riêng. Hòa bình đem
lại niềm vui cho dân tộc song cũng là thời điểm chia tay đầy bang khuâng, lưu luyến giữa những
người kháng chiến với nhân dân Việt Bắc. Ở đây có một cuộc chia tay, dẫu có buồn có nhớ
nhưng không gợi cảm giác bi lụy bởi đó là một cuộc chia tay trong chiến thắng.

Cả đoạn thơ được viết bằng ngôn ngữ giản dị, song lại giàu sức gợi tả, biểu cảm với những hình
ảnh thiên nhiên, con người quen thuộc, gần gũi, đậm chất Việt Bắc, mang tính dân tộc đậm đà.
Xuyên suốt tác phẩm là giọng thơ trải dài, trữ tình ngọt ngào, tha thiết, phù hợp để diễn cả nỗi
nhớ niềm thương đang trào dâng giữa người miền xuôi với người miền ngược, giữa cán bộ với
nhân dân Việt Bắc nghĩa tình thủy chung. Như vậy, Tố Hữu đã thành công thể hiện nỗi nhớ tha
thiết, tình cảm sâu nặng thủy chung với con người Việt Bắc đã từng một thời gắn bó, sẻ chia.
Bức tranh tứ bình tuyệt đẹp về cảnh và người Việt Bắc, những con người bình dị với công việc
nhỏ bé đã góp sức mình làm nên cuộc kháng chiến thần thánh vĩ đại của dân tộc.

Mỗi câu thơ là một hình ảnh, một nét vẽ về cảnh và người. Nét mùa nào cũng đẹp, cũng ấm áp
tình người. Mỗi nét vẻ lại có gam màu, đường nét riêng, cảnh trong bốn mùa cũng mang vẻ đẹp
đặc trưng của núi rừng Việt Bắc. Con người nơi đây cần cù, chăm chỉ, khéo léo, ân tình, thủy
chung. Xuân Diệu đã rất có lí khi chon rằng:”Bức tranh tứ bình của Tố Hữu không thua kém bất
kì bức tranh nào trong văn chương.” Thật không hề nói quá khi khẳng định Tố Hữu chính là
ngọn cờ đầu của thơ ca Cách mạng Việt Nam với những lời thơ giản đơn mà chân thành, mộc
mạc mà đậm sâu cùng phong cách thơ ca không trộn lẫn với bất kì nhà thơ nào khác.

You might also like